You are on page 1of 24

ĐẠI HỌC QUỐC GIA THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN


KHOA NHẬT BẢN HỌC
----------------

Đề tài
CẢI CÁCH GIÁO DỤC NHẬT BẢN THỜI MINH TRỊ
VÀ VAI TRÒ CỦA FUKUZAWA YUKICHI

Môn: LỊCH SỬ NHẬT BẢN


GV phụ trách: Huỳnh Phương Anh
Nhóm thực hiện: 10

TP Hồ Chí Minh, ngày 06 tháng 11 năm 2022


MỤC LỤC
PHẦN 1: CẢI CÁCH GIÁO DỤC THỜI DUY TÂN MINH TRỊ
I. Tình hình giáo dục Nhật Bản trước cải cách giáo dục
1. Sơ lược về Duy Tân, Minh Trị ……………………………………………..
2. Giáo dục Nhật Bản trước cải cách giáo dục thời Minh Trị………………….
II. Nội dung cải cách giáo dục Nhật Bản thời Minh Trị
1. Xóa bỏ và sửa đổi nền giáo dục cũ ………………………………………….
2. Đề án đầu tiên của cuộc cải cách giáo dục ……………………….................
3. Giáo dục ở các phủ, phiên (han), tỉnh (ken) ………………………………...
4. Giáo dục quốc dân ……………………………………………….………….
5. Ngành giáo viên thời Minh Trị ………………………………………………
6. Tiếp thu nền giáo dục phương Tây ………………………………………….
III. Ý nghĩa của cuộc cải cách giáo dục thời Minh Trị. Liên hê, so sánh
Ý nghĩa …………………………………………………………………….
Liên hệ, so sánh …………………………………………………………….
PHẦN 2: VAI TRÒ CỦA FUKUZAWA YUKICHI TRONG CẢI CÁCH
GIÁO DỤC NHẬT BẢN THỜI MINH TRỊ
I. Vài nét về Fukuzawa Yukichi
II. Vai trò của Fukuzawa Yukichi
1. Khuyến khích toàn dân học tập ……………………………………
2. Xây dựng nền giáo dục “Thực học” ……………………………….
3. Tiếp thu chọn lọc văn minh phương Tây trên cơ sở đề cao chủ nghĩa
quốc gia ……………………………………………………………
III. Liên hệ, so sánh tư tưởng giáo dục của Fukuzawa Yukichi và Nguyễn
Trường Tộ
IV. Kết luận

TỔNG KẾT
TIỂU KẾT
TÀI LIỆU THAM KHẢO

1
PHẦN 1: CẢI CÁCH GIÁO DỤC THỜI DUY TÂN MINH TRỊ
I. TÌNH HÌNH GIÁO DỤC NHẬT BẢN TRƯỚC CẢI CÁCH GIÁO DỤC
1. Sơ lược về Duy Tân Minh Trị
Minh Trị Duy Tân (明治維新) là chuỗi các sự kiện hay cách mạng dẫn đến sự
chuyển biến trên phạm vi rộng lớn, đánh dấu bước chuyển giao từ chế độ phong kiến
theo chế độ Bakuhan thành cường quốc duy nhất ngoài Âu - Mỹ. "Thời kỳ Minh Trị" là
thời kỳ quá độ từ chế độ phong kiến sang chủ nghĩa tư bản. Sau năm 1868, chính quyền
không ở trong tay giai cấp tư sản, mà là nền chuyên chế của Thiên hoàng.
Cuộc Duy Tân Minh Trị cũng mở đường cho việc biến nước Nhật Bản phong
kiến thành một nước có nền kinh tế tư bản chủ nghĩa, thoát khỏi số phận một nước thuộc
địa hay nửa thuộc địa. Cuộc cách mạng đã dẫn đến quá trình công nghiệp hóa của Nhật
Bản, làm cho nền kinh tế nước này phát triển mạnh mẽ trong 30 năm cuối của thế kỷ 19.
Nó cũng khiến cho nhật trở thành một cường quốc quân sự năm 1905 sau khi đánh bại
Hải quân Hoàng gia Nga, và trước đó là nhà Thanh năm 1895.
2. Giáo dục Nhật Bản trước cải cách giáo dục thời Minh Trị
Nền giáo dục thời Edo đã để lại một tỉ lệ cư dân biết chữ cao, thậm chí còn cao
hơn các nước phương Tây đương thời. Tuy nhiên, dù ở thời kỳ Mạc phủ Tokugawa, sở
hữu một nền giáo dục rực rỡ với nhiều bậc danh Nho lỗi lạc, song giáo dục chỉ được
giới hạn ở các tầng lớp cao quý như hoa tộc, sĩ tộc. Thường dân chỉ được học cách đọc,
cách viết và làm toán, ngoài ra không có học trí nào cao xa hơn.
2.1. Phương pháp giảng dạy dựa trên tư tưởng sẵn có của người Nhật
Người Nhật lấy gốc là Thần giáo - nền tôn giáo tự nhiên của dân tộc mang tư
tưởng “Nước là nước thần sáng tạo, vua là con thần vị trì". Từ đó, người Nhật khuyên
răn nhau về đạo xử thế lập thân, lấy đạo thờ cúng tổ tiên, tôn vua yêu nước làm cội rễ
giáo dục.
2.2. Ảnh hưởng của Nho giáo và Phật giáo đối với phương pháp giảng dạy
Nho giáo và Phật giáo rất được hoan nghênh khi truyền bá vào Nhật Bản, vì tôn
chỉ đại cương của hai giáo này không khác gì so với Thần giáo. Từ đó mới mở quy mô
trường học có đại học tiểu học, có công lập tư lập, lấy Nho học làm chính học và lấy
Hán tự làm quốc văn. Chương trình giáo dục bậc dưới là dạy dỗ những chuyện thông
thường cần biết, còn với bậc trên là đào tạo những người thông thái để làm quan xử việc

2
nước. Tuy nhiên, chỉ có những thầy chùa tu đạo Phật giáo giảng đạo Nho thì mới có thể
mở trường dạy học.
Tình trạng suy yếu trầm trọng của chế độ Mạc phủ khiến Nhật Bản rơi vào tình
thế khủng hoảng, đặc biệt hơn họ còn đang đối mặt với nguy cơ các nước Tư bản (Mỹ,
châu Âu,…) ra sức mở rộng thuộc địa ở khu vực châu Á. Yêu cầu cấp bách lúc bấy giờ
chính là một sự đổi mới toàn diện trên mọi lĩnh vực, tất giáo dục. Nhằm thực hiện được
mục tiêu toàn dân, bất kể mọi tầng lớp đều được tiếp
cận với tri thức, và tránh được sự xâm lược của các
nước phương Tây vào thời Cận đại, chính quyền Minh
Trị đã quyết tâm xây dựng nền giáo dục quốc dân mới,
theo mô hình phương Tây, với những thay đổi to lớn
góp phần đưa quốc gia này từng bước đi lên và trở
Nguồn: Internet thành một trong các cường quốc như hiện nay.
II. NỘI DUNG CUỘC CẢI CÁCH GIÁO DỤC
Nhật Bản, vào những năm cuối thế kỷ XIX, là nước đã thực hiện thành công cải
cách Minh Trị - một sự kiện trọng đại, đánh dấu bước ngoặt cho sự khởi sắc thần kì của
giáo dục nói riêng và toàn xã hội Nhật Bản thời kì này nói chung. “Học Tây phương,
Đuổi kịp Tây phương và Vượt qua Tây phương” đó là câu nói mà Minh Trị Thiên Hoàng
đã nhấn mạnh trước quốc dân ngày 14/03/1868 ở điện Shishinden (Kyoto), đây được
coi là khuôn mẫu cho toàn thể nước Nhật trong việc cải cách đất nước theo con đường
hiện đại hoá. Thành quả vĩ đại ấy là sự cộng hưởng của rất nhiều tác tố, trong đó không
thể không kể đến công cuộc “Cải cách giáo dục” và “vai trò” to lớn của nó. Có thể nói,
giáo dục có vai trò đặc biệt quan trọng trong sự phát triển kinh tế - chính trị - xã hội của
mỗi một quốc gia. Nó đã làm chấn động, lung lay mô hình giáo dục xưa cũ và ảnh
hưởng trực tiếp đến việc đào tạo nguồn nhân lực cho công cuộc Duy Tân của quốc gia.
1. Xoá bỏ và sửa đổi nền giáo dục cũ
Ngay trong năm đầu tiên (tháng 6 năm 1868), khi tình hình đất nước tạm ổn cũng
chính là lúc chương trình giáo dục lỗi thời, thiếu tính quần chúng của Mạc phủ được xoá
bỏ. Hệ thống trường học chỉ dành riêng cho tầng lớp giàu có, tướng quân, Sứ quân,
Samurai,… bị bãi bỏ và thành lập những trường học dành cho toàn dân. Thay vào đó
nền giáo dục lúc bấy giờ được xây dựng theo mô hình phương Tây.

