You are on page 1of 110

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI

TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN


––––––––––––––

NGUYỄN THỊ THU TRANG

CHẤT SỬ THI TRONG


TRUYỆN NGẮN CỦA JACK LONDON

LUẬN VĂN THẠC SĨ VĂN HỌC

Hà Nội - 2012
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN
––––––––––––––

NGUYỄN THỊ THU TRANG

CHẤT SỬ THI TRONG


TRUYỆN NGẮN CỦA JACK LONDON

LUẬN VĂN THẠC SĨ VĂN HỌC

Chuyên ngành: Văn học nƣớc ngoài


Mã số: 60 22 02 45

Hà Nội - 2012
MỤC LỤC

MỞ ĐẦU ................................................................................................... 1
1. Lý do chọn đề tài ................................................................................... 1
2. Lịch sử vấn đề ........................................................................................ 2
3. Phạm vi nghiên cứu................................................................................ 6
4. Phương pháp nghiên cứu ........................................................................ 6
5. Đóng góp của đề tài ............................................................................... 6
6. Cấu trúc luận văn ................................................................................... 7
CHƢƠNG 1: CẢM HỨNG NGỢI CA HÙNG TRÁNG ........................ 8
1.1. Xung đột hoành tráng trong truyện ngắn Jack London .............. 8
1.1.1. Xung đột giữa con người với tự nhiên ...................................... 12
1.1.2. Xung đột giữa con người với con người ................................... 17
1.2. Tính chất trang nghiêm từ ngôi kể .............................................. 26
1.2.1. Tính trang nghiêm của người kể chuyện ở ngôi thứ ba............. 28
1.2.2. Tính chân thực của người kể chuyện ở ngôi thứ nhất ............... 31
1.2.3. Giọng điệu sử thi hoành tráng ................................................. 34
CHƢƠNG 2: HÌNH TƢỢNG CON NGƢỜI SỬ THI .......................... 38
2.1. Ngƣời anh hùng đơn độc trong truyện ngắn Jack London ........ 40
2.1.1. Người anh hùng đơn độc và chiến thắng .................................. 42
2.1.2. Người anh hùng đơn độc thất bại ............................................. 48
2.2. Con ngƣời mang bản năng sống bất diệt .................................... 52
2.2.1. Bản năng sống với khao khát tự do .......................................... 52
2.2.2. Khao khát sống bằng tình yêu cuộc sống ................................. 56
2.3. Con ngƣời với tấm lòng cao cả .................................................... 58
CHƢƠNG 3: KHÔNG GIAN SỬ THI .................................................. 64
3.1. Không gian lạnh lẽo, hoang sơ phƣơng Bắc................................ 66
3.1.1. Cảm hứng sử thi bất tận từ không gian hoang sơ ..................... 66
3.1.2. Những mối nguy hiểm màu trắng ............................................. 68
3.1.3. Nỗi ám ảnh của sự im lặng chết chóc ....................................... 71
3.2. Không gian biển cả phƣơng Nam ................................................ 75
3.2.1. Biển cả – Không gian hoang sơ, tráng lệ ................................. 76
3.2.2. Biển cả – chốn “hoang dã” đậm chất sử thi phương Nam ....... 79
3.3. Không gian xã hội đối chọi khốc liệt ........................................... 86
3.3.1. Không gian tranh đấu của những con người khát khao tự do ... 88
3.3.2. Những cuộc đấu tranh mang màu sắc sử thi ............................ 93
KẾT LUẬN ............................................................................................. 99
TÀI LIỆU THAM KHẢO.................................................................... 102
MỞ ĐẦU

1. Lý do chọn đề tài
Jack London sinh ngày 12 tháng 1 năm 1876 tại San Francisco, Hoa
Kì. Cái tên Jack London được biết đến khi tác phẩm Con trai của sói (The
Son of the Wolf) ra đời năm 1900, từ đó, với những đóng góp về văn
chương của mình, giới văn học ghi nhận Jack London như một gương mặt
xuất sắc cho nền văn học Mỹ hiện đại cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX.
Sự nghiệp văn học của ông thành công ở cả mảng tiểu thuyết và
truyện ngắn với những tác phẩm tiêu biểu như Tiếng gọi nơi hoang dã (The
Call of the Wild) (tiểu thuyết), Nanh trắng (White Fang) (tiểu thuyết), Gót
sắt (The Iron Heel) (tiểu thuyết), Tình yêu cuộc sống (Love of Life) (truyện
ngắn), Sự im lặng màu trắng (The White Silence) (tập truyện ngắn)…
Trong đó, truyện ngắn của Jack London để lại ấn tượng sâu sắc trong
tâm trí người đọc khắp thế giới bởi sự hấp dẫn, lý thú, cùng giọng văn nhẹ
nhàng, giản dị, và quan trọng hơn cả là ý nghĩa, triết lý sống mà câu chuyện
để lại. Sự vùng dậy mạnh mẽ, ý chí kiên cường cùng khát vọng sống mãnh
liệt đã tạo cho nhân vật của ông một đặc tính rất riêng, đó là chất anh hùng.
Cùng với hoàn cảnh đặc thù, những người hùng này trở nên đẹp đẽ và đáng
ca ngợi như những người hùng của sử thi. Cũng bởi vậy, truyện ngắn của
Jack London mang tính chất sử thi vô cùng đậm nét, từ cảm hứng ngợi ca,
đến những con người anh hùng, cùng với đó là những không gian khắc
nghiệt mang tính sử thi để tạo nên những người anh hùng một cách hoàn
thiện, đẹp đẽ nhất.
Các tác phẩm của Jack London không chỉ cho người đọc cảm nhận
và khâm phục những con người đã cố gắng chiến thắng tự nhiên, chiến
thắng cái chết, chiến thắng chính bản thân mình để sống, mà còn là bài học

1
về lòng dũng cảm, ý chí kiên cường và khát vọng sống mãnh liệt của con
người trước mọi khó khăn, gian khổ.
2. Lịch sử vấn đề
Tiếng Việt
Có thể nói, tác phẩm của Jack London ở Việt Nam là rất nhiều, tuy
nhiên số lượng học giả nghiên cứu về ông vẫn còn rất ít ỏi. Dẫu vậy, những
công trình nghiên cứu về Jack London từ trước đến nay đa phần được đánh
giá là có ý nghĩa thiết thực và là nguồn tư liệu xác đáng, tin cậy cho việc
nghiên cứu, tìm hiểu về ông. Có thể kể ra như:
Cuốn Tác gia văn học Mỹ của Lê Đình Cúc đã có những giới thiệu
rất kỹ lưỡng về Jack London, trong đó, chủ yếu tác giả khẳng định “Với
Jack London, văn học Mỹ bắt đầu một dòng mới: Dòng văn học vô sản.”
Tác giả đã gọi Jack London là nhà văn Mỹ vô sản đầu tiên của nước Mỹ.
Bởi cuộc đời Jack London nằm trọn trong một thời kỳ lịch sử đó là thời kỳ
chủ nghĩa tư bản bộc lộ hết mọi nhược điểm của nó. Thấu hiểu những cơ
cực của con người tận cùng xã hội, Jack London đã có những trang viết rất
xúc động như trong Gót sắt (The Iron Heel), Thung lũng ánh sáng (The
Valley of the Moon), Đám người trong vực thẳm,… Và cuối cùng, tác giả
khẳng định, công lao của Jack London trước hết là suốt đời phấn đấu không
biết mệt mỏi để tuyên truyền cho một lý tưởng tiến bộ bằng cuộc đời và các
tác phẩm của mình. Ngoài ra, bài viết, Jack London và cuộc đấu tranh giai
cấp, đấu tranh dân tộc in trên Tạp chí Văn học cũng đề cập rất nhiều đến
vấn đề này trong các sáng tác của ông.
Tiếp đó, Lê Đình Cúc trong cuốn Văn học Mỹ – Mấy vấn đề về tác
giả cũng đã nêu được đặc điểm cơ bản trong tác phẩm của Jack London, đó
là những mâu thuẫn. Chính những mâu thuẫn này trở thành hướng phát
triển chủ đạo trong các tác phẩm của ông. Đó là mâu thuẫn giữa con người

2
với thiên nhiên, con người với con người,… Từ đó, tác giả khẳng định rằng
chính cuộc đời sóng gió cơ cực của nhà văn đã tác động rất lớn đến các tác
phẩm của nhà văn.
Cuốn Văn học Mỹ của Lê Huy Bắc đã khái quát rất kỹ lưỡng về cuộc
đời và sự nghiệp của Jack London. Trong đó, tác giả đã nghiên cứu sâu
nghệ thuật xây dựng xung đột trong truyện ngắn của Jack London và tập
trung tìm hiểu những dấu vết ngụ ngôn trong các sáng tác của ông. Khai
thác xung đột trong các tác phẩm của mình góp phần vô cùng quan trọng
trong thành công của Jack London, ngoài văn phong hoành tráng, bay bổng
hay cốt truyện ly lỳ… Được mệnh danh là bậc thầy của xung đột, Jack
London đã khiến cho nhân vật của mình thể hiện tính cách, nội tâm một
cách điển hình nhất, rõ ràng nhất. Cùng với đó, dấu vết ngụ ngôn cũng trở
thành nét độc đáo của nghệ thuật truyện Jack London. Với việc mượn con
vật, đồ vật để giáo huấn con người, Jack London đã tạo nên trong tác phẩm
của mình những giá trị nhân văn cao cả, để cao thiên hướng đạo đức, và đó
cũng là lý do tác phẩm của ông luôn được độc giả và giới nghiên cứu đón
nhận nồng nhiệt. Công trình này đã gợi mở rất nhiều những điều lý thú
trong các sáng tác của Jack London, đồng thời trở thành tư liệu quý giá để
nghiên cứu về tác gia này.
Trong cuốn Phê bình – Lý luận văn học Anh – Mỹ, tác giả Lê Huy
Bắc đã sưu tầm và giới thiệu một cách cụ thể hơn về các tác giả, tác phẩm
văn học Anh, Mỹ trong đó có Jack London với tiêu đề “Tiếng gọi nơi
hoang dã”. Trong cuốn sách này, vấn đề về Jack London được tác giả khai
thác dựa trên tác phẩm “Tiếng gọi nơi hoang dã” – một kiệt tác trong giai
đoạn sáng tác ban đầu của nhà văn, là cuốn sách thành công nhất, phổ biến
nhất trong sự nghiệp của ông và thu hút lượng độc giả khổng lồ. Câu
chuyện về Buck – chú khuyển siêu cẩu của Jack London thực sự làm cho

3
người đọc ngưỡng mộ, như một áng văn lãng mạn vùng hoang vu, bất chấp
sự nghiêm khắc của những ẩn dụ mà cuốn sách thể hiện. Tài nghệ điêu
luyện của Jack London thể hiện ở việc kể một câu chuyện sinh động và
chân thực, khiến cho người đọc hoàn toàn thỏa mãn với kết quả của nó. Và
điều đó khẳng định rõ hơn chỗ đứng của Jack London trong lòng độc giả,
khiến Jack London luôn trở thành đề tài hấp dẫn cho giới nghiên cứu và
nhiều thế hệ bạn đọc.
Ngoài ra, những bài viết của Lê Huy Bắc như “Nghệ thuật xây dựng
cốt truyện xung đột trong tác phẩm của Jack London”, “Cõi hoang sơ trong
“tiếng gọi nơi hoang dã” của Jack London”, “Truyện ngắn Mỹ thế kỉ XIX”,
“Truyện ngắn Châu Mỹ”, … đăng trên tạp chí Nghiên cứu châu Mỹ;
“Truyện ngắn Mĩ đương đại” trên Tạp chí Văn học nước ngoài, “Dấu vết ngụ
ngôn trong Lănđơn” Tạp chí Văn hóa Dân gian cũng là những tài liệu hết
sức quý giá và phong phú góp phần tích cực cho những công trình nghiên
cứu sau này cho nhiều học giả.
Tác giả Nguyễn Trọng Đức trong bài nghiên cứu “Nghệ thuật xây
dựng tình huống truyện trong truyện ngắn Jack London” đã chỉ ra sự phong
phú đa dạng và hiệu quả nghệ thuật của tình huống truyện được Jack London
sử dụng trong kho tàng truyện ngắn của mình. Bao gồm tình huống xung
đột, tình huống thử thách, và tình huống ngẫu nhiên. Trên cơ sở đó tác giả
bài báo đi đến sự khẳng định: nghệ thuật xây dựng tình huống truyện là một
đặc điểm nổi bật trong thi pháp nghệ thuật truyện ngắn của Jack London.
Tác giả Nguyễn Kim Anh trong luận văn tiến sỹ Thiên nhiên đặc
trưng trong thi pháp tiểu thuyết của Jack London cũng có những nghiên cứu,
tìm hiểu tỉ mỉ về thiên nhiên trong tác phẩm của Jack London, đồng thời có
những nhận định chính xác thể hiện sự công phu trong nghiên cứu về nhà
văn này.

4
Tiếng Anh
Trong cuốn The Cambridge History of American Literature, tác giả
William Peterfield Trent đã khẳng định, thời kỳ mà tác phẩm đầu tay của
O.Henry và Jack London là giai đoạn cuối của lịch sử truyện ngắn. Là thời
kỳ các tạp chí, sách giáo khoa và các chuyên đề đại học dường như “dâng
hiến hết mình cho truyện ngắn” [69, tr.1373]. Tác giả cũng khẳng đinh, văn
chương ban đầu mang tính quý tộc, được viết cho số ít những người tao
nhã. Văn chương về sau mang tính dân chủ, được viết cho đám đông.
“London mang đến cho đám đông những gì họ yêu cầu, mỗi một cảm xúc
ông cảm nhận được bên dưới thế giới bạo tàn đã ban phát cho ông và ông
đã bán tác phẩm rất chạy” [69, tr.1374]. Ông tạo được dấu ấn quyền lực –
ông chỉ viết về chuyện anh hùng chốn hoang dã nơi đó bản thân ông là một
phần rộng lớn; ông có cảm hứng mãnh liệt với sự kì lạ và hoang dã tại
những vùng đất chưa từng được biết đến ở thời điểm bây giờ. Đây cũng là lý
do chúng tôi chọn nghiên cứu về truyện ngắn Jack London, bởi sức hấp dẫn,
lôi cuốn trong truyện ngắn của ông luôn là đề tài hấp dẫn cho mọi thế hệ
nghiên cứu văn học.
Cuốn The American Tradition in Literature (10th Edition), tác giả
Goerge Perkins nhận định rằng, đầu thế kỷ XX, Jack London xuất hiện như
một hiện tượng mới của văn học, thu hút lượng độc giả khổng lồ mà không
ít nhà văn mong muốn. Tác giả nhấn mạnh rằng, cơn sốt vàng [67, tr.1338]
đối với Jack London như một cơ hội để ông kiếm sống bằng chính trí tuệ,
tài năng văn chương chứ không phải bằng lao động chân tay. Cùng với
những kinh nghiệm và những quan sát thực tế vùng phương Bắc, ông đã
cho ra đời hàng loạt những tác phẩm mang lại cho ông danh tiếng trên văn
đàn thế giới.

5
Cuốn The Norton Anthology of American Literature, tác giả Nina
Baym lại một lần nữa khẳng định ảnh hưởng của cơn sốt vàng Klondike
(1897-1898) [45, tr.972] đối với cuộc đời văn chương của Jack London.
Trở về từ sau những cuộc phiêu lưu đầy mạo hiểm đó, Jack London hoàn
toàn dành thời gian cho việc viết sách. Một loạt những tác phẩm lần lượt ra
đời, được chấp nhận và thực sự thành công như “To the Man on the Trail”
vào đầu năm 1899, “The White Silence”, “An Odyssey of the North”… đã
đưa ông trở thành nhà văn nổi tiếng, có số lượng sách bán chạy nhất; và trở
thành triệu phú bằng việc viết sách. Với số lượng tác phẩm khổng lồ, được
dịch ra nhiều thứ tiếng trên thế giới đã chứng tỏ Jack London luôn nhận
được sự quan tâm nồng nhiệt của nhiều thế hệ người đọc.
3. Phạm vi nghiên cứu
Luận văn nghiên cứu trong giới hạn các truyện ngắn của Jack
London đã được dịch ra tiếng Việt, cụ thể qua các tuyển tập: Tuyển tập
truyện ngắn Jack London, Chúc kẻ lên đường, Tình yêu cuộc sống, Sóng
lớn Kanaka, Sự im lặng màu trắng, Miếng bít tết, Người đàn bà sinh ra ban
đêm,...
Tuy nhiên, chúng tôi có sự chọn lọc tác phẩm bởi giới hạn đề tài chủ
yếu tìm hiểu tính chất sử thi trong các truyện ngắn Jack London.
4. Phƣơng pháp nghiên cứu
Tiếp cận dưới góc độ thi pháp học và tự sự học, luận văn sử dụng
chủ yếu các phương pháp sau:
– Phương pháp thống kê, tổng hợp
– Phương pháp so sánh…
5. Đóng góp của đề tài
Góp phần mở rộng đề tài nghiên cứu về Jack London, luận văn
khẳng định thêm tính sử thi trong truyện ngắn Jack London là một phương

6
diện thú vị và còn mới mẻ để khai thác và tìm hiểu.
Làm rõ chất sử thi trong truyện ngắn của Jack London, luận văn
khẳng định và ca ngợi những con người chiến thắng tự nhiên, chiến thắng
bản thân, đồng thời nêu cao tinh thần của những con người anh hùng đó,
trở thành bài học quý giá về lòng dũng cảm và tình yêu cuộc sống.
6. Cấu trúc luận văn
Ngoài phần Mở đầu và Kết luận, luận văn được chia làm ba chương:
Chương 1: Cảm hứng ngợi ca hùng tráng
Chương 2: Hình tƣợng con ngƣời sử thi
Chương 3: Không gian sử thi

7
CHƢƠNG 1

CẢM HỨNG NGỢI CA HÙNG TRÁNG

Ở chương này, luận văn tập trung vào đặc trưng cơ bản của tính chất
sử thi, đó là “cảm hứng ngợi ca”. Tính chất này quy định cái nhìn hoành
tráng về thế giới và con người. Qua đó, nhà văn ngợi ca sức sống mãnh liệt
và ý chí bất khuất của con người trong cuộc đối đầu với thiên nhiên hung
dữ.
Theo Từ điển Văn học do nhóm Đỗ Đức Hiểu chủ biên, sử thi:
“Trong nghĩa rộng cũng gọi là tự sự, một trong ba thể loại văn học, phân
biệt với trữ tình và kịch. Trong nghĩa hẹp và chuyên biệt, sử thi chỉ một
hoặc một nhóm trong thể loại tự sự, đó là sử thi anh hùng, tức là những
thiên tự sự kể về quá khứ anh hùng, hàm những “bức tranh” rộng và hoàn
chỉnh về đời sống nhân dân và về những anh hùng, dũng sĩ đại diện cho
một thể giới sử thi nào đó, thống nhất, hài hoà. Sử thi anh hùng tồn tại cả
dưới dạng truyền miệng lẫn dưới dạng được ghi chép thành sách; số đông
những bản chép các thiên sử thi anh hùng tiêu biểu đều có ngọn nguồn dân
gian; bản thân các đặc điểm của thể loại này cũng hình thành ở cấp độ dân
gian.”(tr.1572-1573).
Trên cơ sở khái niệm này, chúng tôi tập trung khai thác các tính chất
sử thi được thể hện trong truyện ngắn Jack London.
1.1. Xung đột hoành tráng trong truyện ngắn Jack London
Chất sử thi trước hết được thể hiện ở cảm hứng ngợi ca, đó là sự cảm
phục, ca ngợi những con người anh hùng, những khí phách anh hùng cùng
những công lao cao cả của người anh hùng. Trong truyện ngắn của Jack
London, trước hết đó là những xung đột hoàng tráng, để từ những xung
đột đó, con người và cả thiên nhiên, đôi khi là cả những con vật thể hiện

8
được hết cái hùng vĩ, dũng cảm, sự thông minh và khả năng thích ứng
tuyệt vời của họ.
Là một trong những đại biểu xuất sắc của nền văn học hiện thực Mỹ
thế kỷ XIX, Jack London đã có rất nhiều cống hiến to lớn cho sự phát triển
của nền văn học nước này. Đặc biệt, chất sử thi thể hiện một cách vô cùng
độc đáo và phong phú trong các truyện ngắn của ông. Cảm hứng ngợi ca
trở thành cảm hứng chủ đạo, xuyên suốt hầu hết các truyện ngắn của ông.
Theo Từ điển thuật ngữ văn học, “xung đột” là “sự đối lập, sự mâu
thuẫn được dùng như một quy tắc để xây dựng các mối quan hệ tương tác
giữa các hình tượng của tác phẩm nghệ thuật”. Trong văn học, các tác giả
thường khai thác những tình huống xung đột nhằm đẩy nhân vật và tình
huống truyện đến mức cao trào, từ đó, nhân vật tự thể hiện tính cách, bản
chất sâu kín nhất trong con người họ. Xung đột có thể coi là biểu hiện cao
nhất sự phát triển mâu thuẫn giữa các lực lượng, các tính cách trong một
tác phẩm. Xung đột thường được đề cao trong các tác phẩm kịch, tuy
nhiên, những thể loại như tiểu thuyết, truyện ngắn cũng không thể thiếu
nghệ thuật này. Đặc biệt trong các truyện ngắn, một hình thức tự sự hư cấu,
dung lượng ngắn, có tính hàm súc cao, độ căng lớn, khả năng cập nhật và
thích ứng uyển chuyển với mọi yêu cầu của xã hội, thường tái hiện và giải
quyết một vấn đề, một sự kiện hoặc một vài sự kiện [12, tr.28] thì việc khai
thác tình huống xung đột để tăng tính kịch tính, giải quyết nhanh một vấn
đề trong một dung lượng có hạn là rất cần thiết. Có thể nói xung đột là một
yếu tố thiết yếu của một tác phẩm văn học nói chung cũng như tiểu thuyết
nói riêng.
Nhờ có xung đột câu chuyện mới phát triển, tính cách nhân vật mới
được bộc lộ. Và qua sự lựa chọn, giải quyết những xung đột trong tác phẩm
sẽ thấy được tư tưởng nghệ thuật mà tác giả đã gửi gắm.

9
Xung đột luôn luôn mang cả ý nghĩa xã hội và ý nghĩa thời đại.
Trong tác phẩm văn học, xung đột có thể là những xung đột của cá nhân
nhân vật, nhưng bản thân xung đột ấy đã mang một ý nghĩa xã hội sâu sắc.
“Cánh đồng bất tận” của Nguyễn Ngọc Tư đã sắp đặt sự tồn tại cạnh nhau
cái cương ác với cái nhu thiện, khiến tấn bi kịch tâm trạng của các nhân vật
có cơ cháy âm ỉ và từng lúc bùng lên dữ dội. Nó luôn kéo căng cực độ
nhưng không tới mức làm gãy đứt mối ràng buộc giữa họ. Tác giả khéo léo
dựng lên hai cực đối chọi kề cặp nhau giữa hai nhóm nhân vật, với một bên
có tâm trạng bất tín, tuyệt vọng dẫn tới ích kỷ ác độc của Út Võ; sự bê tha
bất cần dẫn tới liều lĩnh của Sương; và bên kia có nỗi đau vô vọng cùng
niềm khát khao hiểu biết và yêu thương của hai chị em Nương – Điền.
Ngay trong bản thân Út Võ và Sương cũng tồn tại hai cực đối chọi nhau
như thế giữa sự bạc nhẫn với tình thương, giữa thái độ bất cần với cử chỉ
nhân ái, trách nhiệm. Phương pháp tạo đồng điệu trong tương phản ấ y
thúc đẩy hình tượng nhân vật tới gần hơn đời sống hiện thực, đồng thời
tạo điều kiện xoáy sâu và gây ấn tượng mạnh hơn.
Xung đột ở mỗi thời đại khác nhau thì có sự khác nhau. Ví dụ ở thời
Hy Lạp cổ đại là xung đột giữa con người với thiên nhiên, con người với số
mệnh, ngay cả vị thần tối cao như Zeus cũng bị số mệnh đe dọa; trong thời
Phục Hưng là xung đột giữa chủ nghĩa nhân văn và chủ nghĩa cá nhân tư
sản, các thế lực phong kiến, đồng tiền, tôn giáo; các xung đột hiện đại
thường xoay quanh xung đột giữa cách mạng và phản cách mạng, giữa cái
tốt và cái xấu, giữa cái thiện và cái ác. Xung đột có thể có nhiều phạm vi
cấp độ khác nhau: xung đột nội tâm, xung đột tư tưởng, xung đột giữa các
tính cách và hoàn cảnh, xung đột giữa các lực lượng xã hội,…Vì vậy, một
tác phẩm văn học nói chung và truyện ngắn nói riêng nếu không có xung
đột thì sẽ trở nên rất nhạt nhẽo.

10
Jack London có thể được xem là bậc thầy của những xung đột. Ông
khéo léo dựng nên các xung đột có tính kịch tính đến nghẹt thở, khiến các
nhân vật của ông bộc lộ một cách rõ nét và mãnh liệt nhất những bản tính
của họ, đôi khi là những bản năng tồn tại của con người mà trong những
lúc bình thường dường như không thể làm được.
Trong truyện ngắn của Jack London, thường gặp nhất là một không
gian hoang sơ phủ trắng tuyết của vùng Bắc cực, những vùng sóng gió của
các bờ biển, các hòn đảo ở phương Nam, hay thậm chí ở giữa cuộc sống
đời thường cũng đầy rẫy những nguy hiểm. Ở những nơi đó, sự khắc nghiệt
của tự nhiên dường như trở thành khắc tinh với con người, là những khó
khăn, những gian khổ buộc con người phải đối mặt và phải vượt qua. Đó là
cuộc đấu tranh sinh tồn một mất một còn với thiên nhiên mà con người
không còn cách lựa chọn nào khác là chiến đấu đến cùng để sống, như
người đàn ông được gọi là “hắn” trong Tình yêu cuộc sống (Love of Life);
người đàn ông trong Chúc kẻ lên đường (To The Man On The Trail); người
phụ nữ da đỏ trong Sự im lặng màu trắng (The White Silence); vợ chồng
nhà Barton trong Sóng lớn Kanaka (The Kanaka Surf), người đàn ông da
đen trong Miếng bít tết (A Piece of Steak). Xây dựng những con người kiên
cường này, nhà văn đã muốn ca ngợi họ một cách hào hùng nhất, lý tưởng
nhất, đẹp đẽ nhất, như những người hùng trong các sử thi.
Ở đây, cảm hứng ngợi ca nhằm hướng đến những con người ông coi
là anh hùng để ca ngợi sức sống, sự hi sinh, bản năng sinh tồn và tình yêu
mãnh liệt với cuộc sống đến vô hạn của họ. Như vậy, Jack London trong
các tác phẩm truyện ngắn của mình đã hướng đến ca ngợi những người đàn
ông, những người phụ nữ gặp rơi vào những hoàn cảnh trớ trêu, phải đối
diện với một bên là sự sống, một bên là cái chết; đối diện với những phức
tạp, những khó khăn của cuộc sống, nhưng họ vẫn vươn lên, vượt qua tất cả

11
để chiến thắng. Họ không sợ cái chết, họ kiên cường chiến đấu với khó
khăn như bản lĩnh những anh hùng sử thi, và họ chiến thắng số phận cũng
oai hùng như những người hùng sử thi thắng trận.
1.1.1. Xung đột giữa con người với tự nhiên
Bằng cách xây dựng những xung đột đặc thù trong các câu chuyện
của mình, Jack London đã gợi ra trong các tác phẩm những cảm hứng sử
thi hùng tráng. Xung đột luôn là yếu tố xuất hiện thường xuyên, như sợi
dây xuyên suốt các tác phẩm, đồng thời là mạch ngầm để tạo nên những
bầu không khí hùng tráng trong hầu hết các truyện ngắn. Đó là sự xung đột
mạnh mẽ giữa tự nhiên và con người, giữa thiên nhiên phương Bắc hoang
vu, lạnh lẽo, quanh năm tuyết phủ trắng xoá và luôn chứa ẩn những cái chết
cho con người bất kỳ lúc nào… với con người dường như bị bủa vây trong
những xứ sở đó, hoàn toàn cô đơn, chỉ có một mình chống chọi lại thiên
nhiên để tồn tại. Những xung đột này ta có thể tìm thấy trong Tình yêu cuộc
sống, một trong những truyện hay và để lại tên tuổi cho Jack London, và cả
trong Sự im lặng màu trắng, Nhóm lửa,… Hay đó là thiên nhiên của
phương Nam tuy ấm ấp, ngập tràn ánh nắng nhưng quanh năm gió bão dữ
dội, nên con người ở đây cũng trở nên gan góc lạ thường để chống chọi với
những trận cuồng nộ của biển. Tiêu biểu cho kiểu thiên nhiên này là những
quần đảo đầy sóng gió hãi hùng, những quần đảo hoang sơ, có khi là hòn
đảo không một bóng người, không một tia hi vọng sống sót khi chẳng may lạc
vào đó. Vậy mà con người vẫn phải kiên trì tìm kiếm sự sống bằng tình yêu
bất tử với nó, và chiến thắng cái chết một cách anh hùng như những nhân vật
trong sử thi. Chúng ta dễ dàng bắt gặp những nhân vật như vậy trong các câu
chuyện như Ngôi nhà của Mapuhi (The House of Mapuhi), Sóng lớn Kanaka,
Solomon quần đảo khủng khiếp (The Terrible Solomon),…
Nếu như trong Ramayana, thiên nhiên là người bạn thân thiết của

12
con người, là một khung cảnh thiên nhiên đẹp tráng lệ, hùng vĩ, tạo môi
trường tích cực để nhân vật hoạt động mà là một hình tượng nghệ thuật vô
cùng đẹp đẽ, góp phần thành công cho nhân vật, thì thiên nhiên trong
những truyện ngắn của Jack London lại là những thử thách nghiệt ngã nhất
với con người. Thiên nhiên khắc nghiệt đó có thể khiến con người tự giết
hại chính đồng loại của mình để sống, để tồn tại, và cũng trong lúc đối mặt
với thiên nhiên như vậy, con người cũng thể hiện được chính bản chất của
mình, ích kỉ hay nhân hậu, hèn nhát hay dũng cảm, nhu nhược hay thông
minh, khôn khéo…
Đặt nhân vật của mình vào khung cảnh thiên nhiên khắc nghiệt và
nguy hiểm như vậy, Jack London đồng thời cũng để nhân vật chiến đấu
một cách cương quyết và mạnh mẽ nhất. Đó là những con người hành động
không ngưng nghỉ, và điều này làm nên tính kịch tính, hấp dẫn và vô cùng
lôi cuốn trong các tác phẩm của ông. Thiên nhiên càng dữ dội, con người
càng chiến đấu quyết liệt. Cuộc chiến đó là cuộc chiến sống còn giữa con
người và kẻ thù vô cùng mạnh, khả năng chiến thắng của con người vô
cùng nhỏ nhoi, nên dường như con người trở nên hùng vĩ hơn, anh dũng
hơn, vận dụng hết trí và lực để dành lại sự sống mặc dù mong manh, có khi
là vô vọng.
Tình yêu cuộc sống một câu chuyện như thế. Cũng được đặt trong
thiên nhiên Bắc cực giá lạnh đến đáng sợ, hoang vu và tĩnh mịch, ở đó có
hai con người đang nhọc nhằn với cuộc hành trình của mình. Khắc nghiệt
hơn nữa là một người trong đó không may bị trẹo mắt cá khi bị ngã xuống
nước và bị bỏ rơi lại. Người đàn ông này đã một mình chống chọi với cái
đói, sự đau đớn, cô đơn:
“Một lần nữa, mắt gã lại đảo khắp một vòng cái thế giới quanh gã.
Một quang cảnh không lấy gì làm phấn khởi. Đâu đâu cũng là một

