You are on page 1of 20

ĐẠI HỌC QUỐC GIA TP.

HỒ CHÍ MINH
ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
KHOA NHẬT BẢN HỌC

LỊCH SỬ NHẬT BẢN

ĐỀ TÀI: NHẬT BẢN THỜI KỲ


PHÁT TRIỂN THẦN KỲ (1952-1973)

Nhóm sinh viên thực hiện: Nhóm 17


1. Huỳnh Thị Phương Thảo - 2156190152
2. Trần Thị Thanh Thảo - 2156190154
3. Nguyễn Thị Cẩm Thi - 2156190155
4. Nguyễn Anh Thư - 2156190159
5. Lê Nguyễn Ngọc Sương - 2156190148

TP. Hồ Chí Minh, 2022


Mục lục
1. Sự phát triển của Nhật Bản từ 1951 – 1973 và địa vị của Nhật Bản trên thế giới 3
1.1. Về kinh tế 3
1.1.1. Công nghiệp 4
1.1.2. Nông, lâm, ngư nghiệp 5
1.1.3. Ngoại thương 5
1.2. Về chính trị 6
1.2.1. Đối nội 6
1.2.2. Đối ngoại 6
1.3. Về văn hóa 7
1.4. Về xã hội 8
1.5. Khoa học kỹ thuật 8
1.6. Y tế, giáo dục 10
2. Nguyên nhân dẫn đến sự Phát triển thần kỳ của Nhật Bản sau chiến tranh Thế
giới thứ 2 từ năm 1952 – 1973. 12
2.1. Yếu tố nước ngoài 12
2.2. Yếu tố trong nước 14
2.3. Đánh giá nguyên nhân thành công 15
2.3.1. Chiến lược con người 15
2.3.2. Chiến lược cơ cấu 15
2.3.3. Chiến lược khoa học kỹ thuật 16
2.3.4. Chiến lược kinh tế đối ngoại 16
2.3.5. Quản lý kinh tế vĩ mô 16
3. Những hậu quả kinh tế xã hội của chính sách phát triển với tốc độ cao vì lợi ích
của tư bản độc quyền 16
3.1. Mất cân đối nghiêm trọng giữa phát triển công nghiệp và nông nghiệp 17
3.2. Ô nhiễm môi trường và vấn đề an sinh xã hội. 17
3.3. Mâu thuẫn xã hội gay gắt 18
3.4. Gây ra một nền kinh tế bấp bênh 18
3.5. Xu hướng quân phiệt hóa – một mối đe dọa nghiêm trọng đến sự phát triển
bình thường của nền kinh tế Nhật 19

2
NHẬT BẢN TRONG THỜI KỲ PHÁT TRIỂN VƯỢT BẬC
(1952 - 1973)
Ngày 9/8/1945, Mỹ thả quả bom nguyên tử đầu tiên mang tên "Little boy" vào thành
phố Hiroshima của Nhật Bản. Sự kiện này đã gây sức ép không hề nhỏ dẫn tới vào ngày
14/8/1945, phát xít Nhật đã đầu hàng đồng minh vô điều kiện, kết thúc chiến tranh thế giới
thứ hai.
Sau chiến tranh, Nhật không những bị quân đội nước ngoài chiếm đóng mà còn mất
hết thuộc địa và nền kinh tế cũng bị tàn phá nặng nề. Nhiều khó khăn bao trùm quốc gia
này như thất nghiệp, thiếu thốn lương thực, thực phẩm, hàng tiêu dùng, lạm phát nặng nề...
Sản xuất công nghiệp năm 1946 chỉ bằng ¼ so với trước chiến tranh. Nhật Bản phải dựa
vào sự “viện trợ” kinh tế của Mỹ dưới hình thức vay nợ để phục hồi kinh tế. Dưới chế độ
quân quản của Mỹ, một loạt các chính sách dân chủ được tiến hành như ban hành hiến pháp
mới, thực hiện cải cách ruộng đất, xóa bỏ chủ nghĩa quân phiệt và trừng phạt tội phạm
chiến tranh, giải giáp các lực lượng vũ trang, ban hành các quyền tự do dân chủ. Những
chính sách này đã thổi một luồng không khí mới tới các tầng lớp nhân dân, thúc đẩy sự
phát triển của đất nước.
Từ năm 1945 đến năm 1950, nước Nhật bước vào thời kỳ phục hồi kinh tế. Tuy nhiên,
nền kinh tế phát triển chậm chạp và còn phụ thuộc vào kinh tế Mỹ. Từ những năm 70 trở
đi, kinh tế Nhật Bản mới phát triển cực kỳ mạnh mẽ. Chỉ trong khoảng thời gian ngắn ngủi,
Nhật Bản đã trở thành một trong ba trung tâm kinh tế - tài chính lớn của thế giới. Sau đây
sẽ là những vấn đề mang tính đặc trưng của Nhật Bản trong thời kỳ 1952-1973. Bao gồm
thứ nhất: sự phát triển của Nhật Bản từ năm 1951 đến năm 1973, thứ hai: những nguyên
nhân chủ yếu dẫn đến sự phát triển "thần kỳ", thứ ba: những hậu quả kinh tế xã hội của
chính sách phát triển với tốc độ cao vì lợi ích của tư bản độc quyền.
1. Sự phát triển của Nhật Bản từ 1951 – 1973 và địa vị của Nhật Bản trên thế giới
Sau chiến tranh thế giới thứ hai, Nhật Bản bị tàn phá nặng nề về mọi mặt nhưng nhờ
những chính sách của Nhà nước và lợi dụng sự “hỗ trợ” của Mỹ, Nhật Bản không những
phục hồi nhanh chóng lại mức sản xuất trước chiến tranh mà còn phát triển vượt bậc, vươn
lên thành cường quốc kinh tế đứng thứ 2 thế giới, sau Mỹ. Quá trình phát triển thần kỳ của
Nhật Bản thể hiện qua tốc độ tăng trưởng mạnh mẽ của nền kinh tế, các chính sách cải cách
giáo dục và công bằng xã hội.
1.1. Về kinh tế

