Professional Documents
Culture Documents
Giáo Trình Tâm Lý Học Nghề Nghiệp - Chương 5
Giáo Trình Tâm Lý Học Nghề Nghiệp - Chương 5
NHỮNG VẤN ĐỀ TÂM LÍ HỌC CỦA VIỆC TỔ CHỨC LAO ĐÔNG NGHỀ
NGHIỆP KHOA HỌC VÀ SỰ THÍCH ỨNG CỦA KHOA HỌC KĨ THUẬT
ĐỐI VỚI CON NGƯỜI
------------------------------------------------------------------------------------
1.1. NHỮNG VẤN ĐỀ TÂM LÍ HỌC CỦA VIỆC TỔ CHỨC LAO ĐỘNG NGHỀ NGHIỆP
KHOA HỌC
5.1.1. TỔ CHỨC LAO ĐỘNG NGHỀ NGHIỆP KHOA HỌC
a. Khái niệm về tổ chức lao động nghề nghiệp khoa học
Tổ chức lao động hợp lý, khoa học là khái niệm ra đời từ khi có học thuyết về tổ chức khoa
học của Fredric Taylor(1868- 1915) trong sản xuất. Taylor là người đầu tiên áp dụng phương pháp
thực nghiệm vào việc tổ chức lao động của con người, áp dụng pương pháp phân tích để hợp lý
hoá các thao tác sản xuất.
Tổ chức quá trình lao động hợp lý, khoa học là làm cho quá trình lao động phù hợp với
những đặc điểm tâm lý của con người. Là hình thức tổ chức lao động dựa vào sự phân tích một
cách khoa học và tỷ mỷ các quá trình lao động, các điều kiện thực hiện quá trình ấy trên cơ sở đó
áp dụng các biện pháp cụ thể dựa vào thành tựu mới của khoa học hiện đại và thành tựu của tâm
lí học vào trong hoạt động lao động, vào thực tế tiên tiến nhằm nâng cao hiệu quả và năng suất lao
động, giảm nhẹ sự nặng nhọc cho người lao động.
Tổ chức lao động nghề nghiệp khoa học được coi là một điều kiện tâm lí quan trọng, đảm
bảo hiệu quả và chất lượng của các quá trình lao động. Vì vậy những vấn đề tâm lí học của nó từ
lâu đã thu hút sự chú ý tìm hiểu, nghiên cứu và giải quyết của các nhà tâm lí học. Công trình của
F.W.Taylor về chia nhỏ các thao tác lao động thành những đơn vị đơn giản để loại bỏ những động
tác thừa được coi là những nghiên cứu đầu tiên.
Mục đích của việc tổ chức lao động khoa học là không ngừng nâng cao năng suất lao động
với sự tiêu tốn ít nhất các phương tiện vật chất và sức lực thần kinh cơ bắp của con người.
b. T©m lý häc tæ chøc lao ®éng khoa häc
Là một ngành của tâm lí học lao động nhằm nghiên cứu những vấn đề tâm lí người lao động trong
quá trình tổ chức lao động khoa học.
5.1. 2. Hoạt động lao động
a. Khái niệm hoạt động lao động
Hoạt động lao động là hoạt động hướng vào việc tạo ra sản phẩm nhất định bằng cách làm biến
đổi đối tượng hoạt động nhằm đáp ứng (thỏa mãn) một nhu cầu nào đó của con người (chủ thể
lao động)
Lao động là hoạt động nhằm mục đích tạo nên sản phẩm vật chất hoặc tinh thần có ích cho
xã hội. Lao động gắn liền với hoạt động nhận thức vì bất kỳ một công việc gì cũng đòi hỏi phải có
hiểu biết và kinh nghiệm. Lao động là hoạt động phụ thuộc vào tính chất của công cụ lao động.
Công cụ lao động do con người tạo ra thành những phương tiện để làm ra sản phẩm khác cho xã
hội. Chính công cụ lao động nói lên trình độ văn minh(trí khôn) của mỗi thời đại. Lao động của
con người vậy là có tính chất xã hội. Hoạt động lao động thể hiện các tính chất cá nhân, đặc điểm
của quá trình tâm lí và các thuộc tính tâm lí của con người. Đồng thời, lao động là phương tiện
chính để hoàn thiện các quá trình ấy và hình thành các tính chất của cá nhân.
Lao động có ý nghĩa quan trọng đối với đời sống con người. Trong xã hội nói chung lao
động là một hoạt động đặc trưng, cơ bản, là phương thức tồn tại của con người. Lao động chẳng
những sản xuất ra của cải vật chất, tinh thần thoả mãn nhu cầu đời sống, đẩy nhanh sự phát triển
của xã hội mà còn thúc đẩy sự phát triển thể chất và tinh thần của con người lao động, với ý nghĩa
ấy ta thấy lao động đã sáng tạo ra chính bản thân con người.. Lao động có ý nghĩa quan trọng đối
với sự hình thành tâm lí, nhân cách của thanh niên, ngoài việc nhàn cư vi bất thiện còn rèn luyện
tính chịu khó, không sợ làm việc vất vả, làm việc có tổ chức, kỷ luật, có kế hoạch.Thông qua lao
động, nhiều điều được học trên lớp, các môn lý thuyết được sáng tỏ hơn, rèn luyện sự khéo léo, tri
thức được củng cố, đào sâu, cụ thể hóa và nâng cao tay nghề, nhờ lao động mà con người nắm
được tri thức, kỹ năng, kỹ xảo, tăng cường được ý chí, hình thành được nhân cách. Nhờ hoạt động
lao động mà tư duy, năng lực, hứng thú của con người phát triển, trí tuệ được phát triển, thế giới
quan được hình thành. Lao động gây nên những tình cảm khác nhau tùy theo điều kiện khách quan
trong đó con người làm việc. Một công việc trí óc hoặc chân tay vừa sức nhằm nhằm một mục
đích chính đáng sẽ ảnh hưởng tốt đến sức khỏe tâm lí của con người, làm cho con người yêu đời,
thanh thản nhằm, tạo cho con người một trạng thái khoan khoái, nâng cao thể trạng của con người.
Hoạt động lao động nghề ngiệp là loại hình lao động đặc thù theo các ngành nghề khác
nhau, được đặc trưng bởi các dấu hiệu về môi trường, đối tượng, tính chất, nội dung, qui trình,
công cụ và sản phẩm lao động nhất định. Hoạt động lao động nghề ngiệp diễn ra rất đa dạng mà
kết quả của nó hoàn toàn tùy thuộc vào đặc điểm nhân cách của chủ thể cũng như tính chất của
công cụ, phương tiện, môi trường vật lý và tâm lí xã hội – nơi diễn ra các quá trình lao động, nội
dung của các hoạt động dạy học lao động mà người lao động đã được đào tạo, đặc tính của nền
kinh tế - văn hóa- xã hội..vv. Hoạt động lao động cụ thể rất đa dạng, phức tạp và được thực hiện
trong khoảng 70.000 nghề khác nhau. Khi thực hiện các nhiệm vụ lao động, chủ thể sẽ phải tiến
hành các hành động định hướng, hành động thực hiện và hành động kiểm tra. Các hành động này
đều phải hướng vào việc tổ chức thực hiện một mục đích xác định trên cơ sở các phương tiện- điều
kiện cụ thể. Thao động tác lao động là phương thức thực hiện hành động lao động được bao gồm
các thao tác trí óc và động tác của giác quan – cơ thể hướng ra ngoài đối tượng lao động, khi sử
dụng các phương tiện – trang thiết bị kỹ thuật xã định. Có các thao tác trí óc khi lao động như phân
tích , tổng hợp , so sánh, khái quát hóa, trừu tượng hóa, cụ thể hóa các nội dung của đối tượng kỹ
thuật, qui trình công nghệ và môi trường sản xuất. Có các động tác tay, tay- chân – cơ thể với máy
móc và động tác tay- máy điều khiển – máy tác nghiệp. Cử động lao động là đơn vị nhỏ nhất của
hành động lao động, được tồn tại với tư cách là đơn vị cấu thành của thao – động tác lao động. Cử
động có vai trò đặc biệt quan trọng trong khi chủ thể nhận thức và tác động vào đối tượng lao
động. Trong lao động có các cử động làm việc dùng để tác động vào đối tượng mà làm biến đổi
nó. Cử động nhận thức được thực hiện nhằm mục đích cảm nhận, sờ nắn, đo kiểm và hiểu biết về
đối tượng. Cử động thích nghi giúp cho chủ thể tự điều chỉnh hành động của mình cho phù hợp
với tính chất của máy móc, công cụ, phương tiện, môi trường lao động…vv. Nội dung đối tượng
của hoạt động được bao gồm động cơ, mục đích, phương tiện vật chất- tinh thần và các điều kiện
tâm- sinh lý của chủ thể, tâm lí – xã hội của nhóm lao động và môi trường vật lý, kinh tế - văn hóa
– xã hội, nơi mà các quá trình lao động sẽ diễn ra.