13
đường chân trời mềm mại. Các trái đồi đều thấp. Chẳng có cây to,
cây nhỏ, cũng chẳng có cỏ – chẳng có gì ngoài một sự tiêu điều
mênh mông và ghê gớm, khiến cái sợ mau chóng nhóm lên trong mắt
gã.” [42, tr.21]
Trong cuộc hành trình mà gã không còn nhớ chính xác ngày tháng,
địa điểm, chỉ biết đi về phía Nam là Hồ Gấu Lớn, là nơi gã gắng gượng lê
từng bước để đến, gã trở thành một kẻ cô đơn, yếu thế, rợn ngợp trước
thiên nhiên hãi hùng. “Gã co ro giữa dòng nước trắng sữa, như thể khoảng
không rộng lớn đang ép lên gã với một sức mạnh áp đảo, đè gí gã một cách
thô bạo với sự uy nghi đầy tự mãn của nó.” [42, tr.21] Nhưng người đàn
ông đó không thể dừng lại, gã vẫn tiếp tục đi với một sự tuyệt vọng gần
như điên dại. Gã liên tiếp gặp những trở ngại do thời tiết, những nguy hiểm
luôn luôn rình rập. Gã đối mặt với một con gấu, bằng sự can đảm bền bỉ và
tuyệt vọng, khiếp sợ, gã đã đứng thẳng người lên, cũng gầm gừ, man rợ,
gớm ghiếc thốt lên nỗi sợ vốn là thích hợp với sự sống và vốn xoắn xuýt
quanh những rễ sâu nhất của sự sống; rồi gã lại gặp những con sói, nhưng
chúng cũng không tấn công gã, có lẽ chúng cũng sợ một sinh vật đứng
thẳng vừa có thể cào vừa có thể cắn để chống trả lại. Đặc biệt hơn nữa khi
Jack London cho gã và một con sói đói, gầy và kiệt sức, cũng thảm hại
không kém gì gã, đối mặt với nhau để cố gắng cướp đoạt sự sống của nhau.
Hai bên đi cùng nhau suốt chặng đường, cũng mệt lử, lê lết từng bước, gầm
gừ, dọa nạt lẫn nhau,và lúc nào cũng trong tình trạng phòng bị và trực tấn
công. Cuối cùng thì gã cũng thắng con sói, bởi sự gan lì bám lấy sự sống và
cũng bởi tình yêu cuộc sống bất diệt và mãnh liệt hơn bao giờ hết. Câu
chuyện là cuộc đấu tranh không ngừng của con người trước thiên nhiên
hoang dã để tìm lại sự sống. Qua cuộc hành trình đó, người đàn ông trong
truyện đã tự khẳng định được bản chất tốt đẹp của mình, là một con người

14
gan dạ với nghị lực phi thường và tinh thần vượt qua khó khăn vô cùng
đáng nể phục. Nhưng trên hết, đó là tình yêu cuộc sống, hướng về cuộc
sống bằng tất cả sức lực và trí tuệ còn lại của mình.
Trong sử thi, hình tượng người anh hùng đôi khi mang nét tâm lý sử
thi hồn nhiên, ngây thơ, chất phác, thứ tâm lý gắn liền với hành động, được
bộc lộ một cách trực tiếp. Một Đăm Săn táo bạo, dũng cảm, dám cả gan đi
bắt Nữ thần Mặt trời về làm vợ, từng ngang tàng chặt đứt cây linh hồn của
H’nhí và H’bhí, vậy mà, khi hai người vợ ngã gục xuống thì Đăm Săn oà
lên khóc: “Anh vừa chạy về vừa khóc. Đăm Săn khóc từ sáng đến tối, từ tối
suốt sáng. Anh khóc nước mắt chảy ròng đầy một bát, chẩy ngập một chiếc
chiếu”(Tuyển tập văn học dân gian Việt Nam, Tập V. Nxb. Giáo dục, H,
2001, tr. 353). Còn người anh hùng Xing Nhã lại rớt nước mắt khi biết
được nỗi oan trái và mối thâm thù của cha mẹ chàng thuở trước: “Xing Nhã
vội vàng chạy đến đống tranh mục, tìm xương sọ cha, kêu khóc thảm
thiết”(Tuyển tập văn học dân gian Việt Nam , Tập V. Nxb. Giáo dục, H,
2001, tr. 383). Người anh hùng trong sử thi Khinh Dú trong khi nghe bác
kể lại hoạn nạn của gia đình thì chàng khóc nức nở thương cho gia đình
mình không đủ sức dành lại của cải đã mất. Tiếng khóc xuất hiện trên khoé
mắt các nhân vật anh hùng với khá nhiều cung bậc, khóc ròng, khóc thảm
thiết, khóc nức nở, cung bậc nào cũng cho thấy nỗi đau xót của một tấm
lòng đầy tình yêu thương. Đó là tính cách rất hồn nhiên mà các tác giả dân
gian muôn gán cho nhân vật của mình. Hình tượng người anh hùng của
Jack London cũng cho người đọc thấy những sự sợ hãi, những sự thất
vọng, thậm chí là tuyệt vọng nhưng họ đã vượt qua tất cả, họ đã chiến
thắng, không một chút yếu lòng, bởi chỉ yếu lòng một chút, họ có thể sẽ
vĩnh viễn nằm dưới băng tuyết, hay trong lòng đại dương, không bao giờ có
thể trở về được.

15
Xuống phương Nam ấm áp nhưng không kém khắc nghiệt, Jack
London một lần nữa cho người đọc thấy những con người cũng ngày đêm
chống lại sự dữ dằn của biển cả để bảo vệ cuộc sống, thậm chí là một mình
đối chọi với biển để tìm về cuộc sống. Đó là hình ảnh bà lão Nauri trong
Ngôi nhà của Mapuhi. Đảo san hô Hikueru ngày hôm đó phải đối mặt với
cơn bão khủng khiếp. Cơn bão như một trận đại hồng thủy, hàng ngàn
người bị biển vùi dập, hoặc cuốn ra biển, hoặc chết thê thảm trên đảo. Hòn
đảo trở thành “một hồ ngổn ngang người chết”, không một ngôi nhà, không
một túp lều nào còn đứng vững. Khắp đảo san hô, không còn lấy hai viên
đá nào chồng lên nhau. Một phần năm mươi số cây dừa còn đứng vững thì
cũng đã tả tơi, không còn lấy một quả trên cành, không còn chút nước ngọt
nào”. Bà Nauri cũng bị cuốn ra một hòn đảo hoang, không một ai sinh sống
và nuôi một hi vọng có người tìm ra mình dù đó là hi vọng vô cùng mong
manh. Bà kéo dài cuộc sống bằng những trái dừa bà đã dùng làm phao để
dạt được vào bờ. Đến ngày thứ 10, bà vô tình nhìn thấy một cái xác quen,
đó là người đã mua lại hạt ngọc trai của con trai bà (hat ngọc trai đó là thứ
của cải lớn nuôi ước mơ mua nhà của gia đình bà). Cuộc sống lại được kéo
dài khi bà tìm được một hòm gỗ có thức ăn. Tám ngày nữa, bà vật lộn ở
trên đảo, cầm cự bằng thứ thức ăn tìm thấy và những trái dừa, và cuối cùng
bà đã gắng sức tìm cách trở về nhà. Bà đã bện xơ dừa với nhau tạo thành
dây để buộc lại móc chèo vào chiếc thuyền, đến nửa đêm ngày thứ 8, bà lao
thuyền qua lớp sóng xô và bắt đầu cuộc hành trình trở về Hikueru. Trí
thông minh và lòng dũng cảm đã giúp bà biết tránh các luồng nước và lái
chèo đúng hướng, đã đuổi được cá mập trước khi chờ nó tấn công mình và
về được nhà trong hình hài gầy guộc và gớm ghiếc như một thây ma. Như
vậy, bà lão đã chiến thắng biển cả hung dữ, rợn ngợp để trở về, mang theo
viên ngọc trai, mang theo cả ước mơ về một ngôi nhà hạnh phúc, ấm cúng.

16
Trong Ramayana, nàng Sita là mẫu người phụ nữ Ấn Độ cổ đại, một
người vợ chung thủy, tiết hạnh, một người con gái nhu mì hiền từ, nhân
hậu. Cái cao cả mà nhân vật này thể hiện là tình yêu quên mình, hiến dâng
cho Rama một tình yêu son sắt, bất chấp gian nguy, bất chấp cả tính mạng.
Trong truyện của Jack London, người phụ nữ này cũng mang những phẩm
chất cao quý như người anh hùng trong sử thi, nhưng đó là lòng dũng cảm,
đấu tranh giành lại sự sống một cách quyết liệt. Tuy không có được sức trẻ
như Sita, nhưng Nauri có một tinh thần trẻ, một sức khỏe của dân biển
quanh năm sóng gió, và trên hết là sự gan góc kiên cường đáng khâm phục.
Từ đó, Jack London ca ngợi những con người sống hết mình và
chiến đấu hết mình để bảo vệ sự sống, để được sống. Trong họ có một
tình yêu mãnh liệt với cuộc sống, với những con người họ yêu quý, và có
người chiến thắng được thiên nhiên, có người phải bỏ mạng trong tuyết,
nhưng trên tất cả, họ để lại cho người đọc, cho người đời bài học quý giá
về giá trị cuộc sống, niềm khao khát sống và cách họ chiến đấu để được
sống mãnh liệt như thế nào.
1.1.2. Xung đột giữa con người với con người
Xung đột giữa con người với con người đã tạo nên những cảm hứng
mới cho các truyện ngắn của Jack London, qua đó, ông ngợi ca những con
người biết sống với lý tưởng, sống cho tình yêu và sẵn sàng bỏ qua tất cả
để được sống cuộc sống mà họ mong ước. Xung đội giữa con người và con
người của Jack London tồn tại ở những dạng thức khác nhau như xung đột
tình yêu tay đôi nhằm ca ngợi tình yêu, ca ngợi những con người dám đấu
tranh cho hạnh phúc lứa đôi; xung đột trong nội tâm của con người từ đó đề
cao đức hi sinh, lòng nhân hậu cao cả,…
Tiêu biểu cho kiểu xung đột tay đôi trong tình yêu là cuộc chiến
giành lấy cô gái mình yêu trong câu chuyện Con trai của sói (The Son of

17
the Wolf). Mackenzi được tác giả miêu tả là người con của Sói, tức là người
da trắng, những con người khai hóa văn mình được đặt trong cuộc chiến
với chàng trai da đỏ được gọi là Gấu để giành nhau cô con gái của vị
trưởng tộc da đỏ. Bằng sự thông minh của mình, Mackenzi cũng chiếm
được cảm tình của cô gái và thuyết phục được cô đi cùng mình, làm vợ
mình. Nhưng cuộc tình không thuận lợi khi Mackenzi bị bộ tộc da đỏ phản
đối. Cuộc chiến diễn ra quyết liệt, và bằng quyết tâm cũng như bằng những
thứ của cải Mackenzi bỏ ra để mua chuộc thì cuối cùng phần thắng đã
thuộc về chàng trai da trắng. Ở đây, Jack London đã ca ngợi một tình yêu
không phân biệt sắc tộc: một người da trắng yêu cô gái da đỏ tha thiết và
nhất nhất muốn cưới cô làm vợ; đồng thời đã cố gắng thuyết phục cũng như
sẵn sàng chiến đấu để chiếm đoạt bằng được người con gái đó. Tuy nhiên,
qua tác phẩm, Jack London cũng ngầm phê phán xã hội tư bản Mỹ đương
thời đang áp đặt, đang tước đoạt nhân quyền của con người.
Jack London còn tinh tế, khéo léo hơn khi khai thác những xung đột
nội tâm kín đáo. Đó là sự giằng xé, đau đớn của những cuộc hôn nhân tan
vỡ, hay đứng trước nguy cơ tan vỡ, trước sự phản bội hay mới chỉ là
những nguy cơ đe dọa hạnh phúc gia đình. Nhưng bằng lòng cao thượng,
đức hi sinh, những nhân vật của Jack London đã cho người đọc thấy họ là
những người “anh hùng” khi giải quyết các tình huống một cách êm thấm
nhất, nhân văn nhất.
Sóng lớn Kanaka là câu chuyện tình yêu giữa hai vợ chồng nhà
Barton và những sự hiểu lầm trong tình yêu của họ, để cuối cùng, tình yêu
được trải nghiệm, được thử thách, để họ yêu nhau hơn, tin tưởng nhau hơn.
Đó là những con người dũng cảm bởi dám yêu và hi sinh hết mình cho tình
yêu của mình. Hình tượng sóng lớn như một hình ảnh ẩn dụ cho những
sóng gió trong cuộc hôn nhân của Lee và Ida. Tuy họ là một đôi tuyệt đẹp

18
giữa một người đàn ông có học thức, khỏe mạnh, có tiếng tăm trong vùng
với một người phụ nữ xinh đẹp bậc nhất trong con mắt của nhiều người,
một người phụ nữ đầy quyến rũ và khiêu khích… nhưng tình yêu của họ
không tránh khỏi những đe dọa hôn nhân đổ vỡ bởi sự can thiệp của Sonny.
Sonny là người đàn ông góa vợ và yêu Ida say đắm, si mê. Sự việc càng trở
nên nghiêm trọng khi Lee nhận thấy người vợ của mình ngày càng có
những biểu hiện khác lạ, và vô tình một lần anh bắt gặp Sonny hôn vợ
mình. Lee đã thực sự đau khổ vì Ida là người mà anh rất mực thương yêu. Tuy
nhiên, không giữ thái độ thù hận, Lee vẫn nhẹ nhàng, ân cần với vợ. Sau cuộc
thử thách tình cảm của vợ, Lee đã nhận ra rằng, người vợ anh vô cùng yêu
dấu ấy cũng yêu anh vô cùng khi cô sẵn sàng lao vào sóng dữ để cứu anh. Ida
đã kể lại mọi chuyện, hiểu lầm được giải tỏa, họ lại trở về với cuộc sống hạnh
phúc bên nhau nhờ tình yêu dành cho nhau rất chân thành, cao thượng.
Cái tài tình của Jack London là lột tả một cách tự nhiên nhất những
sự đấu tranh trong suy nghĩ và tình cảm của nhân vật, là sự vật lộn giữa
lòng ghen tuông, nỗi đau khổ tột cùng và tình yêu tha thiết, cao cả. Từ sự
đấu tranh mãnh liệt đó, nhân vật đã đủ bình tĩnh, đủ thông minh để xử lý mọi
việc, đã chọn được cách tốt nhất để giải quyết vấn đề một cách nhẹ nhàng
nhất. Xung đột ở đây không phải là sự đấu tranh bằng vũ khí, bằng lời nói
giữa các đối thủ, mà là sự giằng xé trong nội tâm mỗi con người. Từ đó, nhân
vật bộc lộ một cách rõ ràng nhất tính cách, suy nghĩ và cả tình cảm của mình,
khẳng định lại một cách chắc chắn tình yêu đích thực mà họ dành cho nhau.
Đoạn kết của câu chuyện cổ tích (The End of the Story) là một câu
chuyện xúc động về tình yêu, nhưng trên hết, câu chuyện nổi bật lên tình
thương, sự thông cảm, đức hi sinh cao cả và lòng nhân từ vị tha vô bờ bến
của nhân vật bác sỹ Linday. Bằng đức độ cao đẹp của người bác sỹ, ông đã
sẵn sang vượt qua băng giá lạnh với thời tiết lạnh dưới 50 độ âm để đến với

19
một con người không may bị thương rất nặng, nhưng đang gắn gỏi chờ đợi
người đến cứu. Nhưng trớ trêu thay, đến nơi, người bác sỹ tốt bụng này đã
nhận ra người anh sẽ cứu là kẻ đã cướp vợ của mình. Căm phẫn, đau đớn
và vượt qua được cả những suy nghĩ tàn nhẫn: “Từ ngàn xưa trong cái thế
giới già cỗi này phong tục tiêu diệt những kẻ đi cướp vợ người khác đây có
gì là khác thường”, bác sỹ đã chấp nhận ở lại cứu Strang. Đọc câu chuyện
này, người đọc dễ dàng nhận ra tình cảm tha thiết mà bác sỹ dành cho vợ
của mình, đó là một tình yêu vô bờ bến, vấn cố gắng níu kéo người vợ khi
đưa ra một thỏa thuận sẽ cứu Strang nếu cô trở về bên ông. Và ông luôn
căm thù Strang, luôn tâm niệm đó là một tên “kẻ cướp” xấu xa, phá vỡ
hạnh phúc một gia đình đang êm ấm. Tuy nhiên, khi nhận thấy tình yêu mà
vợ ông dành cho người thanh niên có nét mặt thanh tú Strang, ông đã sẵn
sang bỏ qua hận thù sang một bên, và tận tình cứu chữa cho anh, tận tình
đến mức đáng thán phục bởi ông còn ở bên cạnh anh cho đến khi anh khỏe
mạnh bình thường, thậm chí còn có thể đi săn bắn một cách lẹ làng, dũng
mãnh. Và cái kết của câu chuyện cổ tích mà bác sỹ vẫn chưa kể nốt với vợ
mình đó là “lấy điều thiện để trả điều ác” [43] đã khiến người vợ vô cùng
biết ơn, ngưỡng mộ. Tấm lòng cao thượng vô cùng đó đẹp có lẽ chỉ có thể
có trong những câu chuyện cổ tích, nhưng Jack London đã đưa vào câu
chuyện của mình một cách thật chân thực, tự nhiên và xúc động nhất. Có lẽ
bác sỹ cũng cảm kích trước sự hi sinh của cô vợ mình cho chàng thanh niên
mà cô yêu tha thiết, nên đã dốc lòng giữ lại tình yêu đó bên cô. Câu chuyện
cổ tích mà ông kể ra hay thỏa thuận mà ông đặt ra cũng chỉ để ông khẳng
định lại tình cảm của vợ mình dành cho chàng thanh niên kia, và cuối cùng
thì ông cũng nhận thấy, tình yêu đó cũng cao cả, mạnh mẽ hơn bất cứ thứ
gì. Do đó, ông không nỡ để họ rời xa nhau.
Sử thi Ramayana cũng ghi nhận một mối tình vô cùng thắm thiết

20
giữa nàng Sita xinh đẹp, thủy chung với người anh hùng Rama thông minh,
dũng mãnh. Sita cũng đã chiến thắng những sự dụ dỗ quỷ sứ Ravana, hết
lời ca ngợi Rama. Nhưng khi thoát khỏi móng vuốt của Ravana trở về, Sita
lại bị Rama nghi ngờ về lòng thủy chung của mình, và nàng đã chọn cách
nhảy vào lửa, nhờ thần lửa Agni chứng minh cho phẩm hạnh, trinh tiết của
mình. Nhưng trong Ramayana, những nhân vật đó đều là những vị thần,
hoặc mang trong mình dòng máu thần thánh, có sức mạnh, có quyền năng,
có thể chiến thắng thiên nhiên, chiến thắng cái chết bằng quyền năng vô
hạn của mình, và dùng quyền năng đó để bảo vệ tình yêu của mình. Ngược
lại, những con người nhỏ bé trong truyện ngắn của Jack London thì hoàn
toàn không có thứ quyền năng nào cả, họ chỉ bằng tình yêu, đức hi sinh mà
cứu sống, giúp đỡ lẫn nhau, để cho người mình yêu được hạnh phúc.
Nhưng họ là những người hùng không phải như trong sử thi mà là những
người anh hùng trong cuộc đời thường, bởi chỉ có những người anh hùng
mới có thể sẵn sàng hi sinh hạnh phúc cá nhân, thậm chí hi sinh cả cuộc
đời vì hạnh phúc của người khác.
Cuộc xung đột giữa con người với con người còn là sự giành giật
cuộc sống của nhau, giành giật công sức lao động của người khác. Chuyện
Khe núi toàn vàng (All Gold Canyon) là một minh chứng. Người đàn ông
được người đọc biết đến với cái tên Bin. Anh ta đang có cuộc hành trình
vất vả đến với “Ngài hầu bao” – tức khe núi rất nhiều vàng mà may mắn
anh ta tìm được. Sự lạc quan, tự tin và trí tuệ đã giúp anh ta nhanh chóng
tìm được số vàng vô cùng trị giá. Nhưng khi anh ta đã tìm được số vàng đó,
thì bất ngờ anh ta bị tấn công bởi một kẻ lạ mặt. Bin bị hắn bắn từ sau lưng,
bị thương và đã tưởng như mình thất bại. Nhưng với nghị lực của một con
người dũng cảm, lạc quan, và sự tức giận, anh đã chiến đấu với kẻ lạ mặt
kia, và giết chết hắn. Qua câu chuyện trên, Jack London đã cho người đọc

21
thấy một cuộc sống khắc nghiệt không chỉ do thiên nhiên gây ra cho con
người mà do chính con người tạo ra để giành giật những thứ không thuộc
về mình. Đó là tính tham lam, lòng ích kỷ và sự tàn nhẫn mà cuộc sống tạo
ra cho con người. Đặt trong cùng một hoàn cảnh như vậy, mỗi con người
đã tự bộc lộ bản chất của mình.
Người đàn ông tên Bin trong Tình yêu cuộc sống đã tàn nhẫn bỏ rơi
bạn mình trong lúc nguy khốn, trong lúc mà bạn có thể chết vì cái chân bị
thương, không thể tự kiếm thức ăn và tìm đường về. Kẻ lạ mặt trong Khe
núi toàn vàng giết Bin để chiếm đoạt số vàng mà Bin đã vất vả, khổ công
mới tìm thấy. Mô tả những xung đột này, tác giả như cũng ngầm ám chỉ
một xã hội thiếu công bằng, tàn nhẫn và ác độc, mà những con người trong
xã hội đó cũng đang dần thoái hóa, biến chất, sống không còn tình người.
1.1.3. Xung đột giữa con người với xã hội
Với vai trò là nhà văn hiện thực, nhà văn “khuấy bùn”, Jack London
đã ca ngợi những con người thuộc tầng lớp xã hội thấp kém, xuất thân cơ
hàn nhưng có một tinh thần trong sáng, một nghị lực sống bất diệt, một
khát vọng vượt qua số phận, tìm kiếm sự đổi thay vô cùng mãnh liệt. Tất cả
họ đều nghèo khổ, mất tự do và sống cuộc sống đầy rẫy những bất công
của xã hội tư bản đương thời.
Người đàn bà sinh ban đêm (The Night Born), câu chuyện về một
người phụ nữ da trắng, chán ngán cảnh sống suốt ngày lao động vất vả,
không bao giờ có được tự do của những con người “sinh ra vào ban ngày”.
Và cô đã đi tìm tự do cho mình trong một bộ tộc người da đỏ, của những
người “sinh vào ban đêm”, để được sống chính là mình, được tự do giữa
thiên nhiên hoang dại. Người con gái mạnh mẽ và đầy cá tính này đã vượt
qua được những xung đột trong tâm lý để tự giải phóng mình, để thoát ra
khỏi cuộc đời mà cô cho rằng nó không thuộc về mình. Thế giới dành cho

22
cô là một thế giới rộng lớn ở ngoài kia, tránh xa khỏi những guồng quay
của công việc rửa bát, dọn dẹp quanh góc bếp tồi tàn.
“Sau khi đọc xong những dòng chữ đó, tôi chợt hiểu ra số phận của
tôi. Đúng là tôi đã sinh ra vào ban đêm… Vì thế tôi không thể quen
được với cuộc sống toàn những là nấu ăn với rửa bát, vì thế tôi chỉ
muốn để thân trần chạy nhảy dưới ánh trăng…”[42, tr.88]
Bằng nhiều cách xây dựng xung đột, xây dựng những sự mâu thuẫn
trong cuộc sống, trong suy nghĩ, nội tâm của nhân vật, Jack London đã đưa
người đọc đến với những bản anh hùng ca của con người và cuộc sống, bản
anh hùng ca ca ngợi những con người có khát vọng sống và bản năng sống bất
diệt. Con người trong mọi hoàn cảnh đều tìm ra cách khắc phục, thích nghi
với hoàn cảnh đó để sống, để được sống là chính mình, theo cách của mình.
Tính chất ngợi ca hoành tráng trong truyện ngắn Jack London ngoài
việc nói lên những sự mâu thuẫn đến tột độ, đến cao trào của những con
người cùng khổ trong xã hội tư bản với giai cấp tư bản đang ngày càng bộc
lộ những nhược điểm của nó… mà còn là việc ca ngợi những con người
hăng say lao động, hết mình trong lao động. Nhưng do họ sống trong một
xã hội mà sự công bằng và bình đẳng cùng những quyền của con người
đang bị tước bỏ nên họ dần trở nên “chết mòn” trong chính tình yêu lao
động, trong sự nghiệp và trong cuộc sống của chính họ.
Miếng bít tết (A Piece of Steak) là câu chuyện đau lòng của một võ
sỹ quyền Anh, đã từng thành công vang dội, từng nổi tiếng và giàu có, sống
sung sướng bằng nghề võ sỹ mà anh say mê, ham thích. Nhưng tuổi già
cùng với sự tiếp nối của thế hệ trẻ hơn, thành công hơn đã khiến anh gần
như không còn chỗ đứng trong nghề nghiệp của mình. Anh không còn
được chú ý nhiều trong các trận đánh, không còn được đặt cược nhiều đồng
nghĩa với việc anh không còn khả năng kiếm tiền và nuôi gia đình. Ước

23
mong duy nhất của anh trong trận đấu cuối cùng là kiếm đủ tiền để mua
một miếng bít tết, nhưng cuối cùng anh đã phải khóc khi để thua trên sân
đấu. Đến khi đó, anh mới ngậm ngùi thấu hiểu cảm giác bại trận của những
đối thủ anh thắng trước đây, hiểu được nỗi đau đến rơi nước mắt của họ.
“Anh cảm thấy yếu đi và đau đớn, những khớp xương ngón tay bị
giập nát đau buốt báo cho anh biết rằng, ngay cả khi tìm được việc
đào đất thuê, phải một tuần nữa thì anh mới có thể nắm được cán
cuốc, cán xẻng. Sự cùng khổ bao trùm lên con người anh, mắt anh
ươn ướt bất thường. Anh úp mặt vào hai bàn tay, và khi nức nở khóc,
anh nhớ đến Stowsher Bill, nhớ lại việc anh đã gây cho anh ta vào tối
đó, cách đây đã lâu lắm rồi. Anh bạn già Stowsher Bill đáng thương!
Lúc này, Tom King đã có thể hiểu lí do tại sao Bin đã phải khóc
trong buồng thay quần áo.”[40]
Cuộc sống lao động hết mình, hăng say và đầy mơ ước của cậu bé
John trong truyện ngắn Kẻ bỏ đạo (The Apostate) cũng không thể khiến cho
cậu bé có một tương lai tốt đẹp. Câu chuyện là lời ngợi ca cho một tình yêu
lao động dường như không gì ngăn cản được của cậu bé. Cuộc đời cậu là
chuỗi ngày lao động dài không ngừng nghỉ, từ khi 6, 7 tuổi đã trở thành lực
lượng nuôi sống gia đình chính, là cỗ máy làm việc để nuôi sống cả gia
đình. Nhưng trên hết, câu chuyện phê phán sự bóc lột sức lao động quá tàn
nhẫn của những người chủ, thậm chí đó là sức lao động của một đứa trẻ.
Chúng không để cho John có nổi một ngày nghỉ ngơi, và tận dụng tình yêu
lao động, sự say mê và sức lực non trẻ của cậu đế biến cậu trở thành một cỗ
máy làm việc tích cực nhất cho chúng. Đến khi quá mệt mỏi, John nằm trên
gường bệnh và tính lại khoảng thời gian mình phải đứng máy trong chừng
ấy thời gian, John mới thực sự giật mình, và thấy mình không còn chút sức
lực nào để làm việc nữa, rồi đi đến quyết định là ra đi để tự giải phóng

24
mình ra khỏi cuộc đời lao động nô lệ, cực khổ.
“Con mệt mỏi rã rời. Cái gì làm cho con mệt mỏi hả mẹ? Những
chuyển động! Con chuyển động ngay từ khi con mới lọt lòng. Con
chán cái chuyện chuyển động lắm rồi, nên con sẽ không chuyển động
nữa. Mẹ có nhớ thời kỳ con làm ở nhà máy thuỷ tinh không? Một
ngày con thường làm được ba trăm chiếc chai. Giờ con mới nhận ra
mỗi chai con làm mất mười động tác. Một tháng mất một triệu tám
mươi nghìn động tác. Cứ bỏ bẵng đi 80.000 động tác, – cậu nói
giọng có vẻ thỏa mãn, thương người. – Cứ trừ đi 80.000 động tác,
như vậy là chỉ còn một triệu động tác trong một tháng, mười hai triệu
động tác trong một năm”. [36]
Sự nhẫn tâm đến vô nhân tính và sự dởm hợm của bọn tư bản được
nhà văn nhận ra một cách rõ nét. Tất cả những trò đê tiện của chúng đều trở
thành đích ngắm của nhà văn, để thông qua cuộc đời của nhân vật, nhà văn
lật tẩy hết bộ mặt xấu xa của chúng. Lời nhận định của người viết trong
truyện ngắn Sóng lớn Kanaka như những lời tố cáo đanh thép và thẳng thắn
nhất về bản chất của chủ nghĩa tư bản đương thời.
“Họ không có khả năng nhìn nhận ra những người hoàn chỉnh hơn
họ ở nơi chân trời, đằng sau bình nguyên đơn điệu của cuộc sống bản
thân họ. Họ là những sinh vật tẻ nhạt, dư âm của quá khứ đã chết, là
những kẻ đào huyệt tự phong của hiện tại và tương lai… Do bản thân
họ cằn cỗi, do môi trường của họ và những cảm xúc tủn mủn của họ
què quặt và thô bỉ, họ quả quyết rằng không một anh đàn ông nào,
không một chị đàn bà nào vươn được lên trên sự què quặt và thô
bỉ… Bản thân họ chỉ là những ngọn nến leo lắt, và cặp mắt bạc
nhược của họ nhìn sao thấy nổi ngọn lửa chói loà trong tâm hồn
người khác, và đang chiếu sáng bầu trời của họ.”[42, tr.106]

25
1.2. Tính chất trang nghiêm từ ngôi kể
Trong văn học, trần thuật đóng vai trò quan trọng giúp người đọc
hiểu rõ được những vấn đề về cơ bản về thi pháp thể loại. Theo Từ điển
thuật ngữ văn học do nhóm Lê Bá Hán chủ biên: “trần thuật là phương diện
cơ bản của phương thức tự sự, là việc giới thiệu khái quát, thuyết minh,
miêu tả đối với nhân vật, sự kiện, hoàn cảnh, sự vật theo cách nhìn của
người trần thuật. Trần thuật không chỉ là lời kể mà còn bao hàm cả việc
miêu tả đối tượng, phân tích hoàn cảnh, thuật lại tiểu sử nhân vật, lời bình
luận, lời ghi chú của tác giả”.
Trần thuật là một phương thức nghệ thuật đặc trưng của tác phẩm tự
sự. Trong tiểu thuyết, trần thuật tập trung vào số phận một hoặc nhiều cá
nhân trong quá trình hình thành và phát triển của nó, sự trần thuật ở đây
được triển khai trong không gian và thời gian nghệ thuật đến mức đủ để
truyền đạt cơ cấu của nhân cách. Với đặc điểm đó, trần thuật trong tiểu
thuyết là một phương diện thi pháp đặc trưng của thể loại. Trần thuật tồn
tại với nội dung trần thuật và hình thức trần thuật.
Ở góc độ trần thuật mang tính trang nghiêm của sử thi, đề tài đã khai
thác ở một số khía cạnh như tính trang nghiêm từ ngôi kể và giọng điệu sử
thi hoành tráng.
Ngôn ngữ trần thuật do vậy là nơi bộc lộ ý thức sử dụng ngôn ngữ có
chủ ý của nhà văn, bộc lộ “cách lý giải cuộc sống từ cách nhìn riêng và cá
tính sáng tạo của tác giả.” Trong trần thuật, khía cạnh người trần thuật đóng
vai trò hết sức quan trọng. Người trần thuật với ngôi kể thứ nhất hay thứ ba
đều mang những dụng ý nghệ thuật của tác giả, từ đó, nêu bật lên những
vấn đề tác giả muốn khẳng định trong truyện của mình. Jack London cũng
đã khai thác triệt để nghệ thuật trần thuật nhằm nhấn mạnh tính sử thi hùng
tráng trong các truyện ngắn phiêu lưu của ông. Tính sử thi do đó được làm