3
Nếu như nền kinh tế Nhật Bản những năm 1950 được nhận xét là chậm chạp, phục
hồi và phụ thuộc vào Mỹ thì thời kỳ 1952 – 1973, nền kinh tế không những đạt ngưỡng
trước chiến tranh mà còn đạt được nhiều bước tiến "thần kỳ" về kinh tế và ổn định xã hội.
Năm 1952 – 1958, tốc độ tăng tổng sản phẩm trong nước trung bình hằng năm là
6,9%. Từ năm 1959, tốc độ tăng trưởng đã lên 10% trong khi đó ở Anh là 2,7%, Mỹ là
4,8%, Pháp là 5,2%. Nhưng tốc độ tăng trưởng nền kinh tế Nhật Bản vẫn chưa gây sự chú
ý đến thế giới. Đến những năm 1960, tốc độ tăng trưởng đạt 15,4% thì thế giới bắt đầu kinh
ngạc về sự phát triển thần kỳ của Nhật Bản. Từ 1951 – 1973, mặc dù có nhiều năm sản
xuất trì trệ và khủng hoảng kinh tế nhưng nhìn chung tốc độ tăng trưởng của Nhật vẫn cao
hơn tiêu chuẩn quốc tế.
So với năm 1950, giá trị tuyệt đối của tổng sản phẩm quốc dân Nhật tính từ năm 1973
đã tăng lên gấp 15 lần, đạt khoảng 360 tỷ, vượt qua cả Anh, Pháp, Đức và trở thành cường
quốc thứ 2 sau Mỹ. Tỷ số chênh lệch với Mỹ từ 1/17 (1950) giảm xuống còn 1/3 (1973).

1.1.1. Công nghiệp


Đây là lĩnh vực phát triển mạnh nhất, đóng vai trò then chốt trong nền kinh tế Nhật
Bản. Từ 1950 – 1960, tốc độ tăng trưởng công nghiệp hằng năm là 15,9%, gấp 6 lần Mỹ
(2,6%), gấp 5 lần Anh (2,9%), xấp xỉ 3 lần Pháp (5,4%) và gấp đôi Tây Đức (9,4%). Từ
1960 – 1970, con số này của Nhật Bản là 13,5%.
Nếu những năm 1950, giá trị tổng sản lượng công nghiệp của Nhật còn thua cả Ý (5,1
tỷ đôla) thì năm 1969 nó đã vượt tất cả các nước (chỉ xếp sau Mỹ), tăng từ 4,1 tỉ đô la
(1950) lên 56,4 tỷ đô la (1969).

4
Đến đầu những năm 70, Nhật Bản dẫn đầu các nước về sản lượng tàu biển, xe máy,
máy thu thanh,… Đứng thứ 2 về sản lượng thép, ô tô, xi măng, các sản phẩm hóa chất như
cao su, nhựa, sản lượng xe đạp, đồ chơi,…
1.1.2. Nông, lâm, ngư nghiệp
Do thực hiện chính sách hy sinh nông nghiệp vì lợi ích của tư bản độc quyền công
nghiệp nên tổng giá trị sản phẩm của nông, lâm, ngư nghiệp giảm mạnh, chỉ bằng khoảng
1/6 của công nghiệp. Tuy nhiên, tốc độ phát triển trung bình hằng năm của Nhật vẫn cao
hơn một số nước tư bản.

Nhưng nhờ thúc đẩy cơ sở vật chất – kỹ thuật trong nông nghiệp, phát triển theo
hướng thâm canh với trình độ cơ giới hóa, thủy lợi hóa và điện khí hóa cao mà những năm
1967 – 1969, sản lượng lương thực đã cung cấp cho hơn 80% tiêu dùng trong nước, giải
quyết vấn đề tự túc gạo.
Lợn, bò, gà là sản phẩm chính của chăn nuôi, trong đó gà là ngành chăn nuôi phát
triển mạnh nhất (cuối những năm 60 có khoảng 138 triệu gà, 4 triệu lợn và hơn 3 triệu bò
các loại). Chăn nuôi phát triển mạnh hơn trồng trọt, giải quyết được tối thiểu 2/3 nhu cầu
thịt, sữa trong nước.
Ngư nghiệp có vai trò quan trọng đối với nền kinh tế Nhật. Nhờ hiện đại hóa các
phương thức đánh cá nên sản lượng cá hằng năm cuối thập kỉ 60 gấp 2,5 lần trước chiến
tranh. Đứng thứ 2 thế giới, sau Peru với sản lượng cá là 86kg.
1.1.3. Ngoại thương
Nhật từng bước đẩy mạnh xuất khẩu tư bản. Trong vòng 21 năm (1950 – 1971) tổng
ngạch ngoại thương tăng từ 1,7 tỷ USD (1950) lên 43,6 tỷ USD (1971). Từ cuối những
năm 50, nguyên liệu nhập từ nước ngoài chiếm khoảng 50% tổng lượng hàng nhập khẩu.
Năm 1955, giá trị hàng xuất khẩu là hàng công nghiệp chiếm 80%, con số này lên 95% vào
những năm 1970.
5
1.2. Về chính trị
Chủ nghĩa Thiên Hoàng bị lật đổ, quyền lực của Hoàng Đế rất hạn chế. Sau chiến
tranh thế giới thứ 2, Nhật Bản là nhà nước quân chủ lập hiến về hình thức nhưng bản chất
là dân chủ đại nghị (mọi quyền hạn đều tập trung vào tay của các tập đoàn tài phiệt Zaibatsu:
Mitsubishi, Sumitomo, Mitsui, Fuji, Daiichi, San wa). Lúc này, Nhà nước ở Nhật trở thành
công cụ quan trọng phục vụ các tập đoàn tư bản tài chính, thống trị kinh tế trong nước và
bành trướng thế lực ra nước ngoài.

1.2.1. Đối nội


Tiến hành cải cách ruộng đất: trước chiến tranh, đất phát canh chiếm 46% ruộng đất
của Nhật Bản. Nông dân phải nộp tô cao tới 50% số thu hoạch. Sau chiến tranh, dưới chỉ
thị của lực lượng chiếm đóng, cuộc cải cách ruộng đất được tiến hành với nội dung cơ bản
sau: chuyển quyền sở hữu ruộng đất phát canh cho những nông dân đã từng trực tiếp trồng
trọt trên mảnh đất đó. Việc này thúc đẩy tích cực nông dân sản xuất.
Ban hành hiến pháp 1946, ngày nay trong Hiến Pháp có một số quy định bị giới cầm
quyền xâm phạm: thu hẹp quyền tự do dân chủ, không cho phép Nhật xây dựng lực lượng
vũ trang, đưa quân đi tham chiến nước ngoài. Nhật còn xóa bỏ những tàn tích phong kiến,
xử tội phạm chiến tranh, phản động. Nhờ đó mà Nhật Bản thu được những thành tựu to lớn
để phát triển mạnh mẽ mọi mặt.
1.2.2. Đối ngoại
Sau thế chiến thứ 2, tình hình thế giới đã có sự thay đổi, phong trào đấu tranh cho hòa
bình ở Nhật ngày càng mạnh mẽ, chủ nghĩa thực dân cũ đã thất bại thảm hại. Đứng trước
tình hình đó, tư bản độc quyền Nhật không thể bành trướng thế lực ra nước ngoài bằng con

