You are on page 1of 18

TRIẾT

I.1. Khái niệm triết học


* Các quan điểm trước Mác
- Quan điểm triết học Phương Đông: Ở Trung Quốc, thuật ngữ triết học có nguồn gốc từ chữ “triết”, triết học
chính là trí tuệ, là sự hiểu biết sâu sắc của con người. Ở Ấn Độ, thuật ngữ triết học có nghĩa là chiêm
ngưỡng, hàm ý là con đường suy ngẫm để dẫn dắt đến lẽ phải .
- Quan điểm triết học Phương Tây: Thuật ngữ triết học xuất hiện đầu tiên ở Hy Lạp. Triết học là philosophia,
nghĩa là yêu mến sự thông thái. Như vậy, cho dù ở phương Đông hay phương Tây, ngay từ đầu triết học đã là
hoạt động tinh thần biểu hiện khả năng nhận thức, đánh giá của con người, nó tồn tại với tư cách là một hình
thái ý thức xã hội.
* Quan điểm triết học Mác - Lênin
Triết học là hệ thống tri thức lý luận chung nhất của con người về thế giới, về vị trí, vai trò của con người
trong thế giới ấy.
Từ định nghĩa trên có thể rút ra những đặc điểm của triết học như sau:
- Là hệ thống tri thức lý luận (đây là đặc điểm để phân biệt triết học với triết lý cũng như thế giới quan thần
thoại, thế giới quan tôn giáo).
- Là hệ thống tri thức lý luận chung nhất về thế giới, tức là nó phản ánh thế giới trong tính chỉnh thể, phản
ánh nguồn gốc, bản chất của thế giới. Chính vì tính đặc thù này của đối tượng triết học mà vấn đề tư cách
khoa học của triết học và đối tượng của nó đã gây ra những cuộc tranh luận kéo dài cho đến hiện nay.
- Chỉ ra vị trí, vai trò của con người trong thế giới.
- Triết học luôn mang tính giai cấp.
I.2. Nguồn gốc:
- Về mặt nhận thức, con người đạt đến trình độ trừu tượng hóa, khái quát hóa, hệ thống hóa
- Về mặt kinh tế-xã hội có giai cấp ra đời, sự phát triển giai cấp lao động trí óc và chân tay
I.3. Đối tượng nghiên cứu của triết học:có sự biến đổi qua thời gian, qua các giai đoạn lịch sử
a. Thế giới quan:
- Là quan điểm, quan niệm của con người về thế giới, bản chất con người, cuộc sống và vị trí của con người
- TGQ có cấu trúc phức tạp và được tiếp cận từ nhiều góc độ khác, song 2 yếu tố cơ bản của TGQ là tri thức
và niềm tin
- Chức năng: chức năng bao trùm của TGQ là chức năng định hướng cho toàn bộ hoạt động sống của con
người.
b. Hình thức của TGQ:
- TGQ thần thoại
- TGQ tôn giáo: niềm tin > lý trí
- TGQ triết học: đề cao vai trò của lý trí
 Vì TH là lý luận bao gồm hệ thống những quan niệm chung nhất về thế giới với tư cách chỉnh thể. Đây là cơ
sở để hình thành những quan điểm, lý tưởng, niềm tin, ddihj hướng giá trị…chi phối hoạt động của con
người
* Khái niệm vấn đề cơ bản của triết học
- Ph.Ăngghen định nghĩa: “Vấn đề cơ bản lớn của mọi triết học, đặc biệt là triết học hiện đại, là vấn đề quan
hệ giữa tư duy và tồn tại”.
- Mối quan hệ giữa vật chất và ý thức là vấn đề cơ bản của triết học vì:
+ Đây là quan hệ bao trùm của mọi sự vật hiện tượng trong thế giới.
+ Đây là vấn đề nền tảng và xuất phát điểm để giải quyết những vấn đề còn lại của triết học.
+ Là tiêu chuẩn để xác định lập trường, thế giới quan của triết gia và học thuyết của họ.
+ Các học thuyết triết học đều trực tiếp hay gián tiếp phải giải quyết vấn đề này.
1.3. Vấn đề cơ bản của TH và các trường phái triết học
* Vấn đề cơ bản của triết học: có hai mặt, mỗi mặt phải trả lời cho một câu hỏi lớn.
- Mặt thứ nhất: Giữa vật chất và ý thức cái nào có trước, cái nào có sau, cái nào quyết định cái nào?
- Mặt thứ hai: Con người có khả năng nhận thức thế giới hay không?Trả lời cho hai câu hỏi trên liên quan
mật thiết đến việc hình thành các trường phái triết học và các học thuyết về nhận thức trong lịch sử triết học.
* Mqh giữa VC và YT là vấn đề cơ bản của TH vì
- Đây là mqh bao trùm của mọi sự vật hiện tượng trong TG
- Là vấn đề nền tảng và xuất phát điểm để giải quyết những vấn đề còn lại của triết học
- Là tiêu chuẩn để xác định lập trường, TGQ của triết gia và học thuyết của họ
- Các hình thái TH đều cần trực tiếp, gián tiếp giải quyết vấn đề này
* Giải quyết mặt thứ nhất trong vấn đề cơ bản của triết học là cơ sở để phân định các trường phái triết học.
Có ba cách giải quyết cơ bản:
- Nhất nguyên luận duy vật (hay chủ nghĩa duy vật) cho rằng vật chất có trước, ý thức có sau, vật chất quyết
định ý thức. Cách giải quyết này thừa nhận tính thứ nhất của vật chất.
- Nhất nguyên luận duy tâm (hay chủ nghĩa duy tâm) cho rằng ý thức có trước, vật chất có sau, ý thức quyết
định vật chất. Cách giải quyết này thừa nhận tính thứ nhất của ý thức.
- Nhị nguyên luận cho rằng vật chất và ý thức tồn tại độc lập, chúng không nằm trong quan hệ sản sinh hay
quyết định nhau. Triết học nhị nguyên có khuynh hướng điều hòa chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa duy tâm
nhưng về bản chất, triết học nhị nguyên theo chủ nghĩa duy tâm.
Chủ nghĩa duy vật được thể hiện dưới ba hình thức cơ bản:
- Chủ nghĩa chất phác: là đặc trưng của triết học duy vật thời cổ đại. Khi thừa nhận tính thứ nhất của vật chất,
họ đã đồng nhất vật chất với một hay một số chất cụ thể như nước (Talét); lửa (Hêraclit);v.v. .Những kết luận
triết học chủ yếu rút ra từ những quan sát trực tiếp, trình độ nhận thức còn hạn chế, khoa học cụ thể chưa
phát triển.
- Chủ nghĩa duy vật siêu hình: là đặc trưng của triết học duy vật thế kỷ XV – XVIII đỉnh cao là vào thế kỷ
XVII – XVIII với các đại biểu như: Ph.Bêcơn, T.Hôpxơ (Anh), Điđrô, Hônbách (Pháp) ... Chủ nghĩa duy vật
thời kỳ này nhìn nhận, xem xét thế giới như một cỗ máy khổng lồ mà mỗi bộ phận tạo nên nó luôn ở trong
trạng thái biệt lập và tĩnh tại. Nguyên nhân: Đây là thời kỳ phát triển rực rỡ của cơ học, khoa học thực
nghiệm khiến cho chủ nghĩa duy vật thời kỳ này chịu sự tác động mạnh mẽ của phương pháp tư duy siêu
hình, máy móc.
- Chủ nghĩa duy vật biện chứng: do C.Mác và Ph. Ăngghen xây dựng vào những năm 40 của thế kỷ XIX, sau
đó được Lênin phát triển. Với sự kế thừa tinh hoa của các học thuyết triết học trước đó và sử dụng những
thành tựu của khoa học đương thời, chủ nghĩa duy vật biện chứng đã khắc phục được hạn chế của chủ nghĩa
duy vật chất phác thời cổ đại, chủ nghĩa duy vật siêu hình; thể hiện là đỉnh cao trong sự phát triển của chủ
nghĩa duy vật.
Ngoài ba hình thức cơ bản trên, chủ nghĩa duy vật còn có các hình thức khác như: chủ nghĩa duy vật nhân
bản, chủ nghĩa duy vật tầm thường, chủ nghĩa duy vật kinh tế...
Chủ nghĩa duy tâm được chia thành hai dạng chủ yếu:
- Chủ nghĩa duy tâm chủ quan: Đại biểu: Becơli, Hium ... thừa nhận tính thứ nhất của ý thức con người, phủ
nhận sự tồn tại khách quan của hiện thực. Chủ nghĩa duy tâm chủ quan khẳng định: mọi sự vật, hiện tượng
chỉ là phức hợp những cảm giác của cá nhân, chủ thể.
- Chủ nghĩa duy tâm khách quan: Đại biểu: Platôn, Heghen ... thừa nhận tính thứ nhất của ý thức nhưng theo
họ đó là thứ tinh thần khách quan có trước và tồn tại độc lập với con người, thường mang những tên gọi như
ý niệm, tinh thần tuyệt đối, lý tính thế giới...
* Giải quyết mặt thứ hai của vấn đề cơ bản của triết học:
- Tuyệt đại đa số các nhà triết học trong lịch sử (cả duy vật và duy tâm) đều thừa nhận
khả năng nhận thức thế giới của con người. Tuy nhiên, họ quan niệm khác nhau về nhận thức.
- Những nhà triết học không thừa nhận khả năng nhận thức của con người gọi là những nhà triết học không
thể biết. Theo thuyết này, các nhà triết học phủ nhận hoặc hoài nghi khả năng nhận thức thế giới của con
người. Có hai dạng:
+ Con người hoàn toàn không thể biết gì về thế giới. Đại biểu: Hium
+ Con người chỉ nhận thức được hiện tượng chứ không thể nhận thức được bản chất của thế giới. Đại biểu: I.
Cantơ
* Vai trò của TH Mác-Leenin trong đời sống xã hội:
- Chức năng TGQ và PPL:
+ TH thực hiện chức năng của TGQ: là hạt nhân lý luận của TGQ  TH thực hiện hiện chức năng của TGQ,
giúp con người có tri thức về TG  định hướng về lý
+ TH thực hiện PPL chung nhất: cung cấp pp nhận thức và cải tạo TG theo sự chỉ dẫn của lý luận
- Chức năng, định nghĩa PPL: PPL là hệ thống các quan điểm chỉ đạo việc tìm tòi, xây dựng, lựa chọn và vận
dụng các PPL
* TH Mác-Lênin với cá khoa học khác:
- TH Mác khẳng định giữa TH và các KH khác có qh biện chứng:
+ thành quả của các KH cụ thể là những tư liệu để th rút ra những KL của mình, là điều kiện tiên quyết cho
sự phát triển của TH
+ Những kết luận của TH là TGQ là PPL chung nhất, đứng đắn nhất cho sự phát triển của….
*Vai trò của TH Mác-Lênin với KH cụ thể:
- cung cấp TGQ và PPL KH, làm nền tảng xuất phát các quá trình nhận thức KH
- Mọi KH, muốn hay không đều phải giải quyết các vấn đề quan hệ VC-YT; nguyên tắc vận động; chân lý…
TGQ DVBC là cơ sở của các xuất phát điểm KH
2. Phạm trù vật chất
2.1. Quan niệm về vật chất trong lịch sử triết học duy vật trước C.Mác
* Thời kỳ cổ đại: Nhìn chung, các nhà triết học quan niệm vật chất là một hay một số chất tự có, đầu tiên, là
cơ sở sản sinh ra toàn bộ thế giới.
