Professional Documents
Culture Documents
TỔNG QUAN:
Trình bày công nghệ nuôi cấy tảo đơn bào Chlamydomonas sp. tích lũy tinh
bột. (Starch Chlamydomonas)
Mã số : 8 42 01 14
Các loài tảo biển phong phú về chủng loại, không chỉ là nguồn thực phẩm
bổ dưỡng, mà còn là lá phổi xanh của đại dương hấp thụ carbon và tạo ra một nửa
tổng lượng oxygene cho toàn Trái đất. Các chế phẩm từ tảo biển còn được ứng
dụng vào nhiều lĩnh vực, từ công nghiệp mỹ phẩm, dược phẩm đến bao bì, phân
bón, năng lượng … Giá trị của tảo biển ngày càng được xem là nguồn tài nguyên
phục vụ sự phát triển bền vững. Tảo biển là sinh vật sống, là thực vật và bao gồm
hàng ngàn loài có đặc điểm chung là sống trong môi trường nước, không nở hoa và
thực hiện quang hợp, tức là sản sinh chất hữu cơ nhờ năng lượng từ ánh sáng mặt
trời. Đa phần các loài tảo biển được phân loại theo màu sắc : xanh lục, đen, nâu,
vàng, đỏ hay là xanh lam. Ngoài ra còn có một loại tảo biển được gọi là tảo sợi.
Trong số các công nghệ đang được kiểm tra để sản xuất nhiên liệu tái tạo, vi
tảo được nhiều người trong cộng đồng khoa học xem là có tiềm năng lớn nhất để
trở nên hiệu quả về mặt kinh tế. Sự ra đời của Liên hiệp ngành rong biển Safe
Seaweed Coalition cho thấy quốc tế đang ngày càng quan tâm và muốn đặt cược
tương lai vào nguồn tài nguyên biển dù là không mới nhưng chưa được biết đến
nhiều trên phạm vi toàn cầu. Chuyên gia về tảo biển Vincent Doumeizel lưu ý
“ Ngoài châu Á thì không có bất cứ nơi nào có hoạt động nuôi trồng tảo biển làm
thực phẩm. Trên thực tế, tảo biển dường như thực sự là giải pháp tốt nhất, mang
tính sinh thái nhất và bền vững nhất để nuôi sống cư dân thế giới đang tăng lên
hàng ngày. Mỗi ngày trên Trái đất có thêm 300.000 người cần được nuôi sống.
Chúng ta đứng trước áp lực thường trực này, đồng thời tác động mà các hoạt động
sản xuất lương thực, thực phẩm gây ra đối với môi trường cũng rất lớn”. Vì vậy
cho thấy công nghệ nuôi cấy tảo đang là vấn đề tầm ảnh hưởng nhất đang được đề
cập hiện nay, cùng tìm hiểu chủ đề “ Trình bày công nghệ nuôi cấy tảo đơn bào
Chlamydomonas sp. tích lũy tinh bột (Starch Chlamydomonas).”
1
I. GIỚI THIỆU TẢO CHLAMYDOMONAS SP.
1.1. KHÁI NIỆM TẢO CHLAMYDOMONAS SP.
1.1.1. Đặc điểm hình thái, cấu trúc, nét đặc trưng
Chlamydomonas sp. là một chi của tảo xanh bao gồm khoảng 325 loài tất cả các lá
cờ đơn bào, được tìm thấy trong nước tù đọng và trên đất ẩm, trong nước ngọt, nước
biển và thậm chí trong tuyết là "tảo tuyết". Chlamydomonas sp. là một chi của tảo
lục đơn bào sinh đôi, đường kính 10 micromet (mm), thường được tìm thấy trong
ao, đất ẩm, rãnh thoát nước. Màu xanh lục là do sự hiện diện của chất diệp lục
trong cấu trúc của nó, và các khuẩn lạc của nó có thể rất nhiều để tạo màu xanh
cho nước trong. Mặc dù là một sinh vật đơn bào nhưng nó có cấu trúc khá phức
tạp giúp chúng có thể thực hiện tất cả các quá trình cơ bản để sống.
Cấu trúc tế bào của Chlamydomonas sp. được bao phủ bởi thành tế bào và
màng sinh chất, bao gồm xenlulo, chất nhầy và cặn canxi cacbonat.