26
nổi bật và dụng ý của nhà văn cũng được người đọc dễ dàng nhận thấy.
Cũng chính lý do đó mà tác phẩm của Jack London gần gũi, dễ tiếp cận với
người đọc, khiến người đọc bị hấp dẫn và thu hút bởi những câu chuyện ký
thú, ly kỳ những cũng đậm chất nhân văn.
Trong sử thi, lời trần thuật của người kể chuyện hết sức quan trọng.
Lời trần thuật của người kể chuyện trong sử thi Đăm Xăn (có người gọi là
Đam san hay Đam Xăn) được triển khai xen vào những lời đối thoại của
nhân vật. Nó có chức năng dàn dựng câu chuyện, tường thuật hành động và
biến cố trong cuộc đời nhân vật. Lời trần thuật của người kể chuyện thường
được dùng để kết thúc một đoạn, một phần nào đó của truyện. Người kể
thường tỏ thái độ của mình đối với nhân vật anh hùng nên trong sử thi khan
có loại ngôn ngữ bình giá: “Thật chưa thấy một tù trưởng nào như chàng
cả” (Đỗ Hồng Kì, Phương thức tự sự chủ yếu của sử thi Đam San, Tự sự
học…, tr.221–222).
Đưa lời trần thuật mang tính sử thi đó vào văn chương hiện đại,
nhiều nhà văn đã tạo ra được một phong cách mới, mang một dụng ý nghệ
thuật rất lớn nhằm gửi gắm những suy nghĩ của nhà văn đến người đọc.
Tính sử thi trong trần thuật ở truyện ngắn Rừng xà nu được thể hiện qua
việc miêu tả các sự kiện, các nhân vật anh hùng từ một cái nhìn chiêm
ngưỡng, khâm phục. Các chi tiết đời thường ít được nhắc tới. Nhà văn chỉ
tâm đắc với những chi tiết nào có khả năng làm phát lộ được phẩm chất anh
hùng của nhân vật. Tả cụ Mết, nhà văn chú ý tới giọng nói “ồ ồ dội vang
trong lồng ngực” của cụ. Tưởng như trong tiếng cụ nói có âm vang của
tiếng cồng, tiếng chiêng, tiếng của núi rừng, của lịch sử. Và quả thật, cụ là
hình ảnh tượng trưng của truyền thống vững bền. Mỗi lời cụ thốt ra là kết
tinh trải nghiệm của cả một dân tộc. Nó cô đúc, sâu sắc, vang vọng như
những chân lí. Chả thế mà cả làng Xô Man nghe như uống từng lời cụ nói

27
và cả rừng xà nu cũng “ào ào rung động” như một sự hoà điệu, một sự tạo
nền. Ngay cuộc đời của Tnú, một cuộc đời trải ra trong chính thời hiện tại
cũng đã được lịch sử hoá và nhuốm màu huyền thoại. Đêm đêm bên bếp
lửa nhà ưng, cụ Mết đã kể chuyện anh cho lũ làng, cho thế hệ con cháu
nghe. Anh đã trở thành niềm tự hào của làng, là một biểu tượng sống động
của người anh hùng được tất cả ngưỡng vọng, học tập.
Với Jack London, việc thể hiện thành công những nhân vật người
anh hùng không thể không kể đến sự thành công của yếu tố người kể
chuyện, yếu tố ngôi kể. Trong các truyện ngắn của ông, nhân vật người anh
hùng lúc được kể ở ngôi thứ ba bằng ánh mắt ngưỡng vọng, khâm phục, ca
ngợi, lúc được kể ở ngôi thứ nhất với cái nhìn chiêm nghiệm, đầy tâm
trạng, cảm xúc và để lại những bài học quý giá trên những chặng đường
phiêu lưu.
1.2.1. Tính trang nghiêm của người kể chuyện ở ngôi thứ ba
Ngôi kể thứ ba dưới hình thức người kể chuyện (do tác giả sáng tạo
ra) là lời trần thuật mang tính khách quan hoá và trung tính. Người trần
thuật được chứng kiến câu chuyện và có khả năng kể lại toàn bộ câu
chuyện theo cách riêng của mình. Lời trần thuật ở đây còn có nhiệm vụ tái
hiện và phân tích, lý giải thế giới khách quan, sự việc, con người…; tái
hiện và phân tích, lý giải lời nói ý thức người khác. Theo Bakhtin, lời văn
trần thuật gián tiếp này (khác với lời văn trực tiếp của nhân vật) có thể chia
làm hai loại: loại thứ nhất là gián tiếp một giọng, là lời trần thuật tái hiện,
phẩm bình các hiện tượng của thế giới trong ý nghĩ khách quan vốn có của
chúng. Loại thứ hai là lời gián tiếp hai giọng, là lời trần thuật có hấp thu lời
nhân vật, tức là trong phát ngôn của người trần thuật cùng lúc có thể có cả
lời trực tiếp hay những suy tư gián tiếp của nhân vật, nó thể hiện sự đối
thoại với ý thức khác của cùng một đối tượng miêu tả. Loại thứ hai này cho

28
phép tác giả di chuyển “điểm nhìn” trần thuật và tạo nên tính chất đa thanh
trong ngôn ngữ trần thuật, ngôn ngữ truyện.
Trong các câu chuyện của mình, Jack London để các nhân vật của
ông được miêu tả và kể bằng người kể ở ngôi thứ ba với điểm nhìn toàn tri,
điểm nhìn từ bên ngoài của nhân vật “biết tuốt” hết tất cả mọi việc của
nhân vật. Nên như sử thi, hình tượng người anh hùng được hiện lên bằng ánh
mắt của sự ca ngợi, ngưỡng mộ. Bằng việc sử dụng ngôi kể thứ ba với cái
nhìn toàn tri, cái nhìn của người đứng ngoài cuộc kể lại câu chuyện một cách
hoàn khách quan, đánh giá vấn đề một cách trung thực. Trước hết, những
nhân vật trong truyện ngắn Jack London được người kể ở ngôi thứ ba miêu
tả về hình dáng, tầm vóc như những người hùng sử thi: có vẻ đẹp hình thể
tuyệt mĩ; khỏe mạnh, cường tráng, dũng cảm và có khí phách kiên cường.
Miêu tả vẻ đẹp của nhân vậy Ida Barton trong truyện ngắn Sóng lớn
Kanaka, nhân vật người kể chuyện đứng ở ngoài với cái nhìn toàn tri, biết
tất cả mọi việc của nhân vật từ quá khứ đến hiện tại. Điều đặc biệt của nhân
vật Ida gây thu hút người đọc chính ở vẻ đẹp của một cơ thể toàn mĩ,
một con người thích vượt qua thử thách sóng lớn của biển cả, và một
người phụ nữ yêu chồng hết mực. Vẻ đẹp ngoại hình của Ida được miêu
tả qua lời của những nhân vật khác trong truyện, và qua lời kể của
những nhân vật này, hình tượng người phụ nữ đẹp, dũng cảm hiện lên
một cách rạng ngời, rõ nét hơn.
“ – Ôi, lạy vị thánh bảo hộ nghệ thuật và bảo hộ các cô gái đẹp làm
mẫu cho các họa sỹ! Bà nhìn kìa, bà đã thấy một cô gái nào có đôi
giò tuyệt diệu đến mức kia bao giờ chưa? Thon, chắc và cân đối kỳ
lạ! Như hệt chân con trai vậy! Tôi chỉ mới được thấy một đôi giò
như thế của một tay võ sỹ hạng nhẹ trên võ đài quyền anh. Nhưng
đây lại là đôi giò thuần túy của phái nữ! Vì chân phụ nữ có cái dáng

29
khác hẳn chân đàn ông. Kia kìa, đường cong phía trước của bắp đùi
và ở phía sau lượn tròn vừa đủ mức cần thiết. Rồi hai đường cong ấy
chụm lại chỗ đầu gối. Mà cái đầu gối mới đẹp làm sao! Tiếc mình
không có sẵn đất sét ở đây mà nặn.” [42, tr. 100,101].
Với việc miêu tả nhân vật ở ngôi thứ ba, Jack London đã để nhân vật
toát lên vẻ đẹp của mình qua con mắt nhận xét khách quan của người ngoài
cuộc. Nhân vật do vậy, được ca ngợi, được thán phục như đúng những gì
nhân vật thể hiện, đúng hiện thực khách quan vốn có. Jack London qua đó
cũng nêu rõ vai trò của ngôn ngữ nhân vật trong truyện. Những lời ca ngợi
Ida Barton cho dù qua lời nhận xét ngưỡng mộ của những người đàn ông,
hay sự ghen tị của những người đàn bà ở vùng đất Vaikiki đều từ những
phát ngôn của nhân vật thể hiện ra. Đó thực chất vẫn là lời của người kể
chuyện ở ngôi thứ ba, nhưng được trần thuật ở ngôi thứ nhất, xưng tôi, và
đó là cách tác giả thông qua nhân vật nói lên suy nghĩ của chính mình.
Trong phát ngôn của người trần thuật ở ngôi thứ 3 cùng lúc có thể có
cả lời trực tiếp hay những suy tư gián tiếp của nhân vật, nó thể hiện sự đối
thoại với ý thức khác của cùng một đối tượng miêu tả. Hình thức phát ngôn
này cho phép tác giả di chuyển “điểm nhìn” trần thuật và tạo nên tính chất
đa thanh trong ngôn ngữ trần thuật, ngôn ngữ tiểu thuyết. Người thuyền
trưởng trong Sóng lớn Kanaka đôi khi trực tiếp “nói” những suy nghĩ của
mình, nhưng đôi khi được người kể ở ngôi thứ ba “nói hộ” những suy nghĩ
đó, nhằm tăng sự khách quan trong một truyện ngắn mang đầy chất sử thi.
“Tại sao, viên thuyền trưởng tự hỏi, tại sao họ không lặn từ trước
xuống sâu hơn một chút, mà lại dại dột đón đợi cái giây phút an toàn
cuối cùng biến thành giây phút đầu tiên của nỗi hiểm nguy chết
người kia? Ông nhìn thấy chị phụ nữ vừa cười vừa quay mặt sang
bên phía anh đàn ông và anh chàng này cũng cười vang đáp lại.”

30
Như vậy, việc miêu tả nhân vật ở ngôi thứ ba với những hình thức
trần thuật khác nhau đã đem lại những hiệu ứng rất giá trị cho truyện.
Người đọc đã được tiếp cận với nhân vật ở nhiều góc độ khách quan, cho
thấy rõ tính sử thi trong truyện là rất rõ nét. Những nhân vật của Jack
London trở thành những người anh hùng vô cùng đáng ngưỡng mộ, đáng
khâm phục và không phải ai cũng dễ dàng làm được những điều phi thường
như họ.
Trong truyện ngắn Ngôi nhà của Mapuhi, cách trần thuật sử dụng
điểm nhìn toàn tri đã cho người đọc thấy sự độc ác, dữ tợn của cơn bão
biển, gây nên sự chết chóc trên đảo san hô.
“Chiếc Aorai đang nằm tê liệt cách bờ khoảng chừng một dặm, bị đầy
đọa bởi thứ mặt biển độc ác, điên cuồng. Gió thổi theo hướng đông
bắc, như giận dữ chỉ muốn bứt nó khỏi các dây neo, ném nó tan tành
vào các bờ đá san hô”. [43, tr.259]
1.2.2. Tính chân thực của người kể chuyện ở ngôi thứ nhất
Trong trường hợp tác giả đóng vai trò người trần thuật, tác phẩm có
nhân vật kể chuyện ở ngôi thứ nhất (first person), xưng “tôi”. Điều này dễ
nhận thấy ở các tác phẩm tự truyện hoặc có dáng dấp tự truyện. Theo nhà
nghiên cứu Lê Nguyên Cẩn, việc sử dụng ngôi thứ nhất trong tự truyện ở
các tác phẩm văn học thế kỷ XVIII ở phương Tây không phải là sự sử dụng
tùy hứng hay ngẫu nhiên mà nó mang tính lịch sử, gắn liền với nhu cầu
khách quan của thời đại. Đó là yêu cầu các truyện phải là truyện kể về sự
thật. Tác phẩm tự sự trở thành bản anh hùng ca đầy tính chủ quan, trong đó
tác giả tự cho mình cái quyền được lý giải thế giới ấy theo cách của nó, cái
chủ thể chủ quan nổi bật lên thu hút sự chú ý của mọi người. Đó chính là
câu chuyện được viết bởi chính những người đã từng sống trong cuộc đời
ấy. Đây là điều kiện để thể loại hồi ức phát triển mạnh, dẫn đến sự xuất

31
hiện của thể loại tự truyện hay dấu ấn của tự truyện trong tiểu thuyết.
Ở Việt Nam, tiểu thuyết có nhân vật trần thuật ở ngôi thứ nhất xuất
hiện vào cuối thế kỷ XIX. Đó là tiểu thuyết Truyện Thầy Lazaro Phiền
(1887) của Nguyễn Trọng Quản. Tác phẩm có hình thức “truyện trong
truyện.” Thầy Lazaro Phiền đã thú nhận tội lỗi giết vợ, giết bạn của mình
cho một người bạn đồng hành và nhân vật này lại trở thành người trần
thuật. Nhân vật người kể chuyện ở đây được thể hiện ở ngôi thứ nhất.
Với việc trần thuật ở ngôi thứ nhất, tác giả đã viết về những điều
mình đã trải qua, đã chứng kiến và nếm trải, chiêm nghiệm. Và tất nhiên,
với tính chất hư cấu của tiểu thuyết, “tôi” không hẳn là tác giả mà chỉ là
một nhân vật của truyện. Lời trần thuật ở đây vừa là ngôn ngữ trần thuật
của tác giả vừa là ngôn ngữ trần thuật của nhân vật, tức vừa là lời trực tiếp,
vừa là lời gián tiếp (của nhân vật).
Người kể chuyện xưng tôi trong Kẻ vô tín ngưỡng (The Heathen) đã
kể lại câu chuyện của mình một cách hoàn toàn chủ quan.
“Chúng tôi gặp nhau trong giây phút hiểm nghèo của một trận phong
ba, và lìa nhau trong hàm răng của một con cá mập, sau mười bảy
năm chung sống trong tình bạn, một tình bạn mà tôi dám quả quyết
không bao giờ có thể có giữa hai người, một đen, một trắng! Nếu
Thượng Đế từ trên ngôi chí tôn nhìn xuống mỗi sinh vật tử biệt, thì ít
ra Otoo cũng được gọi về hầu nơi Thiên Đàng của người – Otoo, một
kẻ vô thần ở Borabora”. [45]
Việc kể lại câu chuyện một cách chủ quan của lời kể ở ngôi thứ nhất
kiến câu chuyện có những nhận định và đánh giá riêng của mỗi nhân vật.
Đó là những câu chuyện cụ thể mà mỗi nhân vật trải qua, nay chiêm
nghiệm lại, rút ra những bài học quý giá, những kết luận mà phải trải qua
một cuộc hành trình dài đầy gian khó họ mới nhận ra được, như trong

32
truyện Kẻ vô tín ngưỡng, đó là bài học của tình bạn vô biên giới giữa một
người da đen và một người da trắng, đến mức con người có thể sẵn sàng hi
sinh cho một người đã coi mình như bạn.
Miêu tả Lucy trong truyện ngắn Người đàn bà sinh đêm, người kể ở
ngôi thứ nhất kể lại một câu chuyện về một người phụ nữ da trắng khát
khao cuộc sống tự do, khát khao sống với tự nhiên hoang dã. Trong đó,
truyện còn lồng thêm lời của nhân vật cũng xưng tôi (ngôi thứ nhất), để cho
nhân vật tự kể lại câu chuyện của mình. Cách kể chuyện đó không xa lạ
trong văn học nhưng luôn đem lại dụng ý nghệ thuật rất đặc sắc. Câu
chuyện biến thành lời tự thuật của chính người phụ nữ da trắng, kể lại cuộc
đời và nói lên khát vọng của mình một cách hoàn toàn tự nhiên, chủ quan.
“Sau khi đọc xong những dòng chữ đó, tôi chợt hiểu ra số phận của
tôi. Đúng là tôi đã sinh ra vào ban đêm… Vì thế tôi không thể quen
được với cuộc sống toàn những là nấu ăn với rửa bát, vì thế tôi chỉ
muốn để thân trần chạy nhảy dưới ánh trăng…” [42, tr.89]
Như vậy, khác với cách kể chuyện trong sử thi là sử thi thường được
kể qua lời kể ở ngôi thứ ba, luôn luôn có người kể chuyện và vai trò của
người kể chuyện hết sức quan trọng, thì ở truyện ngắn Jack London, những
người anh hùng hiện lên ngoài việc thông qua những lời kể, còn là sự tự thể
hiện bản thân. Bản chất của những con người mang tầm vóc của người anh
hùng này được thể hiện qua chính ý chí và nghị lực sống của họ, qua cách
mà họ cố gắng để vượt qua khó khăn, vượt qua cái chết, vượt qua chính bản
thân mình để tìm kiếm một cuộc sống tốt đẹp hơn.
Với việc sử dụng ngôi kể thứ nhất, con người có thể thể hiện nội tâm
của mình. Điều này làm cho con người trong truyện ngắn của Jack London
ở khía cạnh nhất định trở thành con người tâm trạng. Con người của Jack
London biết dự cảm, biết yêu, thèm sống và có hi vọng sống mãnh liệt.

33
Trong truyện Theo hướng những mặt trời giả tạo, nhân vật người dẫn
đường xưng tôi kể lại hành trình gian nan trong bão tuyết của anh và những
người cùng đoàn. Tuyết trắng và gió bão đang khắc nghiệt như đang muốn
giết chết con người, và con người trong hoàn cảnh đó chỉ có thứ sức mạnh
duy nhất đế sống sót, đó là lòng kiên định và ý chí sống kiên cường. Họ
liên tục động viên nhau, động viên mình “đi tiếp” để về được đích.
“Tôi cũng nói “Đi tiếp!”, bởi vì cái ý nghĩ ấy quất vào tôi như ngọn roi
trên mỗi dặm đường, trên quãng đường dài ngàn rưởi dặm và đã hằn
sâu vào óc khiến cho tôi hình như cũng trở thành kẻ mất trí. Vả lại
chúng tôi cũng chẳng còn có thể làm gì khác ngoài việc tiếp tục đi”
[43, tr.76]
Như vậy, đọc truyện ngắn Jack London, người đọc thấy được sự lôi
cuốn, lý thú với cách sử dụng ngôi kể một cách sáng tạo, linh hoạt trong
việc xây dựng những người anh hùng mang chất sử thi vô cùng đẹp đẽ.
1.3.3. Giọng điệu sử thi hoành tráng
Theo Từ điển thuật ngữ văn học, giọng điệu là “thái độ, tình cảm, lập
trường, đạo đức của nhà văn với hiện tượng được miêu tả thể hiện trong lời
văn quy định cách xưng hô, gọi tên, dùng từ, sắc điệu tình cảm, cách cảm
thụ xa gần, thành kính hay suồng sã, ngợi ca hay châm biếm”… Giọng điệu
là một yếu tố đặc trưng của hình tượng tác giả trong tác phẩm. Nếu như
trong đời sống, ta thường chỉ nghe giọng nói nhận ra con người thì trong
văn học, giọng điệu giúp chúng ta nhận ra tác giả. Người đọc có thể nhận
thấy tất cả các chiều sâu tư tưởng, thái độ, vị thế, phong cách, tài năng cũng
như sở trường ngôn ngữ, cảm hứng sáng tạo của người nghệ sĩ thông qua
giọng điệu. Nền tảng của giọng điệu là cảm hứng chủ đạo của nhà văn.
Trong khi trần thuật, tác giả sử dụng nhiều giọng điệu, nhiều sắc thái trên
cơ sở một giọng điệu cơ bản chủ đạo, chứ không đơn điệu.

34
Nếu trong văn học Việt Nam, người đọc sẽ nhận thấy những giọng
điệu khác nhau của các tác giả như chất châm biếm, hài hước trong văn
Nguyễn Công Hoan, Vũ Trọng Phụng; chất triết lý trong các tác phẩm của
Nguyễn Khải; chất dung tục, đời thường trong các tác phẩm của Chu Lai (Ăn
mày dĩ vãng, Phố…),… thì đến văn học Mỹ, người đọc sẽ được cảm nhận
giọng văn hào sảng, đầy chất phiêu lưu và mang đậm màu sắc của anh hùng
ca trong các truyện ngắn Jack London. Tuy khai thác giọng điệu không quá
mới mẻ, nhưng Jack London đã tạo ra cái riêng trong phong cách của mình,
đó là những con người phi thường, là những hành động phi thường cùng
nghị lực vượt qua chính mình, chiến thắng mọi khó khăn để được sống.
Giọng điệu đó thể hiện từ cách miêu tả thiên nhiên đáng sợ và vô
cùng dữ tợn: “Con người là cái phần nhỏ duy nhất của sự sống còn sót lại
đang chuyển động giữa một sa mạc chết trắng buốt… Xung quanh là một
sự im lặng đến rùng rợn – không một tiếng động nhỏ nào trong khu rừng bị
tuyết ngập trắng. Cái lạnh và sự im lặng làm đông giá trái tim và cặp môi
run run của thiên nhiên.” [42, tr.10, 11]; đến việc miêu tả con người vượt
qua thử thách khắc nghiệt của thiên nhiên để sống sót trở về: “Họ nhìn thấy
một cái gì đó còn sống nhưng khó có thể gọi là con người. Nó lòa lẫm,
không ý thức. Nó oằn oại trên mặt đất như một con sâu kỳ quái. Phần lớn
những cố gắng của nó đều vô hiệu. Nhưng nó bền bỉ, và nó vặn mình, nó
quằn quại và mỗi giờ có lẽ tiến lên được năm sáu mét” [42, tr.44]; Từ việc
miêu tả xã hội tàn tạ, thối nát, chà đạp một cách nhẫn tâm lên sự sống, lên
quyền sống của con người đến cách con người cố vùng dậy, quẫy đạp để
thoát ra khỏi cuộc sống tù túng, đen tối đó.
Giọng điệu là một yếu tố hình thức quan trọng để chuyển tải lập
trường, tư tưởng, tình cảm và quan niệm sáng tác của tác giả. Giọng điệu
thể hiện rất rõ phong cách riêng của người nghệ sĩ và đặc biệt tạo nên sự

35
truyền cảm cho độc giả. Bằng giọng điệu sử thi hùng tráng, Jack London cho
người đọc thấy được dáng đứng hiên ngang của người tìm vàng không có tên
trong Khe núi toàn vàng khi anh bị lén từ phía sau lưng và đứng dậy trừng trị
kẻ đã định giết mình; thấy được nghị lực sống và sự bình thản trước đòn tấn
công bất ngờ của đồng loại, nhưng trong hoàn cảnh đó lại là kẻ thù: “Một
phường kẻ cắp như bao nhiêu thằng khác, thật đáng nguyền rủa. Mà nó còn
bắn vào lưng ta nữa chứ! Bắn vào lưng tao nữa chứ!” [42, tr.301].
Cũng bằng giọng điệu sử thi, người đọc được thấy những con người
có sức lực phi thường, dám thử thách với thiên nhiên, dám lao vào những
nơi nguy hiểm để đạt được mục đích của mình như Mapuhi lao vào lòng
đại dương để tìm đường về nhà; Charlies cùng anh đàn ông và chị đàn bà
trong Hướng theo những mặt trời giả tạo cũng đã mạo hiểm tính mạng, đi
vào vùng băng tuyết đầy chết chóc để tìm kiếm cho được thứ mà họ khát
khao tìm kiếm: “Một bức tranh kỳ lạ! Chung quanh tuyết trắng xóa, ở giữa
có một người đàn ông và một người đàn bà đang lặng lẽ bò. Phía trước họ
là kẻ lạ mặt. Hai bên mặt trời thật là hai mặt trời giả, ảo ảnh. Nghĩa là trên
trời có cùng một lúc những ba mặt trời.” [42, tr.301]… Đó còn là cái chết
đầy hiên ngang và đáng khâm phục của người đàn ông trong Nhóm lửa, đã
tự tìm cho mình một chỗ trên tuyết và “ngủ” rồi không bao giờ dậy; Koolau
hủi cũng chết một cách thanh thản bởi ông đã được sống cuộc đời tự do, và
giờ cũng chết với sự tự do xâm chiếm tâm hồn. Bằng giọng điệu hùng hồn
đó, Jack London đã ngầm ngợi ca những con người dù thất bại hay chiến
thắng thiên nhiên, xã hội. Bởi những con người đó đã biết sống hết mình,
sống một cách nhiệt huyết nhất bằng cả trái tim và tâm hồn yêu cuộc sống,
biết từ bỏ mọi thứ để được sống cuộc sống của mình như nàng Lucy trong
Người đàn bà sinh đêm; biết giải thoát ra khỏi cuộc sống lao động cực
nhọc, nô lệ để tìm đến chân trời tự do như John trong Kẻ bỏ đạo.

36
TIỂU KẾT
Những vấn đề chúng tôi xem xét ở chương này nhằm thể hiện một
cách rõ nét nhất tính sử thi trong truyện ngắn Jack London. Tính sử thi
hoành tráng đó trước hết thể hiện ở cảm hứng ngợi ca những con người anh
hùng, mà trong tác phẩm là những con người biết chiến đấu để vượt qua
khó khăn, thử thách trên con người chinh phục thiên nhiên hoang dã. Tiếp
đó là những xung đột hoành tráng được đẩy đến cao trào, tạo điều kiện cho
nhân vật thể hiện một cách trọn vẹn nhất phẩm chất “anh hùng” trong con
người mình, là những con người mang ý chí và nghị lực phi thường, cùng
với tình yêu và khát khao sống vô cùng mạnh mẽ. Kết hợp với việc sử dụng
ngôi kể thứ ba khách quan và ngôi kể thứ nhất chủ quan nhằm thể hiện cá
tính riêng của nhân vật, những suy nghĩ và nhận định của nhân vật giúp cho
người đọc hiểu rõ hơn những xung đột trong trong tác phẩm; giữa một bên
là thiên nhiên dữ dội, rộng lớn đến rợn ngợp và một bên là con người đơn
lẻ, nhỏ bé nhưng tinh thần vững vàng, sẵn sàng chiến đấu để chiến thắng…
Chúng tôi cũng đã khai thác được giọng kể mang tính chất sử thi, nhằm
giúp cho tác phẩm mang màu sắc sử thi một cách trọn vẹn hơn, đặc sắc
hơn. Đó là giọng văn hào sảng, đầy chất phiêu lưu và mang đậm màu sắc
của anh hùng ca trong các truyện ngắn, mặc dù khai thác giọng điệu không
quá mới mẻ những cũng đã tạo ra một phong cách rất đặc trưng của Jack
London.

37
CHƢƠNG 2

HÌNH TƢỢNG CON NGƢỜI SỬ THI

Nhân vật trung tâm của sử thi là nhân vật anh hùng. Trong sử thi,
nhân vật anh hùng đại diện cho toàn thể cộng đồng về mọi phương diện.
Nội dung ấy khiến cho hình tượng người anh hùng sử thi có ý nghĩa biểu
tượng cao hơn. Phẩm chất cao quý của nhân vật là lòng dũng cảm xả thân
vì cộng đồng trong việc chiến đấu chống kẻ thù và chinh phục thiên nhiên.
Con người anh hùng có vẻ đẹp cường tráng của thể chất. Nhân vật anh
hùng là hiện thân của ý chí và sức mạnh cộng đồng. Đó là hình tượng khái
quát hóa, lý tưởng hóa nhưng cũng mang đậm tính cá thể. Biện pháp khái
quát hoá, lý tưởng hoá được sử dụng triệt để trong việc xây dựng nhân vật
sử thi. Theo Phan Đăng Nhật thì đó là “Phương pháp khái quát hiện thực
theo tổng loại, một phương pháp phổ biến của Folklore, khác với phương
pháp điển hình hoá cá thể là phương pháp của chủ nghĩa hiện thực trong
văn học nghệ thuật thời cận hiện đại” (Sử thi ÊĐê, tr.218). Sử thi không
quan tâm xây dựng một nhân vật cụ thể đời thường và xây dựng một kiểu
mẫu nhân vật: nhân vật anh hùng trong chiến tranh giành lại vợ, nhân vật
anh hùng trong đòi nợ và trả thù, nhân vật anh hùng trong hôn nhân. Đặc
điểm chung của nhân vật anh hùng: đẹp đẽ, oai hùng, giàu sang, dũng cảm,
bách chiến bách thắng. Tính kỳ vĩ, hào hùng là đặc trưng của nhân vật anh
hùng. Nhân vật có hành động phi thường, kỳ diệu. Ngoài những việc làm
đời thường thì con người anh hùng được dân gian tô vẽ lên những kỳ tích
mà người thường khó lòng làm được như chặt cây thần linh, chinh phục
thần mặt trời trong sử thi Đam Xăn.
Nhân vật anh hùng luôn hiện diện với tổng hoà các sức mạnh về vật
chất lẫn tinh thần. Những vẻ đẹp đó lúc đầu thì siêu phàm, kì vĩ, phi thường

38
nhưng về sau thì bình dị, bình thường và gần gũi. Người anh hùng sử thi
luôn được nhìn nhận, đánh giá, ngợi ca với niềm tôn kính thiêng liêng.
Nhân vật nữ tuy thường không phải là nhân vật chính trong sử thi
anh hùng nhưng có vai trò quan trọng trong sự phát triển cốt truyện. Họ là
những cô gái đẹp, giàu sang, nắm quyền quyết định kinh tế và quyền lực
trong gia đình. Người đàn ông lý tưởng của họ là những chàng trai tài giỏi,
người anh hùng, và họ góp phần làm cho người anh hùng trở nên có quyền
lực và giàu sang. Họ là nguyên nhân của các cuộc chiến tranh giữa các bộ
tộc vì phần lớn các cuộc chiến tranh giữa các tù trưởng đều nhằm mục đích
cướp người đẹp và giành lấy người đẹp bị cướp. Người anh hùng nào
chiếm được người đẹp thì có quyền lực và giàu sang.
Trong sử thi Ấn Độ, Ramayana ngợi ca chiến công và đạo đức của
hoàng tử Rama – một nhân vật lý tưởng, là khát vọng của nhân dân về một
vị minh quân, một anh hùng tài ba, đức độ, đem lại hạnh phúc cho xã hội
và nhân dân. Sử thi Tây Nguyên (Việt Nam) thường ca ngợi người anh
hùng chiến đấu để bảo vệ cuộc sống yên lành cho buôn làng. Khi chiến
thắng, buôn làng của người anh hùng trở nên giàu có, cường thịnh hơn.
Con người trong sử thi là những người anh hùng, những người có
sức mạnh, là những tráng sĩ thể hiện ý chí, tư tưởng, tình cảm, khả năng
của cộng đồng thời đại đó. Người anh hùng sử thi sẽ là người đại diện cho
sức mạnh của dân tộc, cho sự phát triển của thời đại. Khi đó, họ đã ý thức
được sức mạnh và tài năng của mình, thấy được những thắng lợi của mình,
muốn ghi nhận chúng, và họ gán cho một vị anh hùng để họ tôn thờ, để sợ
hãi và để phục tùng tuyệt đối. Bởi thế, mọi hành động của người anh hùng
sẽ phù hợp với ý nguyện và quyền lợi của tập thể trong công cuộc chinh
phục tự nhiên và xây dựng cuộc sống cộng đồng. Cũng bởi thế, người anh
hùng sử thi được phóng đại, được quan trọng hoá lên rất nhiều nhằm tạo

39
hiệu ứng tích cực từ phía người phục tùng. Các nhân vật anh hùng trong sử
thi có sự gắn kết cộng đồng rất lớn. Thành công của người anh hùng không
thể không có sự góp sức của cộng đồng. Vì vậy, vai trò của quần chúng
trong các tác phấm sử thi là không thể chối bỏ.
Cách xây dựng nhân vật anh hùng trong sử thi ngay từ khi xuất hiện
đã có một địa vị xã hội khác hẳn, họ là con, cháu của thần linh, con cháu
của những tù trưởng, thủ lĩnh của cộng đồng trước đây. Ví dụ nhân vật
Đăm San, Xinh Nhã, Kinh Dú trong những tác phẩm cùng tên. Nhân vật
anh hùng đẹp toàn diện. Người anh hùng trước tiên phải là người đẹp, đẹp
về hình thức, trang phục. Sử thi rất chú trọng miêu tả chân dung, trang phục
nhân vật. Nhân vật anh hùng đã chứng tỏ được: trời cho cái giàu, thần cho
cái sang. Chân dung của họ luôn là chân dung cường tráng, cân đối, hài
hòa. Trang phục của nhân vật luôn thỏa mãn hai yêu cầu: yêu cầu đẹp, đa
dạng, kiểu cách, nhiều màu sắc; biểu hiện sức mạnh, sự giàu sang, tỏ rõ
một trang tù trưởng giàu mạnh. Sức mạnh nhân vật trong sử thi là người có
sức mạnh phi thường. Hành động của nhân vật trong giao tranh đều là
những hành động anh hùng. Nhân vật được đưa vào những biến cố thể hiện
tính cách, ở đây nhân vật cũng luôn được so sánh với những nhân vật
phản diện, so sánh về chân dung, sức mạnh, tính cách. Tất cả mọi hành
động trong nhân vật đều được chứng tỏ, ước mơ cho cộng đồng mạnh
lên, uy tín của cộng đồng vang dội.
2.1. Ngƣời anh hùng đơn độc trong truyện ngắn Jack London
Jack London là một nhà văn phải chịu một tuổi thơ không may mắn
khi phải lao động quần quật để kiếm sống, để kiếm tiền học. Chính cuộc
sống lao động vất vả khiến Jack London biết trân trọng, thương yêu những
con người lao động vất vả, biết cảm thông và luôn có tư tưởng đấu tranh
dành lại sự công bằng và quyền sống cho những con người lao khổ đó.

