You are on page 1of 53

CHƯƠNG 2

HOẠT ĐỘNG – GIAO TIẾP – NHÂN CÁCH


-----------------------------------------------------------------------------------------
Quá trình sống là quá trình con người liên tục thực hiện các quan hệ với thế giới xung
quanh (gồm con người với thế giới đồ vật). Quá trình thực hiện các mối quan hệ với thế giới xung
quanh chính là hoạt động và giao tiếp. Quá trình tác động qua lại giữa con người với thế giới đồ
vật được gọi là hoạt động có đối tượng. Quá trình tác động qua lại giữa con người với con người
được gọi là giao tiếp. Trong hoạt động con người không đơn độc mà có sự hợp tác cùng nhau tạo
ra các sản phẩm và trao đổi các sản phẩm để thỏa mãn các nhu cầu khác nhau của mình. Như vậy
hoạt động của con người không thể tách rời giao tiếp. Hoạt động và giao tiếp luôn gắn bó với nhau.
Tương tự như vậy, không thể xem xét tâm lí, ý thức con người ngoài hoạt động, ngoài giao tiếp.
Đồng thời khi xem xét hoạt động, giao tiếp cũng thế. Hoạt động và giao tiếp không thể diễn ra mà
lại không có tâm lí, ý thức tham gia vào. Vậy hoạt động là gì? Hoạt động có vai trò như thế nào
đối với sự hình thành, phát triển tâm lí?
1.1. HOẠT ĐỘNG
1.1.1. Khái niệm hoạt động
a. Hoạt động là gì?
Hoạt động là phạm trù cơ bản của tâm lí học. Hoạt động là phương thức tồn tại của con
người trong thế giới xung quanh. Con người sống là con người hoạt động. Tùy theo góc độ khoa
học mà nhìn nhận, định nghĩa hoạt động khác nhau. Theo triết học, hoạt động là sự tác động qua
lại giữa chủ thể và khách thể, ở góc độ sinh học hoạt động được định nghĩa là quá trình tiêu hao
năng lượng thần kinh và cơ bắp để tạo ra sản phẩm. Theo tâm lí học, hoạt động được hiểu là quá
trình tác động qua lại gữa con người với thế giới xung quanh để tạo ra sản phẩm cả về phía thế
giới và về phía con người. Như vậy hoạt động là một hình thức tích cực của mối quan hệ biện
chứng giữa con người và thế giới xung quanh. Mối quan hệ đó diễn ra theo hai chiều giữa chủ thể
là con người với khách thể. Khách thể bao gồm có các sự vật, hiện tượng trong thiên nhiên, thế
giới đồ vật, công cụ, máy móc…vv do con người sáng tạo ra, các kí hiệu tượng trưng…vv. Chủ
thể tác động vào đối tượng (một hay một số đối tượng nào đó trong khách thể) (hình3.)
Quá trình đối tượng
hóa

Chủ thể Tác động Đối tượng

Quá trình chủ thể hóa

Hình3. Sơ đồ hoạt động


Như vậy, hoạt động bao giờ cũng có đối tượng là vật thể, khái niệm, quan hệ giao tiếp…vv
để tạo ra sản phẩm vật chất hay tinh thần. Mỗi hoạt động luôn bao gồm hai quá trình diễn ra đồng
thời, thống nhất và biện chứng đó là quá trình đối tượng hoá và quá trình chủ thể hoá.
b. Quá trình đối tượng hoá và quá trình chủ thể hoá.
Quá trình đối tượng hóa là quá trình chủ thể chuyển năng lực vật chất và tinh thần của
mình tác động vào đối tượng để tạo thành sản phẩm của hoạt động.Ví dụ như người họa sĩ vẽ tranh,
nhà sư phạm tác động vào học sinh ..vv.
Quá trình đối tượng hóa là quá trình diễn ra ở bên ngoài chủ thể, quá trình con người tác
động với tư cách là chủ thế vào khách thể(thế giới đồ vật) để tạo ra sản phẩm, sản phẩm của quá
trình này có thể là sản phẩm vật chất (công cụ, máy móc), có thể là sản phẩm tinh thần (nét tính
cách, nét tâm lí con người) . Quá trình đối tượng hóa có mục đích cơ bản là biến đổi khách thể
trong quan hệ với chủ thể, tức là tạo ra sản phẩm, sự biến đổi ở thế giới khách quan bên ngoài.
Hay nói khác đi, con người đã chuyển đặc điểm tâm lí của mình, chuyển năng lực bản chất của
mình từ bên trong ra bên ngoài, gửi vào trong sản phẩm hoạt động vì thế sản phẩm hoạt động là
nơi tâm lí của con người được bộc lộ. Quá trình này được gọi là quá trình xuất tâm hay quá trình
đối tượng hóa. Nhờ quá trình đối tượng hóa mới có thể hiểu tâm lí con người thông qua sản phẩm
hoạt động.
Quá trình chủ thể hóa là quá trình chủ thể chuyển từ phía khách thể (những cái chứa đựng
trong thế giới) vào bản thân chủ thể những quy luật, bản chất của thế giới để tạo nên tâm lí, ý thức
nhân cách của bản thân bằng cách chiếm lĩnh thế giới. Nói cách khác, đó là quá trình chủ thể tiếp
nhận, lĩnh hội tri thức, kinh nghiệm..vv chuyển vào trong bản thân mình, nhập vào vốn hiểu biết
của mình để tạo nên tâm lí, ý thức, nhân cách. Đồng thời con người cũng có thêm kinh nghiệm
tác động vào thế giới, rèn luyện cho mình những phẩm chất cần thiết để tác động có hiệu quả vào
thế giới. Quá trình này là quá trình hình thành tâm lí ở chủ thể. Còn gọi là quá trình chủ thể hóa
hay quá trình nhập tâm.
Hai quá trình này đều thống nhất và bổ sung cho nhau, đều có chung thống nhất là đối
tượng, tạo cho hoạt động trở thành phương thức tồn tại của con người trong quan hệ và tác động
qua lại với thế gới khách quan. Hai quá trình trên làm cho hoạt động của con người vừa là quá
trình bên ngoài, vừa là quá trình bên trong,tức là bao gồm cả hành vi, tâm lí, ý thức cả công việc
chân tay và công việc trong bộ não. Hoạt động của con người là nơi giáp nối, nơi gặp gỡ tác động
lẫn nhau và xâm nhập vào nhau của những yếu tố tâm lí như nhu cầu, ý muốn, thói quen, hiểu
biết, tình cảm...vv với những yếu tố bên ngoài như nguyên vật liệu, công cụ, qui tắc, quan hệ xã
hội, pháp luật, truyền thống, phong tục, tập quán..vv. Theo C. Mác đó là quá trình đối tượng hóa
chủ thể và quá trình chủ thể hóa nội dung đối tượng.
Như vậy, trong hoạt động con người vừa tạo ra sản phẩm về phía thế giới, vừa tạo ra tâm lí của
mình, hay nói khác đi tâm lí, ý thức, nhân cách được bộc lộ và hình thành trong hoạt động.
1.1.2. Đặc điểm của hoạt động
a. Tính đối tượng: Hoạt động bao giờ cũng là hoạt động có đối tượng bởi hoạt động luôn
nhằm tác động vào một cái gì đấy để thay đổi nó hoặc để tiếp nhận nó chuyển vào đầu óc mình.
Đối tượng của hoạt động là một phần của hiện thực khách quan đáp ứng với sự thỏa mãn nhu cầu
của chể và được chủ thể xác định là cái con người cần làm ra, là đích con người cần chiếm lĩnh và
đạt được. Đối tượng của hoạt động bao gồm đối tượng là con người, động vật, hay thế giới đồ vật
(máy móc, thiêt bị, tranh vẽ, kí hiệu.). Vì vậy nói tới hoạt động là hoạt động có đối tượng. Đối
tượng của hoạt động có hai hình thức tồn tại : Hình thức bên ngoài(hình thức ban đầu của sự vật
trong hiện thực khách quan), hình thức bên trong dưới dạng hình ảnh, biểu tượng, khái niệm.
Tương ứng với nó có hai hình thức: hoạt động bên ngoài là hoạt động vật chất, hoạt động bên
trong là hoạt động tinh thần.
b.Tính chủ thể: Hoạt động do chủ thể thực hiện,với cương vị là người chủ của quá trình
nhận thức và biến đổi hiện thực. Chủ thể hoạt động thể hiện rõ tính tích cực trong quá trình tác
động vào khách thể để thay đổi nó, biến thành sản phẩm hoặc tiếp nhận nó chuyển vào đầu óc
mình, tạo nên một cấu tạo tâm lí mới, năng lực mới. Chủ thể hoạt động có thể là một người hoặc
nhiều người.Ví dụ: Người lao động là chủ thể của hoạt động lao động; Giáo viên và học sinh là
chủ thể của hoạt động dạy và học.
c.Tính mục đích: Hoạt động bao giờ cũng có tính mục đích, mục đích của hoạt động là tạo
ra sản phẩm có liên quan trực tiếp hay gián tiếp với việc thoả mãn nhu cầu của con người và xã
hội. Tính mục đích là quy luật điều khiển mọi hoạt động. Không có hoạt động nào không có mục
đích, lao động sản xuất có mục đích tạo ra sản phẩm vật chất và tinh thần để đảm bảo cho sự tồn
tại của xã hội và cá nhân con người, hoạt động học tập để có tri thức, Kỹ năng, kỹ xảo thỏa mãn
nhu cầu nhận thức cá nhân. Tính mục đích là đặc trưng cơ bản để phân biệt hoạt động của người
và hành vi động vật.Trước khi tiến hành hoạt động, con người bao giờ cũng hình dung ra mục đích
của hoạt động và mục đích này tồn tại dưới dạng biểu tượng, các hình ảnh tâm lí. Các biểu tượng
sẽ chi phối con người hoạt động. Mục đích được coi là biểu tượng có trước về sản phẩm hoạt
động, điều khiển, điều chỉnh hoạt động con người. Khi con người bắt tay vào hoạt động các biểu
tượng trên sẽ trở thành mục đích của hoạt động. Các biểu tượng này sẽ mất đi khi con người đạt
được mục đích.
d. Hoạt động vận hành theo nguyên tắc gián tiếp: Trong hoạt động của con người bao
giờ cũng được tiến hành theo nguyên tắc gián tiếp, nghĩa là giữa chủ thể và đối tượng hoạt động
có một khâu trung gian thông qua qua việc sử dụng công cụ lao động. Công cụ lao động tạo ra
tính gián tiếp trong hoạt động diễn ra dưới hai hình thức: công cụ lao động vật chất và công cụ tâm
lí (tiếng nói, chữ viết và các hình ảnh tâm lí khác) được sử dụng để tổ chức, điều khiển hoạt động
của con người. Công cụ lao động càng sắc bén thì hiệu quả lao động càng cao, con người càng
phát triển tính gián tiếp càng lớn. Ở con vật chỉ có phương tiện hỗ trợ chứ không có công cụ lao
động, đặc biệt là công cụ tâm lí (hình ảnh tâm lí về cách làm và mục đích của hoạt động). Như
vậy, công cụ tâm lí, ngôn ngữ và công cụ lao động giữ chức năng trung gian giữa chủ thể và khách
thể tạo ra tính gián tiếp của hoạt động.
1.1.3. Cấu trúc của hoạt động
Dựa trên tư tưởng tâm lí học của L. X. Vưgốtxki về hoạt động, trên cơ sở nghiên cứu thực
nghiệm nhiều năm, quan điểm của A.N.Lêônchiev đã mô tả cấu trúc chung của hoạt động con
người - cấu trúc vĩ mô của hoạt động gồm 6 thành tố và mối quan hệ của 6 thành tố: Hoạt động;
Hành động; Thao tác; Động cơ; Mục đích; Phương tiện.
Hoạt động Động cơ