Chlamydomonas sp. có nhân bên trong lục lạp hình cốc. Bên trong nó có một
pyrenoid đơn độc nằm nơi sản xuất tinh bột từ quá trình quang hợp. Ở những loài
này, sự hiện diện của hai roi có nguồn gốc từ một hạt cơ bản nằm trong tế bào
chất là phổ biến.Về phía vùng đỉnh, sắc tố đỏ (nhụy) được quan sát thấy, nhạy
cảm với ánh sáng, thực hiện chức năng hướng dẫn vận động. Nó có một lục lạp
được bao quanh bởi một cặp màng, bên trong được sắp xếp các thylakoid xếp
chồng lên nhau có màu đỏ. Như hai không bào co bóp, nằm gần roi, có nhiệm vụ
hô hấp và bài tiết.
Hình 3. Nguyên lý hoạt động của công nghệ nuôi cấy dạng bán lỏng
Các công nghệ nuôi cấy vi tảo truyền thống chỉ cho tỷ lệ sinh khối khô khá
thấp (dưới 0,5%) và cần nhiều năng lượng để tách vi tảo khỏi môi trường nuôi cấy
(thông qua quá trình keo tụ, ly tâm, sấy phun). Trong khi đó, công nghệ nuôi trồng
vi tảo cố định trên màng dạng bán lỏng Twin Layer có thể cho tỷ lệ sinh khối khô
lớn hơn nhiều (từ 20 - 30%) và quá trình thu hoạch cũng dễ dàng hơn. Hiện các
7
nhà nghiên cứu đã thử nuôi cấy 547 loài vi tảo với công nghệ nuôi trồng vi tảo cố
định trên màng dạng bán lỏng. Kết quả cho thấy có khoảng 432 loài (79%) phù
hợp với công nghệ nuôi cấy mới này. Tóm lại, công nghệ nuôi trồng vi tảo cố định
trên màng dạng bán lỏng Twin Layer có thể giúp tách phần lớn vi tảo với môi
trường nuôi cấy, từ đó giúp tăng năng suất vi tảo, tiết kiệm chi phí và có thể phù
hợp để nuôi trồng nhiều loài vi tảo. Hiện nay, Công ty TNHH Tư vấn Y Dược
Quốc tế (IMC) đã chuẩn bị tiếp nhận công nghệ này cùng các chế phẩm vi tảo sau
nuôi cấy từ GS. Michael Melkonian. Dự kiến, sang đầu năm 2020, công nghệ này
sẽ chính thức được ứng dụng tại Việt Nam.
1.3. TIỀM NĂNG KHAI THÁC NGUỒN DINH DƯỠNG TỪ TẢO
CHLAMYDOMONAS SP.
Vi tảo đã nổi lên như một nền tảng đầy hứa hẹn để sản xuất các phân tử giàu
cacbon và năng lượng, đặc biệt là tinh bột và dầu. Thiết lập một lĩnh vực công
nghệ sinh học tảo có hiệu quả kinh tế đòi hỏi sự hiểu biết toàn diện về quang hợp,
sinh lý, chu kỳ tế bào và sự trao đổi chất của tảo.Năng suất tinh bột / dầu là kết
quả tổng hợp của tế bào và các hoạt động phân chia tế bào của chúng. Sự phát
triển tế bào, tổng hợp tinh bột và axit béo đều yêu cầu về cacbon và một nguồn
năng lượng trong dạng ATP và NADPH, nhưng với một yêu cầu khác về tỷ lệ
ATP / NADPH. Do đó, một số các cơ chế tế bào đã được phát triển bởi vi tảo để
cân bằng cung cấp ATP và NADPH thực chất được tạo ra bởi quá trình quang
hợp. Các cơ chế quản lý năng lượng chính bao gồm ATP sản xuất bằng dòng điện
từ chu kỳ dựa vào lục lạp và loại bỏ NADPH theo chu trình nước-nước. Hơn nữa,
sự kết hợp năng lượng giữa lục lạp và các ngăn tế bào khác, ti thể và peroxisome,
ngày càng được công nhận là một quá trình quan trọng liên quan đến quá trình
oxy hóa khử lục lạp. Các tài liệu mới nổi cho thấy rằng những thay đổi của các
con đường quản lý năng lượng không những phù hợp mà còn ảnh hưởng đến hàm
lượng và thành phần sinh khối. Những cái mới nổi này khám phá là những bước
quan trọng hướng tới việc chuyển đổi năng lượng quang hợp của tảo thành các
sản phẩm hữu ích cho ứng dụng công nghệ sinh học.
8
Hình 4. Bản đồ lộ trình sản xuất năng lượng, quản lý và lưu trữ carbon.