Mục tiêu đào tạo của nhà trường là làm cho mỗi thanh niên, học sinh trở thành người lao
động kiểu mới có văn hoá, có kiến thức về sản xuất, có sự hiểu biết chắc chắn về kỹ thuật, có sức
khoẻ, những người góp phần làm ra của cải vật chất hoặc tinh thần cho xã hội. Do đó việc giáo
dục lao động sản xuất xã hội, đi vào lao động nghề nghiệp là rất quan trọng. Do con người có vai
trò to lớn trong hoạt động lao động như vậy nên mỗi khi thay đổi môi trường sản xuất người ta đều
phải đặt câu hỏi là sự thay đổi ấy sẽ có ảnh hưởng như thế nào đối với người công nhân. Nếu sự
thay đổi khiến hoạt động của người công nhân quá phức tạp về mặt cấu trúc tâm lí tức là phải hoàn
thành một số lớn các động tác trong một thời gian hạn chế thì nó sẽ làm cho họ bị căng thẳng,
chóng mệt mỏi và phạm nhiều sai lầm. Ngược lại nếu hoạt động lại quá đơn giản tức là lặp đi lặp
lại nhiều lần một hoạt động tác động nghèo nàn, đơn điệu thì sẽ làm cho con người trở nên buồn
chán, mất hứng thú đồng thời cũng mau chóng mệt mỏi. Cả hai trường hợp trên đều làm có tác
dụng giảm năng suất. Do vậy nhiệm vụ quan trọng được đặt ra là phải tìm hiểu, nghiên cứu, khai
thác, phổ biến toàn bộ những thao tác tiên tiến cho công nhân và dự thảo xây dựng các thao tác lao
động mới đem áp dụng chúng rộng rãi trong phạm vi toàn xã hội.
b. Cấu trúc trúc của hoạt động lao động trong nghề nghiệp.
* Hành động. Hành động là đơn vị cơ bản của hoạt động một hoạt động bao gồm nhiều
hành động khác nhau - hành động là một phần của hoạt động. Các lĩnh vực hoạt động khác nhau
thì có những hành động khác nhau. Hành động được tiến hành thực hiện trong lao động thì có hành
động lao động. Hành động lao động đươc coi là tổng hợp các động tác lao động của một hay một
số cơ quan chức năng của cơ thể con người thực hiện không chỉ theo mục đích xác định. Khi thực
hiện hành động bao giờ cũng phải tính đến mục đích và điều kiện cụ thể tức là lựa chọn cân nhắc,
cách thức tiến hành và sử dụng phương tiện để hành động tức là xác định nhiệm vụ để hoàn thành.
Một hành động cụ thể bao gồm ba khâu (ba giai đoạn) chính: Giai đoạn chuẩn bị (định hướng);
Giai đoạn thực hiện; Giai đoạn đánh giá kết quả. Động tác chính là khâu thực hiện của hành động,
sự khác nhau giữa hành động và động tác là khâu định hướng.
+ Giai đoạn chuẩn bị (định hướng). Quá trình này con người có động cơ thúc đẩy và xác
định được mục đích, yêu cầu, phương pháp, phương tiện và các điều kiện chi phối đến quá trình
hoạt động. Ví dụ người thợ mộc phải tiến hành cưa một miếng gỗ theo đường bút chì đã định sẵn.
Khâu định hướng thể hiện ở chỗ phải đặt lưỡi cưa sao cho đúng đường kẻ. Nhờ mắt và cảm giác
cơ bắp, người thợ nhận biết được xem lưỡi cưa đã đặt vào đó có vuông góc không. Còn việc đẩy,
kéo lưỡi cưa chính là khâu thực hiện hành động. Tất nhiên trong quá trình thực hiện có sự điều
chỉnh và kiểm tra động tác. Toàn bộ sự chuẩn bị của hoạt động thể hiện ở việc lập kế hoạch để
thực hiện hoạt động ấy. Nó được hoạch định bởi yếu tố thời gian, không gian để thực hiện nội
dung công việc trong đó có tính đến việc sử dụng cách thức phương pháp và phương tiện con
người, cơ sở vật chất kỹ thuật.
Như vậy khâu thực hiện được thể hiện rõ nét, lộ ngay ra trước mắt còn khâu định hướng
thường gắn với việc tính toán, nhận biết hoàn cảnh xung quanh để giúp cho kế hoạch hóa công
việc cho diễn ra trong đầu mà người ngoài khó có thể quan sát được. Song tính chính xác, tính
đúng đắn, tính thích hợp ở khâu thực hiện lại tùy thuộc vào khâu định hướng. Người công nhân
lành nghề khác với người học việc ở chỗ họ đã thực hiện hành động biết định hướng nhanh theo
hoàn cảnh rồi mới thực hiện các động tác. Đây là một trong những điều kiện cần thiết đảm bảo cho
lao động đạt được năng suất cao mà ít phạm sai lầm.
+ Giai đoạn thực hiện. Là giai đoạn tổ chức triển khai thực hiện và quản lý, điều chỉnh,
giám sát trên thực tế kế hoạch hành động đã được xác định. Tổ chức thực hiện, sắp xếp lực lượng
tham gia thực hiện các quy định, nguyên tắc, tiêu chuẩn và các yếu tố về tâm lí con người thực
hiện việc đó. Dù kế hoạch đã vạch ra đúng, sát thực tiễn, song trong quá trình thực hiện thường có
những sự biến động trong thực tế và tình hình có sự thay đổi thì thường phải điều chỉnh, có thể là
phương thức, phương pháp hay điều kiện thực hiện để phù hợp với tình hình cụ thể khi thực hiện
hoạt động. Đây là giai đoạn quyết định đến chất lượng và hiệu quả của hoạt động để đạt được các
kết quả, sản phẩm mong muốn. Để công việc đúng dự kiến của kế hoạch thì luôn phải kiểm tra
điều hành để đảm bảo nội dung chất lượng tiến độ công việc để đạt mục đích mong muốn.
+ Giai đoạn đánh giá kết quả. Đó là việc xác định giá trị kết quả của hoạt động so với mục
đích ban đầu đặt ra. Khi đánh giá kết quả phải xem xét lại toàn bộ quá trình và kết quả cuối cùng.
Các giai đoạn của cấu trúc hoạt động lao động nói trên có liên quan chặt chẽ với nhau. Định hướng
tốt, thực hiện chính xác, trôi chảy, thuận lợi sẽ tạo điều kiện tốt cho nhận xét và đánh giá hoạt
động. Trong quá trình thực hiện hoạt động, con người luôn có hành động kiểm tra, thông tin ngược
để kịp thời điều chỉnh.
Trong quá trình dạy ở trường nghề và cơ sở sản xuất , giáo viên cần chỉ rõ cho học sinh biết xác
định phần định hướng, phần thực hiện trong hành động lao động nghề nghiệp của người công nhân.
* Thao tác, động tác lao động. Thao động tác là những hành vi riêng rẽ có quan hệ, phối
hợp với nhau theo một trình tự nhất định để tạo thành hành động. Để thực hiện một thao tác có thể
cần hai hay nhiều cử động. Ví dụ, Việc chuẩn bị để gia công một chi tiết máy nào đó được coi là
một hoạt động lao động thì quá trình nghiên cứu bản vẽ, thiết bị, tìm hiểu dụng cụ là hành động
định hướng còn khi gia công để làm ra chi tiết máy là hành động thực hiện. Mỗi hành động cơ bắp
thường được cấu tạo ít nhất từ hai động tác đơn giản như cầm, nắm, dịch chuyển, buông thả. Hành
động lấy cưa, lấy các chi tiết máy, lấy các linh kiện, đưa tay ra theo hướng sư vật hoặc sau đó nắm
cưa vào bàn tay, chuyển về hướng đối tượng tác động lên nó là những động tác lao động. Trong
quá trình lao động, muốn nâng cao năng suất lao động, một trong những yếu tố quan trọng đó là
thực hiện các thao tác cử động nhanh gọn, chính xác.
Thao tác lao động được hiểu là tổng hợp các hành động lao động nhằm đạt được mục đích nhất
định hay nói cụ thể hơn, thao tác lao động là tổng hợp các động tác lao động thực hiện không chỉ
nhằm hoàn thành một bước công việc nhất định. Động tác là phần thực hiện của hành động biểu
hện rõ nét ra ngoài. Khi nói thao tác là là tổng hợp các động tác lao động là muốn nhấn mạnh phần
thực hiện còn phần định hướng của hành động lại được hiểu ngầm và chỉ còn tồn tại trong biểu
tượng, trong suy nghĩ của con người. Các thao tác có sự khác nhau về thành phần cấu trúc, mức
độ phức tạp, khó khăn và sự tiêu hao thời gian để hoàn thành nó. Ở các nghề khác nhau thì thao
tác của lao động cũng khác nhau. Vì vậy trong sản xuất hoặc đào tạo là phải xác định được thao
tác điển hình, đặc trưng riêng của từng nghề, trên cơ sở này mà tiến hành rèn luyện và nâng cao
tay nghề cho học sinh. Những thao tác điển hình, đặc trưng của nghề mộc thường bao gồm việc
cưa, bào, khoan, đục, lắp ráp, đánh bóng. Như vậy người thợ mộc làm một chi tiết hay nhiều chi
tiết, khi gia công đều phải thực hiện các thao tác cơ bản nói trên( bốn thao tác gắn liền với bốn loại
công cụ khác nhau: cưa, bào, đục, giấy ráp). Nếu làm theo dây chuyền công nghệ thì bốn thao tác
này sẽ được công nhân thực hiện trên bốn loại máy. Xét theo góc độ tâm lí học, thao tác luôn gắn
liền với các điều kiện hoặc phương tiện thực hiện hành động hay nói cụ thể hơn, thao tác là phương
pháp sử dụng công cụ lao động.
Các thao tác cơ bản. Trong mỗi lĩnh vực hoạt động đều có thao tác riêng cho lĩnh vực hoạt
động tương ứng như: Thao tác về luyện tập quân sự, thao tác thể thao, nghệ thuật múa; Các thao
tác trí óc: phân tích, tổng hợp, so sánh, diễn dịch, quy nạp, trừu tượng hoá, khái quát hoá...; Trong
các hành động trí óc thường ta gọi các thành phần của nó là thao tác, còn trong các hành động
hướng ra ngoài thì ta gọi nó là các động tác. Trong các hoạt động chân tay (hệ vận động) thường
gọi là động tác. Các thao tác nghề (động tác): dũa kim loại, cắt kim loại, đạp phanh, bóp tay côn,
tắt công tắc...Như vậy các động tác phản ánh một phương thức, phương pháp chuyên biệt. Ví dụ
dũa là một phương thức để thực hiện hành động.