3
2. Đề án đầu tiên của cuộc cải cách giáo dục
Đề án cải cách giáo dục đầu tiên của chính phủ Duy Tân là đề án "Học xá chế"
2.1. Khái niệm
“Học xá chế" là các cơ sở giáo dục đại học được thành lập ở Kyoto bởi chính
phủ Minh Trị ngay sau thời kỳ Khôi phục Hoàng gia.
2.2. Tổ chức sáng lập
Đề án “Học xá chế" do Tham dự nội quốc sự vụ cục phán sự Tamamatsu Misao
cùng các học giả ngành Quốc học khác soạn thảo.
2.3. Hình thức
Hình mẫu của "Học xá chế" là kiểu kí túc xá đại học cổ đại với 5 môn học là Học
thần (thờ phụng tổ tiên Thiên hoàng), Bản giáo học (thần điển, hoàng tịch.), Kinh thế
học (lê nghi, luật lệ), Từ chương học (ca từ, từ văn...), Phương tài học (thiên văn, y
thuật...), Ngoại phiên học (Hán, Lỗ, Anh quốc, Pháp quốc...).
2.4. Mở nhiều trường đại học
Như, Đại học Shoheiko (tiền thân của Đại
học Tokyo). Ở Tokyo, sau khi dời đô (tháng 4 năm
1869), vào tháng 8 trường học Shoheiko
(Shoheizaka) của cựu chính quyền Mạc phủ được
phục hưng với tư cách là trường đại học, đồng thời
Đại học Kaisei – Nguồn: Internet
trường Kaisei (một tổ chức giáo dục và nghiên cứu
phương Tây được thành lập ở Tokyo vào đầu thời kỳ Minh Trị, thuộc quyền quản lý của
Bộ Giáo dục, khác với trường học) và trường Y được coi là chi nhánh của trường đại
học. Đến tháng 9, trường đại học có thêm chức năng là cơ quan hành chính giáo dục
trung ương.
Hay, Đại học Tokyo. Ở trường Đại học
Tokyo, trường Y, các môn học như Quốc học, Hán
học, Dương học được thiết lập và tư tưởng coi Quốc
học là trọng tâm được xướng lên mạnh mē. Tuy
nhiên trên thực tế do sự mâu thuẫn bên trong mà
trường học không phát huy được chức năng của
Trường Y Tokyo – Nguồn: Internet mình và dẫn đến tình trạng phải đóng cửa vào tháng
7 năm 1870. Tư tưởng giáo học dựa theo nguyên lí chính giáo đồng quy cũng chấm dứt.

4
3. Giáo dục ở các phủ, phiên (han), tỉnh (ken)
Phương châm giáo dục thời kỳ này nhìn chung chưa được thống nhất, do nền
móng của chính phủ còn non trẻ và chủ thể thực sự quyết định các chính sách của chính
phủ liên tiếp thay đổi. Song về cơ bản, nó đã tạo nên một sự chuyển biến về quan điểm
từ nhị nguyên giáo dục (Cai trị - Bị trị) sang quan điểm nhất nguyên là Giáo dục quốc
dân mà Chính phủ đang hướng đến.
Ở phủ Tokyo, từ tháng 6 đến tháng 12
năm 1869 (năm Minh Trị thứ 2), các trường
tiểu học như trường Tiểu học Ryuichi, trường
Tiểu học Bangumi đã có đến 64 trường được
mở. Ở phiên Shizuoka, vào tháng 1 năm 1869
đã thành lập trường tiểu học với tư cách là cơ
sở giáo dục chuyên môn trực thuộc trường
Nguồn: Internet
Quân sự Numazu, nhận trẻ em 7, 8 tuổi nhập
học, chia thành 3 cấp lớp, ở đó học sinh phải học đọc, viết, tính toán, địa lý, thể dục, bơi
lội,… Ở phiên Fukushima vào tháng 6 năm 1871, có trên 100 ngôi trường là nơi “khai
sáng" được thành lập. Ở đây tất cả trẻ em từ 7 đến 13 tuổi không phân biệt tầng lớp giai
cấp, đều được học tại các trường “khai sáng”. Các môn học bắt buộc là Hướng dẫn về
cách thức sản xuất, Thế giới quốc tận, Vạn quốc lịch sử, Cùng lý đồ giải, …
4. Giáo dục quốc dân
Tháng 8/1871, cuộc đảo chính nhằm tiến hành phế bỏ các
phiên (han) chuyển thành các tỉnh (ken). Kết quả là trật tự quốc gia
phân quyền phủ - phiên- tỉnh bị giải thể và quốc gia thống nhất trung
ương tập quyền được ra đời. Lúc bấy giờ, phục hưng sản nghiệp,
phú quốc cường binh, những chính sách Tây Âu hóa phát triển cực
thịnh. Và cuốn sách Khuyến học của Fukuzawa Yukichi là tác phẩm
ảnh hưởng sâu sắc nhất đến người dân Nhật Bản, với quan điểm Nguồn: Internet
xuyên suốt là “Bảo vệ nền độc lập” trong bối cảnh các nước phương Tây đang lăm le
biến toàn bộ châu Á thành thuộc địa của mình.
4.1. Thành lập Bộ giáo dục
Năm 1869, Chính phủ thành lập Văn phòng điều tra học đường để nắm rõ tình
hình xã hội trước khi thiết lập các trường tiểu học tại địa phương. Sau khi bãi bỏ các

