You are on page 1of 32

Bài 2:

Quan điểm khách quan ( mối quan hệ biện chứng giữa vật chất và ý thức). Giải pháp
phòng tránh bệnh chủ quan. Liên hệ bản thân
Phương pháp biện chứng trong triết học Mac Lennin yêu cầu cần phải quán triệt các
quan điểm biện chứng trong đó có quan điểm khách quan, quan điểm lịch sử cụ thể và quan
điểm phát triển.
- Theo triết học, khách quan được hiểu là sự đánh giá mang tính cục bộ, không ảnh hưởng bởi
các tác động bên ngoài. Khách quan dùng để chỉ tất cả những sự vật, sự việc không phụ thuộc
vào một chủ thể xác định. Khách quan tồn tại độc lập, bên ngoài và không nằm trong quyền
kiểm soát của con người.
- Ví dụ về yếu tố khách quan của con người có thể kể đến như: thời tiết, nhiệt độ, các loại thiên
tai… Những yếu tố đó không phụ thuộc tầm kiểm soát của chúng ta, nhưng lại ảnh hưởng đến
hành vi chúng ta.
+ Nhiệt độ quá cao dẫn đến hạn hán, khiến đất đai khô cằn, vì lẽ đó, người nông dân thiếu
nước tưới tiêu đồng ruộng, để khắc phục, người nông dân phải đào kênh, mương dẫn nước tưới
tiêu. Vậy hạn hán chính là một yếu tố khách quan ảnh hưởng đến hành vi của con người.
- Quy luật khách quan được hiểu là mối quan hệ giữa bản chất, sự ổn định, được lặp đi lặp lại
theo quy luật của các hiện tượng tự nhiên trong xã hội. Những quy luật này cũng đều tồn tại
bên ngoài, không phụ thuộc vào con người nhưng có ảnh hưởng đến đời sống con người.
- Quy luật khách quan là quy luật quan trọng hàng đầu trong thực tế và hoạt động thực tiễn.
Khi xem xét một hoạt động, sự kiện nào đó cần nên xem xét như chính sự tồn tại của nó.
Không nên để các yếu tố bên ngoài chi phối như: cảm tính, sở thích… tránh để xảy ra tình
trạng có những đánh giá sai lệch, chủ quan lên sự vật, sự việc. Phương pháp luận trong triết
học sẽ là tiêu chuẩn đánh giá các điều kiện khách quan.
- Vận dụng phương pháp luận trong triết học để đánh giá sự việc khách quan, có thể được thực
hiện như sau:
 Trong đời sống hàng ngày, để đảm bảo tính hiệu quả trong công việc mà không bị các yếu tố
khác ảnh hưởng. Trước khi đề ra kế hoạch hoạt động, cần phải dựa vào những điều kiện cũng
như quy luật khách quan làm bước tiền đề.
 Đối với mỗi phương pháp, cách tổ chức của một hoạt động bất kỳ cần căn cứ vào quy luật
khách quan để lựa chọn ra phương pháp phù hợp nhất với từng điều kiện khách quan, đảm bảo
cho các kế hoạch hoạt động đó diễn ra với đúng ý thức của con người.
 Với mục tiêu của bản thân cũng cần có một kế hoạch cụ thể, để từ đó nhận thức được sự biến
đổi trong suy nghĩ, để có thể cải tiến, phát huy sự sáng tạo trong mọi hoạt động.
- Quy luật khách quan trong triết học được xây dựng dựa trên nội dung về tính thống nhất vật
chất của thế giới. Thế giới vật chất tồn tại vĩnh viễn, vô tận, không do “ai” sinh ra và cũng
không tự mất đi, mà trong đó không có gì khác ngoài những quá trình vật chất đang vận động
và chuyển hóa cho nhau. Phương pháp luận của quy luật khách quan phải có xuất phát điểm từ
thực tế khách quan.
Mối quan hệ giữa khách quan và chủ quan
- Khi nói đến chủ quan và khách quan, chúng ta sẽ liên tưởng đến hai khái niệm đối lập. Có thể
thấy rằng, mọi sự vật, sự việc, hiện tượng khách quan là bản chất của nó được xem là đúng.
- Còn quan điểm chủ quan lại dựa trên những yếu tố về cảm xúc, ý kiến cá nhân, chủ thể nhất
định. Do đó, đây đúng là hai khái niệm có phạm trù khác nhau.
Nguyên tắc khách quan trong triết học sẽ được xây dựng dựa trên nội dung của nguyên
lý về tính thống nhất vật chất của thế giới.