*Động tác lao động trong nghề nghiệp
Theo cấu trúc của hoạt động lao động, những sự vận động ở trường hợp biểu hiện ra ngoài
chủ thể nhờ các cử động của cơ, bắp thịt (hệ vận động của cơ thể người) được gọi là động tác. Ví
dụ: động tác dũa, gá kẹp.. Những động tác thực hiện trong quá trình lao động gọi là động tác lao
động. Nếu không biểu hiện ra ngoài thì ta gọi là thao tác. Ví dụ: các thao tác tư duy.
Như vậy, những thao tác được biểu hiện ra ngoài nhờ các vận động của cơ bắp gọi là động
tác. Động tác lao động là thành phần đơn giản, cơ bản của hành động ở khâu thực hiện hoặc là sự
di chuyển một lần của tứ chi hay thân mình trong quá trình làm việc.Trước động tác còn có các vi
động tác hay gọi là tiểu động tác hoặc cử động. Động tác lao động có vai trò quan trọng trong mọi
dạng hoạt động nghề nghiệp, đặc biệt là các hoạt động sản xuất đòi hỏi độ chính xác cao và sự
phối hợp khéo léo. Máy móc càng phức tạp, tinh vi, càng chuyển động nhanh và có công suất lớn
thì càng nêu ra nhiều yêu cầu cao đối với các động tác do người công nhân điều khiển. Qua nghiên
cứu người ta thấy rằng người thợ dệt trong một ca thực hiện 20.000 động tác, thợ tiện gia công chi
tiết có 15.0000 động tác, người công nhân hái bông mỗi khi hái một nắm bông đưa vào hộp trung
bình phải làm 10 động tác và 50 vi động tác thì một ngày họ sẽ phải thực hiện 600.000 động tác
hay là 9 triệu vi động tác. Số lượng các động tác lao động ở từng nghề sẽ rất khác nhau và có thể
rất lớn. Do vậy năng suất lao động của người công nhân không chỉ tùy thuộc vào việc cải tiến các
phương tiện kỹ thuật mà còn vào việc thực hiện nhanh, chính xác, hợp lý các động tác. Việc xem
thường các yếu tố này trong sản xuất sẽ dẫn người lao động tới những hậu quả đáng tiếc, ví dụ
người công nhân dập phôi khi thực hiện mỗi động tác chỉ cần chậm ½ giây thì một ca bị chậm1/2
giờ và năng suất sẽ giảm 35%. Hình thành và rèn luyện cho người học nghề các động tác lao động
một cách nhanh nhẹn, chính xác và đúng đắn là việc làm cần thiết của dạy tthực hành ở bất cứ
nghề nào.
Căn cứ vào vai trò của động tác đối với mục đích hành động, có các loại động tác sau:
Động tác cơ bản: Động tác chính, cần thiết phải thực hiện trong các hành động để đạt mục
đích;
Động tác phụ: Động tác hỗ trợ, phối hợp cho các động tác cơ bản;Ví dụ: các động tác nâng
đỡ, cầm giữ, giữ thăng bằng.. của tay trái khi thực hiện các động tác chính (gia công, vận hành )
bằng tay phải
Động tác sửa chữa: Động tác loại trừ sự cố, hư hỏng;
Động tác thừa: Động tác gây trở ngại cho các động tác khác, là những động tác không cần
thiết;
Động tác sai lầm: Động tác đi ngược lại với ý muốn và mục đích đã đề ra.
Cử động: Là các thành phần cấu thành của thao tác, động tác. Cử động được coi là đơn vị
nhỏ nhất của hoạt động. Cử động có vai trò đặc biệt trong việc nhận thức và tác động vào đối
tượng lao động. Các thao tác, động tác, cử động ít nội dung tâm lí phức tạp nên dễ được chuyển
vào người máy(Robot). Thông qua các chức năng khác nhau của cử động ta có: Cử động làm
việc(cử động thừa hành) nhằm tác động vào các đối tượng thay đổi nó thông qua phương tiện hoặc
công cụ. Ví dụ các cử động của tay khi vung búa, các cử động, các di chuyển của toàn thân người
và chân tay khi điều khiển máy; Cử động nhận thức thực hiện sự nhận biết, sờ nắn, đo kiểm, cảm
giác của giác quan khác ; Cử động thích nghi để giúp con người điều chỉnh hành động phù hợp
với tác động thế giới bên ngoài và thường là những phản xạ theo bản năng hoặc phản xạ có điều
kiện.Ví dụ: các cử động vung tay để giữ thăng bằng, rụt tay lại khi chạm vào vật nóng, chớp
mắt..vv. Do tính phức tạp và phức hợp của các cử động khi thực hiện hành động nên ranh giới
giữa các cử động không rõ ràng mà thường kết hợp chặt chẽ, tiếp nối và chuyển hóa lẫn nhau.
*Đánh giá và uốn nắn hướng dẫn luyện tập các động tác trong lao động. Trong quá trình
thực hiện các hành động, có thể xuất hiện các động tác thừa hoặc sai lầm do thói quen hoặc do sơ
ý, bất cẩn của người thực hiện. Do đó cần nghiên cứu hợp lý hóa các thao động tác lao động nhằm
tiết kiệm sức lao động, thời gian lao động và nâng cao chất lượng, hiệu quả lao động.
Để thực hiện các hành động, cần phải huấn luyện người lao động thực hiện các thao tác,
động tác cơ bản từ thấp đến cao, từ đơn giản đến phức tạp theo một quy trình nhất định và qua đó
hình thành các kỹ năng, kỹ xảo lao động theo một loại hình công việc, nghề nghiệp nào đó. Quá
trình hướng dẫn và luyện tập các thao, động tác phụ thuộc rất nhiều vào yếu tố khách quan và chủ
quan trong đó dặc biệt lưu ý các đặc điểm của người học về sức khỏe, thể lực, các đặc điểm tâm –
sinh lý và các thói quen đã định hình từ trước của người học. Trước hết phải chú ý hai yếu tố
Về mặt sinh lý: Căn cứ vào thể lực để đánh giá độ mạnh, tính bền vững, chính xác, nhịp
độ, tốc độ của động tác. Thể lực của học sinh khác nhau cho nên có sự khác nhau khi tiến hành
động tác. Thể lực tốt tiến hành các động tác bền vững, mạnh, chính xác, nhịp độ, tốc độ đảm bảo.
Các em yếu sức thường kém chính xác và khi tiến hành thường phải có sự gắng sức và do đó nhanh
mệt mỏi và trong đó phải có sự nỗ lực ý chí.
Về mặt tâm lí: Trước hết căn cứ vào trạng thái tâm lí, sự phân phối chú ý đều hay không
đều vào tất cả các đối tượng lao động. Trong luyện tập thường xuất hiện những động tác sai lệch,
không chuẩn. Nguyên nhân do: Không rõ mục đích, yêu cầu của hành động, động tác; Không hiểu
trình tự tiến hành và các đặc điểm động tác, thiếu tri thức và kỹ năng, kỹ xảo cần thiết; Thiếu tin
tưởng vào khả năng của mình, lo âu với công việc; Thờ ơ, chủ quan, coi thường công việc, không
chú ý vào việc; Do sự giao thoa của kỹ xảo; Sự mệt mỏi của cơ thể và tâm lí; Khi phát hiện sai
lầm của học sinh, giáo viên phải tìm ra nguyên nhân, biện pháp khắc phục.
Tùy theo các nguyên nhân kể trên mà giáo viên cần có các biện pháp khắc phục, hạn chế
những động tác sai của người học. Trong đó chú ý: Giải thích và chỉ ra những sai lầm; Làm mẫu,
kèm phân tích, giải thích; Cho học sinh làm lại, chậm, chắc chắn và tăng dần tốc độ, nhịp độ, có
sự theo dõi, giám sát của giáo viên.
1.1.3. Hệ tâm lí vận động (hệ tâm vận)
a. Hệ tâm lí vận động.
Hệ tâm vận (tâm lí vận động ) là quá trình khái quát hoá hoạt động tâm lí, xét về mặt biểu
hiện của hành động bắp thịt mà nó chi phối. Các hiện tượng tâm lí không tách rời với hoạt động
nhưng cũng có những hoạt động không gắn liền với nó (rùng mình vì lạnh, ngủ gật, giật mình khi
nghe tiếng động bất ngờ, giật chân khi gõ vào đầu gối.. ).Thông thường đây là những phản xạ (vận
động) theo bản năng hoặc phản xạ không điều kiện. Nhìn chung, mỗi vận động trong hoạt động
lao động đều là sự biểu hiện của tâm lí vận động.
Trong khi lao động, toàn bộ các hoạt động tâm lí của chủ thể sẽ được diễn ra nhằm tổ chức,
định hướng, điều khiển, điều chỉnh kiể tra, đánh giá và hiệu chỉnh mọi hành vi, cử động, thao động
tác của họ. Để hiểu rõ nhiệm vụ lao động, tính chất của đối tượng, công cụ, phương tiện, điều kiện
làm việc cũng như tình trạng của máy ở chủ thể phải có hoạt động nhận thức.. Vì vậy, trong lao
động họ phải tiến hành các hoạt động nhận cảm, tri giác, biểu tượng, tư duy và tưởng tượng về đối
tượng, cũng như quá trình sản xuất khi dựa trên các phương tiện chú ý, trí nhớ, ngôn ngữ kỹ thuật.
Trong quá trình lao động, các thành phần tâm lí của xúc cảm- tình cảm sẽ có tác dụng kích thích
hoạt động và ý chí sẽ tiến hành chuẩn bị ý thức cho việc thực hiện hành động, thao động tác cũng
như các cử động của chủ thể. Cùng với sự diễn biến của các hiện tượng tâm lí đó, toàn bộ các
thuộc tính của nhân cách cũng như xu hướng, tính cách, khí chất, năng lực và các đặc tính chung
của hoạt động- giao tiếp của chủ thể sẽ được sống động, hiện thực ra trong tiến trình họ giải quyết
các nhiệm vụ lao động. Chính điều này đã tạo nên hệ tâm lí vận động(còn gọi là hệ tâm lí động
tác). Như vậy, hệ tâm lí vận động được hiểu là sự liên hệ giữa các hiện tượng tâm lí với các vận
động và hoạt động của con người.