Hành động Mục đích

Thao tác Phương tiện, công cụ

Sản phẩm hoạt động


Hình 4. Sơ đồ cấu trúc vĩ mô của hoạt động
Nhìn vào sơ đồ trên, hoạt động gồm hai phía chủ thể và đối tượng. Phía chủ thể gồm 3
thành tố có quan hệ qua lại với nhau: Hoạt động - hành động - thao tác tạo nên mặt kỹ thuật của
hoạt động. Phía đối tượng gồm 3 thành tố: Động cơ - mục đích - phương tiện tạo nên mặt nội dung
đối tượng của hoạt động(mặt tâm lí)
Hoạt động được thúc đẩy bởi một động cơ nhất định nằm trong đối tượng và là mục đích
cuối cùng của hoạt động(mục đích chung). Động cơ là cái quan trọng nhất trong tâm lí con người.
Có động cơ gần và động cơ xa. Động cơ xa là mục đích chung của hoạt động; Động cơ gần là mục
đích bộ phận. Mục đích bộ phận là mục đích của từng hành động.Mục đích chung lại được cụ thể
hóa bằng các mục đích cụ thể, mục đích bộ phận mà từng hành động của hoạt động hướng vào.
Mục đích hành động thực hiện được là nhờ thực hiện thao tác. Ngược lại, các thao tác được quyết
định bởi các công cụ, phương tiện, điều kiện bên ngoài. Phương tiện của hoạt động với hai hình
thái biểu hiện cụ thể : Phương tiện cụ thể về vật chất và các tri thức, thao tác chứa đựng trong
phương tiện cùng với các hình ảnh tâm lí được sử dụng làm phương tiện, công cụ trung gian để
hoạt động.
Hành động là bộ phận hợp thành của hoạt động. Hoạt động bao giờ cũng được tiến hành
bằng các hành động cụ thể và là tổ hợp của các hành động. Các hành động diễn ra bằng các thao
tác. Mỗi hoạt động có thể gồm một hay nhiều hành động tạo nên. Ngược lại một hành động có thể
tham gia một hay nhiều hoạt động khác nhau. Hành động nhằm giải quyết một nhiệm vụ cụ thể
trong điều kiện cụ thể. Tuỳ mục đích và điều kiện cụ thể nơi diễn ra hành động mà xác định cách
thức cụ thể giải quyết nhiệm vụ. Cách thức này chính là các thao tác tạo nên hành động.
Hoạt động của con người được diễn ra là quá trình tác động qua lại giữa chủ thể - khách
thể, giữa thao tác kỹ thuật – nội dung đối tượng của hoạt động để từ đó tạo ra sản phẩm đồng thời
ở cả hai phía chủ thể con người và khách thể thế giới bên ngoài (đối tượng hóa chủ thể và chủ thể
hóa nội dung đối tượng).
Tóm lại, cuộc sống của con người là một dòng các hoạt động. Dòng các hoạt động này bao
gồm các hoạt động riêng rẽ theo các động cơ tương ứng. Hoạt động được hợp thành bởi các hành
động, là quá trình theo một mục đích nhất định. Cuối cùng, hành động do các thao tác hợp thành
và tuỳ thuộc các điều kiện cụ thể để đạt mục đích.
Các thành phần trong hàng thứ hai được xác định là các đơn vị của hoạt động ở con người.
Hàng thứ nhất chứa đựng nội dunng đối tượng của hoạt động. Điều quan trọng cần nhấn mạnh ở
đây là các mối quan hệ giữa các thành phần của hai hàng kể trên. Sáu thành tố cùng với các mối
quan hệ giữa chúng tạo thành cấu trúc vĩ mô của hoạt động ở con người. Hoạt động là sự vận động
của từng người, các thành tố và quan hệ giữa chúng là sản phẩm nảy sinh chính trong sự vận động của
hoạt động. Quan hệ qua lại giữa động cơ và mục đích nảy sinh bởi hoạt động. Quá trình quan hệ qua lại
giữa động cơ và mục đích, sự nảy sinh và phát triển của mối quan hệ qua lại này chính là sự xuất
hiện phát triển của tâm lí, ý thức.
1.1.4. Phân loại hoạt động
Có nhiều cách phân loại hoạt động, căn cứ vào quan hệ giữa người với đồ vật (chủ thể và
khách thể) , quan hệ giữa người với người (chủ thể và chủ thể) thì có hai loại hoạt động: Lao động
và giao tiếp.
Về phương diện cá thể, người ta thấy trong đời người có ba loại hình hoạt động kế tiếp
nhau : Vui chơi, học tập, lao động. Vui chơi: Hình thức phản ánh đời sống sinh hoạt của người lớn
ở trẻ em, là con đường để nhận thức thế giới. Học tập: Hoạt động có ý thức nhằm tiếp nhận tri
thức, kỹ năng, kỹ xảo. Lao động: Hoạt động có ý thức nhằm tạo ra những giá trị vật chất và tinh
thần để thoả mãn nhu cầu của cá nhân và xã hội.
Có thể chia hoạt động loài người một cách chung nhất thành hai loại:
Hoạt động thực tiễn: Hướng vào vật thể tạo ra sản phẩm vật chất (có khi còn gọi là hoạt
động bên ngoài). Hoạt động lý luận: Diễn ra với hình ảnh, biểu tượng, khái niệm,…vv, tạo ra sản
phẩm tinh thần (có khi còn gọi là hoạt động bên trong, hoạt động tâm lí). Căn cứ vào sản phẩm
làm tiêu chuẩn chính để phân loại. Loại thứ nhất là hoạt động tác động vào sự vật, biến đổi sự
vật,..vv, tạo ra sản phẩm vật thể cảm tính thấy được. Loại thứ hai diễn ra trong bình diện biểu
tượng, không làm thay đổi vật thể tại vật thể. Tuy vậy hoạt động lí luận cũng có nhiệm vụ cải tạo
thiên nhiên, xã hội và con người. Sự phân loại này cũng như nhiều cách phân loại dều có tính chất
tương đối.
Một cách phân loại khác, theo mục đích của hoạt động của con người có bốn hoạt động sau:
+ Hoạt động biến đổi: Là những hoạt động hướng tới làm thay đổi hiện thực , bao gồm thế
giới tự nhiên(vật thể), xã hội, con người. Đó là những hoạt động lao động, hoạt động chính trị xã
hội, hoạt động giáo dục..vv. Hoạt động biến đổi có dạng điển hình nhất trong lao động. Nhưng
hoạt động biến đổi bao hàm cả hoạt động biến đổi thiên nhiên, cả hoạt động biến đổi xã hội . Hoạt
động biến đổi xã hội thường được gọi là hoạt động chính trị - xã hội. Hoạt động biến đổi còn bao
gồm hoạt động biến đổi con người, đó là hoạt động giáo dục, tự giáo dục. Hoạt động này thực sự
là hoạt động biến đổi và có thể xếp vào hoạt động sản xuất tinh thần - đào tạo ra con người lao
động. Hoạt động dạy và học cũng là một loại hoạt động nhận thức.
+ Hoạt động nhận thức : Là hoạt động tinh thần, phản ánh thế giới khách quan nhưng
không làm biến đổi các vật thể thực, quan hệ thực…vv. Ví dụ hoạt động học tập, hoạt động nghiên
cứu khoa học. Nó chỉ phản ánh sự vật, quan hệ..vv, mang lại cho chủ thể các hình ảnh, các tri thức
về sự vật và quan hệ ấy. Bằng hoạt động nhận thức , con người phân tích , tổng hợp, khái quát, ghi
nhớ các hình ảnh ấy. Người ta nhận thức để hiểu biết sự vật, hiểu nghĩa chung của xã hội qui cho
từng vật thể, từng quan hệ..vv.
+Hoạt động định hướng giá trị : Là hoạt động tinh thần, xác định ý nghĩa của thực tại với
bản thân của chủ thể, tạo ra phương hướng của hoạt động.Ví dụ: hoạt động xây dựng thang giá trị,
hoạt động đánh giá và lựa chọn giá trị..vv
+Hoạt động giao lưu(giao tiếp): Là hoạt động thiết lập và vận hành mối quan hệ người –
người. Có tác giả gọi là hoạt động thông báo, thông tin. Thực ra thông báo, thông tin chỉ là một số
thành tố của hoạt động giao tiếp. Hoạt động của người có bản chất xã hội - lịch sử, giao tiếp là
điều kiện không thể thiếu được của hoạt động ở người nói chung .
Tóm lại, con người có nhiều hoạt động, có những hoạt động chung của con người, có những hoạt
động riêng từng lĩnh vực.Các hoạt động này có mối quan hệ gắn bó, mật thiết với nhau.
1.1.5. Vai trò của hoạt động đối với sự phát triển tâm lí, nhân cách
Hoạt động đóng vai trò quan trọng trong quá trình hình thành và phát triển tâm lí người.
Hoạt động là nhân tố quyết định trực tiếp sự hình thành và phát triển nhân cách, là hình thức quan
trọng nhất của mối quan hệ tích cực giữa con người với thế giới khách quan; là phương thức tồn
tại của con người. Tâm lí con người không được sinh ra mà hình thành trong đời sống cá thể, sự
hình thành tâm lí không theo cơ chế di truyền sinh học(qua gen) nằm trong con người mà được
hình thành theo cơ chế di truyền xã hội, thông qua hoạt động nằm bên ngoài con người. Tâm lí là
sản phẩm hoạt động của con người.
Thông qua hai quá trình đối tượng hóa và chủ thể hóa trong hoạt động mà tâm lí, nhân cách
được bộc lộ và hình thành. Con người tiếp thu và lĩnh hội kinh nghiệm xã hội lịch sử bằng kinh
nghiệm của bản thân để hình thành nhân cách. Tất cả những nét tâm lí trong nhân cách của con
người đều được hình thành, bộc lộ và phát triển trong hoạt động của con người. Hoạt động của
con người là hoạt động có mục đích, mang tính xã hội, mang tính cộng đồng, được thực hiện bằng
những thao tác nhất định với những công cụ nhất định.
Khi con người nhằm vào đối tượng hoạt động thì nhu cầu vốn tiềm tàng được hiện thực hoá,
chính đối tượng kích thích chủ thế vươn tới chiếm lĩnh nó và nó trở thành động cơ thúc đẩy hoạt
động. Sự hình thành động cơ phụ thuộc vào nội dung của đối tượng. Hệ thống nội dung này càng
phong phú, sâu rộng, hấp dẫn chủ thể thì động cơ hoạt động càng mạnh mẽ. Ngược lại, nội dung
của đối tượng nghèo nàn thì ít hấp dẫn chủ thể tích cực hoạt động. Lúc đó người ta phải dùng
những kích thích nằm ngoài đối tượng để tích cực hoá hoạt động (chẳng hạn, học sinh tích cực học
tập không phải vì hứng thú nội dung môn học mà vì điểm, sợ phạt...) Từ đó có thể hiểu chính nội
dung của đối tượng tạo nên hệ thống động cơ trong quá trình hoạt động và hệ thống thứ bậc động
cơ được hình thành ở chủ thể đã làm nên tính chất của nhân cách.
Trong quá trình thực hiện các hành động để giải quyết các nhiệm vụ (bài toán), con người
đã đồng thời tiến hành cả hành động ở bên ngoài lẫn hành động ở trong óc. Xét về nguồn gốc,
chính là các hành động vật chất, cảm tính ở bên ngoài được chuyển vào thành hành động trí óc
của chủ thể. Từ đó vạch ra con đường: Ta hướng dẫn học sinh thực hiện các hành động ở bên ngoài
như thế nào thì hành động trí óc của học sinh được hình thành tương tự như thế. Xét về bản chất
tâm lí thì quá trình nhận thức chính là quá trình hình thành các hành động trí óc. Các hành động
này thoạt đầu được hình thành một cách "thô thiển" (như cộng bằng que tính...) dần dần được rút
gọn, khái quát hoá cực kỳ tinh vi (giống như hệ thống máy tính siêu hiện đại).
Nhưng khi hành động được chuyển vào trong, rút gọn lại sẽ thành những thao tác trí óc.
Những thao tác, kỹ xảo này có thể chuyển sang chức năng của máy tính (công cụ) còn con người
lại sử dụng những công cụ đã có để tiến hành những hành động có nội dung tâm lí phức tạp hơn
như: xác lập những bài toán ( nhiệm vụ) cần giải và lập chương trình đưa vào máy để giải quyết
những bài toán đó..vv.Trong bất kỳ hành động có ý thức nào, các yếu tố tâm lí đều giữ những chức
năng:
- Định hướng hành động;
- Thúc đẩy hành động;
- Điều khiển thực hiện hành động;
- Kiểm tra, điều chỉnh hành động ;
Do đó, trong quá trình tiến hành những hành động, hoàn thành các nhiệm vụ cũng chính là
quá trình hình thành, phát triển các chức năng tâm lí nói chung ở người học. Vấn đề đặt ra là: Phải
thiết kế được một hệ thống những nhiệm vụ ( bài toán) theo nguyên tắc phát triển tối ưu và tổ chức
cho người chủ định tích cực thực hiện các nhiệm vụ đó thì sẽ có khả năng tạo ra sự phát triển tâm
lí tối ưu ở người học.
Dĩ nhiên, khi hành động người ta phải tiến hành hàng loạt các thao tác. Việc học các thao
tác chính là học kinh nghiệm của các thê hệ đi trước được cô đúc lại và "gửi" vào, ghi dấu vào các
công cụ. Các công cụ, nhất là các công cụ sản xuất của một xã hội phản ánh trình độ văn minh
(hay năng lực trí khôn) của xã hội ấy. Công cụ đồ đá, đồ đồng, đồ sắt, xe ngựa kéo, máy hơi nước,
động cơ điện, máy vi tính....là những nấc thang của trình độ văn minh loại người. Việc nghiên cứu
chế tạo ra các công cụ đó vô cùng khó khăn, phức tạp, nhưng việc sử dụng các công cụ đó, phân
tích đến cùng chỉ là học các thao tác (ví dụ từ việc sử dụng cái giũa, cái kéo đến việc sử dụng máy
vi tính cũng đều phải học các thao tác sử dụng công cụ đó). Vì vậy, huấn luyện các thao tác cần
phải gắn liền với công cụ nhằm mục đích sử dụng thành thạo các công cụ đó để giải bài toán
(nhiệm vụ) của cuộc sống. Chẳng hạn như sử dụng bút, thước, compa, máy vi tính... để giải bài
toán, sử dụng cưa, bào, đục v.v.. để đóng chiếc bàn phục vụ đời sống, v.v.. Những thao tác tay
chân bên ngoài gắn liền, thống nhất với những thao tác trí óc bên trong.
Như vậy, việc phân tích ra "các đơn vị " chỉ nhằm để hiểu rõ hơn, còn trong hoạt động,
người ta không thể tách rời các thao tác với hành động, cũng như vậy, không thể hiểu nội dung đối
tượng một cách tách rời máy móc. Ví dụ, khi học sinh học cơ cấu, vận hành và sử dụng máy tiện
thì đó chính là nội dung của đối tượng chứa cả mục đích, động cơ của học sinh, nhưng khi sử dụng
máy thành thạo thì lúc đó chỉ còn là việc tiến hành các thao tác để tiện ra các sản phẩm theo mục
đích đã xác định nhằm đáp ứng những nhu cầu của chủ thể hoạt động.
Từ đó đi sâu và mở rộng ra, ta có thể thấy những phẩm chất năng lực của con người được hình
thành, biểu hiện, hoàn thiện trong toàn bộ những hoạt động đa dạng của con người ấy. Sự hình
thành và phát triển nhân cách của mỗi người phụ thuộc vào hoạt động chủ đạo ở mỗi thời kỳ nhất
định. Muốn hình thành nhân cách, con người phải tham gia vào các hoạt động khác nhau trong đó
đặc biệt chú ý tới vai trò của hoạt động chủ đạo.
Vận dụng lý thuyết trên vào hoạt động giáo dục tức là phải coi học sinh là chủ thể của mọi
hoạt động học tập (học lý thuyết, học thực hành, thực tập sản xuất, học các hoạt động văn hoá, xã
hội...). Hoạt động dạy và học lấy học sinh làm trung tâm, dạy học thông qua tổ chức các hoạt động
của người học, chú trọng rèn luyện phương pháp tự học là việc làm cấp thiết và bắt buộc nhằm
khai thác động lực học tập trong bản thân người học để phát triển chính họ. Coi trọng lợi ích, nhu
cầu của mỗi cá nhân người học, đảm bảo cho họ thích ứng với đời sống xã hội. Tránh cách dạy
theo lối mòn truyền thống, đưa người học vào trạng thái thụ động, học thuộc lòng, không kích
thích tính chủ động của người học. Giáo viên cần xây dựng nên nội dung hoạt động đáp ứng yêu
cầu của mục tiêu đào tạo thể hiện thành hệ thống những nhiệm vụ (bài toán) cụ thể và tổ chức hoạt
động của học sinh thực sự có kết quả. Việc cụ thể hoá mô hình hoạt động chung vào từng môn học
