Professional Documents
Culture Documents
Giáo Trình Tâm Lý Học Nghề Nghiệp - Chương 2
Giáo Trình Tâm Lý Học Nghề Nghiệp - Chương 2
1 G.M.Andrêva, Tâm lí học xã hội, NXB Đại học Tổng hợp Matxcơva, 1980
đời sống sinh hoạt hoặc những vấn đề thời sự trong nước và quốc tế hay những tri thức mới trong
lĩnh vực khoa học, nghề nghiệp nhất định. Sự thông tin trong giao tiếp đã chứa đựng sự nhận thức
và hiểu biết. Qua tiếp xúc con người nhận thức được từ người khác về hình dáng, điệu bộ, nét mặt
bề ngoài đến ý thức, động cơ, tâm trạng, xúc cảm, tính cách, năng lực, trình độ tri thức và các giá
trị ở họ, đồng thời nhận được những nhận xét, đánh giá của họ về mình giúp ta hiểu thêm về chính
bản thân. Thể hiện được sự hợp tác hay xung đột cùng nhau. Do tác động của lời nhận xét, của sự
biểu cảm ở người đang giao tiếp mà gây ra những rung cảm khác nhau ở chủ thể tiếp xúc. Chẳng
hạn, lời khen làm ta vui, hoặc ta thấy buồn, thấy xấu hổ vì bị chê bai hay bị kích động bởi lời nói
châm biếm, sự hiểu biết lẫn nhau ngày càng trở nên sâu sắc và mỗi người cũng tự đánh giá lại
những tri thức, kinh nghiệm của mình và có thể dẫn tới những tới những thay đổi thái độ với nhau,
với sự vật, hiện tượng được bàn luận và gây nên sự mến phục hay mâu thuẫn với nhau. Rõ ràng,
giao tiếp biểu hiện ở ảnh hưởng và tác động qua lại với nhau rất mạnh mẽ, gây ra những biến đổi
về hứng thú, thái độ, tình cảm và các biểu hiện khác của nhân cách.
Giao tiếp là hiện tượng đặc thù của con người, nghĩa là chỉ riêng con người mới có giao tiếp thật
sự, Khi sử dụng phương tiện ngôn ngữ và được thực hiện chỉ trong xã hội loài người.
Giao tiếp là cách thể hiện mối quan hệ với một hay nhiều người khác trên cơ sở các quan hệ kinh
tế - xã hội. Phong cách và nội dung giao tiếp phụ thuộc vào vị trí của con người trong quan hệ sản
xuất, phụ thuộc vào tầng lớp hay nhóm xã hội của người đó. Giao tiếp được điều chỉnh bởi các yếu
tố có liên quan sản xuất, buôn bán, các nhu cầu xã hội và do tập quán của từng địa phương, từng
dân tộc, do các chuẩn mực đạo đức…vv. Câu tục ngữ ‘‘nhập gia tùy tục’’ một phần phản ánh vấn
đề này.
1.2.2. Chức năng của giao tiếp
Giao tiếp có nhiều chức năng khác nhau, tiếp cận từ góc độ tâm lí học xã hội thì giao tiếp
có hai nhóm chức nănng cơ bản :
a. Nhóm chức năng thuần túy xã hội : Giao tiếp phục vụ các nhu cầu chung của nhóm, tập thể,
cộng đồng. Giao tiếp tổ chức, điều khiển, phối hợp họat động lao động, tập thể, nhờ có quá trình
giao tiếp, con người có thể phối hợp hoạt động để cùng nhau giải quyết nhiệm vụ nào đó. Giao
tiếp còn có chức năng thông tin, muốn quản lí xã hội phải có thông tin hai chiều từ trên xuống, từ
dưới lên và cả thông tin giữa các nhóm, tập thể.
b. Nhóm chức năng tâm lí- xã hội : Giao tiếp phục vụ các nhu cầu tinh thần như thỏa mãn các
nhu cầu thông tin, nhận thức, tình cảm của từng thành viên trong xã hội. Con người có đặc thù là
luôn có giao tiếp với người khác, cô đơn là trạng thái tâm lí nặng nề. Bị ‘cô lập’’ với cộng đồng,
bạn bè, người thân …vv, có thể nảy sinh trạng thái tâm lí không bình thường nhiều khi dẫn tới
tình trạng bệnh lí. Chức năng này của giao tiếp gọi là chức năng nối mạch (tiếp xúc) với người
khác. Nối được mạch với nhóm rồi, con người có quan hệ với người khác trong nhóm cùng với
các thành viên khác tạo nên các quan hệ nhóm: có hứng thú chung, mục đích chung, có nhu cầu
gắn bó với nhau …vv, làm cho các quan hệ này trở thành các quan hệ thực, đảm bảo sự tồn tại
thực của nhóm. Như vậy giao tiếp giúp cho con người thực hiện các quan hệ liên nhân cách. Nghĩa
là mỗi thành viên hòa nhịp vào nhóm, coi nhóm là mình, mình là nhóm. Nhóm ở đây được hiểu
theo nghĩa rộng, từ hai người đến một cộng đồng lớn. Chức năng hòa nhịp còn gọi là chức năng
đồng nhất : qua giao tiếp thành viên đồng nhất với nhóm, chấp nhận và tuân thủ các chuẩn mực
nhóm dẫn đến sự thống nhất nhiều mặt trong nhóm nhưng sự vận động của nhóm có thể dẫn tới
chỗ một thành viên nào đó tách khỏi nhóm. Đến lúc đó chức năng đồng nhất chuyển thành chức
năng đối lập: thành viên này đối lập lại với nhóm vì khác biệt về hứng thú, mục đích, động cơ…vv.
Đương nhiên thành viên này sẽ có thể và phải gia nhập vào những mối quan hệ ở nhóm khác.
Giao tiếp nhóm là loại giao tiếp rất phổ biến trong chúng ta, có vai trò to lớn đối với việc
hình thành và phát triển tâm lí, nhất là với học sinh – sinh viên. Cần phân biệt giao tiếp nhóm chính
thức và giao tiếp nhóm không chính thức. Nhóm chính thức là nhóm được thành lập theo một qui
định chung nào đó, nhóm không chính thức là nhóm do các thành viên tự tập hợp thành nhóm.
Nếu tiếp cận từ góc độ ngôn ngữ học thì có thể thấy giao tiếp còn có các chức năng sau:
c. Chức năng nhận thức và đánh giá lẫn nhau: Nhờ có chức năng này mà con người có thể
truyền đạt, lĩnh hội các sự kiện, các khái niệm, các giá trị khi tiến hành giao tiếp. Trong giao tiếp
mỗi chủ thể tự bộc quan điểm, tư tưởng, thái độ, thói quen... của mình. Các chủ thể có thể nhận
thức được về nhau, đánh giá lẫn nhau, từ đó đánh giá bản thân mình.
d. Chức năng duy trì sự tiếp xúc : Là chức năng lấp chỗ trống khi tiến hành đối thoại.
e.Chức năng cảm xúc: trong giao tiếp con người không chỉ bộc lộ những cảm xúc mà còn tạo ra
những ấn tượng, những cảm xúc mới, những cảm xúc tích cực giữa hai bên đối thoại.
f.Chức năng siêu ngôn ngữ: Là chức năng rút gọn (nói ít, hiểu nhiều) trong giao tiếp
g.Chức năng thơ mộng: Thể hiện trong các cuộc giao tiếp có tính chất văn hóa nghệ thuật, giao
tiếp tình ái...vv.
h.Chức năng qui chiếu: Đòi hỏi chủ thể giao tiếp phải nắm được các đặc điểm của cá nhân (xã
hội, sức khỏe, tâm lí) của đối tượng giao tiếp để đảm bảo hiệu quả của giao tiếp.
Tóm lại, giao tiếp có nhiều chức năng khác nhau. Con người không thể sống cô lập, tách khỏi gia
đình, người thân, bạn bè và cộng đồng người. Phạm vi giao tiếp của con người ngày càng được
mở rộng; từ tiếp xúc chỉ với người mẹ đến anh, chị em trong gia đình, đến thầy giáo và bạn bè rồi
đến các đồng nghiệp trong lĩnh vực ngành nghề nhất định. Cùng với hoạt động của mỗi cá nhân,
giao tiếp giúp cho con người lĩnh hội được các chuẩn mực đạo đức xã hội – lịch sử và trở thành
nhân cách có giá trị, nghĩa là nên người hay trở thành người với đúng nghĩa của nó.
1.2.3. Các loại giao tiếp
a.Theo phương tiện giao tiếp, có ba loại giao tiếp sau:
+ Giao tiếp vật chất: là hình thức giao tiếp thông qua hành động với vật thể.
+ Giao tiếp bằng tín hiệu, phương tiện phi ngôn ngữ để giao lưu nhằm đạt được mục đích của
giao tiếp. Giao tiếp phi ngôn ngữ có thể có các hình thức sau:
- Giao tiếp bằng cử chỉ, điệu bộ, tư thế, dáng đi
- Giao tiếp nét mặt, ánh mắt, nụ cười...v.v,
- Giao tiếp qua hành vi
- Giao tiếp qua trang phục trong giao tiếp. Giao tiếp phi ngôn ngữ có chung cả ở người và vật
+ Giao tiếp bằng ngôn ngữ (tiếng nói, chữ viết), với ba chức năng cơ bản: chỉ nghĩa, thông báo
và điều khiển, điều chỉnh để giao lưu nhằm đạt mục đích giao tiếp đặt ra.Đây là hình thức giao tiếp
đặc trưng của con người, xác lập và vận hành mối quan hệ người - người trong xã hội.
b. Theo khoảng cách, có ba loại giao tiếp cơ bản:
+ Giao tiếp trực tiếp (mặt đối mặt): là hình thức giao tiếp mặt đối mặt,giữa hai hay nhiều người,
các chủ thể trực tiếp giao tiếp phát và nhận tín hiệu với nhau.Ví dụ: thầy giáo giao tiếp với học
sinh.
+ Giao tiếp gián tiếp: là loại giao tiếp được tiến hành không có mặt của các chủ thể và đối tượng
giao tiếp. Ví dụ giao tiếp qua thư, báo hoặc qua người khác, có khi qua ngoại cảm, thần giao cách
cảm.
