Tươi như cánh nhạn lai hồng Trưa một ngày sắp ngả sang đông Thu, bỗng nắng vàng lên rực rỡ Tôi nhìn thấy một cô áo đỏ Tiễn đưa chồng trong nắng vườn hoa Chồng của cô sắp sửa đi xa Cùng đi với nhiều đồng chí nữa Chiếc áo đỏ rực như than lửa Cháy không nguôi trước cảnh chia ly Vườn cây xanh và chiếc nón trắng kia Không giấu nổi tình yêu cô rực cháy Không che được nước mắt cô đã chảy Những giọt long lanh, nóng bỏng, sáng ngời Chảy trên bình minh đang hé giữa làn môi Và rạng đông đã bừng trên nét mặt - Một rạng đông với màu hồng ngọc - Cây si xanh gọi họ đến ngồi Trong bóng rợp của mình, nói tới ngày mai. Ngày mai sẽ là ngày sum họp Đã tỏa sáng những tâm hồn cao đẹp! Nắng vẫn còn ngời trên những mắt lá si Và người chồng ấy đã ra đi . . . Cả vườn hoa đã ngập tròn nắng xế Những cánh hoa đỏ vẫn còn rung nhè nhẹ Gió nói tôi nghe những tiếng thì thào "Khi Tổ quốc cần, họ biết sống xa nhau..." Nhưng tôi biết cái màu đỏ ấy Cái màu đỏ như cái màu đỏ ấy Sẽ là bông hoa chuối đỏ tươi Trên đỉnh dốc cao vẫy gọi đoàn người Sẽ là ánh lửa hồng trên bếp Một làng xa giữa đêm gió rét . . . Nghĩa là màu đỏ ấy theo đi Như không hề có cuộc chia ly. . . "Cuộc chia ly màu đỏ" gần như là một bản tuyên ngôn của tình yêu thời cách mạng, một bài tùy bút bằng hình ảnh và nhạc điệu, khẳng định và cổ xúy cho một quan niệm mới về tình yêu với ba nội hàm của một trật tự luận lý nhất quán: Yêu nhau thắm thiết. Nhưng vì lý tưởng, sẵn sàng hy sinh hạnh phúc. Hy sinh hạnh phúc nhưng trong lòng vẫn thuỷ chung, tình yêu vẫn nguyên vẹn. Có thể nói, đó là cách xử lý mối quan hệ giữa cái chung và cái riêng vốn đã thành một định đề trong văn học cách mạng. Điều đáng nói ở đây là dấu ấn sử thi được tác giả diễn tả nó một cách đây sức sống qua từng chi tiết trong tác phẩm. Dưới ngòi bút của tác giả, những chi tiết đó đã được khác họa làm nổi bật dấu ấn sử thi của “Cuộc chia li màu đỏ”
I. HÌNH TƯỢNG NHÂN VẬT
Cuộc chia ly ấy được diễn ra vào một ngày thu, thời điểm mà xuất hiện hầu hết trong tất cả các tác phẩm của Nguyễn Mĩ. Và đó là một ngày nắng rực rỡ, vô cùng lãng mạn, chẳng hề có chút bi thương đau đớn nào cả. Vô cùng chói mắt! Tuy vậy, “một ngày sắp ngả sang đông” đã nói tiếp lên tâm trạng của hai người họ. Mùa đông tới, gió lạnh ập đến, cũng giống như cảm xúc sắp đông đá của họ. Giữa khung cảnh lạnh giá của thiên nhiên chúng ta thấy được cô gái với chiếc áo đỏ. Cô ấy đang tiễn đưa chồng trong nắng vườn hoa, rõ ràng là cảnh chia ly nhưng lại thật ấm áp, thật mơ mộng. Áo đỏ của cô, sắc vàng của nắng, có lẽ đã át đi nỗi buồn chia xa giữa hai người. Khu vườn ấy ngoại trừ sắc vàng thì còn có “Vườn cây