You are on page 1of 4

Đầu

Sự khác biệt giữa vật siêu dẫn và vật dẫn điện hoàn hảo

Lịch sử

Ứng dụng hiện tượng siêu dẫn

Quá trình tìm kiếm, chế tạo chất siêu dẫn

Xem thêm

Tham khảo

Liên kết ngoài

Siêu dẫn
74 ngôn ngữ
 Bài viết
 Thảo luận
 Đọc
 Sửa đổi
 Sửa mã nguồn
 Xem lịch sử

Thêm

Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
Bài viết này cần thêm chú thích nguồn gốc để kiểm chứng thông
tin. Mời bạn giúp hoàn thiện bài viết này bằng cách bổ sung chú thích
tới các nguồn đáng tin cậy. Các nội dung không có nguồn có thể bị nghi ngờ
và xóa bỏ.

Một nam châm lơ lửng trên mặt một vật liệu siêu


dẫn nhúng trong nitơ lỏng lạnh tới −200 °C,thể hiện hiệu ứng Meissner
Vật lý vật chất ngưng tụ

Pha · Chuyển pha * QCP

Trạng thái vật chất[hiện]

Hiện ứng pha[hiện]

Pha điện tử[hiện]

Hiệu ứng điện tử[hiện]


Pha từ[hiện]

Giả hạt[hiện]

Vật chất mềm[hiện]

Nhà khoa học[hiện]

 x
 t
 s

Siêu dẫn là một hiện tượng vật lí xảy ra đối với một số vật liệu ở nhiệt độ đủ thấp
và từ trường đủ nhỏ, đặc trưng bởi điện trở bằng 0 dẫn đến sự suy giảm nội từ
trường (hiệu ứng Meissner). Siêu dẫn là một hiện tượng lượng tử. Trạng thái vật
chất này không nên nhầm với mô hình lý tưởng dẫn điện hoàn hảo trong vật lý cổ
điển, ví dụ từ thủy động lực học.
Trong chất siêu dẫn thông thường, sự siêu dẫn được tạo ra bằng cách tạo một lực
hút giữa một số electron truyền dẫn nào đó nảy sinh từ việc trao đổi phonon, làm
cho các electron dẫn trong chất siêu dẫn biểu hiện pha siêu lỏng tạo ra từ cặp
electron tương quan. Ngoài ra còn tồn tại một lớp các vật chất, biết đến như là các
chất siêu dẫn khác thường, phô bày tính chất siêu dẫn nhưng tính chất vật lý trái
ngược lý thuyết của chất siêu dẫn đơn thuần. Đặc biệt, có chất siêu dẫn nhiệt độ
cao có tính siêu dẫn tại nhiệt độ cao hơn lý thuyết thường biết (nhưng hiện vẫn thấp
hơn nhiều so với nhiệt độ trong phòng). Hiện nay chưa có lý thuyết hoàn chỉnh về
chất siêu dẫn nhiệt độ cao.

Sự khác biệt giữa vật siêu dẫn và vật dẫn điện hoàn
hảo[sửa | sửa mã nguồn]
Từ trường bên trong vật dẫn điện hoàn hảo và vật siêu dẫn dưới tác động của môi
trường ngoài ở nhiệt độ phòng và nhiệt độ thấp (nhiệt độ nhỏ hơn nhiệt độ Curie).
Từ trường bị đẩy ra khỏi vật siêu dẫn ở nhiệt độ thấp không phụ thuộc vào trạng thái
ban đầu của vật liệu siêu dẫn ở nhiệt độ phòng. Trạng thái của vật siêu dẫn ở nhiệt
độ thấp là trạng thái không thuận nghịch.

Lịch sử[sửa | sửa mã nguồn]


Đối với kim loại nói chung, ở nhiệt độ rất cao thì điện dẫn xuất λ tỉ lệ với nhiệt độ T.
Ở nhiệt độ thấp, λ tăng nhanh khi T giảm. Nếu kim loại hoàn toàn tinh khiết, có thể
nói rằng về nguyên tắc khi T=0 thì λ tiến tới vô cực, nghĩa là điện trở kim loại dần
tiến tới 0. Nếu kim loại có lẫn tạp chất thì ở nhiệt độ rất thấp (khoảng vài độ K) kim
loại có điện trở dư không phụ thuộc nhiệt độ và tỉ lệ với nồng độ tạp chất. Thực tế
không thể đạt tới nhiệt độ T=0 độ K và không thể có kim loại nguyên chất hoàn toàn,
nên vật thể có điện trở bằng 0 chỉ là vật dẫn lý tưởng.
Năm 1911, Heike Kamerlingh Onnes làm thí nghiệm với thủy ngân nhận thấy rằng
sự phụ thuộc của điện trở thủy ngân vào nhiệt độ khác hẳn sự phụ thuộc đối với kim
loại khác. Khi nhiệt độ thấp, điện trở thủy ngân không phụ thuộc vào nhiệt độ nữa,
chỉ phụ thuộc vào nồng độ tạp chất. Nếu tiếp tục hạ nhiệt độ xuống tới Tc=4,1 độ K,
điện trở đột ngột hạ xuống 0 một cách nhảy vọt. Hiện tượng nói trên gọi là hiện
tượng siêu dẫn, và Tc là nhiệt độ tới hạn.
Đến tháng 1 năm 1986 tại Zurich, hai nhà khoa học Alex Muller và Georg Bednorz
tình cờ phát hiện ra một chất gốm mà các yếu tố cấu thành là: Lanthan, Đồng, Bari,
Oxit kim loại. Chất gốm này trở nên siêu dẫn ở nhiệt độ 35 độ K.
Một thời gian ngắn sau, các nhà khoa học Mỹ lại phát hiện ra những chất gốm tạo
thành chất siêu dẫn ở nhiệt độ tới 98 độ K.

You might also like