Professional Documents
Culture Documents
Tế bào gốc là những tế bào không chuyên hóa trong cơ thể, có khả năng trở
thành các tế bào chuyên hóa mỗi tế bào với các chức năng riêng biệt mới. Một tế
bào gốc đòi hỏi 2 đặc tính đó là:
- Tự làm mới: Đây là khả năng đi xuyên suốt các chu kỳ tế bào mà vẫn ở
trạng thái không biệt hóa. Đặc tính này bao gồm 2 cơ chế để duy trì quần
thể tế bào gốc:
- Cơ chế sao chép bất đối xứng bắt buộc: Giả sử có một tế bào gốc
mẹ, gọi là tế bào X. Khi tế bào X phân chia (mà không chịu ảnh
hưởng của quá trình biệt hóa) sẽ tạo ra một tế bào gốc con, gọi là Y,
và một tế bào con khác đã được biệt hóa, gọi là Z. Tế bào Y sẽ mang
toàn bộ đặc tính giống hệt tế bào X, cơ chế này để đảm bảo quần
thể tế bào gốc sẽ luôn được duy trì.
- Cơ chế biệt hóa ngẫu nhiên: Nếu có một tế bào gốc X phân chia
thành 2 tế bào con biệt hóa thì phải có một tế bào gốc Y khác phân
chia và tạo ra 2 tế bào gốc có đặc tính giống hệt X và Y, đây là cơ
chế để bảo tồn số lượng của quần thể tế bào gốc.
- Tiềm năng không giới hạn: Tiềm năng là khả năng biệt hóa của tế bào gốc,
các tế bào gốc có thể được phân loại dựa trên tiềm năng của nó. Ví dụ:
- Totipotent là các tế bào gốc tạo ra từ noãn và tinh trùng, các tế bào
này có khả năng biệt hóa thành các dạng tế bào phôi và ngoài phôi
- Pluripotent: Là hậu duệ của tế bào Totipotent và có khả năng biệt
hóa thành tế bào xuất phát từ bất kỳ lớp mầm nào trong 3 lớp
Endoderm (Nội bì), Mesoderm(trung bì) và Ectoderm(ngoại bì). Các
tế bào ở lớp Ngoại bì có thể thành tế bào thần kinh, biểu bì. Tế bào ở
Trung bì có thể thành tế bào cơ, xương, tế bào máu và tế bào thuộc
hệ tiết niệu. Còn tế bào ở lớp Nội bì sẽ thành tế bào ở các tạng như
phổi, gan, tụy, tuyến giáp,...
- Multipotent: Chỉ có khả năng tạo ra các tế bào cùng họ với tế bào
đó (Ví dụ tế bào gốc máu chỉ có khả năng tạo ra tế bào máu như
hồng cầu, bạch cầu, tiểu cầu,...)
- Unipotent: Có khả năng tạo ra duy nhất 1 loại tế bào nhưng vẫn có
tính chất tự làm mới, đây là điểm để phân biệt với tế bào không phải
tế bào gốc. Ví dụ tế bào gốc tế bào mầm chỉ biệt hóa thành các tế
bào phát triển thành trứng hoặc tinh trùng.
- Lịch sử tế bào gốc đã bắt đầu từ giữa thế kỉ 19, năm 1945 khi người ta phát
hiện ra tế bào gốc tạo máu, sau đó là một quá trình dài trong quá trình
nghiên cứu và dần có các thành tựu rõ ràng như năm 2001 tìm ra phương
pháp định hướng tế bào gốc in vitro, năm 2003 tạo ra noãn bào từ tế bào
gốc phôi chuột, điều này gợi ý tế bào gốc phôi có thể có tính toàn năng và
năm 2007 tìm ra phương pháp tạo ra tế bào gốc vạn năng cảm ứng từ tế
bào gốc trưởng thành. Cho đến hiện tại, các phương pháp trị liệu bằng tế
bào gốc vẫn đang thu hút được rất nhiều sự quan tâm của thế giới bởi tiềm
năng khổng lồ của nó.
- Tế bào gốc bào thai (Fetal Stem Cell): Có 2 loại tế bào gốc bào thai:
- Tế bào gốc nguyên thủy từ bào thai: Xuất phát từ mô của thai nhi và
được lấy sau quá trình phá thai, những tế bào gốc này không phải là
bất tử nhưng có mức độ phân chia cao và đa dạng.
- Tế bào gốc bào thai ngoài tử cung: Xuất phát từ màng thừa của phôi.
- Tế bào gốc trưởng thành (Adult Stem Cell): Còn được gọi là tế bào gốc sinh
dưỡng, là các tế bào gốc duy trì và sửa chữa các mô bị tổn thương. Các tế
bào gốc trưởng thành thường tụ lại tạo thành ổ tế bào gốc. Ổ là nơi không
chỉ hỗ trợ về mặt vật lý, mà sự biệt hóa và tăng sinh của tế bào gốc cũng
được điều hòa. Có rất nhiều loại tế bào gốc ở người như:
- TBG cơ xương:
- Tế bào gốc có bộ gen được biểu hiện nhiều hơn so với các tế bào trưởng
thành, nghĩa là có những gen mà ở tế bào trưởng thành sẽ bị bất hoạt như
các gen quy định yếu tố phiên mã Oct4, Sox2 và Nanog. Đây đều là các gen
mang tính quan trọng để tạo nên đặc tính của tế bào gốc.
- Các tế bào gốc sẽ kết hợp với các tín hiệu bên ngoài như protein ngoại vi,
hormones, nhân tố hóa học,... từ đó sẽ phân hóa thành các tế bào mang
chức năng khác nhau cũng như kiểm soát số lượng của quần thể tế bào.
- Các tế bào trưởng thành sau khi được biệt hóa sẽ bị bất hoạt một số gen ở
tế bào gốc để tắt đặc tính vạn năng.
Chú thích ảnh: Các yếu tố phiên
mã điều hòa tính vạn năng của tế
bào gốc phôi thai: Oct4 tạo protein
Oct4, Sox2 tạo protein Sox2 và
Nanog tạo protein Nanog. Các
protein này kết hợp để kích hoạt
gen có chức năng tự làm mới và
tính vạn năng của tế bào gốc cũng
như ức chế gen cảm ứng các con
đường biệt hóa.