Hoạt động của con người bao giờ cũng có sự kết hợp chặt chẽ và tác động qua lại giữa các
vận động cơ thể và các quá trình tâm lí, trạng thái tâm lí và các thuộc tính cá nhân. Hoạt động
thường được biểu hiện ra ngoài bằng các hiện tượng tâm lí, các vận động, hành vi tương ứng
(thông qua các quá trình tâm vận, ý và cảm vận ). Hệ tâm vận hay tâm lý động tác được hiểu là
cái tâm lí ở bên trong luôn được biểu hiện ra bên ngoài của chủ thể. Mọi hoạt động, hành động,
thao động tác và cử động lao động của chủ thể sẽ được coi là nơi vận hành, biểu hiện của đời sống
tâm lí của chủ thể với các thành phần của hoạt động đối tượng cảm tính. Vì vậy, bằng mắt thường
chúng ta sẽ nhìn thấy các biểu hiện của hoạt động, hành động, thao động tác và cử động lao động,
còn nội dung tâm lí của nó chỉ được nhận biết thông qua chính các hoạt động tư duy cũng như
tưởng tượng tích cực, sáng tạo của chủ thể.
b. Các quá trình cảm giác vận động (Phản ứng cảm vận)
* Cảm giác vận động. Quá trình chủ thể lao động tiến hành nhận cảm và tri giác đối tượng,
trên cơ sở đó phân tích, lựa chọn thông tin, phan tích các tín hiệu kích thích để đưa ra các quyết
định ở trong đầu và cuối cùng là thực hiện một vận động (động tác nào đó) để đáp lại các tác động
của đối tượng gọi là quá trình cảm giác vận động (phản ứng cảm vận). Hay nói cách khác là sự
nhận biết về mặt cảm giác và tri giác xảy ra trong quá trình thực hiện một hành động nào đó.
* Các khâu của quá trình cảm giác vận động. Bất cứ cảm giác vận động nào cũng có các
khâu chính: Khâu cảm giác nhận kích thích(Cảm giác), nhận kích thích khi tri giác các đối tượng;
Khâu phân tích, tổng hợp kết quả của tri giác và ra quyết định cho cơ quan vận động ở não(Trung
ương); Khâu vận động (diễn biến của động tác) của các cơ quan phản ứng đáp lại tác nhân kích
thích của môi trường; Liên hệ ngược: Điều chỉnh động tác bằng cảm giác. Một quá trình cảm vận
được diễn ra ra theo các khâu cơ bản: cảm nhận đối tượng khi tri giác nó, phân tích – tổng hợp các
kết quả tri giác, đưa ra quyết định thực hiện hành động ngay ở trong vỏ não và vận động nhằm đáp
lại các kích thích của môi trường, của các giác quan. Về mặt sinh lý học, các phản ứng cảm giác
vận động là những phản xạ có điều kiện, có thể là một cung phản xạ hay các vòng phản xạ xảy ra
nối tiếp nhau cho đến khi hoàn thành.
* Phân loại. Tùy theo sự phức tạp của tri giác và động tác được tiến hành và mối liên hệ
giữa chúng, tâm lí học chia cảm giác vận động ra làm ba nhóm:
- Phản ứng cảm vận (cảm giác vận động) đơn giản: Là sự đáp ứng càng nhanh càng tốt
bằng một hành động đơn giản, riêng rẽ nhất định đối với một tín hiệu xuất hiện bất ngờ nhưng ta
đã biết trước.
- Phản ứng cảm vận (cảm giác vận động) phức tạp: Thường diễn ra chậm hơn so với phản
ứng cảm vận đơn giản, phải có sự chế biến lại hình ảnh của tri giác (việc phân biệt tác nhân kích
thích, lựa chọn một động tác cần thiết trong nhiều động tác có thể có, chuyển đổi ý nghĩa của các
tín hiệu).
- Sự phối hợp cảm giác vận động(cảm giác vận động tổ hợp): Xảy ra khi vật kích thích và
sự thực hiện các động tác có tính chất cơ động. Ví dụ: Người lái xe đang vận hành một chiếc xe
chạy trên đường, người lái xe phải sử dụng tất cả các giác quan để quan sát (tri giác) tất cả những
gì trên mặt đường và vùng ven, tri giác đẻ phân biệt được tất cả những gì ở các các đòng hồ báo
hệ thống tín hiệu trong buồng lái, nghe các tiếng động, âm thanh( tiếng động cơ, va đập, của bánh
xe trên mặt đường ..) và các cảm giác tiếp xúc giữa tay lái vào vô lăng, bàn chân với các bàn đạp
côn, ga, phanh..vv. Tất cả các cảm giác trên đều có tín hiệu truyền về vỏ não và lập tức được bộ
não phân tích, tổng hợp ra các quyết định xử lý cần thiết (quay vòng lái), thực hiện các phản ứng
đáp lại thích hợp (điều chỉnh tay lái, đạp phanh, nhấn ga…) để xe chạy an toàn và theo ý muốn.
Đó chính là tổ hợp phản ứng cảm giác vận động của người lái xe.
* Các phẩm chất của phản ứng cảm giác vận động. Phẩm chất các phản ứng cảu quá trình
cảm giác vận động được xem xét thông qua các chỉ số cơ bản:
-Thời gian của phản ứng: Được tính từ khi xuất hiện kích thích thu hút sự chú ý đến khi
có tri giác. Thời gian thực hiện phản ứng tính từ khi bắt đầu đến khi kết thúc vận động phản ứng;
Thời gian tổng cộng của phản ứng bằng tổng hai thời gian trên. Thời gian phản ứng là phẩm chất
quan trọng đối với hoạt động, nó đảm bảo thời cơ, thời điểm để quyết định chất lượng và hiệu quả
phản ứng. Nó thể hiện sự nhanh nhạy của các giác quan và hoạt động của hệ thần kinh trung ương
và hệ vận động của cơ thể, qua đó bảo đảm sự kịp thời, chính xác, chất lượng và hiệu quả của các
phản ứng cảm giác vận động. Ví dụ: Khi phanh xe cho xe đỗ kịp thời, đúng thời điểm, đúng vị trí
thể hiện phẩm chất phản ứng cảm giác vận động của người lái xe. Nhanh hay chậm quá đều hỏng
việc.
- Độ chính xác của phản ứng: Phản ứng chính xác là thực hiện các phản ứng cảm giác vận
động một cách thành thục, chính xác phù hợp với yêu cầu và tình huống cũng như các điều qui
định đặt ra. Độ chính xác của phản ứng được xác định dựa theo kết quả cuối cùng của phản ứng,
bản thân các động tác và sự phối hợp của chúng trong quá trình xảy ra phản ứng. Muốn phản ứng
chính xác cần thực hiện tốt và chuẩn xác các khâu của quá trình cảm giác vận động (khâu đầu và
khâu thứ hai của quá trình cảm giác vận động) từ cảm giác nhận kích thích, tri giác đối tượng, phân
tích - tổng hợp các tín hiệu và ra quyết định xử lý tình huống. Vậy cần tri giác đúng, phân tích, lựa
chọn và quyết định đúng đắn.
- Mức ổn định và tính khả biến của phản ứng:
Mức ổn định: Nếu phản ứng được lặp lại nhiều lần theo một qui trình xác định thì các phẩm
chất của phản ứng đó tương đối ổn định hoặc thay đổi hầu như rất ít. Khi đó các phản ứng trở
thành thói quen, hoàn thiện với mức tự động hóa cao. Các cảm ứng vận động được thực hiện tức
thời, chuẩn xác không cần sự kiểm soát chặt chẽ của ý thức (kỹ xảo). Phản ứng đạt đến mức đỉnh,
mức hoàn thiện, mức ổn định.
Tính khả biến (khả năng biến đổi của phản ứng): Ngược lại, tính khả biến của phản ứng
cũng thể hiện rõ trong luyện tập. Thông qua đó, muốn có sự tăng lên, tiến bộ nữa hoàn thiện thêm
nữa thì người ta cũng có thể thay đổi được phản ứng đó. Nghĩa là có thể thay đổi được các phẩm
chất của phản ứng. Phản ứng có thể bị phá vỡ, thay đổi khi luyện tập nâng cao trình độ, mức hoàn
thiện của quá trình cảm giác vận động, xảy ra khi phản ứng đã ổn định. Độ ổn định và khả biến là
hai mặt thống nhất, nhờ nó mà người ta có thể thích nghi với những tác động phức tạp của môi
trường xung quanh.
- Sự phối hợp các động tác của phản ứng cảm vận: Trong thực tế khi xử lý một tình huống
phức tạp, con người phải thực hiện liên tiếp nhiều phản ứng vận động khác nhau. Sự phối hợp các
động tác trong quá trình thực hiện các phản ứng cảm giác vận động biểu hiện ở sự khéo léo,ăn
khớp, nhịp nhàng và linh hoạt của một hành động. Ví dụ: người lái xe phải phối hợp các động tác,
điều khiển vô lăng, chân đạp ga, phanh, sang số..vv. nhất thiết phải có sự ăn khớp và khéo léo đạt
đến mức thành thạo. Nói chung các phẩm chất này không tách rời nhau, mà có mối quan hệ chặt
chẽ, tác động qua lại và hỗ trợ lẫn nhau. Quá trình hoàn thiện một phẩm chất nào đó cũng đồng
thời là quá trình rèn luyện các phẩm chất liên quan để đạt được sự phối hợp chặt chẽ, hài hòa và
chính xác giữa chúng.