+ Giao tiếp trung gian là loại giao tiếp được tiến hành có cả hai yếu tố của giao tiếp trực tiếp và
giao tiếp gián tiếp. Ví dụ: Giao tiếp qua điện thoại.
c. Theo quy cách:
+ Giao tiếp chính thức: Được hình thành bằng văn bản, qui chế ..vv,. nhằm thực hiện nhiệm vụ
chung theo chức trách, quy định, thể chế.Ví dụ: giao tiếp trong gia đình, dòng họ, thầy giáo với
học sinh, học sinh với học sinh trong tập thể lớp học...vv.
+ Giao tiếp không chính thức: là giao tiếp giúp những người hiểu rõ về nhau không câu nệ vào
thể thức mà theo kiểu thân tình nhằm mục đích chính là thông cảm, đồng cảm với nhau. Giao tiếp
không chính thức của các thành viên trong nhóm không chính thức được thành lập không theo qui
định. Ví dụ: Giao tiếp của những người cùng đi tầu, đi xe, đi chơi...vv.
d. Theo mục đích của giao tiếp thì có các loại giao tiếp sau:
+ Giao tiếp kiểu định hướng xã hội: Giao tiếp nhằm tuyên truyền những vấn đề ở cấp độ xã hội,
để thuyết phục, thông báo...vv.
+ Giao tiếp kiểu định hướng cá nhân: Giao tiếp nhằm thuyết phục, thông báo ở cấp độ cá nhân
+ Giao tiếp kiểu định hướng nhóm: Giao tiếp thuyết phục, thông báo một vấn đề nào đó trong
nội bộ nhóm.
Các loại giao tiếp trên luôn tác động qua lại, bổ sung cho nhau, làm cho mối quan hệ giao tiếp của
con người vô cùng đa dạng, phong phú và cũng vô cùng phức tạp.
1.2.4. Vai trò của giao tiếp đối với sự phát triển cá nhân và xã hội
Giao tiếp là một trong những đặc trưng cơ bản nhất của con người. Giao tiếp là một dạng
hoạt động đặc biệt của con người, có vai trò quyết định trực tiếp đối với sự phát triển tâm lí, nhân
cách con người.
Giao tiếp là điều kiện tồn tại của cá nhân và xã hội loài người.Nhu cầu giao tiếp là một
trong những nhu cầu xã hội cơ bản, xuất hiện sớm nhất ở con người. C. Mác đã chỉ ra rằng ‘Sự
phát triển của một cá nhân được qui định bởi sự phát triển của tất cả các cá nhân khác mà nó giao
lưu một cách trực tiếp’’2. Thực tế đã chứng minh rằng những trường hợp trẻ em do động vật nuôi
mất hẳn tính người, mất nhân cách, chỉ còn những đặc điểm tâm lí, hành vi của con vật. Đã có
nhiều công trình nghiên cứu chỉ ra rằng giao tiếp quá hạn chế và nghèo nàn dẫn đến những hậu
quả nặng nề, dễ mắc bệnh “ đói giao lưu do nằm viện lâu ngày”(Hospitalism)
Nhờ giao tiếp con người gia nhập vào các quan hệ xã hội, lĩnh hội nền văn hóa xã hội, qui
tắc đạo đức, chuẩn mực xã hội tự đánh giá bản thân mình như một nhân cách để hình thành một
thái độ giá trị- cảm xúc nhất định đối với bản thân, làm thành bản chất con người tức là hình thành
năng lực tự ý thức. Đồng thời thông qua giao tiếp con người đóng góp vốn tri thức và kinh nghiệm
của mình vào kho tàng tri thức của nhân loại, của xã hội..
Tóm lại, giao tiếp là hình thức đặc trưng cho mối quan hệ người - người, là một nhân tố cơ
bản của việc hình thành phát triển tâm lí, ý thức, nhân cách. Giao tiếp là điều kiện tất yếu của sự
hình thành và phát triển tâm lí người vì nhờ có giao tiếp giữa các thế hệ, giữa nhóm này với nhóm
kia mà tâm lí người được nảy sinh và phát triển.
1.2.5. Mối quan hệ giữa giao tiếp và hoạt động
Nhiều nhà tâm lí học cho rằng, giao tiếp như một dạng đặc biệt của hoạt động: giao tiếp
cũng diễn ra bằng các hành động và có cả các thao tác cụ thể, sử dụng các phương tiện khác nhau
nhằm đạt được những mục đích xác định, thoả mãn nhu cầu cụ thể, tức là được thúc đẩy bởi động
cơ. Một số nhà tâm lí học khác cho rằng giao tiếp và hoạt động là hai phạm trù đồng đẳng, có quan
hệ qua lại với nhau trong cuộc sống (lối sống)của con người.
+ Có trường hợp giao tiếp là điều kiện của một hoạt động khác, ví dụ như trong lao động
sản xuất thì giao tiếp là điều kiện của con người phối hợp với nhau, quan hệ với nhau để cùng tiến
hành làm ra sản phẩm lao động chung.
+ Có trường hợp hoạt động là điều kiện để thực hiện mối quan hệ giao tiếp giữa con người
với con người, chẳng hạn như diễn viên múa, diễn viên đóng kịch câm làm các hành động tay
chân, điệu bộ, cử chỉ...là điều kiện để thực hiện mối quan hệ giao tiếp giữa anh ta với khán giả.Vì
thế có thể nói cả giao tiếp và hoạt động đều là hai mặt không thể thiếu của lối sống, của hoạt động
cùng nhau giữa con người với con người trong thực tiễn.
1.3. GIAO TIẾP SƯ PHẠM
1.3.1. Khái niệm giao tiếp sư phạm trong tâm lí học.
3 Nguyễn Quang Uẩn, tâm lí học đại cương, NXB Đai học quốc gia Hà nội, 2001, trang 167.
Thuộc tính tâm lý cá nhân được hiểu là nét tâm lý bền vững thường xuyên, khó hình thành
và khó mất đi, tương đối ổn định – đặc trưng của từng người mà dựa vào đó, ta có thể phân biệt
được người này với người khác. Nhân cách có tính quy luật khi biểu hiện và vận hành. Nó không
phải được vận hành, biểu hiện một cách ngẫu nhiên.
Cùng một thuộc tính tâm lý cá nhân nhưng nó được nằm trong những cấu trúc khác nhau
thì ở chủ thể cũng sẽ có những biểu hiện nhân cách khác nhau. Ví dụ, thuộc tính “táo bạo” nếu đi
kèm với những thuộc tính tốt sẽ đưa tới hành động của một nhân cách tích cực vì lợi ích xã hội.
Trái lại, nếu sự “táo bạo” lại đi kèm với tính ích kỷ, tàn nhẫn thì nó sẽ làm thành một nhân cách
tha hóa, dễ gây ra những hậu quả tiêu cực, không lường trước được.
Bản sắc được hiểu là những sắc thái tâm lý mang bản chất của nhân cách. Trong đó, có cái
chung của xã hội, dân tộc, giai cấp, tập thể, gia đình đã được biến thành cái riêng biệt, đặc thù,
đơn nhất ở từng nhân cách. Mỗi một nhân cách sẽ có nội dung và hình thức biểu hiện khác nhau.
Những sắc thái cuả nó sẽ không giống với một tổ hợp nhân cách nào khác.
Cái “giá trị xã hội” của nhân cách là muốn nói tới những thuộc tính tâm lý thể hiện ra ở
những việc làm, cung cách ứng xử, phương thức thực hiện hành động, quan hệ phổ biến của chủ
thể đã được xã hội thừa nhận và đánh giá ở một mức độ xác định.
Con người được hiểu là một thực thể tự nhiên - xã hội có ý thức. Đó là đại diện của loài
homosapiens mà cái sinh lý của nó sẽ bị chi phối bởi những quy luật sinh học và đời sống tâm lý
của nó lại do tính xã hội - lịch sử quy định. Hoạt động tâm lý đặc trưng, cơ bản của con người là
có ngôn ngữ và ý thức. Bản chất của đời sống tâm linh của nó sẽ luôn luôn được hiện thực hoá ở
trong toàn bộ các mối quan hệ xã hội cũng như mọi tiến trình thực hiện các nhiệm vụ hoạt động
của chủ thể. Một con người cụ thể - một thành viên của xã hội đang tồn tại thực trong những dạng
hình hoạt động hay giao tiếp xác định sẽ được gọi là cá nhân - cá thể người. Khi cá nhân tiến hành
thực hiện những nhiệm vụ của một hoạt động hoặc giao tiếp xác định một cách có ý thức, có mục
đích nhằm nhận thức đối tượng cũng như tác động cải tạo - nắm bắt - biến đổi nó thành ra những
giá trị vật chất - tinh thần nào đó và đang tồn tại trong các mối quan hệ xã hội cụ thể sẽ được coi
là một chủ thể. Nếu một chủ thể đang được tồn tại trong các dạng hoạt động - giao tiếp cụ thể thì
do những đặc điểm của thể tạng cũng như kiểu hình thần kinh và cấu tạo cơ thể của họ quy định
mà đời sống tâm lý của nó sẽ có sự độc đáo, khác biệt, không được lặp lại ở người thứ hai. Cái đó
sẽ tạo ra cái gọi là cá tính ở chủ thể. Phức hợp toàn bộ những nét cá tính quy định bản chất con
người với tư cách là một thành viên của xã hội cũng như một công dân, người lao động, một nhà
hoạt động xã hội có ý thức sẽ làm thành nhân cách.
Có thể coi nhân cách như là toàn bộ những đặc điểm cùng với những phẩm chất tâm lý cá
nhân có tác dụng quy định giá trị và hành vi xã hội của một chủ thể. Tất cả những cái đó sẽ góp
phần tạo nên được nét đặc trưng của bản sắc và giá trị xã hội trong nhân cách của họ. Nhân cách
được coi là tổng hoà không phải mọi đặc điểm cá thể của con người mà chỉ những phẩm chất
chung nào quy định nó như là một thành viên của xã hội cũng như một công dân, người lao động
và một nhà hoạt động xã hội có ý thức. Nhân cách của chủ thể sẽ luôn luôn được sống động hiện
thực qua toàn bộ những hành vi, quan hệ xã hội trong suốt tiến trình của cuộc sống của họ.