Vi tảo Chlamydomonas sp. có thể dự trữ năng lượng ở dạng tinh bột và dầu
(triacylglycerol hoặc TAG) trong các điều kiện nhất định. Dầu đặc biệt thu hút sự
quan tâm như một tiềm năng nguồn nhiên liệu tái tạo. Tuy nhiên, các cơ chế phân
tử và tế bào cơ bản quy định của hai bể cacbon chưa được hiểu rõ. Xác định các
con đường và mạng lưới quản lý rằng việc sản xuất dầu thô có thể hướng dẫn kỹ
thuật di truyền để tăng việc sử dụng carbon TAG chìm và sản xuất thừa dầu. Sự
tích tụ dầu có thể được kích thích trong điều kiện N đói và có thể được tăng lên
bằng cách bổ sung carbon cung cấp dưới dạng axetat. Không giống như phản ứng
đối với sự thiếu hụt nitơ, phản ứng với bổ sung axetat không được hiểu rõ.
Chlamydomonas rehardtii có thể sử dụng axetat để phát triển trong ánh sáng (hỗn
hợp) và trong bóng tối (dị dưỡng). Sau khi vận chuyển vào tế bào, axetat được
chuyển hóa thành acetyl-CoA. Acetyl-CoA đi vào chu trình glyoxylate cho phép
hình thành các khối xây dựng như axit amin và glucose hoặc đi vào chu trình axit
tricarboxylic (TCA) để cung cấp chuỗi hô hấp với đương lượng khử. Cả chu trình
glyoxylate và chuỗi hô hấp đều cần thiết cho sự phát triển trong bóng tối vì các
đột biến Chlamydomonas bị ảnh hưởng trong một trong các quá trình không thể
phát triển trong dị dưỡng. Nồng độ thông thường của axetat đối với sự phát triển
của Chlamydomonas là 17 mM. Một số bài báo đã phân tích sinh lý tế bào bằng
cách sử dụng axetat khác nồng độ, cho thấy quang hợp bị ức chế khi
Chlamydomonas sp. tế bào được nuôi cấy trong điều kiện có 3,7 đến 29,4 mM
9
axetat trong ánh sáng bão hòa và CO2, cho thấy axetat là nguồn cacbon ưu tiên.
Tốc độ tăng trưởng không bị ảnh hưởng mặc dù mức giảm lớn của quang hợp.
Hơn nữa, nuôi cấy tế bào trong hai ngày với 80 mM axetat trong ánh sáng yếu và
không khí làm tăng lượng tinh bột trên mỗi tế bào nhiều hơn mức TAG, cho thấy
rằng tinh bột là chính carbon ở Chlamydomonas sp..
Việc chọn chủng vi tảo để nuôi sinh khối có tầm quan trọng đặc biệt và trước
tiên phải dựa trên năng suất tối đa, chất lượng sinh khối tốt. Nhiều tác giả cho
rằng các loài, chủng vi tảo được chọn phải đáp ứng những thông số quan trọng về
sinh học và công nghệ. Các thông số sinh học là tốc độ tăng trưởng nhanh, năng
suất quang hợp cao, có khả năng chống chịu điều kiện ngoại cảnh, chịu được nhiệt
độ cao trong vùng ánh sáng rộng, chịu muối, chịu bệnh, sinh khối có thành phần
hóa học thích hợp, không chứa độc tố, dễ tiêu hóa. Về mặt công nghệ, các chủng
vi tảo phải đảm bảo một số điều kiện như tế bào vi tảo luôn ở trạng thái huyền
phù, không kết dính vào thành bể hoặc lắng xuống đáy bể, dễ tách lọc và li tâm,
không tạo bọt. Vi tảo nuôi sinh khối thành công hay không ngoài các yếu tố như
môi trường dinh dưỡng, các yếu tố ngoại cảnh thì nguồn giống có vai trò quyết
định trong việc thu sinh khối đạt chất lượng cao, năng suất lớn, sạch bệnh.