40
Cũng chính những năm tháng nghèo khổ, vất vả và bươn chải kiếm sống đã
đúc kết nên niềm đam mê với những cuộc phiêu lưu mạo hiểm. Có lẽ cũng
vì vậy, trong các tác phẩm của Jack London luôn luôn là những cuộc phiêu
lưu, luôn đặt nhân vật trong những hiểm nguy, phải đối mặt với những khó
khăn, thậm chí là những nguy hiểm đe dọa đến tính mạng, để nhân vật thể
hiện được bản tính, những tính cách đẹp đẽ của họ. Thậm chí, chính bản
thân Jack London cũng đã từng tham gia vào cuộc tìm kiếm vàng với khát
vọng đổi đời, thoát khỏi cuộc sống bần hàn, cơ cực như hàng ngàn người
dân Hoa Kỳ vào thời điểm đó. Nhưng Jack London đã thất bại cay đắng và
trở về mà không một xu dính túi. Tuy nhiên, cái mà tác giả của dòng văn
học hiện thực này thu được chính là những bài học đường đường quý báu,
những trải nghiệm bằng chính mồ hôi nước mắt… tất cả tích lũy lại thành
kho tư liệu đầy giá trị và những nguồn cảm hứng bất tận để Jack London
viết nên những trang sách về Klondike xa xôi. Vùng đất này bỗng đi vào
trong trang sách của nhà văn một cách thật gần gũi với những khung cảnh
thiên nhiên hùng tráng: hình ảnh tuyết trắng xóa như màu trắng của chết
chóc ở miền bắc; hình ảnh bão tuyết khủng khiếp kinh hoàng như những
cơn thịnh nộ của thiên nhiên ở phương nam, và sâu sắc hơn là cái khắc
nghiệt của xã hội thời ông đang sống, xã hội mà chủ nghĩa tư bản bộc lộ hết
những cái tiêu cực của nó,… Và tiêu biểu nhất trong những trang viết của
Jack London là hình ảnh những người hùng. Gọi là người hùng có lẽ không
sai bởi những tố chất họ thể hiện ra khi đối đầu với thiên nhiên hung dữ
đến đáng sợ như vậy. Đó là lòng dũng cảm, sự quyết tâm vượt qua khó
khăn, là tính cách kiên cường, mạnh mẽ giống như những người hùng trong
các sử thi. Nhưng hơn thế nữa, đó là một khát vọng sống đến cháy bỏng, là
đức hi sinh, lòng cao thượng,… Tất cả làm nên một hệ thống truyện ngắn
vô cùng độc đáo của Jack London.

41
Jack London thường cho nhân vật của mình xuất hiện với những tư
thế là những người đàn ông khỏe mạnh, cường tráng, đã từng có kinh
nghiệm với những vùng đất dữ dằn sóng gió hay tuyết trắng. Và đó luôn
luôn là những con người tích cực hành động, hành động không ngừng nghỉ
để chiến đấu với thiên nhiên bất kể sẽ là thắng hay thua. Họ không bao giờ
bỏ cuộc một cách dễ dàng, không bao giờ đầu hàng số phận ngay từ đầu,
mà đã trải qua một hành trình gian khổ. Những chuyến đi của họ không
đơn thuần là những chuyến du lịch mà là những cuộc phiêu lưu đầy mạo
hiểm, ấn chứa cái đói, rét, hay thậm chí là cái chết. Những con người đó là
những người có ý chí và nghị lực phi thường như những người anh hùng sử
thi, chỉ khác, họ là những con người xã hội bình thường, không phải thần
thánh, không có quyền năng vô hạn, nên sự thất bại trước những thử thách
gian nan là điều không thể tránh khỏi. Tuy nhiên, người anh hùng sử thi là
hoàn thiện, toàn mỹ thì người anh hùng của Jack London vẫn mang tính
bản năng của con người. Đôi khi họ chiến đấu hoàn toàn vô thức, chiến đấu
bởi họ không còn cách lựa chọn nào khác. Họ có sợ hãi nhưng trong tình
thế nguy kịch đó, sợ hãi là sức ép buộc họ phải vùng lên, bất kể thắng hay
bại.
Trong truyện ngắn của Jack London, chúng ta dễ nhận thấy có hai
tuyến nhân vật, đó là những người anh hùng cô độc, một mình chiến đấu
với tự nhiên và chiến thắng. Tuyến thứ hai là những con người cô độc và
thất bại trước tự nhiên.
2.1.1. Người anh hùng đơn độc và chiến thắng
Jack London thường xây dựng những nhân vật trung tâm mang dáng
vóc con người sử thi: đó là những người đàn ông có sức khỏe, ngoại hình
cường tráng, có lòng dũng cảm, gan dạ; có nghị lực vô cùng mạnh mẽ, có
một ý chí, một tinh thần thép, bất chấp nguy hiểm để ra đi nhằm hướng tới

42
mục đích của mình. Nhưng một điều khác biệt giữa con người anh hùng
trong sử thi, trong các anh hùng ca với con người anh hùng trong truyện
của Jack London là nhà văn không miêu tả những con người hoàn mĩ, được
tôn sùng, được kính nể, là những con người chinh phục được thiên nhiên,
chiến thắng quỷ dữ, trở về với chiến thắng vang dội, được tôn vinh, được
ca ngợi,... mà người anh hùng ở đây đơn giản chỉ là một người gặp nạn,
một kẻ bị bỏ rơi trong cuộc hành trình, một người xông pha đi cứu giúp
người khác trong hoàn cảnh khó khăn,… Và họ hoàn toàn cô độc. Họ có
thể xuất hiện một mình ngay từ đầu câu chuyện, hoặc xuất hiện với người
khác, nhưng trong cuộc hành trình, họ đã bị bỏ rơi, hoặc giữa một xã hội
loài người, họ cô độc vì không tìm được mối liên hệ chung, họ đã ra đi, đến
với những nơi mà họ thuộc về. Và để làm được điều đó, họ đã phải rất linh
hoạt trong mọi hoàn cảnh, đã thể hiện được sự thông minh, kiên cường,
một khả năng thích nghi tuyệt vời để cố gắng sống một cách lâu nhất trong
thời khắc khốc liệt và tìm ra đường sống.
Người đàn ông không có tên trong Tình yêu cuộc sống là một hình
tượng vô cùng đẹp đẽ bởi ý chí kiên cường, sự thông minh và khả năng
thích nghi tuyệt vời với tự nhiên. Anh bị một người bạn đồng hành bỏ rơi
khi chẳng may bị trật chân khi cố gắng vượt qua con suối. Không còn chút
hi vọng nào là người bạn đó sẽ quay lại giúp mình, người đàn ông buộc
phải tự cứu mình trong cuộc phiêu lưu đầy nguy hiểm. Ngay từ đầu truyện
Jack London đã tạo ra một không khí nghẹt thở báo hiệu cho những gì đang
chờ ở phía trước. Hai nhân vật, một nhân vật Bill và một nhân vật chính
không tên, cánh rừng rậm hoang vu, những con suối, mỏm đá, thú rừng và
những cuộc hành trình mệt mỏi và nặng nhọc. Không gian ấy càng trở nên
căng thẳng khi chỉ còn lại một nhân vật, ban đầu là những lời nói mệt mỏi
thì sau đó hoàn toàn mất đi ngôn ngữ đối thoại. Bên cạnh việc miêu tả tâm

43
lý nhà văn còn tỏ ra rất hiểu về sinh lý con người khi miêu tả từng động tác,
từng biến đổi của cơ thể, của những cảm giác đói hay đau đớn. Và cuộc đấu
tranh giành lại sự sống đã bắt đầu. Đó là cuộc chiến kiếm tìm thức ăn mà
ban đầu là một con tuần lộc caribu khi gã cầm lấy súng và nghĩ đến món bít
tết bên bếp lửa. Tưởng chừng đó là điều đơn giản với một người đi rừng
chuyên nghiệp và một tay súng thiện xạ nhưng con vật đã chạy thoát được.
Và sau đó là liên tiếp các tình huống tương tự như lũ gà gô núi đá, con cá
tuê, bọn sói, con gấu. Hoàn toàn đơn độc, không có vũ khí, người đàn ông
đã không thể làm được gì để kiếm cái ăn, hắn đã phải ăn rau dại để sống.
Con người cường tráng khỏe mạnh đó nhanh chóng đã trở thành tàn tạ, đến
bắt một con gà bị thương cũng không nổi. Nhưng sức sống tiềm tàng cùng
bản năng sống mãnh liệt đã cứu hắn khỏi cái chết, cứu hắn khỏi con gấu
hung dữ và con sói đói. Có lẽ những con vật hoang dã đó cũng phải bị khuất
phục trước một sinh vật mà sẵn sàng ăn thịt chúng dù có thể bị chúng ăn thịt.
Ý nghĩa câu chuyện thể hiện tập trung thông qua cuộc đấu tranh của
và con sói ốm đói. Cả hai đang đứng trước cái chết cả hai không đủ sức để
ăn thịt nhau nữa. Con sói cố tình đi theo con mồi yếu ớt để đợi gã ngã gục
và ăn thịt còn gã thì cũng chờ có thế để có thể tìm thấy cơ hội sống. Cuối
cùng thì gã cũng chiến thắng. Cái đói, cái rét, con gấu dữ và con sói đói đã
không thể cướp đi cuộc sống của gã. Gã đã trở thành người anh hùng đẹp
đẽ nhất mà Jack London dựng nên, một người hùng không dễ bị khuất
phục, lê lết thoát ra khỏi cái chết bằng một niềm tin mãnh liệt rằng vượt
qua hết những chặng đường đau khổ, đói rét này là đến với sự sống, là
được sống, và phải cố gắng đến được với sự sống đó, không được phép cho
mình chết. Câu chuyện cũng cho thấy rằng, tuy cô độc nhưng những con
người này luôn vận động, luôn suy nghĩ; không phải chỉ nghĩ để tìm cách
cứu mình, để giải quyết những khó khăn trong khả năng có thể; mà còn

44
nghĩ để biết mình vẫn sống, và nghĩ để cố gắng sống.
Trong sử thi, thiên nhiên là môi trường để người anh hùng thể hiện
tài trí và sức mạnh của mình. Trong truyện của Jack London, thiên nhiên
cũng là môi trường để nhân vật thể hiện mình, nhưng không chỉ là nơi thể
hiện sức mạnh, mà là những thử thách khắc nghiệt nhất buộc con người
phải vượt qua, phải chiến thắng không chỉ thiên nhiên mà còn phải chiến
thắng chính bản thân mình. Những con người anh hùng đó chiến thắng nhờ
bản năng sống bất diệt, trong hoàn cảnh khó khăn, bản năng sống của con
người giúp họ tự xử lý được những khó khăn, tự biết chống chọi lại với giá
rét, với thú dữ. Những động lực thúc đẩy mạnh mẽ hơn cả là tình yêu mãnh
liệt vào cuộc sống. Câu chuyện Tình yêu cuộc sống không chỉ là một câu
chuyện đơn thuần về một người đàn ông nghị lực, sống sót sau chuỗi ngày
đói rét ở vùng đất hẻo lánh; mà đó còn như tôn chỉ cho các sáng tác của tác
giả. Tất cả các nhân vật của ông vượt qua được khó khăn, thử thách hay
không đều nhờ vào tình yêu và khát vọng sống đó có đủ mạnh mẽ hay
không. Từ đó, nhà văn ca ngợi cuộc sống, ca ngợi tình yêu và niềm tin vào
cuộc sống. Dù có khó khăn đến đâu, nhưng với tình yêu và niềm tin đó, con
người có thể vượt qua tất cả. Có lẽ đây cũng là niềm an ủi tinh thần rất lớn
để nhà văn tự động viên mình, khi bản thân phải sống trong xã hội tư bản
mà mình căm ghét, nhưng vẫn cố kiếm tìm một cuộc sống mới tươi sáng,
hạnh phúc, bằng chính tình yêu và niềm tin vào cuộc sống. Người đàn ông
trong Tình yêu cuộc sống đã suy nghĩ khi phải đối mặt với con sói đói rằng:
“Giá nó là một con sói khỏe mạnh, thì hẳn con người cũng chả xem
vấn đề hệ trọng đến thế đâu, những nghĩ đến việc phải làm mồi cho
cái dạ dày của cái vật ghê tớm và gần như chết rồi này, gã chẳng ưng
chút nào.” [42, tr. 41, 42]
“Tuy nhiên, rất bình tĩnh trong nhận thức ấy gã biết rằng mình không

45
bao giờ có thể bò nốt dặm ấy. Và mặc dù thế, gã vẫn muốn sống.
Thật là vô lý nếu gã phải chết sau khi chịu đựng tất cả ngần ấy thứ.
Số mệnh đòi hỏi gã quá nhiều. Và đến lúc sắp chết, gã từ chối không
chịu chết.” [42, tr. 42].
Đặc biệt hơn, làm tăng thêm tính ly kỳ, thú vị cho các tác phẩm
phiêu lưu của Jack London là những cuộc phiêu lưu của các nhân vật nữ,
đặc biệt là những người phụ nữ đã lớn tuổi. Cuộc phiêu lưu của bà Nauri
trong Ngôi nhà của Mapuhi là một nhân vật như thế. Không được xây dựng
là một người đàn bà đẹp toàn mỹ, đảm đang và yêu gia đình như trong các
sử thi, Nauri là một người phụ nữ đã lớn tuổi, vất vả và nghèo khó, sống ở
một đảo san hô quanh năm bão bùng, sóng gió. Cuộc đời của bà có lẽ
chẳng bao giờ mơ đến một ngôi nhà cho đến khi người con trai may mắn
tìm được một viên ngọc. Vui mừng vì dường như giấc mơ không bao giờ
dám mơ đã gần thành hiện thực thì viên ngọc bị gán nợ, ước mơ hoàn toàn
bị dập tắt. Rồi một cơn bão lớn ập đến hòn đảo nhỏ bé, cướp đi cuộc sống
bình yên và bao mạng người đáng thương ở đây. Nauri cũng không may bị
bão cuốn đi. Sau bao ngày cố gắng bám trụ lấy sự sống, tìm cách sống bằng
tất cả bản năng và trí tuệ của con người, bà đã vượt qua sóng dữ, chiến
thắng cái đói, cái chết và trở về. Thần kỳ hơn là bà trở về cùng viên ngọc
và ước mơ về ngôi nhà của mình.
Cuộc trở về đầy kỳ vĩ của người đàn bà nghèo khó nhưng nghị lực và
kiên cường này trở thành bài học quý giá hơn bao giờ hết về tinh thần dũng
cảm, không chùn bước trước khó khăn, và một tình yêu, một khát vọng
sống vô cùng mãnh liệt. Đây là hình ảnh một nữ anh hùng đẹp đẽ và đáng
tự hào nhất mà Jack London đã xây dựng nên. Ở đây, người đọc cũng có
thể thấy con người anh hùng trong truyện của Jack London có chút phi
thường bởi bị đặt trong hoàn cảnh vô cùng nguy hiểm như vậy, họ vẫn trở

46
về một cách bình yên, như những người hùng sử thi. Tuy sự trở về đó
không lẫy lừng, không huy hoàng và đầy ngợi ca như sử thi, họ chỉ trở về
trong yên lặng, trong sự đói và rét, trong một bộ dạng thân tàn ma dại,
thậm chí là bị ám ảnh, mộng mị một thời gian như người đàn ông trong
Tình yêu cuộc sống, nhưng đó là sự trở về kỳ diệu nhất, đáng khâm phục
và đáng ngưỡng mộ nhất.
Trong hoàn cảnh đơn độc đó, con người dường như bộc lộ hết khả
năng thích ứng của mình để chống chọi lại với thiên nhiên mà lúc này là kẻ
thù lớn nhất của họ.
“Gã mở cái bọc và việc đầu tiên là đếm các que diêm. Có sáu mươi
bảy que. Gã đếm tới ba lần cho chắc. Gã chia làm nhiều phần, gói
bằng giấy dầu, cất một bó vào cái túi đựng thuốc lá rỗng không, một
bó khác cất vào đai trong của chiếc mũ nhau nát, bó thứ ba vào dưới
áo sơ mi. Làm xong việc đó, gã chợt hoảng và giở tất cả ra đếm lại.
Vẫn còn nguyên sáu mươi bảy que.” [42, tr. 24]
Hình tượng người anh hùng trong truyện của Jack London không
mang bóng dáng của cộng đồng, của tập thể, không đại diện cho tập thể mà
chỉ là những cá nhân đơn lẻ, hành động hoàn toàn tự phát, không vì một kế
hoạch, một mục tiêu nào được lên kế hoạch sẵn. Họ luôn xuất hiện trong tư
thế đơn độc, thiếu thốn, không một sự giúp đỡ, không vũ khí phòng thân.
Tuy nhiên, trong tình thế cô độc như vậy, những con người này vẫn có thể
chiến thắng tự nhiên, vẫn giành giật được sự sống từ thiên nhiên hung dữ để
trở về.
Jack London đã khéo léo xây dựng hoàn cảnh điển hình, hay có thể
nói là không bình thường để tạo nên những nhân vật cũng hoàn toàn phi
thường. Sự phi thường này thường thấy trong các sử thi, anh hùng ca. Đó là
sức mạnh phi thường của thần thánh, là quyền năng vô hạn của các thần; và

47
nhờ sự phi thường mà họ có thể chiến thắng. Nhưng sự phi thường của
những người hùng trong truyện ngắn của Jack London là của những con
người bình thường, là những điều mà khó ai có thể làm được, hoặc khó có
thể tin được. nhưng họ đã làm được và trở thành những con người đẹp
nhất trong các trang sách.
Qua việc xây dựng nhân vật những người hùng chiến thắng dù trong
tư thế đơn độc, Jack London muốn gửi gắm đến người đọc những vấn đề
mang tính triết lý. Đó là việc đề cao tính tự lập, tự chủ trong mọi hoàn
cảnh, trong mọi tình thế. Đồng thời cũng muốn khẳng định, con người luôn
tồn tại trong một tập thể, chỉ có ở trong tập thể thì con người mới thực sự
an toàn. Vì vậy, sự gắn kết cộng đồng là vô cùng quan trọng. Những người
hùng trong truyện ngắn của ông chiến thắng thiên nhiên đều là nhờ bản
năng sinh tồn và một khát vọng được sống bền bỉ, thêm đó có thể là chút
may mắn, chút liều lĩnh trong tình thế không còn gì để mất. Nhưng trên hết
vẫn là sự đoàn kết tập thể và sự gắn kết giữa người và người. Trong hoàn
cảnh xã hội hiện tại mà Jack London đang sống thì điều mà ông mong
muốn có lẽ quá xa xôi, như giấc mơ của Mapuhi khó có thể thành hiện
thực. Nhưng ông vẫn hi vọng và mơ ước về một xã hội tốt đẹp hơn, như
ước mơ về ngôi nhà của Mapuhi một lần nữa lại trở về với họ
2.1.2. Người anh hùng đơn độc thất bại
Cùng với việc xây dựng hình ảnh những người hùng cô độc nhưng
chiến thắng, Jack London đã khai thác cả mảng tối của vấn đề, đó là những
con người thất bại trước thử thách, những người phải bỏ mạng lại nơi thiên
nhiên hoang vu và vĩnh viễn không bao giờ trở về.
Khát vọng sống cùng với sự chủ quan, chỉ biết nghe mình đã trở
thành kẻ thù giết chết con người khi phải đối mặt với thử thách. Truyện
Nhóm lửa kể về một người đàn ông mạnh mẽ và cường tráng, một mình

48
thực hiện cuộc hành trình của mình qua băng tuyết. Nhưng do chủ quan,
không tự ý thức được hậu quả của hành động của mình, bỏ ngoài tai những
lời khuyên của những người có kinh nghiệm, quá tự tin vào bản thân, nên
người đàn ông trong Nhóm lửa đã hoàn toàn thất bại.
“Thực tế đó chỉ gây cho anh một cảm giác lạnh và khó chịu, thế thôi,
chứ anh không nghĩ đến một điều là mình, cũng như con người nói
chung, rất mỏng manh trước nhiệt độ, chỉ có thể chịu đựng được
nhiệt độ nóng hay lạnh ở mức rất giới hạn; và cũng vì thế mà anh
không nhận ra một điều rằng con người đâu có phải là bất tử, và anh
không xác định được vị trí của con người trong vũ trụ” [38].
Chính sự chủ quan và không cảnh giác đã đưa anh vào tình huống
hiểm nghèo. Một mình giữa trời rét một cách bất thường, dù có trang bị kỹ
lưỡng nhưng anh cũng không thể chống chọi lại được với nó. Bởi sức chịu
đựng của con người là có giới hạn, trong khi giá rét thì không ngừng quất
vào người những luồng rét kinh người, khiến người anh dần mất hết cảm
giác, và dần không thể cử động được.
“Anh định cắn một miếng lớn, nhưng tuyết đông cứng quanh miệng
không sao há ra được. Anh quên khuấy không nhóm lửa cho hết cóng.
Trước sự ngu ngốc của mình, anh chậc lưỡi chưa dứt thì ngay lúc ấy, mấy
ngón tay để trần kia bị tê cóng lại. Anh cũng nhận thấy rằng lúc đầu ở mấy
đầu ngón chân còn có cảm giác nhức nhối, nay khi vừa ngồi xuống thì cảm
giác ấy không còn nữa. Anh sững sờ không hiểu những ngón chân ấy ấm
hay bị tê cóng nữa, nhưng khi cố ngó ngoáy những ngón chân trong giầy
mới biết là chúng đã bị tê thật.”…” Anh đập mạnh hai bàn tay nhưng
không gây nên một cảm giác gì. Bỗng nhiên anh lấy răng cởi cả hai chiếc
găng tay ra. Anh lấy cùi tay kẹp bao diêm vào. Do cơ bắp ở hai cánh tay
không bị cóng, nên anh có thể kẹp chặt bao diêm ở chỗ hai cùi tay. Sau đó

49
anh quẹt cả nắm diêm dọc theo cẳng chân. Bó diêm cháy bùng lên, cả 70
que diêm lưu huỳnh cùng bùng cháy lên một lúc! Không khí lặng như tờ
nên diêm không tắt được. Anh nghiêng đầu sang một bên để tránh khỏi bị
ngạt thở, rồi dí cả nắm diêm đang cháy vào vỏ cây phong. Giơ diêm như
thế anh mới nhận ra cảm giác ở nơi tay mình. Thịt đang bị cháy. Có thể
ngửi thấy mùi thịt cháy, có cảm giác như nó cháy vào tận trong thịt”.
Cuối cùng, anh đã phải tự bỏ cuộc trước cuộc tranh giành sự sống.
Anh đã chọn cho mình cách chết đường hoàng nhất: “Thôi thì đằng nào
cũng chết cóng, nên phải chết cho đàng hoàng. Khi đã tìm được sự tĩnh tâm
mới này, anh bỗng thấy buồn ngủ. Anh nghĩ đến giấc ngủ ngàn thu ngon
lành, chẳng khác gì uống một liều thuốc ngủ. Chết cóng thì có gì đau đớn
như người ta tưởng đâu! Còn gặp cái chết khác ghê sợ hơn nhiều”.
Koolau hủi (Koolau the Leper) khắc họa một hình ảnh người anh
hùng khác, cũng kiên cường, hiên ngang, không sợ cái chết, không sợ bệnh
tật nhưng vẫn phải đối mặt với cái chết mà không thể thoát ra khỏi nó.
Nhưng trong tình thế trước mặt là cái chết đang tới gần, con người anh hùng
trong Koolau thể hiện một cách hồn nhiên và trong sáng vô cùng. Là một
con người yêu tự do, yêu chính nghĩa, Koolau hết mình chiến đấu giành lấy
tự do và công bằng cho những con người cùng mắc căn bệnh hủi quái ác.
“Những người ngồi nghe Koolau nói trông giống như các thương
binh sau một trận kịch chiến khốc liệt. Những khuôn mặt của họ
trông như mõm sư tử. Người này thay vào mũi là một cái lỗ thủng
trống hoác, người kia bên vai lủng lẳng một mẩu còn lại của cánh tay
thối rữa” [43, tr. 342].
Nhưng công sức của Koolau không được công nhận khi anh bị phản
bội. Từ đó, Koolau cô độc trong chính thế giới của mình, rồi cũng chết cô
độc: “Như một con thú rừng, ông bò vào bụi cây để chết”. Với bản lĩnh của

50
một người anh hùng, Koolau “sống một cuộc đời tự do và chết cũng là
người tự do”. Có thể nói, Koolau là một người anh hùng, tuy không chiến
thắng những đã mang tất cả những vẻ đẹp và sự hào hùng của người chiến
thắng. Đó là vẻ đẹp của một người thủ lĩnh đầy bản lĩnh và kiên cường, là
vẻ đẹp hùng tráng đầy tính sử thi, khiến người đọc dường như được chiêm
ngưỡng một hình tượng người anh hùng oai hùng nhất. Tuy cô độc, tuy bị
người dân lăng mạ, chửi rủa, nhưng Koolau hoàn toàn không trách cứ,
không oán hận. Ông ra đi hoàn toàn thanh thản và nhẹ nhàng, sự thanh thản
của một người tự do, không còn trốn chạy và xung đột.
Tuy khắc họa nên những con người thất bại, nhưng ít nhiều, những
con người đó vẫn mang vóc dáng sử thi đầy hùng tráng. Nhà văn đã để cho
nhiều nhân vật tự chọn cho mình một tư thế chết không hề bi lụy, và cái
chết đó hiên ngang, kiêu hãnh như những người anh hùng trong sử thi. Đó
là những người tuy biết cái chết cận kề nhưng vẫn cố gắng gượng để sống,
vẫn lạc quan cho đến khi toàn thân không thể cử động; là người đàn ông da
đỏ kiên cường, anh hùng, sống cả cuộc đời đau khổ nhưng vẫn đấu tranh
đến cùng để giành lấy tự do, để rồi chết cũng làm người tự do.
Dù xuất hiện trong hoàn cảnh nào, hoàn toàn cô đơn giữa thiên nhiên
dữ dội, hay cô đơn giữa chính cuộc sống, chính đồng loại mình, thì những con
người anh hùng, mang tầm vóc sử thi của Jack London đều có một tấm lòng
cao cả, yêu cuộc sống và nhân hậu vô cùng. Bởi vậy, tác phẩm của Jack
London không chỉ gây ấn tượng cho người đọc với người đọc những ấn tượng
về những con người luôn bị đẩy vào những bước đường gian khổ, những hoàn
cảnh trớ trêu nhất, những số phận đáng thương, những nỗi khổ, sự khó khăn
rất lớn; mà trên hết, truyện ngắn của Jack London còn để lại trong tâm trí
người đọc những ấn tượng về sự vượt qua những khó khăn đó để sống, để
hãnh diện với cuộc đời, bởi họ muốn sống và có sức sống bền bỉ hơn ai hết.

51
2.2. Con ngƣời mang bản năng sống bất diệt
2.2.1. Bản năng sống với khao khát tự do
Với Jack London, văn học Mỹ bắt đầu một dòng mới, dòng văn học
vô sản. Ông không những có vai trò đặc biệt với văn học vô sản Mỹ mà còn
có vai trò quan trọng trong văn học thế giới. “Ông xứng đáng với danh hiệu
“Nhà văn vô sản đầu tiên của nước Mỹ” [21, tr.415]. Có thể nói, tất cả
những kỉ niệm xót xa thủa thơ ấu đã tạo ra cho ông một cái nhìn sâu sắc đối
với xã hội tư bản mà sau này Jack London đưa vào tác phẩm. Nước Mỹ với
những cơn khủng hoảng kinh tế khiến hàng vạn người thất nghiệp, họ vùng
lên đấu tranh nhưng đều bị dìm trong biển máu. Cuộc phiêu lưu của chính
cuộc đời Jack London với một xã hội đồng tiền và bóc lột đã tác động vô
cùng lớn đến tâm hồn ông. Và từ đó, khát khao tự do, khát khao sống cuộc
sống công bằng như thúc giục London thể hiện vào các trang sách. Với bộ
óc thông minh và giàu trí tưởng tượng, London đã đưa vào tác phẩm của
mình nhiều vấn đề của cuộc sống. Trong đó, khát khao tự do và đòi quyền
tự do của con người được Jack London nhắc đến nhiều trong các truyện
ngắn của mình. Người đọc thường bắt gặp trong truyện của Jack London là
những người anh hùng thực sự, vượt qua cái chết hay thất bại trước cái chết
nhưng đều mang dáng dấp của những con người anh hùng, đó là những câu
chuyện về những chuyến phiêu lưu ở miền bắc tuyết trắng hay miền nam
bão bùng. Nhưng còn có những câu chuyện về những con người sống khát
khao tự do ngay giữa phố xá đông đúc, hay kiếm tìm tự do để thoát khỏi
cuộc đời chạy trốn. Những con người đó cũng mang trong mình tính chất
của người hùng sử thi: tuy không hiên ngang, không phiêu lưu mạo hiểm
nhưng yêu tự do, hòa mình với thiên nhiên, sống như những con thú hoang
giữa rừng già và yêu cuộc sống đó vô cùng, sẵn sàng vứt bỏ tất cả để trở về
cuộc sống hoang dã, hoặc hi sinh cả cuộc đời để đấu tranh dành lại tự do.