5
phiên (han) và thành lập các tỉnh (ken), vào ngày 2 tháng 9 năm 1871, Bộ Giáo dục được
thành lập, trực tiếp điều hành bởi Chính phủ trung ương, có nhiệm vụ trông coi, tham
khảo những chương trình do các văn phòng điều tra học đường đề xuất. Bộ Giáo dục
soạn thảo quyển sách chỉ nam “Chế độ giáo dục học đường quốc gia”. Trong đó đưa ra
những chính sách giáo dục mới cũng như chương trình học cho hợp với thời đại và được
áp dụng cho toàn quốc.
4.2. Khu vực giáo dục
Là một mục tiêu tham vọng của Thiên
hoàng, khi quy mô giáo dục còn hẹp và Nhật
đang là một quốc gia nghèo đói. Trên cơ sở học
tập theo chế độ quản lý giáo dục của Pháp, cả
nước được chia thành 8 khu đại học. Mỗi khu
đại học lại chia làm 32 khu trung học. Mỗi khu Nguồn: Internet
trung học có 210 trường tiểu học. Bất cứ địa phương nào có khoảng 600 người thì đều
phải xây dựng một trường tiểu học. Các môn học bám sát thực tiễn khoa học, xã hội
nhưng không quên giáo dục đạo đức, tự tôn giống nòi dân tộc cũng như lòng yêu nước,
nhất là trung thành và sẵn sàng hy sinh cho Thiên hoàng.
4.3. Ban hành Học chế
Ngay sau khi Bộ Giáo dục được thành lập, 12 người thuộc phái Dương học như
Mitsukuri Rinsho, Uchida Masao đã có nhiệm vụ kiểm tra giám sát Học chế. Hình thức
tồn tại của hệ thống trường học toàn quốc, hành chính giáo dục, … bắt đầu được nghiên
cứu. Ngày 5 tháng 9 năm 1872 kết quả của quá trình đó là Học chế (Gakusei) được công
bố.
Theo luật Học chế, giáo dục Nhật Bản sẽ được thực hiện theo mô hình giáo dục
3 cấp chính của Pháp:
Về cấp Tiểu học: thời gian học của tiểu học là 8
năm cho trẻ nhỏ từ 6 đến 14 tuổi và có 6 loại tiểu học.
Thứ nhất Phổ thông tiểu học. Phổ thông tiểu học được
chia thành hai loại là Sơ đẳng tiểu học và Cao đẳng
tiểu học. Sơ đẳng tiểu học, với 3 năm đầu tiên dành cho
trẻ từ 6 đến 9 tuổi và được coi là nghĩa vụ giáo dục, bắt
buộc trẻ con trong làng xã ít nhất phải hoàn thành nghĩa Nguồn: Internet

6
vụ này. Chương trình học bao gồm 14 môn: Chính tả, thư pháp, từ ngữ, hội thoại, đọc
sách, tu thân, giáo khoa, văn pháp, tính toán, phương pháp dưỡng sinh, địa lý, vật lý, thể
dục, ca hát. Cao đẳng tiểu học với 5 năm kế tiếp, trẻ nhỏ được học sử học, hình học,
thiên nhiên học, hoá học và sinh vật học cùng với các môn học của cấp sơ đẳng được đi
sâu hơn. Ngoài ra theo nhu cầu của từng địa phương còn có thêm các môn học khác như
ngoại ngữ (Hán tự), thư viện học, thiên văn học, …
Thứ hai là Nữ nhi tiểu học. Đây là trường tiểu
học dành cho học sinh nữ, đào tạo thêm các môn đặt
biệt như nữ công gia chánh, thêu thùa may vá,...
Thứ ba là Nông thôn tiểu học: Tiểu học ở
thôn làng, các vùng quê hẻo lánh, co giãn thời gian
lên lớp và số lượng các môn học giúp tránh gặp khó
khăn trong việc đồng áng,... Tuy nhiên vẫn bị bắt
Nguồn: Internet buộc ít nhất 16 tuần lễ đến trường cho một năm.
Thứ tư là Bần nhân tiểu học, trường dành riêng cho trẻ em nhà nghèo. Được
chính quyền chu cấp tất cả các chi phí học tập, chi phí sinh hoạt, chỗ ngủ, quần áo, sách
vở, ... cho học sinh trong thời gian theo học.
Thứ năm là Tiểu học tư thục, là trường học do các ông thầy giáo hay tu sĩ thành
lập, nhưng vẫn phải theo chương trình giáo dục của chính phủ và giáo viên phải có bằng
cấp sư phạm.
Thứ sáu là Ấu nhi tiểu học (hình thức giống trường mẫu giáo). Đây là trường
dành riêng cho trẻ nhỏ dưới 6 tuổi, dạy cho đứa trẻ quen thuộc với việc học cũng như
có căn bản lễ phép trước khi lên tiểu học.
Về cấp Trung học, có hai hình thức là Trung học sơ đẳng dành cho học sinh 14-
16 tuổi và Trung học cao đẳng dành cho học sinh 17-19 tuổi. Trường chia thành nhiều
ngành chuyên môn như Công nghiệp, thương nghiệp, thông tin, nông nghiệp, …Ngoài
các môn học chuyên môn thì học sinh cũng phải học các môn học chung như: Quốc ngữ,
Sử học, Địa lý, Toán học, Thiên nhiên học, Hoá học, Sinh vật, Vật lý, Âm nhạc, … Đảm
bảo rằng sau khi tốt nghiệp trung học sẽ có trình độ kiến thức tổng quát khá vững vàng
kèm theo chuyên môn. Đặc biệt các ngành học liên quan đến kỹ thuật, công nghệ được
đặc biệt chú trọng.

7
Về cấp Đại học: kéo dài 4 năm. Đại học giáo
dục chuyên sâu về một chuyên ngành cụ thể. Đây
cũng là nơi đào tạo ra những chuyên viên lãnh đạo
cho đất nước trong các ngành nghề, kể cả những
ngành học thuộc về nghệ thuật, âm nhạc và cả thể
thao. Những ngành học như Luật học, Kinh tế học,

Nguồn: Internet Khoa học, Y Dược học, Vật lý, Hoá học … được
coi là rất quan trọng cũng như kích thích sinh viên học lên cấp cao ở trong nước hay du
học tại các quốc gia phát triển.
Bên cạnh ngành Đại học thiên nhiều về lý thuyết cao cấp trên, Chính phủ còn có
thêm một hệ thống giáo dục khác, chuyên môn về thực hành. Sinh viên phải trên 16 tuổi,
tốt nghiệp ít nhất mức trung học Sơ đẳng trở lên. Thời gian học dài hơn ban Đại học
trên, thường khoảng 6 năm, nhưng cũng được xem như tương đương với ban đại học.
Những người này có chuyên môn trong thực hành rất cao và rất được trọng dụng trong
xã hội. Hướng đi này có rất nhiều ngành như Công học, Nông học, Thương nghiệp, Điện
học, Y học chuyên khoa, Dược học chuyên khoa..v..v..
5. Ngành giáo viên thời Minh Trị
5.1. Yêu cầu đối với giáo viên
Một, tất cả các thầy, cô giáo của cấp tiểu học
phải trên 20 tuổi, tốt nghiệp trung học phổ thông và
qua một khóa học chuyên môn về sư phạm. Hai,
giáo viên của cấp trung học phải trên 25 tuổi và tốt
nghiệp bằng đại học trong chuyên khoa môn dạy
học. Ba, giáo viên của các trường chuyên môn là
người nước ngoài giảng dạy. Nguồn: Internet
5.2. Chiêu dụ giảng viên nước ngoài
Hàng ngàn giáo sư và chuyên gia kỹ thuật nước ngoài thuộc lĩnh vực khác nhau
như chính trị, luật pháp, quân sự, ngoại giao, kinh tế, công nghiệp, … kể cả văn hóa,
nghệ thuật,...đã được mời sang giảng dạy tại Nhật Bản. Vào thời kỳ Minh Trị (1868-
1912) có 136 người Đức, 79 người Anh, 67 người Mỹ, 43 người Pháp và 23 người từ
nước khác đã được Bộ Giáo dục mời về giảng dạy. Họ ứng dụng lý thuyết trên giảng
đường để thực dụng tại các nhà máy, xí nghiệp, họ còn được yêu cầu truyền bá cả tư

8
tưởng, lối quản trị trong sản xuất và thương mại của quốc gia của họ. Số giáo sư, chuyên
viên thỉnh mời này thay đổi tuỳ theo nhu cầu trong nước, và chính sách này vẫn được
Nhật Bản áp dụng cho đến ngày nay.
5.3. Tăng quyền lợi cho giáo viên
Ngành giáo viên được coi trọng lúc bây giờ bởi
việc tăng cường giáo dục sư phạm được Chính phủ coi
là vấn đề chính sách tối ưu tiên. Tiền lương của giáo
viên nhận được có thể cao gấp 3 lần lương của Thủ
tướng Chính phủ khi đó. Chính phủ cũng dành riêng
tài khoản cũng như các điều kiện sinh sống ưu
đãi. Từng khu đại học gấp rút xây dựng trường đại học
Nguồn: Internet
sư phạm để đảm nhận đào tạo giáo viên chính quy.