Khi chúng ta nhận thức khách thể, sự vật, hiện tượng tồn tại trong hiện thực thì các chủ
thể tư duy sẽ cần phải nắm bắt, tái hiện khách thể, sự vật, hiện tượng trong chính nó mà bất cứ
ai trong chúng ta đều không được thêm hay bớt đi một cách tùy tiện.
+ Vật chất sẽ là cái có trước.
+ Vật chất tồn tại vĩnh viễn ở một giai đoạn phát triển nhất định nào đó của chính bản
thân mình vật chất mới sản sinh ra tư duy.
Đây là quy luật không ổn định và không bị ảnh hưởng bởi con người. Chúng ta cần
nhìn nhận sự việc một cách khoa học, tuân thủ các phương pháp luận đã được thống nhất để có
được sự đánh giá khách quan và luôn tôn trong các sự vật, sự việc trong quy luật khách quan.
 Vật chất
Trong tác phẩm “Chủ nghĩa duy vật và Chủ nghĩa kinh nghiệm phê
phán", Lênin dã định nghĩa: "Vật chất là một phạm trù triết học dùng để chỉ thực tại khách
quan mà con người biết được là nhờ cảm giá. Cảm giác của chúng ta chép lạ, chụp lại, phản
ánh nhưng tồn tại không lệ thuộc vào cảm giác". Do đó, vật chất tồn tại khách quan.
- Vận động là phương thức tồn tại của vật chất:
+ Không có vận động ngoài vật chất, thông qua vận động mà các dạng cụ thể của vật chất biểu
hiện s ự tồn tại của mình.
+ Không có vật chất không vận động. Vận động là tuyệt đối, đứng im chỉ là tương đối, tạm
thời.
- Như vậy, vật chất tồn tại bằng hình thức vận động, thông qua vận động.
- Vận động của vật chất là sự vận động tự thân, mọi sự vật, hiện tượng của thế giới vật chất
đều do các mặt, các yếu tố hợp thành, sự liên hệ tác động giữa chúng làm cho vật chất vận
động.
- Vận động là phương thức tồn tại của vật chất mà vật chất không do ai sinh ra và không bao
giờ mất đi, chỉ chuyển hóa từ dạng này sang dạng khác; định luật bảo toàn và chuyển hóa năng
lượng đã chứng minh điều đó.
- Vận động của vật chất có nhiều hình thức khác nhau, nhưng có 5 hình thức vận động cơ bản
sau:
+ Vận động cơ học: đó là sự di chuyển vị trí của vật thể trong không gian.
+ Vận động vật lý: đó là sự vận động của các phân tử, các hạt cơ bản: điện từ, nhiệt...
+ Vận động hóa học: đó là sự vận động của các nguyên tử, sự hóa hợp và phân giải của các
chất.
+ Vận động sinh học: Đó là sự trao đổi chất giữa cơ thể sống và môI trường.
+ Vận động xã hội: Đó là sự thay đổi, sự thay thế các quá trình vận động của các hình thái kinh
tế xã hội.
Năm hình thức vận động trên từ thấp đến cao, chúng khác nhau về chất nhưng có quan
hệ biện chứng với nhau.Hình thức vận động cao bao hàm các hình thức vận động thấp trong đó
nhưng không được lẫn lộn giữa các hình thức vận động, không được quy định hình thức vận
động cao về hình thức vận động thấp.Mỗi sự vật, hiện tượng bao giờ cũng được đặc trưng bởi
1 hình thức vận động tiêu biểu.
- Vận động là tuyệt đối còn đứng yên là tương đối, trạng thái cân bằng của sự vật là tạm thời
trong quá trình vận động của nó.
 Ý thức:
- Ý thức là toàn bộ hoạt động tinh thần của con người bao gồm từ cảm giác cho tới tư duy lý
luận trong đó tri thức là phương tiện tồn tại của ý thức. Ý thức là sản phẩm của một dạng vật
chất sống có tổ chức cao nhất là bé não người, nó phản ánh sự sáng tạo của thế giới khách
quan vào bộ não người thông qua lao động và ngôn ngữ.
- Theo quan điểm của chủ nghĩa Mác – Lênin thì ý thức là sự phản ánh một cách năng động,
sáng tạo thế giới khách quan vào trong bộ óc con người, là hình ảnh chủ quan của thế giới
khách quan.