52
Tất cả điều đó thể hiện khát vọng tự do mãnh liệt của một bản năng sống
bất tử.
Người đàn bà sinh đêm là câu chuyện về một người phụ nữ làm nghề
giặt quần áo thuê trong các nhà máy và các quán rượu tồi tàn. Người phụ
nữ đó đã nghĩ, cuộc sống như vậy thì còn gì là lãng mạn. Nàng như phát
điên lên với cuộc sống tù túng mà mình đang sống.
“Tôi thèm được chạy thật xa trong cánh đồng cỏ cao ngút cho đến
khi chân ướt đấm sương mai, tôi muốn leo qua hàng rào, bỏ trốn vào mãi tít
trong rừng, leo tới tận đỉnh đèo”… “Tôi luôn bị dằn vặt bởi khát vọng
muốn lang thang vào ban đêm, như những con thú hoang muốn dạo chơi
dưới bầu trời đầy sao, muốn cởi bỏ hết quần áo rồi cứ thế chạy…”.[42,
tr.82, 83]
Người phụ nữ vốn quen lối sống hoang dã và tự do, nay phải tù túng
ở một nơi chật chội và đầy những bon chen nhỏ nhặt đã không thể kìm lòng
trước những khao khát trở lại cuộc sống như xưa. Trong lòng người phụ nữ
dậy sóng mãnh liệt và bản năng sống đã thôi thúc nàng trở lại.
“Koolau hủi” được coi như vị vua của những con người bệnh tật, tàn
tạ và thống khổ. “Và tất cả những con người đó đã quần tụ lại quanh
Koolau, coi anh như là Vua của họ, và đây là vương quốc của anh, một
hẻm núi với ba mặt là những vách đá cheo leo hiểm trở mọc dày các loài
cây nhiệt đới và rải rác những hang động thâm u mà các thần dân của anh
dùng làm nơi trú ngụ cho mình.” Bệnh phong cùi mà người da trắng mang
đến dường như đã cướp hết đi tất cả cuộc sống của họ: sức khỏe, đất đai,
công việc và một cuộc sống yên lành. Tất cả những con người tự do và đã
từng được hạnh phúc đó giờ đang sống cuộc sống trốn chạy, chiu lủi khổ
nhục, và Koolau như mang lại nguồn sống cho họ, thức tỉnh họ nhận thức
ra ai là kẻ đem lại sự thống khổ đó, và cổ vũ, động viên tinh thần họ.

53
“Chừng nào còn có thể được, chúng ta cứ ăn uống, cứ nhảy múa, cứ sống
cho thật vui lên...”.
Koolau là một điển hình chống lại những luật pháp của người da
trắng, đòi lại những gì vốn là của mình, và trên hết đó là một cuộc đời tự
do. Suốt cuộc đời ông đi tìm tự do cho mình, và cho tất cả những con người
cùng số phận, cùng chung nỗi đau với ông, bởi ông nhận ra rằng, bên trong
những thân xác đang ngày một ruỗng mục đó thì một tình yêu và khát khao
sống vẫn còn rạo rực. “… đó là điệu nhảy của những xác chết còn sống, bởi
vì ẩn tàng bên trong cái thân xác đang bị hủy hoại của họ là ngọn lửa tình
yêu và đấu tranh vẫn đang bừng cháy. Chừng nào người đàn bà mù có đôi
dòng lệ nóng tuôn ra từ hốc mặt còn hát, chừng nào những người khiêu vũ
còn nhảy múa điệu múa tình yêu trong đêm nồng ấm, và chừng nào bầu
rượu vẫn còn được chuyền quanh, thì trong óc họ vẫn còn cháy bỏng những
ký ức và mơ ước.” [42, tr. 347]. Sức sống tiềm tàng và một khát vọng sống
đến cháy bỏng là nguồn sống mãnh liệt nhất nâng đỡ những con người
khốn khổ này đứng dậy. Cũng chính vậy mà sự đau đớn về tinh thần và thể
xác không thể giết chết được tình yêu với cuộc sống của những con người
này. Jack London không chỉ ca ngợi Koolau vì một tinh thần bất khuất, một
khát khao tự do bền bỉ đến lúc chết, Jack London còn ca ngợi những con
người lạc quan, yêu cuộc sống và không ngừng hi vọng vào cuộc sống.
Câu chuyện về một người săn da thú bị một bộ tộc da đỏ bắt và tra
tấn dã man trong Mất mặt (Lost Face) là một điển hình cho khát khao tự do
và tìm mọi cách thoát khỏi sự tra tấn cho dù là phải chết. Nhưng cách để
anh tìm được sự thanh thản bằng chính cái chết chính là sự anh hùng hiếm
có. Đã trải qua quá nhiều sự khủng khiếp và ghê rợn của những cuộc phiêu
lưu tìm về Châu Âu, để thực hiện được ước mơ gặp được những người Tây
Ban Nha mà anh ngưỡng mộ, anh đã cảm thấy quá mệt mỏi. Nên khi bị bắt,

54
anh không sợ chết, “Chàng không sợ chết. Chàng đã dùng đôi tay tự bảo vệ
đời mình trên con đường gian nan suốt từ Warsaw đến Nulato trong một
thời gian dài dặc nên cái chết không làm chàng rùng mình được. Nhưng
chàng rất ghét lối tra tấn đó. Nó xúc phạm tâm hồn chàng. Tâm hồn chàng
bất bình không phải vì sự đau đớn chàng phải chịu đựng, mà vì cái cảnh
thảm thương do nỗi đau đớn gây trên thân thể chàng tạo ra” [37]. Anh ghê
tởm sự tra tấn đó vì cảm thấy đau đớn trong tâm hồn khi nhìn thấy những
con người bị tra tấn một cách thảm thương, không còn hình hài một con
người. Điều đó đã khiến chàng nghĩ ra một cách để được chết, để tự giải
phóng mình ra khỏi sự tra tấn, để không phải chứng kiến những cảnh tra
tấn dã man đó, và để được tự do trong tư tưởng, được nghỉ ngơi sau chuỗi
ngày dài của cuộc đời lăn lộn vào hiểm nguy chết chóc, rồi thoát chết một
cách nhọc nhằn, không lấy gì làm vinh quang. Nhưng cái chết mà anh chọn
lúc này chính là thời khắc vinh quang nhất trong cuộc đời sóng gió của anh,
là lúc anh khiến cho Makamuk phải “mất mặt” trước tất cả mọi người bởi
hắn đã bị lừa. Hắn đã quá ngây ngô và tham sống sợ chết để cho một kẻ tội
đồ dưới tay hắn lừa một cách nhục nhã và đầy xấu hổ.
Qua đó, người đọc nhận thấy rằng, truyện ngắn của Jack London
mang đậm giá trị nhân văn khi nói lên khát khao cháy bỏng của con người,
đó là khát khao tự do. Sống trong xã hội tư bản đang bộc lộ hết mặt trái của
mình, tự do là thứ con người hoàn toàn bị tước đoạt. Bởi vậy, bản năng
sống khiến họ khao khát tìm lại tự do ấy bất kể thành công như Lucy trong
Người đàn bà sinh đêm hay thất bại như Koolau hủi, hay thành công nhờ
cái chết như chàng trai người Ba Lan Subienkow trong Mất mặt, thì cũng
đều là những cuộc phiêu lưu cuối cùng đáng tự hào nhất, anh hùng và phi
thường nhất.

55
2.2.2. Khao khát sống bằng tình yêu cuộc sống
Con người trong tác phẩm của Jack London, “người anh hùng” của
ông có một ý chí kiên cường, có bản năng sống bất diệt, cùng sức khoẻ dẻo
dai để chống chọi lại những khó khăn, nguy hiểm. Không những thế, họ
còn có những tình yêu cao đẹp, những sự hi sinh lớn lao, sẵn sàng chết để
không bị ảnh hưởng đến bạn đồng hành, hay sẵn sàng hi sinh để người
mình yêu được hạnh phúc. Họ có lòng dũng cảm, bởi lòng dũng cảm được
coi là phẩm chất đạo đức có tính chất tuyệt đối của người anh hùng sử thi.
Người anh hùng sử thi làm nên kì tích nhờ những yếu tố phi thường.
Người anh hùng trong truyện của Jack London làm nên kì tích bằng những
yếu tố rất bình thường, nhưng với bản lĩnh phi thường, một tình yêu phi
thường với cuộc sống mà không phải ai cũng có thể làm được. Có lẽ,
truyện ngắn Tình yêu cuộc sống của ông đã trở thành một câu chuyện điển
hình của mọi thời đại về đề tài này. Ngay ở cái tên tác phẩm, nhà văn đã
cho người đọc biết nội dung chính của nó, và càng đọc, càng tìm hiểu,
người ta càng cảm thấy khâm phục một con người nhỏ bé, nhờ tình yêu bất
diệt và niềm tin mãnh liệt vào cuộc sống mà anh ta đã tìm lại được cuộc
sống của mình.
Không đành lòng bỏ lại mạng sống của mình ở những nơi hoang vu,
người đàn ông mà trong tác phẩm chỉ được Jack London gọi là “gã” đã bền
bỉ và kiên cường hơn lúc nào hết để được sống, để tồn tại, đã không ngừng
hành động, để thấy được mình vẫn sống: gã trong một sự tuyệt vọng đến
điên dại, quên sự đau đớn ở chân, gắng tìm đường về – vùng đất của những
chiếc que nhỏ; gã đã phải nhai thứ cỏ mọc ở đầm lầy; chiến đấu với con
gấu bằng tất cả sư hung dữ và bất cần; giành giật sự sống với con sói già và
đói bằng sức sống dai dẳng của một kẻ sắp chết. Có lẽ, sau tất cả những sự
cố gắng để giữ cho mình không bị chết vì đói, vì lạnh, vì những vết thương,

56
vì sự thất vọng,… thì đến khi chiến đấu với một con sói già, hình ảnh của
người anh hùng của Jack London thực sự được hiện ra rõ nét nhất. Đến
đây, cuộc chiến đấu dường như mới thực sự diễn ra. Giữa hai bên – hai kẻ
đều tàn tạ như nhau, (có lẽ khó còn nhận ra cái thân hình tàn tạ của “gã”
còn là hình người), đều đói, đều sắp chết – không bên nào mạnh hơn bên
nào, bên nào cũng chỉ chờ nhau chết để ăn thịt, và bên nào cũng cố bảo
toàn cái mạng tàn tạ của mình để bên kia chết trước, thì đến đây, chiến
thắng không còn thuộc về kẻ mạnh nữa, mà thuộc về kẻ biết tin, kẻ khát
khao được sống. Đương nhiên kẻ đó là là “gã”, nhưng điều đáng nói, điều
vĩ đại nhất là “gã” làm được là không phải ai trong hoàn cảnh của “gã”
cũng có thể giữ được niềm tin của mình, để không bị buông xuôi, không bị
tất cả những yếu tố từ trước là cái đói, cái rét, sự đau đớn hạ gục, để rồi
thua một con sói già. Duy nhất tin vào bản thân mình – có thể điều đó là ích
kỷ và cực đoan, nhưng chắc chắn điều đó tạo cho ta thế mạnh đáng kể
trong cuộc sống. Niềm tin của gã được thể hiện xuyên suốt tác phẩm, niềm
tin sống ấy luôn tồn tại và không hề giảm bớt trong con người gã, ngay từ
việc Bill bỏ rơi hắn một mình, đến khi đói lử rồi thời tiết khắc nghiệt,
những vết thương rỉ máu: “Gã đấu tranh với cái sợ, vượt lên được… và tiếp
tục lảo đảo xuống dốc”. Gã luôn có niềm tin là mình không lạc và nhất định
sẽ tìm ra được còn Bill đang đợi gã ở một nơi nào đó. Và việc lựa chọn con
sói làm con đường tìm đến sự sống của gã cũng bắt nguồn từ những lý do
rất con người: “Giá như nó là con sói khoẻ mạnh, thì hẳn con người cũng
chả xem vấn đề hệ trọng đến thế đâu, nhưng nghĩ đến việc phải làm mồi
cho dạ dày của cái vật ghê tởm và gần như chết rồi này gã chẳng ưng chút
nào.” Rồi đến khi gã nhận ra gã đã lạc đường, gã đã lết đến sông Mỏ Đồng
và biển Bắc Băng Dương đang lấp lánh ngoài xa, gã dường như quên đói,
quên đau để tìm đến đường sống. Mỗi ngày gã bò được hai, ba dặm, và

57
đồng hành cùng với gã vẫn là con sói già tập tễnh – “hai sinh vật kéo lê
thân xác hấp hối qua cảnh hoang sơ, và bên nọ rình cướp sự sống của bên
kia” [42, tr.41]. Nhưng gã không ngừng hoạt động để biết mình còn sống,
“Phần lớn những cố gắng của nó đều vô hiệu. Nhưng nó bền bỉ, và nó vặn
mình, nó quằn quại và mỗi giờ có lẽ tiến lên được năm, sáu mét.” Quả
nhiên sự cố gắng của gã đã được đền đáp, gã được những nhà thám hiểm
khoa học trên chiếc tàu đánh cá voi cứu sống. Đó là thắng lợi của con
người luôn biết tin và biết khao khát sống. Qua đó ta thấy được tư tưởng
tác giả muốn đề cập đến chính là con đường mà mỗi chúng ta phải trải qua.
Thử thách có làm chúng ta bớt đi hy vọng và tình yêu cuộc sống, thì chỉ có
tin vào chính mình vươn lên, đấu tranh và giành lấy quyền sống.
Câu chuyện là một cuộc đấu tranh sinh tồn giản đơn mà lại vô cùng
khốc liệt. Sự sống và cái chết dường như chưa bao giờ thật đến thế, gần
nhau đến thế. Một con người sắp chết đói và một con sói cũng sắp chết đói,
cả hai đều muốn sống… Một nỗi khát sống mãnh liệt và trần trụi đến ngỡ
ngàng. Chẳng cần những bi kịch tinh thần sâu xa, chẳng cần những xung
đột ngoại cảnh dữ dội, bản năng của con người dẫn dắt tất cả. Jack London
thể hiện tài năng ở chỗ đã nắm bắt bản năng đó một cách thật sâu sắc và
miêu tả nó một cách hết sức sống động với người đọc.
2.3. Con ngƣời với tấm lòng cao cả
Đọc truyện của Jack London, người đọc không chỉ thấy hiện hữu
những người hùng trong cuộc đấu tranh sinh tồn với thiên nhiên, với xã
hội, mà trên hết, đó là những con người tràn đầy lòng yêu thương, tính vị
tha, sự hi sinh cao cả nhất. Những phẩm chất tốt đẹp đó đã gây ấn tượng
sâu sắc với người đọc, và chứng minh cho một cây bút đầy nhân ái của
Jack London. Có lẽ thấu hiểu nỗi đau của con người khi sống trong cảnh
đói nghèo, bệnh tật, thậm chí là giành giật từng miếng ăn để sống, Jack

58
London đã viết nên những trang sách đầy xúc động về tình người, về tính
nhân văn trong bản chất con người, điều dường như không còn tồn tại trong
xã hội đương thời. Đó là những con người quyết đấu tranh cho tình yêu,
chiến đấu quyết liệt để dành lấy tình yêu chân chính cho mình trong truyện
Con trai của sói; là những người có một tình yêu thương vô bờ bến với
người vợ của mình, sống trong nghi ngờ về sự chung thủy của người vợ
nhưng chỉ đau đớn một mình và vẫn mong vợ được hạnh phúc như truyện
Sóng lớn Kanaka; là người phụ nữ da đỏ hoang dại mang một tình yêu vô
cùng lớn lao với chồng mình, bỏ qua mọi sự sợ hãi, đói rét để bên chồng đến
khi chồng qua đời trong Sự im lặng màu trắng; hay sự hi sinh thầm lặng mà
cao cả, cứu người tình của vợ mình chỉ vì vợ mình yêu người thanh niên đó
vô bờ bến trong Đoạn kết của câu chuyện cổ tích, có lẽ đây là minh chứng
tiêu biểu nhất cho một tình yêu vĩ đại.
Cuộc đời đầy bất hạnh của Jack London từ ấu thơ cho đến khi lập gia
đình có lẽ trở thành cảm hứng cho những sáng tác thuộc chủ đề tình yêu.
Càng bất hạnh trong cuộc đời mình bao nhiêu thì nhân vật của ông càng
khao khát yêu thương và hạnh phúc bấy nhiêu, như chính con người tác giả
đang khao khát hạnh phúc. Bất chấp cả việc đối diện với những sự thật phũ
phàng: sự chia li, sự phản bội, cái chết, các nhân vật của Jack London vẫn
hết mình cho tình yêu của mình. Sự kiên định trong tình yêu của sử thi
Ramayana cũng khiến người đọc ngưỡng mộ khi Sita một lòng chung thủy
với Rama, Sita yêu say đắm Rama – chàng trai có sức khỏe phi thường bẻ
gãy chiếc cung thần hùng mạnh, một điều kiện mà không chàng trai nào
trước đó làm được. Nàng chấp nhận rời bỏ nơi quyền quí, nhung lụa, thân
phận cao sang, theo Rama vào rừng sống 14 năm trời mà vẫn vui vẻ, không
hề kêu than. Khi nàng bị mắc lừa kế của quỷ Ravana và rơi vào tay quỷ –
một tên quỷ sứ tàn bạo. Hắn dùng mọi thủ đoạn để quyến rũ và dọa dẫm

59
nàng nhưng Sita vẫn một mực kiên trinh, bất khuất, vững lòng thủy chung,
chống trả lại một cách quyết liệt. Trước những lời lẽ ngon ngọt của quỷ sứ
Ravana nàng chỉ “ ngồi bó gối che thân và hoàn toàn cự tuyệt”. Hình tượng
người phụ nữ đẹp đẽ đó dường như đi vào trang sách của Jack London
khiến các nhân vật của ông cũng nhuộm màu sử thi lung linh trong tình
yêu, một thứ tình yêu bất diệt và phi thường.
Con trai của sói tuy có phê phán vấn đề sắc tộc, vấn đề người da
trắng lợi dụng sự khai hóa văn minh đã áp đặt người da đỏ bằng của cải và
súng đạn. Nhưng trên hết, câu chuyện ca ngợi một tình yêu không sắc tộc
giữa một chàng thanh niên da trắng, khỏe mạnh, thông minh, yêu đắm đuối
một cô gái da đỏ – con gái của vị tộc trưởng và quyết tâm lấy cô làm vợ.
Người con gái đó cũng âm thầm đồng ý và bỏ lại đằng sau người cha của
mình, bộ tộc của mình. Quyết tâm cưới cô gái da đỏ đã thôi thúc người
thanh niên da trắng tìm mọi cách để thuyết phục tộc trưởng, bằng của
cải, hiện vật để anh được mang cô đi. Khi gặp sự phản đối quyết liệt, anh
cũng sẵn sàng chống tra mặc dù trong cuộc chống trả đó, anh có thế sẽ
thất bại. Cái chết không dọa được tình yêu của con người cương nghị,
bướng bỉnh này, và cuối cùng, anh đã chiến thắng, mang được người con
gái anh yêu thương đi trong niềm vui và hạnh phúc.
Hạnh phúc do vậy trở thành thứ mà không ai có thể thiếu trong cuộc
sống, nên con người không ngừng tìm kiếm và sở hữu nó. Nếu người thanh
niên da trắng trong Con trai của sói quyết tâm đi tìm kiếm hạnh phúc, tình
yêu, thì Ruth trong Sự im lặng màu trắng lại đang cố giành giật lại sự sống
cho người cô yêu. Cũng là một phụ nữ da đỏ, Ruth yêu Mason như yêu một
thần tượng sống, cô tôn thờ và biết ơn anh bởi anh là “người da trắng đầu
tiên mà cô gặp và cũng là người đàn ông đầu tiên đã chỉ cho cô thấy rằng
người đàn bà không chỉ đơn thuần là một con vật hay một gánh nặng.

60
Trong lúc khó khăn, là khi Mason bị thương trong trời phương Bắc bão
tuyết, Ruth đã tận tâm chăm sóc anh. Câu chuyện còn là tình yêu tha thiết
Mason dành cho vợ. Trong lúc cái chết cận kề, Mason vẫn chỉ nghĩ đến
Ruth, đến tình cảm cô dành cho anh chân thật hơn bao giờ hết, đến cuộc
sống hạnh phúc mà có lẽ anh sẽ không được hưởng khi đứa con chào đời…
Odyssey của phương Bắc (An Odyssey of the North) là một câu
chuyện phiêu lưu và một tình yêu đầy bất ngờ. Đó là hành trình đầy gian
khó, không biết mệt mỏi của chàng Nass, biệt danh Odyssey từ khi chinh
phục cô vợ Unga – một người thuộc dòng họ có mối huyết thù với dòng họ
Nass, cho đến khi cô bị một người đàn ông da trắng cướp đi. Cuộc hành
trình Nass đi tìm vợ được ví như cuộc hành trình của chàng Odyssey trong
sử thi Homer trở về quê hương với người vợ của mình. Nhưng Odyssey của
Phương Bắc ra đi mang theo một mối hận thù sâu sắc rằng phải tìm được
kẻ da trắng có mái tóc vàng đó để trả thù, chứ không phải vì một tình yêu
vĩ đại mà Odyssey của Homer mang theo. Có lẽ chính vì vậy mà Nass đã
thua cuộc. Anh ta thua cuộc khi đau đớn nhận ra rằng, người vợ của anh ta
không còn yêu anh ta nữa, mà cô dành trọn cho người chồng là người đàn
ông da trắng kia. Cô chống cự anh như 10 năm trước, khi cô chồng cự lại
người da trắng đó. Người đọc ban đầu được Jack London cho phiêu lưu
cùng cuộc hành trình của Nass, để cùng cảm nhận những gian nan mà anh
phải vượt qua, cùng căm phẫn mối thù hằn vô cùng lớn mà 10 năm anh
quyết tâm trả thù, nhưng cuối cùng, người đọc chỉ có thể cảm thương anh,
bởi vai Odyssey đã được chuyển cho người đàn ông da trắng. Mối tình của
Unga và người đàn ông da trắng đã thực sự khiến người đọc rung động, bởi
đó là tình yêu cao cả và đáng khâm phục. Gã da trắng bằng tình yêu tha
thiết với người vợ đã sẵn sàng hi sinh để vợ được sống. Tình yêu đó mới
thực sự lay động lòng người, không chút thù hận, không chút ân hận, thậm

61
chí là hoàn toàn mãn nguyện. Hắn chết trong khi miệng còn đang ngậm cổ
hai con gà gô hắn đi săn được về cho Unga, vật vã lê đi trong tuyết trở
thành hình tượng khó quên nhất, một minh chứng cho tình yêu mãnh liệt
nhất. Đổi lại, tình yêu mà Unga dành cho gã cũng vô cùng xúc động, Unga
nhất quyết cự tuyệt Nass, dù 10 năm trước đây cô đã sống bên anh. Gặp lại
Nass, Unga hờ hững bởi giờ đây, tất cả tình thương, tình yêu cô đã dành cả
cho gã da trắng. Cuối cùng, cô chọn cái chết để tình yêu được trọn vẹn bên
người chồng da trắng đó, cô nhất định không sưởi và không ăn thịt gà. Sự
thay đổi thái độ của Unga không hề khiến người đọc phản đối, mà ngược
lại, là sự cảm thông, chia sẻ và cảm phục một tình yêu cao đẹp.
Tình yêu là sức mạnh lớn nhất để đưa con người lại gần nhau hơn.
Nhưng để có được tình yêu bền chặt nhất, con người cũng cần phải có sự hi
sinh và lòng cao thượng. Meczer dù sống hạnh phúc bên người chồng trẻ
trung kia nhưng cũng sẽ không bao giờ quên được tình yêu cao cả mà
Linday đã hi sinh cho mình; Nass thì biết rằng dù có cố gắng đến đâu thì
cũng không thể dành lại được tình yêu như vợ đã dành cho người da trắng
đó và ngậm ngùi chịu thất bại. Tình người cao cả, tình yêu được ca ngợi
đến mức tuyệt đối là điều mà Jack London mong mỏi nên đã thể hiện một
cách vô cùng độc đáo, xúc động qua các trang viết của mình, cũng là điều
làm nên tên tuổi Jack London, để người đọc biết đến ông không chỉ là nhà
văn với những cuộc phiêu lưu mạo hiểm, mà còn là nhà văn đầy tình
thương yêu với con người.

62
TIỂU KẾT
Jack London thực sự đã trở thành nhà văn bậc thầy trong việc xây
dựng nhân vật mang chất anh hùng ca, tạo nên một nét đặc biệt và hấp dẫn
trong văn học Mỹ đầu thế kỷ.
Những nhân vật trong sáng tác của Jack London luôn mang những vẻ
đẹp của lòng tin, đức tính vị tha, sự kiên cường trước khó khăn và quyết
tâm mạnh mẽ vượt qua khó khăn đó, không cam chịu thất bại. Những con
người đó đôi lúc vẫn cảm thấy sợ hãi, vẫn bị những cơn đói, những cái rét,
những cơn đau hành hạ làm cho lòng tham, sự ích kỷ nổi dậy. Tuy nhiên,
điều đáng ca ngợi là nghị lực lớn lao của họ để chiến thắng tất cả những
khó khăn đó. Người đàn ông vĩ đại trong Tình yêu cuộc sống đã trở thành
biểu tượng cao quý nhất cho tình yêu mãnh liệt vào cuộc sống, cho ý chí và
nghị lực sắt đá của con người. Từ đó, Jack London đã nâng nhân vật của
mình lên tầm cao mơi, đó là con người mang tính sử thi, con người anh
hùng với những phẩm chất đáng quý. Một điều đặc biệt ở Jack London là
luôn xây dựng người anh hùng trong tư thế đơn độc. Đặt nhân vật của mình
trong hoàn cảnh đặc thù đó, Jack London muốn làm nổi bật lên tư thế hiên
ngang, bất khuất của họ. Những con người anh hùng, dù chiến thắng hay
thất bại, dù phải đánh đổi sự sống của họ với thiên nhiên khắc nghiệt nhưng
vẫn không hề nao núng tinh thần. Lòng ham mê đến với những vùng đất xa
xôi vẫn thôi thúc lòng họ, và những chuyến tìm vàng, những chuyến ra
khơi với ước vọng một kho tàng ngọc trai đang chờ đợi vẫn tiếp tục diễn ra,
đầy hứng khởi và đầy nhiệt huyết.

63
CHƢƠNG 3

KHÔNG GIAN SỬ THI

Trong văn học, thiên nhiên trở thành một hình tượng không thể thiếu
vắng, bởi thiên nhiên là đôi khi trở thành hiện thân của con người, mang
những suy nghĩ, tình cảm và tâm tư của con người. Truyện Kiều của
Nguyễn Du đã từng có câu “Người buồn cảnh có vui đâu bao giờ” đã phản
ánh chân thực nhất tác động của thiên nhiên trong các sáng tác văn học. Và
vì vậy, mỗi một nhà văn với những phong cách khác nhau sẽ có cảm nhận
khác nhau khi miêu tả thiên nhiên, để mỗi khi nhắc đến nhà thơ, nhà văn
đó, độc giả sẽ phân biệt được họ với những tác giả khác. Như nhắc đến
Nguyễn Khuyến là nhắc đến khung cảnh vùng đồng bằng bắc bộ với tất cả
những nét thiên nhiên dân dã, quen thuộc, nhắc đến Tô Hoài là nhắc đến
vùng núi Tây Bắc với những tập quán sinh hoạt hết sức độc đáo… Nhắc
đến Jack London là nhắc đến những vùng đất xa xôi, hung dữ của tuyết
trắng, của bão bùng và của cuộc sống xã hội đầy sự sống khắc nghiệt. Đọc
truyện của Jack London, người đọc như được sống trong những câu chuyện
sử thi anh hùng với những cuộc chiến đấu đầy những phi thường dường
như không ai có thể làm được như thế. Đó là nhờ Jack London đã để nhân
vật sử thi của mình sống trong một không gian sử thi hùng tráng, bi thương
nhưng vô cùng đẹp đẽ, tráng lệ. Tuy nhiên, màu sắc sử thi ấy không hoàn
toàn là những câu chuyện thần thánh như trong sử thi. Nếu trong sử thi,
không gian và con người được cường điệu hóa, được phóng đại trong so
sánh, trong miêu tả, trong cảm nhận, trong đánh giá… thì không gian và
con người trong truyện ngắn Jack London được miêu tả rất chân thật, là
những con người bằng xương bằng thịt, phải đối mặt với những thử thách
vô cùng khó khăn bằng chính sức lực của mình, không có sự giúp sức của

64
một thế lực siêu nhiên nào. Có lẽ vì vậy mà người anh hùng trong truyện
ngắn Jack London thực hơn, gần gũi người đọc hơn. Người đọc sẽ ngưỡng
mộ họ bằng sự khâm phục chứ không phải bằng sự sợ hãi trước quyền năng
vô hạn của đấng siêu nhiên. Và để làm nên những con người đó là nhờ
nghệ thuật xây dựng hình tượng thiên nhiên độc đáo mang tầm vóc sử thi
hoành tráng.
Trong sử thi, khi miêu tả về thiên nhiên và người anh hùng chúng ta
nhận thấy, thiên nhiên để cho người anh hùng xuất hiện thường là một thiên
nhiên kì vỹ: một bãi đất lớn, một đồi cỏ gianh, một khu rừng rậm, một con
suối lớn, một cánh đồng thẳng cánh diều bay,… Hình ảnh người anh hùng
trước kẻ thù đối kháng thường được miêu tả dưới bút pháp tô đậm, phóng
đại. Khi đó, thiên nhiên hiện lên đẹp đẽ và tráng lệ vô cùng. Trong sử thi
Ramayana, thiên nhiên thực sự là một người bạn thân thiết với người anh
hùng, là người bạn đồng hành giúp người anh hùng chiến thắng kẻ thù.
“Lớp đất màu xanh thẫm lốm đốm những hoa đủ màu sắc rời khỏi
cuống, nom như một tấm chăn xinh đẹp trải trên cỏ… Ngọn gió dịu
dàng thổi nhẹ, hoa đang nở rộ và rừng ngào ngạt hương hoa” [5,
tr.5]... Mùa mưa đã bắt đầu rồi. Bầu trời phủ đầy mây nom như các
dãy núi. Sau khi đã uống khí ẩm của đại dương qua những tia nắng
của mặt trời, bầu trời mang thai trong chín tháng và bây giờ đang
sinh đẻ những trận mưa xối xả… Buổi hoàng hôn rực rỡ trong những
đám mây chiều lạnh lẽo với đường viền hổ phách… Hoa kutagia đã
nở khắp triền đồi và bị phủ trong hơi nước từ mặt đất dâng lên. Mặt
đất nom như hài lòng thấy mùa mưa tới” [5, tr.65, 66].
Thiên nhiên trong Ramayana chủ yếu là những khu rừng già sâu
thẳm với những dòng sông hùng vĩ, những ao hồ trong lành rực rỡ cỏ hoa.
Vạn vật đông đúc nhưng sống trong hiền hoà yêu thương.