- Quan điểm triết học Phương Đông: trong triết học Trung Quốc, thuyết Âm – Dương cho rằng hai khí âm và
khí dương là những thực thể vật chất đầu tiên; thuyết Ngũ hành thì quan niệm có năm yếu tố vật chất đầu tiên
tạo nên thế giới là kim, mộc, thủy, hỏa, thổ.
- Trong triết học Hy Lạp cổ đại: các nhà triết học luôn quan tâm lý giải vấn đề khởi nguyên của thế giới.
Talet cho rằng đó là nước, Hêracrít cho là lửa, Anaximen cho là không khí, Đêmôcrit cho là nguyên tử…
Quan niệm vật chất thời kỳ cổ đại đã xuất phát từ bản thân thế giới vật chất để giải thích vật chất. Tuy nhiên,
họ đã đồng nhất vật chất với những dạng cụ thể của nó và những quan niệm này mang tính trực quan, cảm
tính.
* Thời kỳ cận đại thế kỷ XVII-XVIII có nhiều quan điểm khác nhau về vật chất:
- Niutơn: đồng nhất vật chất với thuộc tính của vật chất. Ông cho rằng khối lượng là vật chất.
- R.Đềcáctơ: Các hành tinh đều cấu tạo từ vật chất, vật chất là nguồn gốc của mọi sự vật. Tuy nhiên, ông giải
thích thế giới theo thuyết siêu hình học. Quan điểm vật chất thời kỳ cận đại mang tính siêu hình, máy móc.
- Giải quyết triệt để hai mặt trong vấn đề cơ bản của triết học theo quan điểm của chủ nghĩa duy vật biện
chứng.
- Khắc phục hạn chế, sai lầm của chủ nghĩa duy vật trước Mác về phạm trù vật chất; bác bỏ, phủ nhận quan
điểm của chủ nghĩa duy tâm và tôn giáo về vấn đề này.
- Tạo cơ sở cho các nhà triết học duy vật biện chứng xây dựng quan điểm vật chất trong lĩnh vực đời sống xã
hội.
- Có tác dụng cổ vũ các nhà khoa học đi sâu vào thế giới vật chất để nghiên cứu, thu được nhiều tri thức mới
về thế giới vật chất.
3. Vật chất và vận động.
3.1. Vận động là gì?
* Quan điểm siêu hình: Vận động là sự di chuyển vị trí của vật thể trong không gian, thời gian. Nguồn gốc
của vận động là ở bên ngoài sự vật hiện tượng.
* Quan điểm duy vật biện chứng: Vận động là mọi sự biến đổi nói chung. Ăngghen định nghĩa như sau: “Vận
động hiểu theo nghĩa chung nhất (…) bao gồm tất cả mọi sự thay đổi và mọi quá trình diễn ra trong vũ trụ, kể
từ sự thay đổi vị trí đơn giản cho đến tư duy”.
3.2. Bản chất của vận động
- Vận động là phương thức tồn tại của vật chất, là thuộc tính cố hữu của vật chất.
- Vận động không do ai sáng tạo ra và cũng không mất đi mà nó tồn tại vĩnh viễn.
- Nguồn gốc của vận động là do bản thân sự vật hiện tượng quy định (tự thân vận động).
3.3. Các hình thức vận động cơ bản của vật chất
- Ăngghen khái quát thành năm hình thức vận động cơ bản sau:
+ Vận động cơ học: Sự di chuyển vị trí các vật thể trong không gian.
+ Vận động vật lý: Vận động của các phân tử, các hạt cơ bản, vận động điện tử, các quá trình nhiệt, điện
+ Vận động hoá học: Vận động của các nguyên tử, các quá trình hóa hợp và phân giải các chất.
+ Vận động sinh học: Trao đổi chất của cơ thể sống với môi trường
+ Vận động xã hội: Sự thay đổi, thay thế các quá trình xã hội của các hình thái kinh tế– xã hội.
- Quan hệ giữa các hình thức vận động:
+ Giữa các hình thức vận động có sự liên hệ tác động, chuyển hoá lẫn nhau nhưng có sự khác nhau căn bản
về chất.
+ Các hình thức vận động cao xuất hiện trên cơ sở các hình thức vận động thấp, bao hàm trong nó tất cả các
hình thức vận động thấp hơn.
+ Sự vật có nhiều hình thức vận động nhưng bao giờ cũng có hình thức vận động đặc trưng.
3.4. Vận động và đứng im
Triết học Mác khẳng định, vận động là tuyệt đối còn đứng im chỉ là tương đối, tạm thời.
Đứng im là tương đối vì:
Thứ nhất: Hiện tượng đứng im chỉ xảy ra trong một quan hệ xác định chứ không phải trong mọi quan hệ,
trong cùng một lúc.
Thứ hai: Hiện tượng đứng im chỉ xảy ra đối với một hình thức vận động trong cùng một lúc.
Thứ ba: Hiện tượng đứng im chỉ là biểu hiện của một trạng thái vận động, đó là vận động trong thăng bằng,
trong sự ổn định tương đối. Chính nhờ trạng thái ổn định này mà vật chất biểu hiện thành các sự vật cụ thể và
qua đó sự vật và hiện tượng làm cho tất cả không ngừng biến đổi.
Đứng im là tạm thời vì: vận động cá biệt có xu hướng hình thành sự vật, hiện tượng ổn định nào đó, còn vận
động nói chung, tức sự tác động lẫn nhau giẵ sự vật hiện tượng làm cho tất cả không ngừng biến đổi.
4. Phạm trù ý thức
4.1. Nguồn gốc của ý thức
Dựa trên cơ sở những thành tựu của khoa học tự nhiên, nhất là sinh lý học thần kinh cấp cao, CNDVBC đã
giải thích một cách khoa học nguồn gốc, bản chất của ý thức như sau:
* Nguồn gốc tự nhiên: là bộ óc con người và mối quan hệ giữa bộ óc con người với thế giới hiện thực khách
quan
- Ý thức là thuộc tính của một dạng vật chất có tổ chức cao là bộ óc con người. Bộ óc con người là một tổ
chức sống đặc biệt có cấu trúc tinh vi và phức tạp. Bộ óc người là cơ quan vật chất của ý thức.
Hoạt động ý thức chỉ diễn ra trong bộ óc người, trên cơ sở các quá trình sinh lý- thần kinh của bộ óc người.
- Mối quan hệ giữa bộ óc con người với thế giới khách quan tạo ra quá trình phản ánh năng động, sáng tạo.
+ Phản ánh là sự tái tạo những đặc điểm của một hệ thống vật chất này ở hệ thống vật chất khác trong quá
trình tác động qua lại giữa chúng. Phản ánh là thuộc tính vốn có ở mọi dạng vật chất.
Kết quả của phản ánh phụ thuộc vào cả hai vật: vật tác động và vật nhận tác động.
Vật tác động là cái được phản ánh, vật nhận tác động là cái phản ánh. Quá trình phản ánh bao hàm quá trình
thông tin, cái phản ánh mang thông tin của cái được phản ánh.
+ Sự phát triển của thuộc tính phản ánh (các hình thức phản ánh):
Phản ánh vật lý, hoá học: là hình thức phản ánh đơn giản nhất, đặc trưng cho giới tự nhiên vô sinh. Hình
thức phản ánh này có tính chất thụ động, chưa có định hướng sự lựa chọn.
Phản ánh sinh học: đặc trưng cho giới tự nhiên sống. Những hình thức phản ánh này đã có sự định hướng, sự
lựa chọn, nhờ đó các sinh vật thích nghi với môi trường để duy trì sự tồn tại của mình. Phản ánh sinh học có
nhiều cấp độ như: tính kích thích (thể hiện ở thực vật và động vật bậc thấp, là phản ứng trả lời tác động của
môi trường ở bên ngoài có ảnh hưởng trực tiếp đến quá trình trao đổi chất của chúng), tính cảm ứng (là hình
thức phản ánh của động vật bậc cao khi có hệ thần kinh trung ương và tính nhạy cảm đối với sự thay đổi của
môi trường).
Phản ánh tâm lý: Là hình thức phản ánh ở động vật bậc cao khi có hệ thần kinh trung ương xuất hiện. Tâm lý
động vật là sự phản ánh có tính chất bản năng do nhu cầu trực tiếp của sinh lý cơ thể và do quy luật sinh học
chi phối.
Ý thức: Là hình thức cao nhất của sự phản ánh thế giới hiện thực. Ý thức là hình thức phản ánh chỉ có ở con
người.
* Nguồn gốc xã hội
- Lao động: lao động là quá trình con người sử dụng công cụ tác động vào giới tự nhiên nhằm tạo ra những
sản phẩm phục vụ cho các nhu cầu của mình.
Vai trò của lao động:
+ Lao động đã sáng tạo ra bản thân con người, hay nhờ có lao động con người tách ra khỏi giới động vật.
+ Lao động làm hoàn thiện cơ thể con người, đặc biệt là bộ óc và giác quan, làm cho năng lực tư duy trừu
tượng, năng lực phản ánh của bộ óc càng phát triển.
+ Thế giới khách quan bộc lộ những thuộc tính, những kết cấu, những quy luật vận động của mình trong quá
trình lao động.
+ Trong lao động đòi hỏi xuất hiện ngôn ngữ.
- Ngôn ngữ
+ Ngôn ngữ là hệ thống tín hiệu vật chất mang nội dung ý thức, theo C.Mác, ngôn ngữ là cái vỏ vật chất của
tư duy, là hiện thực trực tiếp của tư tưởng.
Vai trò của ngôn ngữ:
+ Nó là phương tiện giao tiếp trong xã hội, trao đổi kinh nghiệm, trao đổi tri thức từ thế hệ này sang thế hệ
khác.
+ Nhờ ngôn ngữ mà con người tổng kết được thực tiễn, đồng thời là công cụ của tư duy nhằm khái quát hoá,
trừu tượng hoá hiện thực.
Do đó, không có ngôn ngữ thì ý thức không thể hình thành, tồn tại và thể hiện được.
Vậy, nguồn gốc quan trọng nhất quyết định sự ra đời và phát triển của ý thức là chính là lao động, là thực
tiễn xã hội.
4.2. Bản chất của ý thức
* Quan điểm của CNDVBC về bản chất của ý thức: ý thức là sự phán ánh hiện thực khách quan vào trong bộ
óc con người một cách năng động, sáng tạo; là hình ảnh chủ quan của thế giới khách quan.
Để hiểu được bản chất của ý thức, cần chú ý các nội dung sau:
- Ý thức cũng là “hiện thực” nghĩa là cũng tồn tại, nhưng giữa vật chất và ý thức có sự khác nhau mang tính
đối lập. Ý thức là sự phản ánh, cái phản ánh; còn vật chất là cái được phản ánh. Ý thức không có tính vật
chất.
- Ý thức là hình ảnh chủ quan của thế giới khách quan, tức là ý thức không phải là hình ảnh vật lý hay hình
ảnh tâm lý động vật về sự vật, bởi vì, ý thức con người mang tính năng động, sáng tạo lại hiện thực theo nhu
cầu thực tiễn xã hội.
- Phản ánh ý thức là sự phản ánh sáng tạo. Đây là đặc điểm vô cùng quan trọng của phản ánh ý thức. Tính
sáng tạo của ý thức thể hiện ra rất phong phú đa dạng. Tuy nhiên, sáng tạo của ý thức là sáng tạo của sự phản
ánh.
Quá trình phản ánh hiện thực khách quan vào bộ óc người là quá trình năng động, sáng tạo thống nhất ba mặt
sau:
+ Trao đổi thông tin mang tính chất hai chiều, có định hướng, chọn lọc, giữa chủ thể và đối tượng phản ánh.