Có nhiều kỹ thuật chọn giống song hiệu quả cao nhất vẫn là kỹ thuật chọn
và loại bỏ trực tiếp dưới kính hiển vi độ phóng đại 400X. Khi soi dưới kính hiển
vi độ phóng đại 400X ta chọn những mẫu vi tảo đạt các tiêu chuẩn sau để làm
giống cho vụ nuôi. Mật độ tế bào thường từ 8.00 * 105 tb/ml đến 2.00 * 106 tb/ml,
kích thước đạt từ 15 – 30 µm3 , thậm chí lớn hơn 31 µm3 , độ hoàn hảo đạt từ 90
– 100%, các tế bào tảo đều và đẹp, không nhiễm các tạp chất, không có các loại
vi khuẩn, tảo lạ, Protozoa, fila, tảo vàng. Đặc biệt quan sát thấy tế bào vi tảo có
màu sắc đặc trưng của tảo biển, màu đen hoặc màu nâu, không bị hoại tử, gãy góc
của tế bào, không bị vón cục, kết dính, không tạo thành từng hàng dày đặc, tế bào
vi tảo phân bố đồng đều, có các tế bào đang chuẩn bị phân chia. Yếu tố tảo lạ là
tất cả những loại vi tảo quan sát dưới kính hiển vi độ phóng đại 400X mà không
phải là loài tảo gốc đem nhân giống. Một số loài vi khuẩn dạng sợi sẽ là tác nhân
chất độc gây hại vi tảo nuôi cũng cần được loại bỏ.
10
II. NGUYÊN VẬT LIỆU VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
2.1. ĐỐI TƯỢNG NGUYÊN CỨU
Chủng WT và iclC đã được mô tả trước đây và cả hai đều có nguồn gốc từ
chủng 137C của C. rehardtii. Lần đầu tiên chúng được điều chỉnh trong 48 giờ
trong môi trường Tris-Phosphate, được điều chỉnh đến pH 7,0 với HCl, với các
nồng độ axetat khác nhau (17, 31, 44, 57 và 87 mM natri axetat) trong bình hoặc
trong các máy phản ứng quang tử nhỏ (Multi-Cultivator MC 1000-OD, Thiết bị
Hệ thống Photon). Thực nghiệm quá trình nuôi cấy được bắt đầu với nồng độ tế
bào ban đầu khoảng 2 × 105 tế bào trên mỗi mL, ở 26 ±10C,dưới ánh sáng vừa
phải (50 µmol.m-2.s-1), và theo dõi trong 145 giờ. Các ô được đếm bằng Coulter
bộ đếm. Số lần chia mỗi ngày được tính toán theo đến kích thước tế bào (đường
kính tối đa, ước tính trên 100 tế bào) được xác định dưới kính hiển vi.
2.2. PHƯƠNG PHÁP NGUYÊN CỨU
2.2.1. Mẫu, tách chiết RNA và giả trình tự
Bốn mốc thời gian được chọn để lấy mẫu: 12, 28, 50 và 70 giờ, sử dụng bốn
nồng độ axetat. Ba lần lặp lại sinh học được thực hiện cho mỗi đường cong và
mỗi thời điểm. Hai mươi mililit được lấy mẫu ở 12 giờ, tương ứng với khoảng 1,5
× 107 tế bào; 15 mL ở 28 h và 5 mL tại mỗi thời điểm khác nhau, tương ứng với
khoảng 5,5 × 107 tế bào. Các ô là được thu hoạch bằng cách ly tâm trong 10 phút
ở 1500 × g.
Tách chiết RNA tổng số được thực hiện như sau:
➢ Tế bào được rửa trong 500 µL đệm TEN (10 mM Tris-HCl pH 8,0, 10
mM EDTA, và 150 mM NaCl) và lơ lửng trong 150 µL nước không có
RNase trước khi được bảo quản ở −200C.
➢ Mẫu được thu thập, RNA tổng số được chiết xuất với 300 µL đệm SDS-
EB (2% SDS, 400 Mm NaCl, 40 mM EDTA và 100 mM Tris-HCl pH 8,0)
và 350 µL rượu phenol / cloroform / isoamyl (25: 24: 1)
➢ Pha nước được thu thập bằng cách ly tâm (5 phút ở 15.000 × g). Nước
này pha được sử dụng cho lần chiết thứ hai, với 300 µL cloroform /
isoamyl alcohol (24: 1), sau đó bằng cách ly tâm (5 phút ở 15.000 × g).
Pha nước được sử dụng để kết tủa RNA với 125 µL LiCl 8M ở 40C qua
đêm.
11
➢ Tổng số RNA thu được bằng cách loại bỏ phần nổi phía trên sau khi ly
tâm trong 5 phút, ở 15.000 x g, và được rửa bằng 300 µL etanol 70%. Sau
khi làm khô, RNA tổng số được lơ lửng trong 50 µL nước không có RNase
và được bảo quản ở -200C.
➢ Giải trình tự mẫu: Việc chuẩn bị thư viện bắt đầu với 500 ng RNA tổng
số trên mỗi mẫu. Trình tự Illumina (PE 1 × 75 trên máy NextSeq500) được
thực hiện tại nền tảng giải trình tự GIGA-R (Đại học Liège), tuân theo
giao thức của nhà sản xuất (Illumina Inc, San Diego, CA, USA).