Bảng 5.1 Số trường học, số giáo viên và số người đi học (những năm 1870)

Tỉ lệ đi học
Năm học Trường học Giáo viên Người đi học
(nam-nữ) %

1789 (Minh Trị thứ 7) 20.017 36.866 1.714.768 32,30 (46,17-17,23)

1879 (Minh Trị thứ 12) 28.025 71.046 2.315.070 41,16 (58,21-22,59)

(Dẫn theo "Lịch sử phát triển chế độ giáo dục từ thời Minh Trị")
6. Tiếp thu nền giáo dục phương Tây
Từ trước năm 1868, ở Nhật Bản có một số cá nhân có tư tưởng Âu hóa nên đã
cho con em mình sang các nước phương Tây học tập. Bộ Giáo dục thành lập cơ quan
Quản trị sinh viên du học, ủng hộ sinh viên du học dưới dạng tự túc, nhưng vẫn phải
thông qua quy tắc thẩm định và xét duyệt của các trường đại học. Chính vì vậy mà ngân
sách của Chính phủ đỡ tốn kém và lượng sinh viên du học tự túc cũng càng nhiều hơn.
Hàng nghìn thanh niên được lựa chọn gửi ra nước ngoài để tiếp thu những kiến
thức hiện đại, chỉ riêng năm 1873 đã có 373 sinh viên đi du học. Hầu hết các sinh viên
sau khi du học hầu hết đều trở về Nhật Bản, sau khi về nước trở thành những quan chức
trong chính quyền Minh Trị, là những thành phần cốt cán trong tất cả các lĩnh vực, từ
công nghệ, kinh tế cho đến văn hóa, nghệ thuật…

9
III. Ý NGHĨA CỦA CUỘC CẢI CÁCH GIÁO DỤC THỜI MINH TRỊ.
LIÊN HỆ VÀ SO SÁNH
Cải cách giáo dục trong lịch sử Nhật Bản duy tân có địa vị quan trọng và mang ý
nghĩa lớn đó là dân tự giáo hóa cổ lệ nhau để tự cường. Cuộc Duy tân Minh Trị đã giúp
Nhật Bản phát triển nhanh chóng. Từ một quốc gia phong kiến lạc hậu trở thành một
nước tư bản công nghiệp, trong đó có sự góp sức to lớn nhờ sự cải cách về giáo dục thời
Duy Tân Minh Trị. Một loạt những cải cách tiến bộ mà Duy Tân Minh Trị mang lại
trong bối cảnh cuối thế kỉ XIX đóng vai trò vô cùng quan trọng trong sự biến đổi chung
của xã hội Nhật Bản. Nó có ý nghĩa hết sức to lớn, là tiền đề đưa Nhật Bản phát triển
thành một cường quốc như hiện nay.
Với bản tính nhạy cảm và có khả năng thích nghi cao, việc cải cách giáo dục giữ
vai trò quan trọng trong sự phát triển và tiếp cận tri thức của các quốc gia phát triển. Từ
đời sống lạc hậu, cấp bậc và thiếu tính quần chúng, những biến đổi trên tạo ra một loạt
các giá trị mới, từ công nghệ, văn hóa và giúp Nhật Bản tiếp thu cũng như chọn lọc cho
mình một lượng kiến thức hiện đại khổng lồ.
Nhờ cải cách giáo dục nói riêng và cuộc Duy Tân Minh Trị nói chung, Nhật Bản
đã thành công trong việc hình thành lòng trung hiếu tuyệt đối với quốc gia và Thiên
hoàng, từ đó tránh được các cuộc xâm lược của phương Tây, khẳng định tính đúng đắn
và cấp thiết của hành động trong thời đại xưa.
Và nếu ở Nhật Bản có cuộc cải cách Duy Tân Minh Trị thì ở Việt Nam cũng có
phong trào cải cách của Phan Châu Trinh và Trung Quốc có cuộc vận động Duy tân
Mậu Tuất.

10
Liên hệ, so sánh đến Việt Nam, Trung Quốc từ 1872 - 1912

Nhật Bản Trung Quốc Việt Nam


(Duy Tân Minh Trị) (Nhà Thanh) (Thời kỳ Pháp thuộc)

Tư tưởng Áp dụng hệ thống giáo dục của phương Tây

Phương Theo học chế: Trung Quốc đã gửi Giáo dục phổ thông
pháp - Tiểu học (6 cấp) một nhóm du học + Tiểu học (6 năm)
giáo dục -Trung học (2 cấp) sinh sang Mỹ để học + Cao đẳng tiểu học
-Đại học tập (4 năm)
+ Trung học (3 năm)
Giáo dục cao đẳng
chuyên nghiệp, đại học

Mục đích Toàn dân ai cũng được Tìm ra nhân tài để Pháp muốn xoá bỏ liên
đi học giao chức quan lo hệ giữa Việt Nam với
Cải cách, đổi mới đất việc nước người Tàu (xoá bỏ Hán
nước học)
Làm cho Việt Nam tin
rằng giáo dục Pháp là
văn minh, tiến bộ

Nội dung Lấy những phát minh ở Thay đổi nhận thức Bỏ chữ Hán, thay thế
cải cách Mĩ, châu Âu làm sách về việc “Bế quan toả bằng chữ Pháp
giáo khoa giảng dạy bắt cảng” Pháp xây dựng trường
buộc. Đổi nội dung học, thông ngôn
Mời giảng viên nước cải cách thi cử, bỏ Bỏ học "tứ thư", "ngũ
ngoài về dạy thi Bát Cổ kinh"

11
PHẦN 2: VAI TRÒ CỦA FUKUZAWA YUKICHI TRONG

CUỘC CẢI CÁCH GIÁO DỤC NHẬT BẢN THỜI MINH TRỊ

I. VÀI NÉT VỀ FUKUZAWA YUKICHI

Fukuzawa Yukichi ( 福 澤 諭 吉 )
Phúc Trạch Dụ Cát; (1834-1901), sinh ra
và lớn lên trong một gia đình võ
(samurai) cấp thấp ở Nakatsu (nay thuộc
tỉnh Oita, Kyushu, Nhật Bản). Ngay từ
thuở niên thiếu, ông đã cảm nhận sâu sắc
nỗi tủi nhục do chế độ đẳng cấp và nỗi
khổ do tình cảnh khốn quẫn của gia đình.