6
đường chiến tranh xâm lược như trước đây. Vì thế, Nhật Bản đã đề ra chính sách đối ngoại
cơ bản là ưu tiên phát triển nền kinh tế trước, hợp tác cùng phát triển với các nước xã hội
chủ nghĩa.
Năm 1951, kí hiệp ước an ninh Mỹ - Nhật, Nhật Bản đặt dưới sự bảo hộ hạt nhân của
Mỹ, trở thành đồng minh của Mỹ nhằm chống lại phong trào giải phóng dân tộc ở châu Á.
Do được bảo trợ về an ninh nên Nhật Bản đã hạn chế thấp nhất các chi phí dành cho quốc
phòng, năm 1951, chi phí quốc phòng chỉ chiếm 1% tổng ngân sách hàng năm. Do đó Nhật
Bản có thể chi phần lớn ngân sách quốc gia để đầu tư phát triển kinh tế, giáo dục và các
lĩnh vực xã hội, văn hóa khác.
Mở rộng quan hệ hợp tác với các nước như Trung Quốc, Nga và các nước Đông Nam
Á. Với Việt Nam ngày 21/9/1973, Nhật Bản và Việt Nam đã thiết lập quan hệ ngoại giao
tính đến nay đã gần 50 năm.
1.3. Về văn hóa
Nhằm thực hiện mục tiêu biến đổi hình ảnh một quốc gia quân sự thành một quốc gia
dân chủ, yêu hòa bình, chính quyền Nhật Bản đã ban hành một số chính sách ngoại giao
văn hóa để cải thiện hình ảnh dân tộc.

Năm 1951, Nhật Bản tham gia tổ chức UNESCO. Trong các hoạt động văn hóa ở
nước ngoài, Nhật Bản không chỉ tích cực tiếp nhận nền văn hóa tiên tiến của nhân loại mà
còn giữ được bản sắc văn hóa của dân tộc. Chính phủ Nhật Bản tập trung nhấn mạnh đến
văn hóa truyền thống như trà đạo và cắm hoa, với hi vọng sẽ để lại ấn tượng trong mắt bạn
bè quốc tế về một nước Nhật hòa bình, yêu thiên nhiên.
Sau Thế vận hội Tokyo năm 1964, Nhật Bản dần chuyển từ việc nhấn mạnh hình ảnh
một đất nước yêu hòa bình sang hình ảnh một đất nước có nền kinh tế phát triển với công

7
nghệ - kỹ thuật tiên tiến. Từ giai đoạn này trở đi, trong hoạt động ngoại giao văn hóa Nhật
Bản đã xuất hiện những nét mới:
- Tăng cường các hoạt động văn hóa ở nước ngoài. Cho xây dựng các trung tâm văn
hóa ở các nước, ký kết thỏa thuận trao đổi văn hóa với các nước (Nam Tư năm 1969,
Trung Quốc năm 1979).
- Đẩy mạnh quảng bá nghệ thuật biểu diễn truyền thống ra thế giới: Kịch Noh và
Kabuki.
- Thành lập Quỹ Giao Lưu Văn hóa quốc tế Nhật Bản vào năm 1972.
Việc tích cực thúc đẩy ngoại giao văn hóa trong giai đoạn này thể hiện sự mong muốn
thay đổi nhận thức của Chính phủ Nhật Bản. Có thể nói, trong giai đoạn này Nhật Bản đang
hướng đến mục tiêu toàn thể dân tộc phải nhận thức sâu sắc về ngoại giao văn hóa và sự
hiện diện của Nhật Bản trong các hoạt động quốc tế.

1.4. Về xã hội
Trong quá trình phát triển nền kinh tế thần kỳ, Nhật Bản cũng đối mặt với không ít
thách thức gay gắt về vấn đề xã hội. Do quá tập trung hướng đến mục tiêu tăng trưởng kinh
tế, nhà nước đã không chú trọng nhiều đến vấn đề phát triển các cơ sở hạ tầng và bảo vệ
môi trường, bên cạnh đó sự bóc lột của chế độ tư bản độc quyền cũng dấy lên lòng căm
phẫn trong người dân.
Tuy nhiên, đến thập kỷ 70, không thể lảng tránh trước những vấn đề xã hội, chính
quyền Nhật Bản đã hoạch định ra những chiến lược phát triển nền kinh tế song song với
bảo vệ môi trường và làm sạch thành phố.
Năm 1967, ban hành bộ luật chống ô nhiễm môi trường, 1970, quy định các tiêu
chuẩn về chất thải đối với từng loại ô nhiễm, đồng thời đề ra quy chế kiểm soát chất thải,
1971, thành lập Cục môi trường – cơ quan chuyên trách có chức năng ngang bộ.
1.5. Khoa học kỹ thuật
8
Vừa mới thoát ra khỏi những thảm họa của chiến tranh nhưng một số nhà khoa học
Nhật Bản đã đạt được nhiều thành tựu xuất sắc về khoa học, kỹ thuật. Điển hình nhất là
giáo sư Yukawa Hideki đạt giải Nobel về vật lý năm 1949. Năm 1965, giáo sư Tomonaga
Shinichiro cũng được trao giải Nobel về vật lý. Năm 1968, nhà văn Kawabata Yasunari
được trao giải Nobel về văn học. Những thành tựu lớn đó đã khích lệ mạnh mẽ lòng tự hào
dân tộc, sự tự tin và tài năng sáng tạo của con người Nhật Bản.