2.2.2. Đọc, cắt tỉa và lọc chất lượng
Chất lượng đọc được đánh giá bằng FastQC v.0.11.5. Không có vấn đề đáng
kể nào được quan sát thấy. Lọc chất lượng các mẫu RNA-seq được thực hiện trên
một đầu đọc, sử dụng trimmomatic (v0.36), loại bỏ các chuỗi chất lượng thấp
(Q20 trung bình trên 4 nền cửa sổ trượt, chiều dài tối thiểu = 50 bp, với ngưỡng
chất lượng đầu và cuối là Q25).
2.2.3. Đọc bản đồ
Việc lập bản đồ các lần đọc tới cụm gen Chlamydomonas rehardtii v5.5 đã
được thực hiện bằng cách sử dụng STAR, với các giá trị đặt trước mặc định, ngoại
trừ kích thước intron (-alignIntronMin 20 và -alignIntronMax 3000). Dữ liệu
RNA-seq có sẵn dưới số dự án PRJNA561092.
2.2.4. Phân tích số liệu thu được và biểu hiện gen
Các sai lệch sinh học cụ thể đối với mẫu các gen của kiểu hình tương ứng
với hạn chế được xếp hạng theo giá trị trọng lượng . Theo bảng xếp hạng này, 100
giá trị nhỏ nhất và lớn nhất đã được xem xét biểu hiện khác biệt đối với mỗi kiểu
hình. Trong trường hợp ở trạng thái cân bằng, các gen tương ứng với một số hạng.
2.2.5. Làm giáu bộ gen
Các gen được phân loại trong các bộ gen, sử dụng Bách khoa toàn thư về gen
và bộ gen của Kyoto (KEGG) và chú thích chức năng cho C. rehardtii v5.5 được
dự đoán protein thu được từ bảng tương ứng tải xuống từ Phytozome. Phiên mã
các yếu tố, chất điều hòa phiên mã và protein kinase được truy xuất từ cơ sở dữ
liệu iTA. Các số nhận dạng KEGG Orthology đã được ánh xạ tới các đường dẫn
KEGG, sử dụng gói KEGGREST. Trọng lượng được chỉ định cho một con đường
12
không phụ thuộc vào số lượng gen được giữ trong phân tích biểu hiện gen khác
biệt.
2.2.6. Phân tích chuyển hóa và phép đo phân tích oxygen
NH4+ và nồng độ axetat được xác định bằng cách sử dụng bộ dụng cụ từ
Megazyme (L-Arginine / urê /amoni cho NH4+ và bộ xét nghiệm axit axetic cho
axetat). Các axit béo được định lượng bằng GC – MS. Hàm lượng tinh bột và
trọng lượng khô cũng được đo.
Tế bào được thu thập tại mỗi thời điểm và các phép đo được thực hiện trực
tiếp trên 1 mL tế bào. Tỷ lệ tiến hóa oxygen (tổng lượng oxygen tiến hóa) được
đo bằng điện cực Clark (Máy đo Oxy Hansatech). Các bước ánh sáng hoạt tính
được thử nghiệm bao gồm 6, 14, 30, 45, 68, 103, 176, 301, 571,1024 và 1931
µmol.m-2 .s-1. Tỷ lệ tiến hóa oxygen được xác định dựa trên tổng của lưới tốc độ
tiến hóa oxygen trong 45 giây cuối cùng của mỗi bước sáng và giá trị tuyệt đối
của tỷ lệ hô hấp.
III. KẾT QUẢ VÀ THẢO LUẬN
3.1. ĐƯỜNG CONG TĂNG TRƯỞNG VÀ THÀNH PHẦN TRUNG BÌNH CỦA
SỬ DỤNG CÁC NỒNG ĐỘ AXETAT KHÁC NHAU
Các tế bào được phát triển ở năm nồng độ 17, 31, 44, 57 và 87 mM, gấp ba
lần, sử dụng các cảm biến quang điện nhỏ ở nơi có ánh sáng, nhiệt độ và bọt khí
được kiểm soát chặt chẽ để có được các điều kiện sinh trưởng tái tạo tốt nhất. 87
mM nồng độ axetat không cho đường cong tăng trưởng có thể tái lập và bị loại
bỏ. Do đó chỉ tập trung ở bốn nồng độ thấp nhất 17, 31, 44 và 57 mM, sử dụng
chủng iclC làm tham chiếu. Các ô là thích nghi với từng điều kiện trong hai ngày
trước khi bắt đầu thí nghiệm. Các ô được đếm vào năm thời điểm điểm: 12, 28,
50, 70 và 145 giờ. Các đường cong tăng trưởng thể hiện một mô hình điển hình
của theo lô với một cấp số nhân và một pha tĩnh. Tế bào chết có thể được quan
sát trong khoảng 70 đến 145 giờ tăng trưởng ở nồng độ cao hơn 17mM axetat.