1.1.4. Hiện tượng ý vận – Quá trình ý vận
a. Hiện tượng ý vận
Là hiện tượng tâm lí thể hiện sự tác động qua lại và mối liên hệ giữa các động tác lao động
cũng như các hình ảnh của động tác ấy mà ta hình dung ra, làm cho ta có ý thức và cảm xúc về
chúng.Ví dụ Người lái xe khi qua đèo Hải Vân đã hình dung ra sự nguy hiểm là có thể lăn xuống
vực, anh ta lo lắng, hình ảnh đó ám ảnh người lái xe, hình ảnh chiếc xe lao xuống vực tạo biểu
tượng trong đầu có thể ám ảnh, xui khiến người lái xe hành động theo, khiến cho xe lao xuống
vực. Trong quá trình lao động sẽ luôn được biểu hiện ra sư gắn bó hữu cơ giữa các hoạt động tâm
lí của chủ thể với các động tác lao động. Khi ấy trong não của chủ thể cùng một lúc có thể xuất
hiện các biểu tượng, cảm xúc, ý thức chủ quan về động tác lao động sẽ phải diễn ra trong thực tế.
Những hiện tượng tâm lí làm nảy sinh ra cái ý chủ quan của chủ thể, có tác dụng tích cực hoặc tiêu
cực cho việc thực hiện động tác lao động được gọi là quá trình ý vận. Như vậy, thực chất của quá
trình ý vận là: Động tác ta hình dung, các hình ảnh, động tác suy tưởng; Các cảm xúc về chúng, ý
thức về chúng; Các động tác lao động sẽ gây ra trong thực tế. Do đó quá trình ý vận được gọi là
quá trình tâm lí gắn liền với động tác lao động.
b. Vai trò của quá trình ý vận. Quá trình ý vận có vai trò tích cực hoặc tiêu cực đối với
việc thực hiện động tác. Nếu hình ảnh của động tác, các biểu tượng và các thao tác được xây dựng
một cách chính xác, con người có cảm xúc tích cực như phấn khởi, tự tin và ý thức đúng đắn, gây
hưng phấn, hình dung ra những hình ảnh, biểu tượng đẹp về các động tác sẽ làm thì quá trình ý
vận bao giờ cũng giúp con người thực hiện vận động một cách tốt đẹp. Nếu hình ảnh của động tác
được xây dựng dẫn đến sự thất bại của hành động, cảm xúc tiêu cực phát sinh (quá lo lắng, sợ
hãi,...) và con người không tin vào khả năng của mình thì hành động không đạt mục đích. Trường
hợp này vai trò của giáo dục ý chí, nghị lực có tác dụng to lớn. Trong dạy thực hành giáo viên cần
phải biết thông hiểu tâm lí học sinh, hướng dẫn chu đáo, kiểm tra sát sao, động viên khích lệ kịp
thời, không gây ức chế hoặc có những tác động tiêu cực của quá trình ý vận.
c. Một số biện pháp chống lại hiện tượng ý vận theo chiều hướng tiêu cực
+ Khi quá trình ý vận có thể làm cho hoạt động bị phá vỡ, giáo viên cần chú ý: Giải thích
cho học sinh hiểu thật rõ mục đích, yêu cầu của công việc phải thực hiện;Thông qua làm mẫu thật
chu đáo, rõ nét, giảng giải để học sinh có biểu tượng đúng; Khi thực hiện những động tác nguy
hiểm, không nên nhấn mạnh quá mức các yếu tố gây nguy hiểm; Giáo viên cần kiểm tra thường
xuyên việc nắm vững các thao động tác của học sinh để phát hiện kịp thời các sai sót (đặc biệt các
công việc nguy hiểm); Chú ý tới đặc điểm tâm lí đối tượng, tạo cho học sinh sự bình tĩnh, tự tin;
+ Khi quá trình ý vận đã gây ra hỏng việc thì khi nhận xét công việc luyện tập, không nên
tạo ra trạng thái căng thẳng cho học sinh, không quá nhấn mạnh, không nói nhiều về độ nguy hiểm
và ảnh hưởng của nó; Động viên, củng cố lòng tự tin ở học sinh vào công việc của mình; Giúp học
sinh hình dung lại đúng đắn các động tác cần luyện tập; Nghiên cứu kỹ các sai lầm, nguyên nhân
xảy ra ở học sinh và đề ra biện pháp khắc phục một cách tỷ mỷ
1.1.5. Nội dung tâm lí cơ bản về tổ chức lao động nghề nghiệp khoa học:
Hiện nay người ta đã thừa nhận rằng năng suất lao động phụ thuộc rất nhiều vào tâm lí của người
lao động. Quá trình lao động chịu ảnh hưởng tới tâm lí chung của tập thể lao động bởi vì trong
quá trình lao lộng người ta luôn luôn có sự liên hệ, hợp tác với nhau để cùng nhau hoàn thành
nhiệm vụ.Muốn tổ chức tốt quá trình lao động phải giải quyết tốt các vấn đề: Phân công lao động
; Xây dựng chế độ làm việc nghỉ ngơi hợp lý; Cải thiện các điều kiện lao động.
Bao gồm những vấn đề cụ thể:
- Đảm bảo sự liên hệ giữa lao động trí óc và lao động chân tay, lao động có kế hoạch xác
định
- Thực hiện sự phân công, hợp tác lao động có khoa học và quản lý lao động bằng tư duy
lý luận.
- Cải tiến các tư thế, thao động tác, chế tạo và cải tiến mới công cụ, phương tiện kỹ thuật,
máy móc mới cho phù hợp với con người cũng như yêu cầu của lao động.
- Thực hiện việc định mức chế độ lao động và nghỉ ngơi hợp lý.
- Thực hiện mọi tác động vệ sinh và thẩm mỹ trong lao động.
- Xây dựng không gian và thời gian cho lao động.
- Xây dựng chế độ làm việc hợp lý, đấu tranh chống mệt mỏi và đảm bảo an toàn lao động.
Để gải quyết được những vấn đề đó tâm lí học tổ chức lao động nghề nghiệp khoa học phải đi vào
tìm hiểu Không khí tâm lí của các nhóm - tập thể những người lao động trong quá trình lao động;
Môi trường lao động và ảnh hưởng của nó đến con người lao động; Phân công lao động; Chế độ
lao động và nghỉ ngơi (cường độ lao động, thời gian lao động, thời gian nghỉ ngơi, sự mệt mỏi);
Sự sáng tạo trong lao động.
a. Bầu không khí tâm lí
* Khái niệm bầu không khí tâm lí : Là những biểu hiện tính chất của những mối quan hệ
qua lại giữa người với người xác định nên tâm trạng cơ bản của tập thể, trạng thái tình cảm tế nhị,
tích cực, điển hình cho một tập thể, trong một nhóm lao động nhất định.
Bầu không khí tâm lí chính là những biểu hiện trong mối quan hệ giữa người - người và
trong thái độ của mọi người đối với lao động ở tập thể lao động. Ở các tập thể lao động khác nhau
bầu không khí không giống nhau. Ở mỗi tập thể lao động, bầu không khí tâm lí luôn biến đổi, phụ
thuộc vào tâm lí của từng thành viên, vào công việc của họ và các điều kiện xã hội cũng như các
điều kiện xung quanh. Bầu không khí tâm lí của nhóm – tập thể lao động có tác dụng qui định tính
chất của cuộc sống, hoạt động và giao tiếp của mọi thành viên. Bầu không khí tâm lí được biểu
hiện ở hai mặt đối lập nhau là tích cực và tiêu cực. Do đó có hai loại bầu không khí tâm lí chủ yếu:
Không khí tâm lí lành mạnh (tích cực); Không khí tâm lí không lành mạnh (tiêu cực). Sự khác
nhau của 2 loại trên phụ thuộc chủ yếu vào các yếu tố: tinh thần tập thể(ý thức nhóm); sự phù hợp
tâm lí (sự tương đồng tâm lí); tâm trạng tập thể (nhóm).
Trong cấu trúc bầu không khí tâm lí có tâm lí cá nhân, tâm lí – xã hội. Các thành phần tâm
lí như tinh thần tập thể, ý thức nhóm, sự tương hợp tâm lí, tâm trạng chung của mọi người sẽ được
vận động trong mối quan hệ qua lại với nhau để tạo ra bầu không khí tâm lí của nhóm – tập thể lao
động.
* Biểu hiện của bầu không khí tâm lí:
+ Tinh thần tập thể: Là sự đoàn kết nhất trí của con người với những mục đích phát triển
xã hội, được biểu hiện ở tính tích cực trong hoạt động xã hội và lao động; Tinh thần trách nhiệm
và nghĩa vụ đối với công việc chung; Tính yêu cầu cao đối với mình và đối với người khác thái độ
trách nhiệm – nghĩa vụ, sự đoàn kết – tương trợ - giúp đỡ nhau nên yêu cầu cao đối với mình và
mọi người khi thực hiện nhiệm vụ lao động. Cơ sở tâm lí của sự tương hợp là sự đồng nhất tâm
tâm trạng, xu hướng, tính cách, khí chất, tình cảm, ý chí và nhận thức của chủ thể đối với đối
tượng. Quá trình lao động và tính chất của dư luận, truyền thống, bầu không khí tâm lí sẽ có sự tác
động qua lại với nhau để qui định sự hình thành của tâm trạng tập thể. Một khi đã hình thành tâm
trạng tập thể sẽ được biểu hiện ở khí thế hào hứng hay không, sự thuận hòa đồng cảm- thiện cảm
hay xích mích- lạnh lùng- ác cảm, sự sảng khoái- hồ hởi hay nặng nề, buồn tẻ, thỏa mãn hay không
thỏa mãn với công việc.