65
Nhờ vậy, thiên nhiên trong Ramayana trở thành nơi để khơi gợi cảm
xúc, thành người bạn tâm tình của nhân vật, và đặc biệt, thiên nhiên còn
gần gũi con người đến mức mang những vẻ đẹp nhục cảm, rực rỡ, cháy
bỏng và căng tràn sức sống. Đó là cái khác cơ bản giữa thiên nhiên trong sử
thi và tính sử thi của thiên nhiên trong truyện ngắn của Jack London.
Truyện ngắn Jack London khai thác khía cạnh sử thi trở thành vật cản của
con người, trở thành mối đe dọa với con người và tạo ra muôn vàn khó
khăn cho con người. Ở đây, thiên nhiên như thành cửa tử bắt buộc con
người muốn sống sót thì phải vượt qua nó, chứ không phải là thiên nhiên
thân thiện và là bạn với con người như trong Ramayana. Thiên nhiên trong
sử thi đẹp đẽ bao nhiêu thì thiên nhiên trong truyện ngắn Jack London đáng
sợ bấy nhiêu, nó không chỉ là hùng tráng mà là sự rợn ngợp, bao trùm con
người trong sự cô đơn lạnh lẽo và hung dữ đáng sợ, và những cuộc đấu tranh
trong truyện ngắn Jack London không phải là những cuộc chiến đấu chống
lại kẻ thù đối kháng để thành lập một cộng đồng giàu về vật chất – mạnh về
thể chất và tinh thần; như sử thi Đăm San kể về những cuộc giao chiến đầy
cam go của người anh hùng Đăm San, là phản ánh quang cảnh xây dựng làm
cho buôn làng giàu mạnh, thể hiện những ước mơ, hành động muốn đi tới
tận cùng của nhân vật anh hùng để trở thành người thủ lĩnh hùng mạnh
nhất... mà là cuộc đấu tranh sinh tồn giữa con người và thiên nhiên, và người
anh hùng lúc này hoặc sống hoặc chết mà không có sự lựa chọn nào khác.
3.1. Không gian lạnh lẽo, hoang sơ phƣơng Bắc
3.1.1. Cảm hứng sử thi bất tận từ không gian hoang sơ
Phương Bắc có lẽ là niềm cảm hứng không bao giờ dứt cho Jack
London. Bởi Jack London luôn cảm thấy thích thú và khao khát đến với
những vùng đất xa xôi, hoang dã. Sự rợn ngợp của vùng đất này vô tình tạo
nên cảm hứng sử thi rất tiêu biểu mà độc đáo trong các tác phẩm của ông.

66
Đó không chỉ là không gian tuyết trắng vùng phương bắc khắc sâu trong
tâm trí nhà văn bởi những cuộc đi tìm vàng mà chính bản thân ông đã từng
lao vào nó theo những “cơn sốt vàng” điên rồ đang lên đỉnh điểm, mà đôi
khi nó còn mang những nét đẹp rất nguyên thủy, tinh khiết khiến nhà văn
như ngập chìm trong không gian nơi đây. Lăn xả trong cuộc kiếm tìm vàng ở
vùng Klondike không mang về cho Jack London chút vàng mọn nào, nhưng
bù lại, kinh nghiệm và sự hiểu biết về vùng đất khủng khiếp này đã tiếp sức
cho ông sáng tạo nên những trang phiêu lưu đầy ấn tượng, làm nên tên tuổi
Jack London. Là vùng đất khá quen thuộc với nhà văn và có thể coi phương
Bắc là trải nghiệm thực từ chính cuộc đời ông với thiên nhiên nơi này.
Nếu sức hấp dẫn của các trang viết về thiên nhiên trong Ramayana
cực kì mạnh mẽ, thiên nhiên không đơn thuần là thiên nhiên, nó tồn tại như
một nhân vật, hàm chứa những nội dung ý nghĩa sâu sắc và nhũng nét nghệ
thuật độc đáo tinh tế; thì thiên nhiên trong truyện ngắn Jack London cũng
có thể coi là một nhân vật, đẹp nhưng quái ác, luôn luôn gây ra những mỗi
nguy hiểm bất ngờ cho con người, sẵn sàng vùi chết con người bất kỳ lúc
nào. Cảnh vật trong tác phẩm của ông đôi khi hiện lên với những vẻ đẹp rất
đặc trưng với màu sắc, hình khối gây ấn tượng mạnh cho người đọc, nhưng
đôi khi cũng có mặt thứ hai nguy hiểm và nhiều cạm bẫy. Đó là hình ảnh
những mỏm đá lởm chởm, là sự rậm rạp và sự lạnh lẽo tiêu điều trong Khe
núi toàn vàng (All Gold Canyon):
“Các vách đá tựa vào nhau và khe núi được khép kín bằng một mớ
hỗn độn những mỏm đã đầy rêu phủ sau tấm lá chắn màu xanh của
các dây leo, nho dại và bụi rậm. Phía trên khe núi là những ngọn
đồi và đỉnh núi vươn cao, kéo dài mãi xa là những chân núi rộng
mọc đầy thông” [42, tr. 278, 279].
Nhưng tiêu biểu và đậm đặc hơn cả là những trang văn miêu tả sự

67
tàn bạo và dữ dội của tuyết trắng, nỗi đáng sợ của sự im lặng. Vùng đất
phương Bắc hiện lên trong trang sách nhà văn là một vùng quanh năm tuyết
phủ trắng, lạnh lẽo đến rợn người, và cũng chính nó đã cướp đi sinh mạng
biết bao con người ôm một giấc mơ làm giàu nhanh chóng. Đó là miền cực
bắc xa xôi quanh năm băng giá và chó sói mà ở đó, sự im lặng ngự trị. Màu
trắng xuất hiện rất thường xuyên với tần số cao trong nhiều tác phẩm của
ông: Tiểu thuyết Tiếng gọi nơi hoang dã (The Call of the Wild), Từ bỏ thế
giới vàng,... các truyện ngắn: Sự im lặng màu trắng (The White Silence),
Đoạn kết của câu chuyện cổ tích (The End of the Story), Nhóm lửa (To Build
a Fire), Chúc kẻ lên đường (To The Man On The Trail),... Tất cả đều trắng
một cách đáng sợ, đơn điệu, nhưng luôn ẩn chứa những nguy hiểm bất ngờ.
3.1.2. Những mối nguy hiểm màu trắng
Người đàn ông bất hạnh trong Nhóm lửa đã phải bỏ lại mạng sống
của mình khi một thân một mình không thể chống chọi lại với cái lạnh rợn
người đó. Băng tuyết bao trùm tất cả không gian và chực cướp đi tính mạng
người đàn ông này, “từ Bắc xuống nam, xa hút tầm mắt, tuyết trải dài một
màu mênh mang”. Người đàn ông đó dần mất hết cảm giác, tê liệt thần kinh
và cứng đờ người vì rét.
“Anh ngồi xuống nhìn hai bàn tay xem nó ở đâu, và thấy nó còn đang
lủng lẳng ở cổ tay. Anh bỗng ngạc nhiên thấy mình lại phải dùng đến
mắt để xem tay mình ở đâu. Anh liền vung tay đập mạnh hai bàn tay
đeo găng vào hai bên sườn. Làm như vậy trong năm phút, ráng hết sức
đủ để bơm máu lên làn da, thế là anh hết run. Nhưng hai bàn tay
không cảm giác gì. Anh có cảm tưởng chúng như hai quả cân treo ở
đầu cánh tay, vậy mà anh cố truyền cảm tưởng đó xuống thì lại không
thấy gì. Một nỗi sợ chết lờ mờ và nặng nề xâm chiếm anh” [38].
Bao trùm toàn bộ tác phẩm là một màu chết chóc, người đàn ông đi

68
hết sai lầm này đến sai lầm khác trong cuộc chiến giành giật sự sống với
thiên nhiên đã thất bại và bỏ mạng nơi tuyết trắng lạnh lẽo, cô đơn. Tuyết
trắng thực sự không thể là bạn của con người trong những cuộc hành trình
đầy gian nguy này, nên đòi hỏi người đi đường phải có kinh nghiệm và
tuyệt đối cẩn trọng. Khi đối mặt với thiên nhiên, con người hoàn toàn đơn
độc, yếu thế và chỉ còn chờ vào sự may mắn. Thiên nhiên đã bao phủ hoàn
toàn, dập tắt mọi nguồn sống nếu con người có một chút sơ sẩy, trở thành
biểu tượng cho một thế giới lạnh giá, vô cảm, thù địch. Chính sự khắc
nghiệt đó đã trở thành yếu tố tất yếu để người anh hùng thể hiện phẩm chất
của mình. Người đàn ông chấp nhận cái chết vì không thể chiến thắng nó,
nhưng đã chọn một tư thế chết hiên ngang nhất. Người đàn ông đó như trở
thành biểu tượng cho những con người dám hành động, dám phiêu lưu với
ý chí và nghị lực phi thường. Cái chết đó không hề đau thương, bi lụy mà
mang một âm hưởng hùng tráng, mang đậm dấu ấn sử thi hào hùng.
Tuyết trắng được Jack London miêu tả thật kỹ với màu sắc điển
hình: sắc trắng chết chóc và tang thương; âm thanh điển hình: sự im lặng
hiện hữu đến đáng sợ, sự im lặng của màu trắng… và hơn cả là một không
gian trắng đến vô tận.
Ở vùng đất xa xôi là truyện rất tiêu biểu cho cuộc đối đầu giữa con
người và băng tuyết. Sự thiếu suy nghĩ khi hành động và bản tính lười
biếng đã chôn vùi hai con người đáng thương trong tuyết. Họ đã bỏ cuộc
hành trình mà trong lúc bốc đồng họ đã tham gia để ở lại chờ mùa hè ấm
áp. Nhưng chưa chờ được mùa hè thì cái rét thấu xương đã khiến họ tự hủy
hoại nhau, sinh lòng ngờ vực, bị những ảo giác, ác cảm ám ảnh, họ gần như
không còn là những người bình thường được nữa. Thiên nhiên quá hoang
vắng, lạnh lẽo bao trùm khiến họ không thể đi đâu, không thể làm gì và dần
phát sinh những thù ghét lẫn nhau. Như vậy, thiên nhiên đã gián tiếp giết

69
chết họ, hay trực tiếp làm nên cuộc xung đột giữa họ, để họ tự bắn giết
nhau và cùng chết bởi sức mạnh vô tận của nó. Đây là một bài học đáng
nhớ cho sự tính chủ quan của con người, nhưng cũng từ đó nhấn mạnh
thêm sự vĩ đại của thiên nhiên. Chính sức mạnh vĩ đại đó đã khơi nguồn
cảm hứng cho tác giả đến với vùng đất này, chính vì vậy, nhân vật của ông
khi tìm đến vùng đất này luôn hi vọng đó là vùng đất hứa, ra đi hiên ngang
và hiên ngang đối diện với hiểm nguy, thậm chí là cái chết. Dường như
thiên nhiên cũng trở thành một người anh hùng, lừng lững trắng xóa thách
thức con người đến với nó. Và con người với tư thế hiên ngang, với niềm
tin và lòng dũng cảm không sợ hiểm nguy, đã xông pha đến vùng đất này.
Người đàn ông trong Chúc kẻ lên đường (To The Man On The Trail)
với tính cách khá lạnh lùng, tự tin, khỏe mạnh và cứng rắn như người anh
hùng sử thi có thể coi là hình tượng tiêu biểu cho những con người dũng
cảm đặt chân đến nơi nguy hiểm đó. “Tuổi vẫn còn trẻ mà các nếp nhăn đã
hằn sâu nét nhọc nhằn và khổ cực. Mặc dù cặp mắt xanh của hắn đầy vẻ
linh hoạt khi nói chuyện và hiền lành khi nghỉ, nó cũng sẵn sàng loé lên
ánh thép nếu cần phải động thủ, đặc biệt là khi yếu thế. Quai hàm nặng nề
và cằm vuông biểu lộ tính cách chai lì và bất khuất. Cũng không phải vì
những đường nét của con sư tử mà khuôn mặt thiếu đi một sự mềm mại nào
đó, một vẻ gì đó của nữ tính, nói lên một con người tình cảm” [33]. Mối
nguy hiểm của tuyết trắng không ngăn cản được bước chân về phương Bắc
của những nhân vật anh hùng của Jack London. Và điều đặc biệt là những
con người cùng chí hướng đó luôn cầu nguyện cho nhau để họ vượt qua
được khó khăn, “Vậy thì chúc cho kẻ lên đường đêm nay, chúc cho lương
thực của y không cạn sớm, bầy chó vững chân, và diêm của y không bao
giờ bị lép và... Chúc cho bọn tuần cảnh lạc đường hết!” Tất cả những điều
đó làm nên nét hấp dẫn cho phương Bắc, vùng đất của băng tuyết và bão

70
tuyết, nhưng không bao giờ làm chùn chân, nao núng ý chí những người
anh hùng dũng cảm.
3.1.3. Nỗi ám ảnh của sự im lặng chết chóc
Ngoài sự ám ảnh về màu trắng đáng sợ, sự im lặng rùng rợn trong
các câu chuyện cũng đã tàn nhẫn cướp đi của con người cả sự nói, dường
như nói chuyện chỉ là một sự lãng phí sức lực trong những chuyến đi vất vả
giữa tuyết trắng đến rợn người. Sự im lặng tĩnh mịch đó tràn khắp mọi nơi,
khiến giác quan của con người như tê liệt, không còn cảm thấy gì ngoài sự
sự hoang mang và sợ hãi.
“Ngày đã ngả sang chiều, và bị đè nặng dưới sự hùng vĩ của sự im
lặng. Màu trắng, cả ba người cùng lặng lẽ vạch đường đi tiếp. Thiên
nhiên có nhiều cái để nhắc nhở con người về cái chết: thủy triều
không ngừng lên rồi lại xuống, sự giận dữ của giông bão, sự khủng
khiếp của những trận động đất và những đợt sấm sét. Nhưng mạnh
mẽ hơn và khủng khiếp hơn tất cả là sự im lặng Màu trắng trong cái
thờ ơ, hiu quạnh của nó. Không một tiếng động nào”… “Và con
người bỗng nhiên thấy sợ cái chết, sợ Chúa, sợ tất cả thế giới xung
quanh. Nhưng cùng với cái sợ ấy là niềm hi vọng – hi vọng được
sống.” [42, tr.10].
Sự im lặng bao phủ trở thành mối đe dọa lớn nhất của con người,
không phải sự u tịch của thiên nhiên nữa, mà trở thành điềm báo cho cái
chết, cho sự nguy hiểm lúc nào cũng rình rập con người. Và cái rét cũng
thực sự đáng sợ. Sự im lặng rợn người đó khiến không gian trở nên huyền
bí hơn, âm u và thực sự đáng sợ. Không gian phương Bắc trở thành hình
ảnh quen thuộc đối với bạn đọc yêu mến tác phẩm của Jack London, bởi nó
quá hùng vĩ, quá ấn tượng như đang được lạc vào những cuộc phiêu lưu
mạo hiểm mà đầy thú vị với những người hùng trong những bản anh hùng

71
ca. Đến đây, con người trở nên thực sự nhỏ bé. Nhưng nó lại không làm
nao núng những con người mang trong mình ý chí và nghị lực phi thường,
không ngại khó khăn để đi tìm những giấc mơ thay đổi cuộc đời, hay đôi
khi chỉ là để thỏa mãn lòng ham thích khám phá và trải nghiệm những thử
thách đầy gian nan. Đó là nét đẹp rất đáng quý của những nhân vật Jack
London xây dựng nên, càng khiến tác phẩm của ông hấp dẫn hơn trong mắt
bạn đọc.
Hướng theo những mặt trời giả tạo là câu chuyện khá ly kỳ và hấp
dẫn bởi việc hai con người quyết vượt qua băng tuyết hàng ngàn dặm chỉ
để giết một kẻ “lạ mặt” theo cách gọi của người kể chuyện. Điều khủng
khiếp nhất là họ vượt qua hàng ngàn dặm trong cái đói, cái rét dưới 70 độ
âm, không ăn không uống trong một thời gian dài, và lúc nào họ cũng chỉ
nói “Đi tiếp”. Sự im lặng ám ảnh họ như một con quái vật quanh quẩn và
chỉ chực đem đến cái chết. Đó quả thực là sự im lặng đáng sợ.
“Tuyệt đối tĩnh mịch. Lặng lẽ hoàn toàn. Thỉnh thoảng tuyết rơi và
chúng tôi giống như những bóng ma. Cũng có hôm trời sáng sủa và
đúng giữa trưa, mặt trời ló ra một lúc đằng sau dãy đồi ở phía Nam.
Trên bầu trời, hào quang Bắc cực tỏa sáng, những mặt trời ảo ảnh
nhảy nhót, không trung đầy một thứ bụi băng giá” [42, tr.189].
Đến đây, nhân vật dường như đã rơi vào ảo giác. Sự đấu tranh dường
như quá sức đã khiến họ như nửa tỉnh nửa mê:
“Chung quanh im ắng, chỉ nghe thấy tiếng tim mình đập trong lồng
ngực, trong không khí tĩnh mịch này nó đập rất to. Giống như những
kẻ mắc chứng mộng du, chúng tôi bước chân như trong mơ, cho đến
khi ngã khụy xuống mới hiểu ra là phải đứng dậy” ... “hai bên mặt
trời thật là hai mặt trời giả, ảo ảnh. Nghĩa là trên trời có cùng lúc
những ba mặt trời. Không trung chứa đấy những thứ bụi giá buốt, lấp

72
lánh như kim cương” [42, tr.196].
Cách ví von và sự tưởng tượng của một người đang kiệt cùng sức
lực, muốn lả đi vì đói, rét và mệt mỏi thực khó hiểu. Chỉ biết rằng những
con người này, tự lao mình vào chốn khốn khổ chỉ để thực hiện một hành
động khó hiểu đang rơi vào cuộc vật lộn sống còn giữa hiện thực và ảo
giác. Họ đang đi tìm một thứ tưởng như vô vọng nhưng lại đầy hi vọng, và
tất nhiên, họ đi với một quyết tâm đến đáng sợ, không gì ngăn bước được
họ. Có lẽ đến đây, thiên nhiên có khắc nghiệt đến đâu cũng phải chịu thua
trước những sinh vật – con người dường như bất diệt này. Họ có những khi
đã đi trong ảo giác, đi như đi trong mơ, vừa đi vừa ngủ, rồi giật mình tỉnh
dậy mới thấy mình đang ở đâu, đang đi đâu, và lại tiếp tục hành trình;
nhưng rồi họ cũng tìm được mục đích của mình: một người lạ mặt, mà
người kể chuyện trong tác phẩm cũng không biết là ai, bắn chết gã, rồi thản
nhiên trở về như trả xong một món nợ.
Trong Tình yêu cuộc sống, khung cảnh dựng lên là một vùng đất
hoang sơ, vắng vẻ của vùng đất chết chóc, không một bóng người:
“Một quang cảnh không lấy gì làm phấn khởi. Đâu đâu cũng là chân
trời mềm mại. Các trái đồi đều thấp. Chẳng có cây to, cây nhỏ, cũng
chẳng có cỏ. Chẳng có gì ngoài một sự tiêu điều mênh mông và ghê
gớm”. “Không có cây to cũng chẳng có cây bụi, chẳng có gì ngoài
một biển rêu xám, lác đác điểm xuyết bằng những tảng đá xám,
những hồ nhỏ màu xám, những con suối nhỏ màu xám. Bầu trời
cũng xám. Không có nắng, cũng chẳng thấy dấu hiệu gì của mặt
trời.” [42, tr.25].
Khung cảnh hoàn toàn tĩnh mịch, đặc một màu xám xịt thiếu sức
sống trở nên thật đáng sợ với một người đang bị thương, không có thực
phẩm, súng không có đạn, bị mất phương hướng, và cô đơn. Người đàn ông

73
trở nên nhỏ bé, cảm thấy hãi hùng trước một màu xám chết chóc đáng sợ.
Thiên nhiên lúc này như đang giơ bàn tay chết chóc của mình, bóp chặt lấy
sinh mạng đang thoi thóp kia, buộc hắn phải giãy giụa mà sống. Hắn đã
phải ăn những thứ kinh khủng nhất, phải chiến đấu với thú dữ bằng bản
năng của một sinh vật – người gớm ghiếc nhất… để được sống. Thiên
nhiên trong truyện là vùng đất lạ lẫm, cái đói và rét khiến hắn như bị ảo
giác. Và hơn bao giờ hết, hắn phải tự chống chọi lại ảo giác đó. Thiên
nhiên xa lạ nơi đây đang bủa vây con người.
Điều độc đáo Jack London thực hiện để tăng thêm tính khốc liệt cho
thiên nhiên và tăng thêm tính anh hùng cho nhân vật là tạo xung đột vô
cùng lớn giữa hai đối tượng này. Đó là đối lập về sức mạnh, về sự hung
tợn, tàn khốc, đối lập giữa cái rộng lớn, hoang vu với cái nhỏ bé, cô đơn.
Nhưng con người với trí tuệ vốn có, khát khao sống cùng bản năng sống
mãnh liệt đã nhiều lần chiến thắng thiên nhiên một cách ngoạn mục.
Không gian đầy sự hãi hùng và đáng sợ của vùng phương Bắc xa xôi
ám thị không gian xã hội tàn khốc, vô tình và vô cùng nhẫn tâm của con
người. Không gian của những hoang vu, mịt mùng bão tuyết và gió hú,
những con chó sói điên cuồng vì đói, những trận rét bất ngờ mang theo
những hiểm họa đáng sợ là những mối đe dọa khủng khiếp với con người,
giống như những cuộc vật lộn tàn khốc giữa con người với con người trong
xã hội hiện tại, cũng để tranh giành miếng ăn, manh áo và sự sống. Giữa
băng tuyết mịt mùng và sự đe dọa của chó sói, băng tuyết, đói rét, chết
chóc, nhờ tình yêu và niềm tin vào cuộc sống, nhờ sức sống mãnh liệt của
con người, những người đã tàn tạ vì thiên nhiên đã chiến thắng, đã sống
sót, bảo tồn được sự sống và vươn lên. Và quan trọng hơn, đó là trong
những hoàn cảnh vô cùng đặc thù đó, hình ảnh người anh hùng đơn độc
hiện lên, oai hùng giữa thiên nhiên, một mình chống chọi lại thiên nhiên,

74
thậm chí là quyết tâm chiến thắng chính bản thân mình như nhân vật gã
trong Tình yêu cuộc sống. Như vậy, tuy nghiệt ngã, nhưng thiên nhiên đã
có vai trò hết sức quan trọng trong việc tạo dựng nên tư thế người anh hùng
trong những bản anh hùng ca của Jack London. Thiên nhiên vì thế cũng
như một người hùng, đem sự nguy hiểm và tàn bạo của mình để thử thách
những con người – những anh hùng, buộc họ phải thể hiện bản lĩnh của
mình. Trong hoàn cảnh đó, con người luôn đấu tranh tư tưởng vô cùng
mạnh mẽ, là phải sống; và dù thành công hay thất bại, họ vẫn là những
người hùng đáng trân trọng nhất. Bối cảnh rất độc đáo và lạ đó tạo nên
phong cách rất riêng cho Jack London, đồng thời cũng là sự sáng tạo ra một
phong cách sử thi mới lạ của văn học hiện đại.
3.2. Không gian biển cả phƣơng Nam
Ngược phương Bắc xuống phương Nam ấm áp, người đọc lại được
Jack London đưa vào những cuộc phiêu lưu mới. Nơi đây tuy không có
những trận rét thấu xương, không có tuyết trắng phủ tận chân trời, cũng
không có bão tuyết, chó sói, nhưng lại có vô vàn những thử thách khác của
thiên nhiên đang đe dọa con người. Phương Nam ấm ấp với khung cảnh
mênh mông của biển, của những con thuyền đi tìm ngọc trai, nhưng đảo
san hô vắng bóng người, những con người lao động cần cù, vất vả là những
hình ảnh mới mẻ nhưng rất quen thuộc trong truyện ngắn Jack London, tạo
cho người đọc những cảm hứng mới, những chuyến phiêu lưu mới không
kém phần nguy hiểm, gian lao. Đưa người đọc từ phương Bắc xuống
phương Nam xa xôi sóng gió, nhà văn đã chứng tỏ được cho độc giả khát
khao mãnh liệt đi tìm và chinh phục vùng đất mới, lạ, hoang sơ. Những tác
phẩm tiêu biểu về đất phương Nam trong sự nghiệp của Jack London là
tiểu thuyết Sói biển (The Sea-Wolf),... các truyện ngắn Ngôi nhà của
Mapuhi; Solomon quần đảo khủng khiếp; Kho tàng ngọc trai; Sóng lớn

75
Kanaka,... Đất phương Nam gắn với hình ảnh những người thổ dân, những
núi non hiểm trở,... là sự thôi thúc mạnh mẽ ngòi bút ham thích mạo hiểm
này. Và ở đó, cùng với không gian biển đầy nắng ấm, gió biển chan hòa và
lòng yêu lao động của những con người hiền lành là những cuộc đấu tranh,
vẫn là những cuộc đấu tranh giữa con người với thiên nhiên và chính con
người với nhau.
3.2.1. Biển cả – Không gian hoang sơ, tráng lệ
Cuộc chinh phục biển của Jack London cũng như cuộc chinh phục
băng tuyết lạnh lẽo của phương Bắc, đã thể hiện rõ nét hơn khát khao chinh
phục nhưng miền đất “hoang dã” của ông. Và vì thế, hình ảnh biển trong
các tác phẩm của ông hiện lên hùng vĩ một cách nguyên thủy, hoang sơ hơn
bao giờ hết. Trong truyện Những người thích đùa ở New Hibbon, hòn đảo
được miêu tả là nơi “giàu có và hoang dại” thuộc quần đảo Solomon đã
thực sự gây ấn tượng với người đọc bởi vẻ đẹp nơi đây:
“Dưới làn gió nhẹ, thân tàu khẽ lười biếng lắc lư trên mặt biển sáng
như gương, tỏa ra những con sóng nhỏ. Đã sắp qua mùa mưa, không
khí nặng và ẩm, trên bầu trời, những khối mây đủ hình trôi chậm.
Chúng tạo nên trên đảo một màu xám, đây đó ảm đạm hiện ra những
đường vòng của bờ biển và những đỉnh núi thấp. Một nơi đảo rực rỡ
dưới tia nắng mặt trời nóng bỏng, còn nơi kia, chỉ cách đấy một dặm,
chìm ngập trong làn mưa dày đặc” [42, tr.56].
Hòn đảo hiện lên như một bức tranh kỳ vĩ của thiên nhiên, đồng thời
thể hiện đầy đủ nhất tính chất của thiên nhiên nơi hòn đảo hoang vắng này.
Nơi đó, những người thổ dân ngự trị, cũng hoang dại như thiên nhiên, và
trở thành nỗi khiếp sợ của nhiều tay đi biển. Cuộc sống gần gũi với biển ở
vùng nắng gió Hawaii và khí hậu vùng Hawaii cũng khiến Dorothy
Sambrooke “chín một cách nhanh chóng”.

76
“... thế mà bây giờ mắt cô đã ánh lên rực rỡ, đôi má đỏ ửng vì mặt
trời, người cô đã bắt đầu hình thành những nét uyển chuyển, cong
cong, phải chú ý lắm mới nhận ra... bây giờ đối với cô, cuốn sách
cuộc đời còn hay hơn nhiều. cô cưỡi ngựa, leo lên tận đỉnh của các
núi lửa, tập bơi trên các con sóng của thủy triều. Khí hậu và môi
trường nhiệt đới đã thấm vào máu cô, làm cô chìm ngập trong ánh
nắng rực rỡ, trong cái ấm và vẻ đẹp nhiều màu sắc của nó”
Cái nắng ấm của vùng biển phương Nam làm cho nước biển nơi đây
như trong xanh hơn, lãng mạn và huyền diệu hơn. Qua ngòi bút đặc tả của
Jack London, cái xanh huyền bí ấy còn trở nên biến hóa muôn màu hơn
nữa, tạo nên cái lung linh, rực rỡ vô cùng của biển:
“ Màu xanh lục sáng dần rồi chuyển thành màu xanh lam. Và màu
xanh lam này lóe dần lên trong ánh mặt trời thành muôn vạn tia lấp
lánh màu hồng và màu kim tuyến. Cả một đám màu sắc dâng lên cao,
cao nữa, đến tận đỉnh bạc đầu, lan tỏa mãi cho đến khi toàn thể ngọn
sóng thành một khổi loang loáng những ánh cầu vồng màu sắc”.
Những sự chuyển hóa tinh tế và nhanh chóng được Jack London
chớp lại như một bức ảnh sắc nét và rực rỡ sắc màu, tạo nên một cảnh
tượng biển đẹp và quyến rũ hơn bao giờ hết. Không chỉ thể hiện sự am hiểu
về biển, Jack London còn để người đọc thật ngạc nhiên bởi những cảm thụ
tinh tế về màu sắc, nhờ vậy, biển cả của Jack London thực sự đã chinh
phục lòng người đọc, không chỉ như những gã khổng lồ đáng sợ mà còn là
một nhân vật trữ tình hết sức thân thiện và đáng yêu.
Jack London đã thực sự thành công khi lột tả được rõ nét nhất cái
hồn và sức sống đầy hoang dại của vùng biển xa xôi. Biển và con người
hòa quyện, quất quýt như những người bạn vô cùng thân thiết, từ đó, người
đọc càng say mê hơn với những con sóng, những cái nắng và những trận

77
bão táp dữ dội, thấy được tính tráng ca oai hùng trong những câu chuyện vô
cùng hấp dẫn về biển.
Truyện ngắn có tiêu đề hết sức độc đáo A!A!A (Yah! Yah! Yah!) nói
đến cuộc sống và những cuộc đấu tranh khắc nghiệt, tuy nhiên, hình ảnh
thiên nhiên đẹp đẽ nơi đây cũng khiến Jack London không thể làm ngơ:
“Vào một chiều nóng nực, McAllister và tôi ngồi trên hành lang nhìn
ra Hồ Nước Mặn lấp lánh muôn vàn màu sắc như châu ngọc, đến kỳ
diệu. Phía sau chúng tôi, một trăm mét chạy dài trên bãi biển có lưu
thưa mấy cây cọ, sóng cồn vỗ ầm ầm vào đá ngầm.” [43, tr.291, 292]
Thiên nhiên mang vẻ đẹp lạ lẫm và hoang sơ vẫn luôn đẹp và lung
linh với màu sắc châu ngọc, với những cây cọ lưa thưa và sóng vỗ. Có thể
thấy, Jack London có đặc tài miêu tả biển, bởi trong các câu chuyện của
ông, dù cuộc đấu tranh giữa con người với con người có khắc nghiệt đến
đâu, ngòi bút miêu tả đấu tranh ấy có khắc nghiệt đến đâu thì thiên nhiên
vẫn được ông ưu ái miêu tả đẹp đẽ và huyền bí nhất.
Jack London còn thể hiện sự am tường đặc biệt của mình về những
con sóng.
“Ở Waikiki có hai loại sóng: sóng lớn, sóng bạc đầu Kanaka tức là
sóng ông, lồng lộng tít tận ngoài khơi và sóng nhỏ gọi là sóng
Vakhina, nghĩa là sóng bà, vỗ nhẹ vào bờ. Dọc bờ biển là một giải
nước nông khá rộng. Ở chỗ này có thể lội ra xa tới một trăm hoặc hai
trăm phút vẫn chưa ngập đầu. Tuy nhiên nếu như sóng ông lồng lộng
ngoài khơi thì sóng bà cũng cao đến ba – bốn phút, cho nên ngay sát
bờ, đáy nước có thể sâu từ ba insơ đến ba phút, nếu tính từ đáy lên
đến đỉnh sóng ngầu bọt trắng xoá.”.
Những con sóng là biểu tượng hết sức đặc trưng của vùng biển phía
Nam, và sóng ở Kanaka dường như tiêu biểu hơn cả. Đó là những con sóng