cụ thể, từng hoạt động đặc thù là nhiệm vụ của mỗi giáo viên.
Tóm lại, hoạt động có vai trò quyết định trực tiếp sự hình thành và phát triển nhân cách nên trong
công tác giáo dục cần chú ý thay đổi làm phong phú nội dung, hình thức, cách tổ chức hoạt động
để lôi cuốn cá nhân tích cực tham gia tự giác vào các hoạt động đó.
1.2. GIAO TIẾP VÀ TÂM LÍ
1.2.1. Khái niệm
Sống trong xã hội, con người không chỉ có quan hệ với thế giới sự vật hiện tượng bằng
hoạt động có đối tượng mà bất cứ ở đâu, làm gì, các quan hệ người – người luôn luôn là một thành
phần không thể thiếu được. Trong hoạt động xã hội lại càng rõ ràng, các quan hệ giữa con người
với con người, giữa con người và xã hội - đó là quan hệ giao tiếp, là những điều kiện tối thiểu để
tiến hành hoạt động. Giao tiếp là phạm trù cơ bản của khoa học tâm lí. Có rất nhiều định nghĩa
khác nhau về giao tiếp, tùy theo cách tiếp cận nghiên cứu. Trong tâm lí học, đa số các nhà tâm lí
đều thống nhất với khái niệm giao tiếp của nhà tâm lí học xã hội người Nga G.M.Andrêva với nội
hàm khái niệm giao tiếp bao gồm ba mặt có quan hệ hữu cơ với nhau: Trao đổi thông tin qua lại
nhau, sự tác động qua lại nhau và sự tri giác con người với nhau.1
Ta có thể hiểu giao tiếp là sự tiếp xúc (mối liên hệ) giữa người và người, trong đó diễn ra
sự tiếp xúc tâm lí thể hiện ở sự trao đổi thông tin lẫn nhau, sự tác động qua lại lẫn nhau và sự tri
giác giữa con người với nhau.
Giao tiếp có ba mặt biểu hiện quan hệ chặt chẽ với nhau, thể hiện ở trao đổi thông tin, ở
sự hiểu biết, rung cảm, sự ảnh hưởng và tác động qua lại với nhau, các yếu tố này quan hệ chặt
chẽ với nhau. Khi có sự tiếp xúc giữa một người với một người khác hay với nhóm người khác thì
người ta thông báo cho nhau những thông tin. Nội dung thông báo có thể là các hiện tượng trong

1 G.M.Andrêva, Tâm lí học xã hội, NXB Đại học Tổng hợp Matxcơva, 1980
đời sống sinh hoạt hoặc những vấn đề thời sự trong nước và quốc tế hay những tri thức mới trong
lĩnh vực khoa học, nghề nghiệp nhất định. Sự thông tin trong giao tiếp đã chứa đựng sự nhận thức
và hiểu biết. Qua tiếp xúc con người nhận thức được từ người khác về hình dáng, điệu bộ, nét mặt
bề ngoài đến ý thức, động cơ, tâm trạng, xúc cảm, tính cách, năng lực, trình độ tri thức và các giá
trị ở họ, đồng thời nhận được những nhận xét, đánh giá của họ về mình giúp ta hiểu thêm về chính
bản thân. Thể hiện được sự hợp tác hay xung đột cùng nhau. Do tác động của lời nhận xét, của sự
biểu cảm ở người đang giao tiếp mà gây ra những rung cảm khác nhau ở chủ thể tiếp xúc. Chẳng
hạn, lời khen làm ta vui, hoặc ta thấy buồn, thấy xấu hổ vì bị chê bai hay bị kích động bởi lời nói
châm biếm, sự hiểu biết lẫn nhau ngày càng trở nên sâu sắc và mỗi người cũng tự đánh giá lại
những tri thức, kinh nghiệm của mình và có thể dẫn tới những tới những thay đổi thái độ với nhau,
với sự vật, hiện tượng được bàn luận và gây nên sự mến phục hay mâu thuẫn với nhau. Rõ ràng,
giao tiếp biểu hiện ở ảnh hưởng và tác động qua lại với nhau rất mạnh mẽ, gây ra những biến đổi
về hứng thú, thái độ, tình cảm và các biểu hiện khác của nhân cách.
Giao tiếp là hiện tượng đặc thù của con người, nghĩa là chỉ riêng con người mới có giao tiếp thật
sự, Khi sử dụng phương tiện ngôn ngữ và được thực hiện chỉ trong xã hội loài người.
Giao tiếp là cách thể hiện mối quan hệ với một hay nhiều người khác trên cơ sở các quan hệ kinh
tế - xã hội. Phong cách và nội dung giao tiếp phụ thuộc vào vị trí của con người trong quan hệ sản
xuất, phụ thuộc vào tầng lớp hay nhóm xã hội của người đó. Giao tiếp được điều chỉnh bởi các yếu
tố có liên quan sản xuất, buôn bán, các nhu cầu xã hội và do tập quán của từng địa phương, từng
dân tộc, do các chuẩn mực đạo đức…vv. Câu tục ngữ ‘‘nhập gia tùy tục’’ một phần phản ánh vấn
đề này.
1.2.2. Chức năng của giao tiếp
Giao tiếp có nhiều chức năng khác nhau, tiếp cận từ góc độ tâm lí học xã hội thì giao tiếp
có hai nhóm chức nănng cơ bản :
a. Nhóm chức năng thuần túy xã hội : Giao tiếp phục vụ các nhu cầu chung của nhóm, tập thể,
cộng đồng. Giao tiếp tổ chức, điều khiển, phối hợp họat động lao động, tập thể, nhờ có quá trình
giao tiếp, con người có thể phối hợp hoạt động để cùng nhau giải quyết nhiệm vụ nào đó. Giao
tiếp còn có chức năng thông tin, muốn quản lí xã hội phải có thông tin hai chiều từ trên xuống, từ
dưới lên và cả thông tin giữa các nhóm, tập thể.
b. Nhóm chức năng tâm lí- xã hội : Giao tiếp phục vụ các nhu cầu tinh thần như thỏa mãn các
nhu cầu thông tin, nhận thức, tình cảm của từng thành viên trong xã hội. Con người có đặc thù là
luôn có giao tiếp với người khác, cô đơn là trạng thái tâm lí nặng nề. Bị ‘cô lập’’ với cộng đồng,
bạn bè, người thân …vv, có thể nảy sinh trạng thái tâm lí không bình thường nhiều khi dẫn tới
tình trạng bệnh lí. Chức năng này của giao tiếp gọi là chức năng nối mạch (tiếp xúc) với người
khác. Nối được mạch với nhóm rồi, con người có quan hệ với người khác trong nhóm cùng với
các thành viên khác tạo nên các quan hệ nhóm: có hứng thú chung, mục đích chung, có nhu cầu
gắn bó với nhau …vv, làm cho các quan hệ này trở thành các quan hệ thực, đảm bảo sự tồn tại
thực của nhóm. Như vậy giao tiếp giúp cho con người thực hiện các quan hệ liên nhân cách. Nghĩa
là mỗi thành viên hòa nhịp vào nhóm, coi nhóm là mình, mình là nhóm. Nhóm ở đây được hiểu
theo nghĩa rộng, từ hai người đến một cộng đồng lớn. Chức năng hòa nhịp còn gọi là chức năng
đồng nhất : qua giao tiếp thành viên đồng nhất với nhóm, chấp nhận và tuân thủ các chuẩn mực
nhóm dẫn đến sự thống nhất nhiều mặt trong nhóm nhưng sự vận động của nhóm có thể dẫn tới
chỗ một thành viên nào đó tách khỏi nhóm. Đến lúc đó chức năng đồng nhất chuyển thành chức
năng đối lập: thành viên này đối lập lại với nhóm vì khác biệt về hứng thú, mục đích, động cơ…vv.
Đương nhiên thành viên này sẽ có thể và phải gia nhập vào những mối quan hệ ở nhóm khác.
Giao tiếp nhóm là loại giao tiếp rất phổ biến trong chúng ta, có vai trò to lớn đối với việc
hình thành và phát triển tâm lí, nhất là với học sinh – sinh viên. Cần phân biệt giao tiếp nhóm chính
thức và giao tiếp nhóm không chính thức. Nhóm chính thức là nhóm được thành lập theo một qui
định chung nào đó, nhóm không chính thức là nhóm do các thành viên tự tập hợp thành nhóm.
Nếu tiếp cận từ góc độ ngôn ngữ học thì có thể thấy giao tiếp còn có các chức năng sau:
c. Chức năng nhận thức và đánh giá lẫn nhau: Nhờ có chức năng này mà con người có thể
truyền đạt, lĩnh hội các sự kiện, các khái niệm, các giá trị khi tiến hành giao tiếp. Trong giao tiếp
mỗi chủ thể tự bộc quan điểm, tư tưởng, thái độ, thói quen... của mình. Các chủ thể có thể nhận
thức được về nhau, đánh giá lẫn nhau, từ đó đánh giá bản thân mình.
d. Chức năng duy trì sự tiếp xúc : Là chức năng lấp chỗ trống khi tiến hành đối thoại.
e.Chức năng cảm xúc: trong giao tiếp con người không chỉ bộc lộ những cảm xúc mà còn tạo ra
những ấn tượng, những cảm xúc mới, những cảm xúc tích cực giữa hai bên đối thoại.
f.Chức năng siêu ngôn ngữ: Là chức năng rút gọn (nói ít, hiểu nhiều) trong giao tiếp
g.Chức năng thơ mộng: Thể hiện trong các cuộc giao tiếp có tính chất văn hóa nghệ thuật, giao
tiếp tình ái...vv.
h.Chức năng qui chiếu: Đòi hỏi chủ thể giao tiếp phải nắm được các đặc điểm của cá nhân (xã
hội, sức khỏe, tâm lí) của đối tượng giao tiếp để đảm bảo hiệu quả của giao tiếp.
Tóm lại, giao tiếp có nhiều chức năng khác nhau. Con người không thể sống cô lập, tách khỏi gia
đình, người thân, bạn bè và cộng đồng người. Phạm vi giao tiếp của con người ngày càng được
mở rộng; từ tiếp xúc chỉ với người mẹ đến anh, chị em trong gia đình, đến thầy giáo và bạn bè rồi
đến các đồng nghiệp trong lĩnh vực ngành nghề nhất định. Cùng với hoạt động của mỗi cá nhân,
giao tiếp giúp cho con người lĩnh hội được các chuẩn mực đạo đức xã hội – lịch sử và trở thành
nhân cách có giá trị, nghĩa là nên người hay trở thành người với đúng nghĩa của nó.
1.2.3. Các loại giao tiếp
a.Theo phương tiện giao tiếp, có ba loại giao tiếp sau:
+ Giao tiếp vật chất: là hình thức giao tiếp thông qua hành động với vật thể.
+ Giao tiếp bằng tín hiệu, phương tiện phi ngôn ngữ để giao lưu nhằm đạt được mục đích của
giao tiếp. Giao tiếp phi ngôn ngữ có thể có các hình thức sau:
- Giao tiếp bằng cử chỉ, điệu bộ, tư thế, dáng đi
- Giao tiếp nét mặt, ánh mắt, nụ cười...v.v,
- Giao tiếp qua hành vi
- Giao tiếp qua trang phục trong giao tiếp. Giao tiếp phi ngôn ngữ có chung cả ở người và vật
+ Giao tiếp bằng ngôn ngữ (tiếng nói, chữ viết), với ba chức năng cơ bản: chỉ nghĩa, thông báo
và điều khiển, điều chỉnh để giao lưu nhằm đạt mục đích giao tiếp đặt ra.Đây là hình thức giao tiếp
đặc trưng của con người, xác lập và vận hành mối quan hệ người - người trong xã hội.
b. Theo khoảng cách, có ba loại giao tiếp cơ bản:
+ Giao tiếp trực tiếp (mặt đối mặt): là hình thức giao tiếp mặt đối mặt,giữa hai hay nhiều người,
các chủ thể trực tiếp giao tiếp phát và nhận tín hiệu với nhau.Ví dụ: thầy giáo giao tiếp với học
sinh.
+ Giao tiếp gián tiếp: là loại giao tiếp được tiến hành không có mặt của các chủ thể và đối tượng
giao tiếp. Ví dụ giao tiếp qua thư, báo hoặc qua người khác, có khi qua ngoại cảm, thần giao cách
cảm.
+ Giao tiếp trung gian là loại giao tiếp được tiến hành có cả hai yếu tố của giao tiếp trực tiếp và
giao tiếp gián tiếp. Ví dụ: Giao tiếp qua điện thoại.
c. Theo quy cách:
+ Giao tiếp chính thức: Được hình thành bằng văn bản, qui chế ..vv,. nhằm thực hiện nhiệm vụ
chung theo chức trách, quy định, thể chế.Ví dụ: giao tiếp trong gia đình, dòng họ, thầy giáo với
học sinh, học sinh với học sinh trong tập thể lớp học...vv.
+ Giao tiếp không chính thức: là giao tiếp giúp những người hiểu rõ về nhau không câu nệ vào
thể thức mà theo kiểu thân tình nhằm mục đích chính là thông cảm, đồng cảm với nhau. Giao tiếp
không chính thức của các thành viên trong nhóm không chính thức được thành lập không theo qui
định. Ví dụ: Giao tiếp của những người cùng đi tầu, đi xe, đi chơi...vv.
d. Theo mục đích của giao tiếp thì có các loại giao tiếp sau:
+ Giao tiếp kiểu định hướng xã hội: Giao tiếp nhằm tuyên truyền những vấn đề ở cấp độ xã hội,
để thuyết phục, thông báo...vv.
+ Giao tiếp kiểu định hướng cá nhân: Giao tiếp nhằm thuyết phục, thông báo ở cấp độ cá nhân
+ Giao tiếp kiểu định hướng nhóm: Giao tiếp thuyết phục, thông báo một vấn đề nào đó trong
nội bộ nhóm.
Các loại giao tiếp trên luôn tác động qua lại, bổ sung cho nhau, làm cho mối quan hệ giao tiếp của
con người vô cùng đa dạng, phong phú và cũng vô cùng phức tạp.
1.2.4. Vai trò của giao tiếp đối với sự phát triển cá nhân và xã hội
Giao tiếp là một trong những đặc trưng cơ bản nhất của con người. Giao tiếp là một dạng
hoạt động đặc biệt của con người, có vai trò quyết định trực tiếp đối với sự phát triển tâm lí, nhân
cách con người.
Giao tiếp là điều kiện tồn tại của cá nhân và xã hội loài người.Nhu cầu giao tiếp là một
trong những nhu cầu xã hội cơ bản, xuất hiện sớm nhất ở con người. C. Mác đã chỉ ra rằng ‘Sự
phát triển của một cá nhân được qui định bởi sự phát triển của tất cả các cá nhân khác mà nó giao
lưu một cách trực tiếp’’2. Thực tế đã chứng minh rằng những trường hợp trẻ em do động vật nuôi
mất hẳn tính người, mất nhân cách, chỉ còn những đặc điểm tâm lí, hành vi của con vật. Đã có
nhiều công trình nghiên cứu chỉ ra rằng giao tiếp quá hạn chế và nghèo nàn dẫn đến những hậu
quả nặng nề, dễ mắc bệnh “ đói giao lưu do nằm viện lâu ngày”(Hospitalism)
Nhờ giao tiếp con người gia nhập vào các quan hệ xã hội, lĩnh hội nền văn hóa xã hội, qui
tắc đạo đức, chuẩn mực xã hội tự đánh giá bản thân mình như một nhân cách để hình thành một
thái độ giá trị- cảm xúc nhất định đối với bản thân, làm thành bản chất con người tức là hình thành
năng lực tự ý thức. Đồng thời thông qua giao tiếp con người đóng góp vốn tri thức và kinh nghiệm
của mình vào kho tàng tri thức của nhân loại, của xã hội..
Tóm lại, giao tiếp là hình thức đặc trưng cho mối quan hệ người - người, là một nhân tố cơ
bản của việc hình thành phát triển tâm lí, ý thức, nhân cách. Giao tiếp là điều kiện tất yếu của sự
hình thành và phát triển tâm lí người vì nhờ có giao tiếp giữa các thế hệ, giữa nhóm này với nhóm
kia mà tâm lí người được nảy sinh và phát triển.
1.2.5. Mối quan hệ giữa giao tiếp và hoạt động
Nhiều nhà tâm lí học cho rằng, giao tiếp như một dạng đặc biệt của hoạt động: giao tiếp
cũng diễn ra bằng các hành động và có cả các thao tác cụ thể, sử dụng các phương tiện khác nhau
nhằm đạt được những mục đích xác định, thoả mãn nhu cầu cụ thể, tức là được thúc đẩy bởi động
cơ. Một số nhà tâm lí học khác cho rằng giao tiếp và hoạt động là hai phạm trù đồng đẳng, có quan
hệ qua lại với nhau trong cuộc sống (lối sống)của con người.
+ Có trường hợp giao tiếp là điều kiện của một hoạt động khác, ví dụ như trong lao động
sản xuất thì giao tiếp là điều kiện của con người phối hợp với nhau, quan hệ với nhau để cùng tiến
hành làm ra sản phẩm lao động chung.
+ Có trường hợp hoạt động là điều kiện để thực hiện mối quan hệ giao tiếp giữa con người
với con người, chẳng hạn như diễn viên múa, diễn viên đóng kịch câm làm các hành động tay
chân, điệu bộ, cử chỉ...là điều kiện để thực hiện mối quan hệ giao tiếp giữa anh ta với khán giả.Vì
thế có thể nói cả giao tiếp và hoạt động đều là hai mặt không thể thiếu của lối sống, của hoạt động
cùng nhau giữa con người với con người trong thực tiễn.
1.3. GIAO TIẾP SƯ PHẠM
1.3.1. Khái niệm giao tiếp sư phạm trong tâm lí học.