xanh và chiếc nón trắng”, thật sặc sỡ, ấy vậy nhưng vẫn phải lu mờ trước màu đỏ tình yêu “rực cháy” của cô vợ trẻ. Không gian cũng nhuốm màu cảm xúc của nhân vật, “những giọt long lanh, nóng bỏng, sáng ngời” vừa là buồn, vừa là lưu luyến, lại vừa chan chứa hy vọng và niềm tin của cô với người chồng đi xa. Nguyễn Mĩ đã miêu tả khuôn mặt người vợ bằng những từ vô cùng xa lạ: “bình minh”, “rạng đông”. “Bình minh” và “rạng đông” đều là khoảng thời gian sớm nhất trong ngày, và cũng là khoảng thời gian rực rỡ và sáng chói nhất. Tác giả đã dùng biện pháp ẩn dụ để ngầm so sánh nụ cười và sự ngượng ngùng lưu luyến của cô. “Chảy trên bình minh đang hé giữa làn môi” – nụ cười chói mắt rạng rỡ như bình minh ban sáng, nhưng nước mắt vẫn đang rơi. Ta có thể hình dung ra hình ảnh cô gái trẻ dù đau lòng vẫn cố gắng cười tươi trấn an chồng, và bản thân cô cũng đang tự cho mình một hy vọng, hy vọng rằng chồng cô sẽ chiến thắng và bình an trở về. Chính khi cô vui vẻ, có thể thấy rõ nét “rạng đông màu hồng ngọc” trên khuôn mặt còn vương nước mắt, như một sự kiên cường kì dị, và dâng trào niềm tin và hy vọng bên trong ấy.
II. NGÔN NGỮ
Bước vào bài thơ, chúng ta dễ dàng thấy cách sử dụng đại từ nhân xưng ngôi thứ nhất mang dụng ý của tác giả. Với cách sử dụng ngôi thứ nhất, tác giả thoải mái tường thuật lại những gì mình nhìn thấy, nghe thấy và cảm thấy. Từ những tiếp nhận trực giác ấy, Nguyễn Mĩ toàn quyền suy luận mà không sợ bị lạc lõng. Bài thơ là sự nối tiếp, đan cài giữa ba hình thức diễn đạt: Kể, tả và suy tưởng. Ta bắt gặp ở đây một ngôn ngữ kể ngắn gọn, chỉ nhấn mạnh vào những chi tiết cần thiết: Một cô gái mặc áo đỏ, tiễn chồng đi làm nhiệm vụ ở xa, giữa một buổi trưa cuối thu, trong một vườn hoa, cô cầm trong tay một chiếc nón, họ tới ngồi dưới một gốc si xanh, cô gái rơi những giọt nước mắt, nhưng gương mặt thì sáng bừng,... Dẫu sao, đó vẫn là những chi tiết thực và cụ thể, không thể tùy tiện phóng túng, nhưng khi chuyển sang ngôn ngữ tả, và nhất là ngôn ngữ bình dị, có thể nói nhà thơ tín đồ của trường phái lãng mạn cách mạng này đã không ngần ngại tung ra những từ ngữ đẹp đẽ, sáng láng nhất, những hình ảnh rực rỡ, những lý lẽ hùng hồn nhất. Những từ ngữ ấy dường như độc chiếm cả bài thơ, đến nỗi chỉ với một lần đọc chúng ta có thể nhớ rõ. Với khả năng ngôn từ của mình Nguyễn Mĩ đã tình cảm hóa những gì khô cứng và thậm chí vô hồn - từ ánh nắng chan hòa cả vườn hoa, những cánh hoa nhỏ rung nhè nhẹ, còn gió thì cất tiếng thì thào như tiếng thủ thỉ tình tự bên tai người, hay là để nói một điều to tát như một câu khẩu hiệu: "Khi Tổ quốc cần, họ biết sống xa nhau...".