Việc xem xét nhân cách ở trên cả ba bình diện này sẽ giúp cho chúng ta có đủ điều kiện
tâm lý để nhận thức được một cách rõ ràng những đặc điểm của nhân cách. Nó sẽ có ý nghĩa rất
quan trọng đối với những quá trình thực thi những tác động giáo dục để đào tạo ra được những
phẩm chất nhân cách tốt cho học sinh.Toàn bộ những phẩm chất của nhân cách sẽ luôn luôn được
tồn tại ở trạng thái vận động và phát triển trong tiến trình thực hiện các nhiệm vụ của hoạt động
cũng như giao tiếp của chủ thể. Tất cả những nét tính cách, những phẩm chất này đều sẽ được kết
hợp lại thành một chỉnh thể có cấu trúc xác định và ổn định.
Tuy nhiên nhân cách cách được phát triển, vận động và thay đổi đi cùng với sự biến đổi của hoàn
cảnh nhưng những phẩm chất của nó vẫn có sự ổn định tương đối. Nhờ đó, ở chúng ta mới có được
những cơ sở tâm lý để có thể tiến hành chẩn đoán sự phát triển nhân cách của học sinh một cách
có luận cứ cũng như thực hiện tốt những tác động giáo dục cá biệt hoá. Những phẩm chất nhân
cách đều có sự bền vững thường xuyên, tương đối ổn định và biểu hiện những đặc trưng cho từng
cá nhân mà dựa vào đó, người ta có thể phân biệt được nó với người khác. Những phẩm chất này
sẽ dược coi là những thuộc tính tâm lý cá nhân.
Những thuộc tính tâm lý cá nhân tạo thành nhân cách phải được biểu hiện ra trên cả ba cấp
độ bên trong cá nhân, hoạt động và giao tiếp của nó cũng như ở sự hình dung, đánh giá, thừa
nhận của người khác về nó. Nhân cách luôn được nảy sinh, hình thành, phát sinh, phát triển và
biểu hiện ra ở trong cuộc sống, hoạt động, giao tiếp của chủ thể trong những điều kiện xác định.
Nhân cách được coi là sự phức hợp của những phẩm chất tâm lý cá nhân. Nó là một cấu trúc thống
nhất của tất cả những nét nhân cách được vận động trong một chỉnh thể. Đây không phải là một
phép cộng đơn giản của các thuộc tính tâm lý cá nhân mà là một hệ thống - cấu trúc thống nhất.
Điều đó sẽ làm cho toàn bộ các phẩm chất tâm lý của nhân cách đều có được những mối quan hệ
tương tác, quy định và đặt điều kiện cho sự vận động của nhau. Chính vì vậy, cần phải đảm bảo
được quan điểm toàn diện khi phân tích những vấn đề của tâm lý học nhân cách. Nhân cách sẽ
luôn luôn được hình thành như một thể thống nhất thông qua các quá trình hoạt động và giao tiếp.
ở trường nghề, chúng ta phải tiến hành các tác động giáo dục học sinh theo một hệ thống cấu trúc
thống nhất để làm hình thành nên ở các em những nhân cách hoàn chỉnh.
Nhân cách không phải là sản phẩm tiêu cực của hoàn cảnh. Nó được hình thành thông qua
các quá trình hoạt động - giao tiếp tích cực, chủ động, sáng tạo, gắng sức và say sưa của chủ thể.
Tính tích cực của nhân cách sẽ được coi là một điều kiện, phương tiện và sản phẩm tất yếu của các
quá trình hoạt động cũng như giao tiếp của chủ thể. Tính tích cực này sẽ được thể hiện tập trung ở
những hoạt động cũng như quan hệ đa dạng và muôn vẻ nhằm biến đổi, cải tạo thế giới đối tượng
của chủ thể. Trên cơ sở đó, chủ thể sẽ phát hiện ra được logic của đối tượng mà tiến hành chiếm
lĩnh, biến đổi nội dung của nó để làm thành ra các phẩm chất nhân cách của mình.
Trong nhà trường nghề, khi thực thi bất kỳ tác động sư phạm nào, người giáo viên cũng
phải biết cách tiến hành định hướng tính tích cực của học sinh vào tiếp nhận và giải quyết tốt
những nhiệm vụ của hoạt động học tập. Nhu cầu học tập đã được coi là nguồn gốc của tính tích
cực thực hiện những nhiệm vụ của hoạt động học tập của học sinh. Vì vậy, trong giáo dục - đào
tạo kỹ thuật, giáo viên cần thiết phải biết cách hình thành cho bằng được những nhu cầu này ở mọi
học sinh. Nhân cách chỉ được nảy sinh, phát triển, biểu hiện và tồn tại trong tiến trình thực hiện
các nhiệm vụ của những hoạt động và giao tiếp. Thông qua các quá trình thực hiện hoạt động cùng
nhau và giao tiếp nhóm, học sinh sẽ nhận thức được nội dung của thế giới đối tượng cũng như mới
lĩnh hội được các chuẩn đạo đức theo đúng như những định hướng giá trị xã hội. Nhất là thông
qua các điều kiện tâm lý xã hội xác định của nhóm và tập thể ở nhà trường, gia đình cũng như xã
hội mà các phẩm chất tâm lý của nhân cách của các em sẽ được phát triển một cách vững chắc.
Trong các điều kiện cụ thể của các quá trình giao tiếp sẽ diễn ra sự truyền đạt ý đồ, tư tưởng, tình
cảm, ý nghĩ cho nhau cũng như sự gây ảnh hưởng qua lại lẫn nhau và để lại dấu ấn trong nhau. Vì
vậy, các em sẽ luôn luôn có thể học tập và tiếp thu được những phẩm chất nhân cách tốt của nhau,
làm cơ sở cho sự phát triển toàn diện phẩm hạnh của mình. Theo luận điểm này thì khi thực thi
các tác động sư phạm trong nhà trường, người giáo viên kỹ thuật cần phải biết cách quan tâm đến
việc tổ chức và chỉ đạo cho tốt các quá trình giao tiếp của trẻ với nhau cũng như với người lớn.
Vậy, nhân cách của một chủ thể sẽ không phải là sản phẩm của sự bảm sinh và di truyền.
Nó sẽ phải được hình thành dần dần bằng hoạt động và giao tiếp của chủ thể trong suốt cuộc đời
từ ấu thơ đến khi trưởng thành. Giá trị của nhân cách sẽ không bị mất đi cùng với cái chết sinh
học của chủ thể. Giá trị đó sẽ được tồn tại trong sản vật mà họ đã làm ra cũng như trong đời sống
tâm lý - xã hội của nhóm. Nhân cách được hình thành không dừng lại, không cố định, nó có thể
được phát triển đi đến hoàn thiện, có thể bị suy thoái. Có thể nói nhân cách là tổ hợp những phẩm
chất và năng lực tạo nên bản sắc và giá trị tinh thần của mỗi người. Nhân cách có những đặc điểm
cơ bản như tính ổn định cũng như tính thống nhất, tính tích cực và tính giao tiếp.
b. Bản chất nhân cách:
* Nhân cách con người vừa là chủ thể, vừa là khách thể của các mối quan hệ xã hội
Tính chủ thể thể hiện ở chỗ Nhân cách là chủ thể các mối quan hệ xã hội, chủ thể hoạt động
nhân thức và cải tạo thế giới khách quan. Tính khách thể biểu hiện nhân cách là sản phẩm chịu
ảnh hưởng của của các quan hệ xã hội, là sản phẩm của hoạt động và giao tiếp. Nhân cách thể hiện
sự thống nhất biện chứng giữa cái chung và cái riêng, giữa cái phổ biến và cái đặc thù trong đời
sống tinh thần của mỗi con người. Do vậy, muốn đánh giá đúng đắn một nét nhân cách nào đó ta
cần xem xét nó trong sự kết hợp, trong mối liên hệ với những nét nhân cách khác của cá nhân đó.
Cần khai thác những ý tưởng bản chất nhân cách thuộc phạm trù cấp độ xã hội bao trùm lên một
không gian rộng lớn so với không gian của lớp đặc điểm tâm sinh lí cá nhân. Ví dụ Nhân cách
thanh niên Việt nam không chỉ bị chế ước của lịch sử Viêt nam mà còn bị chế ước, chi phối bởi
qui luật phát triển của lịch sử thế giới.
* Nhân cách có tính tích cực
Nhân cách là chủ thể của hoạt động và giao tiếp, là sản phẩm xã hội. Vì thế tính tích cực
là một thuộc tính của nhân cách. Một cá nhân được thừa nhận là một nhân cách khi cá nhân đó
tích cực hoạt động trong những hình thức đa dạng của nó. Tính tích cực của nhân cách biểu hiện
ở việc xác định tự giác mục đích hoạt động, giao tiếp nhằm hiện thực hóa mục đích. Ở đây, nhân
cách bộc lộ khả năng tự điều chỉnh và chịu sự điều chỉnh của xã hội. Nhờ vào việc nhận thức, cải
tạo, sáng tạo ra thế giới và đồng thời cải tạo chính bản thân mình. Giá trị đích thực của nhân cách,
chức năng xã hội, cốt cách làm người của cá nhân thể hiện rõ nét ở tính tích cực của nhân cách
Tính tích cực của nhân cách biểu hiện trong quá trình thoả mãn các nhu cầu của nhân cách, hệ
thống nhu cầu của con người là nguồn gốc và động lực chủ yếu của tính tích cực của nhân cách.
Quá trình tích cực hoạt động nhằm thoả mãn nhu cầu là một quá trình tích cực,không chỉ
thỏa mãn các đối tượng có sẵn, con người luôn luôn sáng tạo ra các đối tượng mới, các phương
thức thỏa mãn mới với những nhu cầu ngày càng cao của họ. Quá trình đó luôn là quá trình hoạt
động có mục đích tự giác, trong đó con người làm chủ được những hình thức hoạt động của mình
do sự phát triển xã hội qui định nên. Trong giáo dục và dạy học phương pháp dạy học có hiện đại,
giáo viên có giỏi chuyên môn, tâm huyết với nghề mà học sinh không tích cực học tập thì cũng
không học được vì thế cần chú trọng phát huy tính tích cực học tập của các em.