+ Sự phù hợp tâm lí (tương hợp): Là sự tác động tương hỗ giữa các phẩm chất tâm lí cá
nhân của các thành viên tạo nên sự nhất trí trong quan hệ giữa người - người để thực hiện mục
đích đã định. Hay nói cách khác là sự giao tiếp qua lại giữa các phẩm chất tâm lí cá nhân của các
thành viên, tạo nên sự nhất trí, đồng cảm của họ trong lao động và đời sống. Đảm bảo cho sự phát
triển của sự nghiệp chung và sự thoả mãn của cá nhân về công việc.
Sự phù hợp tâm lí phụ thuộc vào các yếu tố: Xu hướng nhân cách, tính cách, khí chất, tình cảm ý
chí và tri thức(trình độ nhận thức), Sự thống nhất về quan điểm, niềm tin; Đặc điểm tính cách của
các thành viên; Nghĩa là trong lao động họ có cùng chung hay giống nhau về các phẩm chất tâm
lí đồng nhất nào đó. Ví dụ, yêu lao động, tinh thần trách nhiệm với công việc, biết tạo điều kiện
cho người khác, tôn trọng lẫn nhau, cùng hợp tác ..vv. Nơi nào có sự phù hợp, tương đồng tâm lí,
nơi đó thường có bầu không khí tâm lí hòa thuận, không có sự xung đột để ý hoặc trù úm lẫn nhau
và như thế công việc bao giờ cũng trôi chảy hơn.
+Tâm trạng tập thể:Trạng thái cảm xúc chung của các thành viên trong tập thể, được biểu
hiện: Có hào hứng làm việc hay không; Thiện cảm hay ác cảm, hoà thuận hay xích mích; Sảng
khoái, hồ hởi hay nặng nề, buồn tẻ; Sự thoả mãn hay không thoả mãn đối với công việc. Tâm trạng
tập thể lành mạnh có ảnh hưởng rất tích cực đến các cá nhân và ngược lại, cá nhân cũng gây cho
tập thể một tâm trạng nhất định.
*Vấn đề hình thành bầu không khí tâm lí của nhóm và tập thể lao động
Không khí tâm lí tốt đẹp trong một tập thể sản xuất có vai trò hết sức quan trọng giúp cho
người lao động hăng say lao động hơn. Để hình thành được bầu không khí tâm lí tích cực trong
nhóm và tập thể lao động cần thiết phải chú ý những vấn đề sau:
+ Giáo dục tính hòa nhập, sự thống nhất tâm trạng lao động cho mọi người. Ý thức gìn giữ
mối quan hệ tốt với nhau giữa người với người, từ đó trong tập thể có sự hoà đồng tư tưởng, tình
cảm, ý chí, nghị lực. . . Sự xúc động tập thể là hiện tượng đồng nhất trạng thái xúc cảm của những
người trong cùng một đơn vị sản xuất. Nhờ sự hoà đồng xúc cảm: họ cùng nhau vui mừng trước
những thành tích đạt được của mọi người, trước sự tiến bộ trong sản xuất của tập thể, cùng nhau
lo lắng trước những khó khăn.
+ Hình thành nhận thức đúng về mối quan hệ liên nhân cách trong lao động, có thái độ
đúng đắn và ý chí tạo lập bầu không khí tâm lí tích cực. Có được một dư luận tập thể lành mạnh,
tác động đến tư tưởng tình cảm, ý chí của từng thành viên trong tập thể. (Dư luận tập thể là những
phán đoán thống nhất về mặt nội dung có trong tập thể trước những sự kiện xã hội, trước đời sống
sinh hoạt của tập thể đó.) Dư luận tập thể lành mạnh nó sẽ động viên mọi cá nhân hăng hái tích
cực trước nhiệm vụ mà tập thể giao cho. Những lời bàn tán, dị nghị với dụng ý thiếu xây dựng sẽ
bị dư luận tập thể tốt đẹp gạt bỏ.
+ Không khí tâm lí tốt đẹp trong tập thể còn được thể hiện ở phong trào thi đua, tác phong
bắt chước lẫn nhau trong tập thể.
b. Môi trường lao động
* Khái niệm về môi trường lao động. Môi trường lao động được hiểu là tất cả các yếu tố tự
nhiên và xã hội bên ngoài (khách quan) có ảnh hưởng trực tiếp đến quá trình lao động và người
lao động.
Có hai loại môi trường: Môi trường tự nhiên và môi trường xã hội.
+ Môi trường tự nhiên bao gồm: Nhiệt độ, độ ẩm, áp suất, lưu không khí; Ánh sáng, bức
xạ, hồng tử -ngoại, phóng xạ; Sự rung động, sự ồn ào, bụi bẩn vi khuẩn, chất độc; Màu sắc, âm
thanh, sự cô độc...vv. Để đảm bảo hiệu quả và chất lượng của lao động, người ta phải quan tâm
đến việc giải quyết một cách khoa học vấn đề chiếu sáng, khí hậu, bố trí màu sắc – âm thanh nơi
làm việc, có biện pháp chống ồn – bụi, sự rung và tác động tiêu cực, độc hại của môi trường đến
con người cũng như tiến trình lao đọng của họ bằng những biện pháp nhất định.
+ Môi trường xã hội được bao gồm những yếu tố về quan hệ giữa người – người – nhóm,
tập thể lao động cũng như qua hệ quản lý giữa những người lãnh đạo với cán bộ kỹ thuật và công
nhân. Môi trường xã hội là tổ hợp các yếu tố trong qua hệ xã hội (quan hệ giữa người với người
trong lao động) có ảnh hưởng đến người lao động. Bao gồm: Hình thái kinh tế xã hội;. Giai cấp;
Tập thể.
* Ảnh hưởng của các yếu tố môi trường đến quá trình lao động
+ Chiếu sáng nơi làm việc. Ánh sáng là một trong những yếu tố được coi là có ảnh hưởng
đến sự tiếp nhận tối ưu các thông tin đi đến bằng kênh thị giác. Con người định hướng ra môi
trường xung quanh mình bằng các giác quan của cơ thể trong đó khoảng 85%- 90% thông qua thị
giác. Do đó ánh sáng đủ để nhìn được là yếu tố quan trọng.
Nếu thiếu ánh sáng con người làm việc rất mệt, bị ức chế. Bởi vì, mắt phải luôn điều tiết
để nhìn cho rõ, cơ mắt thường xuyên phải hoạt động con người phải tập trung chú ý nên thần kinh
rất căng thẳng hoặc mắc các bệnh về mắt: cận thị. Nếu ánh sáng quá mạnh gây nên chói mắt, nhức
mắt, có khi làm thị giác bị rối loạn (rối loạn thị giác). Khi một nguồn ánh sáng có độ chói quá
mạnh thì mắt không thể thích nghi được và có thể bị mù hoàn toàn. Hiện tượng chói lóa có thể là
trực tiếp hoặc gián tiếp khi do sự phảnr chiếu lên những thiết diện phản quang mà chủ yếu là bằng
kim loại. Hiệu quả của hiện tượng chói đã gây ra ở công nhân sự mệt mỏi về thị giác và cảm giác
không thoải moái trong khi làm việc. Đối với nguồn ánh sáng chói trực tiếp có thể khắc phục bằng
cách làm giảm cường độ chiếu sáng, chuyển các nguồn chiếu sáng ra ngoài vùng thị giác, dùng
các lưới chụp, sử dụng các màn hình..vv. Việc giảm nguồn ánh sáng chói gián tiếp có khó khăn
hơn nhưng có thể làm được bằng cách che phủ các mặt phản quang hoặc thậm chí có thể thay đổi
nguồn chiếu sáng nếu cần thiết.
Tùy theo mức độ khó khăn của nhiệm vụ lao động, thực hiện các thao tác (lắp ráp tinh vi
hay những hoạt động thô) có thể có các mức độ chiếu sáng khác nhau với những giới hạn tối đa
cho phép đối với từng công việc lao động cụ thể. Như vậy, ánh sáng yếu quá hoặc mạnh quá đều
làm cho con người bị ức chế gây tâm trạng khó chịu tạo nên sự tổn hao năng lượng không cần
thiết. Do đó cần đảm bảo ánh sáng có cường độ thích hợp, chọn nguồn sáng tự nhiên và nhân tạo
thích hợp để con người làm việc thoải mái, công việc đảm bảo chính xác, sức khoẻ dẻo dai.
Khi bố trí chiếu sáng cần chú ý hai loại ánh sáng:
Ánh sáng tự nhiên: Bằng cách thông qua bố trí mái nhà, hướng nhà, cửa ra vào, cửa sổ tại
nơi làm việc (lấy ánh sáng từ hướng bắc và tây bắc). Không nên lấy ánh sáng từ hướng đông và
tây. Theo TC 29-68 của các công trình kiến trúc: các phòng học phải có chiếu ánh sáng tự nhiên,
trực tiếp, cách bố trí các bàn, ghế học sinh phải lựa để ánh sáng tự nhiện chiếu vào mặt bàn. Nên
tận dụng nguồn sáng tự nhiên trực tiếp đối với các phòng học, bố trí sao cho ánh sáng chiếu từ trái
qua phải.
Ánh sáng nhân tạo: Khi sử dụng loại ánh sáng này cần chú ý đến đặc điểm của nguồn sáng: đèn
huỳnh quang, đèn dây tóc, bóng đèn màu. Theo TC 16-64, TC 30-68 về các công trình dân dụng
và công nghiệp, chiếu sáng cho bảng đen nên dùng đèn huỳnh quang, nếu dùng đèn nung sáng thì
phải có chụp và hướng ánh sáng vào bảng, không để ánh sáng chiếu vào mắt người học..
Bảng 4.Yêu cầu về độ rọi nhỏ nhất trên mặt phẳng làm việc.