Ông đã có công đóng góp vào


việc cải cách Nhật Bản đưa Nhật Bản
thay đổi diện mạo hoàn toàn, phát triển.
Khi nhắc đến Fukuzawa Yukichi người
Nhật nói về ông như một bậc “khai quốc
công thần” của nước Nhật hiện đại. Là
Fukuzawa Yukichi (1834-1901)
nhà tư tưởng có ảnh hưởng sâu rộng nhất
đối với xã hội Nhật Bản thời cận đại, được tôn vinh là “Voltaire của Nhật Bản”, ông
mang trong mình khả năng phán đoán và tư tưởng vượt trội, đem lại linh hồn, động lực
và sự hậu thuẫn tinh thần cho công cuộc Duy Tân của chính phủ Minh Trị. Những tác
phẩm của ông dù viết từ hơn một thế kỷ trước, nhưng vẫn được người Nhật Bản ngày
nay hết lòng ngưỡng mộ. Tầm ảnh hưởng của ông còn được học giả trên thế giới công
nhận, khi bàn về Fukuzawa Yukichi Phó Giáo sư, Tiến sĩ Nguyễn Tiến Lực đã nhận xét
“Mặc dầu không phải là nhà lãnh đạo trong chính quyền Meiji, nhưng Fukuzawa có vai
trò to lớn trong việc vạch ra phương cách cận đại hoá đất nước, đặc biệt là cận đại hoá
giáo dục hiện đại.”

Xét về mặt tư tưởng, Fukuzawa Yukichi ban đầu học tập căn bản Hán học
(Kangaku), Hà Lan học (Rangaku), sau cùng quyết định chuyển hướng sang Tây học
(Yogaku). Nhờ sự chuyển hướng này đã trở thành đòn bẩy thúc đẩy mạch tư duy mới

12
mẻ và những yếu tố khai sáng mới trong tư tưởng của ông trên các lĩnh vực kinh tế,
chính trị, xã hội. Đặc biệt phải nói đến đường lối giáo dục Tây học mà Fukuzawa
Yukichi truyền bá đến Nhật Bản đã thúc đẩy Nhật Bản tiến theo con đường văn minh
một cách nhanh chóng.

II. VAI TRÒ CỦA FUKUZAWA YUKICHI

Cải cách Duy Tân Minh Trị năm 1868 trên tất cả mặt về chính trị, kinh tế, quân
sự, giáo dục. Bên cạnh những tư tưởng tiến bộ về chủ trương văn minh khai hoá đất
nước, tư tưởng thoát Á luận, thực hiện chấn hưng thương mại, phát triển kinh tế,…Quá
trình cải cách giáo dục là một trong những thành công nổi bật nhất, góp phần giúp Nhật
Bản vừa giữ vững độc lập chủ quyền, vừa chuyển mình phát triển theo con đường mới
chủ nghĩa tư bản. Cải cách giáo dục đạt được sự thành công đến như vậy không thể
không nhắc đến vai trò cốt lõi của Fukuzawa Yukichi – người được xem là cầu nối văn
minh Phương Tây và Nhật Bản, góp phần vào sự nghiệp văn minh khai hoá của Nhật
Bản nửa sau thế kỉ XIX.
1. Khuyến khích toàn dân học tập
Nhận thấy sự phát triển của đất nước lúc bấy giờ đang dần lạc hậu so với sự phát
triển không ngừng của thế giới Fukuzawa Yukichi
quyết tâm xoá bỏ chế độ phong kiến, chủ trương
canh tân đất nước, học tập theo Phương Tây. Ông
hiểu rõ để đưa nước Nhật tiến lên, bắt kịp phương
Tây, thoát khỏi lạc hậu trước tiên cần nâng cao trình
độ học vấn quốc gia, phát triển nền giáo dục trong
nước có như vậy mới có đủ tri thức để tiếp thu những
tiến bộ khoa học của phương Tây, ngược lại nếu cứ
mãi ôm khư khư đường lối cũ học theo khuôn khổ
Hán học sẽ dần trở nên lạc hậu chẳng khác nào “cái

Nguồn: Internet tủ kiến thức suông”.

13
Vì vậy, ngay khi từ nước ngoài trở về ông đã tiến
hành giáo dục toàn dân. Từ năm 1866 - 1870 ông bắt
đầu viết cuốn “Sự tình Tây phương” đây là tác phẩm
giới thiệu về thế giới văn vật, quan niệm về quyền lợi và
nghĩa vụ, chế độ chính trị, cơ cấu xã hội, nền giáo dục,
học thuật, luật pháp, lịch sử, nền công nghiệp, quân
sự,...nhờ tác phẩm này mà nhân dân trong nước hiểu đại
khái thế nào là thiên hạ cùng là văn hóa thái Tây, khi
bàn về văn minh khai quốc những người tri thức đều dựa
vào lời dạy của quyển sách này, xem nó như cành vàng Sự tình Tây phương
lá ngọc. Năm 1867 đức Minh trị Thiên hoàng tiến hành Nguồn Internet

cải cách, có việc gì cần cũng khảo qua sách này bởi thế mà “Sự tình Tây phương” được
xem là cẩm nang của chính phủ Minh Trị trong việc xây dựng xã hội Nhật Bản theo mô
hình phương Tây. Ông không còn dùng tiếng Hà Lan để giảng dạy mà chuyển hẳn sang
tiếng Anh, cũng vì thế mà số lượng học viên của trường cũng tăng lên nhanh chóng.
Trong giai đoạn này chính trị Nhật Bản có phần nhạy cảm, phong trào trục xuất người
phương Tây ngày càng dâng cao và đã lan rộng trên toàn nước Nhật, do đó những người
theo trường phái Tây học như Fukuzawa có nguy cơ bị ám sát bất cứ lúc nào. Tuy nhiên,
Fukuzawa vẫn tiếp tục dạy học với thái độ trầm tĩnh.
Năm 1868 Fukuzawa Yukichi thành lập trường Keio Gijuku (Khánh Ứng Nghĩa
thục) – tiền thân của trường đại học Keio nổi tiếng hiện nay tại Tokyo, theo tinh thần
“Public School” xoay quanh bốn tính chất là tính tự
cường, ý chí độc lập, óc tháo vát và lòng tự nguyện
đóng góp vào các việc công thiện sẽ là hướng đi đúng
đắn cho người nhật. Tại đây ông bắt đầu áp dụng chế
độ thu học phí, ban đầu chính sách này làm nhiều
người ngạc nhiên nhưng lâu dần trở thành cách làm
chung khắp Nhật Bản. Trường Keio Gijuku trở thành Nguồn: Internet

tiên phong trong việc giảng dạy phương Tây học ở Nhật Bản, với động lực đưa phương
Tây học trở thành phổ biến khắp nước Nhật, xây dựng đất nước văn minh, giàu mạnh
như các nước phương Tây. Giảng dạy chủ yếu về khoa học tự nhiên, ngôn ngữ mới, giáo
dục tinh thần độc lập cho sinh viên. Giải thích điều này, Fukuzawa nói: “Tư tưởng giáo

14
dục của tôi là coi trọng những quy luật tự nhiên, dạy học sinh chủ yếu là hai môn toán
học và vật lý. Tôi muốn họ suy nghĩ về mọi sự vận động của những vật hữu thể như con
người, vạn vật theo lối tư duy đó. Còn về mặt đạo đức, chúng tôi công nhận con người
là chí tôn, chí linh của vạn vật, nên phải trân trọng, không được coi thường hay khinh
miệt và cũng không được làm điều gì trái với nhân luân con người”. (Fukuzawa Yukichi,
(2005), Phúc ông tự truyện, Phạm Thu Giang dịch, NXB Thế giới, trang 291).
2. Xây dựng nền giáo dục “Thực học”
2.1. Phê phán thói “Hư học” cụ thể là nền giáo dục Hán học

“Hư học” vốn là hình thức học tập theo sách vở một cách khuôn sáo, giáo điều,
mà kết quả học tập lại không áp dụng được vào thực tiễn đời sống, biểu hiện cụ thể của
lối học này là nền giáo dục Hán học lúc bấy giờ. Bên cạnh Trung Quốc, Đài Loan, Bắc
Triều Tiên, Hàn Quốc và Việt Nam, Nhật Bản cũng là một quốc gia chịu ảnh hưởng
mạnh mẽ của Hán học giảng dạy theo các triết lý Nho giáo trong khoảng thời gian dài.