* Nhân cách là một cấu trúc tâm lí mới
Như phân tích trên ta thấy nhân cách không phải là một nét, một phẩm chất tâm lí riêng lẻ
mà là một tổ hợp cấu tạo tâm lí mới. Đó là tổng thể các đặc điểm tâm lí, các thuộc tính tâm lí đặc
trưng với cơ cấu xác định của một giai đoạn phát triển tâm lí nhất định, khác với các giai đoạn
khác. Sự phát triển nhân cách là quá trình liên tục tạo ra những cấu tạo tâm lí mới. Những cấu tạo
tâm lí mới này tương đối ổn định tiềm tàng trong mỗi cá nhân, nó nói lên bộ mặt tâm lí xã hội cuả
mỗi cá nhân, qui định giá trị xã hội làm người của mỗi cá nhân.Nhân cách không dừng lại, không
cố định, nó có thể phát triển hoàn thiện, có thể bị suy thoái. Nhân cách là một cấu trúc tâm lí trọn
vẹn, ổn định và thống nhất, đồng thời mang tính tích cực và tính giao lưu với tư cách là chức năng
xã hội, giá trị xã hội, cốt cách làm người.
* Nhân cách con người có khả năng tự điều chỉnh và chịu sự điều chỉnh từ phía xã hội
Khả năng tự điều chỉnh và chịu sự điều chỉnh từ phía xã hội của nhân cách là khác nhau
tùy theo lứa tuổi, tùy theo trình độ phát triển nhân cách của cá nhân. Nhân cách là cái sinh thành
và phát triển trong suốt cuộc đời của con người, biểu hiện trong hoạt động và mối quan hệ giao
lưu của cá nhân trong xã hội. Khả năng tự điều chỉnh nhân cách và chịu sự điều chỉnh từ phía xã
hội của nhân cách nếu không được hình thành sẽ dẫn đến hiện tượng phân đôi nhân cách và hành
vi có tính hai mặt. Vì nhân cách mang tính tương đối ổn định nên ta có thể dự kiến trước được
hành vi của một nhân cách nào đó trong tình huống này hay tình huống khác. Qua hoạt động, giáo
dục và rèn luyện có thể thay đổi được nét nhên cách cũ và hình thành nét nhân cách mới. Mỗi cá
nhân có vị trí, vai trò, môi trường hoạt động khác nhau, chúng không cố định mà luôn thay đổi.
Do vậy, trong môi trường hoạt động mới với vị trí và vai trò khác nhau con người sẽ hình thành
thêm những phẩm chất nhân cách mới cho phù hợp. Phát triển khả năng tự điều chỉnh nhân cách
cho học sinh là công việc cần thiết của mỗi người giáo viên, tuy nhiên cần chú ý cách tiếp cận và
phương thức điều chỉnh nhân cách từ phía xã hội như: Khen thưởng, trách phát, khuyến khích,
động viên hay kỉ luật ..vv, tất cả đều mang tính nghệ thuật, khoa học.
c. Cấu trúc nhân cách
Trong tâm lý học nhân cách còn hiện tồn nhiều loại quan điểm khác nhau về nhân cách
cũng như về cấu trúc tâm lý của nó. Nghiên cứu để nắm vững được những thành phần tâm lý trong
cấu trúc của nhân cách sẽ được coi là một việc làm rất cần thiết và có ý nghĩa về mặt lý luận cũng
như phương pháp luận cơ bản, chỉ đạo cho việc thực hiện những tác động hình thành nhằm phát
triển đầy đủ tất cả những yếu tố hợp thành đó cho học sinh. Giống như bất kỳ một sự vật hiện tượng
nào, nhân cách cũng có một cấu tạo nhất định. Tùy theo quan niệm về bản chất nhân cách mỗi tác
giả đưa ra quan điểm khác nhau về cấu trúc của nhân cách như tiến hành phân tích nhân cách theo
hai thành phần, ba thành phần và bốn thành phần. Sau đây, chúng ta sẽ tìm hiểu nội dung của một
số quan niệm cơ bản về cấu trúc nhân cách có liên quan đến phương thức thực hiện các quá trình
sư phạm trong nhà trường.
* Quan điểm coi cấu trúc nhân cách gồm hai thành phần Đức (phẩm chất) và Tài (năng lực) thống
nhất với nhau
Đức: là những phẩm chất đạo đức của con người, được thể hiện ở thái độ đối với công việc,
đối với người khác, đối với xã hội, đối với bản thân, được thể hiện bằng hệ thống hành vi (do khí
chất chi phối). Tài: là những phẩm chất năng lực của con người, nói lên khả năng của con người
trong công việc.
Phẩm chất (Đức) Năng lực (Tài)
- Các phẩm chất “xã hội” (đạo đức-chính trị): - Năng lực xã hội hoá: thích nghi, sáng tạo, cơ
thể giới quan, niềm tin, lí tưởng, lập trường, động, mềm dẻo…
quan điểm, thái độ chính trị, thái độ lao động - Năng lực chủ thể hoá: biểu hiện tính độc đáo,
đặc biệt là biểu giá trị xã hội (hay biểu định đặc sắc, cái riêng, cái bản lĩnh của cá nhân.
hướng giá trị). - Năng lực hành động: hành động có mục đích,
- Các phẩm chất “cá nhân”(hay đạo đức-tư có điều khiển, chủ động, tích cực…
cách): tính khí, tính nết, tính tình, tính khí, các - Năng lực giao lưu: thiết lập và duy trì quan
thói, các thú… hệ…
- Các phẩm chất ý chí của cá nhân: tính mục
đích, tính quyết đoán, kiên trì, chịu đựng…
- Các cung cách ứng xử hay tác phong.
4 Hình 4.1, 4.2..Trần Khánh Đức, Sư phạm kỹ thuật, NXB Giáo Dục, 2002
Mô hình nhân cách nghề nghiệp
Xu hướng nghề Kinh nghiệm nghề Đặc điểm tâm lý Đặc trưng sinh học
nghiệp nghiệp nghề nghiệp
Mô hình
Nhu cầu chung về con Cơ sở lý luận đào
nhân lực lao người Việt tạo và phát triển
động xã hội Nam nghề nghiệp
Hình 5.2. Sơ đồ hệ thống các mô hình nghiên cứu xây dựng mô hình nhân cách nghề nghiệp
Cấu trúc mô hình hoạt động nghề nghiệp trong giai đoạn hiện nay cần tính đến các loại hình
hoạt động sáng tạo trong lao động nghề nghiệp bên cạnh các loại hình thừa hành (các sáng kiến hợp lí
hóa tổ chức sản xuất, cải tiến công cụ công nghệ, nâng cao chất lượng sản phẩm, khả năng giải quyết
tình huống vấn đề mới nảy sinh trong lao động nghề nghiệp, khả năng di chuyển sang các loại hình lao
động khác … ).Trong qúa trình xây dựng mô hình nhân cách nghề nghiệp đã đặt ra việc lựa chọn loại
hình cấu trúc nhân cách nghề nghiệp cho thích hợp với yêu cầu của công tác hướng nghiệp và đào tạo
nghề.
Mô hình nhân cách nghề nghiệp xây dựng làm cơ sở để nghiên cứu và xây dựng mô hình đào
tạo và hoàn thiện mô hình đào tạo nghề nghiệp theo mô- đun, theo năng lực thực hiện (CBT). Nghiên
cứu và xây dựng mô hình nhân cách nghề nghiệp và giải quyết tốt các khía cạnh khác nhau của mô
hình nhân cách nghề nghiệp sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho các yêu cầu về chiến lược đào tạo nghề,
góp phần tích cực vào tìm kiếm các phương thức đào tạo mới thích hợp với điều kiện thực tiễn, nâng
cao chất lượng đào tạo nghề nghiệp ở nước ta.
Mô hình đào tạo nghề là quá trình thiết kế một quy trình đào tạo nghiêm ngặt trong một thời gian nhất
định để cho ra một sản phẩm nhất định (nhân cách nghề nghiệp được đào tạo). Trong quy trình này có
các giai đoạn liên quan chặt chẽ với nhau từ xác định nhu cầu đào tao, thiết kế chương trình, tuyển
chọn, tổ chức đào tạo, kiểm tra và đánh giá thích ứng nghề. Các giai đoạn này lại được phân ra nhiều
giai đoạn nhỏ hơn đảm bảo cho người học đạt được theo trình tự vạch sẵn những mục tiêu trung gian
tương ứng với các nội dung, phương pháp, phương tiện giảng dạy và các hình thức tổ chức, kiểm tra
đánh giá thích hợp với từng giai đoạn nhỏ trong quá trình đào ạo. Phướng hướng đáng chú ý trong đào
tạo nghề ở giai đoạnn hiện nay là phương thức đào tạo theo mô-đun đào tạo nghề, theo cách học chế
tín chỉ hoặc kết hợp các phương thức đào tạo này trong qui trình đào tạo thống nhất. Đặc biệt là tăng
cường và sử dụng có hiệu quả các trang thiết bị kĩ thuật dạy học trong đào tạo.
1.4.2. Sự hình thành nhân cách
Nhân cách không có sẵn bằng cách bộc lộ dần các bản năng nguyên thủy mà nhân cách là
cấu tạo tâm lí mới được hình thành trong quá trình sống- giao tiếp, vui chơi, học tập, lao động của
chính bản thân mỗi con người. Nhân cách được hình thành là cả một quá trình nảy sinh, hình thành
và chuyển hóa giữa các giai đoạn phát triển.
a. Qúa trình hình thành và phát triển nhân cách của con người có một số đặc điểm cơ bản sau:
* Tính không đồng đều trong sự phát triển nhân cách
Nhân cách con người gồm nhiều thuộc tính nhưng các thuộc tính tâm lí không hình thành
đồng thời cùng một lúc mà hình thành theo trật tự trước sau. Các thuộc tính tâm lí xuất hiện trước
là cơ sở, tiền đề cho các thuộc tính xuất hiện sau. Giữa các thuộc tính tâm lí mới và các thuộc tính
tâm lí cũ có mối liên hệ và tác động qua lại với nhau trong quá trình phát triển.
* Động lực của sự hình thành và phát triển nhân cách. Động lực của sự hình thành và phát triển
nhân cách là quá trình giải quyết mâu thuẫn giữa một bên là trình độ tâm lí đã đã đạt được và một
bên là yêu cầu mới của hoạt động. Trong quá trình phát triển có thể có các loại mâu thuẫn sau:
Mâu thuẫn giữa trình độ đạt được của nhân cách với các yêu cầu mới của hoạt động; Mâu thuẫn
giữa kĩ năng, kĩ xảo chưa được hình thành với yêu cầu mới của hoạt động học tập; Mâu thuẫn
giữa nề nếp, thói quen và tập quán cũ với yêu cầu mới của hoàn cảnh, môi trường sống và hoạt
động mới; Mâu thuẫn giữa các mặt, các thuộc tính tâm lí trong quá trình phát triển cá nhân.