78
mà không phải ai cũng đủ hiểu biết và dũng cảm để thả tính mạng mình vào
nó. Chỉ có những con người phi thường như vợ chồng Lee và Ida Barton
mới dám làm những việc bị coi là điên khùng nhưng rất được ngưỡng mộ
đó. Quả thực, con người và thiên nhiên nơi đây đưa người đọc hết bất ngờ
này đến bất ngờ khác, như bản trường ca về sức mạnh, trí tuệ và sự kiên
cường của con người; về sự hùng vĩ, tráng lệ và đầy thách thức của thiên
nhiên. Thiên nhiên khác thường sinh ra những con người phi thường, những
con người bất chấp thiên nhiên dữ dội và luôn chứng tỏ mình hoàn toàn có
thể chế ngự nó. Những con người đó, có kẻ thành công, kẻ thất bại, nhưng
không thể phủ nhận mỗi quan hệ cộng sinh vô cùng bền chặt.
3.2.2. Biển cả – chốn “hoang dã” đậm chất sử thi phương Nam
Nhưng thành công hơn khi miêu tả biển cả có lẽ phải nhắc đến
những trận cuồng phong của nó. Đến đây, biển cả mới thực chất thể hiện
bản tính của mình, dữ dội và hiểm ác, có thể đem đến cái chết cho con
người bất kể lúc nào. Và cũng trong hoàn cảnh đó, tính cách con người anh
hùng của nhân vật Jack London thực sự được bộc lộ.
Ở nơi sóng gió này, con người ngày ngày phải đối mặt với những
trận cuồng phong của biển cả, những cơn bão thường xuyên hoành hành,
cướp đi sinh mạng và của cải của những con người lao động. Cùng với đó
là những hiểm họa đáng sợ như cá mập, những cơn đói và khát khi lạc vào
đảo hoang. Trong hoàn cảnh đó, con người cũng đã bộc lộ hết những phẩm
chất quý báu của họ. Những hòn đảo nhỏ, ít người sống, ít người qua lại
như chiếc lá dập dềnh giữa biển, số phận những con người ở đây cũng
mỏng manh như vậy, luôn bị đe dọa bởi những cơn bão biển dữ dội; nhưng
khát vọng sống của họ vẫn luôn mãnh liệt. Cũng giống như người phương
Bắc gan góc và không sợ hiểm nguy, hay những người da đỏ phương Bắc
dũng mãnh như những con gấu, băng tuyết không làm nao núng tinh thần

79
họ, người phương Nam với những thổ dân da đen, sức khỏe phi thường,
được ví như những con cá của đại dương cũng rất dũng cảm, không sợ
sóng gió, sẵn sàng lao vào nguy hiểm để cứu đồng loại; hay những tay
thuyền trưởng vạm vỡ, dũng mãnh đối đầu với sóng dữ; những thủy thủ
người Kanaka vui vẻ, hòa đồng, cùng xông pha vào chốn nguy hiểm…
Tất cả tạo nên một thế giới nhân vật mới, anh hùng, mạnh mẽ, tạo nên
bản anh hùng ca hùng tráng về biển cả, mà nơi đó, trước thiên nhiên
hung dữ, con người trở nên vĩ đại, đáng ngưỡng mộ hơn bao giờ hết.
Ở phương Bắc, con người lao vào những chốn nguy hiểm với mục đích
tìm kiếm vàng, thỏa mãn ước mơ làm giàu nhanh chóng, thì ở phương Nam,
con người lại lao vào những cuộc tìm kiếm ngọc trai. Ước mơ làm giàu trong
xã hội tư bản khiến con người không từ bất cứ khó khăn nào để đạt được mục
đích. Và những viên ngọc như trở thành mục tiêu lớn nhất trong những
chuyến ra khơi của họ. Nhưng thiên nhiên khốc liệt không để cho ước mơ của
họ được thực hiện một cách dễ dàng. Sóng gió luôn là kẻ tử thù với con
người. Trong những truyện ngắn viết về phương Nam, dường như không bao
giờ thiếu vắng sự xuất hiện của bão. Bão cũng giống như tuyết ở phương Bắc
được hóa thân thành nhân vật tử thần, bằng sự nguy hiểm của mình đẩy con
người vào tình trạng cận kề với cái chết; thử thách lòng dũng cảm của con
người, đồng thời cũng đem lại vô vàn bất hạnh cho họ.
Truyện ngắn Ngôi nhà của Mapuhi là câu chuyện tiêu biểu nhất cho
hình ảnh phương Nam và tiêu biểu cho tính kiên cường của người phương
Nam. Hòn đảo Hikukeru xinh tươi và bình yên bất ngờ bị một cơn bão lao
đến và cuốn phăng tất cả:
“Tiếng sóng ầm ỳ rung chuyển ngôi nhà. Họ chạy ra ngoài. Chiếc
Aorai đang nằm tê liệt cách bờ khoảng chừng một dặm, bị đầy đọa
bởi thứ mặt biển độc ác, điên cuồng. Gió thổi theo hướng đông bắc,

80
như giận dữ chỉ muốn bứt nó khỏi các dây neo, ném nó tan tành vào
các bờ đá san hô. Một trong các thủy thủ trên xuồng giơ tay ra hiệu
cho Raoul và chỉ vào miệng chiếc kênh hẹp, lối ra vô của các xuồng.
Họ nhắm mắt, lắc đầu cho thấy sự thất vọng. Chàng nhìn thấy những
lớp bọt trắng xóa, cuồn cuộn, hỗn loạn đổ từ ngoài vào” [42, tr.150].
Jack London có biệt tài miêu tả sóng dữ với những trận cuồng phong
khủng khiếp. Nếu miêu tả tuyết trắng, ông chủ yếu tập trung vào sử dụng
màu sắc để nói nên sự chết chóc: màu trắng, màu xám, sự im lặng tuyệt đối
để làm nổi bật không gian hoang sơ, tĩnh lặng và ẩn chứa những nguy hiểm
bất ngờ… thì miêu tả bão và sóng, Jack London lại sử dụng những hình
ảnh gợi hình và gợi âm thanh cao, nhằm khắc họa sự dữ dội, ồn ào và nhấn
mạnh tính chất tàn khốc.
Cơn bão bất ngờ đổ bộ vào hòn đảo san hô nhỏ bé trở thành nỗi hãi
hùng đáng sợ của con người. Hòn đảo dường như bị trận cuồng phong san
phẳng, cây cối đổ nát, nhà của bị cuốn phăng, người chết không kể xiết,
người mất tích hoặc bị cuốn trôi ra biển, trong số đó có bà Nauri.
“Chàng nhìn về phía ngôi nhà của vị thuyền trưởng. Nó cũng đã biến
mất. Chàng bất ngờ nhìn sang chỗ thuyền trưởng Lynch đúng lúc sự việc
xảy ra. Thân cây gãy đôi, tan vụn ở chỗ bị bẻ không có tiếng động.”
“Mười dặm ngang qua mặt hồ là vòng cát san hô. Ở đấy nhấp nhô
các thân cây, xác xuồng, xác nhà; mười người sống sót trên mặt hồ
thì đến chín người bị đập vào những thứ hỗn tạp đó mà chết. Nhưng
Mapuhi gặp may. Sự may mắn của hắn thuộc một trong mười phần,
chỉ con bé N’gakura bị thương, gãy cánh tay trái, các ngón tay mặt bị
nghiền, mặt và trán toác tới tận xương. Hắn bám được một cây cụt
hãy còn đứng và trèo lên, mang theo đứa con gái, cột mình vào đó
trong khi nước hồ tràn tới đầu gối, lúc cao thì tới ngang bụng.”

81
Những hình ảnh dữ dội và âm thanh hỗn tạp những tiếng sóng, tiếng
la hét trở nên vô cùng quen thuộc trong những câu chuyện về đại dương
của Jack London. Nó đối lập với không gian phương Bắc những không
kém về tính chất nguy hiểm. Trong Kho tàng ngọc trai, hình ảnh những
cơn sóng dữ tợn được tác giả khắc họa rõ nét, sống động, làm nổi bật tính
chất hung bạo của tự nhiên:
“Trên mặt hồ mặn hình như hiện ra một lớp màn mỏng bị thủng lỗ
chỗ trông thật quái đản, di động như bay. Đi trước nó, dọc theo đảo
san hô, và di động với cùng một vận tốc là một cơn gió mạnh khiến
rặng dừa phải rạp ngọn xuống và các tàu dừa lờ mờ tung bay phấp
phới. Đường ranh trước của cơn gió trên mặt biển là một giải nước
sẫm màu, gợn sóng, hợp thành một khối có giới hạn rõ rệt. Từng đợt
gió mạnh mở đường cho giải nước ấy giật từng cơn khác nào từng
loạt súng bắn lẻ tẻ. Phía sau giải nước là một vùng biển trông phẳng
lặng như tấm kính rộng chừng một phần tư dặm, rồi đến một giải
nước sẫm nữa lộng gió và sau đó đầm nước mặn nhấp nhô sóng nhồi,
tung bọt trắng phau réo sôi sùng sục.”
Khác với thiên nhiên mang tính chất hùng vĩ, đẹp mê hồn và đóng
vai trò vô cùng quan trọng góp nên thành công trong khúc tráng ca của
người anh hùng, cùng với người anh hùng tạo nên chiến công kỳ vĩ, thì
thiên nhiên trong truyện ngắn Jack London vô cùng nghiệt ngã. Trong sự
hung dữ của biển cả, bão tố, có sự hùng vĩ, rộng lớn, mạnh mẽ như sử thi,
nhưng thêm vào đó còn là sự chết chóc, là màn đêm u tối trong Ngôi nhà
của Mapuhi hay của bầu trời xám xịt ẩn dấu đầy những gió xoáy, mưa
giông trong Kho tàng ngọc trai. Trong truyện ngắn Jack London, con người
rợn ngợp trước thiên nhiên, bị bao trùm hoàn toàn, và bị động một cách
đáng sợ. “Mặt biển trắng ngầu những bọt nước réo lên sùng sục, cuộn mình

82
thành những đợt sóng nhỏ tung toé. Bỗng tàu Malahini rung động dưới
chân họ”. Thiên nhiên như sẵn sàng bủa vây lấy con người, quăng quật cho
đến khi không còn sự sống.
“Tất nhiên sóng biển dâng lên dữ dội theo trận cuồng phong, và tôi
không tài nào quên được ba đợt sóng đầu tiên mà chiếc Petite Jeanne
phải chịu đựng. Nó ngừng hẳn lại như các tàu bè khác khi phải đi
ngược chiều gió, và đợt sóng đầu tiên dâng tràn hẳn lên thuyền.
Những dây cấp cứu chỉ có ích cho người khỏe mạnh, nhưng lần này
chúng cũng chẳng hiệu nghiệm mấy khi đàn bà, con nít, chuối dừa,
heo và các hành lý cùng những người ốm, người đang hấp hối đã bị
sóng đánh dạt đi, xô cả vào nhau thành một khối vừa rên la, vừa kêu
khóc.”… tôi không thể tưởng tượng được gió lại có thể thổi mạnh
đến thế. Không có bút nào tả xiết được. Bạn có thể nào tả được một
cơn ác mộng không? Tả trận gió này cũng thế. Gió xé nát, và tước
hết quần áo trên người chúng tôi”. (Kẻ bỏ đạo, Jack London)
Tuy nhiên, những mối đe dọa từ biển cả không chỉ là những con
sóng dữ. Nếu ở vùng phương Bắc giá lạnh xa xôi, đồng hành cùng người đi
đường và luôn rình rập để cướp đi mạng sống của người đi đường là những
con chó sói đói gớm giếc, thì ở đại dương đầy sóng gió này, người đi biển
phải đối mặt với cá mập. Cá mập trở thành nỗi sợ hãi lớn nhất của con
người khi không may bị trôi ra biển. Trong ngôi nhà của Mapuhi, bà Nauri,
một bà già đã gần đất xa trời, dũng cảm vượt biển bằng một chiếc bè tự
chế, bơi vào bờ và luôn luôn bị cá mập đe dọa. Nhưng bằng sự thông minh
và kinh nghiệm của một người dân biển, bà đã thắng được chúng, một cách
vô cùng liều lĩnh là đánh đuổi chúng trước khi chúng kịp ăn thịt mình.
“Nhưng bỗng mụ sợ hãi tột độ: ngay trước mặt mụ, cách khoảng
năm sáu thước, vây một con cá mập lù lù xuất hiện, nhô trên mặt

83
nước. Mụ lại đang bơi về phía nó mới chết. Nó cắt ngang qua trước
mặt mụ một cách chậm chạp, đánh một vòng rộng và từ từ lượn
chung quanh mụ. Lúc cái vây hình tam giác trầm xuống, mụ úp mặt
dưới nước mở mắt ngó trộm nhưng chẳng trông thấy gì hết. Lúc nó
nổi lên ở phía sau, mụ ra sức bơi nhanh hơn. Con quái vật này lười –
mụ thấy rõ điều đó. Chắc nó đã no nê xác chết trên biển do trận
cuồng phong gây ra. Nếu đói, nó đã không lưỡng lự gì mà không
nhào vào mụ. Nó dài ít nhất năm thước, mụ hiểu chỉ một cái tợp của
nó, thân thể mụ sẽ đứt đôi ngay lập tức. Nhưng mụ không có cách
nào chọn lựa. Nếu không cố gắng bơi tiếp, nước sẽ kéo mụ lại – cũng
thế cả thôi.”
“…Nếu cứ để như vậy đằng nào cũng chết, nó sẽ “đớp chơi” mụ dù
bụng đã no. Mụ phải ra tay trước. Đó là một hành động liều lĩnh mà
mụ đã suy nghĩ rất kỹ. Mụ đã già, một mình ở trên mặt biển, kiệt sức
vì đói khát và quá cực khổ; giờ đây, trong cơn nguy hiểm, đối diện
với con quái vật, mắt nó đang tho lỏ nhìn mụ, lưỡng lự, thay vì nó
xông vào mụ thì mụ sẽ xông vào nó trước” [42, tr.162].
Trong truyện ngắn Kẻ vô tín ngưỡng (The Heathen), Otoo đã bỏ
mạng vì cá mập để cứu Charley và trở thành một trong những hình tượng
vô cùng đẹp đẽ trong truyện ngắn Jack London: một người da đen, không
theo bất cứ thứ đạo nào, trong con người anh chỉ có sự dũng cảm, nghĩa
hiệp: “Tất cả dân Borabora đều theo đạo Thiên Chúa, nhưng hắn lại là kẻ tà
giáo, kẻ vô tín ngưỡng độc nhất trên đảo, một người hết sức duy vật, cho
rằng chết là hết. Hắn chỉ tin ở sự đối đãi, ăn ở ngay thẳng với mọi người.
Theo hắn những việc tầm thường ở đời cũng quan hệ như một hành động
sát nhân, và tôi tin rằng hắn sẽ kính nể một kẻ sát nhân hơn một kẻ có
những cử chỉ ti tiện bẩn thỉu.” [35]

84
Otoo với sự kính trọng vô cùng với người hắn gọi là “thầy” đã không
sợ hi sinh, cố gắng ngăn chặn con cá mập, đánh lạc hướng nó để Charley
bơi được đến bờ. Có thể nói, đó là sự hi sinh anh dũng nhất, đẹp đẽ nhất,
thể hiện một tinh thần vì bạn bè vô cùng đáng kính trọng của Otoo.
“Tôi đổi chiều bơi và tung tay ra nắm đại. Lúc đó tôi chỉ còn hơi tỉnh.
Khi tay tôi nắm được sợi dây, tôi nghe thấy trên thuyền kêu lớn. Tôi
quay lại nhìn thì không thấy bóng Otoo đâu cả. Một lát sau, hắn mới
ngoi lên, hai bàn tay hắn đã bị cụt lủn, máu me ở cổ tay phun ra” [35].
Từ những câu chuyện thiên nhiên hung dữ, nhà văn đã khắc họa hình
ảnh con người nổi bật lên giữa thiên nhiên, đó là những con người với ý chí
và nghị lực phi thường, cùng lòng ham sống bất diệt đã vượt qua thử thách,
thậm chí là chiến thắng cái chết để trở về. Bà Nauri trong Ngôi nhà của
Mapuhi là một người phụ nữ đáng kính như thế.
Xây dựng nhân vật anh hùng trong hoàn cảnh vô cùng khắc nghiệt,
Jack London muốn thể hiện những khát vọng được chiến thắng thiên nhiên,
được giải thoát khỏi cuộc sống lam lũ cơ cực, nơi mà sự bất công, đối lập
ngày một hiển hiện và rõ ràng. Nhưng trên hết, thiên nhiên và con người
trong truyện ngắn Jack London mang một phẩm chất anh hùng quen thuộc
và đáng ngưỡng mộ: đó là một khung cảnh thiên nhiên khắc nghiệt, ghê rợn
nhưng hùng vĩ, rộng lớn, và phần nào đó tạo ra tính cách người anh hùng;
tuy không hỗ trợ cho người anh hùng, nhưng trở thành nhân tố tạo ra người
hùng; và con người đặt trong thiên nhiên khắc nghiệt đầy hiểm nguy đó
buộc mình phải trở thành những người anh hùng. Đó là những người hùng
đáng trân trọng nhất: trong khó khăn, đối mặt với cái chết cận kề, họ hiên
ngang, anh dũng, thông minh, nhạy bén để chiến thắng tất cả. Hơn thế nữa,
đó còn là sự hi sinh vì đồng loại, xả thân cứu bạn bè mặc dù biết mình có
thể chết. Những tính cách đẹp đẽ đó là sáng tạo vô cùng độc đáo của Jack

85
London, đồng thời cũng là mong muốn, kỳ vọng của ông vào con người,
những con người đau khổ mà ông thông cảm, thấu hiểu hơn ai hết.
Thiên nhiên dữ dội luôn trở thành cảm hứng cho con người. Vậy
nên, hành trình của các nhân vật trong truyện ngắn của ông là hành trình
của những cuộc phiêu lưu kỳ thú. Đó có thể là những cuộc phiêu lưu chủ ý
của nhân vật, nhưng cũng là những cuộc phiêu lưu của số phận, là những
con người bị đặt trong hoàn cảnh buộc phải phiêu lưu, bởi họ chỉ có hai con
đường, hoặc sống, hoặc chết.
Đó là cuộc phiêu lưu trên những con sóng ông bạc đầu Kanaka đầy
thú vị, nguy hiểm nhưng càng nguy hiểm thì càng gây thích thú: “Điều
thích thú nhất của họ là đùa rỡn trên ngọn sóng rồi đột nhiên rướn cả người
lên khỏi mặt nước, bay cùng với đợt sóng vào bờ như một mũi tên.” (Sóng
lớn Kanaka (The Kanaka Surf)); hay những cuộc phiêu lưu đến những
vùng đất cách xa nền văn minh, vùng đất khiến con người có thể liên tưởng
đến địa ngục, và muốn tồn tại phải luôn cần sự thận trọng, may mắn, gan
góc và liều lĩnh, luôn muốn tìm hiểu “Cuộc sống bão táp và đầy nguy hiểm
trên quần đảo Solomon”, với những căn bệnh quái ác, những tên ăn thịt
người chính cống, những cuộc phục kích, tấn công của những kẻ nguyên
thủy trong rừng và những thủy thủ các con tàu đi qua đây,... (Solomon,
quần đảo khủng khiếp (The Terrible Solomons)). Tất cả tạo nên sức lôi
cuốn tuyệt vời trong các sáng tác của nhà văn, thể hiện không những sự
hiểu biết tường tận thiên nhiên và con người nơi phía Nam, mà hơn cả đó là
tình yêu, là sự khát cuộc sống tự do, phóng khoáng của ông.
3.3. Không gian xã hội đối chọi khốc liệt
Trong cuốn Tác gia văn học Mỹ (thế kỷ XVIII – XX), tác giả Lê
Đình Cúc đã khẳng định Jack London là nhà văn vô sản đầu tiên của nước
Mỹ. Với Jack London, văn học Mỹ bắt đầu một dòng văn học mới: dòng

86
văn học vô sản, và cũng vì lý do đó, Jack London cùng hai nhà văn khác
được gọi là những nhà văn khuấy bùn của nền văn học Mỹ cuối thế kỷ
XVIII, đầu thế kỷ XIX, là Stephen Crane và Theodore Dreiser. Với tinh
thần của một nhà văn vô sản, các sáng tác của Jack London ngoài những
câu chuyện về những chuyến phiêu lưu đầy mạo hiểm còn là những câu
chuyện mang đậm tính nhân văn khi phản ánh một xã hội đối chọi khốc liệt
giữa con người với con người để nói lên nỗi thông cảm, sự chia sẻ, tình yêu
thương vô hạn với con người của nhà văn. Và từ đó, nhà văn thể hiện khát
khao tự do, khát khao sống cuộc sống công bằng với tất cả mọi người.
Sự khốc liệt của môi trường xã hội trong truyện ngắn của Jack
London là những sự đối chọi, là sự đấu tranh giai cấp căng thẳng, nhưng
điều độc đáo của Jack London là phát hiện ra những tâm hồn, những tính
cách đáng quý, những tư tưởng tiến bộ vượt trội của những con người
mang tầm vóc sử thi. Tuy sự đối chọi đó là khốc liệt đầy đau đớn nhưng
trên cả là nỗi lòng khao khát tự do, khao khát được sống cuộc sống lẽ ra họ
(những nhân vật) trong chuyện thuộc về.
Đọc Trường ca Mahabharata, chúng ta bị lôi cuốn bởi những quan
cảnh chiến tranh tràn ngập hào khí và sôi động. Không gian chiến trận
trong tác phẩm này là một không gian đa chiều, những người anh hùng của
nhân vật sử thi được khắc họa một cách đậm nét. Dường như chiến trận trở
thành một sân khấu rộng lớn và hoành tráng để họ có thể bộc lộ và thể hiện
hết tài năng kiệt xuất của mình. Không gian chiến trận là nơi các anh hùng
thực sự được ghi nhận, là nơi làm sáng rực lên hào quang chiến thắng của
họ. Đó là sự đối chọi giữa Arjuna và Duryodhana, một hình tượng chiến
tranh vô cùng tiểu biểu của văn học cổ đại Ấn Độ, “Trong văn học thế giới,
có lẽ khó tìm thấy những đoạn văn mô tả cảnh chiến tranh đặc sắc như thế”.
Tuy nhiên sự đối chọi trong các tác phẩm của Jack London không giống bản

87
anh hùng ca hùng tráng đó, mà đó là sự đối chọi của hai giai cấp, bóc lột và
bị bóc lột. Nhưng điều luận văn muốn khai thác là tính sử thi đẹp đẽ và cao
cả mà Jack London đã làm được khi miêu tả những sự xung đột đó.
3.3.1. Không gian tranh đấu của những con người khát khao tự do
Trước hết là lòng khát khao tự do, trở về với thế giới đẹp đẽ của sự
hoang dã, nguyên thủy của con người. Đó có thể là sự trốn chạy khỏi thế
giới văn minh, nơi mà con người đang cố giằng giật nhau từng miếng cơm
manh áo, đang phải sống chui lủi trong những nơi tối tăm, tồi tàn, phải lao
động vất vả để chạy về với thiên nhiên rộng lớn, mênh mông, thỏa sức chạy
tự do trên những cánh đồng cỏ bát ngát. Đây chính là nỗi lòng của Lucy
trong truyện Người đàn bà sinh đêm (The Night Born). Lucy có lẽ là người
phụ nữ đặc biệt nhất trong truyện ngắn của Jack London. Đó là một người
phụ nữ da trắng, sinh ra trong một gia đình người da trắng di cư đến miền
biên giới, cuộc sống của họ chỉ có làm việc và làm việc. Sau đó ít lâu, họ bị
khánh kiệt, cả nhà bị đói và phải di cư về Seattle. Ở đó, Lucy làm việc cho
một công xưởng, công việc quá nặng nhọc và ngày làm việc thì quá dài, sau
đó, nàng xin vào quán rượu tồi tàn làm hầu bàn. Nhưng cuộc sống đó hoàn
toàn không phù hợp với một người phụ nữ thích tự do và lãng mạn như
nàng. Từ khi còn sống cùng gia đình ở miền biên giới, nàng đã cảm thấy vô
cùng bức bối với cuộc sống hiện tại, và hướng đến cuộc sống tươi đẹp mà
nàng biết nó ở ngay bên cạnh nàng. Những ám ảnh về cuộc sống tự do với
tiếng chim hót líu lo vào mùa xuân, được chạy nhảy trên cánh đồng cỏ cao
ngút cho đến khi chân ướt đẫm sương mai, bỏ trốn vào tít trong rừng, leo
lên tận đỉnh đèo và ngắm nhìn tất cả... và tự ví mình như một con thú hoang
muốn dạo chơi dưới bầu trời đầy sao trong đêm, nàng luôn khao khát được
tự do, được chạy một mạch và không bao giờ ngoái đầu lại cái thế giới tù
túng nàng đang sống. Cuộc sống hôn nhân cũng không giữ chân được nàng

88
khi nàng bị biến thành đầy tớ không công cho quán rượu của gã chồng. Một
sinh vật vốn quen với chốn sơn lâm hoang dã, với bản năng nguyên thủy,
với khát vọng tự do đến điên cuồng đã không thể chấp nhận nổi cuộc sống
bẩn thỉu trong quán rượu, và cuối cùng nàng đã bừng tỉnh: “Đúng tôi là
người sinh vào ban đêm”. Nàng đã chống cự lại người chồng như chống lại
chính thứ gông cùm mà xã hội đã tạo ra cho nàng, và nàng đi theo những
người da đỏ về nơi mà nàng nói nó thuộc về nàng. Cuộc chống cự đó như
ngọn lửa le lói, đã được ủ bấy lâu nay và nay đã được thổi bùng lên; bản
lĩnh của người con gái nhỏ bé nhưng vô cùng mạnh mẽ đã khiến nàng chiến
thắng tất cả, chiến thắng sự tù túng, sự giam hãm của xã hội, chiến thắng
chính bản thân mình để được sống cuộc sống đúng nghĩa của con người, là
cuộc sống tự do. Có thể nói Lucy dũng cảm hơn bất cứ người đàn ông nào
trong xã hội đó, cuộc sống của những con người lao động dưới đáy xa hội,
bởi có lẽ không ai dám từ bỏ cuộc sống hiện tại của mình – dù biết cuộc
sống đó đầy những đau khổ. Câu chuyện của Jack London mang chút lãng
mạn, nhưng là sự lãng mạn xuất phát từ chính thực tế cuộc sống, sự lãng
mạn đó luôn có thể thành hiện thực với những người mang cá tính mạnh
mẽ và khao khát sống tự do như Lucy.
Người đọc có thể thấy bóng dáng tác giả trong con người Lucy khi
chính nhà văn cũng là một người sống phóng khoáng và thích phiêu lưu.
Bằng chứng là những chuyến lên phương Bắc đầy thử thách, những chuyến
vượt biển với bao gian nan, nguy hiểm, và bây giờ là cuộc trốn chạy đầy
ngoạn mục của Lucy. Trở về với chốn hoang dã, với con người nguyên
thủy, Lucy trở thành thủ lĩnh của bộ lạc da đỏ man rợ và cai quản cả một
vùng rộng hàng mấy trăm ngàn dặm vuông. Ước mơ của nàng đã trở thành
hiện thực. Jack London đã để cho nhân vật của mình thực hiện thành công
ước nguyện dường như vô lý của mình, như để khẳng định một lần nữa

89
triết lý nhân sinh cao cả là tôn trọng quyền tự do của con người; và cũng
một lần nữa lên tiếng bảo vệ con người, lên tiếng ca ngợi những con người
luôn đấu tranh để giành lại tự do con người.
Truyện Koolau hủi là câu chuyện về một người thủ lĩnh – thủ lĩnh
của những người bị hủi, bị nguyền rủa, xa lánh và chịu nhiều bất công, đã
đấu tranh cả đời cho tự do, cho những người cùng số phận như mình.
Người thủ lĩnh da đỏ đã nhận ra “họ” – bọn tư bản đã khiến cho ông và
những người cùng số phận với ông phải gánh chịu căn bệnh quái ác, ngày
ngày cướp đi những bộ phận trên cơ thể họ, khiến họ tàn tạ, như những
thây ma giữa rừng. Trong hoàn cảnh đó, Koolau đã thực sự thể hiện được
bản lĩnh của mình trong vai trò là người cầm đầu và trách nhiệm của ông
đối với những con người đau khổ cùng số phận. Tình yêu của ông dành cho
mảnh đất ông sinh ra đã thôi thúc con người bệnh tật về cơ thể nhưng hoàn
toàn khỏe mạnh về tâm hồn này có đầy nhiệt huyết và dũng khí để đứng lên
chồng lại kẻ thù. Koolau đã di chuyển những con người bệnh tật đó vào nơi
an toàn và luôn lo cho an nguy của họ, như một vị vua cho thần dân của
mình. Vương quốc đó nằm ở khe núi vô cùng hiểm trở, những người gan
dạ và thực sự hiểu biết về con đường đó mới có thể di chuyển được đến
nơi. Nhưng khi những thần dân trong vương quốc của ông đã không thể
chịu được những cuộc vây bắt và sự thiếu thốn, họ đầu hàng thì ông vẫn
nhất quyết không từ bỏ cuộc sống của mình, không bao giờ chịu đầu hàng:
“Ta là người tự do. – Ông nói. – Ta chưa hề làm điều gì ác cho ai. Ta
chỉ muốn một điều: Hãy để cho ta yên. Ta đã sống tự do và chết cũng
là người tự do. Ta không bao giờ đầu hàng cả”. [42, tr.360]
Và Koolau tiếp tục những cuộc trốn chạy dường như không bao giờ
ngừng lại của mình. Những cuộc vây bắt chỉ đem lại tổn thất cho người da
trắng, họ không thể bắt được ông, hay đúng hơn, họ không bao giờ có được

90
tâm hồn và cả tấm thân dường như đã bị bệnh tật hủy hoại gần hết của ông.
Khát vọng tự do của Koolau luôn rực cháy, bất chấp bệnh tật và những
cuộc nổ súng. Khát vọng cùng sức sống mãnh liệt đó khiến con người
Koolau trở nên cứng cỏi hơn, mạnh mẽ hơn cho dù đầy rẫy những khó
khăn. Câu nói của Koolau “Ta không bao giờ đầu hàng cả. Đó là lời cuối
cùng của ta” nhấn mạnh một cách đanh thép ý chí sắt đá và quyết tâm vững
vàng của một con người không sợ bệnh tật và cái chết. Tất cả chỉ để thỏa
ước nguyện cao cả rằng, như Lucy, ông muốn sống tự do, và muốn chết
cũng là người tự do.
Con người kiên cường, oai hùng đó thách thức bọn lính, như người
hùng thách thức kẻ thù, sẵn sàng chống trả sự săn lùng để bảo vệ sự tự do
của mình đến cùng. Và cuối cùng bọn lính cũng phải bỏ đi, để lại Kalapau
cho ông toàn quyền sử dụng. Và Koolau chết là một người tự do trên mảnh
đất của mình, ôm chặt khẩu súng trường bằng bàn tay không ngón. Cái
chết nhẹ nhàng nhưng thể hiện ý chí của con người vô cùng lớn. Đến khi
chết, Koolau vẫn cương quyết bảo vệ vùng đất của mình, bằng chính
chút sức tàn của mình. Hình ảnh cái chết của Koolau mãi mãi để lại ấn
tượng sâu đậm với độc giả, bởi đó là cái chết oanh liệt nhất, đáng tự hào
nhất của người anh hùng, sống đến hơi thở cuối cùng để bảo vệ cho sự tự
do. Tư thế chết của Koolau là hình tượng hết sức đẹp đẽ, ông chết nhưng
đó chính là lúc ông được tự do nhất.
Trong những cuộc “chạy trốn” đó, có cuộc chạy trốn của John, cậu
bé thiếu niên bảy tuổi, nuôi các em và gánh vác công việc gia đình như một
thanh niên trưởng thành. Công việc quá nhiều và vất vả, cùng gánh nặng
gia đình khiến cậu quá mệt mỏi, không còn tiếp tục làm việc được nữa, và
đã tìm cho mình một lối thoát là ra đi, tìm một sự nghỉ ngơi, sự thanh thản
mà thủa thơ ấu cậu không hề biết đến nó. John đã lên một chuyến tàu để ra