Lux = đơn vị chiếu sáng với diện tích 1m2, nguồn ánh sáng xa 1m, cường độ ánh sáng 1
lumen (1m2 cần một lumen tương đương 16w). vd: Một phòng học chuyên môn cần được chiếu
sáng cho một diện tích 7m x 9m = 63m2 thì độ rọi cho toàn phòng học là: 63m2 x 16w = 1008w
tương đương 63lux với đèn nung sáng.
Nhìn chung, để cảm giác trong lao động nên dùng nguồn sáng trắng và bóng đèn mờ.
Nguồn sáng cần đặt từ bên trái và ánh sáng phải chiếu từ trên xuống sẽ không bị loá mắt. Che chụp
là biện pháp cần thiết để tập trung ánh sáng cho quá trình học tập và luyện tay nghề cho học sinh.
Nơi làm việc phải được phân bố ánh sáng để có thể kết hợp các nguồn ánh sáng tự nhiên với các
nguồn ánh sáng nhân tạo. Việc chiếu sáng trực tiếp phải tránh được hiện tượng bóng và chói, phải
cân bằng được nguồn sáng chung với nguồn sáng của từng khu vực của mặt phẳng làm việc nhưng
các tia sáng không chiếu thẳng vào mắt công nhân. Khi ánh sáng chung tốt sẽ có tác dụng làm
giảm các sai sót nhất là đối với những công việc đòi hỏi sự chính xác cao, làm giảm sự mệt và
giảm tần số các tai nạn lao động. Khi xác định một mức độ chiếu sáng nào đó cần lưu ý đến một
trong các yếu tố có quan hệ phụ thuộc lẫn nhau như độ lớn của đối tượng lao động và các chi tiết
của nó. Mức độ phản chiếu của mặt phẳng lao động và của môi trường xung quanh, thời gian cần
thiết để giải quyết nhiệm vụ bằng thị giác; sự tương phản giữa đối tượng được quan sát và nền trên
nó được đặt. Điều này có thể thực hiện bằng sự tương phản màu sắc và có ảnh hưởng rất rõ đến
thành tích lao động.
+ Khí hậu nơi làm việc. Đảm bảo nhiệt độ, độ ẩm, độ thông gió, không khí tại nơi làm việc
để nâng cao năng suất lao động, đảm bảo sức khoẻ, đảm bảo làm việc dẻo dai cho con người là
vấn đề cần phải đặt ra. Việc duy trì một sư cân bằng nhiệt thường xuyên của cơ thể khoảng 37 oc
sẽ có tác dụng cho việc gìn giữ được các khả năng làm việc của con người.Trong một căn phòng
nhiệt độ được coi là là bình thường và tạo được một cảm giác thoải mái khi ở trong những khoảng
nhiệt 18- 24 oc về mùa đông với độ ẩm 30- 70%. Tốc độ gió ở trong khoảng 4-8m/phút là bình
thường. Theo nghiên cứu của các nhà tâm lí học người Anh, trong điều kiện khí hậu bình thường
để thích hợp với người lao động thì: nhiệt độ khoảng từ 19-23oc. Độ ẩm từ 30-70%. Độ thông gió
từ 3 đến 12m/phút
Trong thực tế, có những nơi làm việc rất nóng như: xưởng luyện gang thép, xưởng hàn, rèn; có
những nơi làm việc quá lạnh như: nhà kho đông lạnh. Nhiệt độ quá cao, thân nhiệt tăng con người
cảm thấy nóng có thể bị hoa mắt, mồ hôi ra nhiều có thể sẽ mất nước dẫn đến mệt mỏi nhanh, hiệu
quả lao động giảm sút. Nhiệt độ quá thấp con người có cảm giác quá lạnh, thân nhiệt giảm dẫn đến
chân tay tê cứng, lao động thiếu chính xác, không nhịp nhàng, các tác động trở nên vụng về vì vậy
hiệu quả lao động thấp.
Muốn tạo được một môi trường khí hậu vi mô phù hợp chúng ta cần lưu ý đến sự mất nhiệt
thông qua sự bốc hơi, tỏa nhiệt và bài tiết của cơ thể. Các công trình nghiên cứu người ta nhận
thấy về mối quan hệ giữa tai nạn lao động và nhiệt độ. Số tai nạn lao động tăng lên như là hậu quả
của sự tăng giảm nhiệt độ xuống dưới trị số tối ưu là 19-20 oc, ở 10-13 oc sẽ làm giảm sự khéo léo
của tay , còn dưới 10 oc làm tăng khả năng tai nạn lao động. Trong quan hệ với tuổi tác người ta
thấy từ ngoài 50 tuổi, con người chịu đựng với độ nóng khó hơn. Sự căng thẳng ở người lao động
do nóng xuất hiện trong một số tình huống lao động và có thể dẫn tới chỗ bị sốc.
Nhìn chung, Cảm giác thoải mái cho thân nhiệt phù hợp bị phụ thuộc vào rất nhiều yếu tố
lứa tuổi, trang phục, kỹ xảo, các đặc điểm tâm lí cá nhân. Ảnh hưởng của nhiệt độ làm thay đổi
nhiều đến sinh lý con người và từ đó tâm lí con người cũng có sự thay đổi theo. Vì vậy, chống
nóng và chống lạnh là các biện pháp trong việc tổ chức lao động khoa học. Những hậu quả tai hại
mà môi trường nhiệt gây ra cho công nhân có thể được khắc phục bằng cách làm giảm bớt các
nguồn nhiệt độ nóng hoặc nhiệt độ lạnh bởi xây những bức tường ngăn hay mặc quần áo bảo hộ,
quay vòng nhân sự, thông gió, điều hòa nhiệt độ...vv. Có thể chống nóng bằng cách lắp đặt các hệ
thống thông gió, quạt, máy điều hoà nhiệt độ, cải tạo hệ thống mái che. . .vv. Chống lạnh bằng
các hệ thống lò sưởi điện, giữ phòng kín, mặc ấm. . .vv. Ngoài ra cần có chế độ ăn uống và nghỉ
ngơi hợp lý.
+ Bố trí màu sắc nơi làm việc. Môi trường màu sắc có thể là một yếu tố thuận tiện nhưng
cũng có thể là một yếu tố cản trở tới quá trình lao động của con người. Các công trình nghiên cứu
sinh lý học và tâm lí học lao động hiện đại cho thấy con người thu nhận một khối lượng các ấn
tượng nhiều nhất qua cơ quan thị giác, có tới 90% thông tin từ bên ngoài. Vì vậy, vấn đề thẩm mĩ
hóa môi trường xung quanh người lao động phải được thực hiện sao cho nó có thể tác động trước
hết tới tâm lí con người qua hoạt động tri giác nhìn. Màu sắc của các vật xung quanh có ảnh hưởng
trực tiếp đến quá trình lao động của con người, là một trong những phương tiện gây xúc cảm đến
con người mạnh nhất.
Từ năm 1910, A.Stein đã chú ý tới ảnh hưởng gây trương lực chung của một số màu sắc
như đỏ, da cam... tới cơ thể con người. Sau này người ta thấy rằng sản lượng làm ra với sự chiếu
sáng màu xanh lá cây thì lớn hơn so với sự chiếu sáng màu đỏ. Ánh sáng có màu ảnh hưởng nhất
định tới tốc độ của các phản ứng cảm giác vận động của người như màu đỏ có tác dụng làm tăng
các phản ứng đơn giản lên 1,4% và các phản ứng phức tạp lên 5-6%, màu xanh lá cây làm giảm
nhẹ, màu tím làm giảm rõ rệt tốc độ của các phản ứng...vv. Nhiều công trình tâm lí học lao động
cũng cho thấy độ lớn thể tích, trọng lượng của đồ vật được xác định dưới ánh sáng màu đỏ sẽ kém
chính xác hơn dưới ánh sáng màu lục lam. Tương tự như vậy nếu môi trường màu lục làm tăng độ
chính xác của việc thực hiện công việc thì màu đỏ lại tác động làm tăng sự căng thẳng của bắp
thịt.
Trong tổ chức lao động khoa học thường người ta nói đến màu phải “lùi xa”, màu “lại
gần”. Ví dụ, màu lam tạo cảm giác không gian được tăng rộng tựa như “lùi về sau” còn màu nâu
thì ngược lại tựa như “nhô ra phía trước” . Về tác động tâm lí, có những màu sắc tạo nên cảm
giác nhẹ nhõm, dễ chịu, có những màu lại gây ra sự nặng nề, khó chịu cho người lao động ví dụ
màu tối, màu sẫm thường tao cảm giác nặng hợn so với các gam màu sáng. Màu sắc có thể có ảnh
hưởng đến sự tri giác độ nóng và lạnh. Người ta phân biệt các màu nóng ví dụ như đỏ, da cam,
vàng... gây nên ấn tượng về sự nóng và các màu lạnh như lam, chàm.. gây ấn tượng lạnh. Bằng
những màu tương ứng có thể làm thay đổi nhiệt độ trong phòng một phần nào. Thường người ta
sơn các màu xanh nhạt, màu xanh lá cây và để dễ phân biệt các chi tiết người ta dùng các màu
tương phản thông qua sự bố trí màu của chúng. Các màu khác nhau thường gây cho con người
những cảm giác khác nhau. Màu sắc cũng ảnh hưởng tới trạng thái tâm lí, tâm trạng của con người,
người ta nói đến các màu vui, màu buồn, màu hoan hỉ và rầu rĩ ngay khi hình đến các hiện tượng
tương ứng. Màu sắc cũng có thể tác động chung tới hoạt động của con người, một số màu kích
thích, nâng cao hoạt tính của con người như đỏ, vàng da cam..một số màu khác làm con người trở
nên trầm tĩnh dẫn đến thụ động như màu tím, màu lam, do đó người ta hay nói tới những màu tích
cực và màu tiêu cực. Một số màu không có thuộc tính ấy được xếp vào loại màu trung tính. Để
tăng khả năng phân biệt và nhận biết các chi tiết người ta phải làm tăng sự tương phản giữa các
chi tiết máy móc thông qua sự bố trí màu sắc của chúng. Khi bố trí màu sắc của các dụng cụ thiết
bị và các vật xung quanh người ta dựa vào tính năng, tác dụng của chúng là chủ yếu. Sau đây là
bảng tác dụng tâm lí của các màu chủ yếu.