* Quá trình hình thành và phát triển nhân cách có thể được chia thành ba giai đoạn lớn.
Giai đoạn thứ nhất: (từ lọt lòng đến 1 tuổi) , giai đoạn tuổi sơ sinh, đặc điểm của giai đoạn này là
hình thành tiền đề những mầm mống cơ bản của nhân cách.
Giai đoạn thứ hai: ( từ 1 đến 6 tuổi) là giai đoạn trước tuổi đi học. Là giai đoạn hình thành bộ
khung cơ bản của nhân cách, thường diễn ra tương đối êm đềm, không có biến động lớn.
Giai đoạn thứ ba: (từ 6 đến 18 tuổi),giai đoạn nhân cách được hình thành, phát triển và định hình.
b. Các yếu tố chi phối sự hình thành và phát triển nhân cách
Qúa trình hình thành chịu sự chi phối của nhiều yếu tố: bẩm sinh- di truyền, môi trường
tự nhiên và hoàn cảnh xã hội, giáo dục, hoạt đông cá nhân..vv. Mỗi yếu tố đều có vai trò nhất định.
Với tính chất là phương thức, là con đường giáo dục, hoạt động, giao tiếp và tập thể có vai trò
quyết định trực tiếp sự hình thành và phát triển nhân cách con người.
*Yếu tố bẩm sinh, di truyền(yếu tố sinh học)
Sau tiếng khóc chào đời đứa trẻ là một con người (về mặt thực thể sinh học)nhưng chưa
phải là một nhân cách. Bởi vì toàn bộ đặc điểm sinh học của cơ thể người(dáng đi, diện mạo, vẻ
mặt..vv.) được hình thành theo cơ chế di truyền sinh học qua gen nằm bên trong con người, truyền
từ thế hệ trước sang thế hệ sau. Vì vậy con cái thường giống bố, mẹ: “Giỏ nhà ai, quai nhà nấy’’
Hay “Trứng rồng lại nở ra rồng, Lưu điu lại nở ra dòng lưu đưu.”, “ Con nhà tông không giống
lông cũng giống cánh.” Khoa học hiện đại đã chứng minh được rằng: Di truyền có vai trò nhất
định đối với một số đặc điểm sinh vật (màu mặt, màu tác, màu da…) và sinh lý song di truyền
không đóng vai trò quyết định đối với sự hình thành nhân cách. Nhân cách không được sinh ra mà
được hình thành trong đời sống cá thể theo con đường di truyền xã hội. Xét sự phát triển tâm lí
trong đời sống cá thể thì nhân cách là sản phẩm muộn trong đời sống tâm lí con người. Nhân cách
được hình thành là cả một quá trình nảy sinh, chuyển hóa giữa các giai đoạn phát triển. Con người
bành chính hoạt động của mình lĩnh hội tri thức, kinh nghiệm tạo nên nhân cách . Những kết quả
nghiên cứu cho thấy: Chỉ trong một số năng lực có mầm mống di truyền các tư chất, nhưng từ chỗ
đó đến sự hình thành năng lực hoàn chỉnh, hình thành tài năng và thiên tài còn rất xa. Những tư
chất phải được nuôi dưỡng và phát triển đúng thì bằng những hoạt động thích hợp, đúng cách,
trong môi trường thuận lợi mới trở thành năng lực. Tiếp đó, phải tập dượt, rèn luyện có hệ thống
để lĩnh hội hệ thống các tri thức, kỹ năng, thái độ, tình cảm, phẩm chất, ý chí… thích hợp, đồng
bộ thì năng lực mới phát triển thành tài.
* Yếu tố môi trường
Môi trường tự nhiên bao gồm các đặc điểm về điều kiện địa lý, khí hậu, kinh tế, văn hoá,
lịch sử…vv. Môi trường này có ảnh hưởng tới nhân cách của cá nhân trong những nhóm người cụ
thể theo các quan hệ giữa cá nhân với nhóm và các quan hệ liên nhân cách trong nhóm…
Môi trường xã hội (yếu tố xã hội). Môi trường xã hội bao gồm các tác động của yếu tố môi trường
vĩ mô- môi trường xã hội rông lớn về không gian, thời gian như: các di sản văn hóa vật thể và phi
vật thể hoặc viễn cảnh tương lai của đất nước. Môi trường vi mô – giới hạn trong phạm vi hẹp,
gắn với cuộc sống hàng ngày của trẻ em như gia đình, nhà trường, …vv. Cả hai loại môi trường
đều là nguồn gốc, điều kiện xã hội cần thiết nhưng không quyết định trực tiếp cho sự hình thành
và phát triển nhân cách. Hoạt động, giao tiếp của cá nhân giữ vai trò quyết định trực tiếp cho sự
hình thành và phát triển nhân cách. Tâm lí, nhân cách chỉ được hình thành và phát triển trong hoạt
động và giao tiếp. A. N. lêônchiev đã khẳng định “Quá trình đứa trẻ lĩnh hội những hành động đặc
thù cảu con người diễn ra trong giao tiếp”.
Giáo dục bao gồm giáo dục xã hội, giáo dục nhà trường và giao dục gia đình, trong đó giao
dục nhà trường là cơ bản giữ vai trò chủ đạo, điều khiển quá trình hình thành và phát triển nhân
cách.
* Yếu tố cá nhân. Hoạt động là phương thức tồn tại của con người, là nhân tố quyết định trực tiếp
sự hình thành và phát triển nhân cách. Hoạt động của con người là hoạt động có mục đích, mang
tính xã hội, mang tính cộng đồng, được thực hiện bằng những thao tác nhất định với những công
cụ nhất định.Thông quá 2 quá trình đối tượng hóa và chủ thể hóa trong hoạt động mà nhân cách
được bộc lộ và hình thành. Con người lĩnh hội kinh nghiệm xã hội lịch sử bằng kinh nghiệm của
bản thân để hình thành nhân cách.
* Hoạt động chủ đạo. Trong tâm lí học, nhờ sự phân tích các đặc điểm lứa tuổi để xác định dạng
hoạt động chính và ý nghĩa của nó đối với sự hình thành và phát triển tâm lí, nhân cách, khái niệm
hoạt động chủa đạo đã ra đời.
Hoạt động chủ đạo là hoạt động mà sự phát triển của nó qui định những biến đổi chủ yếu nhất
trong các quá trình tâm lí và trong các đặc điểm tâm lí của cá nhân ở giai đoạn phát triển nhất
định.
Hoạt động chủ đạo có ba đặc điểm cơ bản : Hoạt động này lần đầu tiên xuất hiện trong đời
sống cá nhân. Khi đã là hoạt đọng chủ đạo thì trong lòng nó đã nảy sinh yếu tố của hoạt động mới
khác – dạng hoạt động chủ đạo ở lứa tuổi tiếp theo; Khi đã nảy sinh, hình thành và phát triển thì
không mất đi mà tiếp tục tồn tạ mãi; Hoạt động này quyết định sự ra đời thành tựu mới (cấu tạo
tâm lí mới ) đặc trưng cho một lứa tuổi.
Sự hình thành và phát triển nhân cách của mỗi người phụ thuộc vào hoạt động chủ đạo ở mỗi thời
kỳ nhất định. Muốn hình thành nhân cách con người phải tham gia vào các hoạt động khác trong
đó đặc biệt chú ý tới vai trò của hoạt động chủ đạo. Tâm lí học đã phát hiện được ở mỗi giai đoạn
lứa tuổi một hoạt động chủ đạo. Ví dụ: tuổi mẫu mẫu giáo hoạt độngchủ đạo là vui chơi, tuổi học
sinh tiểu học là học tập, tuổi trưởng thành là hoạt động lao động…
Tóm lại, hoạt động có vai trò quyết định trực tiếp sự hình thành và phát triển nhân cách
nên trong công tác giáo dục cần chú ý thay đổi làm phong phú nội dung, hình thức, cách tổ chức
hoạt động để lôi cuốn cá nhân tích cực tham gia tự giác vào các hoạt động đó.
* Giao tiếp
Giao tiếp là điều kiện tồn tại của cá nhân và xã hội làm người, nhu cầu giao tiếp là một
trong những nhu cầu xã hội cơ bản, xuất hiện sớm nhất ở con người.Theo C.Mác: “Sự phát triển
của một cá nhân được qui định bởi sự phát triển của tất cả các cá nhân khác và nó giao lưu một
cách trực tiếp và gián tiếp với họ”.
Nhờ quá trình giao tiếp con người gia nhập vào các quan hệ xã hội, lĩnh hội nền văn hoá
xã hội trong nhóm các quan hệ xã hội và “ tổng hòa” các quan hệ xã hội làm thành bản chất con
người. Đồng thời thông qua quá trình giao tiếp, con người đóng góp tài lực của mình vào kho tàng
chung của nhân loại, của xã hội.
Trong giao tiếp con người không chỉ nhận thức người khác, nhận thức các quan hệ xã hội
mà còn nhận thức chính mình, tự so sánh đối chiếu mình với người khác,so snahs với chuẩn mực
xã hội, tự đánh giái bản thân mình để hình thành một thái độ giá trị - cảm xúc đối với bản thân,
hình thành năng lực tự ý thức.
Tóm lại, giao tiếp là hình thức đặc trưng cho mối quan hệ người - người, là một nhân tố cơ
bản của việc hình thành phát triển tâm lí, ý thức, nhân cách.
* Tập thể và nhân cách
Nhân cách con người được hình thành phát triển trong môi trường xã hội. Song đó là môi
trường xã hội cụ thể: Gia đình, làng xóm, quê hương là các nhóm cộng đồng, tập thể mà họ là
thành viên.
- Gia đình là nhóm cơ sở, là cái nôi đầu tiên của nhân cách con người từ thời thơ ấu.
- Con người là thành viên của các nhóm nhỏ, nhóm chính thức, không chính thức. Các
nhóm nhỏ có thể ảnh hưởng trực tiếp tới sự hình thành và phát triển nhân cách.
Các nhóm có thể đạt tới trình độ, phát triển cao được gọi là tập thể, tập thể có vai trò lớn
với sự hình thành và phát triển nhân cách. Các ảnh hưởng của các quan hệ xã hội tới trong cá nhân
cũng được thông qua nhóm, ảnh hưởng của cá nhân đến xã hội cũng thông qua nhóm. Tập thể là
một nhóm người, một bộ phận xã hội được thống nhất lại theo những mục đích chung, phục tùng
các mục đích của xã hội. Tập thể có ảnh hưởng trực tiếp đến sự hình thành và phát triển nhân cách.