Một sự khác biệt đáng chú ý giữa sự tăng trưởng đường cong là các tế bào được
nuôi cấy bằng cách sử dụng 17, 31 và 44 mM khi nồng độ axetat ban đầu đạt đến
pha tĩnh tại thời điểm 50 giờ trong khi các tế bào được nuôi cấy sử dụng 57mM
làm nồng độ axetat ban đầu đạt đến pha tĩnh tại thời điểm 70h.
13
Hình 5. Đường cong sinh trưởng Chlamydomonas sp.(chủng iclC) và
phân tích thành phần trung bình ở bốn nồng độ axetat (17, 31, 44 và 57
mM) dưới ánh sáng liên tục (50 mol. m-2.s-1 ) ở 26 ± 1°C (a) Nồng độ tế bào
(tế bào / mL), (b) nồng độ axetat (mM), và (c) nồng độ amoni(NH4+) (mM).
Trung bình của 3-4 lần lặp lại sinh học ± SD.
3.2. PHÂN TÍCH THÀNH PHẦN SINH KHỐI
Thành phần sinh khối, trọng lượng khô của tế bào, năng suất thể tích sinh
khối và kích thước tế bào của tế bào được nuôi cấy tại nồng độ axetat, 17 và 57
mM axetat, được phân tích ở bốn thời điểm đầu tiên (12, 28, 50 và 70 h). Mốc
thời gian 145h phải bị loại bỏ vì có sự thay đổi có lẽ là quá cao do tế bào chết thay
đổi. Phân tích GC được sử dụng để xác định hàm lượng và cấu trúc axit béo metyl
este (FAME), trong khi hàm lượng của các thành phần khác (chất diệp lục, protein
và tinh bột) được xác định bằng phương pháp đo quang phổ. Sự gia tăng chung
của tất cả các thành phần sinh khối trên mỗi tế bào được quan sát thấy khi tế bào
được nuôi cấy ở 57mM axetat, với sự khác biệt đáng kể xuất hiện ít nhất tại một
thời điểm của các đường cong tăng trưởng. Tế bào khô trọng lượng cũng cao hơn
14
đáng kể, dẫn đến năng suất thể tích sinh khối tăng gấp ba lần ở bước vào của pha
tĩnh đối với các tế bào được nuôi cấy ở 57mM axetat. Kích thước ô được ước tính
theo chiều dài nhất đường kính của các ô khác nhau không đáng kể. Cấu hình của
các axit béo cũng được kiểm tra và được phát hiện là giống nhau trong cả hai loại
điều kiện canh tác: axit béo bão hòa là các lớp chính của tổng số axit béo, bất kể
nồng độ và thời điểm của đường cong tăng trưởng.
3.3. SỰ THAY ĐỔI NỒNG ĐỘ O2
Vì quang hợp và hô hấp là hai quá trình chính tạo ra sản xuất ATP, chúng ta
đo sự tiến hóa oxy trong quá trình tăng trưởng bằng cách xác định quá trình quang
hợp đường cong bức xạ, sử dụng đường cong tăng trưởng axetat thấp (17 mM) và
axetat cao (57 mM). Các hoạt động quang hợp cao nhất được tìm thấy đối với các
tế bào được nuôi cấy trong môi trường axetat thấy (17 mM) và trong giai đoạn
(12 và 28 giờ), chứng minh rằng các tế bào này dựa vào năng lượng được tạo ra
bởi quang hợp để phân chia.
3.4. PHÂN TÍCH CƠ CHẾ TẬP TRUNG CARBON
Vì tỷ lệ hô hấp cao hơn đối với các tế bào được nuôi cấy trong axetat cao,
CO2 được tạo ra bởi chu trình TCA cũng có thể tăng lên, điều này có thể ảnh
hưởng đến biểu gen tham gia vào cơ chế tập trung cacbon (CCM). Sự hiện diện
của CCM các cơ chế trong sinh vật quang hợp được liên kết với các đặc tính của
ribulose 1,5-bisphosphate enzyme carboxylase / oxygenase (Rubisco), không thể
phân biệt hoàn toàn giữa CO2 và O2, làm cho quá trình oxy hóa của ribulose
bisphosphate cạnh tranh với phản ứng carboxyl hóa dưới CO2 trong khí quyển.