2 2.C. Mác và Ph. AWngghen , Toàn tập – tập 3.


a.Khái niệm giao tiếp sư phạm.
* Giao tiếp sư phạm có thể hiểu là giao tiếp có tính nghề nghiệp giữa giáo viên với tập
thể học sinh - sinh viên và các lực lượng giáo dục trong quá trình giảng dạy và giáo dục, có chức
năng sư phạm nhất định. trong giao tiếp diễn ra sự tiếp xúc tâm lý, xây dựng bầu không khí tâm
lý thuận lợi cùng quá trình tâm lý khác nhằm tạo ra điều kiện tối ưu cho quan hệ giáo viên – học
sinh, sinh viên và các lực lượng giáo dục để đạt được mục đích của giáo dục.
Giao tiếp sư phạm là giao tiếp mang tính nghề nghiệp của giáo viên với học sinh ở trên lớp
và ngoài giờ lên lớp (A.A. Leeoonchiev- 1979). Trong quá trình tổ chức và chỉ đạo việc thi công
bài học của từng học sinh cũng như cả tập thể lớp, người giáo viên sẽ phải thực thi các quá trình
giao tiếp sư phạm. Khả năng biết cách thiết lập nên mối quan hệ hai chiều lẫn nhau về mặt tâm lí
giữa thầy với trò và tập thể lớp để truyền đạt hệ thống tri thức, rèn luyện những kĩ năng tương ứng,
giáo dục phẩm hạnh, cảm hóa, gây ảnh hưởng – để lại dấu ấn sâu sắc trong tâm khảm học sinh của
người giáo viên được coi là phương tiện quan trọng nhất của việc thực thi nhiệm vụ dạy học.
Để giải quyết được các nhiệm vụ giao tiếp sư phạm, người giáo viên phải biết cách vạch
rõ kế hoạch giao tiếp, có khả năng định hướng, định vị, kiểm tra, đánh giá tiến trình cũng như kết
quả giao tiếp, năng lực xác định đúng những bức chân dung tâm lí về cả mình lẫn trò và tập thể
lớp, khả năng xác định chiến lược giao tiếp cho toàn bài học, khả năng tự chủ, sáng tạo và linh
hoạt trong khi dùng các phương tiện giao tiếp.
* Giao tiếp sư phạm của người giáo viên kỹ thuật và dạy nghề có thể bao gồm các mối quan hệ
giao tiếp sau:
Giáo viên với học sinh- sinh viên và tập thể học sinh - sinh viên
Giáo viên với giáo viên trong tập thể sư phạm
Giáo viên với cha mẹ học sinh
Giáo viên với các lược lượng giáo dục có liên quan đến giáo dục học sinh, sinh viên
• Giao tiếp sư phạm của người giáo viên kỹ thuật và dạy nghề có các đặc trưng cơ bản:
Trường nghề có mục đích, nội dung và hình thức giảng dạy, giáo dục khác hẳn nhà trường
phổ thông. Điều đặc biệt quan trọng là hình thành nhân cách người chuyên gia qua sự tác động lẫn
nhau giữa giáo viên và người học nghề. Do đó, giao tiếp sư phạm cũng khác về chất so với giao
tiếp của giáo viên với học sinh phổ thông. Vì có sự đồng nhất về nghề nghiệp nên đã làm giảm sự
ngăn cách về phương diện tuổi tác giữa người học với giáo viên Nội dung của nó là trao đổi thông
tin, chỉ ra các tác động giáo dục - học tập, tổ chức mối quan hệ lẫn nhau và cũng là “truyền lại”
nhân cách nhà giáo dục cho người học Yếu tố “ghi điểm” của người học trong mối quan hệ lẫn
nhau với người dạy phần lớn được kết hợp bởi yếu tố cộng tác giữa họ chính là hạt nhân tâm lí xã
hội đem lại cho việc giao tiếp của giáo viên với sinh viên có màu sắc xúc cảm và có ảnh hưởng
đến kết quả học tập của sinh viên. Nhiều công trình nghiên cứu đã chứng minh rằng: Nếu không
thay đổi tính chất tác động của giáo viên với học sinh - sinh viên thì khó có thể tổ chức quá trình
giảng dạy đạt kết quả. Vì vậy, giao tiếp sư phạm của người giáo viên kỹ thuật và dạy nghề cần
phải đáp ứng một số yêu cầu sau:
- Phải có sự kết hợp của yếu tố “cho điểm” với yếu tố cộng tác trong quá trình giáo dục.
- Hình thành tình cảm đồng nhất nghề nghiệp của học sinh - sinh viên với giáo viên
- Cần định hướng giao tiếp sư phạm đối với người lớn có tính đến sự phát triển tự ý thức
của thanh niên học nghề và khắc phục những hình thức độc đoán trong các công giáo dục.
- Tận dụng các yếu tố điều khiển giáo dục và giảng dạy, gây được hứng thú nghề nghiệp
cho thanh niên học nghề và thực hiện hóa giao tiếp sư phạm ở hoạt động giáo dục.
- Tích cực đưa học sinh - sinh viên vào các hoạt động nghiên cứu khoa học.
- Tạo ra các khả năng có thể nâng cao tính tích cực xã hội của thanh niên học nghề trong
các hoạt động giảng dạy, xêmina, phát biểu, in các ấn phẩm…..
- Tổ chức sao cho có điều kiện để có sự cộng tác giữa giáo viên và thanh niên học nghề
trong việc nghiên cứu khoa học: cùng nghiên cứu, cùng báo cáo trong các hội nghị khoa học, cùng
đăng báo…..
- Hoàn thiện các hình thức tiếp xúc chính thức và không chính thức giữa giáo viên và thanh
niên học nghề với nội dung khoa học, nghệ thuật, nghiệp vụ…..
- Nếu có điều kiện thì giáo viên nên tham gia vào các hoạt động thanh niên học nghề như:
phụ trách kí túc xá…..
- Trong quan hệ giao tiếp với thanh niên học nghề, người giáo viên phải giữ được tính hệ
thống và liên tục từ giảng đường đến các hoạt động ngoại khóa, từ hoạt động học tập đến việc
nghiên cứu khoa học, từ giao tiếp chính thức đến giao tiếp không chính thức và có sự tôn trọng lẫn
nhau.
Trong giao tiếp sư phạm, giáo viên giao tiếp với thanh niên học nghề không chỉ thông qua
bài giảng, tri thức khoa học mà còn thông qua nhân cách và tấm gương mẫu mực về nhân cách
của mình. Do vậy để đạt được hiệu quả quá trình giao tiếp sư phạm phải tạo được bầu không khí
tâm lý giao tiếp giữa giáo viên với học sinh – sinh viên một cách hợp lý , tức là biết tạo ra những
xúc cảm, tình cảm tích cực giữa giáo viên và học sinh - sinh viên. Ngược lại học sinh – sinh viên
phải kính trọng thầy cô giáo từ hành vi, cử chỉ đến lời nói, người học phải ý thức được mình là học
trò “tiên học lễ, hậu học văn”.
Biện pháp giáo dục tình cảm là biện pháp cơ bản được dùng để thuyết phục, giáo dục , vận
động học sinh, sinh viên. Không dùng biện pháp “đánh đập”, “hành hạ”, hoặc cách nói “giỡn”, nói
“vỗ mặt” ..A.X. Macarencô cho rằng : “Sự khéo léo đối xử về sư phạm là sự biểu hiện chân thành
của lòng nhân đạo chân chính, nhưng không phải của con người nói chunng mà của nhà giáo dục
lành nghề ”. Giao tiếp sư phạm sẽ tạo điều kiện thuận lợi, là điều kiện tất yếu để hình thành, phát
triển nhân cách người học. Để hình thành, phát triển nhân cách cho thanh niên học nghề có kết
quả, giáo viên phải đi sâu vào thế giới tâm hồn của họ.
+Một số dấu hiệu cơ bản. Giao tiếp là một hiện tượng tâm lí phức tạp nên khó có thể có sự thống
nhất hoàn toàn về khái niệm. Tuy nhiên, tâm lí học cũng đưa ra một số dấu hiệu cơ bản sau:
- Giao tiếp là một hiện tượng đặc thù của con người, nghĩa là chỉ riêng con người mới có
giao tiếp thật sự, khi sử dụng phương tiện ngôn ngữ và được thực hiện chỉ trong xã hội loài người.
- Giao tiếp là cách thể hiện mối quan hệ với một hay nhiều người khác trên cơ sở các quan
hệ kinh tế - xã hội.
- Giao tiếp thể hiện ở trao đổi thông tin, ở sự hiểu biết, rung cảm, ảnh hưởng và tác động
qua lại lẫn nhau.
Giao tiếp có nhiều chức năng khác nhau như: chức năng thông tin hai chiều giữa hai người
hay hai nhóm người; chức năng tổ chức, điều khiển, phối hợp hành động của hai hay một nhóm
người trong hoạt động cùng nhau; chức năng giáo dục và phát triển nhân cách. Con người không
thể sống cô lập tách khỏi gia đình, người than, bạn bè và cộng đồng người. Phạm vi giao tiếp của
người ngày càng được mở rộng: từ tiếp xúc chỉ với người mẹ đến anh chị em trong gia đình, đến
thầy cô giáo và bạn bè rồi đến các đồng nghiệp trong lĩnh vực ngành nghề nhất định. Như vậy,
cùng với hoạt động của mỗi cá nhân thì giao tiếp giúp cho con người lĩnh hội được các chuẩn mực
đạo đức xã hội - lịch sử và trở thành nhân cách có giá trị, nghĩa là nên người.
Trong hoạt động sư phạm, giao tiếp là một đặc điểm quan trọng. Hoạt động này sẽ mất hết
ý nghĩa nếu không có giao tiếp giữa nhà giáo dục và người giáo dục. Các hình thức giáo dục và
học tập diễn ra trong điều kiện giao tiếp như giờ giảng, giờ xêmina, trong các kì thi….Nội dung
giao tiếp là quá trình trao đổi những thông tin khoa học, nghề nghiệp, là sự tác động giữa các nhân
cách trong hoạt động cùng nhau của giáo viên và thanh niên học nghề. Có thể nói, giao tiếp là
phương tiện quan trọng để giải quyết các nhiệm vụ học tập, để đảm bảo tổ chức hệ thống quan hệ
giữa giáo viên và sinh viên nhằm đạt được hiệu quả giáo dục và giảng dạy. Giao tiếp cũng chính
là quá tình giáo dục và hình thành nhân cách sáng tạo của người chuyên gia tương lai.
Tóm lại, giao tiếp sư phạm là những nguyên tắc, những biện pháp và kỹ xảo tác động lẫn
nhau giữa nhà giáo dục với người được giáo dục mà nội dung của nó là trao đổi thông tin, chỉ ra
các tác động giáo dục - học tập, tổ chức mối quan hệ lẫn nhau và cũng là “truyền lại” nhân cách
nhà giáo dục cho người học. Quá trình đó diễn ra nhờ vào việc sử dụng các phương tiện ngôn ngữ
và phi ngôn ngữ.
b. Các giai đoạn giao tiếp sư phạm.
Theo kết quả nghiên cứu của các nhà tâm lí học thì giao tiếp sư phạm được chia thành 4
giai đoạn:
- Giai đoạn định hướng trước khi giao tiếp.
- Giai đoạn mở đầu quá trình giao tiếp.
- Giai đoạn điều khiển giao tiếp.
- Giai đoạn kết thúc giao tiếp, phân tích hệ thống giao tiếp đã được thực hiện và xây dựng mô hình
hoạt động tiếp theo.
Ở giai đoạn thứ nhất, nhà giáo dục mô hình hóa hoạt động giao tiếp với sinh viên trong quá trình
chuẩn bị cho hoạt động giảng dạy sắp diễn ra. Do đó, người giáo viên phải xác định:
- Mục đích và nhiệm vụ giáo dục.
- Tình huống sư phạm và không khí tâm lí đạo đức của nhóm, lớp sinh viên.
- Sự sáng tạo của bản thân nhà giáo dục.
- Hệ thống phương pháp giản dạy và giáo dục sẽ được sử dụng trong giao tiếp.
Rõ ràng, việc nhận thức về hoạt động sẽ tiến hành là một thành phần quan trọng trong giao tiếp
sư phạm và đúng như lời của nhà giáo dục nổi tiếng V.A.Xukhôlinxki: “Giảng dạy không phải là
sự truyền đạt máy móc các tri thức. Đó là những mối quan hệ phức tạp của con người”.Ý nghĩa
sư phạm của giai đoạn một là sự định hướng quan hệ của giáo viên vào việc chính xác hóa phương
pháp giản dạy bằng cơ chế tâm lí – xã hội gián tiếp.
Giai đoạn thứ hai là giai đoạn mở đầu quá trình giao tiếp nghĩa là người giáo viên tổ
chức giao tiếp ở trên lớp với nhóm lớp sinh viên ngay lúc đầu tiên tiếp xúc với họ: cụ thể hóa kế
hoạch giao tiếp, chính xác hóa các điều kiện giao tiếp và sơ bộ thực hiện giai đoạn khởi đầu giao
tiếp trực tiếp. Những giáo viên giảng dạy có sáng kiến trong giao tiếp thường chuyển từ hoàn cảnh
trước tiếp xúc đến tình huống tác động trực tiếp. Sáng kiến của giáo viên là cách thức điều khiển
giao tiếp và toàn bộ hoạt động giáo dục - học tập, hoạt động sáng tạo đồng thời của giáo viên và
tập thể sinh viên, là điều khiển quá trình tìm tòi tri thức ở bài giảng, xemina xét về phương tiện
tâm lí xã hội được thực hiện qua tổ chức giao tiếp. Ở khâu đầu tiên của giao tiếp, giáo viên cần
phải chính xác hóa khả năng làm việc qua các phương pháp giảng dạy đã lựa chọn và dựa vào
không khí tâm lí chung ở giảng đường.
Giai đoạn thứ ba là giai đoạn điều chỉnh, điều khiển và phát triển giao tiếp. Thực chất
trong giai đoạn này là người giáo viên tìm các biện pháp phù hợp trong hoạt động cùng nhau của
giáo viên và sinh viên để đạt hiệu quả. Việc điều khiển quá trình sư phạm được phát triển bởi
phương pháp giản dạy trùng hợp với các nguyên tắc giao tiếp.Vì vậy, ngoài yêu cầu sư phạm còn
có các yêu cầu về mặt tâm lí – xã hội đối với bài giảng và được giải quyết bằng quá trình giao tiếp
sư phạm. Những yêu cầu quan trọng nhất là:
- Tổ chức tiếp xúc tâm lí ở trên lớp sao cho từng cá nhân và từng nhóm tiếp nhận được
thông tin.
- Tạo ra hoàn cảnh tâm lí thuận lợi cho bài giảng (Ví dụ: tính logic, độ tin cậy của bài giảng,
các hoàn cảnh có vấn đề cho tư duy…)
- Tạo hoàn cảnh tìm tòi các tư tưởng bằng các phương tiện tâm lí học (như giản nêu vấn
đề…).
- Điều khiển quá trình nhận thức của sinh viên qua bài giảng, xêmina sao cho bảo đảm về
nội dung và phương pháp tiếp xúc. Phong cách giao tiếp đúng đắn của giáo viên ở trên lớp có ảnh
hưởng rõ rệt đến kết quả giảng dạy và nâng cao tính sẵn sàng tiếp tiếp nhận tri thức của sinh viên.
Phong cách giao tiếp cởi mở sẽ tháo gỡ ngăn cách tâm lí về lứa tuổi và kinh nghiệm. Nó có khả
năng xây dựng tốt mối quan hệ trên cơ sở lôi cuốn sinh viên cùng sáng tạo.
- Sự thống nhất giữa lời nói và việc làm trong quá trình tác động lẫn nhau giữa giáo viên
và sinh viên không chỉ xây dựng long tin cậy lẫn nhau mà còn thể hiện nhân cách của nhà sư phạm.
Điều đó sẽ nâng cao hiệu quả học tập và hình thành thế giới quan của sinh viên.
- Hệ thống toàn vẹn, hợp lí trong quan hệ với sinh viên trong quá trình giao tiếp sẽ bảo đảm
nâng cao mức độ ý nghĩa khoa học và động cơ học tập.
Như vậy, việc tổ chức hợp lí giao tiếp sư phạm nhằm thực hiện chức năng giao tiếp, ổn
định và hình thành xu hướng nghề nghiệp, hình thành thế giới quan ở sinh viên.
Giai đoạn cuối cùng là kết thúc giao tiếp và phân tích hệ thống giao tiếp đã được thực hiện
chính xác hóa những phương thức có thể tổ chức giao tiếp với sinh viên trong tập thể.
Phân tích nội dung hoạt động cơ bản. Dự đoán trước việc giao tiếp học tập ở giảng đường
rồi đối chiếu với giai đoạn đầu tiên của giao tiếp sư phạm và dự đoán những ảnh hưởng tiếp xúc
của giảng dạy và toàn bộ quá trình học tập đã qua để xây dựng mô hình giao tiếp cho hoạt động
tiếp theo.
c. Phong cách giao tiếp sư phạm.
Phong cách giao tiếp sư phạm là toàn bộ hệ thống những phương pháp, thủ thuật tiếp nhận,
phản ứng, hành động tương đối ổn định và bền vững của giáo dục trong quá trình tiếp xúc với
người được giáo dục để thể hiện nhiệm vụ truyền đạt tri thức, kỹ năng, kỹ xảo, nghề nghiệp và
phát triển nhân cách toàn diện của người học. Để đạt hiệu quả giao tiếp cần phải tuân theo một số
nguyên tắc nhất định:
- Phải tôn trọng nhân cách của chủ thể giao tiếp với mình.
- Phải có thiện ý trong giao tiếp.
- Phải vô tư.
- Phải có sự đồng cảm trong giao tiếp.
Trong hoạt động cá nhân, mỗi người giáo viên đã hình thành nên một kiểu phong cách giao tiếp
độc đáo. Các hệ thống phương pháp và kỹ thuật giao tiếp thường chịu ảnh hưởng và bị chi phối
bởi nguồn gốc tâm lí sâu xa là cấu trúc động cơ của cá nhân. Tuỳ những phẩm chất tâm lí chiếm
ưu thế trong nhân cách của người giáo viên mà tạo ra các kiểu quan hệ giữa họ với sinh viên (theo
nghiên cứu của các nhà tâm lí học Mĩ - R.N.Cresơ và các nhà tâm lí học Ba Lan - A. Ianôpxki,
D.Dabavolxki. Như vậy, phong cách giao tiếp sư phạm cũ thể hiện sự quy định của xã hội về đạo
đức cho nhà giáo dục gắn với phong cách hoạt động. Phong cách này phụ thuộc vào kiểu thần
kinh, phản ánh sự quy định của hoạt động sư phạm và đặc điểm nhân cách của nhà giáo dục trong
một hệ thống giáo dục cụ thể. Trong giao tiếp sư phạm thể hiện ba kiểu phong cách của nhà giao
dục: Phong cách độc đoán, phong cách tự do và phong cách dân chủ.
- Phong cách độc đoán do tính độc đoán chiếm ưu thế trong nhân cách người giáo viên.
Trong giao tiếp với sinh viên, người có phong cách này thường không quan tâm đến những đặc
điểm riêng của họ dẫn tới thiếu thiện chí và gây không khí căng thẳng trong tập thể sinh viên. Tất
nhiên, những giáo viên đó gặp khó khăn trong việc thiết lập mối quan hệ với sinh viên.
- Phong cách tự do thể hiện tính linh hoạt quá mức trong giao tiếp của người giáo viên. Họ
để giao tiếp tự phát, dễ thay đổi mục đích, không làm chủ được diễn biến tâm lí của mình và
“chiều” theo sinh viên. Người có phong cách tự do dễ dàng thiết lập mối quan hệ những cũng có
thể làm cho uy tín bị giảm và giao tiếp không được điều khiển có mục đích.
- Phong cách dân chủ thể hiện lòng nhiệt tình, thiện chí, sự tôn trọng nhân cách và tính cởi
mở. Những phẩm chất đó giữ vai trò ưu thế trong nhân cách. Những giáo viên có phong cách dân
chủ trong giao tiếp với sinh viên thường lắng nghe, quan tâm giúp đỡ họ khi cần thiết nên dễ dàng
thiết lập mối quan hệ tốt với họ để đạt hiệu quả cao trong hoạt động sư phạm của mình.
Cách tốt nhất trong giao tiếp là phải dựa trên cơ sở sự lôi cuốn sinh viên của người giáo
viên vào hoạt động sáng tạo cùng nhau. Hoạt động này phản ánh bản thân quá trình hình thành
nhân cách người chuyên gia ở đại học và thể hiện mối tác động của hoàn cảnh đạo đức xã hội và
kỹ xảo giao tiếp nghề nghiệp sư phạm của nhà giáo dục. Có hai yếu tố quan trọng nhất là để hình
thành nên phong cách giao tiếp sư phạm là: sự lôi cuốn, tìm tòi khoa học và muốn chuyển lĩnh vực
tìm tòi khoa học vào việc tác động sư phạm trên cơ sở xác định “tình cảm sư phạm” như tác giả
M.O.Cơnhebeli đã viết: “Hãy xua đuổi mình đến với thanh niên, đặt hướng tìm các con đường đến
với họ”.
Lôi cuốn sinh viên và giáo viên cùng hoạt động là nguồn gốc của mối thiện cảm. Chúng có
quan hệ hứng thú khoa học với nghề nghiệp tương lai làm nảy sinh hoạt động tìm tòi sáng tạo. Mối
thiện cảm đó của giáo viên và sinh viên cần được phát triển trong hoạt động, chúng có mục đích
giáo dục mà không có mâu thuẫn. Những cơ sở tâm lí đạo đức của mỗi quan hệ giữa giáo viên và
sinh viên được hình thành dần dần và chúng phụ thuộc vào kinh nghiệm của người học, vào truyền
thống của trường và vào xu hướng sư phạm của nhân cách nhà giao dục.
• Một số biện pháp nắm vững giao tiếp sư phạm
Muốn nắm vững giao tiếp sư phạm, nhà giao dục phải giải quyết hai nhiệm vụ sau:
- Nghiên cứu tâm lí học để hiểu rõ bản chất, cấu trúc và quy luật giao tiếp sư phạm.
- Nắm vững kỹ thuật về thể thức giao tiếp sư phạm, phát triển khả năng giao tiếp, hình thành kỹ
năng, kỹ xảo giao tiếp nghề nghiệp. Việc rèn luyện giao tiếp sư phạm cần được tiến hành trong
thực tiễn những thể thức và kỹ thuật giao tiếp theo từng nhân tố quan trọng nhất của nó. Giao tiếp
sư phạm cần được tiến hành trong hoạt động có mục đích nghĩa là giao tiếp trong các tình huống
sư phạm trên cơ sở cấu trúc hoạt động nhà giáo dục. Việc luyện giao tiếp sư phạm có thể được tiến
hành theo mấy khâu sau:
+ Hình thức Kỹ năng tác động ở giảng đường nhằm giải quyết những nhiệm vụ học tập,
phát triển khả năng chú ý có chủ định và tập trung quan sát đối tượng giao tiếp.
+ Thực hiện một số bài tập đặc biệt để hình thành kỹ thuật và văn hóa trong lời nói hay gọi
điện; tập thể hiện ở nét mặt, ngữ điệu trước gương hay sử dụng video thì càng tốt.
+ Học giao tiếp trong các hoàn cảnh mẫu (trong tập thể chẳng hạn); phát triển óc tưởng
tưởng sư phạm, hình thành các kỹ năng giải quyết các nhiệm vụ trong các tình huống kiểm tra, thi,
xêmina……
1.4. NHÂN CÁCH VÀ SỰ HÌNH THÀNH, PHÁT TRIỂN NHÂN CÁCH NGHỀ NGHIỆP
1.4.1. Khái niệm nhân cách và nhân cách nghề nghiệp
a. Một số khái niệm liên quan tới nhân cách
* Các quan niệm về “con người”, “cá nhân”, “cá tính”, “nhân cách”
- Khái niệm con người: Con người vừa là một thực thể tự nhiên, vừa là một thực thể xã hội. Trước
hết là nói về mặt giống loài, mặt sinh học, mặt tự nhiên, con người thuộc lớp động vật bậc cao
trong giới tự nhiên, có dáng đứng thẳng, có đôi bàn tay vừa là công cụ để lao động, vừa là công cụ
để nhận thức, có bộ óc phát triển cao về giải phẫu và tinh vi về mặt cấu tạo. Bằng thân thể, máu
thịt và bộ não của mình, con người thuộc về giới tự nhiên, tuân theo các qui luật tự nhiên. Con
người sinh học là cơ sở tự nhiên để hình thành nhân cách. Nhưng cái sinh vật trong con người
không thuần túy là cái sinh vật, cái tự nhiên mà nó bị cái xã hội qui định một cách trực tiếp. C.
Mác viết : “Con người không phải chỉ là thực thể tự nhiên , nó là cái thực thể tự nhiên có tính
người”. Con người là thực thể tự sản sinh ra mình bằng hoạt động của mình, con người đã thoát
khỏi quá khứ động vật, khác hẳn với loài vật, đó là một giống loài siêu đẳng, có lao động, có ngôn
ngữ, sống thành xã hội... Theo C.Mác, là “tổng hoà các quan hệ xã hội”. Về mặt xã hội con người
vừa là chủ thể, vừa là khách thể của các quan hệ xã hội, có khả năng kế thừa nền văn minh nhân
loại. Vì thế, sự phát triển của con người còn chịu sự chi phối của các qui luật xã hội. Ngôn ngữ là
công cụ đắc lực để hình thành con người, biết chế tạo và sử dụng công cụ lao động. Con người là
chủ thể có ý thức, có nhân cách. Con người có thể biết nhận thức bản thân và trở nên một sáng tạo
mới của lịch sử. C.Mác đã viết “Con người chỉ khác con vật ở hiện tượng duy nhất là trong con
người có ý thức thay thế bản năng”. Khi hiểu con người với nghĩa như trên thì cần tiếp cận con
người theo cả ba mặt: sinh vật, tâm lí và xã hội.
Như vậy, con người vừa là thực thể tự nhiên, vừa là thực thể xã hội, là đối tượng nghiên
cứu của nhiều ngành khoa học: Tâm lí học, triết học, y học, pháp luật, nghệ thuật...v.v.
- Khái niệm cá nhân: Là thuật ngữ dùng để chỉ một con người cụ thể với tư cách đại diện
cho loài người, là thành viên của xã hội loài người. Thuật ngữ cá thể là từ chỉ đại diện của một
loài, có thể nói cá thể động vật, cá thể người nhưng cá thể người được gọi là cá nhân Như vậy, cá
nhân cũng là một thực thể sinh vật, xã hội và văn hoá song được xem xét xụ thể riêng từng người
với các đặc điểm về sinh lý, tâm lí và xã hội để phân biệt nó với cá nhân khác, với cộng đồng.
Theo nghĩa đó một người là nam hay nữ, trẻ thơ hay cụ già, người dân bình thường hay cán bộ
lãnh đạo đều là cá nhân. Mỗi cá nhân là sự phân biệt với người khác, với cộng đồng.
- Khái niệm cá tính: Thuật ngữ dùng để chỉ cái đơn nhất, độc đáo có một không hai, không
lặp lại trong tâm lí hoặc sinh lý của cá thể người. X. L.Rubinstêin viết: “Con người là cá tính do
nó có những thuộc tính đặc biệt, không lặp lại”. Mỗi cá nhân khác nhau về thể tạng, kiểu loại thần
kinh, về mầu da, mái tóc…vv, về tính tình, tính khí, nhu cầu, tình cảm, ước mơ, tài năng. Những
đặc điểm này của cá nhân bộc lộ trong các quan hệ của cuộc sống, lao động theo các sắc thái riêng
biệt được gọi là cá tính. Cá tính nói lên bản sắc của mỗi người, con người có thể khác nhau, cần
đến nhau nhưng không hòa tan vào nhóm người, vào xã hội.
- Khái niệm chủ thể: Khi cá nhân thực hiện một cách có ý thức, có mục đích một hoạt động hay
một quan hệ xã hội thì cá nhân đó được gọi là một chủ thể.
- Khái niệm nhân cách trong tâm lí học:
Khái niệm nhân cách được dùng để chỉ cái giá trị tinh thần mang những nét bản chất, giá
trị xã hội - cái tinh túy nhất về tinh thần của một cá nhân. C.Mác đã nói rằng bản chất của con
người không phải là bộ râu, máu của nó. Bản chất đó của nhân cách sẽ không trừu tượng mà hiện
thực như là sản phẩm của các quá trình hoạt động và giao tiếp xã hội. Trong tính hiện thực của nó,
bản chất của con người là tổng hoà các mối quan hệ xã hội. Nhân cách được xem xét như là bộ
mặt tâm lý riêng biệt của từng chủ thể. Nhân cách được nghiên cứu dưới nhiều góc độ khác nhau
thuộc nhiều ngành khoa học xã hội khác nhau, trong đó có khoa học tâm lí.
Trong tâm lí học đây là vấn đề có nhiều cách nhìn nhận, định nghĩa khác nhau về nhân
cách. Có thể nêu một số nhóm quan niệm về nhân cách như sau:
+ Quan niệm sinh vật hoá nhân cách: Coi bản chất nhân cách nằm trong các đặc điểm hình
thể(Kretchmev), ở góc mặt(C. Lombrozo), ở thể tạng(Seldon), ở bản năng vô thức(S. Freud).
+ Quan niệm xã hội hoá nhân cách: Quan điểm này lấy các quan hệ xã hội như (gia đình,
họ hàng, làng xóm…vv) để thay thế một cách đơn giản, máy móc các thuộc tính tâm lí của cá nhân
đó. Quan điểm này chỉ chú ý đến cái chung của gia đình, làng xóm, cộng đồng mà bỏ qua cái riêng,
cái đơn nhất, độc đáo của con người. Họ không thấy rằng, chính cái chung chỉ đạo cái riêng, cái
chung biểu hiện qua cái riêng, cái riêng làm phong phú cái chung.
- Quan niệm khoa học về nhân cách: Các nhà khoa học tâm lí cho rằng, khái niệm nhân
cách là một phạm trù xã hội, có bản chất xã hội - lịch sử, nghĩa là nội dung của nhân cách là nội
dung của những điều kiện lịch sử cụ thể, của một xã hội cụ thể chuyển thành đặc điểm nhân cách
của từng người. Theo A.G. Côvaliov: “Nhân cách là một cá thể có ý thức, chiếm một vị trí nhất
định rong xã hội và đang thực hiện một vai trò xã hội nhất định” E.V.Sôđrôkhôva: “Nhân cách là
con người với tư cách là kẻ mang toàn bộ thuộc tính và phẩm chất tâm lí, quy định của hình thức
của hoạt động và hành vi có ý nghĩa xã hội” X.L.Rubinstêin: “Khi giải quyết bất cứ hiện tượng
tâm lí nào, nhân cách nổi lên như một tổng thể liên kết thống nhất của các điều kiện bên trong và
tất cả các điều kiện bên ngoài đều bị khúc xạ”.
Từ những trình bày trên, có thể nêu lên một định nghĩa về nhân cách như sau: Nhân cách
là tổ hợp những đặc điểm, những thuộc tính tâm lí của cá nhân, quy định bản sắc hành vi xã hội
và giá trị xã hội của con người đó.3
Có thể cho rằng việc tổng hoà tất cả những thuộc tính của thể chất cũng như tài năng, phong
cách, ý thức, đạo đức, vai trò xã hội của chủ thể để tạo thành một hệ thống - cấu trúc xác định với
một bản sắc riêng và có cá tính rõ nét sẽ góp phần làm hình thành được một cấu tạo tâm lý đặc biệt
là nhân cách. ở con người, cái sinh lý cũng như cái xã hội và cái tâm lý sẽ luôn luôn có sự tác động
biện chứng với nhau trong mọi thời gian - không gian sống để tạo ra những nét đặc trưng của nhân
cách. Tất cả ba yếu tố này đều có sự ảnh hưởng, tác động qua lại và quy định lẫn nhau trong việc
hình thành nhân cách. Vì vậy, cần thiết phải có cách tiếp cận cụ thể, toàn diện và đặc thù khi phân
tích quá trình phát triển nhân cách để từ đó biết cách xác định được nội dung các tác động giáo
dục - đào tạo cho phù hợp.
Định nghĩa trên cho ta thấy nhân cách được coi là tổ hợp những thuộc tính tâm lý của cá
nhân tạo nên phẩm chất, năng lực và biểu hiện bản sắc cũng như quy định giá trị xã hội của họ.
Tổ hợp này được hiểu là phức hợp những thuộc tính tâm lý cá nhân có mối quan hệ chặt chẽ, tác
động qua lại lẫn nhau theo một hệ thống- cấu trúc nhất định để hợp thành nhân cách. Định nghĩa
trên có ý nghĩa thực tế trong việc xem xét, ứng xử đối với mỗi con người như một nhân cách cụ
thể cần chú ý tới các mặt trên.