+ Mô hình hoá đối tượng trong tư duy dưới dạng hình ảnh tinh thần. Thực chất, đây là quá trình “sáng tạo
lại” hiện thực của ý thức theo nghĩa: mã hoá các đối tượng vật chất thành các ý tưởng tinh thần phi vật chất.
+ Chuyển mô hình tư duy ra hiện thực khách quan, tức là quá trình hiện thực hoá tư tưởng thông qua hoạt
động thực tiễn.
- Ý thức là một hiện tượng xã hội, mang bản chất xã hội.
4.3. Kết cấu của ý thức
* Theo các yếu tố hợp thành, ý thức bao gồm: tri thức, tình cảm, niềm tin, lý trí…trong đó tri thức là yếu tố
cơ bản, cốt lõi.
- Tri thức là kết quả quá trình nhận thức của con người về thế giới hiện thực, làm tái hiện trong tư tưởng
những thuộc tính, những quy luật của thế giới hiện thực, làm tái hiện trong tư tưởng những quy luật của thế
giới ấy và diễn đạt chúng dưới hình thức ngôn ngữ hoặc các hệ thống ký hiệu khác.
Phân loại tri thức có nhiều cách phân loại khác nhau như:
+ Dựa vào đối tượng phản ánh có tri thức về tự nhiên, về xã hội, về con người.
+ Dựa vào trình độ phản ánh có tri thức thông qua thông thường, tri thức khoa học.
Tri thức khoa học lại được chia thành tri thức kinh nghiệm và tri thức lý tuận. Ngày nay, vai trò động lực của
tri thức đối với sự phát triển kinh tế xã hội trở nên rõ ràng, nổi bật. Đầu tư vào tri thức trở thành yếu tố then
chốt cho sự tăng trưởng dài hạn trong nền kinh tế tri thức.
- Tình cảm là sự cảm động của con người trong quan hệ của mình với thực tại xung quanh và đối với bản
thân mình:
+ Tình cảm là một hình thái đặc biệt của sự phản ánh thực tại; nó phản ánh quan hệ của con người đối với
nhau, cũng như đối với thế giới khách quan.
+ Tình cảm tham gia vào mọi hạt động của con người và giữ một vị trí quan trọng trong việc điều chỉnh hoạt
động của con người.
- Tri thức kết hợp với xúc cảm, tình cảm hình thành nên niềm tin, nâng cao ý chí tích cực biến thành hành
động thực tế, mới phát huy được sức mạnh của mình.
* Theo chiều sâu của nội tâm, ý thức gồm: tự ý thức, tiềm thức, vô thức.
- Tự ý thức: là ý thức về bản thân mình trong mối quan hệ với ý thức về thế giới bên ngoài.
+ Nhờ có tự ý thức mà con người tự nhận thức về bản thân mình như một thực thể hoạt động có cảm giác, có
tư duy, có các hành vi đạo đức và có vị trí trong xã hội.
+ Con người chỉ ý thức về bản thân mình trong quan hệ với những người khác, trong quá trình hoạt động cải
tạo thế giới. Từ đó, tự điều chỉnh bản thân theo các quy tắc, các tiêu chuẩn mà xã hội đề ra.
+ Tự ý thức không chỉ là tự ý thức của cá nhân mà còn là tự ý thức của cả xã hội, của một giai cấp hay của
một tầng lớp xã hội.
- Vô thức là những trạng thái tâm lý ở chiều sâu, điều chỉnh sự suy nghĩ, hành vi, thái độ, ứng xử của con
người mà chưa có sự tranh luận nội tâm, chưa có sự truyền thông tin bên trong, chưa có sự kiểm tra, tính toán
của lý trí.
+ Vô thức biểu hiện thành nhiều hiện tượng khác nhau như bản năng ham muốn, giấc mơ bị thôi miên, mặc
cảm, sự lỡ lời, nói nhịu, trực giác…
+ Vô thức có vai trò nhất định trong đời sống và hoạt động của con người như tình trạng căng thẳng không
cần thiết khi làm việc quá tải, thực hiện chuẩn mực một cách tự nhiên…
+ Vô thức chỉ là vô thức nằm trong con người có ý thức. Giữ vai trò chủ đạo trong con người ý thức chứ
không phải vô thức. Nhờ có ý thức mới điều khiển được các hiện tượng vô thức hướng tới chân, thiện, mỹ…
5. Mối quan hệ biện chứng giữa vật chất và ý thức. Ý nghĩa của việc nắm vững mối quan hệ biện
chứng giữa vật chất và ý thức trong sự nghiệp đổi mới ở nước ta
5.1. Mối quan hệ biện chứng giữa vật chất và ý thức
* Vai trò quyết định của vật chất với ý thức:
- Vật chất quyết định sự xuất hiện của ý thức, do đó vật chất là có trước, ý thức là có sau, ý thức chỉ là sự
phản ánh của vật chất. Nguyên lý này biểu hiện về mặt xã hội là tồn tại xã hội có trước, ý thức xã hội có sau
và do tồn tại xã hội quyết định.
- Vật chất thay đổi thì ý thức cũng thay đổi. Tồn tại xã hội thay đổi thì sớm muộn ý thức xã hội cũng thay đổi
theo.
* Tính độc lập tương đối của ý thức:
- Mặc dù ý thức do vật chất quyết định nhưng nó không phụ thuộc hoàn toàn vào vật chất mà do có tính năng
động, sáng tạo nên ý thức có thể tác động trở lại vật chất, góp phần cải biến thế giới khách quan thông qua
hoạt động thực tiễn của con người theo hai hướng:
+ Ý thức phản ánh đúng hiện thực khách quan có tác dụng thúc đẩy hoạt động thực tiễn của con người trong
quá trình cải tạo thế giới vật chất.
+ Ý thức phản ánh không đúng hiện thực khách quan có thể kìm hãm hoạt động thực tiễn của con người
trong quá trình cải tạo thế giới vật chất.
Lưu ý: Sự sáng tạo của ý thức phải trong khuôn khổ của phản ánh, theo quy luật của phản ánh.
5.2. Ý nghĩa của việc nắm vững mối quan hệ biện chứng giữa vật chất và ý thức
trong sự nghiệp đổi mới ở nước ta
- Thừa nhận vật chất có trước và quyết định ý thức thì khi nhận thức thế giới phải xuất phát từ thế giới khách
quan, không thể xuất phát từ ý thức, ý muốn chủ quan của con người. Trong hoạt động thực tiễn phải tôn
trọng và hành động theo các quy luật khách quan, phải nói rõ và đúng sự thật, phải tìm nguyên nhân và
phương pháp giải quyết các hiện tượng tinh thần ở ngay trong hiện thực khách quan, không được áp đặt chủ
quan, duy ý chí hoặc vận dụng kinh nghiệm một cách máy móc, giáo điều.
- Thừa nhận ý thức có tính độc lập tương đối, có sự tác động trở lại thế giới khách quan. Nhưng sự tác động
trở lại của ý thức đối với thế giới vật chất phải thông qua hoạt động thực tiễn của con người. Cho nên, sức
mạnh của ý thức tuỳ thuộc vào mức độ thâm nhập phổ biến của nó vào con người, vào trình độ tổ chức hoạt
động thực tiễn cũng như các điều kiện vật chất và hoàn cảnh khách quan. Vì thế, việc nâng cao vai trò của ý
thức đối với vật chất chính là ở chỗ nâng cao năng lực nhận thức các quy luật khách quan và vận dụng các
quy luật ấy trong hoạt động thực tiễn của con người. Đồng thời trong hoạt động thực tiễn, cần phải khắc phục
thái độ tiêu cực, thụ động, ỷ lại, trông chờ hoặc đổ lỗi cho khách quan, cần phát huy tính chủ động, sáng tạo
của con người.
- Trong quá trình xác định đường lối cách mạng và chỉ đạo thực tiễn, Đảng Cộng sản Việt Nam luôn quán
triệt mối quan hệ biện chứng giữa vật chất và ý thức. Đảng ta coi việc “phải luôn xuất phát từ thực tế, tôn
trọng và hành động theo quy luật khách quan” là bài học kinh nghiệm lớn rút ra từ thực tiễn cách mạng nước
ta. Đảng ta cũng nhấn mạnh vai trò to lớn của tư tưởng, của lý luận khoa học và luôn xác định “lấy chủ nghĩa
Mác – Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho mọi hành động”. Chính từ
quan điểm đúng đắn đó mà thực tiễn cách mạng Việt Nam đã và đang thu được nhiều thành quả rõ rệt.
_______________________________________________________________________________________
6. Hai nguyên lý của phép biện chứng duy vật
6.1. Khái niệm về phép biện chứng
- Định nghĩa phép biện chứng:
+ Ăngghen: “Phép biện chứng chẳng qua chỉ là môn khoa học về những quy luật phổ biến của sự vận động
và sự phát triển của tự nhiên, của xã hội loài người và của tư duy”.
- Sơ lược về các giai đoạn hình thành và phát triển của phép biện chứng trong lịch sử:
+ Phép biện chứng tự phát thời cổ đại: Phản ánh tính chất chung của thế giới là vận động biến đổi không
ngừng nhưng chủ yếu dựa trên cơ sở quan sát mang tính trực quan, cảm tính.
+ Phép biện chứng duy tâm trong triết học cổ điển Đức (đại biểu là Hêghen): đã xây dựng được một hệ thống
các nguyên lý, quy luật, phạm trù về sự vận động, phát triển của thế giới nhưng lại mang tính chất duy tâm
thần bí, phản ánh sai lệch hiện thực khách quan.
+ Phép biện chứng duy vật do Mác-Ăngghen xây dựng là sự thống nhất giữa thế giới quan duy vật và
phương pháp biện chứng, nó mang tính khoa học. Nội dung của phép biện chứng duy vật bao gồm hai
nguyên lý, ba quy luật, sáu cặp phạm trù và lý luận nhận thức.
6.2. Nguyên lý về mối liên hệ phổ biến
* Khái niệm về mối liên hệ phổ biến
- Quan điểm siêu hình về mối liên hệ: cho rằng sự vật hiện tượng tồn tại độc lập tách biệt với nhau, giữa
chúng không có sự liên hệ, nếu thừa nhận có sự liên hệ thì đó chỉ là liên hệ bề ngoài, thụ động, một chiều,
giữa các hình thức liên hệ không có sự chuyển hoá lẫn nhau.
- Quan điểm duy vật biện chứng về mối liên hệ:
Mối liên hệ là phạm trù triết học dùng để chỉ sự quy định, sự tác động qua lại, sự chuyển hoá lẫn nhau giữa
các sự vật, hiện tượng hay các mặt sự vật, của một hiện tượng trong thế giới.
* Tính chất của mối liên hệ
- Mối liên hệ mang tính khách quan: các mối liên hệ là vốn có của mọi sự vật hiện tượng; nó không phụ
thuộc vào ý thức của con người.
- Mối liên hệ mang tính phổ biến, thể hiện:
+ Bất cứ sự vật, hiện tượng nào cũng liên hệ với sự vật hiện tượng khác, không có sự vật hiện tượng nào nằm
ngoài mối liên hệ.
+ Mối liên hệ biểu hiện dưới nhiều hình thức riêng biệt, cụ thể tuỳ theo điều kiện nhất định. Song dù dưới
hình thức nào, chúng cũng chỉ là biểu hiện của mối liên hệ phổ biến nhất, chung nhất.
- Mối liên hệ mang tính đa dạng, phong phú:
Sự vật hiện tượng trong thế giới là phong phú, đa dạng, vì vậy hình thức liên hệ giữa chúng cũng rất đa dạng.