Trong cuộc cái cách Duy Tân do chính phủ Minh Trị tiến hành, Fukuzawa
Yukichi đã lên án gay gắt nền giáo dục Hán học,
ông cho rằng chính nền giáo dục Nho học truyền
thống là nguyên nhân dẫn đến sự lạc hậu, ngăn
cản bước tiến văn minh bởi lẽ theo ông những
triết lý này chỉ hướng đến hình thức bên ngoài
mang tính lý thuyết cao mà không áp dụng được
Nguồn: Internet vào thực tiễn cuộc sống, coi thường chân lý và
nguyên tắc. Hán học chủ yếu giảng dạy học, viết mà không tạo cơ hội cho người học có
thể sáng tạo, phát triển tư duy, không vận dụng được kết quả học tập vào thực tiễn thậm
chí còn gây ra lối học thụ động, tự ti, tôn thờ thần tượng và không có tư duy phê phán,
làm thui chột tư duy sáng tạo và tính cách độc lập. Chính đặc tính giáo dục đã bám rễ
ăn sâu vào ý thức hệ của người dân Nhật Bản lúc bấy giờ đã gây khó khăn rất nhiều
trong việc tiếp thu văn minh phương Tây. Chính vì thế mà Fukuzawa Yukichi đã quyết
định bày trừ thay thói “Hư học” chuyển thành đường lối “Thực học”.

15
2.2. Thiết lập nền giáo dục “Thực học”

Với mục đích thay đổi tập quán phong kiến dân chúng, loại bỏ tư tưởng phục
tùng, xây dựng xã hội năng động sáng tạo tư duy, đặc biệt là khuyến khích toàn dân học
tập. Fukuzawa Yukichi luôn tích cực khuyến khích toàn dân học tập theo nền giáo dục
tiên tiến của phương Tây như vậy mới giải quyết được những khó khăn đang hiện hữu
trong lòng xã hội Nhật Bản. “Thực học” là học để thực sự hiểu chứ không phải học vẹt,
là quá trình phát triển những góc nhìn riêng. Phương châm trong quan điểm giáo dục
thực học của ông là “học đi đôi với hành, và hơn thế học là để thực hành”, muốn vậy
phải tăng lượng tri thức phương Tây vào hệ thống giáo dục Nhật Bản càng sớm thì mới
thành công nhanh chóng được. Đặc biệt ông còn chú trọng đến phương pháp học tập
diễn thuyết và trực quan, nhằm năng cao kiến thức, khả năng phân tích của mỗi người
nhìn nhận vấn đề một cách xác đáng.

Nhằm thúc đẩy tinh thần học tập của toàn dân từ năm 1872
– 1876 ông đã tiến hành viết cuốn Gakumon no susume (Khuyến
học) gồm 17 tập bàn về các vấn đề học vấn, chí khí độc lập, trách
nhiệm của con người, pháp luật, đạo đức, diễn thuyết, độc lập, tiếp
thu văn minh phương Tây,… Khuyến học đã lay chuyển tâm lý của
người dân Nhật bản dưới thời Minh Trị, dần được nhân dân tiếp
thu, hơn thế nữa quyển sách này còn trở thành tài liệu tham khảo Nguồn: Internet

cho Bộ Giáo dục Nhật Bản ban hành Học chế vào năm 1872.
Năm 1873, Fukuzawa Yukichi cùng
với một số trí thức Tây học lập ra hội
Meirokusha chuyên viết sách, dịch thuật, tổ
chức các buổi diễn thuyết, tranh luận về các
vấn đề chính trị, xã hội, kinh tế, tôn giáo,
pháp luật, phong tục, vai trò phụ nữ,... Năm
1882, ông sáng lập và làm chủ bút tờ Thời sự
tân báo để trao đổi quan điểm về các vấn đề
Nguồn: Internet
trong xã hội Nhật Bản thời ấy. Ngoài ra,
Fukuzawa Yukichi còn để lại cho dân tộc Nhật Bản một gia tài tư tưởng đồ sộ với hơn

16
100 tác phẩm về đủ mọi đề tài liên quan đến đất nước Nhật Bản từ ngôn ngữ, tư tưởng,
triết học, lịch sử, địa lý cho đến quân sự, kinh tế, thương mại, giáo dục…
3. Tiếp thu chọn lọc văn minh phương Tây trên cơ sở đề cao chủ nghĩa quốc gia
Fukuzawa Yukichi đánh giá cao văn minh phương Tây, dựa trên cơ sở nhận thức
ông thấy rằng các nước phương Đông vẫn còn đang trong giai đoạn bán khai, vì vậy
phải học tập, tiếp thu văn minh phương Tây để tiến lên vũ đài văn minh nhân loại. Khi
nhận xét về giáo dục phương Đông và phương Tây ông cũng chỉ rõ: Phương pháp giáo
dục của phương Đông và phương Tây lại khác nhau. Phương Đông nặng về tư tưởng
Nho giáo, còn phương Tây thiên về chủ nghĩa văn minh. Phương Đông thiếu hai điểm
cơ bản: về mặt hữu hình, thiếu các khoa học tự nhiên và về mặt vô hình thiếu tinh thần
độc lập. Do vậy, cần phải sớm bổ sung hai khuyết điểm này xây dựng con đường văn
minh vững chắc cho đất nước.

Mặc dù theo con đường giáo dục phương Tây nhưng tư tưởng Fukuzawa Yukichi
truyền đến nhân dân không phải là sao chép hoàn toàn mà là tiếp thu chọn lọc, ông cho
rằng xuất phát, vị thế của Nhật Bản và các nước
phương Tây là khác nhau, có những điểm ở
phương Tây mà Nhật không thể tiếp thu được,
chung quy lại không có bất kỳ sự tồn tại nào là
hoàn hảo tuyệt đối, phong tục tập quán phương
Tây cũng đầy những khiếm khuyết, âm mưu bành Nguồn: Internet
trướng thuộc địa, sự tàn bạo của những kẻ xâm lược cũng là mặt tối trong xã hội phương
Tây vì vậy tiếp thu phải có tính chọn lọc cao và sáng tạo cho phù hợp với hoàn cảnh đất
nước như vậy mới mang lại hiệu quả tích cực, tránh được sự chi phối từ bên ngoài.

Trong quyển “Khái lược văn minh luận” xuất bản năm 1875 Fukuzawa Yukichi
có đề cập tiếp thu văn minh phương Tây phải làm cái khó trước (mặt tinh thần), cái dễ
sau (mặt vật chất, ý thức), thay đổi phải xuất phát từ tâm trí con người, đến đối mới
chính sách, pháp luật rồi đến cái hữu hình.

Ông còn cho thấy việc học gắn liền trực tiếp với chính quyền nhà nước. Nếu dân
tiếp thu học hành sẽ tạo ra một nhà nước quảng đại, nhân đạo. Đồng thời, phát huy
nguyên lý giáo dục kết hợp từ gia đình, nhà trường và xã hội. Chỉ khi nhân dân có học

17
thức, tầm nhìn riêng khi đó mới xây dựng được một nhà nước, xã hội độc lập tự chủ,
biết đấu tranh bảo vệ cái đúng, bày trừ điều sai trái, khẳng định được chỗ đứng của mình
chứ không phải chỉ đi theo một luồng tư tưởng phiến diện, duy nhất.