3 Nguyễn Quang Uẩn, tâm lí học đại cương, NXB Đai học quốc gia Hà nội, 2001, trang 167.
Thuộc tính tâm lý cá nhân được hiểu là nét tâm lý bền vững thường xuyên, khó hình thành
và khó mất đi, tương đối ổn định – đặc trưng của từng người mà dựa vào đó, ta có thể phân biệt
được người này với người khác. Nhân cách có tính quy luật khi biểu hiện và vận hành. Nó không
phải được vận hành, biểu hiện một cách ngẫu nhiên.
Cùng một thuộc tính tâm lý cá nhân nhưng nó được nằm trong những cấu trúc khác nhau
thì ở chủ thể cũng sẽ có những biểu hiện nhân cách khác nhau. Ví dụ, thuộc tính “táo bạo” nếu đi
kèm với những thuộc tính tốt sẽ đưa tới hành động của một nhân cách tích cực vì lợi ích xã hội.
Trái lại, nếu sự “táo bạo” lại đi kèm với tính ích kỷ, tàn nhẫn thì nó sẽ làm thành một nhân cách
tha hóa, dễ gây ra những hậu quả tiêu cực, không lường trước được.
Bản sắc được hiểu là những sắc thái tâm lý mang bản chất của nhân cách. Trong đó, có cái
chung của xã hội, dân tộc, giai cấp, tập thể, gia đình đã được biến thành cái riêng biệt, đặc thù,
đơn nhất ở từng nhân cách. Mỗi một nhân cách sẽ có nội dung và hình thức biểu hiện khác nhau.
Những sắc thái cuả nó sẽ không giống với một tổ hợp nhân cách nào khác.
Cái “giá trị xã hội” của nhân cách là muốn nói tới những thuộc tính tâm lý thể hiện ra ở
những việc làm, cung cách ứng xử, phương thức thực hiện hành động, quan hệ phổ biến của chủ
thể đã được xã hội thừa nhận và đánh giá ở một mức độ xác định.
Con người được hiểu là một thực thể tự nhiên - xã hội có ý thức. Đó là đại diện của loài
homosapiens mà cái sinh lý của nó sẽ bị chi phối bởi những quy luật sinh học và đời sống tâm lý
của nó lại do tính xã hội - lịch sử quy định. Hoạt động tâm lý đặc trưng, cơ bản của con người là
có ngôn ngữ và ý thức. Bản chất của đời sống tâm linh của nó sẽ luôn luôn được hiện thực hoá ở
trong toàn bộ các mối quan hệ xã hội cũng như mọi tiến trình thực hiện các nhiệm vụ hoạt động
của chủ thể. Một con người cụ thể - một thành viên của xã hội đang tồn tại thực trong những dạng
hình hoạt động hay giao tiếp xác định sẽ được gọi là cá nhân - cá thể người. Khi cá nhân tiến hành
thực hiện những nhiệm vụ của một hoạt động hoặc giao tiếp xác định một cách có ý thức, có mục
đích nhằm nhận thức đối tượng cũng như tác động cải tạo - nắm bắt - biến đổi nó thành ra những
giá trị vật chất - tinh thần nào đó và đang tồn tại trong các mối quan hệ xã hội cụ thể sẽ được coi
là một chủ thể. Nếu một chủ thể đang được tồn tại trong các dạng hoạt động - giao tiếp cụ thể thì
do những đặc điểm của thể tạng cũng như kiểu hình thần kinh và cấu tạo cơ thể của họ quy định
mà đời sống tâm lý của nó sẽ có sự độc đáo, khác biệt, không được lặp lại ở người thứ hai. Cái đó
sẽ tạo ra cái gọi là cá tính ở chủ thể. Phức hợp toàn bộ những nét cá tính quy định bản chất con
người với tư cách là một thành viên của xã hội cũng như một công dân, người lao động, một nhà
hoạt động xã hội có ý thức sẽ làm thành nhân cách.
Có thể coi nhân cách như là toàn bộ những đặc điểm cùng với những phẩm chất tâm lý cá
nhân có tác dụng quy định giá trị và hành vi xã hội của một chủ thể. Tất cả những cái đó sẽ góp
phần tạo nên được nét đặc trưng của bản sắc và giá trị xã hội trong nhân cách của họ. Nhân cách
được coi là tổng hoà không phải mọi đặc điểm cá thể của con người mà chỉ những phẩm chất
chung nào quy định nó như là một thành viên của xã hội cũng như một công dân, người lao động
và một nhà hoạt động xã hội có ý thức. Nhân cách của chủ thể sẽ luôn luôn được sống động hiện
thực qua toàn bộ những hành vi, quan hệ xã hội trong suốt tiến trình của cuộc sống của họ.
Việc xem xét nhân cách ở trên cả ba bình diện này sẽ giúp cho chúng ta có đủ điều kiện
tâm lý để nhận thức được một cách rõ ràng những đặc điểm của nhân cách. Nó sẽ có ý nghĩa rất
quan trọng đối với những quá trình thực thi những tác động giáo dục để đào tạo ra được những
phẩm chất nhân cách tốt cho học sinh.Toàn bộ những phẩm chất của nhân cách sẽ luôn luôn được
tồn tại ở trạng thái vận động và phát triển trong tiến trình thực hiện các nhiệm vụ của hoạt động
cũng như giao tiếp của chủ thể. Tất cả những nét tính cách, những phẩm chất này đều sẽ được kết
hợp lại thành một chỉnh thể có cấu trúc xác định và ổn định.
Tuy nhiên nhân cách cách được phát triển, vận động và thay đổi đi cùng với sự biến đổi của hoàn
cảnh nhưng những phẩm chất của nó vẫn có sự ổn định tương đối. Nhờ đó, ở chúng ta mới có được
những cơ sở tâm lý để có thể tiến hành chẩn đoán sự phát triển nhân cách của học sinh một cách
có luận cứ cũng như thực hiện tốt những tác động giáo dục cá biệt hoá. Những phẩm chất nhân
cách đều có sự bền vững thường xuyên, tương đối ổn định và biểu hiện những đặc trưng cho từng
cá nhân mà dựa vào đó, người ta có thể phân biệt được nó với người khác. Những phẩm chất này
sẽ dược coi là những thuộc tính tâm lý cá nhân.
Những thuộc tính tâm lý cá nhân tạo thành nhân cách phải được biểu hiện ra trên cả ba cấp
độ bên trong cá nhân, hoạt động và giao tiếp của nó cũng như ở sự hình dung, đánh giá, thừa
nhận của người khác về nó. Nhân cách luôn được nảy sinh, hình thành, phát sinh, phát triển và
biểu hiện ra ở trong cuộc sống, hoạt động, giao tiếp của chủ thể trong những điều kiện xác định.
Nhân cách được coi là sự phức hợp của những phẩm chất tâm lý cá nhân. Nó là một cấu trúc thống
nhất của tất cả những nét nhân cách được vận động trong một chỉnh thể. Đây không phải là một
phép cộng đơn giản của các thuộc tính tâm lý cá nhân mà là một hệ thống - cấu trúc thống nhất.
Điều đó sẽ làm cho toàn bộ các phẩm chất tâm lý của nhân cách đều có được những mối quan hệ
tương tác, quy định và đặt điều kiện cho sự vận động của nhau. Chính vì vậy, cần phải đảm bảo
được quan điểm toàn diện khi phân tích những vấn đề của tâm lý học nhân cách. Nhân cách sẽ
luôn luôn được hình thành như một thể thống nhất thông qua các quá trình hoạt động và giao tiếp.
ở trường nghề, chúng ta phải tiến hành các tác động giáo dục học sinh theo một hệ thống cấu trúc
thống nhất để làm hình thành nên ở các em những nhân cách hoàn chỉnh.
Nhân cách không phải là sản phẩm tiêu cực của hoàn cảnh. Nó được hình thành thông qua
các quá trình hoạt động - giao tiếp tích cực, chủ động, sáng tạo, gắng sức và say sưa của chủ thể.
Tính tích cực của nhân cách sẽ được coi là một điều kiện, phương tiện và sản phẩm tất yếu của các
quá trình hoạt động cũng như giao tiếp của chủ thể. Tính tích cực này sẽ được thể hiện tập trung ở
những hoạt động cũng như quan hệ đa dạng và muôn vẻ nhằm biến đổi, cải tạo thế giới đối tượng
của chủ thể. Trên cơ sở đó, chủ thể sẽ phát hiện ra được logic của đối tượng mà tiến hành chiếm
lĩnh, biến đổi nội dung của nó để làm thành ra các phẩm chất nhân cách của mình.
Trong nhà trường nghề, khi thực thi bất kỳ tác động sư phạm nào, người giáo viên cũng
phải biết cách tiến hành định hướng tính tích cực của học sinh vào tiếp nhận và giải quyết tốt
những nhiệm vụ của hoạt động học tập. Nhu cầu học tập đã được coi là nguồn gốc của tính tích
cực thực hiện những nhiệm vụ của hoạt động học tập của học sinh. Vì vậy, trong giáo dục - đào
tạo kỹ thuật, giáo viên cần thiết phải biết cách hình thành cho bằng được những nhu cầu này ở mọi
học sinh. Nhân cách chỉ được nảy sinh, phát triển, biểu hiện và tồn tại trong tiến trình thực hiện
các nhiệm vụ của những hoạt động và giao tiếp. Thông qua các quá trình thực hiện hoạt động cùng
nhau và giao tiếp nhóm, học sinh sẽ nhận thức được nội dung của thế giới đối tượng cũng như mới
lĩnh hội được các chuẩn đạo đức theo đúng như những định hướng giá trị xã hội. Nhất là thông
qua các điều kiện tâm lý xã hội xác định của nhóm và tập thể ở nhà trường, gia đình cũng như xã
hội mà các phẩm chất tâm lý của nhân cách của các em sẽ được phát triển một cách vững chắc.
Trong các điều kiện cụ thể của các quá trình giao tiếp sẽ diễn ra sự truyền đạt ý đồ, tư tưởng, tình
cảm, ý nghĩ cho nhau cũng như sự gây ảnh hưởng qua lại lẫn nhau và để lại dấu ấn trong nhau. Vì
vậy, các em sẽ luôn luôn có thể học tập và tiếp thu được những phẩm chất nhân cách tốt của nhau,
làm cơ sở cho sự phát triển toàn diện phẩm hạnh của mình. Theo luận điểm này thì khi thực thi
các tác động sư phạm trong nhà trường, người giáo viên kỹ thuật cần phải biết cách quan tâm đến
việc tổ chức và chỉ đạo cho tốt các quá trình giao tiếp của trẻ với nhau cũng như với người lớn.
Vậy, nhân cách của một chủ thể sẽ không phải là sản phẩm của sự bảm sinh và di truyền.
Nó sẽ phải được hình thành dần dần bằng hoạt động và giao tiếp của chủ thể trong suốt cuộc đời
từ ấu thơ đến khi trưởng thành. Giá trị của nhân cách sẽ không bị mất đi cùng với cái chết sinh
học của chủ thể. Giá trị đó sẽ được tồn tại trong sản vật mà họ đã làm ra cũng như trong đời sống
tâm lý - xã hội của nhóm. Nhân cách được hình thành không dừng lại, không cố định, nó có thể
được phát triển đi đến hoàn thiện, có thể bị suy thoái. Có thể nói nhân cách là tổ hợp những phẩm
chất và năng lực tạo nên bản sắc và giá trị tinh thần của mỗi người. Nhân cách có những đặc điểm
cơ bản như tính ổn định cũng như tính thống nhất, tính tích cực và tính giao tiếp.
b. Bản chất nhân cách:
* Nhân cách con người vừa là chủ thể, vừa là khách thể của các mối quan hệ xã hội
Tính chủ thể thể hiện ở chỗ Nhân cách là chủ thể các mối quan hệ xã hội, chủ thể hoạt động
nhân thức và cải tạo thế giới khách quan. Tính khách thể biểu hiện nhân cách là sản phẩm chịu
ảnh hưởng của của các quan hệ xã hội, là sản phẩm của hoạt động và giao tiếp. Nhân cách thể hiện
sự thống nhất biện chứng giữa cái chung và cái riêng, giữa cái phổ biến và cái đặc thù trong đời
sống tinh thần của mỗi con người. Do vậy, muốn đánh giá đúng đắn một nét nhân cách nào đó ta
cần xem xét nó trong sự kết hợp, trong mối liên hệ với những nét nhân cách khác của cá nhân đó.
Cần khai thác những ý tưởng bản chất nhân cách thuộc phạm trù cấp độ xã hội bao trùm lên một
không gian rộng lớn so với không gian của lớp đặc điểm tâm sinh lí cá nhân. Ví dụ Nhân cách
thanh niên Việt nam không chỉ bị chế ước của lịch sử Viêt nam mà còn bị chế ước, chi phối bởi
qui luật phát triển của lịch sử thế giới.
* Nhân cách có tính tích cực
Nhân cách là chủ thể của hoạt động và giao tiếp, là sản phẩm xã hội. Vì thế tính tích cực
là một thuộc tính của nhân cách. Một cá nhân được thừa nhận là một nhân cách khi cá nhân đó
tích cực hoạt động trong những hình thức đa dạng của nó. Tính tích cực của nhân cách biểu hiện
ở việc xác định tự giác mục đích hoạt động, giao tiếp nhằm hiện thực hóa mục đích. Ở đây, nhân
cách bộc lộ khả năng tự điều chỉnh và chịu sự điều chỉnh của xã hội. Nhờ vào việc nhận thức, cải
tạo, sáng tạo ra thế giới và đồng thời cải tạo chính bản thân mình. Giá trị đích thực của nhân cách,
chức năng xã hội, cốt cách làm người của cá nhân thể hiện rõ nét ở tính tích cực của nhân cách
Tính tích cực của nhân cách biểu hiện trong quá trình thoả mãn các nhu cầu của nhân cách, hệ
thống nhu cầu của con người là nguồn gốc và động lực chủ yếu của tính tích cực của nhân cách.
Quá trình tích cực hoạt động nhằm thoả mãn nhu cầu là một quá trình tích cực,không chỉ
thỏa mãn các đối tượng có sẵn, con người luôn luôn sáng tạo ra các đối tượng mới, các phương
thức thỏa mãn mới với những nhu cầu ngày càng cao của họ. Quá trình đó luôn là quá trình hoạt
động có mục đích tự giác, trong đó con người làm chủ được những hình thức hoạt động của mình
do sự phát triển xã hội qui định nên. Trong giáo dục và dạy học phương pháp dạy học có hiện đại,
giáo viên có giỏi chuyên môn, tâm huyết với nghề mà học sinh không tích cực học tập thì cũng
không học được vì thế cần chú trọng phát huy tính tích cực học tập của các em.
* Nhân cách là một cấu trúc tâm lí mới
Như phân tích trên ta thấy nhân cách không phải là một nét, một phẩm chất tâm lí riêng lẻ
mà là một tổ hợp cấu tạo tâm lí mới. Đó là tổng thể các đặc điểm tâm lí, các thuộc tính tâm lí đặc
trưng với cơ cấu xác định của một giai đoạn phát triển tâm lí nhất định, khác với các giai đoạn
khác. Sự phát triển nhân cách là quá trình liên tục tạo ra những cấu tạo tâm lí mới. Những cấu tạo
tâm lí mới này tương đối ổn định tiềm tàng trong mỗi cá nhân, nó nói lên bộ mặt tâm lí xã hội cuả
mỗi cá nhân, qui định giá trị xã hội làm người của mỗi cá nhân.Nhân cách không dừng lại, không
cố định, nó có thể phát triển hoàn thiện, có thể bị suy thoái. Nhân cách là một cấu trúc tâm lí trọn
vẹn, ổn định và thống nhất, đồng thời mang tính tích cực và tính giao lưu với tư cách là chức năng
xã hội, giá trị xã hội, cốt cách làm người.
* Nhân cách con người có khả năng tự điều chỉnh và chịu sự điều chỉnh từ phía xã hội
Khả năng tự điều chỉnh và chịu sự điều chỉnh từ phía xã hội của nhân cách là khác nhau
tùy theo lứa tuổi, tùy theo trình độ phát triển nhân cách của cá nhân. Nhân cách là cái sinh thành
và phát triển trong suốt cuộc đời của con người, biểu hiện trong hoạt động và mối quan hệ giao
lưu của cá nhân trong xã hội. Khả năng tự điều chỉnh nhân cách và chịu sự điều chỉnh từ phía xã
hội của nhân cách nếu không được hình thành sẽ dẫn đến hiện tượng phân đôi nhân cách và hành
vi có tính hai mặt. Vì nhân cách mang tính tương đối ổn định nên ta có thể dự kiến trước được
hành vi của một nhân cách nào đó trong tình huống này hay tình huống khác. Qua hoạt động, giáo
dục và rèn luyện có thể thay đổi được nét nhên cách cũ và hình thành nét nhân cách mới. Mỗi cá
nhân có vị trí, vai trò, môi trường hoạt động khác nhau, chúng không cố định mà luôn thay đổi.
Do vậy, trong môi trường hoạt động mới với vị trí và vai trò khác nhau con người sẽ hình thành
thêm những phẩm chất nhân cách mới cho phù hợp. Phát triển khả năng tự điều chỉnh nhân cách
cho học sinh là công việc cần thiết của mỗi người giáo viên, tuy nhiên cần chú ý cách tiếp cận và
phương thức điều chỉnh nhân cách từ phía xã hội như: Khen thưởng, trách phát, khuyến khích,
động viên hay kỉ luật ..vv, tất cả đều mang tính nghệ thuật, khoa học.
c. Cấu trúc nhân cách
Trong tâm lý học nhân cách còn hiện tồn nhiều loại quan điểm khác nhau về nhân cách
cũng như về cấu trúc tâm lý của nó. Nghiên cứu để nắm vững được những thành phần tâm lý trong
cấu trúc của nhân cách sẽ được coi là một việc làm rất cần thiết và có ý nghĩa về mặt lý luận cũng
như phương pháp luận cơ bản, chỉ đạo cho việc thực hiện những tác động hình thành nhằm phát
triển đầy đủ tất cả những yếu tố hợp thành đó cho học sinh. Giống như bất kỳ một sự vật hiện tượng
nào, nhân cách cũng có một cấu tạo nhất định. Tùy theo quan niệm về bản chất nhân cách mỗi tác
giả đưa ra quan điểm khác nhau về cấu trúc của nhân cách như tiến hành phân tích nhân cách theo
hai thành phần, ba thành phần và bốn thành phần. Sau đây, chúng ta sẽ tìm hiểu nội dung của một
số quan niệm cơ bản về cấu trúc nhân cách có liên quan đến phương thức thực hiện các quá trình
sư phạm trong nhà trường.
* Quan điểm coi cấu trúc nhân cách gồm hai thành phần Đức (phẩm chất) và Tài (năng lực) thống
nhất với nhau
Đức: là những phẩm chất đạo đức của con người, được thể hiện ở thái độ đối với công việc,
đối với người khác, đối với xã hội, đối với bản thân, được thể hiện bằng hệ thống hành vi (do khí
chất chi phối). Tài: là những phẩm chất năng lực của con người, nói lên khả năng của con người
trong công việc.
Phẩm chất (Đức) Năng lực (Tài)
- Các phẩm chất “xã hội” (đạo đức-chính trị): - Năng lực xã hội hoá: thích nghi, sáng tạo, cơ
thể giới quan, niềm tin, lí tưởng, lập trường, động, mềm dẻo…
quan điểm, thái độ chính trị, thái độ lao động - Năng lực chủ thể hoá: biểu hiện tính độc đáo,
đặc biệt là biểu giá trị xã hội (hay biểu định đặc sắc, cái riêng, cái bản lĩnh của cá nhân.
hướng giá trị). - Năng lực hành động: hành động có mục đích,
- Các phẩm chất “cá nhân”(hay đạo đức-tư có điều khiển, chủ động, tích cực…
cách): tính khí, tính nết, tính tình, tính khí, các - Năng lực giao lưu: thiết lập và duy trì quan
thói, các thú… hệ…
- Các phẩm chất ý chí của cá nhân: tính mục
đích, tính quyết đoán, kiên trì, chịu đựng…
- Các cung cách ứng xử hay tác phong.