Nhật Bản đã nhanh chóng thoát khỏi tình trạng lạc hậu về khoa học, kỹ thuật so với
nhiều quốc gia tiên tiến ở phương Tây. Chi phí nghiên cứu ở Nhật Bản tăng nhanh. Năm
1955 đạt 40,1 tỷ yên (chiếm 0,84% thu nhập quốc dân) nhưng đã tăng một cách vững chắc
trong những năm tiếp theo, đạt gần 1200 tỷ yên tức 1,96% tổng thu nhập quốc dân. Năm
1955, chỉ có 1445 phòng thí nghiệm tham gia nghiên cứu khoa học nhưng đến năm 1970
đã có tới 12594 phòng thí nghiệm, tăng gấp 9 lần. Số các nhà khoa học và chuyên gia
nghiên cứu cũng tăng lên đáng kể, từ 133000 người năm 1955 lên đến 419000 người năm
1970. Nhật Bản cũng đã tìm mua những phát minh nước ngoài với trị giá lên đến 5 tỷ USD.
Khoa học – kỹ thuật và công nghệ Nhật Bản chủ yếu tập trung vào lĩnh vực sản xuất
ứng dụng dân dụng, đạt được nhiều thành tựu lớn. Đầu những năm 70, Nhật Bản sản xuất
khoảng 1/5 số máy móc cắt gọt kim loại của thế giới tư bản. Năm 1960, Nhật đứng thứ 5
trong thế giới tư bản về sản lượng máy móc, thiết bị điện, năm 1968 đã nhảy lên hàng thứ
2, chỉ kém Mỹ với tỉ số 1/4, năm 1970 khoảng cách với Mỹ rút lại chỉ còn 1/3. Về thiết bị
điện tử, năm 1967, Nhật đã vươn lên hàng thứ hai thế giới, sau Mỹ. Tuy nhiên, về một số
thiết bị điện tử, Nhật đã vượt Mỹ từ lâu như máy thu thanh bán dẫn, vô tuyến truyền hình…
Năm 1972, Nhật đã sản xuất được hầu như toàn bộ số máy tính điện tử dùng trong
nước. Năm 1967, Nhật vươn lên hàng thứ hai về sản xuất ô tô, sau Mỹ. Năm 1970, năng
lực sản xuất ô tô của Nhật gấp khoảng 100 lần so với trước chiến tranh.
Từ năm 1956, Nhật liên tục dẫn đầu thế giới về sản lượng tàu biển. Đến đầu những
năm 70 đã sản xuất trên 50% tổng số tàu biển trên thế giới. Năm 1960, Nhật đứng thứ hai
thế giới sau Mỹ về sản xuất axit sunfuric, xút ăn da sợi hóa học. Năm 1965, Nhật vượt
9
CHLB Đức và Canada về sản xuất chất dẻo và cao su tổng hợp. Năm 1967, Nhật sản xuất
được loại tên lửa nặng 8,2 tấn, tầm 2000km. Tháng 2/1960 Nhật là nước thứ tư sau Liên
Xô, Mỹ, Pháp phóng thành công vệ tinh nhân tạo.

Năm 1968, Nhật là nước thứ tư sau Liên Xô, Mỹ, CHLB Đức bắt đầu sản xuất tàu
chạy bằng năng lượng nguyên tử. Năm 1970, Nhật bước vào giai đoạn mở rộng quy mô
sản xuất loại tàu này.
1.6. Y tế, giáo dục
Sự tăng trưởng mau chóng của Nhật Bản sau chiến tranh đã mang lại những tiến bộ
thần kỳ về kinh tế và góp phần vào việc cải thiện điều kiện giáo dục, y tế và nâng cao mức
sống của nhân dân.
Về y tế, trong thời kỳ tăng trưởng nhanh dân số Nhật Bản đã không ngừng tăng lên.
Bên cạnh đó, tỉ lệ sinh cũng giảm đi. Nếu như năm 1948 cứ 10000 người thì có 33 trẻ sơ
sinh thì năm 1966 số trẻ sơ sinh giảm xuống chỉ còn 14. Tuy mức sinh giảm nhưng tỉ lệ
này tương ứng với tỉ lệ tử vong do điều kiện chăm sóc sức khỏe ở Nhật Bản đã tăng lên.
Với nguồn kinh phí năm 1955 là 220 tỷ yên. Do mức sống được nâng cao cùng với cơ cấu
bữa ăn cũng được phương Tây hóa, sự tiêu thụ bánh mì, thịt và hoa quả tăng lên góp phần
quan trọng làm tăng chiều cao và cân nặng trung bình của thanh niên ở độ tuổi 17 từ 161,8
cm và 52,6 kg năm 1950 lên 167,8cm và 58,6 kg năm 1970. Tuổi thọ trung bình của dân

10
Nhật cũng đạt kỷ lục quốc tế. Năm 1955, tuổi thọ trung bình ở Nhật Bản thấp hơn Mỹ là 4
năm. Năm 1967, tuổi thọ trung bình ở Nhật Bản đã vượt Mỹ.

Giáo dục là lĩnh vực chiếm một vị trí quan trọng trong các nguyên nhân dẫn đến bước
nhảy vọt mà Nhật Bản đã đạt được trong tiến trình phát triển đất nước sau công cuộc Minh
Trị duy tân và thời kỳ sau Chiến tranh Thế giới thứ 2.
Hệ thống giáo dục ở Nhật Bản được cải cách sâu rộng. Chính phủ đã nâng hệ giáo
dục bắt buộc miễn phí từ sáu năm lên chín năm. Để đảm bảo cho mọi trường đều có phương
tiện tài chính đem lại một trình độ giáo dục bắt buộc tối thiểu, Chính phủ Nhật Bản đã trợ
cấp cho các tỉnh nghèo và những quận có trường học hẻo lánh. Một phần khá lớn của ngân
sách giáo dục là do các tỉnh đóng góp và một phần là do cộng đồng địa phương, nhưng
ngân sách quốc gia luôn chiếm khoảng 1/4 ngân sách giáo dục bắt buộc chín năm. Hàng
năm, chính phủ dành một khoảng đầu tư lớn cho công tác giáo dục.
Chẳng hạn, nếu năm 1950, chính phủ chi 5% thu nhập quốc dân cho giáo dục công
cộng thì đến năm 1973 con số đó đã là 5,3%. Một điều gây ấn tượng mạnh mẽ là hầu hết
học sinh Nhật Bản đều đạt được những tiêu chuẩn tối thiểu về giáo dục.
Trước yêu cầu phát triển cao của cách mạng khoa học kỹ thuật, hệ thống giáo dục
bằng vô tuyến truyền hình ngày càng được mở rộng. Năm 1963, vô tuyến truyền hình bắt
đầu dạy chương trình trung cấp, năm 1965 dạy thêm chương trình đại học.
Kết quả của những nỗ lực trong giáo dục và đào tạo nói trên là vào thời kỳ tăng trưởng
kinh tế cao, Nhật Bản là nước có dân số có trình độ học vấn cao nhất. Đầu những năm 70
đã có tới 98% người Nhật biết đọc và biết viết, hơn 75% giới trẻ có trình độ giáo dục cao
hơn chế độ giáo dục bắt buộc. Ở các thành phố lớn, tỉ lệ này còn cao hơn. Ví dụ Tokyo -

11
89,6%, Osaka - 82,3%. Bên cạnh đó, số thanh niên ra trường có trình độ đại học lên tới gần
30%.