IV. KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ
Kết luận phản ứng của tế bào Chlamydomonas sp. đối với sự gia tăng nồng
độ axetat trong ánh sáng bao gồm sự xâm nhập lớn của axetat vào các tế bào, và
sự chuyển hóa của nó thành tinh bột và chất béo các hợp chất axit, là nguyên nhân
làm tăng sản lượng sinh khối.
Đề xuất rằng, cùng với kích thích hô hấp, CO2 bên trong tăng lên, do đó làm
giảm mức độ phiên mã, mã hóa các thành phần liên quan đến CCM. Phát hiện liên
quan đến việc so sánh phương thức tăng trưởng trong axetat thấp và cao và các
yếu tố / gen phiên mã giả định có liên quan đến các kiểu hình. Trên thế giới, việc
thu thập, phân lập, nuôi các loài tảo biển đã khá lâu. Có nhiều nước đã xây dựng
15
được ngân hàng vi tảo. Hiện nay, thế giới có khoảng 40 loài vi tảo được nuôi phổ
biến làm thức ăn trong nuôi trồng thủy sản. Đây là những loài có giá trị dinh dưỡng
cao, kích thước đa dạng phù hợp với các loại ấu trùng động vật biển.
Tại Việt Nam, việc thu thập và phân lập vi tảo mới chỉ được tiến hành vài
năm gần đây, với phương pháp phân lập đơn giản. Số lượng loài vi tảo được phân
lập làm thức ăn cho nuôi trồng còn ít, chủ yếu là 2 đối tượng skeletonema costatum
và chaetoceros phục vụ cho sản xuất giống tôm sú và tôm thẻ chân trắng. Thời
gian gần đây, một vài loài vi tảo biển có kích thước nhỏ như nanochloropsis,
isochrysis, platymonas… đã được nhập vào Việt Nam để phục vụ cho sản xuất
giống cá biển, nhuyễn thể, da gai… Để phát triển ổn định và bền vững, Việt Nam
cần thu thập, thuần hóa những loài nhập nội; đồng thời tiến hành thu thập, phân
lập những loài vi tảo có nguồn gốc bản địa để tạo nguồn thức ăn tươi sống chủ
động và đa dạng.
Lưu giữ các loài vi tảo là việc làm công phu, tốn kém và đòi hỏi chuyên môn
kỹ thuật cao không phải cơ sở nào cũng làm được. Một số nước có ngân hàng tảo
cung cấp, giống thuần cho các phòng thí nghiệm, cơ sở sản xuất. Ở Việt Nam chưa
có cơ sở nào chính thức cung cấp giống vi tảo thuần. Việc nuôi sinh khối vi tảo ở
nước ta gặp khó khăn do nguồn giống chủ yếu được nhập nội, chưa được thuần
hóa nên sinh khối tảo không ổn định về số lượng và chất lượng. Vì vậy, việc sử
dụng tảo làm thức ăn cho ấu trùng cũng chưa mang lại kết quả như mong muốn.
Để giải quyết khó khăn trên, các nhà khoa học phải tập trung vào nghiên cứu tạo
ra quy trình nuôi sinh khối ổn định cho từng loài vi tảo.
Nuôi trồng tảo biển : những hạn chế cần khắc phục xét theo khu vực, sự phát
triển ngành nuôi trồng tảo biển là không đồng đều. Không chỉ tiêu thụ nhiều tảo
biển, châu Á cũng là khu vực đi tiên phong về nuôi trồng tảo biển, tập trung 99%
sản lượng tảo biển nuôi trồng trên toàn thế giới, đứng đầu là Trung Quốc (13 triệu
tấn) trong năm 2015, tiếp theo là Indonesia (9 triệu tấn). Châu Phi cũng đang vươn
lên nhanh chóng. Tại châu Âu, nơi hoạt động nuôi trồng tảo biển rất hạn chế, nước
Pháp và Na Uy là hai quốc gia được xem là tích cực nhất. Theo chuyên gia tảo
biển, nhà sinh học Philippe Potin, vấn đề nghiêm trọng của châu Âu là trong số
hàng chục ngàn loài tảo biển đang tồn tại, châu Âu mới chỉ nuôi trồng được
khoảng chục loài, đặc biệt là các loài tảo châu Á. Châu Âu phải cấp tốc tăng cường
nghiên cứu về các loài tảo của chính châu lục này, tránh phải nhập các loài tảo
16
của châu lục khác, vì điều này có thể dẫn tới nguy cơ làm mất cân bằng sinh
thái. Trái lại, ở châu Á, việc nuôi trồng thâm canh và độc canh thường được áp
dụng, phân bón cũng thường được sử dụng để kích thích tảo biển sinh trưởng,
tăng sản lượng, những điều này lại gây tác hại cho nhiều hoạt động khác khác liên
quan đến biển cũng như ảnh hưởng tới các giống loài sinh vật khác, tác hại không
nhỏ tới hệ sinh thái. Đó là một số trong những hạn chế cần khắc phục để tảo biển
có thể thực sự trở thành đòn bẩy cho sự phát triển bền vững của Trái đất.