Tuy nhiên, có thể căn cứ vào vị trí, phạm vi vai trò, tính chất mà phân chia ra thành những mối liên hệ khác
nhau như: mối liên hệ bên trong - mối liên hệ bên ngoài, mối liên hệ bản chất - mối liên hệ không bản chất,
mối liên hệ trực tiếp - mối liên hệ gián tiếp, mối liên hệ chủ yếu - mối liên hệ thứ yếu v.v… Nhưng sự phân
chia này cũng chỉ mang tính tương đối.
* Ý nghĩa phương pháp luận
- Khi xem xét sự vật hiện tượng phải có quan điểm toàn diện.
Yêu cầu của quan điểm toàn diện:
+ Phải xem xét tất cả các mặt, các mối liên hệ của sự vật và các khâu trung gian của nó.
+ Phải nắm được và đánh giá đúng vị trí, vai trò của từng mặt, từng mối liên hệ trong
quá trình cấu thành sự vật .
- Bản thân quan điểm toàn diện đã bao hàm quan điểm lịch sử cụ thể. Vì vậy, khi xem xét sự vật, hiện tượng
phải đặt sự vật hiện tượng vào đúng không gian, thời gian mà sự vật, hiện tượng tồn tại .
6.3. Nguyên lý về sự phát triển
* Quan điểm siêu hình về sự phát triển: phát triển chỉ là sự tăng, giảm đơn thuần về mặt số lượng hay khối
lượng mà không có sự thay đổi về chất. Phát triển chỉ như quá trình tiến lên liên tục, không có bước quanh
co, thăng trầm phức tạp. Nguồn gốc phát triển là do bên ngoài quy định.
* Quan điểm duy vật biện chứng về sự phát triển: phát triển là phạm trù triết học dùng để chỉ quá trình vận
động tiến lên từ thấp đến cao, từ đơn giản đến phức tạp, từ kém hoàn thiện đến hoàn thiện hơn của sự vật.
- Nguồn gốc của sự phát triển là ở trong bản thân sự vật, hiện tượng, do mâu thuẫn của sự vật, hiện tượng
quy định.
- Phát triển là khuynh hướng chung của thế giới.
* Tính chất của sự phát triển
- Sự phát triển mang tính khách quan: điều này được thể hiện ở nguồn gốc của sự phát triển. Sự phát triển
diễn ra ở trong bản thân sự vật hiện tượng, do mâu thuẫn của sự vật hiện tượng quy định.
- Sự phát triển mang tính kế thừa nhưng trên cơ sở phê phán, lọc bỏ, cải tạo và phát triển, không kế thừa
nguyên xi hay lắp ghép từ cái cũ sang cái mới một cánh máy móc, hình thức.
- Sự phát triển mang tính phổ biến: phát triển diễn ra ở mọi lĩnh vực: tự nhiên, xã hội và tư duy, ở bất kỳ sự
vật, hiện tượng nào trong thế giới khách quan.
- Sự phát triển mang tính đa dạng, phong phú: phát triển là khuynh hướng chung của mọi sự vật, hiện tượng,
song mỗi sự vật, hiện tượng lại có quá trình phát triển không giống nhau.
* Ý nghĩa phương pháp luận
Khi xem xét sự vật, hiện tượng phải có quan điểm phát triển. Quan điểm phát triển yêu cầu:
+ Xem xét sự vật hiện tượng phải đặt chúng trong sự vận động phát triển không ngừng và vạch ra xu hướng
biến đổi chuyển hóa của chúng.
+ Phải biết phân chia quá trình phát triển của sự vật thành nhiều giai đoạn. Trên cơ sở đó tìm ra phương pháp
nhận thức và cách tác động phù hợp nhằm thúc đẩy sự vật phát triển nhanh hơn hoặc kìm hãm sự phát triển
của nó.
7. Các cặp phạm trù cơ bản của phép biện chứng duy vật
7.1. Cái riêng và cái chung
* Định nghĩa
- Cái riêng là một phạm trù triết học dùng để chỉ một sự vật, một hiện tượng, một quá trình riêng lẻ nhất định
- Cái chung là một phạm trù triết học, dùng để chỉ những mặt, những thuộc tính chung không những có ở một
kết cấu vật chất nhất định mà còn được lặp lại trong nhiều sự vật, hiện tượng hay quá trình riêng lẻ khác.
- Cái đơn nhất là phạm trù dùng để chỉ những đặc điểm, những mặt, những thuộc tính … chỉ có ở một sự vật,
một kết cấu vật chất mà không lặp lại ở sự vật, hiện tượng, kết cấu vật chất khác.
* Quan hệ biện chứng giữa cái riêng, cái chung và cái đơn nhất
- Quan điểm của phái duy danh và duy thực về mối quan hệ giữa cái riêng và cái chung
+ Phái duy danh: Cho rằng chỉ có cái riêng mới tồn tại còn cái chung (khái niệm, phạm trù) chỉ là những tên
gọi trống rỗng do tư tưởng của con người sáng tạo ra.
+ Phái duy thực: Cho rằng chỉ có cái chung mới tồn tại khách quan, độc lập với ý thức của con người, không
phụ thuộc vào cái riêng, sinh ra cái riêng.
- Quan điểm của chủ nghĩa duy vật biện chứng
+ Chủ nghĩa duy vật biện chứng cho rằng cả cái riêng và cái chung đều tồn tại khách quan, giữa chúng có
quan hệ hữu cơ với nhau. Mối quan hệ đó được thể hiện qua các điểm sau:
Thứ nhất, cái chung chỉ tồn tại trong cái riêng, thông qua cái riêng mà biểu hiện sự tồn tại của mình. Không
có cái chung thuần tuý tồn tại bên ngoài cái riêng.
Thứ hai, cái riêng chỉ tồn tại trong mối liên hệ với cái chung, không có cái riêng nào tồn tại độc lập tách rời
tuyệt đối với cái chung
Thứ ba, cái riêng là cái toàn bộ, phong phú hơn cái chung vì ngoài những điểm chung cái riêng còn có cái
đơn nhất.
Thứ tư, cái chung sâu sắc hơn cái riêng vì cái chung phản ánh thuộc tính, những mối liên hệ ổn định tất nhiên
lặp lại ở nhiều cái riêng còn lại. Do vậy cái chung là cái gắn liền với bản chất, quy định phương hướng tồn tại
và phát triển của cái riêng.
Thứ năm, cái đơn nhất và cái chung có thể chuyển hoá lẫn nhau trong quá trình phát triển của sự vật.
Sự chuyển hoá từ cái đơn nhất thành cái chung là biểu hiện của quá trình cái mới ra đời thay thế cái cũ. Sự
chuyển hoá của cái chung thành cái đơn nhất là biểu hiện của quá trình cái cũ, cái lỗi thời bị phủ định.
* Ý nghĩa phương pháp luận
- Muốn biết được cái chung, cái bản chất xuất phát từ cái riêng, từ những sự vật, hiện tượng riêng lẻ.
- Nhiệm vụ của nhận thức là phải tìm ra cái chung và trong hoạt động thực tiễn phải dựa vào cái chung để cải
tạo cái riêng.
- Trong thực tiễn thấy sự chuyển hoá giữa cái đơn nhất và cái chung nào có lợi ta cần chủ động tác động vào
đó để nó nhanh chóng chuyển hoá.
7. 2. Nguyên nhân và kết quả
* Định nghĩa
- Nguyên nhân là phạm trù triết học dùng để chỉ sự tác động lẫn nhau giữa các mặt trong một sự vật hoặc
giữa các sự vật với nhau, gây ra những biến đổi nhất định.
- Kết quả là những biến đổi xuất hiện do sự tác động lẫn nhau giữa các mặt trong một sự vật hoặc giữa các sự
vật với nhau gây ra.
- Phân biệt nguyên nhân với nguyên cớ, điều kiện:
+ Nguyên cớ là những sự vật hiện tượng xuất hiện đồng thời với nguyên nhân, nhưng nó chỉ là quan hệ bề
ngoài, ngẫu nhiên chứ không sinh ra kết quả.
+ Điều kiện là những sự vật hiện tượng gắn liền với nguyên nhân, tác động vào nguyên nhân, làm cho
nguyên nhân phát huy tác dụng, những điều kiện không trực tiếp sinh ra kết quả.
* Tính chất của mối liên hệ nhân quả
- Tính khách quan: Mối liên hệ nhân quả là cái vốn có của bản thân sự vật, không phụ thuộc vào ý thức của
con người.
- Tính phổ biến: Mọi sự vật hiện tượng trong tự nhiên và xã hội đều có nguyên nhân nhất định gây ra, chỉ có
điều là nguyên nhân đó đã được nhận thức hay chưa mà thôi.
- Tính tất yếu: Một nguyên nhân nhất định, trong điều kiện hoàn cảnh nhất định sẽ gây ra kết quả tương ứng
với nó.
* Quan hệ biện chứng giữa nguyên nhân và kết quả
- Nguyên nhân là cái sinh ra kết quả, nên nguyên nhân luôn có trước kết quả, còn kết quả bao giờ cũng xuất
hiện sau khi nguyên nhân đã xuất hiện. Tuy nhiên không phải mọi sự nối tiếp nào về mặt thời gian cũng là
mối liên hệ nhân quả.
- Tính phức tạp của quan hệ nhân quả:
+ Một nguyên nhân có thể sinh ra nhiều kết quả.
+ Một kết quả có thể do nhiều nguyên nhân sinh ra. Nếu những nguyên nhân tác động cùng chiều có thể hình
thành kết quả nhanh chóng, còn nếu nguyên nhân tác động ngược chiều thì có thể hạn chế hoặc triệt tiêu việc
hình thành kết quả.
- Sự tác động trở lại của kết quả đối với nguyên nhân;
+ Sự tác động trở lại của kết quả đối với nguyên nhân diễn ra theo hai hướng: thúc đẩy sự hoạt động của
nguyên nhân (hướng tích cực) hoặc cản trở sự hoạt động của nguyên nhân (hướng tiêu cực).
- Nguyên nhân và kết quả có thể thay đổi vị trí cho nhau:
Một sự vật nào đó trong mối liên hệ này là nguyên nhân, nhưng trong mối liên hệ khác lại là kết quả và
ngược lại. Chuỗi nhân quả là vô cùng không có bắt đầu và không có kết thúc. Một hiện tượng nào đấy được
xem là nguyên nhân hay kết quả bao giờ cũng ở trong một quan hệ xác định cụ thể.
* Ý nghĩa phương pháp luận
- Trong hoạt động nhận thức và hoạt động thực tiễn phải bắt đầu từ việc đi tìm những nguyên nhân xuất hiện
sự vật, hiện tượng
- Cần phải phân loại các loại nguyên nhân để có những biện pháp giải quyết đúng đắn.
- Phải tận dụng các kết quả đã đạt được để tạo điều kiện thúc đẩy nguyên nhân phát huy tác dụng, nhằm đạt
mục đích đã đề ra.
7.3. Tất nhiên và ngẫu nhiên
* Định nghĩa
- Tất nhiên (tất yếu) là cái do những nguyên nhân cơ bản bên trong của kết cấu vật chất quyết định và trong
những điều kiện nhất định nó phải xảy ra như thế chứ không thể khác được.
- Ngẫu nhiên là cái không do mối liên hệ bản chất, bên trong kết cấu vật chất, bên trong sự vật quyết định và
trong sự vật quyết định mà do các nhân tố bên ngoài, do sự ngẫu hợp nhiều hoàn cảnh bên ngoài quyết định.