2. Nguyên nhân dẫn đến sự Phát triển thần kỳ của Nhật Bản sau chiến tranh Thế
giới thứ 2 từ năm 1952 – 1973.
2.1. Yếu tố nước ngoài
Thời kỳ tăng trưởng nhanh của Nhật Bản nằm trong giai đoạn phát triển kinh tế nhanh
và kéo dài hiếm có trong lịch sử thế giới. Trong thời gian từ 1950 – 1960, GDP của các
nước trên thế giới đều tăng với tốc độ cao hơn những năm trước chiến tranh 5% mỗi năm.
Thời gian hòa bình sau chiến tranh chính là điều kiện môi trường thuận lợi để các nước tập
trung khôi phục nền kinh tế, trong đó có Nhật Bản.
Nhờ tham gia vào Quỹ tiền tệ quốc tế IMF (1952), Ngân hàng thế giới WB (1952),
Hiệp định chung về Thuế quan và mậu dịch GATT (1955) mà Nhật Bản đã tranh thủ được
sự giúp đỡ về mặt tài chính, tăng tính hiệu quả của các hoạt động thương mại, ngoại thương
với quốc tế.
Nhờ vào một môi trường quốc tế thuận lợi: sau Chiến tranh thế giới thứ hai, khi đã sa
lầy và bị thiệt hại nặng nề, Nhật đã chuyển mình tập trung phát triển kinh tế, ngoài mối
quan hệ ngoại giao đặc biệt thân thiết với Mỹ, Nhật Bản còn thiết lập các mối quan hệ với
Trung Quốc, Nga và các nước Đông Nam Á. Đặc biệt nhờ vào “ ngọn gió thần kì” - cuộc
chiến tranh xâm lược Triều Tiên và Việt Nam của Mỹ mà Nhật đã làm giàu bằng cách bán
vũ khí và phương tiện chiến tranh đã thúc đẩy kinh tế một cách mạnh mẽ, Không những
thế còn lôi Nhật thoát khỏi tình trạng khủng hoảng năm 1964 – 1954.
Nhờ vào mối quan hệ đặc biệt với Hoa Kỳ. Hoa Kỳ đã giúp Nhật vượt qua những
năm tháng tuyệt vọng của thời kỳ đầu hậu chiến.
Như là:

12
- Giải thể Zaibatsu (tập đoàn kinh tế gia tộc, lợi ích tài phiệt), tịch thu tài sản của những
ông lớn Mitsui, Mitsubishi, Sumimoto, Yasuda (233tr cổ phần) để phân tán cho cá
nhân, nghiệp đoàn kinh tế.
- Tháng 04/1947 ban hành “Luật chống độc quyền” (Doukusen kinshi) và tháng
12/1947 “Luật thủ tiêu tập trung quá mức sức mạnh kinh tế” để ngăn chặn sự phục
hồi của các Zaibatsu, giải tán các công ty lớn nắm quá nhiều nguồn lực kinh tế. Luật
“Luật chống độc quyền” đã “trở thành nguyên tắc căn bản của nền Kinh tế Nhật Bản
sau chiến tranh” theo Nakamura Takafusa (phát triển kinh tế của nước Nhật hiện đại,
Bộ ngoại giao Nhật Bản, 1985). Đây là những biện pháp rất kiên quyết, tạo điều kiện
cho sự cạnh tranh mạnh mẽ trong các ngành công nghiệp và có tác dụng lớn đối với
sự phát triển và tăng trưởng kinh tế đạt tốc độ cao của Nhật Bản sau này.
- Chính phủ Hoa Kỳ đã cử Joseph Dodge sang Nhật làm cố vấn kinh tế cho SCAP, với
nguyên tắc hoạt động của thị trường tự do, không có sự can thiệp của nhà nước,
Joseph đã đưa ra kế hoạch đem lại nhiều thành công nhất định cho nền kinh tế Nhật
Bản: ngăn chặn nạn lạm phát, giữ sự bình ổn giá cả hàng hóa thị trường trong nước,
nâng cao năng lực cạnh tranh của các công ty Nhật Bản trong nước và thế giới.
- SCAP khẩn trương thực hiện 2 cải cách ruộng đất (tháng 1 và 11 năm 1946). Theo
SCAP và các chuyên gia Nhật chế độ địa chủ chính là nguyên nhân tiềm tàng dẫn đến
sự phục hưng của chủ nghĩa quân phiệt nên để xóa bỏ các đặc quyền của giai cấp địa
chủ SCAP đã thực thi những biện pháp như: cắt giảm quy mô sở hữu đất đai để loại
trừ hình thức bóc lột phong kiến, trưng mua ruộng đất của địa chủ vắng mặt, mỗi địa
chủ chỉ sở hữu 1 cho,… Những biện pháp trên đã đem lại quyền tư hữu ruộng đất
cho nông dân trên quy mô lớn ở Nhật Bản, kích thích mạnh mẽ tính tích cực sản xuất,
phát huy hiệu quả nguồn tài nguyên, giải quyết vấn đề lương thực cho xã hội. Mỹ chủ
trương đẩy nhanh phục hồi kinh tế và sử dụng sức mạnh quân sự của Nhật để làm hậu
thuẫn cho những mục tiêu chiến lược của Mỹ và biến Nhật thành “bức tường chống
cộng sản ở Châu Á.
- Nhờ Mỹ, Nhật ít phải tốn tiền và sức lực đầu tư vào lĩnh vực quốc phòng, như vào
năm 1960 chỉ có hơn 1% trong tổng sản lượng quốc gia Nhật là được chi vào quốc
phòng. Lí do là vì sự kiên quyết phản đối của đa số quần chúng Nhật đối với việc duy
trì bất cứ cơ cấu tổ chức quân sự nào. Sự đóng góp chính của Hoa Kỳ vào việc phục
hưng nền kinh tế Nhật Bản là thông qua sự hợp tác kinh tế và kinh doanh buôn bán
trên nguyên tắc hai bên đều có lợi. Nhờ hàng trăm hợp đồng về bằng phát minh và
hợp đồng liên kết làm ăn, lượng tín dụng đầu tư hợp tác, khoảng tiền vay tín dụng
giữa công ty Mỹ và Nhật mang lại các bí quyết kỹ thuật và công nghệ vào việc phục
hồi nền kinh tế Nhật Bản.Mỹ cũng trở thành thị trường lớn nhất của Nhật, tiêu thụ