III. KHÔNG GIAN
Cuộc chia ly ấy được diễn ra vào một ngày thu, thời điểm mà xuất hiện hầu hết trong tất cả các tác phẩm của Nguyễn Mĩ. Và đó là một ngày nắng rực rỡ, vô cùng lãng mạn, chẳng hề có chút bi thương đau đớn nào cả. Vô cùng chói mắt! Tuy vậy, “một ngày sắp ngả sang đông” đã nói tiếp lên tâm trạng của hai người họ. Mùa đông tới, gió lạnh ập đến, cũng giống như cảm xúc sắp đông đá của họ. Trong khung cảnh lạnh giá của thiên nhiên chúng ta thấy được cô gái với chiếc áo đỏ. Cô ấy đang tiễn đưa chồng trong nắng vườn hoa, rõ ràng là cảnh chia ly nhưng lại thật ấm áp, thật mơ mộng. Áo đỏ của cô, sắc vàng của nắng, có lẽ đã át đi nỗi buồn chia xa giữa hai người rồi. Khu vườn ấy ngoại trừ sắc vàng thì còn có “Vườn cây xanh và chiếc nón trắng”, thật sặc sỡ, ấy vậy nhưng vẫn phải lu mờ trước màu đỏ tình yêu “rực cháy” của cô vợ trẻ. Tác gia Nguyễn Mỹ đã cho chúng ta thấy một khung cảnh chan chứa màu sắc. Mà màu nào cũng lên hết tông, cũng tột cùng, cũng bừng sáng, không kìm giữ. Như thể một bức họa lớn của một hoạ sĩ dùng cây cọ ngôn từ với những nhát cọ táo bạo, dứt khoát, khoẻ khoắn. Đây là một khu vườn của một ngày thu muộn. Và màu chủ đạo của bức tranh này chính là màu đỏ, một màu đỏ tươi tắn, pha ánh lấp lánh, gợi lên những nét ấm, sáng. Về sau, vào cái lúc xế chiều, đôi vợ chồng trẻ chia tay. Và tựa như hông gian cũng nhuốm màu cảm xúc của nhân vật trữ tình , “những giọt long lanh, nóng bỏng, sáng ngời” vừa là buồn, vừa là lưu luyến, lại vừa chan chứa hy vọng và niềm tin của cô với người chồng đi xa.
IV. KẾT LUẬN
"Cuộc chia ly màu đỏ" gần như là một bản tuyên ngôn của tình yêu thời cách mạng, một bài tùy bút bằng hình ảnh và nhạc điệu. Giữa một khung cảnh lạnh lẽo, đơn độc của mùa đông là một cuộc chia ly thấm đẫm tình cảm của đôi trai tài gái sắc, vừa là nỗi buồn, vừa là sự lưu luyến, tiếc nuối, lại vừa chan chứa hy vọng. Qua việc sử dụng những từ ngữ miêu tả thiên nhiên để diễn tả nhân vật đã để một ấn tượng rất đặc biệt về nhân vật và đồng thời thể hiện người con gái đang trong độ thanh xuân, khoảng thời gian chói sáng rực rỡ và hoài bão nhất của một đời người. Hình tượng nhân vật người con gái kiên cường, cô gái trẻ dù đau lòng vẫn cố gắng cười tươi trấn an chồng, và bản thân cô cũng đang tự cho mình một hy vọng, hy vọng rằng chồng cô sẽ chiến thắng và bình an trở về. (Dấu ấn sử thi) Bài thơ là sự nối tiếp, đan cài giữa ba hình thức diễn đạt: Kể, tả và suy tưởng. Ta bắt gặp ở đây một ngôn ngữ kể ngắn gọn, chỉ nhấn mạnh vào những chi tiết cần thiết. Là một tín đồ của trường phái lãng mạn cách mạng, tác giả đã sử dụng những từ ngữ đẹp đẽ, sáng láng nhất, những hình ảnh rực rỡ, những lý lẽ hùng hồn nhất. Lời kể nhịp nhàng, tỉ mỉ, lặp đi lặp lại để nhấn mạnh đặc điểm cố định của nhân vật, thường xuyên sử dụng.