91
đi khi đã thực sự thức tỉnh. Kết thúc mở của câu chuyện khiến người đọc hi
vọng vào một cuộc sống mới tốt đẹp cho cậu bé:
“Khi bóng hoàng hôn đổ xuống trong đêm đầu tiên một con tàu hàng
xình xịch vào ga. Khi đầu máy chuyển các toa vào con đường nhánh,
John bò dọc theo con tàu. Cậu đẩy được chiếc cửa của toa chở súc
vật bỏ không, lúng túng và vất vả mới leo được lên. Cậu đóng cửa
lại. Còi tàu huýt vang. John đang nằm, nhoẻn miệng cười trong bóng
tối” (Kẻ bỏ đạo {The Apostate}) [36].
Cái cười có thể là hạnh phúc này đã mang lại một hi vọng mới, rằng
với những con người mạnh mẽ, tỉnh táo và đầy nhận thức về ý nghĩa cuộc
sống, họ sẽ sớm tìm được cho mình cuộc sống mới, tươi sáng và tốt đẹp hơn.
Đó còn là sự “trốn chạy” của nàng El–Soo trong truyện ngắn Sự ranh
ma của lão Porpotuk (The Wit of Porpotuk). Một cô gái “khác thường” mà
các bà xơ ở Hội truyền giáo cây thánh giá gọi cô là “khúc củi bứt ra khỏi
đống lửa”, nay đã trở về với “đống lửa” của mình. El–Soo đã trở về “ngôi
nhà lớn”, nơi có “khúc sông Yukon hùng vĩ uốn quanh Trạm Tanana, có
nhà chung thánh George ở một bên, về phía bên kia là một thương xá, và
nó ở giữa khoảng đường từ làng dân Da Đỏ và một căn nhà gỗ lớn rộng,
nơi có một ông già đang sống nhờ sự săn sóc của nhóm nô lệ”; và trở thành
người cai quản ngôi nhà chung từ cha cô. Nhưng vì trả nợ, một khoản nợ
với lão Porpotuk mà El–Soo đã tự bán mình trong một cuộc bán đấu giá.
Không ai khác mua được cô chính lại là lão Porpotuk. Tuy nhiên, với bản
tính ranh mãnh của mình, El–Soo không chịu theo lão về, cô bỏ chạy, mặc
cho lão tức giận đuổi theo kèm theo tiếng cười khanh khách của cô. Cô trốn
đi với sự hồn nhiên và tinh quái, cùng với người đàn ông của mình, và ôm
một mơ ước sẽ có ngày quay trở về Alaska. Tuy không thực hiện được ước
mơ đó, cô bị lão Porpotuk bắt lại, nhưng tình yêu với chàng Akoon khát

92
khao tự do dường như không bao giờ bị dập tắt trong ánh mặt rực lửa của cô.
Ngọn lửa của con người cô, là tâm hồn cô, nay đang cháy ngùn ngụt trong
đôi mắt ngấn lệ, đôi mắt run run khi nghe Akoon nói: “đôi chân của anh còn
vững mạnh, nhưng không bao giờ nó sẽ đưa anh đi xa em” [42, tr.340].
Những nhân vật trên của Jack London là biểu tượng cho những linh
hồn luôn đấu tranh hết mình cho sự tự do, cho cuộc sống của chính mình.
Họ là những con người cao cả, là đại diện đẹp đẽ nhất, văn minh nhất của
con người trong thời điểm họ đang sống trong một xã hội đầy đau khổ.
Những hành động đó chứng minh một cách rõ nét rằng, hạnh phúc và sự
trói buộc không bao giờ đi kèm nhau, con người chỉ hạnh phúc khi được
sống đúng nghĩa, khi được tự quyết định số phận của mình. Đó cũng là
tiếng nói nhân đạo cao cả trong các tác phẩm của Jack London.
3.3.2. Những cuộc đấu tranh mang màu sắc sử thi
Những câu chuyện về tình yêu đẹp đẽ như Con trai của sói là câu
chuyện tình đẹp đẽ về sự đấu tranh quyết liệt cho tình yêu không phân biệt
màu da, sắc tộc. Sự tranh giành nàng Zarinka xinh đẹp của Mackenzi đã
khiến bộ tộc Quạ thấy phẫn nộ, tức giận và quyết đấu để trừng trị Sói. Câu
chuyện nói đến sự dã man khi người da trắng dưới hình thức đi khai hóa
văn minh, khai hoang vùng đất mới đã ỷ mạnh ức hiếp yếu, buộc người da
đỏ mông muội phải phục tùng, cung phụng mình. Nhưng điều luận văn
muốn nhấn mạnh ở đây không phải sự xung đột mang tính chất sắc tộc đó,
mà là cuộc đấu tranh dành lại tình yêu, hạnh phúc của người con trai ở bộ
tộc Sói với người con gái ở bộ tộc Quạ. Từ sự đấu tranh đó, tác giả đã cho
người đọc thấy những cuộc đấu tranh ở đây tuy là khốc liệt với một không
gian xã hội đầy bất công, nhưng nó vẫn mang một vẻ đẹp đầy huyền thoại
và luôn luôn mê hoặc người đọc.
“Một người chống lại trăm người, trong lòng sâu của mùa đông Bắc

93
cực, ở xa quê hương xứ sở, anh có cảm giác như có tiếng gọi của sự
thừa kế đó – chỉ ham muốn quyền hành, một tình cảm ngông cuồng
đối với nguy hiểm, nhiệt huyết chiến đấu, lòng quyết thắng hoặc chịu
chết” [42, tr.267].
Cuộc đấu tranh cho tình yêu, giành giật tình yêu thực sự là thuộc về
kẻ mạnh mẽ hơn, quyết liệt hơn trong cuộc chiến đấu đó. Không chỉ dùng
trí thông minh, sự ranh mãnh bản chất của bộ tộc Sói, Mackenzi còn sử
dụng sức mạnh của ý chí và của sức mạnh thể lực. Trong cuộc chiến tay đôi
với Gấu, bản năng tự vệ và khao khát chiến thắng kẻ thù đã cháy lên trong
anh: “Một vạn năm văn minh đã biến khỏi con người Mackenzi như một
cái vỏ bề ngoài, anh đã trở thành một nguyên thủy sống trong động quyết
chiến để giành giật con mái của mình” [42, tr.274]. Mackenzi mang tính
cách của những anh hùng sử thi khi thể hiện một sức mạnh ghê gớm nhằm
gạ gục kẻ thù, và một tinh thần sắt đá để chiến thằng một cách tuyệt đối.
Cuộc tranh đấu của Mackenzi vì vậy trở nên phi thường, sự phi thường
mang tính trí tuệ và đấy sức mạnh của màu sắc sử thi.
Trong truyện, ta còn thấy sự đấu tranh trong cùng huyết thống giữa
nàng Zarinka xinh đẹp với bộ tộc của nàng. Nếu việc yêu và bỏ đi theo một
người da trắng đối với bộ tộc Quạ là một điều xấu xa, thì Zarinka lại coi đó
là hạnh phúc của cô. “Cặp mắt đen của cô nhìn về phía đồng bảo của mình
có vẻ sợ hãi, vừa thách thức. Trông cô căng thẳng như sợi dây cung bị kéo
hết sức thậm chí tưởng như cô không thở được... Nhưng khi Mackenzi vừa
thoáng nhìn cô, Zarinka dường như nhẹ hẳn người. Cơ bắp căng thẳng dãn
ra, cô thở một hơi, dướn người về phía trước, nhìn đáp lại anh bằng một cái
nhìn trung thành vô hạn” [42. tr.271]. Sự trung thành và tình yêu bất diệt cô
dành cho người đàn ông da trắng đã khiến cô chiến thắng định kiến, chiến
thắng những mâu thuẫn, xung đột, những thù hằn từ xưa đến nay của hai bộ

94
tộc. Với cô, tình yêu với Mackenzi là điều thiêng liêng nhất, cô không coi
việc theo Mackenzi là sự thất bại của bộ tộc Quạ với Sói, mà đơn giản đó
chỉ là thứ tình yêu lớn lao cô dành cho anh, cùng khát khao là được sống
với người cô yêu tha thiết. Tình yêu luôn làm nên những câu chuyện đẹp,
và tình yêu trong các câu chuyện của Jack London còn là một tình yêu
huyền thoại, bí ẩn nhưng bỏng cháy những cảm xúc. Tình yêu đó có thể
chiến thắng mọi vật cản, mọi trở ngại để đến được hạnh phúc. Với hai con
người – như Romeo và Juliet của Shakespeare, đấu tranh để vượt qua định
kiến, chiến thắng định kiến cay nghiệt đó.
Truyện ngắn Hội những người già (The League of Old Men,) cũng là
câu chuyện về sự đấu tranh quyết liệt chống lại sự xâm lược của người da
trắng với lãnh thổ của người da đen. Bộ lạc Cá Trắng thân yêu của lão
Imbơ đã gần như tuyệt chủng, chỉ còn lão là người duy nhất còn tồn tại,
thanh niên và đàn bà đều đã bỏ đi hết, hầu hết là đi với người da trắng. Sự
xung đột của bộ lạc Cá Trắng và bộ lạc Penli giờ không còn là vấn đề to tát
bởi tất cả đều bị người da trắng hủy hoại tất cả. Tội ác của những kẻ xâm
lược người da trắng gây ra đã quá sức chịu đựng của Imber, buộc ông đi
đến những hành động đấu tranh chống lại kẻ thù một cách tự phát nhất,
điên dại nhất: giết hết bọn da trắng. Người da trắng đầu tiên đến bộ lạc của
Imber đã mang đi nàng Noda, con gái vị thủ lĩnh; người da trắng thứ hai
đến và mang đi sáu con chó khỏe nhất của bộ lạc; người thứ ba đến và
mang đi hai mươi con chó khỏe nhất,… cứ như thế, những người tiếp theo
cứ đến, mang quà đổi lấy những thanh niên khỏe mạnh của họ. Dần dần, bộ
lạc Cá Trắng suy yếu và bị chiếm hết đất đai. Thậm tệ hơn, người da trắng
đến còn mang theo những bệnh tật gây ra những cái chết đáng thương cho
dân làng.
Sau tất cả những lời thú tội của Imber, Jack London đã để những

95
người da trắng nhận thức ra chính họ, bằng những suy nghĩ của viên quan
toàn trán rộng:
“Viên quan tòa trán rộng cũng đang nghĩ về những chiếc bóng:
trước mặt ông hiện lên một đạo quan cùng chủng tộc với ông,
đang hùng dũng tiến bước, người nào cũng mặc áo giáp sắt, đầu
đội mũ đồng, cái đạo quân nghĩ ra pháp luật và quyết định vận
mệnh của các dân tộc khác... Và đằng sau những cảnh đó, ông
như nhìn thấy cái pháp luật nghiêm khắc và mạnh mẽ bất di bất
dịch và tàn bạo, mạnh hơn những sinh vật nhỏ là những con
người đang hành động nhân danh nó, hoặc đang chết dần dưới
ách nặng nề của nó, – mạnh hơn cả ông ta, vị quan tòa, mà trái
tim đang cầu xin được tha thứ.” [42, tr.386, 387]
Có lẽ viên quan tòa đã nhận ra tất cả những “văn minh” mà chủng
tộc ông mang lại là một thứ vũ khí giết người tàn bạo nhất, giết chết tất cả
những sinh vật đang thoi thóp, mà rõ ràng nhất trước mắt ông là một bộ lạc
giờ chỉ còn một ông già duy nhất, đang cố chiến đấu một cách điên cuồng
để bảo vệ chủng tộc của mình. Và ông cũng nhận ra sự tàn bạo, dã man
không chỉ dành cho hành động giết những người da trắng một cách “vô cớ”
của Imber mà chính là sự xâm lược của chủng tộc ông, đó không còn là
khai hóa văn minh, khai hoang vùng đất mới, mà là áp bức, bóc lột, dồn
nén những con người lương thiện, vô tội vào bước đường cùng, buộc họ
phải đứng lên phản kháng, phải gây ra tội ác không đáng có. Sự thú tội
nhưng thực chất là buộc tội đầy dũng cảm đó đã khiến viên quan tòa dường
như tỉnh ngộ, sự tranh đấu đơn độc của Imber quá ngoan cường để ông
nhận ra rằng sự tự do, hòa bình và tình yêu là điều quan trọng nhất, và
Imber đơn độc đấu tranh chính là để giành lại những điều ấy cho dân tộc
mình. Người anh hùng đơn độc Imber trở thành một hình tượng đẹp đẽ cho

96
tình yêu, niềm tự hào với bộ tộc mình, đã hành động hết sức dũng cảm để
bảo vệ bộ tộc.
Trong những cuộc chiến, dù với tính chất đấu tranh nào, Jack
London vẫn luôn khai thác được vẻ đẹp cao cả của con người trong đó. Đó
có thể là cuộc chiến tranh vì nghĩa, bảo vệ dân tộc,... có thể là cuộc chiến
tranh bảo vệ tình yêu, cuộc sống, bảo vệ tự do của chính bản thân nhân
vật,... nhưng tựu chung lại, mọi nguyên nhân đấu tranh đều với mục đích
cao cả là vì hòa bình và tự do, vì tình yêu và cuộc sống hạnh phúc. Trong
những cuộc đấu tranh khốc liệt, những xung đột xã hội khốc liệt đó, Jack
London luôn thể hiện một niềm tin và sự hi vọng lớn lao về một thế giới
hòa bình, không chiến tranh, về sự bình đẳng và hơn cả là tình người cao
đẹp. Giá trị nhân văn cao cả đó càng làm đẹp thêm những tác phẩm của
ông, và không thể phủ nhận rằng, tác phẩm Jack London luôn cuốn hút mọi
thế hệ người đọc.

TIỂU KẾT
Trên đây, chúng tôi đã nghiên cứu khía cạnh không gian sử thi rất
đặc trưng trong truyện ngắn Jack London. Không gian trong truyện ngắn
Jack London quyết định một phần thành công của tác giả, và đặc biệt, khi
tác giả dựng nên không gian đậm chất sử thi hào hùng, huyền bí, đầy bất
ngờ và gay cấn thì những câu chuyện kể của Jack London càng trở nên hấp
dẫn hơn.
Đó là không gian hoang sơ, phủ đầy một màu trắng đến rợn người
của tuyết, một không gian vô cùng tĩnh mịch khiến con người có thể cảm
nhận được sự sợ hãi, sự mệt mỏi. Đó còn là không gian cả bao la, rộng lớn,
là những vùng biển vắng vẻ, hoang sơ, ít có sự xuất hiện của con người. Sự
sống trên những hòn đảo đó là quá nhỏ nhoi so với sự vĩ đại của biển cả.
Đặc biệt là những con sóng, chúng to lớn, dữ dằn như những bàn tay khổng
lồ sẵn sàng lao vào con người và cuốn đi tất cả sự sống bất cứ lúc nào. Tất

97
cả vẽ nên một khung cảnh tráng lệ đến đáng sợ của thiên nhiên. Thiên
nhiên như trở thành một nhân vật nguy hiểm, tiềm ẩn những sức mạnh vô
biên cùng những mối đe dọa đầy chết chóc, có thể giết chết những con
người nhỏ bé bất cứ lúc nào. Tuy nhiên, cái lạnh, cái màu trắng đến rợn
người của tuyết, cái im lặng đến ám ảnh, những con sói đói chỉ chờ trực ăn
thịt con người...; những con sóng lớn, những trận cuồng phong điên cuồng
của biển cả, những con cá mập to lớn đáng sợ... có lẽ không đủ để làm con
người – những nhân vật anh hùng – phải sợ hãi. Họ không nao núng mà lao
vào chốn hiểm nguy, xông pha vào những nơi thâm sơn hoang vu nhất,
nguyên thủy nhất, như để thử thách chính con người mình. Họ chinh phục
thiên nhiên, và đôi khi phải trả giá, trong số họ có người thắng và kẻ thất
bại, nhưng tất cả đều nổi bật nên một nhân cách đáng quý nhất: đó là sự
dũng cảm, ý chí kiên cường, niềm tin vô tận vào cuộc sống, yêu tự do, ham
thích khám phá, phiêu lưu mạo hiểm, thậm chí phải đặt cược tính mạng của
mình cho thiên nhiên. Điều thú vị nữa là Jack London đã tạo ra một không
gian xã hội đậm chất sử thi khi khai thác những con người anh hùng trong
những cuộc đấu tranh xã hội anh hùng.

98
KẾT LUẬN

Màu sắc sử thi trong văn học luôn là đề tài hấp dẫn đối với các nhà
văn, và nó hấp dẫn hơn nữa đối với Jack London khi ông là một con người
luôn luôn ham thích những cái mới lạ, những miền đất mới xa xôi, thích trở
về với những thứ nguyên thủy bởi nó mang vẻ đẹp doang dã, tự nhiên vốn
có. Bởi vậy, luận văn Tính sử thi trong truyện ngắn Jack London đã tìm tòi
và nghiên cứu phần nào những nét cơ bản nhất về tính chất sử thi trong
truyện ngắn của ông.
Trong quá trình nghiên cứu, chúng tôi đã phân tích được tính sử thi
trong truyện ngắn của Jack London thể hiện một cách rõ ràng ở những vấn
đề như cảm hứng ngợi ca hoàng tráng, hình ảnh con người sử thi và hình
ảnh không gian sử thi. Qua đó, chúng tôi muốn nhấn mạnh cảm hứng sử
thi trong mỗi tác phẩm của Jack London được thể hiện như thế nào và
nhằm mục đích cao cả gì.
Ở mỗi vấn đề, cảm hứng sử thi nổi bật lên với trước hết là những
cảm hứng ngợi ca, là sự cảm phục, yêu mến và tôn thờ những người anh
hùng – mà trong tác phẩm là những người có lòng dũng cảm, có tinh thần
thép để sẵn sàng đối mặt với những thử thách vô cùng nguy hiểm; là những
con người có tấm lòng cao cả, có sự hi sinh lớn lao mà khó có ngôn từ nào
có thể diễn tả, và hơn cả là họ có niềm tin và tình yêu vào cuộc sống một
cách mãnh liệt. Cảm hứng ngợi ca hoành tráng thể hiện trước hết ở những
xung đột hoành tráng: là những xung đột giữa con người với tự nhiên, con
người với con người và con người với xã hội, với môi trường sống xung
quanh. Mỗi một xung đột đều được đẩy đến cao trào của mâu thuẫn và từ
đó, những con người anh hùng, những hành động dũng cảm; hay những
con người cao cả, những tấm lòng độ lương, bao dung,… đã xuất hiện, trở

99
thành tâm điểm của tác phẩm, và thành dấu son đáng nhớ trong lòng người
đọc. Kết hợp với tính trang nghiêm từ ngôi kể, các câu chuyện của ông trở
nên hấp dẫn hơn. Vừa kể ở ngôi thứ ba với điểm nhìn toàn tri, điểm nhìn từ
bên ngoài của nhân vật “biết tuốt” hết tất cả mọi việc của nhân vật. Nên
như sử thi, hình tượng người anh hùng được hiện lên bằng ánh mắt của sự
ca ngợi, ngưỡng mộ, vừa được kể ở ngôi thứ nhất một cách chủ quan với
những nhận định và đánh giá riêng của mỗi nhân vật. Từ đó, các câu
chuyện của Jack London đến với người đọc một cách hoàn toàn tự nhiên,
sâu sắc và hấp dẫn hơn bao giờ hết.
Hình tượng con người sử thi với những người anh hùng, cả chiến
thắng và chiến bại đều được Jack London thể hiện một cách xuất sắc.
Trong những con người ấy, khó khăn không làm họ chùn bước, thất bại
không làm họ đau khổ cũng như chiến thắng không làm họ tự phụ. Họ chỉ
có một niềm đam mê duy nhất là được đối mặt với khó khăn ở những nơi
nguy hiểm nhất, những nơi hoang dã nhất. Và dù kết quả cuộc chinh phục
tự nhiên ấy có như thế nào thì họ vẫn hài lòng với chính bản thân mình, vì
họ đã làm được những điều mà không phải ai cũng dám làm. Điều đặc biệt
về những con người anh hùng này là họ luôn xuất hiện trong tâm thế đơn
độc, một mình chiến đấu với thiên nhiên khốc liệt. Chính điều đó giải thích
tại sao dù có thất bại, những con người đó vẫn hài lòng chết một cách hiên
ngang nhất, bởi họ chính là những người vĩ đại nhất, những con người
xứng đáng được tôn vinh, và cũng bởi trong chính những hoàn cảnh nguy
nan nhất, họ luôn giữ được niềm tin và tình yêu cuộc sống bất diệt.
Một vấn đề không thể thiếu để tạo ra một tác phẩm mang tính sử thi
hoàn chỉnh là một không gian mang đậm màu sắc sử thi. Tràn ngập trong
các tác phẩm của Jack London là màu trắng của tuyết phương Bắc, với
những tiếng rít của gió, tiếng hú của chó sói và đáng sợ hơn cả một sự tĩnh

100
mịch đến rợn người, mà ở đó có lẽ người ra chỉ nghe được tiếng thở từ lồng
ngực, tiếng con tim đập giục giã họ cố gắng vượt qua khó khăn; là màu
xanh lộng gió của biển phương Nam, với những con sóng lớn, sóng nhỏ nối
nhau như thử thách những người gan dạ và đầy đam mê thử thách, với
những cơn bão đáng sợ chỉ chực cướp đi sự sống của những con người bé
nhỏ; là một không gian xã hội khốc liệt đã sinh ra những người hùng gan
góc và khát khao tự do. Tất cả những màu sắc phong phú ấy tạo nên một
bản anh hùng ca hùng tráng nhất, để ca ngợi những con người anh hùng vĩ
đại nhất trong văn học.
Đây là một đề tài lớn, đòi hỏi sự tìm tòi kỹ lưỡng và công phu. Vì
vậy, chúng tôi chỉ xin đóng góp một phần nhỏ những kết quả nghiên cứu
của mình, nhằm làm rõ phần nào việc tìm hiểu tính sử thi trong tác phẩm
Jack London nói riêng và việc nghiên cứu Jack London nói chung ở Việt
Nam.

101
TÀI LIỆU THAM KHẢO

A. TIẾNG VIỆT

1. Nguyễn Kim Anh, 2003. “Cuộc đấu tranh sinh tồn và nỗi khát khao
được sống trong “Tình yêu cuộc sống” của Jack London”, Tạp chí
Châu Mỹ ngày ngay, số 8.
2. Nguyễn Kim Anh, 2003. “Hình ảnh người thổ dân da đỏ (Indian)
trong sáng tác của nhà văn Mỹ Jack London”, Tạp chí Châu Mỹ ngày
ngay, số 6.
3. Nguyễn Kim Anh, 2004. Thiên nhiên đặc trưng trong thi pháp tiểu
thuyết của Jack London, Luận án tiến sĩ Ngữ văn, Hà Nội.
4. Phạm Thủy Ba (dịch), 1998. Ramayana, tập một, Nxb. Văn Học, Hà Nội.
5. Phạm Thủy Ba (dịch), 1998. Ramayana, tập hai, Nxb. Văn Học, Hà Nội.
6. Phạm Thủy Ba (dịch), 1998. Ramayana, tập ba, Nxb. Văn Học, Hà Nội.
7. Lê Huy Bắc, 2003. “Nghệ thuật xây dựng cốt truyện xung đột trong tác
phẩm của Jack London”, Tạp chí Châu Mỹ ngày nay số 7.
8. Lê Huy Bắc, 2010. Lịch sử văn học Hoa Kỳ, Nxb. Giáo dục, Hà Nội,
9. Lê Huy Bắc, 2002. (sưu tập và giới thiệu), Phê bình – lý luận văn học
Anh Mỹ, Nxb. Giáo dục,
10. Lê Huy Bắc, 2000. Truyện ngắn Châu Mỹ, Tạp chí Châu Mỹ ngày nay
số 1.
11. Lê Huy Bắc, 2002. “Truyện ngắn Mỹ thế kỉ XIX”, Tạp chí Châu Mỹ
ngày nay số 4.
12. Lê Huy Bắc, 2004–2005. Truyện ngắn: Lý luận tác gia và tác phẩm,
tập 1–2, Nxb. Giáo dục. Hà Nội.
13. Lê Huy Bắc, 2003. Văn học Mỹ, Nxb. Đại học sư phạm, Hà Nôi.

102
14. Lưu Văn Bổng, 2001. Đôi nét về văn học so sánh Mỹ, Tạp chí Châu
Mỹ ngày nay số 6.
15. Lê Nguyên Cẩn, 2001. Jack London và hình tượng con chó Buck trong
“Tiếng gọi nơi hoang dã”, Tạp chí Châu Mỹ ngày nay số 1.
16. Mạnh Chương, 1999. Jack London và “Tiếng gọi nơi hoang dã”, Tủ
sách văn học trong nhà trường, Nxb. Văn nghệ Tp. Hồ Chí Minh.
17. Lê Đình Cúc, 1976. Jack London và cuộc đấu tranh giai cấp, đấu tranh
dân tộc, Tạp chí Văn học 4.
18. Lê Đình Cúc, 2000. Sự xuất hiện của các nhà văn “thế hệ bỏ đi”
(Lostgeneration) trong văn học Mỹ, Tạp chí Văn học số 04.
19. Lê Đình Cúc, 2004. Tác giả văn học Mỹ (thế kỷ XVIII – XX), Nxb.
Khoa học xã hội.
20. Lê Đình Cúc, 2003. Thomas Stearns Eliot nhà thơ – nhà lý luận kiệt
xuất của văn học Mỹ, Tạp chí Châu Mỹ ngày nay số 1.
21. Lê Đình Cúc, 2002. Tác gia văn học Mỹ, Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội.
22. Lê Đình Cúc, 2001. Văn học Mỹ mấy vấn đề và tác giả, Nxb. Khoa học
xã hội, Hà Nội.
23. Bùi Khánh Dũng, 2000. Tính cách người Mỹ qua tác phẩm của Jack
London, Tạp chí Châu Mỹ ngày nay số 5.
24. Nguyễn Đức Đàn, 1996. Hành trình văn học Mỹ, Nxb. Văn học, Hà Nội.
25. Lê Bá Hán, Trần Đình Sử, 2004. Nguyễn Khắc Phi (đồng chủ biên),
Từ điển thuật ngữ văn học, Nxb. Giáo dục.
26. Phan Thu Hiền, 1999. Sử thi Ấn Độ, tập I, Mahabharata, Nxb. Giáo dục.
27. Đào Duy Hiệp, 2002. Nhân vật và người kể truyện trong “Tiếng gọi nơi
hoang dã”, Tạp chí Văn học nước ngoài, số 02.
28. Phạm Sông Hồng, (tuyển chọn), 1997. Tuyển tập truyện ngắn Jack
London, Nxb. Hội nhà văn, Hà Nội.

103
29. Nguyễn Thị Khánh, A.S. Mudjarchik, Joseph Harrington... ; Người
dịch: Lê Sơn, 1997. Văn học Mỹ, Quá khứ và hiện tại, Viện Thông tin
khoa học xã hội, 211tr.
30. Phan Thị Miến (dịch), 1983. Ôđixê, Nxb. Văn Học, Hà Nội.
31. Đắc Lê (dịch), 1983. Jack London – O.Henry… Tình yêu cuộc sống,
Nxb. Văn hóa và Thông tin Đồng Tháp.
32. Huy Liên, 1998. Mấy xu hướng nghệ thuật trong văn xuôi Mỹ nửa sau
thế kỷ XX, Tạp chí Văn học số 7.
33. Jack London, Chúc kẻ lên đường (truyện ngắn, Trần Thiện Huy dịch),
http://www.vnthuquan.net.
34. Jack London, Kho tàng ngọc trai, (truyện ngắn, Lê Bá Kông và Võ Hà
Lang dịch), http://www.vnthuquan.net
35. Jack London, Kẻ vô tín ngưỡng, (truyện ngắn, Lê Bá Kông và Võ Hà
Lang dịch), http://www.vnthuquan.net
36. Jack London, Kẻ bỏ đạo, (truyện ngắn, Lê Bá Công và Võ Hà Lang
dịch), http://www.vnthuquan.net
37. Jack London, Mất mặt, (truyện ngắn, Lê Bá Công và Võ Hà Lang
dịch), http://www.vnthuquan.net
38. Jack London, 2001. Tác phẩm chọn lọc, Nxb. Văn hóa – Thông tin,
Hà Nội,
39. Jack London, 2001. Tiếng gọi nơi hoang dã, (Tập truyện ngắn, Mạnh
Chương, Nguyễn Công Ái và Vũ Tuấn Phương dịch), Nxb. Văn học, Hà Nội.
40. Jack London, Miếng bít tết, (truyện ngắn, Đắc Lê dịch),
http://www.vnthuquan.net.
41. Jack London, 2002. Truyện ngắn chọn lọc, Nxb. Văn học, Hà Nội.
42. Jack London, 2010. Truyện ngắn Jack London, Nxb. Văn học, Hà Nội.
43. Jack London, 1999. Tuyển tập Jack London, Nxb. Hội nhà văn, Hà Nội.
44. Tình yêu cuộc sống – Tác phẩm chọn lọc, 2007. Nxb. Mỹ thuật, Hà Nội.

104
B. TIẾNG ANH

45. Nina Baym (General Editor), The Norton Anthology of American


Literature, Volume C (1856-1914), W.W. Norton & Company, New York.
46. Sacvan Bercovitch, 2005. The Cambridge History of American
Literature Vol. 3. Prose Writing 1860–1920, Cambridge Histories Online,
Cambridge University Press.
47. Sacvan Bercovitch, 2004. The Cambridge History of American
Literature Vol. 4. Nineteenth-Century Poetry 1800–1910, Cambridge
Histories Online, Cambridge University Press.
48. Sacvan Bercovitch, The Cambridge History of American Literature
Vol. 5. Poetry and Criticism 1900–1950, Cambridge Histories Online,
Cambridge University Press.
49. Arthur Grove Day, 1971. Jack London in the South Seas, Four Winds
Press, New York.
50. Edgar Lawrence Doctorow, 1993. Jack London, Hemingway, and the
Constitution, Random House, New York.
51. Emory Elliott, American Literature, Volume 2.
52. Martin Johnson, 1913. Through the South Seas with Jack London,
New York.
53. Earle Labors, 1965. Great Short Works of Jack London, Harpers and
Row, Publishers, New York.
54. Earle Labor, 1983. "Jack London's Pacific World", In Critical Essays on
Jack London. Ed. Jacqueline Tavernier-Courbin, Boston: Prentice Hall, 205-22.
55. Jack London, 1906. Moon-Face & Other Stories, at:
http://london.sonoma.edu/Writings/MoonFace/.

105
56. Jack London, 1902. Children of the Frost
at: http://london.sonoma.edu/Writings/ChildrenFrost/.
57. Jack London, 1901. The Law of Life, Document maintain at:
http://london.sonoma.edu/Writings/ChildrenFrost/life.html.
58. Jack London, 1912. The House of Pride & Other Tales of Hawaii, at:
http://london.sonoma.edu/Writings/HousePride/.
59. Jack London, 1909. Koolau the Leper, Document maintain at:
http://london.sonoma.edu/writings/housepride/koolau.html.
60. Jack London, 1908. Aloha Oe, Document maintain at:
http://london.sonoma.edu/Writings/HousePride/alohaoe.html.
61. Jack London, 1910. Lost Face, at:
http://london.sonoma.edu/Writings/LostFace/.
62. Jack London, 1908. To Build a Fire, Document maintain at:
http://london.sonoma.edu/Writings/LostFace/fire.html.
63. Jack London, 1907. Love of Life & Other Stories, at:
http://london.sonoma.edu/Writings/LoveLife/
64. Jack London, 1913. The Night Born, at:
http://london.sonoma.edu/Writings/NightBorn/.
65. Jack London, 1900. The Son of the Wolf, at:
http://london.sonoma.edu/Writings/SonWolf/.
66. David A Moreland, 1982. "The Author as Hero: Jack London's The
Cruise of the Snark." Jack London Newsletter, 15, 57-75.
67. George Perkins, Barbara Perkins (Editor), The American Tradition in
Literature (Tenth Editor), Mc Graw Hill, New York.
68. Jorgen Riber, "Archetypal Patterns in 'The Red One'." Jack London
Newsletter 8 (1975): 104-106.
69. William Peterfield Trent, 1945. The Cambridge History of American
Literature, Univ.Press, , New York.

106

You might also like