Bảng 5.1. Bảng tác dụng tâm lí của các màu chủ yếu.
- Đỏ - Gây ra cảm giác nóng. Có sức kích thích. Là màu có sinh lực và thúc đẩy
hành động
- Da cam - Gây cảm giác rất nóng. Có tác dụng kích thích làm con người hăng hái.
- Vàng - Kích thích đối với thị giác gây cảm giác nóng. Màu dễ gây ra sự vui tươi
sảng khoái.
- Xanh lá - Là màu lạnh hoặc trung tính, là màu tươi mát gây cho con người cảm giác
cây thư thái. Giúp con người thêm kiên nhẫn.
-Xanh lam - Màu lạnh gây cảm giác trong sáng, tươi mát. Là màu gợi lên sự thanh bình,
yên lặng, gây suy nghĩ, gây cảm giác êm dịu.
- Nâu - Màu trung tính gây cảm giác kích thích
-Tím - Màu lạnh gây cảm giác nhẹ nhõm. Là màu khêu gợi sự dịu dàng, thuỷ chung
hy vọng vào tình người.
Bảng 5.2. Bảng tác dụng tâm sinh lí của các màu chủ yếu.
Màu Tác động đến tâm sinh lý
Kích Tâm Thanh Nóng Lạnh Nặng Nhẹ Gần Xa
thích trạng thản
nặng nề
Đỏ * * * *
Da cam * * *
Vàng * * *
Lục * * *
Lam * * * *
Tràm * * *
Tím * * * *
Trắng * *
Xám nhạt *
Xám sẫm * *
Đen * *
+ Bố trí màu sắc tại nơi làm việc: Màu sắc có tác động đến tâm sinh lý người lao động(bảng
5.2) Màu sắc có tác dụng rất lớn trong quá trình lao động: Như vậy, màu sắc không chỉ có ảnh
hưởng đến tình trạng sức khỏe và sự cân bằng tâm sinh lí của con người mà còn có tác dụng qui
định thành tích lao động cả về số lượng và chất lượng. Màu sắc giúp người lao động chính xác hoá
động tác lao động và tạo điều kiện tối ưu cho hoạt động lao động nhằm nâng cao năng suất lao
động và chất lượng sản phẩm; Màu sắc có tác dụng đảm bảo an toàn lao động; Màu sắc làm giảm
sự mệt mỏi, cải thiện trạng thái sức khoẻ cho người lao động; Màu sắc có tác dụng làm sạch phòng
làm việc, cải thiện điều kiện nơi làm việc, tạo cảm giác dễ chịu, thoải mái.
Việc áp dụng sơn một cách đúng đắn các màu chức năng tại nơi làm việc được thực hiện
tùy thuộc vào đặc điểm riêng của xí nghiệp sẽ tạo ra một trạng thái thuận tiện về mặt tri giác và
tâm lí. Điều đó sẽ góp phần làm giảm hiện tượng mệt mỏi sớm và tăng năngxuất lao động.
- Một số chú ý khi sử dụng màu sắc để sơn các chi tiết và dụng cụ làm việc:
- Tránh dùng màu đơn điệu và xám. Tránh các màu loè loẹt không gây cảm giác thẩm mỹ.
- Khi bố trí màu sắc cần chú ý đến sự tương phản của chúng. Tính tương phản càng cao sự
phân biệt của con người càng tốt.
- Khi dùng màu sắc để phủ lên các dụng cụ máy móc nhất thiết phải chú ý đến đặc điểm,
công dụng của chúng. Những công cụ quan trọng cần đặc biệt nhấn mạnh và làm cho con người
dễ nhận thấy. Khi làm việc cần phải dùng các màu chói để sơn. Ví dụ các nút bấm công tắc, tay
gạt, sơn màu chói để dễ nhận ra.
- Cần chú ý đến các yếu tố khí hậu khi bố trí màu sắc xung quanh. Ví dụ: Xứ nóng, tường
sơn, quét các màu xanh lam, xanh nhạt; Xứ lạnh, tường sơn màu vàng, nâu nhạt.
- Nơi làm việc, lao động chân tay, để kích thích nhịp độ lao động thường bố trí sơn màu
vàng chanh, màu da cam..vv. Nhìn chung khi bố trí màu sắc cần chú ý đến không gian và độ chiếu
sáng tại nơi làm việc. Nơi có quá nhiều ánh sáng người ta phải hạn chế màu sắc.
Hình 20: Các dụng cụ có kim chỉ không có vạch kẻ trên thang chia độ.
➢ Kích thước, hình dáng, màu sắc - độ đậm nhạt, các loại màu, khả năng cảm quang ánh
sáng, vị trí… đảm bảo người sử dụng nhận được các tín hiệu một cách chính xác
➢ Cần nghiên cứu trường cảm giác (thị giác, thính giác…và các cơ quan vận động) của
người lao động trong những điều kiện tư thế lao động cụ thể
➢ Chú ý đến những ảnh hưởng của môi trường: Như ánh sáng, màu sắc, nhiệt độ, tiếng ồn,
độ rung, khoảng cách…tới thị giác của người lao động.
➢ Chú ý đến các yếu tố kỹ thuật: Như bố trí, phân định các thang chia độ, các chữ số, ký
hiệu, ký tự, kích thước, hình dáng, màu sắc, ánh sáng, âm thanh phát ra. Cụ thể: Đảm bảo đọc được
tín hiệu dễ dàng nhất;
➢ Nếu máy móc, thiết bị cần nhiều loại đồng hồ, cần được sắp xếp theo mức độ ưu tiên: Ý
nghĩa, tầm quan trọng của bộ phận đó; Những bộ phận chỉ báo quan trọng phải được bố trí ở trung
tâm trường cảm giác (chính diện với người vận hành); Bộ phận chỉ báo quan trọng nhưng báo hiệu
các hiện tượng ít khí xảy ra như chuông còi báo động… cần thiết kế sao cho có tác động mạnh đến
giác quan, thuận tiện khi cần dùng đến (sơn các màu có kích thích mạnh, sử dụng tín hiệu đèn nhấp
nháy…); Các chữ số, ký hiệu, ký tự, vạch chia độ cần ghi rõ ràng, đảm bảo tương phản với nền;
Nếu bộ phận chỉ báo có kim chỉ di động thì thang chia độ phải được thiết kế cố định, nếu trong
trường hợp cần đọc các con số có độ chính xác cao cần thiết kế bảng điện tử có hiện số – cần chú
ý đến màn hình, cửa sổ, độ to rõ của kiểu chữ, số liệu; Nếu thiết bị chỉ báo được thiết kế hình cong
thì chỉ số ghi trên thang đo từ trái qua phải theo chiều kim đồng hồ, đối với thang đo thẳng ghi từ
dưới lên theo mức độ tăng dần.
➢ Trong trường hợp con người thao tác trên máy, phải chú ý đến cơ giác vận động. Độ
rung nhận được qua cơ giác vận động giúp con người nhanh chóng phát hiện tình trạng hoạt động
của máy móc và phát đi các tín hiệu đúng đắn.
Tóm lại. Trong tâm lý học kỹ sư đi vào tìm hiểu để xác định yêu cầu tâm lí đối với các bộ
báo hiệu và bàn điều khiển được coi như là đối tượng của các quá trình cảm giác, tri giác và vận
động. Do đó việc chế tạo phải dựa vào khả năng cảm giác, tri giác và hệ tâm vận ở người. Trong
mọi trường hợp, vấn đề đặt ra là phải làm sao để người vận hành dễ đọc, đọc nhanh, chính xác và
dễ điều khiển, hợp với trường cảm giác cũng như qui luật của quá trình tâm vận.
Khi nghiên cứu trường cảm giác, phải chú ý đến khả năng thị giác, thính giác và cơ giác
vận động khi tiếp nhận thông tin của kỹ sư mà thiết kế bề mặt cái chỉ báo cho hợp lí. Phải bố trí
mặt đồng hồ, bảng điều khiển sao cho dễ đọc. Các con số, vạch chia độ, ký hiệu ghi trên mặt đồng
hồ phải rõ ràng, có sự tương phản rõ rệt với nền làm cho khi đọc, người kỹ sư không bị nhầm lẫn.
Nên dùng thang chia độ, còn kim chỉ di động để tránh đọc lầm khi tri giác cái chỉ báo. Các chỉ số
trên đồng hồ nên ghi theo các giá trị tăng dần từ trái qua phải, từ dưới lên trên. Những cái chỉ báo
nào cho tín hiệu chủ yếu, quan trọng phải đặt ở trung tâm trường cảm giác, còn cái thứ yếu thì để
xa người điều khiển.
b. Bộ phận điều khiển.
Bộ phận điều khiển là những phương tiện nhờ đó con người điều chỉnh và tối ưu hoá sự
vận hành của máy hay một quy trình. Ở rất nhiều vị trí làm việc, kết quả hoạt động của con người
được thể hiện bằng một phản ứng cơ thể, một vận động cho dù là mang, vác một số vật nặng hay
nhấn xuống các phím của một chiếc máy chữ hoặc thao tác một thiết bị kiểm tra... Vì vậy cần
nghiên cứu những khả năng của con người khi tiến hành các hoạt động vận động.
3.Khoá ngắt x x
5. Núm xoay x x x
6. Tay quay(ma-ni-ven) x x
7.Vô lăng x x
8. Tay gạt(cần gạt) x x
9.Bàn đạp x x
10.Bàn phím x
Con người