Do đó nó có thể xuất hiện, có thể không xuất hiện, có thể xuất hiện như thế này hoặc có thể xuất hiện như thế
khác.
- Lưu ý:
+ Không đồng nhất phạm trù tất nhiên với phạm trù cái chung, bởi có cái chung là tất nhiên, có cái chung là
ngẫu nhiên.
+ Cả cái tất nhiên và ngẫu nhiên đều có nguyên nhân nhưng cái tất nhiên do những nguyên nhân bên trong,
còn ngẫu nhiên lại do những nguyên nhân bên ngoài.
+ Cả tất nhiên và ngẫu nhiên đều có quy luật. Nhưng tất nhiên thì mang tính động lực còn ngẫu nhiên thì
mang tính thống kê.
* Mối quan hệ biện chứng giữa tất nhiên và ngẫu nhiên
- Tất nhiên và ngẫu nhiên đều tồn tại khách quan, độc lập với ý thức con người và đều có vị trí nhất định đối
với sự phát triển của sự vật. Nếu như cái tất nhiên có tác dụng chi phối sự phát triển của sự vật thì cái ngẫu
nhiên làm cho sự phát triển của sự vật diễn ra nhanh hay chậm.
- Cả tất nhiên và ngẫu nhiên đều không tồn tại một cách biệt lập thuần tuý mà chúng tồn tại trong sự thống
nhất hữu cơ với nhau. Sự thống nhất đó thể hiện ở chỗ:
+ Cái tất nhiên bao giờ cũng thể hiện sự tồn tại của mình thông qua vô số cái ngẫu nhiên.
+ Cái ngẫu nhiên là hình thức biểu hiện của cái tất nhiên, đồng thời bổ sung cho cái tất nhiên.
- Tất nhiên và ngẫu nhiên có thể chuyển hoá cho nhau:
+ Tất nhiên và ngẫu nhiên không nằm yên ở trạng thái cũ mà thay đổi cùng với sự thay đổi của sự vật và
trong những điều kiện nhất định tất nhiên có thể chuyển hoá thành ngẫu nhiên và ngược lại.
+ Khi xem xét trong mối quan hệ này thì nó là ngẫu nhiên nhưng khi xem xét trong mối quan hệ khách thì nó
là tất nhiên. Như vậy ranh giới giữa tất nhiên và ngẫu nhiên chỉ có ý nghĩa tương đối.
* Ý nghĩa phương pháp luận
- Trong hoạt động thực tiễn chúng ta phải dựa vào cái tất nhiên. Nhưng cũng không được bỏ qua hoàn toàn
ngẫu nhiên.
- Muốn nhận thức được cái tất nhiên thì phải thông qua nhiều cái ngẫu nhiên.
7.4. Nội dung và hình thức
* Định nghĩa
- Nội dung là tổng hợp tất cả các mặt, những yếu tố, những quá trình tạo nên sự vật.
- Hình thức là phương thức tồn tại và phát triển của sự vật, là hệ thống các mối liên hệ tương đối bền vững
giữa các yếu tố của sự vật đó.
Mỗi sự vật đều có hình thức bên ngoài và hình thức bên trong, chủ nghĩa duy vật biện
chứng chủ yếu nói tới hình thức bên trong, gắn liền với nội dung.
* Mối quan hệ biện chứng giữa nội dung và hình thức
- Sự thống nhất giữa nội dung và hình thức:
Nội dung và hình thức gắn bó chặt chẽ với nhau trong một chỉnh thể thống nhất. Không có một hình thức nào
lại không chứa nội dung cũng như không có một nội dung nào lại không tồn tại trong một hình thức nhất
định nào đó. Tuy nhiên không phải lúc nào nội dung và hình thức cũng phù hợp với nhau.
+ Một nội dung có thể có nhiều hình thức thể hiện.
+ Một hình thức có thể thể hiện nhiều nội dung khác nhau.
- Nội dung giữ vai trò quyết định đối với hình thức trong quá trình vận động và phát triển của sự vật.
+ Nội dung quyết định hình thức, nội dung thay đổi thì trước sau hình thức cũng thay đổi phù hợp với nội
dung.
+ Hình thức biến đổi chậm hơn và không thường xuyên như nội dung.
- Sự tác động trở lại của hình thức đối với nội dung diễn ra theo hai hướng: nếu phù hợp với nội dung thì
hình thức sẽ tạo điều kiện thuận lợi thúc đẩy nội dung phát triển và ngược lại, nếu hình thức không phù hợp
với nội dung thì sẽ kìm hãm sự phát triển của hình thức.
* Ý nghĩa phương pháp luận
- Trong nhận thức không được tách rời, tuyệt đối hoá hoặc nội dung hoặc hình thức.
- Trong nhận thức và hoạt động thực tiễn cần phải căn cứ vào nội dung.
- Phải thường xuyên đối chiếu giữa nội dung và hình thức sao cho phù hợp để thúc đẩy sự vật phát triển.
7.5. Bản chất và hiện tượng
* Khái niệm
- Bản chất là tổng hợp tất cả những mặt, những mối liên hệ tất nhiên, tương đối ổn định bên trong sự vật, quy
định sự vận động và phát triển của sự vật.
- Hiện tượng là biểu hiện ra bên ngoài của bản chất.
* Phân biệt phạm trù bản chất – hiện tượng với phạm trù cái chung và quy luật
- Có cái chung là cái bản chất, nhưng cũng có cái chung không phải là cái bản chất.
- Mỗi quy luật thường chỉ biểu hiện một mặt, một khía cạnh nhất định của bản chất. Bản chất là tổng hợp của
nhiều quy luật. Vì vậy phạm trù bản chất rộng hơn và phong phú hơn quy luật.
* Mối quan hệ biện chứng giữa bản chất và hiện tượng
- Các quan điểm duy tâm đã không thừa nhận hoặc không hiểu đúng sự tồn tại khách quan của bản chất và
hiện tượng.
- Chủ nghĩa duy vật biện chứng cho rằng cả bản chất và hiện tượng đều tồn tại khách quan, là cái vốn của sự
vật, không do ai sáng tạo ra nó có quan hệ biện chứng với nhau.
- Sự thống nhất giữa bản chất và hiện tượng:
+ Bản chất luôn được bộ lộ ra qua hiện tượng còn hiện tượng nào cũng là biểu hiện của bản chất ở mức độ
nhất định. Không có bản chất nào tồn tại thuần tuý ngoài hiện tượng đồng thời cũng không có hiện tượng nào
hoàn toàn không biểu hiện bản chất.
+ Bản chất và hiện tượng về căn bản là phù hợp với nhau. Bản chất nào thì có hiện tượng đó. Khi bản chất
thay đổi thì hiện tượng biểu hiện nó cũng thay đổi theo.
- Tính chất mâu thuẫn của sự thống nhất giữa bản chất và hiện tượng:
+ Bản chất phản ánh cái chung, cái tất yếu, quyết định sự tồn tại và phát triển của sự vật, còn hiện tượng
phản ánh cái chung, cái cá biệt.
+ Cùng một bản chất có thể biểu hiện ra ở nhiều hiện trạng khác nhau tuỳ theo sự thay đổi của điều kiện và
hoàn cảnh.
+ Bản chất là cái tương đối ổn định, ít biến đổi, còn hiện tượng là cái thường xuyên biến đổi.
+ Bản chất không được biểu lộ hoàn thành ở một hiện tượng mà biểu hiện ở rất nhiều hiện tượng khác nhau.
Hiện tượng không biểu hiện hoàn toàn bản chất mà chỉ biểu hiện một khía cạnh của bản chất, biểu hiện bản
chất dưới hình thức đã biến đổi, nhiều khi xuyên tạc bản chất.
* Ý nghĩa phương pháp luận
- Muốn nhận thức được bản chất của sự vật, phải xuất phát từ hiện tượng, nhất là những sự vật hiện tượng
quá trình thực tế.
- Phải phân tích tổng hợp sự biến đổi của nhiều hiện tượng, nhất là những hiện tượng điển hình mới làm rõ
được bản chất của sự vật.
- Nhận thức không chỉ dừng lại ở hiện tượng mà phải tiến đến nhận thức được bản chất của sự vật.
- Trong hoạt động thực tiễn phải dựa vào bản chất của sự vật để xác định, phương thức hoạt động cải tạo sự
vật, không được dựa vào hiện tượng.
7.6. Khả năng và hiện thực
* Định nghĩa
- Hiện thực là những gì hiện có, hiện đang tồn tại thực sự.
- Khả năng là những gì hiện chưa có, nhưng sẽ có, khi có các điều kiện tương ứng.
- Phân loại khả năng:
+ Có khả năng được hình thành do quy luật vận động nội tại của sự vật quy định được gọi là khả năng tất
nhiên. Có khả năng được hình thành do các tương tác ngẫu nhiên quy định được gọi là khả năng ngẫu nhiên.
+ Trong khả năng tất nhiên lại bao gồm: khả năng gần, nghĩa là đã có đủ hoặc gần đủ những điều kiện cần
thiết để biến thành hiện thực và khả năng xa, nghĩa là chưa đủ những điều kiện để biến thành hiện thực, còn
phải trải qua nhiều giai đoạn quá độ nữa.
- Phân biệt khái niệm hiện thực với hiện thực khách quan.
+ Hiện thực khách quan là khái niệm chỉ các sự vật, vật chất tồn tại độc lập với ý thức của con người.
+ Hiện thực bao gồm cả những sự vật hiện tượng vật chất đang tồn tại một cách khách quan trong thực tế và
cả những gì đang tồn tại một cách chủ quan trong ý thức của con người.
* Mối quan hệ biện chứng giữa khả năng và hiện thực
- Khả năng và hiện thực tồn tại trong mối quan hệ chặt chẽ với nhau, không tách rời nhau, thường xuyên
chuyển hoá lẫn nhau trong quá trình phát triển của sự vật.
- Cùng trong một điều kiện nhất định, ở cùng một sự vật có tồn tại nhiều khả năng chứ không phải một khả
năng. Ngoài những khả năng vốn có trong điều kiện mới thì sự vật sẽ xuất hiện thêm những khả năng mới,
đồng thời mỗi khả năng cũng thay đổi theo sự thay đổi của điều kiện.
- Để khả năng biến thành hiện thực thì cần phải có các điều kiện cần và điều kiện đủ.
* Ý nghĩa phương pháp luận
- Trong hoạt động thực tiễn cần dựa vào hiện thực, không dựa vào khả năng để định ra chủ trương, phương
hướng hành động cho mình.
- Trong xã hội, chúng ta phải chú ý đến việc phát huy nguồn lực của con người, để biến khả năng thành hiện
thực, thúc đẩy xã hội phát triển hơn nữa.
- Cần tránh hai thái cực sai lầm, một là, tuyệt đối hoá vai trò nhân tố chủ quan; hai là hạ thấp vai trò nhân tố
chủ quan trong việc biến khả năng thành hiện thực.
8. Những quy luật cơ bản của phép biện chứng.
8.1. Quy luật chuyển hoá từ những sự thay đổi về lượng dẫn đến thay đổi về chất và ngược lại
Vai trò của quy luật: chỉ ra phương thức, cách thức của sự vận động và phát triển của sự vật, hiện tượng.
* Khái niệm về chất và khái niệm về lượng
- Khái niệm về chất: Chất là phạm trù triết học dùng để chỉ tính quy định khách quan vốn có của sự vật, là sự
thống nhất hữu cơ của những thuộc tính làm cho sự vật là nó chứ không phải là cái khác.
+ Chất là chỉ những tính quy định khách quan, vốn có.