Bảng 1. Cấu trúc tâm lí đức và tài của nhân cách


* Quan điểm nhân cách gồm ba thành phần:
Quan điểm nhân cách gồm 3 lĩnh vực cơ bản: Nhận thức (bao gồm cả tri thức và năng lực
trí tuệ). Tình cảm (rung cảm, thái độ), bao gồm hệ thống thái độ đối với cá nhân, người khác,tự
nhiên, xã hội và những rung cảm. Hành động (Ý chí và hành động ý chí, phẩm chất ý chí, hành
động tự động hóa). Ba mặt cơ bản này trong nhân cách con người có quan hệ qua lại và tác động
ảnh hưởng lẫn nhau. Trong đó nhận thức là cơ sở cho hành động, tình cảm là động lực cho nhận
thức và hành động. Hành động là nơi hình thành và biểu hiện cho nhận thức và tình cảm con người.
Theo quan điểm của A.G.Côvaliôv, trong cấu trúc nhân cách gồm các quá trình phát triển tâm lí,
các trạng thái tâm lí và các thuộc tính tâm lí cá nhân. Ba loại hiện tượng tâm lí này tạo nên cấu
trúc nhân cách.
* Quan điểm nhân cách gồm bốn thành phần
Theo quan điểm của K.K. Platônốp nhân cách gồm 4 tiểu cấu trúc:
+Tiểu cấu trúc tứ nhất có nguồn gốc sinh học, bao gồm các thuộc tính của khí chất, giới
tính, lứa tuổi và cả những bệnh lýcá nhân.
+ Tiểu cấu trúc thứu haibao gồm các đặc điểm của các quá trình tâm lí riêng biệt đã trở
thành những thuộc tính tâm lí nhân cách: tính chủ ý, tính độc lập, các phẩm chất cảm giác, tri giác,
trí nhớ, trí tuệ, các đặc điểm của xúc cảm, tình cảm.các phẩm chất này được hình thành bằng con
đường luyện tập của cá nhân.
+ Tiểu cấu trúc thứ ba là vốn kinh nghiệm xã hội của cá nhân, bao gồm các trí thức, Kỹ năng,
kỹ xảo, thói quen và năng lực, được con người lĩnh hội bằng con đường dạy học.
+Tiểu cấu trúc thứ tư là cấu trúc các đặc điểm xu hướng nhân cách, được biểu hiện ra ở ý
hướng, ý muốn, nhu cầu, hứng thú, lí tưởng, thế giới quan, niềm tin.
Tất cả bốn tiểu cấu trúc trên nói lên chiều hướng nhan cách, khả năng hoạt động của nhân cách và
nhân cách đó hoạt động như thế nào?, biểu hiện ra sao?
Quan điểm truyền thống, nhân cách gồm 4 nhóm thuộc tính điển hình:
+ Xu hướng: là toàn bộ thuộc tính tâm lí nói lên chiều hướng phát triển của nhân cách. Nói
lên phương hướng, chiều phát triển của con người, xác định người đó đi theo hướng nào, từ
đâu…vv. Xu hướng bao gồm: nhu cầu, hứng thú, khuynh hướng và biểu hiện tổng hợp nhất, sâu
sắc nhất của xu hướng là niềm tin, thế giới quan và lí tưởng của nhân cách.
+ Tính cách: Nói lên nội dung tính chất của nhân cách.
+ Khí chất: Nói lên hình thức biểu hiện tính chất của nhân cách. Khí chất và tính cách nói
lên phong cách của nhân cách(tính khí).
+ Năng lực: Đặc điểm tâm lí tạo ra sự thành công của con người trong một lĩnh vực hoạt
động nào đó. Nói lên con người đó có thể làm gì, làm đến mức nào, làm với chất lượng ra sao.
Quan điểm truyền thống, nhân cách gồm 4 nhóm thuộc tính điển hình sẽ được phân tích ở
chương sau (chương 3). Phân tích rõ những thuộc tính tạo nên phẩm chất, năng lực và bản sắc
riêng trong hành vi nhân cách.
Tóm lại: Dù theo quan niệm nào đi chăng nữa thì nhân cách phải được đặt vào trong mối quan hệ xã
hội và thể hiện trong hoạt động và mối quan hệ xã hội. Các thành tố trong cấu trúc là sự nhấn mạnh
các khí cạnh khác nhau trong cấu trúc nhân cách con người. Các thành tố này có mối quan hệ, chế
ước nhau tạo nên một bộ mặt tương đối ổn định nhưng cũng rất cơ động nhờ cấu trúc nhân cách
mà làm chủ bản thân linh hoạt mềm dẻo, sáng tạo trong hoạt động. Hiều và quan niệm cấu trúc
nhân cách như thế nào sẽ chỉ ra cách tiếp cận để hình thành và giáo dục nhân cách cho học sinh.
b. Mô hình nhân cách nghề nghiệp
Con người nói chung và nhân cách nói riêng là đối tượng nghiên cứu của nhiều chuyên ngành
khoa học xã hội: triết học, xã hội học, giáo dục học…Nhân cách và những đặc trưng về cấu trúc của
nhân cách cùng quá trình phát triển vận động của nó tương ứng với từng giai đoạn phát triển cá nhân
đóng vai trò quan trọng trong công tác đào tạo nghề và công tác hướng nghiệp cho thanh niên. “Nếu
như tâm lí học nghiên cứu cái tồn tại trong con người thì giáo dục học hướng vào việc hình thành
những cái đó trong nhân cách” (A.V.Petroxki). Nhân cách là sản phẩm của môi trường xã hội, của giáo
dục, chịu sự chi phối của các đặc tính di truyền, sinh học. Những kết quả nghiên cứu về nhân cách
nghề nghiệp sẽ tạo cơ sở khoa học cho công tác hướng nghiệp và đào tạo nghề nghiệp đáp ứng nhu
cầu nhân lực lao động nghề nghiệp của xã hội. Nhân cách và mô hình nhân cách nghề nghiệp trong
đào tạo nghề và hướng nghiệp cho thanh niên được thể hiện ở năng lực nghề nghiệp và phẩm chất
nghề nghiệp của giáo viên và học sinh học nghề, sinh viên học nghề.
Trong quá trình xây dựng mô hình nhân cách nghề nghiệp theo hướng kết hợp hai loại hình
cấu trúc theo các bộ phận cấu thành về phẩm chất và năng lực (đức và tài) với loại hình cấu trúc bốn
tiểu cấu trúc: (Xu hướng; Kinh nghiệm sống và lao động; các đặc điểm tâm lí về tính cách, khí chất;
những đặc trưng về sức khỏe, thể trạng, lứa tuổi..). Loại hình các tiểu cấu trúc nhỏ phản ánh những đặc
trưng, trình độ phát triển nhân cách ở bên trong của mỗi cá nhân còn loại hình cấu trúc đức - tài phản
ánh những đặc trưng tổng hợp, những giá trị nhân cách được tổng hợp ở bên ngoài của mỗi cá nhân
được tập thể hay xã hội thừa nhận qua quá trình sống và và lao động nghề nghiệp Việc xây dựng mô
hình nhân cách nghề nghiệp theo hướng kết hợp hai loại hình cấu trúc nêu trên trong một mô hình nhân
cách nghề nghiệp là con đường hợp lý và đáp ứng tốt yêu cầu nghiên cứu xây dựng mô hình đào tạo
cho từng loại hình lao động nghề nghiệp trong hệ thống đào tạo ở nướ ta.(trích theo tài liệu Giáo dục
và phát triển nguồn nhân lực trong thế kỉ XXI, Trần Khánh Đức, NXB Giáo Dục, 2010 ).4

4 Hình 4.1, 4.2..Trần Khánh Đức, Sư phạm kỹ thuật, NXB Giáo Dục, 2002
Mô hình nhân cách nghề nghiệp

Xu hướng nghề Kinh nghiệm nghề Đặc điểm tâm lý Đặc trưng sinh học
nghiệp nghiệp nghề nghiệp

Phẩm chất nghề Năng lực nghề


nghiệp (Đức) nghiệp (Tài)

Hình 5.1. Sơ đồ trúc mô hình nhân cách nghề nghiệp


Việc nghiên cứu quá trình vận động và phát triển của nhân cách nghề nghiệp thích ứng với
từng giai đoạn: tiền nghề nghiệp, đào tạo nghề và giai đoạn thích ứng, phát triển nghề có ý nghĩa quan
trọng trong quá trình nghiên cứu đảm bảo tính kế thừa, khả năng liên thông cho hợp lí các bậc đào tạo
và các loại hình đào tạo theo quan điểm xây dựng hệ thống giáo dục và đào tạo liên tục. Quá trình phát
triển nhân cách qua các giai đoạn này là quá trình hoàn thiện dần các đặc trưng cấu trúc nhân cách
bằng việc hình thành những đặc trưng mới, bổ sung thêm vào những đặc trưng đã có hoặc phát triển
chúng đến trình độ cao hơn.
Hiện nay, những vấn đề hình thành và phát triển nhân cách nghề nghiệp đáp ứng nhu cầu nhân
lực lao động nghề nghiệp phong phú và thường xuyên biến đổi về cơ cấu ngành nghề và trình độ được
đào tạo; Xây dựng mô hình nhân cách nghề nghiệp sáng tạo đáp ứng yêu cầu đội ngũ lao động sáng
tạo, có ý chí vương lên mạnh mẽ trong lao động nghề nghiệp để thành đạt trong cuộc sống và làm giàu
cho bản thân và đất nước đang là vấn đề cần quan tâm.
Đặc trưng nhân cách của một nhóm xã hội hay của từng cá nhân được bộc lộ trong hoạt động,
trong đời sống và trong lao động nghề nghiệp. Việc nghiên cứu quá trình vận động và phát triển của
nhân cách nghề nghiệp thích ứng với từng giai đoạn: tiền nghề nghiệp, đào tạo nghề và giai đoạn thích
ứng, phát triển nghề có ý nghĩa quan trọng trong quá trình nghiên cứu đảm bảo tính kế thừa, khả năng
liên thông cho hợp lí các bậc đào tạo và các loại hình đào tạo theo quan điểm xây dựng hệ thống giáo
dục và đào tạo liên tục. Quá trình phát triển nhân cách qua các giai đoạn này là quá trình hoàn thiện
dần các đặc trưng cấu trúc nhân cách bằng việc hình thành những đặc trưng mới, bổ sung thêm vào
những đặc trưng đã có hoặc phát triển chúng đến trình độ cao hơn.
Với tư cách là một hoạt động chủ đạo, hoạt động nghề nghiệp thực tiễn không chỉ góp phần
quyết định đến sự hình thành và phát triển nhân cách nghề nghiệp mà chính thông qua hoạt động này
những đặc trưng nhân cách nghề nghiệp của một nhóm xã hội, của từng cá nhân mới được bộc lộ, hình
thành một cách rõ ràng và đầy đủ (xu hướng phát triển nghề, động cơ nghề nghiệp…vv. cả mặt tích
cực, mặt tiêu cực những xu hướng phát triển hoặc suy thoái nhân cách). Chính vì vậy mô hình hoạt
động nghề nghiệp là cơ sở chủ yếu để xây dựng mô hình nhân cách nghề nghiệp và mô hình nhân cách
nghề nghiệp cũng phản ánh những đặc tính của cộng đồng con người Việt Nam. Quá trình nghiên cứu
xây dựng mô hình nhân cách nghề nghiệp được tiến hành theo qui trình cơ bản sau đây:

Mô hình
Nhu cầu chung về con Cơ sở lý luận đào
nhân lực lao người Việt tạo và phát triển
động xã hội Nam nghề nghiệp

Mô hình Mô hình Mô hình


hoạt đông nhân cách đào tạo
nghề nghiệp nghề nghiệp nghề nghiệp

Hình 5.2. Sơ đồ hệ thống các mô hình nghiên cứu xây dựng mô hình nhân cách nghề nghiệp
Cấu trúc mô hình hoạt động nghề nghiệp trong giai đoạn hiện nay cần tính đến các loại hình
hoạt động sáng tạo trong lao động nghề nghiệp bên cạnh các loại hình thừa hành (các sáng kiến hợp lí
hóa tổ chức sản xuất, cải tiến công cụ công nghệ, nâng cao chất lượng sản phẩm, khả năng giải quyết
tình huống vấn đề mới nảy sinh trong lao động nghề nghiệp, khả năng di chuyển sang các loại hình lao
động khác … ).Trong qúa trình xây dựng mô hình nhân cách nghề nghiệp đã đặt ra việc lựa chọn loại
hình cấu trúc nhân cách nghề nghiệp cho thích hợp với yêu cầu của công tác hướng nghiệp và đào tạo
nghề.
Mô hình nhân cách nghề nghiệp xây dựng làm cơ sở để nghiên cứu và xây dựng mô hình đào
tạo và hoàn thiện mô hình đào tạo nghề nghiệp theo mô- đun, theo năng lực thực hiện (CBT). Nghiên
cứu và xây dựng mô hình nhân cách nghề nghiệp và giải quyết tốt các khía cạnh khác nhau của mô
hình nhân cách nghề nghiệp sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho các yêu cầu về chiến lược đào tạo nghề,
góp phần tích cực vào tìm kiếm các phương thức đào tạo mới thích hợp với điều kiện thực tiễn, nâng
cao chất lượng đào tạo nghề nghiệp ở nước ta.
Mô hình đào tạo nghề là quá trình thiết kế một quy trình đào tạo nghiêm ngặt trong một thời gian nhất
định để cho ra một sản phẩm nhất định (nhân cách nghề nghiệp được đào tạo). Trong quy trình này có
các giai đoạn liên quan chặt chẽ với nhau từ xác định nhu cầu đào tao, thiết kế chương trình, tuyển
chọn, tổ chức đào tạo, kiểm tra và đánh giá thích ứng nghề. Các giai đoạn này lại được phân ra nhiều
giai đoạn nhỏ hơn đảm bảo cho người học đạt được theo trình tự vạch sẵn những mục tiêu trung gian
tương ứng với các nội dung, phương pháp, phương tiện giảng dạy và các hình thức tổ chức, kiểm tra
đánh giá thích hợp với từng giai đoạn nhỏ trong quá trình đào ạo. Phướng hướng đáng chú ý trong đào
tạo nghề ở giai đoạnn hiện nay là phương thức đào tạo theo mô-đun đào tạo nghề, theo cách học chế
tín chỉ hoặc kết hợp các phương thức đào tạo này trong qui trình đào tạo thống nhất. Đặc biệt là tăng
cường và sử dụng có hiệu quả các trang thiết bị kĩ thuật dạy học trong đào tạo.
1.4.2. Sự hình thành nhân cách
Nhân cách không có sẵn bằng cách bộc lộ dần các bản năng nguyên thủy mà nhân cách là
cấu tạo tâm lí mới được hình thành trong quá trình sống- giao tiếp, vui chơi, học tập, lao động của
chính bản thân mỗi con người. Nhân cách được hình thành là cả một quá trình nảy sinh, hình thành
và chuyển hóa giữa các giai đoạn phát triển.
a. Qúa trình hình thành và phát triển nhân cách của con người có một số đặc điểm cơ bản sau:
* Tính không đồng đều trong sự phát triển nhân cách
Nhân cách con người gồm nhiều thuộc tính nhưng các thuộc tính tâm lí không hình thành
đồng thời cùng một lúc mà hình thành theo trật tự trước sau. Các thuộc tính tâm lí xuất hiện trước
là cơ sở, tiền đề cho các thuộc tính xuất hiện sau. Giữa các thuộc tính tâm lí mới và các thuộc tính
tâm lí cũ có mối liên hệ và tác động qua lại với nhau trong quá trình phát triển.
* Động lực của sự hình thành và phát triển nhân cách. Động lực của sự hình thành và phát triển
nhân cách là quá trình giải quyết mâu thuẫn giữa một bên là trình độ tâm lí đã đã đạt được và một
bên là yêu cầu mới của hoạt động. Trong quá trình phát triển có thể có các loại mâu thuẫn sau:
Mâu thuẫn giữa trình độ đạt được của nhân cách với các yêu cầu mới của hoạt động; Mâu thuẫn
giữa kĩ năng, kĩ xảo chưa được hình thành với yêu cầu mới của hoạt động học tập; Mâu thuẫn
giữa nề nếp, thói quen và tập quán cũ với yêu cầu mới của hoàn cảnh, môi trường sống và hoạt
động mới; Mâu thuẫn giữa các mặt, các thuộc tính tâm lí trong quá trình phát triển cá nhân.
* Quá trình hình thành và phát triển nhân cách có thể được chia thành ba giai đoạn lớn.
Giai đoạn thứ nhất: (từ lọt lòng đến 1 tuổi) , giai đoạn tuổi sơ sinh, đặc điểm của giai đoạn này là
hình thành tiền đề những mầm mống cơ bản của nhân cách.
Giai đoạn thứ hai: ( từ 1 đến 6 tuổi) là giai đoạn trước tuổi đi học. Là giai đoạn hình thành bộ
khung cơ bản của nhân cách, thường diễn ra tương đối êm đềm, không có biến động lớn.
Giai đoạn thứ ba: (từ 6 đến 18 tuổi),giai đoạn nhân cách được hình thành, phát triển và định hình.
b. Các yếu tố chi phối sự hình thành và phát triển nhân cách
Qúa trình hình thành chịu sự chi phối của nhiều yếu tố: bẩm sinh- di truyền, môi trường
tự nhiên và hoàn cảnh xã hội, giáo dục, hoạt đông cá nhân..vv. Mỗi yếu tố đều có vai trò nhất định.
Với tính chất là phương thức, là con đường giáo dục, hoạt động, giao tiếp và tập thể có vai trò
quyết định trực tiếp sự hình thành và phát triển nhân cách con người.
*Yếu tố bẩm sinh, di truyền(yếu tố sinh học)
Sau tiếng khóc chào đời đứa trẻ là một con người (về mặt thực thể sinh học)nhưng chưa
phải là một nhân cách. Bởi vì toàn bộ đặc điểm sinh học của cơ thể người(dáng đi, diện mạo, vẻ
mặt..vv.) được hình thành theo cơ chế di truyền sinh học qua gen nằm bên trong con người, truyền
từ thế hệ trước sang thế hệ sau. Vì vậy con cái thường giống bố, mẹ: “Giỏ nhà ai, quai nhà nấy’’
Hay “Trứng rồng lại nở ra rồng, Lưu điu lại nở ra dòng lưu đưu.”, “ Con nhà tông không giống
lông cũng giống cánh.” Khoa học hiện đại đã chứng minh được rằng: Di truyền có vai trò nhất
định đối với một số đặc điểm sinh vật (màu mặt, màu tác, màu da…) và sinh lý song di truyền
không đóng vai trò quyết định đối với sự hình thành nhân cách. Nhân cách không được sinh ra mà
được hình thành trong đời sống cá thể theo con đường di truyền xã hội. Xét sự phát triển tâm lí
trong đời sống cá thể thì nhân cách là sản phẩm muộn trong đời sống tâm lí con người. Nhân cách
được hình thành là cả một quá trình nảy sinh, chuyển hóa giữa các giai đoạn phát triển. Con người
bành chính hoạt động của mình lĩnh hội tri thức, kinh nghiệm tạo nên nhân cách . Những kết quả
nghiên cứu cho thấy: Chỉ trong một số năng lực có mầm mống di truyền các tư chất, nhưng từ chỗ
đó đến sự hình thành năng lực hoàn chỉnh, hình thành tài năng và thiên tài còn rất xa. Những tư
chất phải được nuôi dưỡng và phát triển đúng thì bằng những hoạt động thích hợp, đúng cách,
trong môi trường thuận lợi mới trở thành năng lực. Tiếp đó, phải tập dượt, rèn luyện có hệ thống
để lĩnh hội hệ thống các tri thức, kỹ năng, thái độ, tình cảm, phẩm chất, ý chí… thích hợp, đồng
bộ thì năng lực mới phát triển thành tài.
* Yếu tố môi trường
Môi trường tự nhiên bao gồm các đặc điểm về điều kiện địa lý, khí hậu, kinh tế, văn hoá,
lịch sử…vv. Môi trường này có ảnh hưởng tới nhân cách của cá nhân trong những nhóm người cụ
thể theo các quan hệ giữa cá nhân với nhóm và các quan hệ liên nhân cách trong nhóm…
Môi trường xã hội (yếu tố xã hội). Môi trường xã hội bao gồm các tác động của yếu tố môi trường
vĩ mô- môi trường xã hội rông lớn về không gian, thời gian như: các di sản văn hóa vật thể và phi
vật thể hoặc viễn cảnh tương lai của đất nước. Môi trường vi mô – giới hạn trong phạm vi hẹp,
gắn với cuộc sống hàng ngày của trẻ em như gia đình, nhà trường, …vv. Cả hai loại môi trường
đều là nguồn gốc, điều kiện xã hội cần thiết nhưng không quyết định trực tiếp cho sự hình thành
và phát triển nhân cách. Hoạt động, giao tiếp của cá nhân giữ vai trò quyết định trực tiếp cho sự
hình thành và phát triển nhân cách. Tâm lí, nhân cách chỉ được hình thành và phát triển trong hoạt
động và giao tiếp. A. N. lêônchiev đã khẳng định “Quá trình đứa trẻ lĩnh hội những hành động đặc
thù cảu con người diễn ra trong giao tiếp”.
Giáo dục bao gồm giáo dục xã hội, giáo dục nhà trường và giao dục gia đình, trong đó giao
dục nhà trường là cơ bản giữ vai trò chủ đạo, điều khiển quá trình hình thành và phát triển nhân
cách.
* Yếu tố cá nhân. Hoạt động là phương thức tồn tại của con người, là nhân tố quyết định trực tiếp
sự hình thành và phát triển nhân cách. Hoạt động của con người là hoạt động có mục đích, mang
tính xã hội, mang tính cộng đồng, được thực hiện bằng những thao tác nhất định với những công
cụ nhất định.Thông quá 2 quá trình đối tượng hóa và chủ thể hóa trong hoạt động mà nhân cách
được bộc lộ và hình thành. Con người lĩnh hội kinh nghiệm xã hội lịch sử bằng kinh nghiệm của
bản thân để hình thành nhân cách.
* Hoạt động chủ đạo. Trong tâm lí học, nhờ sự phân tích các đặc điểm lứa tuổi để xác định dạng
hoạt động chính và ý nghĩa của nó đối với sự hình thành và phát triển tâm lí, nhân cách, khái niệm
hoạt động chủa đạo đã ra đời.
Hoạt động chủ đạo là hoạt động mà sự phát triển của nó qui định những biến đổi chủ yếu nhất
trong các quá trình tâm lí và trong các đặc điểm tâm lí của cá nhân ở giai đoạn phát triển nhất
định.
Hoạt động chủ đạo có ba đặc điểm cơ bản : Hoạt động này lần đầu tiên xuất hiện trong đời
sống cá nhân. Khi đã là hoạt đọng chủ đạo thì trong lòng nó đã nảy sinh yếu tố của hoạt động mới
khác – dạng hoạt động chủ đạo ở lứa tuổi tiếp theo; Khi đã nảy sinh, hình thành và phát triển thì
không mất đi mà tiếp tục tồn tạ mãi; Hoạt động này quyết định sự ra đời thành tựu mới (cấu tạo
tâm lí mới ) đặc trưng cho một lứa tuổi.
Sự hình thành và phát triển nhân cách của mỗi người phụ thuộc vào hoạt động chủ đạo ở mỗi thời
kỳ nhất định. Muốn hình thành nhân cách con người phải tham gia vào các hoạt động khác trong
đó đặc biệt chú ý tới vai trò của hoạt động chủ đạo. Tâm lí học đã phát hiện được ở mỗi giai đoạn
lứa tuổi một hoạt động chủ đạo. Ví dụ: tuổi mẫu mẫu giáo hoạt độngchủ đạo là vui chơi, tuổi học
sinh tiểu học là học tập, tuổi trưởng thành là hoạt động lao động…
Tóm lại, hoạt động có vai trò quyết định trực tiếp sự hình thành và phát triển nhân cách
nên trong công tác giáo dục cần chú ý thay đổi làm phong phú nội dung, hình thức, cách tổ chức
hoạt động để lôi cuốn cá nhân tích cực tham gia tự giác vào các hoạt động đó.