Trong tập thể diễn ra các hình thức hoạt động đa dạng, phong phú và các mối quan hệ giao tiếp
giữa các cá nhân và cá nhân, cá nhân với nhóm, nhóm với nhóm. Ảnh hưởng của xã hội, các mối
quan hệ xã hội thông qua các nhóm và tác động đến từng người. Ngược lại, mỗi cá nhân tác động
đến cộng đồng, tới xã hội, tới cá nhân khác cũng thông qua các tổ chức nhóm và tập thể mà nó là
thành viên. Tác động của tập thể tới nhân cách qua hoạt động cùng nhau, qua dư luận tập thể,
truyền thống tập thể, bầu không khí tâm lí tập thể. Vì thế trong giáo dục thường vận dụng nguyên
tắc giáo dục bằng tập thể và trong tập thể.
1.4.3. Quan niệm về sự phát triển tâm lí người theo lứa tuổi
a. Quan niệm về sự trưởng thành và phát triển
Trưởng thành là sự hiện thực hóa các yếu tố của cơ thể, được mã hóa trong các gen, dưới
tác động của các yếu tố ngoại cảnh. Sự trưởng thành cơ thể dường như được lập trình sẵn và ít
phụ thuộc vào sự học của cá thể.
Phát triển là sự thay đổi có tính hệ thống của cá nhân, do sự học mang lại. Đó là sự hình
thành cái mới của cá nhân, trong một hoàn cảnh xã hội cụ thể. Học sinh có kiến thức khoa học về
thế giới tự nhiên, xã hội và các kỹ năng quan hệ xã hội; có thái độ yêu, ghét đối với các hành vi
tốt hay xấu của người khác và của bản thân..., không phải do tự nhiên có mà đều phải thông qua
học tập và trải nghiệm của mỗi cá nhân. Trưởng thành cơ thể và phát triển tâm lí tuy là hai vấn đề
khác nhau, nhưng giữa chúng có ảnh hưởng lẫn nhau. Chằng hạn: Sự trưởng thành về vận động
như dáng đứng thẳng, biết đi của trẻ em nhỏ tuổi hay sự dậy thì của các em bé 13 - 15 tuổi..vv,
ảnh hưởng nhiều đến tâm lí của các lứa tuổi tương ứng.
* Phát triển là sự thay đổi các hành động bên ngoài dẫn đến sự thay đổi cấu trúc bên trong. Sự
phát triển của cá nhân được thể hiện ở hai khía cạnh: Thứ nhất, sự phát triển bao hàm cả sự biến
đổi hệ thống hành động bên ngoài và biến đổi hệ thống cấu trúc bên trong. Đến lượt nó, các cấu
trúc tâm lí được hình thành sẽ là khuôn mẫu điều khiển các ứng xử tiếp sau.
* Quá trình phát triển tâm lí bao hàm sự tăng trưởng và sự phát triển. Tăng trưởng là sự biến đổi
dần dần và tăng thêm về số lượng hoặc mức độ của một cấu trúc đã có. Phát triển là sự biến đổi
về phương diện cấu trúc hay tổ chức lại cái đã có. Kết quả là tạo ra cấu trúc mới. Cấu trúc tâm lí
được hiểu là các mô hình (các sơ đồ, các kí hiệu) tâm lí được hình thành do chuyển các mô hình
(sơ đồ, kí hiệu) từ bên ngoài vào và được tổ lại ở trong đầu.Trong quá trình phát triển của cá nhân
thường xuyên diễn ra hai mức độ đan xen liên tiếp và hệ quả của nhau: Quá trình tăng trưởng(về
số lượng và mức độ) và phát triển (biến đổi về chất, tạo ra một cấu trúc mới).
*Phát triển là quá trình chủ thể tạo các cấu trúc mới, bằng cách cải tổ lại cấu trúc đã có.Phát
triển không phải là hình thành và xếp chồng các cấu trúc mới lên nhau, mà là quá trình thống hợp
các cấu trúc đã có vào các cấu trúc đang hình thành, tạo thành hệ thống cấu trúc trọn vẹn. Hoạt
động sinh thành ra cấu trúc mới của chủ thể phụ thuộc hai yếu tố: yếu tố tiềm lực của cá nhân (các
đặc điểm thể chất , vốn đặc điểm thể chất, vốn kinh nghiệm đa có..) và mức độ cá nhân khai thác,
huy động các tiềm lực đó vào hoạt động và yếu tố sự chế ước của các điều kiện tự nhiên, xã hội,
các quan hệ xã hội mà cá nhân đang sống và tham gia. Toàn bộ những yếu tố đó quy định hoạt
động của con người, quy định sự phát triển người.
* Phát triển là quá trình cá thể hóa, chủ thể hóa và là quá trình tạo ra bản sắc riêng của mỗi cá
nhân. Quá trình này được diễn ra theo hai hướng:
- Thứ nhất, quá trình cá nhân đi từ phụ thuộc vào người khác đến độc lập và trở thành chủ
thể của chính mình; Thứ hai, quá trình phát triển của cá nhân là quá trình tạo ra bản sắc riêng của
mỗi cá nhân.
Trong quá trình cá thể hóa, chủ thể hóa và tạo ra bản sắc riêng của mỗi cá nhân, những
bước đi ban đầu trong quá trình phát triển của trẻ em thường rất quan trọng. Điều này giống như
người chơi cờ đi những nước đầu tiên. Nếu đúng hướng sẽ thuận lợi và thành công , ngược lại, nếu
sai lầm thì cơ hội thắng lợi sẽ ít và tùy thuộc vào khả năng khắc phục trong những bước đi tiếp
theo. Vì vậy, quan hệ sự định hướng và giáo dục của người lớn đối với trẻ em trong những giai
đoạn đầu tiên của cuộc đời có vai trò to lớn đối với sự phát triển tâm lí của mỗi cá nhân.
b. Cơ chế hình thành và phát triển tâm lí người
* Sự phát triển tâm lí cá nhân là quá trình chủ thể lĩnh hội những kinh nghiệm lịch sử - xã hội,
biến thành những kinh nghiệm riêng
Ở con vật có hai loại kinh nghiệm: kinh nghiệm loài được mã hóa trong các gen di truyền
và kinh nghiệm cá thể, do chính cá thể tạo ra trong quá trình sống.Kinh nghiệm cá thể với từng cá
thể và sẽ mất cùng với cá thể. Khác với con vật, con người tác động vào môi trường, để lại dấu ấn
của mình bằng các sản phẩm hoạt động. Hình thành các kinh nghiệm xã hội, tồn tại bên ngoài cá
nhân.
Kinh nghiệm xã hội là những kinh nghiệm được hình thành và tồn tài trong các mối quan
hệ giữa các chủ thể cùng sống trong xã hội đương thời. Đó là những kinh nghiệm của xã hội được
hình thành từ các lĩnh vực khác nhau. Tri thức khoa học về tự nhiên, xã hội và nhân văn, kinh
nghiệm ứng xử giữa người với người, giữa người với thế giới tự nhiên..., là các biểu hiện của kinh
nghiệm xã hội. Sự tích lũy các kinh nghiệm xã hội trong suốt chiều dài phát triển của xã hội hình
thành nên kinh nghiệm lịch sử. Kinh nghiệm lịch sử là dấu ấn đặc trưng tạo ra sự khác biệt giữa
con người với các loài động vật khác, chỉ có kinh nghiệm lời chứ không có kinh nghiệm lịch sử.
Kinh nghiệm lịch sử và kinh nghiệm xã hội kết hợp với nhau tạo thành hệ thống kinh
nghiệm xã hội - lịch sử và tồn tại trong đời sống xã hội (được kết tinh trong với con người). Đó
chính là kinh nghiệm văn hóa. Quá trình phát triển của cá nhân là quá trình cá nhân tiếp thu những
kinh nghiệm xã hội và kinh nghiệm lịch sử, biến chúng thành kinh nghiệm riêng của bản thân. Nói
cách khác, tâm lí của cá nhân có nguồn gốc ở bên ngoài và được chuyển vào bên trong của cá
nhân.
* Quá trình phát triển tâm lí của cá nhân được thực hiện thông qua sự tương tác giữa cá nhân với
thế giới bên ngoài
Quá trình cá nhân tiếp thu những kinh nghiệm xã hội kinh nghiệm lịch sử của cá nhân
không phải là sự chuyển từ bên ngoài vào bên trong một cách cơ học mà bằng cách tương tác giữa
chủ thể với đối tượng.Theo J. Piaget có hai loại tương tác: tương tác giữa trẻ em với thế giới đồ
vật, qua đó chủ yếu hình thành kinh nghiệm về những thuộc tính vật lí của sự vật và phương pháp
sáng tạo ra chúng và tương tác giữa trẻ em với người khác, qua đó chủ yếu hình thành kinh nghiệm
về các khuôn mẫu đạo đức, tư duy, lôgic...vv. Theo L.X. Vưgôtxki, ngay cả khi tương tác giữa trẻ
em với thế giới đồ vật cũng có sự hiện diện của người lớn và điều quan trọng là qua các quá trình
tương tác, trẻ học được cách sử dụng các đồ vật đó, tức là sử dụng được các kinh nghiệm xã hội
mà con người sáng tạo ra và mã hóa vào trong đồ vật. Mọi sự phát triển tâm lí bình thường của trẻ
em không thể diễn ra ở bên ngoài sự tương tác. Tương tác là nguyên lí bất di bất dịch của sự phát
triển.
* Sự hình thành và phát triển các cấu trúc tâm lí cá nhân thực chất là quá trình chuyển các hành
động tương tác từ bên ngoài vào bên trong của cá nhân (cơ chế chuyển vào trong)
Làm thế nào để trong quá trình tương tác giữa các kinh nghiệm xã hội - lịch sử, được mã
hóa trong thế giới đồ vật và trong thế giới đồ vật và trong thế giới quan hệ xã hội, chuyển chúng
thành kinh nghiệm của riêng mình? Để đạt được thành tựu này, chủ thể phải tiến hành quá trình
chuyển vào trong hay quá trình nhập tâm.