13
khoảng ¼ số lượng xuất khẩu của Nhật.Mỹ viện trợ dầu mỏ, quặng sắt và nhiều
nguyên liệu thiết yếu khác cho ngành công nghiệp.
2.2. Yếu tố trong nước
- Nhân tố con người và việc sử dụng triệt để lao động xã hội - nguồn tích lũy chủ yếu
của Nhật.
Nếu sự chiếm đóng của người Mỹ có vai trò như một trợ thủ trong cuộc thì người
Nhật xứng đáng được hưởng phần lớn niềm khâm phục đối với những gì họ làm được trong
những năm tháng sau chiến tranh.
Người Nhật không chỉ cần cù, sáng tạo trong lao động, họ còn biết nắm bắt cơ hội
cũng như là ham học hỏi, có tinh thần và kỹ năng làm việc tập thể, có khả năng thích ứng
cao, ý chí kiên cường, suy nghĩ và hành động của họ mang tính thực dụng cao. Không
những thế họ xem việc phục hồi đất nước là một bổn phận và nhiệm vụ của mình. Hơn nữa
họ thường đem sức lao động và tài năng của mình cống hiến hết mình cho công ty, “trung
thành” và “tận tâm” với công việc. Do vậy mà tư bản đã coi đây là nguồn tích lũy chủ yếu
và là phương pháp khai thác lao động một cách tinh vi. Để thu hút mọi lao động vào guồng
máy sản xuất giá trị thặng dư, tư bản đã xây dựng “cơ cấu hai tầng” bằng cách duy trì và
phát triển khu vực kinh doanh nhỏ, đồng thời tập trung vốn phát triển khu vực hiện đại quy
mô lớn. Phương thức này không những sử dụng triệt để nguồn lao động dư thừa mà còn
tăng nhanh lực lượng sản xuất cho tư bản.
- Năng lực lãnh đạo chính trị.
Bên cạnh sự nỗ lực rất lớn của mỗi người dân Nhật thì tầm nhìn sâu rộng của các nhà
lãnh đạo cũng đóng vai trò không hề nhỏ trong sự phát triển.
Các nhà lãnh đạo Nhật Bản nhận thức rõ, chỉ bằng công nghệ cao Nhật Bản mới tạo
ra được sự phát triển có tính đột phá. Phát huy tinh thần học tập từ phương Tây có từ thời
Minh Trị. Vì vậy Nhật Bản đã chi một khoản tiền lớn mua lại các phát minh sáng chế khoa
học kỹ thuật của phương Tây, nhanh chóng đổi mới công nghệ; tăng cường đầu tư cho nhập
khẩu kỹ thuật; quan tâm đầu tư cho nghiên cứu phát triển (R&D); chuẩn bị một đội ngũ trí
thức có kinh nghiệm để tiếp thu kỹ thuật khoa học hiện đại của nước ngoài; chú trọng cải
cách giáo dục quốc dân để giữ vững bản sắc, truyền thống dân tộc, đào tạo những con
người yêu nước có năng lực và ý chí vươn lên để thích nghi với sự biến đổi của thế giới.
Bên cạnh đó còn ban hành các chính sách tiền tệ, tín dụng, lợi dụng đòn bẩy thuế khóa để
điều chỉnh tốc độ phát triển kinh tế, một khi kinh tế tiêu điều, nhà nước bèn giảm thuế đánh
vào các công ty, đồng thời rút ngắn thời gian khấu hao nhằm kích thích tư bản đầu tư.
- Tinh thần doanh nghiệp và môi trường trong nước.
Giáo sư kinh tế Trường đại học Waseda Tokyo – Trần Văn Thọ khẳng định: “Sức
sáng tạo, tinh thần tiên phong, tự lập, vì đất nước mà kinh doanh, mạo hiểm trong đầu tư,
14
ý thức mưu tìm lợi nhuận, đạo đức trong kinh doanh… là những thứ không thể thiếu trong
tinh thần doanh nghiệp Nhật”, đây cũng chính là vai trò của doanh nghiệp Nhật Bản trong
giai đoạn “thần kỳ”.
- Chính sách duy trì mức tích lũy và sử dụng vốn có hiệu quả.
Do sự bóc lột tàn nhẫn, sự hạn chế gắt gao phúc lợi xã hội của nhà nước, cuộc sống
cơ cực đã buộc người Nhật phải sống tằn tiện, chắt chiu, do đó tuy có mức lương thấp nhất
các trong nước tư bản nhưng “Đất nước mặt trời mọc” được coi là nước có tỷ lệ tích lũy
vốn cao nhất. Hơn nữa sự hạn chế các phương tiện duy trì bộ máy nhà nước cũng góp phần
tăng cường vốn đầu tư kinh doanh (trả lương thấp và hạn chế nhân viên trong cơ quan Nhà
nước), cộng thêm nguồn tích lũy của tư bản nước ngoài, tỷ lệ tích lũy vốn thường xuyên
của giai đoạn 1952 – 1973 khoảng 30 – 35% thu nhập quốc dân. Trong đó, tỷ lệ đầu tư vào
tư bản cố định trong tổng sản phẩm xã hội của Nhật Bản cao. Đây là một trong những nhân
tố quyết định, đảm bảo cho nền kinh tế Nhật phát triển với tốc độ cao. Về sử dụng vốn,
Nhật cũng là một nước sử dụng vốn táo bạo và có hiệu quả. Tại Nhật Bản, nhiều ngân hàng
thương mại chấp nhận cho vay đến 95% tổng số vốn. Biện pháp có phần mạo hiểm này tạo
điều kiện tăng nhanh số vốn chuyển vào sản xuất kinh doanh. Bên cạnh đó, họ còn tập
trung vốn vào những bộ phận những ngành hiệu quả kinh tế cao. Vì thế đây cũng là một
trong những nguyên nhân chính mà trong một thời gian ngắn mà Nhật có thể phát triển một
cách mạnh mẽ.
2.3. Đánh giá nguyên nhân thành công
Sự tăng trưởng với tốc độ cao của nền kinh tế Nhật trong hai thập kỷ 50 và 60 không
thể tách rời bối cảnh thuận lợi chung của nền kinh tế tư bản chủ nghĩa thế giới lúc đó.
2.3.1. Chiến lược con người
Là nước đông dân, đất hẹp, rất nghèo tài nguyên thiên nhiên, Nhật Bản đã biết khai
thác triệt để nguồn tài sản lớn nhất của quốc gia là con người. Đồng thời với chính sách
ngăn chặn nạn bộc phát dân số, Nhật đã thực hiện chính sách thu hút mọi nguồn lao động
dư thừa vào guồng máy sản xuất xã hội. Nhật Bản còn thành công ở chỗ nâng cao trình độ
của người lao động nhờ đó có được đội ngũ công nhân lành nghề, trình độ văn hóa, khoa
học kỹ thuật cao có khả năng thích ứng với sự phát triển của khoa học kĩ thuật hiện đại.
Yếu tố quyết định cho Nhật thành công là biết dùng mọi biện pháp làm cho người
công nhân gắn bó với xí nghiệp, coi xí nghiệp quan trọng hơn cả gia đình của mình.
2.3.2. Chiến lược cơ cấu
Nhân tố con người phát huy hiệu quả sản xuất xã hội đến mức nào lại tùy thuộc vào
sự bố trí cơ cấu kinh tế.
Con đường của Nhật Bản là ưu tiên phát triển khu vực sản xuất lớn hiện đại trên cơ
sở khai thác triệt để mọi nguồn lao động xã hội bằng cách duy trì phát triển khu vực sản
15
xuất kinh doanh nhỏ. Điều này không những giải quyết được vấn đề việc làm thu hút mọi
lao động nhàn rỗi của xã hội vào guồng máy sản xuất mà còn có nhiều mặt tích cực khác
như:
- Huy động triệt để nguồn vốn kể cả nhà cửa và các phương tiện khác của nhân dân
vào sản xuất.
- Năng động nhạy bén trong việc đáp ứng các nhu cầu đa dạng phong phú và chi tiết
của xã hội.
- Tạo điều kiện thuận lợi cho các xí nghiệp lớn phát triển linh hoạt.
Điểm đáng chú ý thứ hai trong chiến lược cơ cấu của Nhật là cơ cấu đầu tư và cơ cấu
ngành kinh tế. Đó là sự tập trung vốn đầu tư vào các bộ phận các ngành mang lại hiệu quả
kinh tế nhanh nhất, cao nhất tạo tiền đề cho sự phát triển mạnh mẽ của toàn bộ nền kinh tế
quốc dân.
Điều đáng chú ý thứ ba là sự bố trí lãnh thổ sản xuất. Tư bản Nhật tập trung cao độ
vốn đầu tư và một số trung tâm công nghiệp phía Đông là Tokyo, Osaka và Nagoya. Nhờ
vậy, Nhật đã phát huy cao độ được hiệu quả vốn đầu tư.
2.3.3. Chiến lược khoa học kỹ thuật
Khi trình độ khoa học kỹ thuật còn lạc hậu so với trình độ quốc tế Nhật đã có chính
sách khuyến khích nhập kỹ thuật tiên tiến để có thể chế tạo ra chính các kỹ thuật đó và sản
phẩm khác có sức cạnh tranh cao hơn. Chính sách nhập kỹ thuật hiện đại đã có ưu tiên đối
với các ngành mũi nhọn có tính chất quyết định sự phát triển nền kinh tế quốc dân.
2.3.4. Chiến lược kinh tế đối ngoại
Xuất khẩu hàng hóa là khâu then chốt của chiến lược kinh tế đối ngoại của Nhật trong
thời gian từ năm 1951 đến năm 1973. Áp dụng chính sách khuyến khích các ngành sản
xuất hàng xuất khẩu, tạo điều kiện thuận lợi cho các ngành này tồn tại và phát triển được
trong điều kiện cạnh tranh khốc liệt trên thị trường thế giới. Nhật coi trọng khâu tổ chức
khai thác thị trường nước ngoài và thông tin những nhu cầu, thị hiếu của người tiêu dùng
nước ngoài cho các hãng sản xuất trong nước.
2.3.5. Quản lý kinh tế vĩ mô
Trong chương trình phát triển kinh tế chính phủ Nhật bao giờ cũng nhấn mạnh các
ngành cần ưu tiên phát triển để huy động sự nỗ lực của cả chính phủ lẫn các xí nghiệp. Đặc
trưng quan hệ giữa Chính phủ với xí nghiệp ở Nhật là chính phủ luôn luôn biểu thị sự quan
tâm đến lợi nhuận của các xí nghiệp, mọi vấn đề đều thông qua đối thoại giữa Chính phủ
và các xí nghiệp, các ý kiến bất đồng đều đi đến thỏa hiệp giải quyết.
3. Những hậu quả kinh tế xã hội của chính sách phát triển với tốc độ cao vì lợi
ích của tư bản độc quyền