* Giao tiếp
Giao tiếp là điều kiện tồn tại của cá nhân và xã hội làm người, nhu cầu giao tiếp là một
trong những nhu cầu xã hội cơ bản, xuất hiện sớm nhất ở con người.Theo C.Mác: “Sự phát triển
của một cá nhân được qui định bởi sự phát triển của tất cả các cá nhân khác và nó giao lưu một
cách trực tiếp và gián tiếp với họ”.
Nhờ quá trình giao tiếp con người gia nhập vào các quan hệ xã hội, lĩnh hội nền văn hoá
xã hội trong nhóm các quan hệ xã hội và “ tổng hòa” các quan hệ xã hội làm thành bản chất con
người. Đồng thời thông qua quá trình giao tiếp, con người đóng góp tài lực của mình vào kho tàng
chung của nhân loại, của xã hội.
Trong giao tiếp con người không chỉ nhận thức người khác, nhận thức các quan hệ xã hội
mà còn nhận thức chính mình, tự so sánh đối chiếu mình với người khác,so snahs với chuẩn mực
xã hội, tự đánh giái bản thân mình để hình thành một thái độ giá trị - cảm xúc đối với bản thân,
hình thành năng lực tự ý thức.
Tóm lại, giao tiếp là hình thức đặc trưng cho mối quan hệ người - người, là một nhân tố cơ
bản của việc hình thành phát triển tâm lí, ý thức, nhân cách.
* Tập thể và nhân cách
Nhân cách con người được hình thành phát triển trong môi trường xã hội. Song đó là môi
trường xã hội cụ thể: Gia đình, làng xóm, quê hương là các nhóm cộng đồng, tập thể mà họ là
thành viên.
- Gia đình là nhóm cơ sở, là cái nôi đầu tiên của nhân cách con người từ thời thơ ấu.
- Con người là thành viên của các nhóm nhỏ, nhóm chính thức, không chính thức. Các
nhóm nhỏ có thể ảnh hưởng trực tiếp tới sự hình thành và phát triển nhân cách.
Các nhóm có thể đạt tới trình độ, phát triển cao được gọi là tập thể, tập thể có vai trò lớn
với sự hình thành và phát triển nhân cách. Các ảnh hưởng của các quan hệ xã hội tới trong cá nhân
cũng được thông qua nhóm, ảnh hưởng của cá nhân đến xã hội cũng thông qua nhóm. Tập thể là
một nhóm người, một bộ phận xã hội được thống nhất lại theo những mục đích chung, phục tùng
các mục đích của xã hội. Tập thể có ảnh hưởng trực tiếp đến sự hình thành và phát triển nhân cách.
Trong tập thể diễn ra các hình thức hoạt động đa dạng, phong phú và các mối quan hệ giao tiếp
giữa các cá nhân và cá nhân, cá nhân với nhóm, nhóm với nhóm. Ảnh hưởng của xã hội, các mối
quan hệ xã hội thông qua các nhóm và tác động đến từng người. Ngược lại, mỗi cá nhân tác động
đến cộng đồng, tới xã hội, tới cá nhân khác cũng thông qua các tổ chức nhóm và tập thể mà nó là
thành viên. Tác động của tập thể tới nhân cách qua hoạt động cùng nhau, qua dư luận tập thể,
truyền thống tập thể, bầu không khí tâm lí tập thể. Vì thế trong giáo dục thường vận dụng nguyên
tắc giáo dục bằng tập thể và trong tập thể.

1.4.3. Quan niệm về sự phát triển tâm lí người theo lứa tuổi
a. Quan niệm về sự trưởng thành và phát triển
Trưởng thành là sự hiện thực hóa các yếu tố của cơ thể, được mã hóa trong các gen, dưới
tác động của các yếu tố ngoại cảnh. Sự trưởng thành cơ thể dường như được lập trình sẵn và ít
phụ thuộc vào sự học của cá thể.
Phát triển là sự thay đổi có tính hệ thống của cá nhân, do sự học mang lại. Đó là sự hình
thành cái mới của cá nhân, trong một hoàn cảnh xã hội cụ thể. Học sinh có kiến thức khoa học về
thế giới tự nhiên, xã hội và các kỹ năng quan hệ xã hội; có thái độ yêu, ghét đối với các hành vi
tốt hay xấu của người khác và của bản thân..., không phải do tự nhiên có mà đều phải thông qua
học tập và trải nghiệm của mỗi cá nhân. Trưởng thành cơ thể và phát triển tâm lí tuy là hai vấn đề
khác nhau, nhưng giữa chúng có ảnh hưởng lẫn nhau. Chằng hạn: Sự trưởng thành về vận động
như dáng đứng thẳng, biết đi của trẻ em nhỏ tuổi hay sự dậy thì của các em bé 13 - 15 tuổi..vv,
ảnh hưởng nhiều đến tâm lí của các lứa tuổi tương ứng.
* Phát triển là sự thay đổi các hành động bên ngoài dẫn đến sự thay đổi cấu trúc bên trong. Sự
phát triển của cá nhân được thể hiện ở hai khía cạnh: Thứ nhất, sự phát triển bao hàm cả sự biến
đổi hệ thống hành động bên ngoài và biến đổi hệ thống cấu trúc bên trong. Đến lượt nó, các cấu
trúc tâm lí được hình thành sẽ là khuôn mẫu điều khiển các ứng xử tiếp sau.
* Quá trình phát triển tâm lí bao hàm sự tăng trưởng và sự phát triển. Tăng trưởng là sự biến đổi
dần dần và tăng thêm về số lượng hoặc mức độ của một cấu trúc đã có. Phát triển là sự biến đổi
về phương diện cấu trúc hay tổ chức lại cái đã có. Kết quả là tạo ra cấu trúc mới. Cấu trúc tâm lí
được hiểu là các mô hình (các sơ đồ, các kí hiệu) tâm lí được hình thành do chuyển các mô hình
(sơ đồ, kí hiệu) từ bên ngoài vào và được tổ lại ở trong đầu.Trong quá trình phát triển của cá nhân
thường xuyên diễn ra hai mức độ đan xen liên tiếp và hệ quả của nhau: Quá trình tăng trưởng(về
số lượng và mức độ) và phát triển (biến đổi về chất, tạo ra một cấu trúc mới).
*Phát triển là quá trình chủ thể tạo các cấu trúc mới, bằng cách cải tổ lại cấu trúc đã có.Phát
triển không phải là hình thành và xếp chồng các cấu trúc mới lên nhau, mà là quá trình thống hợp
các cấu trúc đã có vào các cấu trúc đang hình thành, tạo thành hệ thống cấu trúc trọn vẹn. Hoạt
động sinh thành ra cấu trúc mới của chủ thể phụ thuộc hai yếu tố: yếu tố tiềm lực của cá nhân (các
đặc điểm thể chất , vốn đặc điểm thể chất, vốn kinh nghiệm đa có..) và mức độ cá nhân khai thác,
huy động các tiềm lực đó vào hoạt động và yếu tố sự chế ước của các điều kiện tự nhiên, xã hội,
các quan hệ xã hội mà cá nhân đang sống và tham gia. Toàn bộ những yếu tố đó quy định hoạt
động của con người, quy định sự phát triển người.
* Phát triển là quá trình cá thể hóa, chủ thể hóa và là quá trình tạo ra bản sắc riêng của mỗi cá
nhân. Quá trình này được diễn ra theo hai hướng:
- Thứ nhất, quá trình cá nhân đi từ phụ thuộc vào người khác đến độc lập và trở thành chủ
thể của chính mình; Thứ hai, quá trình phát triển của cá nhân là quá trình tạo ra bản sắc riêng của
mỗi cá nhân.
Trong quá trình cá thể hóa, chủ thể hóa và tạo ra bản sắc riêng của mỗi cá nhân, những
bước đi ban đầu trong quá trình phát triển của trẻ em thường rất quan trọng. Điều này giống như
người chơi cờ đi những nước đầu tiên. Nếu đúng hướng sẽ thuận lợi và thành công , ngược lại, nếu
sai lầm thì cơ hội thắng lợi sẽ ít và tùy thuộc vào khả năng khắc phục trong những bước đi tiếp
theo. Vì vậy, quan hệ sự định hướng và giáo dục của người lớn đối với trẻ em trong những giai
đoạn đầu tiên của cuộc đời có vai trò to lớn đối với sự phát triển tâm lí của mỗi cá nhân.
b. Cơ chế hình thành và phát triển tâm lí người
* Sự phát triển tâm lí cá nhân là quá trình chủ thể lĩnh hội những kinh nghiệm lịch sử - xã hội,
biến thành những kinh nghiệm riêng
Ở con vật có hai loại kinh nghiệm: kinh nghiệm loài được mã hóa trong các gen di truyền
và kinh nghiệm cá thể, do chính cá thể tạo ra trong quá trình sống.Kinh nghiệm cá thể với từng cá
thể và sẽ mất cùng với cá thể. Khác với con vật, con người tác động vào môi trường, để lại dấu ấn
của mình bằng các sản phẩm hoạt động. Hình thành các kinh nghiệm xã hội, tồn tại bên ngoài cá
nhân.
Kinh nghiệm xã hội là những kinh nghiệm được hình thành và tồn tài trong các mối quan
hệ giữa các chủ thể cùng sống trong xã hội đương thời. Đó là những kinh nghiệm của xã hội được
hình thành từ các lĩnh vực khác nhau. Tri thức khoa học về tự nhiên, xã hội và nhân văn, kinh
nghiệm ứng xử giữa người với người, giữa người với thế giới tự nhiên..., là các biểu hiện của kinh
nghiệm xã hội. Sự tích lũy các kinh nghiệm xã hội trong suốt chiều dài phát triển của xã hội hình
thành nên kinh nghiệm lịch sử. Kinh nghiệm lịch sử là dấu ấn đặc trưng tạo ra sự khác biệt giữa
con người với các loài động vật khác, chỉ có kinh nghiệm lời chứ không có kinh nghiệm lịch sử.
Kinh nghiệm lịch sử và kinh nghiệm xã hội kết hợp với nhau tạo thành hệ thống kinh
nghiệm xã hội - lịch sử và tồn tại trong đời sống xã hội (được kết tinh trong với con người). Đó
chính là kinh nghiệm văn hóa. Quá trình phát triển của cá nhân là quá trình cá nhân tiếp thu những
kinh nghiệm xã hội và kinh nghiệm lịch sử, biến chúng thành kinh nghiệm riêng của bản thân. Nói
cách khác, tâm lí của cá nhân có nguồn gốc ở bên ngoài và được chuyển vào bên trong của cá
nhân.
* Quá trình phát triển tâm lí của cá nhân được thực hiện thông qua sự tương tác giữa cá nhân với
thế giới bên ngoài
Quá trình cá nhân tiếp thu những kinh nghiệm xã hội kinh nghiệm lịch sử của cá nhân
không phải là sự chuyển từ bên ngoài vào bên trong một cách cơ học mà bằng cách tương tác giữa
chủ thể với đối tượng.Theo J. Piaget có hai loại tương tác: tương tác giữa trẻ em với thế giới đồ
vật, qua đó chủ yếu hình thành kinh nghiệm về những thuộc tính vật lí của sự vật và phương pháp
sáng tạo ra chúng và tương tác giữa trẻ em với người khác, qua đó chủ yếu hình thành kinh nghiệm
về các khuôn mẫu đạo đức, tư duy, lôgic...vv. Theo L.X. Vưgôtxki, ngay cả khi tương tác giữa trẻ
em với thế giới đồ vật cũng có sự hiện diện của người lớn và điều quan trọng là qua các quá trình
tương tác, trẻ học được cách sử dụng các đồ vật đó, tức là sử dụng được các kinh nghiệm xã hội
mà con người sáng tạo ra và mã hóa vào trong đồ vật. Mọi sự phát triển tâm lí bình thường của trẻ
em không thể diễn ra ở bên ngoài sự tương tác. Tương tác là nguyên lí bất di bất dịch của sự phát
triển.
* Sự hình thành và phát triển các cấu trúc tâm lí cá nhân thực chất là quá trình chuyển các hành
động tương tác từ bên ngoài vào bên trong của cá nhân (cơ chế chuyển vào trong)
Làm thế nào để trong quá trình tương tác giữa các kinh nghiệm xã hội - lịch sử, được mã
hóa trong thế giới đồ vật và trong thế giới đồ vật và trong thế giới quan hệ xã hội, chuyển chúng
thành kinh nghiệm của riêng mình? Để đạt được thành tựu này, chủ thể phải tiến hành quá trình
chuyển vào trong hay quá trình nhập tâm.
Quá trình chuyển vào trong là quá trình chuyển các hành động từ hình thức bên ngoài vào
bên trong và biến thành hành động tâm lí bên trong. Đó là quá trình biến hành động từ cấu trúc
vật lí thành cấu trúc tâm lí của cá nhân.
Giải thích của P.Ia.Galperin. Theo cách giải thích này, cơ chế chuyển vào trong có ba
điểm cơ bản: Thứ nhất , ở mức độ đầy đủ nhất, quá trình chuyển vào trong được bắt đầu tư hành
động với vật thật, bên ngoài và trải qua một số bước: Hành động với vật thật → hành động với lời
nói to → hành động với lời nói thầm không thành tiếng → hành động với lời nói thầm bên trong.
Trong đó, hành động với vật thật, hành động thực tiễn, là nguồn gốc của sự hình thành tâm lí.
Trong quá trình chuyển các bước, nội dung cấu trúc (bản chất) của đối tượng vẫn được giữ nguyên,
chỉ có sự thay đổi hình thức thể hiện của cấu trúc đó: hình thức thể hiện qua vật thật, hình thức
biểu hiện qua mô hình kí hiệu và hình thức ý nghĩ. Thứ hai, trong quá trình chuyển hành động :
hành động với đối tượng (hành động của chủ thể theo lôgic của đối tượng) và hành động chú ý của
chủ thể đến đối tượng và đến hành động với đối tượng. Càng tiến tới các bước sau của hành động
chuyển vào trong thì hành động giám sát và hành động với đối tượng càng sáp vào nhau. Ở bước
cuối cùng, hai hành động này nhập làm một, tạo thành cấu trúc tâm lí bao gồm nghĩa khách quan
của đối tượng được chuyển vào trong và ý chủ quan của chủ thể vè đối tượng đó. Đây là hai mặt
của bất kì một cấu trúc tâm lí nào được hình thành và phát triển trong đời sống cá nhân. Thứ ba,
quá trình chuyển hành động từ bên ngoài vào ben trong của cá nhân được định hướng khái quát có
hiệu quả hơn cả. Trong thực tế, cách định hướng khái quát có hiệu quả hơn cả. Trong thực tế, cách
định hướng này được thể hiện qua việc học phương pháp học, phương pháp làm việc trước khi bắt
tay vào thực hiện các nội dung cụ thể.
c. Qui luật phát triển tâm lí cá nhân
* Sự phát triển tâm lí của cá nhân diễn ra theo một trình tự nhất định, không nhảy cóc, không đốt
cháy giai đoạn
Sự phát triển và trưởng thành của cơ thể từ lúc bắt đầu là một hợp tử cho đến khi về già
trải qua tuần tự các giai đoạn:thai nhi, tuổi thơ, dậy thì, trưởng thành, ổn định, suy giảm, già yếu
và chết. Thời gian, cường độ và tốc độ phát triển các giai đoạn ở mỗi cá nhân có thể khác nhau,
nhưng mọi cá nhân phát triển bình thường đều phải trải qua các giai đoạn đó theo một trật tự
hằng định, không đốt cháy, không nhảy cóc, không bỏ qua giai đoạn trước để có giai đoạn sau. Sự
hình thành và phát triển các cấu trúc tâm lí của cá nhân cũng diễn ra theo quy định hằng định như
vậy. Sự hình thành và phát triển ngôn của trẻ em diễn ra theo loogic: tiếng khóc → tiếng kêu gừ
gừ → tiếng bập bẹ → phát âm theo khuôn mẫu của người lớn → câu một từ → câu vị ngữ → cụm
từ → câu 3 thành phần → câu phức hợp.
* Sự phát triển tâm lí cá nhân diễn ra không đồng đều
Qui luật này nói lên rằng trong sự phát triển của mỗi cá thể, các chức năng tâm lí không
cùng phát triển như nhau mà sự hình thành và phát triển của chúng diễn ra có thời điểm. Có nghĩa
là tại một thời điểm nào đó trong tiến trình phát triển sẽ có nhiều ưu thế cho sự phát triển một chức
năng tâm lí nhất định. Nếu có những tác động phù hợp thì sự hình thành và phát triển của nó sẽ
diễn ra thuận lợi và nhanh chóng. Ngược lại, nếu tại thời điểm ấy, một điều kiện nào đó cản trở sự
hình thành, phát triển chức năng đó thì mọi việc về sau sẽ khó khăn hơn rất nhiều. Biểu hiện:
- Sự phát triển cả thể chất và tâm lí diễn ra với tốc độ không đều qua các giai đoạn phát triển từ
sơ sinh đến trưởng thành. Xu hướng chung là chậm dần từ sơ sinh đến khi trưởng thành, nhưng
trong suốt quá trình đó có những giai đoạn phát triển với tốc độ rất nhanh, có giai đoạn chậm lại,
để rồi lại vượt lên ở giai đoạn sau.
- Có sự không đều về thời điểm hình thành, tốc độ, mức độ phát triển giữa các cấu trúc tâm lí
trong quá trình phát triển ở mỗi cá nhân. Chẳng hạn, thông thường, trẻ em phát triển nhận thức
và nhanh hơn so với phát triển ngôn ngữ; ý thức về các vật bên ngoài trước khi xuất hiện ý thức
về bản thân...
- Có sự không đều giữa các cá nhân trong quá trình phát triển cả về tốc độ và mức độ. Khi mới
sinh và lớn lên, mỗi cá nhân có cấu trúc cơ thể riêng (về hệ thần kinh, các giác quan và các cơ
quan khác của cơ thể). Đồng thời được nuôi dưỡng, được hoạt động trong những môi trường riêng
(gia đình, nhóm bạn, nhà trường...). Sự khác biệt đó tạo ra ở mỗi cá nhân có tiềm năng, điều kiện,
môi trường phát triển của mình, không giống người khác. Vì vậy giữa các cá nhân có sự khác biệt
và không đều về cả mức độ và tốc độ phát triển. Điều này đặt ra vấn đề là giáo giáo dục trẻ em
không chỉ quan tâm và tôn trọng sự khác biệt cá nhân trong quá trình phát triển của các em mà còn
cần phải tạo điều kiện thuận lợi để mỗi cá nhân phát huy đến mức tối đa mọi tiềm năng của mình,
để đạt đến mức phát triển cao nhất so với chính bản thân mình.
* Sự phát triển tâm lí cá nhân diễn ra tiệm tiến và nhảy vọt
Theo J. Piaget, sự hình thành và phát triển các cấu trúc tâm lí diễn ra theo cách tăng dần
về số lượng (tăng trưởng) và đột biến (phát triển, biến đổi về chất). Các nghiên cứu của S.Freud
và E. Erikson đã phát hiện sự phát triển các cấu trúc nhân cách của trẻ em diễn ra bằng cách tăng
dần các mối quan hệ với người lớn, dẫn đến cải tổ các cấu trúc nhân cách đã có, tạo ra cấu trúc
mới, để thiết lập sự cân bằng trong đời sống nội tâm của mình. Như vậy, trong quá trình phát triển
các cấu trúc tâm lí thường xuyên diễn ra và đan xen giữa hai quá trình: tiệm tiến và nhảy vọt. Hai
quá trình này có quan hệ nhân quả với nhau.
* Sự phát triển tâm lí cá nhân gắn bó chặt chẽ với sự trưởng thành cơ thể và sự tương tác giữa cá
nhân với môi trường văn hóa - xã hội
Tâm lí người là chức năng phản ánh của hoạt động sống của con người. Nó là thuộc tính
trội của hệ thống hoạt động sống đó. Khi cơ thể hoạt động sẽ sản sinh ra hiện tượng tâm lí, thực
hiện chức năng phản ánh và định hướng cho hoạt động của cả hệ thống đó. Vì vậy, sự phát triển
của các cấu trúc tâm lí gắn liền và phụ thuộc vào sự trưởng thành của cơ thể và vào mức độ hoạt
động của nó. Mức độ phát triển tâm lí phải phù hợp với sự trưởng thành của cơ thể. Nếu sự phù
hợp này bị phá vỡ sẽ dẫn đến bất bình thường trong quá trình phát triển của cá nhân (chậm hoặc
phát triển sớm về tâm lí so với sự phát triển của cơ thể). Mặt khác, cá nhân muốn tồn tại và phát
triển phải hoạt động. Nhưng hoạt động được diễn ra không phải "trên không trung", mà bao giờ
cũng trong môi trường hiện thực. Ở đó có rất nhiều lực lượng trực tiếp và gián tiếp tác động, chi
phối và quy định hoạt động của cá nhân diễn ra trong sự tương tác chặt chẽ giữa ba yếu tố: chủ thể
hoạt động, yếu tố thể chất và môi trường. Sự tương tác giữa ba yếu tố này tạo nên tam giác phát
triển của mọi cá nhân.
* Sự phát triển tâm lí cá nhân có tính mềm dẻo và có khả năng bù trừ
Các nhà tâm lí học hành vi cho thấy, có thể điều chỉnh, thậm chí làm mất một hành vi khi
đã được hình thành. Điều này nói lên tính có thể thay đổi, thay thế được của các hành vi trong quá
trình phát triển.
Các công trình nghiên cứu của A.Adler5 cho thấy, con người, ngay từ nhỏ đã có xu hướng
vươn tới sự tốt đẹp. Trong quá trình đó, cá nhân thường ý thức được sự thiếu hụt, yếu kém của
mình và chính sự ý thức đó là động lực thúc đẩycá nhân khắc phục, bù trừ sự thiếu hụt đó. Đứa trẻ
muốn nhìn tất cả nếu nó bị mù, muốn nghe tất cả nếu tai của nó bị khiếm khuyết, muốn nói nếu nó
gặp khó khăn về ngôn ngữ ... Xu hướng bù trừ trong tâm lí là quy luật tâm lí cơ bản trong quá
trình phát triển. Thậm chí, sự bù trừ có thể quá mức (siêu bù trừ), dẫn đến chuyển hóa sự yếu kém
trở thành sức mạnh. Các nghiên cứu của K.Lashley 6 và cộng sự về cơ chế hoạt động của võ não
đã cho thấy, nếu một vùng nào đó trên vỏ não đang hoạt động với một chức năng nhất định, khi
vùng đó bị cắt bỏ thì các vùng khác của võ não sẽ thay thế vùng vỏ não bị cắt và hoạt động bị mất
sẽ được khôi phục.Như vậy, cả về phương diện hành vi bên ngoài, cả cấu trúc tâm lí bên trong và
cơ chế sinh lí thần kinh của võ não đều cho thấy sự linh hoạt và khả năng bù trừ của cá nhân trong
quá trình phát triển.
Việc phát hiện quy luật về tính mềm dẻo và bù trừ trong quá trình phát triển tâm lí đã vạch
ra cơ sở khoa học cho việc điều chỉnh sự lệch lạc và khắc phục sự chậm trễ, hẫng hụt tâm lí của cá
nhân do các tác động từ phía chủ thể và từ phía môi trường, đem lại sự cân bằng và phát triển bình
thường cho cá nhân.
d. Các giai đoạn phát triển tâm lí theo lứa tuổi
* Khái niệm giai đoạn lứa tuổi
Theo nguyên lí chung của mọi sự phát triển trong thế giới, sự phát triển tâm lí của con
người từ lúc sinh ra cho đến khi qua đời trải qua nhiều giai đoạn (gọi là giai đoạn lứa tuổi). Có
nhiều quan niệm về sự phân chia giai đoạn phát triển tâm lí theo lứa tuổi. Có quan niệm khẳng
định tính chất bất biến, tính tuyệt đối của các giai đoạn lứa tuổi và cho rằng lứa tuổi gắn liền với
việc hiểu sự phát triển tâm lí như là một quá trình sinh vật tự nhiên. Quan niệm đối lập lại phủ
nhận khái niệm lứa tuổi.Trong trường hợp này, sự phát triển chỉ được xem là sự tích lũy các kiến
thức và các kỹ xảo một cách đơn giản.