+ Là sự thống nhất hữu cơ các thuộc tính, chứ không phải là một sự kết hợp máy móc hay hỗn hợp. Theo
Ph.Ăngghen: “Những chất lượng không tồn tại, mà những vật có chất lượng, hơn nữa, những sự vật có vô
vàn chất lượng mới tồn tại”.
+ Sự thống nhất đó tạo cho sự vật thành một chỉnh thể cho phép phân biệt sự vật, hiện tượng này với sự vật,
hiện tượng khác.
- Phân biệt chất với thuộc tính:
+ Chất là tổng hợp nhiều thuộc tính, mỗi thuộc tính là một bộ phận của chất, mỗi sự vật có nhiều chất.
+ Các thuộc tính bộc lộ theo một mối liên hệ cụ thể, khi thuộc tính cơ bản thay đổi thì chất mới thay đổi, sự
phân biệt giữa chất và thuộc tính chỉ là tương đối.
+ Chất gắn với kết cấu sự vật.
- Khái niệm về lượng: Lượng là phạm trù triết học dùng để tính quy định vốn có của sự vật về mặt số lượng,
quy mô, trình độ, nhịp điệu của sự vận động và phát triển cũng như các thuộc tính của sự vật.
- Đặc điểm:
+ Lượng là khách quan, quy định về sự vật, bên trong sự vật mặc dù nhiều khi dường như là vẻ bề ngoài.
+ Lượng gắn liền với cấu trúc, có tính phổ biến: dùng để chỉ kích thước (dài, ngắn, to, nhỏ….); số lượng
(nhiều, ít…); mức độ (cao, thấp…), nhịp điệu (nhanh, chậm…)
+ Lượng không nói lên sự vật đó là cái gì, các thông số về lượng thường xuyên thay đổi trong quá trình vận
động phát triển của sự vật.
+ Phân biệt khái niệm giữa chất và lượng chỉ có ý nghĩa tương đối.
* Mối liên hệ giữa sự thay đổi về lượng và sự thay đổi về chất
- Thực chất, chất và lượng là hai mặt của sự vật; cho nên, chất bao giờ cũng thể hiện ra một lượng nhất định,
không có chất thuần tuý; và lượng bao giờ cũng là lượng quy định một chất nhất định, không có lượng thuần
tuý.
- Độ là phạm trù triết học dùng để chỉ khoảng giới hạn trong đó sự thay đổi về lượng của sự vật chưa làm
thay đổi chất căn bản của sự vật.
+ Độ là mối liên hệ giữa lượng và chất của sự vật, thể hiện sự thống nhất giữa lượng và chất của sự vật.
+ Độ là sự ổn định của sự vật: trong độ, sự vật vẫn là nó chứ chưa biến thành cái khác.
+ Các sự vật khác nhau có độ khác nhau.
- Lượng biến đổi dần tới một mức độ nhất định dẫn tới sự thay đổi về chất. Không có sự thay đổi về lượng thì
không có sự thay đổi về chất.
+ Muốn có sự thay đổi về chất thì phải biến đổi dần dần về lượng.
+ Quá trình thay đổi từ lượng đến chất trải qua các giai đoạn sau: Khi thay đổi về lượng mà vẫn chưa dẫn tới
thay đổi về chất thì quá trình đó gọi là tiệm tiến, tiến hoá. Tới một mức độ dẫn đến sự thay đổi về chất gọi là
bước nhảy và giới hạn xảy ra bước nhảy gọi là điểm nút. Trong tiến trình phát triển của sự vật có nhiều điểm
nút tạo nên đường nút. Quy luật này phổ biến, thể hiện sự vận động liên tục trong tính đứt đoạn của lượng
chất.
Tính phổ biến của quy luật được thể hiện:
Trong thế giới vô cơ: Bảng tuần hoàn Menledeev, hoặc các phản ứng hoá học, theo Ăngghen: “Người ta có
thể gọi hoá học là khoa học của biến đổi chất sự biến đổi về chất của vật thể sinh ra do sự thay đổi về thành
phần số lượng”. Trong thế giới hữu cơ sự tiến hoá về loài trải qua hàng triệu năm.
Trong xã hội: xã hội phương Tây phải hơn 1000 năm phong kiến mới chuyển sang được xã hội mới, xã hội
tư bản, còn xã hội phương Đông trải qua 4-6 ngàn năm mà vẫn chưa đạt được như trình độ phương Tây hiện
nay.
Trong tư duy: Triết học Mác ra đời là do kế thừa thành tựu lý luận trước đó: I. Cantơ, L.Phoiơbăc, G.Hêghen.
* Khi chất mới ra đời tạo điều kiện cho lượng mới phát triển
- Chất mới của sự vật ra đời sẽ tác động trở lại lượng của sự vật. Sự tác động ấy thể hiện: chất mới có thể làm
thay đổi kết cấu, quy mô, trình độ, nhịp điệu của sự vận động và phát triển của sự vật. Ví dụ: Nước ở trạng
thái lỏng với 1 lít = 1dm3, nhưng ở trạng thái khí thì thể tích lớn hơn, vận tốc phân tử cũng lớn hơn. Sự thay
đổi đó được thể hiện bằng các hình thức bước nhảy. V.I.Lênin từng nói: “Nhưng đời sống thực tế, lịch sử
thực tế thì lại bao hàm cả những khuynh hướng khác nhau đó, cũng như đời sống và sự phát triển trong tự
nhiên vẫn bao hàm cả sự tiến hoá chầm chậm lẫn những bước nhảy vọt nhanh chóng, những sự gián đoạn của
quá trình tiệm tiến”*
* Các hình thức bước nhảy
+ Bước nhảy toàn bộ và bước nhảy bộ phận (cục bộ)
+ Bước nhảy đột biến và bước nhảy dần dần
* Một số kết luận về phương pháp luận
- Sự tích luỹ về lượng để dẫn tới sự thay đổi về chất là khách quan; cho nên không được nóng vội hay bảo
thủ. Cần phải chống cả hai khuynh hướng tư tưởng tả khuynh và hữu khuynh.
- Trong xã hội con người có thể góp phần thúc đẩy tạo điều kiện về lượng để chuyển hoá về chất.
- Lựa chọn thời điểm thích hợp để thúc đẩy biến đổi về chất, nhất là trong hoạt động xã hội.
- Lựa chọn phương thức phù hợp từng loại kết cấu sự vật để tác động thay đổi sự vật.
_______________________________________________________________________________________
8.2. Quy luật thống nhất và đấu tranh của các mặt đối lập
Quy luật này chỉ ra nguồn gốc, động lực của sự vận động và phát triển.
* Một số khái niệm cơ bản:
- Quan điểm biện chứng đã khẳng định: Sự vật là một thể thống nhất nhiều mặt khác nhau, trong đó có ít nhất
hai mặt đối lập, như: nguyên tử (điện tử và hạt nhân); xã hội tư bản (vô sản và tư sản); tư duy (chưa biết và
biết).
- Mặt đối lập: là những mặt có những đặc điểm, những thuộc tính, những tính quy định có khuynh hướng
biến đổi trái ngược nhau tồn tại một cách khách quan trong tự nhiên, xã hội, tư duy.
+ Sự tồn tại các mặt đối lập là khách quan, tạo nên sự vật.
+ Sự tồn tại các mặt đối lập là phổ biến. Nếu sự vật không có mặt đối lập thì sự vật không tồn tại.
- Mâu thuẫn biện chứng: là các mặt đối lập liên hệ, tác động qua lại lẫn nhau trong sự thống nhất, là nguồn
gốc, động lực của sự phát triển…
+ Mâu thuẫn biện chứng quy định sự tồn tại của sự vật chứ không phải tiêu diệt sự vật, nó là sự thống nhất
của các mặt đối lập, sự chuyển hoá các mặt đối lập tạo nên sự ra đời hay kết thúc sự tồn tại sự vật.
+ Mâu thuẫn biện chứng có tính khách quan, tính phổ biến. Như: cơ học (hút- đẩy); vật lý (hạt-sóng); hoá
học (liên kết –phân rã); sinh học (đồng hoá- dị hoá, hưng phấn- ức chế); xã hội (xã hội-tự nhiên, tồn tại xã
hội-ý thức xã hội, giai cấp); (chưa biếtbiết).
+ Các mặt đối lập nhưng không trong một thể thống nhất, một chỉnh thể chỉ có thể tạo nên mâu thuẫn hình
thức, không biện chứng.
- Sự thống nhất: hai mặt đối lập nương tựa, làm tiền đề cho nhau, không tách rời nhau.
Phân biệt hai khái niệm: đồng nhất và thống nhất
+ Đồng nhất: là sự phát triển ngang nhau, các yếu tố giống nhau giữa các mặt đối lập.
+ Thống nhất: thể hiện đòi hỏi sự chuyển hoá giữa các mặt đối lập.
Ví dụ: Khi giai cấp tư sản muốn lật đổ xã hội phong kiến, giai cấp đó đã liên minh với các giai cấp khác như
công nhân, nông dân, tiểu tư sản…;lúc đó, lợi ích các giai cấp trong liên minh thống nhất với nhau. Nhưng
sau khi thắng lợi giai cấp tư sản quay trở lại bóc lột các giai cấp khác, biến họ thành giai cấp vô sản, lúc này
biểu hiện sự đối lập.
- Sự đấu tranh: đấu tranh của các mặt đối lập là sự tác động qua lại theo xu hướng bài trừ và phủ định lẫn
nhau giữa các mặt đó.
+ Đấu tranh giữa các mặt đối lập quy định sự vận động và phát triển của sự vật, chứ không phải tiêu diệt sự
vật.
+ Đấu tranh giữa các mặt đối lập trong một thể thống nhất của sự vật, hiện tượng.
* Mâu thuẫn là nguồn gốc của sự vận động và sự phát triển
- Trong quá trình vận động phát triển của các sự vật, hiện tượng, sự thống nhất và đấu tranh của các mặt đối
lập không tách rời nhau. Sự thống nhất là tương đối, tạm thời (đứng im cũng tương đối); sự đấu tranh là tuyệt
đối (vận động là tuyệt đối).
- Khi mới hình thành, mâu thuẫn chỉ là hai mặt khác nhau, có khuynh hướng phát triển trái ngược nhau. Sư
khác nhau đó dần dần trở thành đối lập nhau. Khi hai mặt đối lập xung đột gây gắt với nhau, (lúc này sự vật
vận động với một nhịp điệu ngày càng tăng) đến một lúc nào đó đủ điều kiện các mặt đối lập sẽ chuuyển hoá
lẫn nhau, mâu thuẫn được giải quyết. Sự thống nhất của các mặt đối lập cũ mất đi, sự vật cũ mất đi, sự vật
mới ra đời, lại có những mặt đối lập và những mâu thuẫn mới đấu tranh với nhau. Cứ như vậy làm cho sự vật
vận động phát triển.
- Như vậy, sự thống nhất và đấu tranh của các mặt đối lập bên trong là nguồn gốc và động lực của sự vận
động, phát triển của các sự vật hiện tượng .
* Phân loại mâu thuẫn
- Mâu thuẫn bên trong và mâu thuẫn bên ngoài.
- Mâu thuẫn cơ bản và mâu thuẫn không cơ bản.
- Mâu thuẫn chủ yếu và mâu thuẫn thứ yếu.
* Ý nghĩa phương pháp luận
- Muốn nhận thức đựơc bản chất của sự vật phải phát hiện ra mâu thuẫn, vì mâu thuẫn quy định bản chất của
sự vật. Phải thừa nhận mâu thuẫn tồn tại khách quan, để nhận thức được đầy đủ sự vật phải nhận thức hình
thức được ít nhất hai mặt đối lập.