III. LIÊN HỆ SO SÁNH TƯ TƯỞNG GIÁO DỤC CỦA FUKUZAWA


YUKICHI VÀ NGUYỄN TRƯỜNG TỘ

Fukuzawa Yukichi và Nguyễn Trường Tộ là những nhà tư tưởng tiêu biểu vào
thế kỉ XIX, với trí tuệ và lối tư duy sáng tạo cả hai ông đều đem đến cho xã hội nhận
thức mới mẻ trong hoạch định đường lối giáo dục mới cho đất nước mình.

Về nét giống nhau, cả hai ông đều là những người cùng


thời đại, đều sống trong thời đại mà các vấn đề về duy tân đất
nước, làm cho đất nước giàu mạnh, chống lại nguy cơ bị thực
dân phương Tây đồng hoá được đưa lên hàng đầu. Hai ông đều
có kiến thức cao về Hán học, nhưng chọn lựa con đường phát
triển Tây học, sớm tiếp thu Tây học, đều có những chuyến đi
sang phương Tây khảo sát tình hình; đều kịch liệt phê phán “Hư
học”, xem đó là lối tầm chương, trích cú, thiên về kinh điển Nho Nguyễn Trường Tộ

học Trung Quốc, xa rời thực tế đất nước. Và hai ông đều là những người tiên phong
trong việc khởi xướng nền giáo dục thực học, kêu gọi áp dụng thực học vào đất nước.
Hai ông xem thực học là điều thiết thực trong cuộc sống, đề cao khoa học tự nhiên và
kỹ thuật gắn với khoa học xã hội và nhân văn, chủ trương học đi đôi với hành, xác định
mục đích của thực học là hướng đến sự giàu mạnh của đất nước.

Về điểm khác nhau, ta có bảng so sánh:

Nội dung Fukuzawa Yukichi Nguyễn Trường Tộ

Nhật Bản đang tiến hành Việt Nam đang bị thực


Duy Tân đất nước, tư tưởng dân Pháp xâm lược,
Tư tưởng Tình hình
cải cách thuận chiều với trào nhiệm vụ cơ bản của dân
cải cách đất nước
lưu cơ bản của xã hội. tộc là cứu nước, bảo vệ Tổ
quốc.

18
Được chính quyền và dân Đề nghị cải cách khó lòng
chúng đón nhận. được chú ý

Tiếp thu gián tiếp qua các Tiếp thu trực tiếp từ người
nhà Tây học Nhật Bản. phương Tây.

Tiếp thu Hệ thống cơ sở tiếp thu


Tiếp thu có tuần tự, hệ thống,
không vững chắc, chủ yếu
Tây học chú trọng quan sát tư tưởng,
là quan sát, đọc và suy
được khảo sát chính trị, xã
nghĩ.
hội phương Tây.

Phê phán lối giáo dục cũ, nền Chỉ ra sự bất lực của hệ
giáo dục trống rỗng, không thống quan lại được đào
thực tế, không mang lại lợi tạo theo chế độ khoa cử
Phê phán ích cho đất nước. không thích hợp.

“Hư học"
Lấy dẫn chứng liên quan đến Dẫn chứng xung quanh
sự nghiệp phát triển kinh tế - giáo dục theo chế độ khoa
thương mại của Nhật Bản. cử cũ.
Nội dung
Giáo dục Chú trọng khoa học tự nhiên Gắn ngành khoa học thực
tư tưởng
(lý số). nghiệm với giáo dục thực
cải cách “Thực học”
học.

Chú trọng giáo dục tinh thần Thiếu cơ sở, hệ thống


độc lập tự tôn cho dân chúng chưa đề cập đến tinh thần

Học tập nền Nhật Bản. độc lập tự tôn của dân tộc.

giáo dục
phương Tây Kết hợp giáo dục gia đình, Thiếu hẳn nguyên lý kết

nhà trường, xã hội. hợp giáo dục gia đình, nhà


trường, xã hội.

19
Như vậy, có thể thấy trong tư tưởng cải cách giáo dục giữa Fukuzawa Yukichi
và Nguyễn Trường Tộ có những điểm tương đồng cơ bản các ông đều nhận ra sự lạc
hậu của nền giáo dục Hán học, chủ trương khuyến khích nhân dân học tập theo lối sáng
tạo của Tây học, áp dụng lý thuyết học tập vào thực tiễn. Tuy nhiên, với tình hình đất
nước cũng như quá trình tiếp nhận, ảnh hưởng của ý thức hệ khác nhau vì thế mà hoạch
định tư tưởng của hai ông khi đưa ra mang lại kết quả khác nhau, song bên cạnh đó cũng
nhờ những tư tưởng mới này mà nền giáo dục của Nhật Bản và Việt Nam đều có những
cơ sở quan trọng, làm tiền đề cho sự phát triển giáo dục sau này. Cho đến ngày nay nhiều
công trình nghiên cứu ở Nhật Bản và Việt Nam vẫn còn đề cập đến tư tưởng cải cách
giáo dục của Fukuzawa Yukichi và Nguyễn Trường Tộ, tư tưởng cải cách của hai ông
đã góp phần tạo ra những con người mới, ý thức mới, gieo mầm văn hoá mới cho nhân
dân Nhật Bản và Việt Nam nói riêng, các nước trong khu vực và thế giới nói chung.

IV. KẾT LUẬN

Những đóng góp to lớn của Fukuzawa Yukichi đến tận ngày nay vẫn còn vẹn
nguyên giá trị đối với nhân dân Nhật Bản và luôn là kim chỉ nam hàng đầu trong công
cuộc phát triển đất nước của xứ sở Phù Tang. Công cuộc cải cách Duy Tân đã tạo điều
kiện cho bước chuyển mình tích cực của Nhật Bản trong tình cảnh khó khăn, đặc biệt
trong lĩnh vực giáo dục, đã trở thành điểm xuất phát mới mẻ đưa nước Nhật phát triển
một cách nhanh chóng, với nhiều nội dung tiêu biểu. Fukuzawa Yukichi đã trở thành
người khai sáng tinh thần quốc dân Nhật Bản, nhà giáo dục lừng danh, là nhịp cầu nối
quan trọng rút ngắn con đường văn minh hóa của Nhật Bản, chủ trương văn minh hoá
đất nước, tư duy Duy Tân về giáo dục của ông không chỉ ảnh hưởng đến Nhật Bản mà
còn đến các nước trong khu vực và trên thế giới.