5
Alfed Adler (1870 - 1937), nhµ ph©n t©m häc kiÖt xuÊt.
6
Karl Spencer Lashley (1890-1958), nhµ sinh lÝ thÇn kinh, nhµ T©m lÝ häc hµnh vi ng-êi MÜ, chÞu ¶nh h-ëng nhiÒu
cña T©m lÝ häc Gestall.
Việc xác định chính xác các giai đoạn phát triển tâm lí, tìm ra qui luật đặc thù của sự phát
triển tâm lí trong từng giai đoạn cũng như qui luật, cơ chế chuyển từ giai đoạn lứa tuổi này sang
lứa tuổi khác có ý nghĩa to lớn về mặt lí luận và thực tiễn. Sự phát triển tâm lí con người là quá
trình chuyển đổi liên tục từ cấp độ này sang cấp độ khác. Ở mỗi cấp độ lứa tuổi, sự phát triển tâm
lí đạt tới một chất lượng mới và diễn ra theo các qui luật đặc thù. L.X Vưgốtxki(nhà tâm lí học
Liên Xô) đã căn cứ vào những thời điểm mà sự phát triển tâm lí có những đột biến để xác định
thời kì phát triển tâm lí. A. N. Lêônchiev chỉ ra rằng sự phát triển tâm lí của con người gắn liền
với sự phát triển hoạt động của con người trong thực tiễn đời sống của nó, trong đó một số hoạt
động đóng vai trò chính (chủ đạo) trong sự phát triển, một số hoạt động khác giữ vai trò phụ. Sự
hình thành và phát triển các cấu trúc tâm lí mới của cá nhân trải qua nhiều giai đoạn. Mỗi giai đoạn
phát triển tâm lí của cá nhân có các đặc trưng sau:
- Thứ nhất: Mỗi giai đoạn phát triển tương ứng với một hoạt động chủ đạo của cá nhân.
Hoạt động chủ đạo là hoạt động mà sự hình thành phát triển của nó quy định những biến đổi chủ
yếu, quan trọng nhất trong các quá trình tâm lí và các đặc điểm tâm lí của cá nhân ở giai đoạn lứa
tuổi nhất định. Theo ông mỗi hoạt động chủ đạo đều tương ứng với một giai đoạn lứa tuổi. Chẳng
hạn các nhà tâm lí học đã chỉ rõ: Hoạt động học tập là hoạt động chủ đạo ở lứa tuổi học sinh vì các
đặc trưng tâm lí cả lứa tuổi này được hình thành và phát triển chủ yếu thông qua hoạt động này.
Các hoạt động chủ đạo ảnh hưởng và có tác dụng quyết định chủ yếu nhất đối với sự hình
thành, phát triển các phẩm chất nhân cách và các khả năng nhận thức, đặc trưng cho giai đoạn
phát triển đó của cá nhân, đồng thời diễn ra sự hình thành hoạt động chủ đạo mới của giai đoạn
phát triển tiếp theo, nó cũng qui định tính chất của các hoạt động khác.
- Thứ hai: Mỗi giai đoạn được đặc trưng bởi các cấu trúc tâm lí mới mà ở các giai đoạn
trước đó chưa có. Đây là đặc trưng điểm hình nhất để xác định các giai đoạn phát triển. Tuy nhiên,
trong một thời điểm lứa tuổi có rất nhiều cấu trúc tâm lí mới được hình thành, Vì vậy, trên thực tế,
cùng một lứa tuổi của cá nhân có thể được gọi bằng các tên khác nhau, tùy theo cáu trúc tâm lí
được nhà nghiên cứu phát hiện. Mốc giới tuyệt đối của các lứa tuổi không cố định mà có sự xê
dịch đoi chút.
- Thứ ba: Trong mỗi giai đoạn phát triển đều có thời điểm rất nhạy cảm, thời điểm thuận
lợi nhất để cá nhân hình thành và phát triển các cấu trúc tâm lí điển hình của giai đoạn đó. Chẳng
hạn, thời kì từ 7 đến 11 tuổi là thời thuận lợi để trẻ em phát triển các thao tác trí tuệ cụ thể, từ 15
đến 18 tuổi là thời kì thuận lợi để hình thành và phát triển ý thức xã hội hay trách nhiệm công
dân... Nếu nhà giáo dục nắm được thời điểm nhạy cảm của mỗi lứa tuổi sẽ dễ dàng hơn và đạt hiệu
quả cao hơn trong việc hình thành và phát triển cá nhân.
- Thứ tư: Ở thời điểm chuyển tiếp giữa hai giai đoạn lứa tuổi thường xuất hiện sự khủng
hoảng. Đó là thời điểm cá nhân thường rơi vào trạng thái tâm lí không ổn định, rối loạn, hẫng hụt,
hay xuất hiện những biến đổi bất ngờ, khó lường trước, làm ảnh hưởng rất lớn đến nhịp độ, tốc độ
và chiều hướng phát triển của cá nhân trong giai đoạn tiếp sau. Trong thời kì khủng hoảng, cá nhân
rất khó tiếp xúc, rất khó tác động. Tại thời điểm đó, dường như có sự khép kín tâm hồn của cá
nhân; xuất hiện xu thế thụt lùi, tạm dừng phát triển. Trong giai đoạn học phổ thông, ở các thời
điểm khủng hoảng, học sinh thường ít hứng thú với việc học tập, giảm thành tích học tập, cuộc
sống nội tâm thường dằn vặt, mệt mỏi và chán nản.
* Các giai đoạn phát triển tâm lí theo lứa tuổi. Các nhà tâm lí học đã dựa vào các căn cứ khác
nhau để phân chia giai đoạn lứa tuổi: Phái nhi đồng học dựa vào tính chất và sự thay đổi của răng;
J.Piaget căn cứ vào sự hình thành và phát triển các cấu trúc nhận thức và trí tuệ của cá nhân để
xác định các giai đoạn lứa tuổi. S. Freud dựa vào sự chin muồi cảu accs cơ quan sinh lí; H. Vallon
dưa vào cảm xúc; E. Erikson dựa vào các giai đoạn phát triển tâm lí xã hội và các cuộc khủng
hoảng của cá nhân, E. Erikson nhấn mạnh khía canh văn hóa và xã hội của sự phát tiển của cá
nhân. …
Các nhà tâm lí học Mácxít theo lí thuyết hoạt động thường căn cứ vào đặc trưng mối quan
hệ, sự tương tác giữa cá nhân với các yếu tố của môi trường và vào đặc trưng hoạt động chủ đạo
của cá nhân để phân chia các giai đoạn lứa tuổi như sau:
- Giai đoạn tuổi sơ sinh và hài nhi: Hoạt động chủ đạo là giao tiếp xúc cảm trực tiếp với mẹ và
người lớn. Quan hệ chủ yếu là sự gắn bó mẹ - con. Giai đoạn này trải qua hai thời kì:
- Thời kì sơ sinh(0- 2 tháng đầu)
- Thời kì hài nhi (2 tháng -12 tháng) , nhu cầu hiểu biết về mối quan hệ xúc cảm, nhu cầu
giao tiếp
- Giai đoạn trước tuổi học. Giai đoạn này trải qua hai thời kì:
- Thời kì Ấu nhi (1-3 tuổi): Hiểu biết về đối tượng. Lớp quan hệ chủ yếu là Mẹ và người
lớn, thế giới đồ vật. Tương tác mẹ - con và hành động với đồ vật là hành động chủ đạo.
- Thời kì Mẫu giáo (3 - 6 tuổi): Quan hệ xã hội và thế giới đồ vật, kiến thức về quan hệ với
thế giới bên ngoài. Hoạt động chơi là hoạt động chủ đạo mà trò chơi đóng vai theo chủ đề là trung
tâm .
- Giai đoạn tuổi đi học Giai đoạn này trải qua ba thời kì:
- Thời kì Nhi đồng (6-11 tuổi): Tri thức khoa học nền tảng. Hoạt động chủ đạo là học tập
- Thời kì Thiếu niên (11-15 tuổi): Tri thức khoa học và thế giới bạn bè, Hoạt động học tập
và quan hệ bạn bè. Giao tiếp cá nhân thân tình là hoạt động chủ đạo.
- Thời kì Thanh niên (15-25 tuổi): Tri thức khoa học – định hướng nghề nghiệp; quan hệ
xã hội; hoạt động học tập - nghề nghiệp. Trong đó, hoạt động xã hội là chủ đạo.
- Giai đoạn trưởng thành:Thời kì trưởng thành (25-60 tuổi): Hoạt động chủ đạo là nghề
nghiệp và quan hệ xã hội. Hoạt động nghề nghiệp, hoạt động xã hội
- Giai đoạn tuổi già: Thời kì tuổi già, từ sau tuổi về hưu, (sau 60 tuổi): Quan hệ xã hội.

CÂU HỎI ÔN TẬP


1. Chứng minh rằng tâm lí có bản chất hoạt động và giao tiếp. Từ đó chỉ ra ý nghĩa sư phạm
của vấn đề này.
2. Phân tích khái niệm hoạt động trong tâm lí học. Lấy ví dụ minh họa.
3. Phân biệt khái niệm hoạt động và giao tiếp.
4. Giao tiếp sư phạm là gì? Nêu các điểm cần chú ý để nâng cao giao tiếp sư phạm trong quá
trình giao tiếp với thanh niên học sinh, sinh viên học nghề.
5. Tại sao nói nhân cách có bản chất hoạt động và giao tiếp . Điều đó có ý nghĩa gì đối với
việc giải quyết hệ thống các nhiệm vụ của quá trình sư phạm kỹ thuật
6. Phân tích các yếu tố cơ bản của việc hình thành và phát triển nhân cách.
7. Trình bày tính không đồng đều trong sự phát triển nhân cách ? Cho ví dụ minh họa. Rút ra
kết luận sư phạm trong công tác đào tạo nghề.
8. Phân tích các qui luật phát triển tâm lí cá nhân. Đưa ra những liên hệ cần thiết trong việc
dạy học và giáo dục nghề nghiệp cho thanh niên học nghề.
9. Trình bày động lực của sự hình thành, phát triển nhân cách. Từ đó rút ra các kết luận sư
phạm cần thiết trong việc hình thành nhân cách cho thanh niên học sinh, sinh viên học
nghề.
10. * Thảo luận: Cấu trúc của nhân cách
- Mô hình cấu trúc nhân cách nghề nghiệp
- Sự hình thành và phát triển nhân cách
BÀI TẬP THỰC HÀNH
Bài tập 1. Ở hai đứa trẻ cùng tuổi, người ta luyện tập phản xạ phân biệt với hai âm thanh to và
nhỏ. Ở một đứa trẻ, phản xạ đượcj hình thành sau 6 lần kết hợp, còn đứa trẻ kia sau 14 lần. Hãy
nêu lên những nguyên nhân có thể có của sự khác nhau này.
Bài tập 2. Khác với con vật, ở con người, ngoài hệ thống tín hiệu thứ nhất còn có hệ thống tín hiệu
thứ hai. Hệ thống tín hiệu thứ hai gồm tất cả những gì có liên quan tới hoạt động ngôn ngữ và tư
duy trừu tượng diễn ra trên cơ sở tiếng nói. Tại sao I.P.Pavlôv lại gọi từ ngữ là “tín hiệu của tín
hiệu”. Sự khác biệt của nó và những liên hệ đượcj tạo nên nhờ nó với những tác nhân kích thích
trực tiếp là ở chỗ nào?
Bài tập 3. Hãy xác định xem những đặc điểm nào dưới đây là đặc trưng cho một cá thể, những
đặc điểm nào đặc trưng cho một nhân cách? Tại sao?
Thô lỗ, tận tâm, phản ứng vận động mạnh, tốc độ lĩnh hội các kỹ xảo cao, ngay thật, khiêm tốn,
mềm mỏng, bướng bỉnh, hay phản ứng, ít nhậy cảm với sự đánh giá của xã hội, linh hoạt, nhịp độ
hoạt động nhanh.
Bài tập 4. Hãy cho biết tại sao nhà khoa học Đức R.Noibert lại viết “Căm thù một ai đó còn tốt
hơn là sống cô độc. Nhưng tốt hơn hết là yêu thương con người...Sự thờ ơ, lãnh đạm cũng như thái
độ dửng dưng có khác nào như chết vậy!”.
Bài tập 5. Hãy giải thích tại sao những trẻ nhỏ, mặc dù được nuôi dưỡng rất đầy đủ và vệ sinh
nhưng không được giao tiếp đầy đủ về số lượng và phong phú về nội dung với các trẻ khác thì sự
phát triển thần kinh và tâm lí thường bị trì trệ, bị mắc chứng bệnh gọi là “bệnh do nằm viện”
(Hospitalism)?
Bài tập 6. Trong ví dụ dưới đây, cái gì thuộc về cử động, cái gì thuộc về hành động?
a. Để dừng xe lại, người tài xế đã nhả côn và dận phanh. Để làm giảm tốc độ, họ cũng nhả
côn và dận phanh.
b. Để soạn bài, thầy giáo phải viết. Muốn giảng bài trên lớp, thầy giáo cũng phải viết.
Bài tập 7. Trong cuộc sống hàng ngày, cũng như trong các tác phẩm văn học nghệ thuật, chúng ta
đã biết có những trường hợp: Một người nào đó trong một lần nào đó có những quyết định, những
cử chỉ thật không ngờ tới so với lúc bình thường. Có những người mà ta vẫn coi là mẫu mực về
lòng can đảm và cao thượng lại tỏ ra là kẻ nhát gan và ích kỉ, ngược lại những người mà ta vẫn
cho là có vẻ tầm thường thì trong những điều kiện nhất định lại thể hiện những phẩm chất xuất
chúng mà ta không ngờ tới.
a. Hãy giải thích những biểu hiện đó của nhân cách
b. Hoàn cảnh cụ thể có vai trò như thế nào đối với sự thể hiện nhân cách?
Bài tập 8. Hãy xác định xem trong các ví dụ dưới đây, tính cách của con người có được thể hiện
hay không? Tại sao?
a. Người ta hỏi sinh viên A đang đi ngoài phố rằng nhà ga xe lửa ở đâu. Anh A đứng lại và
trả lời câu hỏi đó một cách cặn kẽ.
b. Có một lần, giáo viên vào lớp thấy bảng được lau sạch, đã nói: “ Các em thật chu đáo!”
- Thưa thầy, em lau đấy a!- Học sinh B nhanh nhảu đứng lên nói to.
Bài tập 9. Các ví dụ dưới đây nói về các năng lực, kĩ xảo hoặc tri thức của con người. Hãy chỉ ra
những dấu hiệu đặc trưng cho năng lực và xác định xem những trường hợp nào nói về năng lực?
1. Chiều dài cánh tay của võ sĩ
2. Nguyện vọng muốn có công việc làm thường xuyên
3. Sự hiểu biết rộng về một lĩnh vực nào đó
4. Óc quan sát thể hiên ở chỗ: Con người có thể nhìn thấy một cách có hệ thống nhiều điều
quan trọng đối với công tác, trong các sự vật, hiện tượng hay bộ mặt của con người.
5. Lực co của cơ tay
6. Một học sinh trình bày rất tốt một bài thơ đã được luyện tập với thầy giáo.
7. Một người ghi nhớ nhanh chóng được hình dáng, màu sắc, độ lớn của sự vật
8. Một người nhanh chóng nắm được các cử động, tư thế hành động mới
9. Một học sinh kể lại rất hay một bài học đã thuộc lòng
10. Tính yêu cầu cao
11. Một người phân biệt rất giỏi các mùi và ghi nhớ chúng một cách chính xác.

You might also like