16
Tuy giai đoạn 1952 – 1973 quả thật là một giai đoạn phát triển kinh tế “thần kỳ” của
Nhật Bản. Tuy nhiên, bên cạnh những phát triển vượt bậc đó, nền kinh tế công nghiệp và
xã hội hiện đại cũng đã đem lại trong lòng xã hội Nhật Bản những hậu quả không hề nhỏ.
3.1. Mất cân đối nghiêm trọng giữa phát triển công nghiệp và nông nghiệp
Trong khi tập trung đến các mục tiêu tăng trưởng kinh tế, nhà nước đã không chú
trọng đến việc phát triển cân đối giữa nông nghiệp và công nghiệp.
Công nghiệp phát triển mạnh và thu hút lao động ở phía Đông kéo theo sự giảm sút
của các khối ngành nông, lâm, ngư nghiệp ở các hướng còn lại. Do đó, nông nghiệp trở
nên lạc hậu quá xa so với công nghiệp. Ngoài ra, Nhật Bản còn phải đối mặt với sự mất
cân đối trong nền tài chính - tín dụng: nền kinh tế Nhật Bản bị nạn lạm phát uy hiếp nghiêm
trọng. Việc giá cả ngày càng tăng bắt đầu gây hại đến sự tăng trưởng kinh tế.
3.2. Ô nhiễm môi trường và vấn đề an sinh xã hội.
Trong thời gian tăng trưởng nhanh, dân số Nhật Bản tập trung cao độ ở các vùng công
nghiệp trọng điểm phía Đông như Tokyo, Osaka, Nagoya. Khoảng một nửa dân số nước
Nhật phải chen chúc trên 1,25% diện tích cả nước. Trong khi các quận huyện nông thôn
đang mất dần dân số thì các thành thị ngày càng bành trướng ra. Tokyo đã trở thành một
con quái vật khổng lồ với hơn 10 triệu dân chen chúc, có thêm vài triệu nữa ở khu vực
ngoại ô.