- Phân tích cụ thể trong tình hình cụ thể: Sự vật khác nhau, quá trình khác nhau, bản chất khác nhau, thì mâu
thuẫn cũng khác nhau, cho nên cách giải quyết mâu thuẫn cũng khác nhau, tránh rập khuôn, máy móc.
- Muốn thay đổi bản chất sự vật thì phải giải quyết mâu thuẫn, tránh cải lương, điều hoà.
8.3. Quy luật phủ định của phủ định.
Quy luật này chỉ ra khuynh hướng vận động, phát triển của các sự vật, hiện tượng.
* Khái niệm phủ định và phủ định biện chứng
- Khái niệm phủ định:
+ Quan điểm siêu hình: Do dựa trên quan điểm không thừa nhận sự vật tồn tại trong mối liên hệ phổ biến,
không thừa nhận nguồn gốc sự phát triển bên trong của sự vật và hiện tượng cho nên, khi nhìn nhận sự phát
triển không có gì mới, không thay đổi về chất, chỉ lặp lại hình thức, hoặc phủ định sạch trơn (như diệt một
con sâu, nghiền một cái hạt…), hoặc xoá bỏ không có gì mới.
+ Quan điểm chủ nghĩa duy tâm và tôn giáo: Thế giới khách quan là do sự sáng tạo của Thượng đế, không có
sự phát triển, nếu có sự phát triển thì theo sự biến đổi nói chung, là sự thay cũ đổi mới tạo nên sự vận động
của sự vật.
+ Quan điểm triết học Mác: sự phủ định là sự thay thế sự vật này bằng sự vật khác trong quá trình quá trình
vận động, phát triển. Thực chất sự phủ định là sự biến đổi nói chung là sự thay đổi cái cũ bằng cái mới, tạo
nên sự vận động của sự vật.
- Khái niệm phủ định biện chứng: Phủ định biện chứng là phạm trù triết học dùng để chỉ sự phủ định tự thân,
sự phát triển tự thân, là mắt khâu trong quá trình dẫn tới sự ra đời sự vật mới, tiến bộ hơn sự vật cũ.
- Đặc trưng của phủ định biện chứng:
+ Tính khách quan: Phủ định biện chứng là tự thân của sự vật, là giải quyết mâu thuẫn bên trong sự vật, chứ
không phải do sự tác động bên ngoài. Phủ định biện chứng là một tất yếu khách quan của quá trình vận động
và phát triển của sự vật.
+ Tính kế thừa: Phủ định biện chứng không xoá bỏ sạch trơn, mà là sự “lột bỏ” cái
cũ, kế thừa cái hợp lý và bảo tồn nó trong giai đoạn mới.
* Nội dung quy luật phủ định của phủ định
- Thế giới vật chất vận động và phát triển diễn ra thông qua quá trình phủ định biện chứng vô tận. Sự phát
triển của sự vật diễn ra qua nhiều lần phủ định, tạo ra một khuynh hướng đi từ thấp đến cao có tính chu kỳ.
Tính chu kỳ của sự phủ định biện chứng biểu hiện ở chỗ thông qua một số lần phủ định, cái mới xuất hiện
dường như lặp lại cái cũ nhưng trên cơ sở cao hơn. Hạt thóc cây lúa bông lúa
(khẳng định) (phủ định) (p.định của p.định)
+ Qua lần phủ định thứ nhất, sự vật chuyển thành mặt đối lập với chính mình (cây lúa phủ định hạt thóc).
+ Qua lần phủ định thứ hai, sự vật mới này lại chuyển thành mặt đối lập với nó và dường như trở lại dạng
ban đầu nhưng trên cơ sở cao hơn (bông lúa phủ định cây lúa).
Như vậy, kết quả của sự phủ định của phủ định là cái tổng hợp tất cả những yếu tố tích cực đã được phát triển
từ trước, trong cái khẳng định ban đầu và cái phủ định lần thứ nhất. Đó là sự “lọc bỏ” biện chứng những giai
đoạn đã qua để đạt đến cái mới về chất cao hơn. Đó chính là quá trình phủ định biện chứng. Ở thí dụ trên,
qua hai lần phủ định, sự vật trải qua một chu kỳ phát triển. Rõ ràng, ở sự vật đơn giản ít ra cũng phải thông
qua hai lần phủ định mới có được sự phát triển, ở các sự vật phức tạp số lần phủ định có thể nhiều hơn.
(Vòng đời của con tằm: tằm – nhộng- bướm- ngài- trứng- tằm)
- Sự phủ định của phủ định là sự kết thúc của một chu kỳ phát triển, đồng thời lại là điểm xuất phát của một
chu kỳ mới. Song sự phát triển đó không diễn ra theo đường thẳng mà theo đường “xoáy ốc”.
- Phát triển theo đường “xoáy ốc” diễn tả rõ ràng tính biện chứng của quá trình phát triển - đó là tính liên tục,
tính kế thừa, tính lặp lại, tính tiến lên của sự vận động.
- Trong sự phát triển có sự thụt lùi. Theo V.I.Lênin: “Cho rằng lịch sử thế giới phát triển đều đặn, không va
vấp, không đôi khi nhảy lùi những bước rất lớn, là không biện chứng, không khoa học, không đúng về mặt lý
luận”
* Ý nghĩa phương pháp luận
- Cho phép chúng ta nhận thức được khuynh hướng phát triển của sự vật và hiện tượng
- Sự phát triển của sự vật là tất yếu khách quan, phải nhận thức đúng chu kỳ phát triển của sự vật, con người
có thể góp phần thúc đẩy hay hãm sự phát triển của sự vật.
- Cái mới, cái tiến bộ có khả năng chiến thắng cái cũ là tất yếu. Trong tự nhiên, cái mới ra đời một cách tự
phát, còn trong xã hội cái mới ra đời gắn với hoạt động có ý thức của con người. Vì vậy, cần nhận thức và
thúc đẩy cái mới tiến bộ để nó ra đời. Trong khi phê phán cái cũ, cần biết lọc bỏ và trân trọng cái quá khứ.
9. Lý luận nhận thức của triết học Mác – Lênin
9.1. Bản chất của nhận thức
* Quan niệm về nhận thức của trào lưu trước triết học Mác
- Quan điểm duy tâm chủ quan: Cho rằng nhận thức là phức hợp của các cảm giác con người. Vì vậy, họ
không có cơ sở khách quan để khẳng định con người có khả năng nhận thức được thế giới.
- Quan điểm duy tâm khách quan: Cho rằng nhận thức là sự hồi tưởng lại của linh hồn bất tử về thế giới các ý
niệm mà nó đã chiêm ngưỡng được nhưng bị lãng quên.
- Quan điểm của chủ nghĩa duy vật trước Mác: Thừa nhận con người nhận thức được thế giới. Tuy nhiên do
hạn chế bởi tính trực quan và siêu hình, nên họ hiểu nhận thức là sự phản ánh đơn giản, sao chép máy móc
nguyên si sự vật.
Đánh giá các quan điểm trên, Ph.ăngghen đã chỉ rõ: “Khuyết điểm chủ yếu của toàn bộ chủ nghĩa duy vật từ
trước tới nay, kể cả chủ nghĩa duy vật của Phoiơ Bắc, là sự vật, hiện thực, cái cảm giác được, chỉ được nhận
thức dưới hình thức khách thể hay hình thức trực quan, chứ không được nhận thức là hoạt động cảm giác của
con người, là thực tiễn; không được nhận thức về mặt chủ quan…”*
* Quan điểm về bản chất nhận thức của chủ nghĩa duy vật biện chứng
- Thừa nhận đối tượng nhận thức là thế giới hiện thực khách quan, tồn tại độc lập với ý thức của con người.
- Khẳng định con người có khả năng nhận thức được thế giới khách quan.
- Nhận thức là một quá trình biện chứng từ chưa biết đến biết, biết ít đến biết nhiều.
- Thực tiễn là cơ sở trực tiếp và chủ yếu nhất hình thành nên quá trình nhận thức.
- Bản chất của nhận thức: Nhận thức là quá trình phản ánh biện chứng hiện thực khách quan vào trong bộ
óc của con người, có tính tích cực, năng động, sáng tạo, trên cơ sở thực tiễn.
9.2. Thực tiễn và vai trò của thực tiễn đối với nhận thức
* Phạm trù thực tiễn
- Chủ nghĩa duy tâm và cả chủ nghĩa duy vật trước Mác, chưa hiểu bản chất của hoạt động thực tiễn, nhất là
vai trò của nó đối với nhận thức.
- Quan niệm của duy vật biện chứng: Thực tiễn là toàn bộ hoạt động vật chất có mục đích, mang tính lịch sử
– xã hội của con người nhằm cải biến tự nhiên và xã hội.
- Đặc trưng của hoạt động thực tiễn:
+ Là hoạt động vật chất
+ Là hoạt động có tính mục đích cải tạo tự nhiên, xã hội, hoàn thiện con người.
+ Là hoạt động mang tính lịch sử - xã hội.
- Các hình thức cơ bản của hoạt động thực tiễn.
+ Hoạt động sản xuất vật chất: là hoạt động cơ bản nhất của con người, quyết định sự tồn tại và phát triển của
xã hội loài người.
+ Hoạt động chính trị - xã hội: là hoạt động nhằm cải biến các quan hệ xã hội, có vai trò thúc đẩy sự phát
triển của xã hội và nhân loại.
+ Hoạt động thực nghiệm khoa học: là hoạt động thí nghiệm, thực nghiệm bằng các phương tiện vật chất của
khoa học, hoạt động này thúc đẩy quá trình nhận thức của con người về thế giới khách quan, góp phần nâng
cao đời sống của con người.
Các hình thức hoạt động thực tiễn ra đời tuần tự theo sự phát triển của xã hội loài người; nhưng trong một
giai đoạn lịch sử cụ thể, nhất là giai đoạn hiện nay thì cả ba hình thức hoạt động đồng thời và đan xen lẫn
nhau, trong đó hình thức thứ nhất giữ vai trò quyết định
* Vai trò của thực tiễn đối với nhận thức
- Thực tiễn là cơ sở, động lực của nhận thức
+ Thực tiễn đề ra nhu cầu, nhiệm vụ, cũng như khuynh hướng phát triển của nhận thức. Chính con người có
nhu cầu khách quan là phải giải thích thế giới và cải tạo thế giới đó, cho nên đã buộc con người trực tiếp tác
động và các sự vật, hiện tượng bằng hoạt động thực tiễn của mình. Nhờ đó làm cho các sự vật bộc lộ những
thuộc tính, đặc điểm của mình, đem lại tài liệu cho nhận thức. Chẳng hạn: từ nhu cầu thực tiễn cần đo đạc đã
làm cho toán học phát triển. Hay do bệnh dịch đe doạ sự sống, con người phải nắm quy luật, bản chất của các
loại vi rút, vi khuẩn gây bệnh để cải tạo nó,.. . Cho nên xét đến cùng không có lĩnh vực tri thức nào lại không
xuất phát từ thực tiễn.
+ Nhờ hoạt động thực tiễn mà các giác quan con người ngày càng phát triển, năng lực tư duy lôgíc nâng cao;
hơn nữa con người còn tạo ra những phương tiện hỗ trợ cho các giác quan đó cho phép nhận thức được chính
xác và sâu sắc hơn về sự vật.