Quá trình chuyển vào trong là quá trình chuyển các hành động từ hình thức bên ngoài vào
bên trong và biến thành hành động tâm lí bên trong. Đó là quá trình biến hành động từ cấu trúc
vật lí thành cấu trúc tâm lí của cá nhân.
Giải thích của P.Ia.Galperin. Theo cách giải thích này, cơ chế chuyển vào trong có ba
điểm cơ bản: Thứ nhất , ở mức độ đầy đủ nhất, quá trình chuyển vào trong được bắt đầu tư hành
động với vật thật, bên ngoài và trải qua một số bước: Hành động với vật thật → hành động với lời
nói to → hành động với lời nói thầm không thành tiếng → hành động với lời nói thầm bên trong.
Trong đó, hành động với vật thật, hành động thực tiễn, là nguồn gốc của sự hình thành tâm lí.
Trong quá trình chuyển các bước, nội dung cấu trúc (bản chất) của đối tượng vẫn được giữ nguyên,
chỉ có sự thay đổi hình thức thể hiện của cấu trúc đó: hình thức thể hiện qua vật thật, hình thức
biểu hiện qua mô hình kí hiệu và hình thức ý nghĩ. Thứ hai, trong quá trình chuyển hành động :
hành động với đối tượng (hành động của chủ thể theo lôgic của đối tượng) và hành động chú ý của
chủ thể đến đối tượng và đến hành động với đối tượng. Càng tiến tới các bước sau của hành động
chuyển vào trong thì hành động giám sát và hành động với đối tượng càng sáp vào nhau. Ở bước
cuối cùng, hai hành động này nhập làm một, tạo thành cấu trúc tâm lí bao gồm nghĩa khách quan
của đối tượng được chuyển vào trong và ý chủ quan của chủ thể vè đối tượng đó. Đây là hai mặt
của bất kì một cấu trúc tâm lí nào được hình thành và phát triển trong đời sống cá nhân. Thứ ba,
quá trình chuyển hành động từ bên ngoài vào ben trong của cá nhân được định hướng khái quát có
hiệu quả hơn cả. Trong thực tế, cách định hướng khái quát có hiệu quả hơn cả. Trong thực tế, cách
định hướng này được thể hiện qua việc học phương pháp học, phương pháp làm việc trước khi bắt
tay vào thực hiện các nội dung cụ thể.
c. Qui luật phát triển tâm lí cá nhân
* Sự phát triển tâm lí của cá nhân diễn ra theo một trình tự nhất định, không nhảy cóc, không đốt
cháy giai đoạn
Sự phát triển và trưởng thành của cơ thể từ lúc bắt đầu là một hợp tử cho đến khi về già
trải qua tuần tự các giai đoạn:thai nhi, tuổi thơ, dậy thì, trưởng thành, ổn định, suy giảm, già yếu
và chết. Thời gian, cường độ và tốc độ phát triển các giai đoạn ở mỗi cá nhân có thể khác nhau,
nhưng mọi cá nhân phát triển bình thường đều phải trải qua các giai đoạn đó theo một trật tự
hằng định, không đốt cháy, không nhảy cóc, không bỏ qua giai đoạn trước để có giai đoạn sau. Sự
hình thành và phát triển các cấu trúc tâm lí của cá nhân cũng diễn ra theo quy định hằng định như
vậy. Sự hình thành và phát triển ngôn của trẻ em diễn ra theo loogic: tiếng khóc → tiếng kêu gừ
gừ → tiếng bập bẹ → phát âm theo khuôn mẫu của người lớn → câu một từ → câu vị ngữ → cụm
từ → câu 3 thành phần → câu phức hợp.
* Sự phát triển tâm lí cá nhân diễn ra không đồng đều
Qui luật này nói lên rằng trong sự phát triển của mỗi cá thể, các chức năng tâm lí không
cùng phát triển như nhau mà sự hình thành và phát triển của chúng diễn ra có thời điểm. Có nghĩa
là tại một thời điểm nào đó trong tiến trình phát triển sẽ có nhiều ưu thế cho sự phát triển một chức
năng tâm lí nhất định. Nếu có những tác động phù hợp thì sự hình thành và phát triển của nó sẽ
diễn ra thuận lợi và nhanh chóng. Ngược lại, nếu tại thời điểm ấy, một điều kiện nào đó cản trở sự
hình thành, phát triển chức năng đó thì mọi việc về sau sẽ khó khăn hơn rất nhiều. Biểu hiện:
- Sự phát triển cả thể chất và tâm lí diễn ra với tốc độ không đều qua các giai đoạn phát triển từ
sơ sinh đến trưởng thành. Xu hướng chung là chậm dần từ sơ sinh đến khi trưởng thành, nhưng
trong suốt quá trình đó có những giai đoạn phát triển với tốc độ rất nhanh, có giai đoạn chậm lại,
để rồi lại vượt lên ở giai đoạn sau.
- Có sự không đều về thời điểm hình thành, tốc độ, mức độ phát triển giữa các cấu trúc tâm lí
trong quá trình phát triển ở mỗi cá nhân. Chẳng hạn, thông thường, trẻ em phát triển nhận thức
và nhanh hơn so với phát triển ngôn ngữ; ý thức về các vật bên ngoài trước khi xuất hiện ý thức
về bản thân...
- Có sự không đều giữa các cá nhân trong quá trình phát triển cả về tốc độ và mức độ. Khi mới
sinh và lớn lên, mỗi cá nhân có cấu trúc cơ thể riêng (về hệ thần kinh, các giác quan và các cơ
quan khác của cơ thể). Đồng thời được nuôi dưỡng, được hoạt động trong những môi trường riêng
(gia đình, nhóm bạn, nhà trường...). Sự khác biệt đó tạo ra ở mỗi cá nhân có tiềm năng, điều kiện,
môi trường phát triển của mình, không giống người khác. Vì vậy giữa các cá nhân có sự khác biệt
và không đều về cả mức độ và tốc độ phát triển. Điều này đặt ra vấn đề là giáo giáo dục trẻ em
không chỉ quan tâm và tôn trọng sự khác biệt cá nhân trong quá trình phát triển của các em mà còn
cần phải tạo điều kiện thuận lợi để mỗi cá nhân phát huy đến mức tối đa mọi tiềm năng của mình,
để đạt đến mức phát triển cao nhất so với chính bản thân mình.
* Sự phát triển tâm lí cá nhân diễn ra tiệm tiến và nhảy vọt
Theo J. Piaget, sự hình thành và phát triển các cấu trúc tâm lí diễn ra theo cách tăng dần
về số lượng (tăng trưởng) và đột biến (phát triển, biến đổi về chất). Các nghiên cứu của S.Freud
và E. Erikson đã phát hiện sự phát triển các cấu trúc nhân cách của trẻ em diễn ra bằng cách tăng
dần các mối quan hệ với người lớn, dẫn đến cải tổ các cấu trúc nhân cách đã có, tạo ra cấu trúc
mới, để thiết lập sự cân bằng trong đời sống nội tâm của mình. Như vậy, trong quá trình phát triển
các cấu trúc tâm lí thường xuyên diễn ra và đan xen giữa hai quá trình: tiệm tiến và nhảy vọt. Hai
quá trình này có quan hệ nhân quả với nhau.
* Sự phát triển tâm lí cá nhân gắn bó chặt chẽ với sự trưởng thành cơ thể và sự tương tác giữa cá
nhân với môi trường văn hóa - xã hội
Tâm lí người là chức năng phản ánh của hoạt động sống của con người. Nó là thuộc tính
trội của hệ thống hoạt động sống đó. Khi cơ thể hoạt động sẽ sản sinh ra hiện tượng tâm lí, thực
hiện chức năng phản ánh và định hướng cho hoạt động của cả hệ thống đó. Vì vậy, sự phát triển
của các cấu trúc tâm lí gắn liền và phụ thuộc vào sự trưởng thành của cơ thể và vào mức độ hoạt
động của nó. Mức độ phát triển tâm lí phải phù hợp với sự trưởng thành của cơ thể. Nếu sự phù
hợp này bị phá vỡ sẽ dẫn đến bất bình thường trong quá trình phát triển của cá nhân (chậm hoặc
phát triển sớm về tâm lí so với sự phát triển của cơ thể). Mặt khác, cá nhân muốn tồn tại và phát
triển phải hoạt động. Nhưng hoạt động được diễn ra không phải "trên không trung", mà bao giờ
cũng trong môi trường hiện thực. Ở đó có rất nhiều lực lượng trực tiếp và gián tiếp tác động, chi
phối và quy định hoạt động của cá nhân diễn ra trong sự tương tác chặt chẽ giữa ba yếu tố: chủ thể
hoạt động, yếu tố thể chất và môi trường. Sự tương tác giữa ba yếu tố này tạo nên tam giác phát
triển của mọi cá nhân.
* Sự phát triển tâm lí cá nhân có tính mềm dẻo và có khả năng bù trừ
Các nhà tâm lí học hành vi cho thấy, có thể điều chỉnh, thậm chí làm mất một hành vi khi
đã được hình thành. Điều này nói lên tính có thể thay đổi, thay thế được của các hành vi trong quá
trình phát triển.
Các công trình nghiên cứu của A.Adler5 cho thấy, con người, ngay từ nhỏ đã có xu hướng
vươn tới sự tốt đẹp. Trong quá trình đó, cá nhân thường ý thức được sự thiếu hụt, yếu kém của
mình và chính sự ý thức đó là động lực thúc đẩycá nhân khắc phục, bù trừ sự thiếu hụt đó. Đứa trẻ
muốn nhìn tất cả nếu nó bị mù, muốn nghe tất cả nếu tai của nó bị khiếm khuyết, muốn nói nếu nó
gặp khó khăn về ngôn ngữ ... Xu hướng bù trừ trong tâm lí là quy luật tâm lí cơ bản trong quá
trình phát triển. Thậm chí, sự bù trừ có thể quá mức (siêu bù trừ), dẫn đến chuyển hóa sự yếu kém
trở thành sức mạnh. Các nghiên cứu của K.Lashley 6 và cộng sự về cơ chế hoạt động của võ não
đã cho thấy, nếu một vùng nào đó trên vỏ não đang hoạt động với một chức năng nhất định, khi
vùng đó bị cắt bỏ thì các vùng khác của võ não sẽ thay thế vùng vỏ não bị cắt và hoạt động bị mất
sẽ được khôi phục.Như vậy, cả về phương diện hành vi bên ngoài, cả cấu trúc tâm lí bên trong và
cơ chế sinh lí thần kinh của võ não đều cho thấy sự linh hoạt và khả năng bù trừ của cá nhân trong
quá trình phát triển.