Sự tập trung dân cư quá mức đó đã đặt chính quyền trước những vấn đề không thể
kiểm soát, việc ăn ở hay đi lại đều hết sức gay go.
Sự hình thành các khu công nghiệp nặng và mức độ tập trung dân số cao vào một số
trung tâm đô thị và khu kinh tế lớn đã gây nên nạn ô nhiễm môi trường hết sức trầm trọng.
Khói từ các nhà máy, phương tiện giao thông và chất thải công nghiệp xả xuống biển và
các dòng sông đã gây nên tình trạng ô nhiễm nặng nề, đe dọa đến cuộc sống của con người.
Các vấn đề xã hội đó đã gây nên những bất bình của dân chúng với chính sách của chính
phủ. Từ cuối thập kỷ 60, tình trạng ô nhiễm đã trở thành vấn nạn của xã hội. Nhật Bản
được ví như “Quần đảo bị ô nhiễm”.
17
3.3. Mâu thuẫn xã hội gay gắt
Sự phát triển của Nhật chủ yếu dựa trên trình độ tích lũy cao, thế nhưng tích lũy ở
Nhật lại dựa trên việc bóc lột nhân dân lao động, làm cho mâu thuẫn xã hội giữa tư bản
độc quyền và nhân dân lao động ngày càng gay gắt. Tư bản độc quyền không chỉ bóc lột
sức lao động bằng cách trả lương thấp, kéo dài ngày lao động, tăng cường độ lao động,
chúng còn hạn chế mọi phương tiện an toàn lao động, làm cho tai nạn lao động ở Nhật tăng
lên và ở tình trạng nghiêm trọng.
Trước những vấn đề gay gắt về ô nhiễm, tình trạng lao động, mức sống, điều kiện
giáo dục... không chỉ quần chúng lao động mà một số tầng lớp xã hội khác cũng bất bình
với giới chủ tư bản độc quyền chạy theo lợi nhuận, bất chấp lợi ích của nhân dân. Những
đòi hỏi cấp bách của thời kỳ chiến tranh và thời kỳ hậu chiến, đặc biệt là nhu cầu phải dung
dưỡng thị trường chợ đen, đã đưa đến tình trạng sa đọa về đạo đức và thái độ xem thường
luật pháp, chính phủ. Giữa các công ty và bộ máy chính phủ đều có mối quan hệ tài chính
để rồi từ đó tạo ra “Tam giác tham nhũng" ở Nhật Bản gồm ba bộ phận cấu thành: Công ty
độc quyền, Giới quan liêu và Viên chức chính phủ.

3.4. Gây ra một nền kinh tế bấp bênh

18
Trong những năm "thần kỳ", Nhật đã làm giàu nhờ bán hàng hóa sang các nước khác,
nhưng đồng thời cũng xảy ra mâu thuẫn với nhiều nước. Khuynh hướng xuất khẩu ồ ạt của
Nhật đã gây ra bất mãn không ít ở Hoa Kỳ và các nước châu Âu trong những năm vừa
qua. Một làn sóng ghét Nhật, chống phá đã dấy lên và cũng đã có các cuộc tấn công kinh
tế của nước ngoài làm cho Nhật phải choáng váng.
Tính chất bấp bênh của nền kinh tế Nhật còn thể hiện ở sự phụ thuộc gần như hoàn
toàn vào nguyên liệu nước ngoài, ví dụ như dầu thô, than đá, cao su, gỗ, và thực phẩm. Để
có tiền mua những thứ đó, tất nhiên Nhật Bản phải xuất khẩu trên một quy mô rất lớn, và
vấn đề luôn tồn tại là liệu thị trường các nước có đuổi kịp với tốc độ phát triển phi thường
của thị trường Nhật Bản hay không. Đến đầu những năm 70, vấn đề nguyên liệu đã trở
thành một nhân tố kìm hãm sự phát triển của Nhật.

3.5. Xu hướng quân phiệt hóa – một mối đe dọa nghiêm trọng đến sự phát
triển bình thường của nền kinh tế Nhật
Bước vào những năm 70, ở Nhật đã xuất hiện một số nhân tố thúc đẩy và phục hồi
chủ nghĩa quân phiệt ở Nhật. Phục vụ các cuộc chiến tranh xâm lược của Mỹ, bộ phận sản
xuất quân sự của Nhật ngày càng phình to, nền công nghiệp Nhật ngày càng phụ thuộc vào
sản xuất vũ khí. Mở rộng sản xuất quân sự, phục hồi chủ nghĩa quân phiệt là một xu hướng
phát triển rất nguy hiểm đối với nền kinh tế Nhật, đẩy nước Nhật đến những mâu thuẫn và
bế tắc nghiêm trọng hơn, đem lại những tổn thất lớn hơn cho Nhật. Trước hết, khả năng
cạnh tranh về hàng dân dụng của Nhật Bản sẽ bị giảm sút do Nhật dồn vốn vào việc chạy
đua vũ trang, một căn bệnh làm Mỹ khốn đốn lâu nay. Xu hướng này còn đẩy Nhật đến
tình trạng bị cô lập, hạn chế khả năng bành trướng kinh tế của Nhật sang các nước đang
phát triển, đặc biệt là các nước đang phát triển ở châu Á.
Nói tóm lại, hầu hết những vấn đề của sự đô thị hóa trong thế kỷ 20 mà Mỹ và các
quốc gia phương Tây khác đã từng phải đối phó đều xuất hiện đầy đủ ở Nhật Bản, dưới
những hình thức nhiều khi còn tệ hơn nữa.
19
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Lê Văn Sang – Kinh tế Nhật Bản: giai đoạn “thần kỳ”.


2. Vĩnh Sính – Nhật Bản cận đại.
3. Nguyễn Quốc Hùng – Lịch sử Nhật Bản.
4. Edwin O.Reischauer – Nhật Bản, quá khứ và hiện tại.
5. Nguyễn Tiến Lực – Nhật Bản: Những bài học từ lịch sử.

You might also like