- Thực tiễn là mục đích của nhận thức
Nhận thức đầy đủ hiện thực khách quan là để áp dung vào hiện thực, cải tạo hiện thực. Sự áp dụng đó không
còn cách nào khác là phải thông qua thực tiễn, đó là sự vật chất hoá những qui luật, tính tất yếu đã nhận thức
được. Điều đó không chỉ là mục đích của con người, mà còn là mục đích nói chung của các ngành khoa học.
Các qui luật, định luật của khoa học khái quát được nhờ hoạt động thực tiễn, mà còn là vì thực tiễn nó mới
tồn tại. Ví như định luật áp suất khí quyển của Tôrisenlli dùng để tạo ra các vật thể bay, định luật áp suất chất
lỏng cua Becnulli đêr chế tạo máy bơm…
- Thực tiễn là tiêu chuẩn kiểm tra chân lý
Thực tiễn là nguồn gốc, cơ sở, động lực của nhận thức, hình thành nên quá trình nhận thức, cho nên việc
kiểm tra tính đúng đắn của tri thức là phải dựa vào thực tiễn, chứ không phải theo lối lập luận chủ quan.
C.Mác đã khẳng định: “Vấn đề tìm hiểu xem tư duy của con người có thể đạt tới chân lý khách quan không,
hoàn toàn không phải là một vấn đề lý luận mà là một vấn đề thực tiễn. Chính trong thực tiễn mà con người
phải chứng minh chân lý.* Ví dụ, như thuyết tương đối của A.Anhxtanh chỉ được công nhận khi các thực
nghiệm vật lý phát hiện ra sự phân rã hạt nhân tạo nên tia a va
b.
9.3. Các cấp độ của quá trình nhận thức
* Nhận thức cảm tính và nhận thức lý tính
- Nhận thức cảm tính: Là giai đoạn đầu tiên của quá trình nhận thức, con người nhận thức thế giới khách
quan thông qua các giác quan của con người trong sự phong phú của sự vật hiện tượng. Cấp độ này thể hiện
bằng ba hình thức, trình độ từ thấp đến cao:
+ Cảm giác: là hình thức đầu tiên trong nhận thức của con người, là sự phản ánh những thuộc tính riêng lẻ
của các sự vật hiện tượng khi chúng đang tác động đến các giác quan của con người.
+ Tri giác: là hình ảnh tương đối toàn vẹn về sự vật, khi nó đang tác động trực tiếp đến các giác quan. Tri
giác là sự tổng hợp cảm giác nhưng có hệ thống, đầy đủ hơn, phong phú hơn.
+ Biểu tượng: là hình thức phản ánh cao nhất, là bước nhảy vọt trong nhận thức cảm tính, có tính gián tiếp; là
hình ảnh được tái tạo, lưu giữ khi đối tượng khách thể không còn tác động trực tiếp vào giác quan chủ thể.
Đặc điểm giai đoạn nhận thức cảm tính:
Là sự phản ánh trực tiếp đối tượng bằng các giác quan của chủ thể nhận thức.
Là sự phản ánh bề ngoài, phản ánh cả cái tất nhiên và ngẫu nhiên, cả cái bản chất và không bản chất. Giai
đoạn này có thể có trong tâm lý động vật
- Nhận thức lý tính: Đây là giai đoạn cao trong quá trình nhận thức, phản ánh các sự vật hiện tượng một cách
gián tiếp, khái quát trên cơ sở những tài liệu do giai đoạn cảm tính đem lại. Giai đoạn này đi sâu vào bản chất
quy luật của các sự vật. Thể hiện ở ba hình thức phản ánh:
+ Khái niệm: là hình thức cơ bản của tư duy trừu tượng, phản ánh những đặc tính bản chất của sự vật. Khái
niệm là sự phản ánh tổng hợp về một lớp sự vật, nó là cơ sở, tiền đề cho tư duy trừu tượng, là phương thức
tồn tại tri thức của con người về thế giới khách quan.
+ Phán đoán: là hình thức của tư duy liên kết các khái niệm với nhau để khẳng định hoặc phủ định một đặc
điểm, một thuộc tính nào đó của đối tượng. Có ba loại phán đoán: phán đoán đơn nhất, phán đoán đặc thù và
phán đoán phổ biến.
+ Suy luận là hình thức của tư duy liên kết các phán đoán lại với nhau để rút ra tri thức mới. Đây là hình thức
cao nhất trong quá trình nhận thức của con người.
Có hai loại suy luận: suy luận quy nạp và suy luận diễn dịch. Suy luận quy nạp là suy luận đi tư cái riêng đến
cái chung. Suy luận diễn dịch là suy luận đi từ cái chung đến cái riêng.
Đặc điểm giai đoạn nhận thức lý tính:
Là quá trình nhận thức gián tiếp đối với sư vật, hiện tượng
Là quá trình đi sâu vào bản chất của sự vật ,hiện tượng .
- Quan hệ giữa hai giai đoạn nhận thức cảm tính và nhận thức lý tính:
+ Nhận thức cảm tính và nhận thức lý tính là những nấc thang hợp thành chu trình nhận thức.
+ Không có giai đoạn nhận thức cảm tính thì không có nhận thức lý tính
+ Không có nhận thức lý tính thì không nhận thức được bản chất của sự vật.
- Nhận thức quay về thực tiễn để phục vụ thực tiễn và để thực tiễn kiểm nghiệm
* Nhận thức kinh nghiệm và nhận thức lý luận
- Nhận thức kinh nghiệm: là loại nhận thức hình thành từ sự quan sát trực tiếp các sực vật hiện tượng trong tự
nhiên, xã hội hay trong các thí nghiệm khoa học.
+ Kết quả của nhận thức kinh nghiệm là tri thức kinh nghiệm, trong đó có tri thức kinh nghiệm thông thường
và tri thức kinh nghiệm khoa học.
+ Tri thức kinh nghiệm có vai trò rất lớn trong hoạt động của con người, vì nó được rút ra từ hoạt động thực
tiễn hàng ngày, chỉ đạo trực tiếp hoạt động của con người.
- Nhận thức lý luận: là loại nhận thức gián tiếp, trừu tượng và khái quát về bản chất và quy luật của sự vật,
hiện tượng.
+ Nhận thức lý luận được hình thành trên cơ sở nhận thức kinh nghiệm.
+ Nhận thức lý luận có tính hệ thống, sâu sắc hơn nhận thức kinh nghiệm.
- Quan hệ giữa nhận thức kinh nghiệm và nhận thức lý luận:
+ Nhận thức kinh nghiệm là cơ sở cho sự hình thành nhận thức lý luận, nhưng nhận thức kinh nghiệm chỉ
đem lại tri thức riêng lẻ không trực tiếp hình thành nên nhận thức lý luận.
+ Nhận thức lý luận mới rút ra được phương pháp luận chung, nhận thức kinh nghiệm bổ sung cho nhận thức
lý luận một cách đầy đủ hơn, chính xác hơn.
+ Không tuyệt đối hoá vai trò nhận thức lý luận, nhưng cũng không chỉ dựa vào nhận thức kinh nghiệm.
Theo Hồ Chí Minh, “có kinh nghiệm mà không có lý luận, cũng như một mắt sáng, một mắt mờ”
* Nhận thức thông thường và nhận thức khoa học
- Nhận thức thông thường: là loại nhận thức được hình thành một cách tự phát, trực tiếp từ trong hoạt động
hàng ngày của con người.
+ Là sự phản ánh sự vật hiện tượng với tất cả sự phong phú sinh động của sự vật.
+ Là loại nhận thức chi phối thường xuyên hoạt động của con người.
- Nhận thức khoa học: là loại nhận thức được hình thành một cách tự giác, gián tiếp từ sự phản ánh đặc điểm,
bản chất, những quan hệ tất yếu của đối tượng nghiêm cứu.
+ Là sự phản ánh dạng trừu tượng bằng các khái niệm, lôgic, quy luật khoa học.
+ Là nhận thức tạo nên phương pháp, công cụ nhận thức cho con người về hiện thực khách quan.
- Quan hệ biện chứng giữa nhận thức thông thường và nhận thức khoa học:
+ Nhận thức thông thường chỉ đem lại tri thức riêng lẻ, là sự tập hợp các tài liệu, mầm mống cho nhận thức
khoa học, nhưng không bao giời tự nó phát triển thành tri thức khoa học.
+ Nhận thức khoa học là nhận thức ở trình độ cao, tri thức tồn tại ở dạng quy luật, chân lý, hệ thống và hình
thành nên phương pháp luận.
9.4. Vấn đề chân lý và tiêu chuẩn của chân lý
* Khái niệm chân lý: Chân lý là những tri thức phù hợp với hiện thực khách quan và được thực tiễn kiểm
nghiệm.
- Chân lý là sản phẩm quá trình nhận thức của con người, là khả năng nhận thức của con người, nó không có
sẵn trong thế giới khách quan, hay ấn định chủ quan của một cá nhân nào đó.
- Đối tượng hình thành nên chân lý là thế giới khách quan, mà thế giới khách quan là một quá trình, cho nên
chân lý là một quá trình.
* Các tính chất của chân lý
- Tính khách quan: Tính khách quan của chân lý thể hiện ở chỗ: thứ nhất, đối tượng mà chân lý phản ánh là
thế giới khách quan, không phải do sự tưởng tượng của con người, “là người duy vật, có nghĩa là thừa nhận
chân lý khách quan”; thứ hai, nội dung phản ánh do quá trình nhận thức của con người, nhưng nếu nó đúng
thì cũng độc lập với ý thức của con người, trở thành tiền đề xuất phát cho mọi quá trình tư duy như là một
tiêu chuẩn để đánh giá chân lý (tiêu chẩn lôgic)
- Tính cụ thể: Trên cơ sở hình thành khách quan mà chúng ta có quan niệm về tính cụ thể của chân lý, chân
lý là cụ thể, “không có chân lý trừu tượng”. Tính cụ thể của chân lý được biểu hiện ở chỗ, do đối tượng phản
ánh chân lý khách quan cụ thể, tuỳ từng phạm vi, lĩnh vực, giai đoạn của sự vận động và phát triển của đối
tượng. Đối tượng phản ánh có tính lịch sử, muốn nhận thức được nó phải tuân theo tiến trình lịch sử đó,
thông qua hoạt động thực tiễn, cho nên chân lý có tính cụ thể-lịch sử.
- Tính tương đối và tuyệt đối
+ Tính tương đối của chân lý: Là tính phù hợp của tri thức với đối tượng nhưng chưa đầy đủ, mới chỉ phù
hợp từng phần. Chẳng hạn các định luật của I.Niutơn đúng trong giới hạn vật thể thông thường, nó chỉ không
đúng trong trường hợp đối tượng là vật thể vi mô, hay siêu vi mô.
+ Tính tuyệt đối: là những tri thức hoàn toàn phù hợp, đầy đủ về hiện thực khách quan.
Về nguyên tắc chúng ta có thể đạt đến chân lý tuyệt đối vì không có sự vật, hiện
tượng nào là con người không thể biết, khả năng nhận thức của con người là vô cùng,
nhưng do hiện thực luôn vận động, cho nên chỉ nhận thức được ở mức độ tương đối,
do đó chỉ đạt đến chân lý tương đối.

Câu 1: Anh/chị hãy trình bày nội dung và ý nghĩa phương pháp luận của quy luật từ những
thay đổi về lượng dẫn đến những thay đổi về chất và ngược lại. Vận dụng quy luật này vào
trong quá trình học tập và rèn luyện của sinh viên.
Câu 2: Từ tính độc lập tương đối của ý thức xã hội, anh/chị hãy chứng minh đường lối đổi
mới đúng đắn là điều kiện tiên quyết để xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội.

You might also like