Việc phát hiện quy luật về tính mềm dẻo và bù trừ trong quá trình phát triển tâm lí đã vạch
ra cơ sở khoa học cho việc điều chỉnh sự lệch lạc và khắc phục sự chậm trễ, hẫng hụt tâm lí của cá
nhân do các tác động từ phía chủ thể và từ phía môi trường, đem lại sự cân bằng và phát triển bình
thường cho cá nhân.
d. Các giai đoạn phát triển tâm lí theo lứa tuổi
* Khái niệm giai đoạn lứa tuổi
Theo nguyên lí chung của mọi sự phát triển trong thế giới, sự phát triển tâm lí của con
người từ lúc sinh ra cho đến khi qua đời trải qua nhiều giai đoạn (gọi là giai đoạn lứa tuổi). Có
nhiều quan niệm về sự phân chia giai đoạn phát triển tâm lí theo lứa tuổi. Có quan niệm khẳng
định tính chất bất biến, tính tuyệt đối của các giai đoạn lứa tuổi và cho rằng lứa tuổi gắn liền với
việc hiểu sự phát triển tâm lí như là một quá trình sinh vật tự nhiên. Quan niệm đối lập lại phủ
nhận khái niệm lứa tuổi.Trong trường hợp này, sự phát triển chỉ được xem là sự tích lũy các kiến
thức và các kỹ xảo một cách đơn giản.
5
Alfed Adler (1870 - 1937), nhµ ph©n t©m häc kiÖt xuÊt.
6
Karl Spencer Lashley (1890-1958), nhµ sinh lÝ thÇn kinh, nhµ T©m lÝ häc hµnh vi ng-êi MÜ, chÞu ¶nh h-ëng nhiÒu
cña T©m lÝ häc Gestall.
Việc xác định chính xác các giai đoạn phát triển tâm lí, tìm ra qui luật đặc thù của sự phát
triển tâm lí trong từng giai đoạn cũng như qui luật, cơ chế chuyển từ giai đoạn lứa tuổi này sang
lứa tuổi khác có ý nghĩa to lớn về mặt lí luận và thực tiễn. Sự phát triển tâm lí con người là quá
trình chuyển đổi liên tục từ cấp độ này sang cấp độ khác. Ở mỗi cấp độ lứa tuổi, sự phát triển tâm
lí đạt tới một chất lượng mới và diễn ra theo các qui luật đặc thù. L.X Vưgốtxki(nhà tâm lí học
Liên Xô) đã căn cứ vào những thời điểm mà sự phát triển tâm lí có những đột biến để xác định
thời kì phát triển tâm lí. A. N. Lêônchiev chỉ ra rằng sự phát triển tâm lí của con người gắn liền
với sự phát triển hoạt động của con người trong thực tiễn đời sống của nó, trong đó một số hoạt
động đóng vai trò chính (chủ đạo) trong sự phát triển, một số hoạt động khác giữ vai trò phụ. Sự
hình thành và phát triển các cấu trúc tâm lí mới của cá nhân trải qua nhiều giai đoạn. Mỗi giai đoạn
phát triển tâm lí của cá nhân có các đặc trưng sau:
- Thứ nhất: Mỗi giai đoạn phát triển tương ứng với một hoạt động chủ đạo của cá nhân.
Hoạt động chủ đạo là hoạt động mà sự hình thành phát triển của nó quy định những biến đổi chủ
yếu, quan trọng nhất trong các quá trình tâm lí và các đặc điểm tâm lí của cá nhân ở giai đoạn lứa
tuổi nhất định. Theo ông mỗi hoạt động chủ đạo đều tương ứng với một giai đoạn lứa tuổi. Chẳng
hạn các nhà tâm lí học đã chỉ rõ: Hoạt động học tập là hoạt động chủ đạo ở lứa tuổi học sinh vì các
đặc trưng tâm lí cả lứa tuổi này được hình thành và phát triển chủ yếu thông qua hoạt động này.
Các hoạt động chủ đạo ảnh hưởng và có tác dụng quyết định chủ yếu nhất đối với sự hình
thành, phát triển các phẩm chất nhân cách và các khả năng nhận thức, đặc trưng cho giai đoạn
phát triển đó của cá nhân, đồng thời diễn ra sự hình thành hoạt động chủ đạo mới của giai đoạn
phát triển tiếp theo, nó cũng qui định tính chất của các hoạt động khác.
- Thứ hai: Mỗi giai đoạn được đặc trưng bởi các cấu trúc tâm lí mới mà ở các giai đoạn
trước đó chưa có. Đây là đặc trưng điểm hình nhất để xác định các giai đoạn phát triển. Tuy nhiên,
trong một thời điểm lứa tuổi có rất nhiều cấu trúc tâm lí mới được hình thành, Vì vậy, trên thực tế,
cùng một lứa tuổi của cá nhân có thể được gọi bằng các tên khác nhau, tùy theo cáu trúc tâm lí
được nhà nghiên cứu phát hiện. Mốc giới tuyệt đối của các lứa tuổi không cố định mà có sự xê
dịch đoi chút.
- Thứ ba: Trong mỗi giai đoạn phát triển đều có thời điểm rất nhạy cảm, thời điểm thuận
lợi nhất để cá nhân hình thành và phát triển các cấu trúc tâm lí điển hình của giai đoạn đó. Chẳng
hạn, thời kì từ 7 đến 11 tuổi là thời thuận lợi để trẻ em phát triển các thao tác trí tuệ cụ thể, từ 15
đến 18 tuổi là thời kì thuận lợi để hình thành và phát triển ý thức xã hội hay trách nhiệm công
dân... Nếu nhà giáo dục nắm được thời điểm nhạy cảm của mỗi lứa tuổi sẽ dễ dàng hơn và đạt hiệu
quả cao hơn trong việc hình thành và phát triển cá nhân.
- Thứ tư: Ở thời điểm chuyển tiếp giữa hai giai đoạn lứa tuổi thường xuất hiện sự khủng
hoảng. Đó là thời điểm cá nhân thường rơi vào trạng thái tâm lí không ổn định, rối loạn, hẫng hụt,
hay xuất hiện những biến đổi bất ngờ, khó lường trước, làm ảnh hưởng rất lớn đến nhịp độ, tốc độ
và chiều hướng phát triển của cá nhân trong giai đoạn tiếp sau. Trong thời kì khủng hoảng, cá nhân
rất khó tiếp xúc, rất khó tác động. Tại thời điểm đó, dường như có sự khép kín tâm hồn của cá
nhân; xuất hiện xu thế thụt lùi, tạm dừng phát triển. Trong giai đoạn học phổ thông, ở các thời
điểm khủng hoảng, học sinh thường ít hứng thú với việc học tập, giảm thành tích học tập, cuộc
sống nội tâm thường dằn vặt, mệt mỏi và chán nản.
* Các giai đoạn phát triển tâm lí theo lứa tuổi. Các nhà tâm lí học đã dựa vào các căn cứ khác
nhau để phân chia giai đoạn lứa tuổi: Phái nhi đồng học dựa vào tính chất và sự thay đổi của răng;
J.Piaget căn cứ vào sự hình thành và phát triển các cấu trúc nhận thức và trí tuệ của cá nhân để
xác định các giai đoạn lứa tuổi. S. Freud dựa vào sự chin muồi cảu accs cơ quan sinh lí; H. Vallon
dưa vào cảm xúc; E. Erikson dựa vào các giai đoạn phát triển tâm lí xã hội và các cuộc khủng
hoảng của cá nhân, E. Erikson nhấn mạnh khía canh văn hóa và xã hội của sự phát tiển của cá
nhân. …
Các nhà tâm lí học Mácxít theo lí thuyết hoạt động thường căn cứ vào đặc trưng mối quan
hệ, sự tương tác giữa cá nhân với các yếu tố của môi trường và vào đặc trưng hoạt động chủ đạo
của cá nhân để phân chia các giai đoạn lứa tuổi như sau:
- Giai đoạn tuổi sơ sinh và hài nhi: Hoạt động chủ đạo là giao tiếp xúc cảm trực tiếp với mẹ và
người lớn. Quan hệ chủ yếu là sự gắn bó mẹ - con. Giai đoạn này trải qua hai thời kì:
- Thời kì sơ sinh(0- 2 tháng đầu)
- Thời kì hài nhi (2 tháng -12 tháng) , nhu cầu hiểu biết về mối quan hệ xúc cảm, nhu cầu
giao tiếp
- Giai đoạn trước tuổi học. Giai đoạn này trải qua hai thời kì:
- Thời kì Ấu nhi (1-3 tuổi): Hiểu biết về đối tượng. Lớp quan hệ chủ yếu là Mẹ và người
lớn, thế giới đồ vật. Tương tác mẹ - con và hành động với đồ vật là hành động chủ đạo.
- Thời kì Mẫu giáo (3 - 6 tuổi): Quan hệ xã hội và thế giới đồ vật, kiến thức về quan hệ với
thế giới bên ngoài. Hoạt động chơi là hoạt động chủ đạo mà trò chơi đóng vai theo chủ đề là trung
tâm .
- Giai đoạn tuổi đi học Giai đoạn này trải qua ba thời kì:
- Thời kì Nhi đồng (6-11 tuổi): Tri thức khoa học nền tảng. Hoạt động chủ đạo là học tập
- Thời kì Thiếu niên (11-15 tuổi): Tri thức khoa học và thế giới bạn bè, Hoạt động học tập
và quan hệ bạn bè. Giao tiếp cá nhân thân tình là hoạt động chủ đạo.
- Thời kì Thanh niên (15-25 tuổi): Tri thức khoa học – định hướng nghề nghiệp; quan hệ
xã hội; hoạt động học tập - nghề nghiệp. Trong đó, hoạt động xã hội là chủ đạo.
- Giai đoạn trưởng thành:Thời kì trưởng thành (25-60 tuổi): Hoạt động chủ đạo là nghề
nghiệp và quan hệ xã hội. Hoạt động nghề nghiệp, hoạt động xã hội
- Giai đoạn tuổi già: Thời kì tuổi già, từ sau tuổi về hưu, (sau 60 tuổi): Quan hệ xã hội.