Vi tảo ngày càng thu hút sự chú ý do tiềm năng của chúng trong sản xuất
nguyên liệu làm nhiên liệu sinh học. Tuy nhiên, hiểu biết hiện tại về các cơ chế
điều hòa sinh tổng hợp và lưu trữ lipid trong vi tảo vẫn còn hạn chế. Nghiên cứu
này tiết lộ rằng vi tảo thấy sự tích tụ tuần tự của tinh bột và lipid. Khi nitơ được
cung cấp đầy đủ hoặc cạn kiệt trong một thời gian ngắn, tinh bột là dạng dự trữ
cacbon chủ yếu với mức tích lũy lipid ở mức cơ bản. Sau khi cạn kiệt nitơ kéo
dài, sự tích tụ lipid tăng lên đáng kể, một phần là do sự phân hủy tinh bột, cũng
như sự luân chuyển của các chất chuyển hóa chính. Sự tích tụ lipid cũng phụ thuộc
mạnh mẽ vào dòng electron tuyến tính của quá trình quang hợp, đạt cực đại ở
cường độ ánh sáng thấp hơn. Nói chung, nghiên cứu này cho thấy một mô hình
điều chỉnh tương đối rõ ràng về sự tích tụ tinh bột và lipid về cơ bản được kiểm
soát bởi mức nitơ.
17
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Chlamydomonas Algae (2016) Ghi chú về Thực vật học và Nông học. Viện
bách khoa quốc gia. Viện bách khoa quốc gia.
2. Chlamydomonas (2017) Encyclopedia Britannica, Inc. Người biên tập của
Encyclopaedia Britannica.
3. Chlorophyta (2015) Đa dạng sinh học và phân loại thực vật mật mã. Khoa
Khoa học Sinh học. Đại học Complutense của Madrid.
4. Cubas Paloma (2008) Chloropythas - Tảo lục.
5. López Amenedo, I. (2014). Những thay đổi trong sinh lý tế bào
của "Chlamydomonas rehardtii" tiếp xúc với căng thẳng nhiệt.
6. Scott F. Gilbert (2003) Sinh học phát triển. Phiên bản thứ 7. Biên tập
Panamericana. ISBN 950-06-0869-3
7. Hệ thống thông tin đa dạng sinh học của Chlamydomonas (2018).
8. Nguyễn Văn Công, 2012. Ứng dụng công nghệ sinh học vào quy trình sản
xuất vi tảo. Tuyển tập Hội Nghị Khoa Học trẻ ngành Thủy Sản toàn quốc
lần thứ 3, bài 44, tr 325 – 330, Trường Đại học Nông Lâm Huế.
9. KS.Nguyễn Văn Công, 2012. Những vấn đề về tảo biển và tuyển chọn một
số kỹ thuật nhân nuôi sinh khối vi tảo. Phòng nghiên cứu TSI. Tập đoàn
Charoen Pokphand. Tài liệu lưu hành nội bộ. 300tr.
10. https://sachthucpham.com/nghien-cuu-tren-tao-doi-voi-loi-ich-suc-khoe-
duong-ruot-sachthucpham-
com#:~:text=M%E1%BB%99t%20nghi%C3%AAn%20c%E1%BB%A9u
%20m%E1%BB%9Bi%20%E1%BB%9F%20M%E1%BB%B9%20%C4
%91%C3%A3%20x%C3%A1c,ru%E1%BB%99t%20k%C3%ADch%20t
h%C3%ADch%20%28IBS%29%20v%C3%A0%20vi%C3%AAm%20%
C4%91%E1%BA%A1i%20tr%C3%A0ng.
11. https://cnsh.vnua.edu.vn/tin-tuc-su-kien/cong-nghe-nuoi-vi-tao-41425
18