Professional Documents
Culture Documents
SẮT ĐIỆN
Tính sắt điện lại được phát hiện khá muộn trong lịch sử
vào năm 1920 ở muối Rochelle bởi Valasek
Mômen lưỡng cực điện trong chất sắt điện có độ lớn cao, đồng thời có tương tác
với nhau nên tạo ra sự khác biệt so với các chất điện khác:
Độ phân cực tồn tại ngay cả khi không có điện trường ngoài, nhưng trên toàn vật,
mômen lưỡng cực điện tổng cộng bị trung bình hóa bằng 0 do sự định hướng hỗn
loạn của các các độ phân cực ở các hướng khác nhau;
Ở 0 độ tuyệt đối, các mômen lưỡng cực điện song song với nhau, tạo nên độ phân
cực tự phát,
Độ phân cực của chất sắt điện không thay đổi một cách tuyến tính dưới điện
trường ngoài, mà biến đổi theo một hàm phức tạp.
2.Tính chất và một vài đặc trưng của
vật liệu sắt điện
2.2. Đường trễ sắt điện
Khi đặt vào điện trường ngoài, chất sắt điện sẽ hưởng ứng khác với các chất khác
do sự tồn tại của độ phân cực tự phát. Sự hưởng ứng này tạo ra đường trễ sắt điện,
có thể được mô tả như sau:
Độ phân cực tăng theo giá trị của điện trường ngoài theo một hàm phi tuyến tính,
phụ thuộc vào điện trường ngoài, hằng số điện môi:
Từ giá trị bão hòa, nếu đổi chiều điện trường theo chiều ngược, đường cong D(E) sẽ
không đi theo đường cũ, mà quay bị trễ đi, và khi giá trị E = 0, còn tồn tại giá trị độ
phân cực gọi là độ phân cực dư. Độ phân cực chỉ bị triệt tiêu khi đặt vào một điện
trường ngược gọi là trường kháng điện. Khi điện trường theo chiều ngược đủ lớn, lại
có sự bão hòa theo chiều ngược, và nếu quay ngược điện trường sẽ có đường trễ
tương tự, tạo nên một đường cong kín có diện tích, gọi là chu trình điện trễ (hay
đường trễ sắt điện).
2.Tính chất và một vài đặc trưng của vật liệu
sắt điện
2.2. Đường trễ sắt điện
Từ giá trị bão hòa, nếu đổi chiều điện trường theo chiều ngược,
đường cong D(E) sẽ không đi theo đường cũ, mà quay bị trễ đi, và khi
giá trị E = 0, còn tồn tại giá trị độ phân cực gọi là độ phân cực dư. Độ
phân cực chỉ bị triệt tiêu khi đặt vào một điện trường ngược gọi là
trường kháng điện. Khi điện trường theo chiều ngược đủ lớn, lại có sự
bão hòa theo chiều ngược, và nếu quay ngược điện trường sẽ có
đường trễ tương tự, tạo nên một đường cong kín có diện tích, gọi là chu
trình điện trễ (hay đường trễ sắt điện).
Là một đặc trưng quan trọng của chất sắt điện. Tính chất sắt điện chỉ có thể
xảy ra ở dưới nhiệt độ này, khi đó năng lượng định hướng các mômen
lưỡng cực thắng thế so với năng lượng nhiệt (định hướng hỗn loạn).
Ở trên nhiệt độ Curie, sự định hướng bị phá hủy bởi năng lượng nhiệt và
chất sẽ trở thành một chất thuận điện, tức là hưởng ứng thuận theo điện
trường ngoài, nhưng tuyến tính và yếu hơn nhiều so với chất sắt điện.
3.Phân loại và ví dụ
3.1. Phân loại
Phần lớn các vật liệu sắt điện là các vật liệu gốm, mà điển hình là các
nhóm:
- Perovskite: Là các vật liệu gốm dựa trên cấu trúc perovskite (BaTiO3),
một vật liệu sắt điện điển hình mang cấu trúc này là Pb(Zr xTi1-x)O3 được gọi
là PZT.
- Nhóm hợp chất K xWO3 (Tungsten Bronze type Compounds) với K là một
kim loại hóa trị 2.
- Nhóm hợp chất gốm có cấu trúc lớp nền Bismuth (Bismuth Oxide Layer
Structured Ferroelectrics) là nhóm vật liệu gốm có chứa cấu trúc thành các
lớp của (Bi2O2)2+.
- Nhóm hợp chất Lithium Niobate và Tantalate (LiNbO 3, LiTaO3)
- Các hợp chất hữu cơ...
3.Phân loại và ví dụ
3.2, Ví dụ
Trên khoảng 130 ° C, cấu trúc tinh thể của BaTiO3 có một ô đơn vị
khối : không có sự phân cực thực và P=0
Dưới 130 ° C, cấu trúc của bari titanat là tứ giác : trong đó nguyên tử Ti4 +
không nằm ở tâm khối của các điện tích âm. Do đó, tinh thể bị phân cực bởi
sự phân tách các tâm khối của các điện tích âm và dương