20
TỔNG KẾT
Như vậy, cải cách giáo dục trong thời kỳ Duy Tân Minh Trị có một tác động cực
kỳ mạnh mẽ, mang trong mình động lực quan trong thúc đẩy sự phát triển toàn diện,
đồng thời đưa nước Nhật vững vàng tiến lên trên con đường đi lên chủ nghĩa tư bản.
Những chính sách cải cách đó đã thay đổi hoàn toàn nước Nhật, từ một quốc gia phong
kiến có nguy cơ bị xâm chiếm trở thành thuộc địa bổng chuyển mình thành một quốc
gia hùng mạnh trên thế giới, một đất nước phát triển như ngày nay. Sự thành bại trong
cuộc cải cách nhất là trong lĩnh vực giáo dục của chính quyền Minh Trị một phần là nhờ
vào sự đồng lòng của cả nước Nhật, sự sáng suốt của một chính quyền vì sự phát triển
của nhân dân. Toàn nước, toàn dân cùng với chính quyền thực hiện thành công công
cuộc duy tân đất nước. Cải cách giáo dục là một phần giá trị của Nhật Bản hiện tại, để
người dân Nhật Bản khi nhắc đến có thể tự hào về một nền giáo dục tân tiến, sáng tạo,
một đất nước với bước phát triển thần tốc, nhiệm màu như Nhật Bản hôm nay.
Và cũng trong quá trình đó, không thể không nhắc đến Fukuzawa Yukichi khi
chính ông cũng là một phần linh hồn của cuộc cải cách giáo dục thời kỳ Duy Tân Minh
Trị. Tư tưởng vượt trội cùng một thế giới quan trọn vẹn cho đất nước, ông đã góp phần
giúp sự nghiệp cải cách đi đến thành công. Những đóng góp của ông dù ngàn năm sau
vẫn còn vẹn nguyên giá trị, nước Nhật vẫn sẽ tiếp tục đi lên và phát triển trên cái nền
giáo dục mà ông đã đặt ra. Thời gian đã lùi xa, quá khứ về thời kỳ Minh Trị dường như
đã khép lại, nhưng có lẽ những thành công mà cuộc cải cách đã thực hiện được cùng
những đóng góp của Fukuzawa cho công cuộc cải cách, tất cả vẫn sẽ luôn hiện hữu, sẽ
là dấu son chói lọi trên con đường phát triển của Nhật Bản giai đoạn sau. Không chỉ mỗi
Fukuzawa mà đã có rất nhiều những nhà tư tưởng tài năng hết sức mình vì đất nước.
Một nền giáo dục tân tiến như hiện tại, nhờ một phần bởi các nhà tư tưởng khi xưa.
TIỂU KẾT
Kết thúc một quá trình tìm hiểu, nhận thấy rằng sự thành công của Nhật Bản xuất
phát từ một nền giáo dục tân tiến. Một quốc gia văn minh là khi toàn dân đều mang trong
mình một lượng tri thức, sự phát triển thần tốc hay chậm trễ cũng bắt nguồn từ sự đoàn
kết, đồng lòng của toàn dân. Nhật Bản đạt đến vị thế như ngày hôm nay, thế giới hay
Việt Nam đều phải nhìn và suy nghĩ, nền giáo dục Nhật Bản là minh chứng trực quan
cho mọi người suy nghĩ, về một nền giáo dục tân tiến và văn minh.
 --Hết-- 

21
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Tài liệu giấy
1. Ozaki Mugen, Cải cách giáo dục Nhật Bản, Thái Hà dịch, NXB Từ điển Bách Khoa
2. Đào Trinh Nhất(2018), Nhật Bản Duy tân 30 năm, NXB Thế giới
3. Nguyễn Quốc Hùng(2012), Lịch sử Nhật Bản, NXB Thế giới
4. Fukuzawa Yukichi(2008), Khuyến học, Phạm Hữu Lợi dịch, NXB Thế giới
5. PGS.TS. Nguyễn Tiến Lực(2013), Fukuzawa Yukichi và Nguyễn Trường Tộ - Tư
tưởng cải cách giáo dục, NXB Tổng hợp Thành phố Hồ Chí Minh
6. Fukuzawa Yukichi(2018), Khái lược văn minh luận, Nguyễn Đỗ An dịch, NXB Thế
giới
7. Fukuzawa Yukichi(2005), Phúc ông tự truyện, Phạm Thu Giang dịch, NXB Thế
giới
2. Tài liệu điện tử
1. Shoheizaka Gakumonjo nơi trở thành nền tảng của nền giáo dục hiện đại dưới sự
kiểm soát trực tiếp của Mạc phủ. (2020, 1 december). Thông Tin Nhật Bản.
https://thongtinnhatban.net/threads/shoheizaka-gakumonjo-noi-tro-thanh-nen-
tang-cua-nen-giao-duc-hien-dai-duoi-su-kiem-soat-truc-tiep-cua-mac-phu.36250/
2. 日本大百科全書(ニッポニカ)ブ.小. (z.d.). 玉松操とは. コトバンク.
https://kotobank.jp/word/%E7%8E%89%E6%9D%BE%E6%93%8D-18816
3. Cải cách giáo dục Nhật Bản dưới thời Minh Trị Thiên Hoàng, (27/10), Niềm tin
tương lai
http://niemtin.free.fr/gdminhtrithienhoang.htm?fbclid=IwAR3jXHHKRPsd1py27
W-5TramHmS_z2SbaTG_Y9awGBXlXFz-Lijicf8QcUg
4. Thi Cử và Nền Giáo Dục Việt Nam dưới thời Pháp Thuộc. (2018, 15 maart). Nghiên
Cứu Lịch Sử. https://nghiencuulichsu.com/2018/03/15/thi-cu-va-nen-giao-duc-
viet-nam-duoi-thoi-phap-thuoc/
5. Today, H. Đ. T. H. (2021, 9 augustus). Thế hệ du học sinh đầu tiên của Trung Quốc.
Báo Khoa học và phát triển
https://khoahocphattrien.vn/kham-pha/the-he-du-hoc-sinh-dau-tien-cua-
trungquoc/20210901041354422p1c879.htm

22
6. Đinh Quang Trung(2015), Tóm tắt luận văn thạc sĩ Khoa học và Xã hội Nhân văn,
Tư tưởng giáo dục của Fukuzawa Yukichi

https://drive.google.com/file/d/1neWEGIqm4AYeR0WbsvfAMIayoxmWM-
dt/view?usp=sharing
7. Trần Thế Nhựt(2011), Luận văn thạc sĩ Lịch sử, Vai trò của Fukuzawa Yukichi đối
với lịch sử Nhật Bản cận đại,
https://drive.google.com/file/d/17_IhdGGUGpFvnQdPugR-
dG5yRh5wPXy6/view?usp=sharing
8. Fukuzawa Yukichi – nhà tư tưởng lớn nhất của Nhật Bản thời cận đại | WeXpats
Guide. (n.d.).
https://we-xpats.com/vi/guide/as/jp/detail/5038/?fbclid=IwAR1DS-
PP6R0o37FSZy4ARw0xAo1o8rz7MdtR1mpUulJdIc25x2Sf1WS0Upo
9. Thực học [28/12/2014]. (23/06/2015). Clb Học Thuật Lan Tỏa.
https://www.soac.edu.vn/vi/toa-dam-nguyen-truong-to-tu-tuong-thuc-hoc/
10. Aanmelden of registreren om te bekijken. (n.d.).
https://www.facebook.com/unsupportedbrowser?u=https://dongphuonghoc.org/arti
cle/496/bao-cao-su-anh-huong-cua-bunmei-kaika-van-minh-khai-hoa-den-xa-hoi-
va-su-thay-doi-cua-nguoi-dan-nhat-
ban.html?fbclid=IwAR3VNnKEIkHqlAvgnhcwETKZDSBgjUqm1TlZ-
87qwCYTCnwd4SjF37LEXYY
11. Tư tưởng thoát Á và Khuyến học của Fukuzawa Yukichi. (20/07/2019). Báo Điện
Tử Tiền Phong.
https://tienphong.vn/tu-tuong-thoat-a-va-khuyen-hoc-cua-fukuzawa-yukichi-
post1125534.tpo?fbclid=IwAR3And0TKhbFi0KB2Cf-
puZOIxEw5vQ3gdLAY2hRPcTRB2_WWrfMaW5aW5Q

23

You might also like