- Tính sáng tạo của ý thức được biểu hiện rất phong phú. Trên cơ sở những gì đã có, ý thức có
thể tạo ra những hiểu biết mới về sự vật, có thể hình dung ra những gì không có trong thực tế.
Ý thức có thể dự đoán, đoán trước được tương lai, có thể tạo ra những ảo tưởng, hoang đường,
những lý thuyết khoa học và lý thuyết rất trừu tượng và có tính khái quát cao.
- Tuy nhiên, tính sáng tạo ra ý thức là sự sáng tạo ra sự phản ánh, vì ý thức bao giờ cũng chỉ là
sự phản ánh tồn tại.
- Ý thức là sự phản ánh sáng tạo thế giới vật chất bởi bộ óc của con người, thể hiện ra như tri
thức, tình cảm, niềm tin, ý chí ...
- Ý thức là sự phản ánh hiện thực khách quan vào trong bộ óc con người, là hình ảnh chủ quan
của thế giới khách quan. Tuy nhiên không phải cứ thế giới khách quan tác động vào bộ óc con
người là tự nhiên trở thành ý thức. Ngược lại, ý thức là sự phản ánh năng động sáng tạo về thế
giới do nhu cầu của việc con người cải biến thế giới tự nhiên quyết định và được thực hiện
thông qua hoạt động lao động. Vì vậy, ý thức là cái vật chất được đem chuyển vào trong đầu
óc con người và được cải biến đi ở trong đó. Tính sáng tạo của ý thức được thể hiện rất phong
phú, tuy nhiên sáng tạo của ý thức là sáng tạo phản ánh bởi vì ý thức bao giờ cũng chỉ phản
ánh tồn tại.
* Nguồn gốc của ý thức:
- Nguồn gốc tự nhiên: Chính bộ óc của con người cùng với thế giới bên ngoài tác động vào bộ
óc là nguồn gốc tự nhiên của ý thức.
- Nguồn gốc xã hội: là lao động, thực tiễn xã hội và ngôn ngữ, đó là nguồn gốc quan trọng nhất
quyết định sự ra đời và phát triển của ý thức. Nhờ có lao động, con người tác động vào các đối
tượng, buộc các đối tượng bộc lộ đặc điểm, tính chất của nó, sau đó các đặc điểm, tính chất đó
lại tác động vào bộ óc con người. Từ đó con người nhận thức được quy luật, hiện tượng của sự
vật trong thế giới tự nhiên. Như vậy quá trình hình thànhý thức là kết quả hoạt động chủ quan
của con người thông qua hoạt động thực tiễn để cải tạo thế giới. Ngôn ngữ vừa là phương tiện
giao tiếp, vừa là công cụ của tư duy.Ýthức là một hiện tượng có tính chất xã hội, do đó không
có phương tiện trao đổi xã hội về ngôn ngữ thì ýthức không thể hình thành và phát triển được
- Bản chất của ý thức:
+ Ý thức là sự phản ánh hiện thực khách quan vào bộ óc con người một cách năng động sáng
tạo. Đây không phải là sự phản ánh đơn giản, là bản sao thụ động máy móc của sự vật. Ý thức
là hình ảnh tinh thần của thế giới khách quan hình thành trong quá trình con người tác động cải
tạo nó. Cho nên, ý thức con người là sự phản ánh có tính năng động sáng tạo, hay nói cách
khác, ý thứclà hình ảnh chủ quan của thế giới khách quan.
+ Tính tích cực sáng tạo của ý thức thể hiện ở chỗ: trên cơ sở cái đã có, ý thức có thể tạo ra tri
thức mới về sự vật, có thể tưởng tượng ra những cái không thể có trong thực tế, có thể dự đoán
về hiện tượng trong tương lai có thể tạo ra những ảo tưởng, những giả thuyết, những lý thuyết
khoa học hết sức trừu tượng khái quát... . Dù sáng tạo của ý thức không đối lập, không loại trừ
và không tách rời sự phản ánh, mà ngược lại thống nhất với phản ánh và sáng tạo là hai mặt
thuộc bản chất của thức
 Mối quan hệ giữa vật chất và ý thức
- Mối quan hệ giữa vật chất và ý thức là mối quan hệ biện chứng. Trong mối quan hệ này, vật
chất có trước, ý thức có sau, vật chất là nguồn gốc của ý thức, quyết định ý thức, song ý thức
không hoàn toàn thụ động mà nó có thể tác động trở lại vật chất thông qua hoạt động thực tiễn
của con người.
- Theo định nghĩa của Lê Nin thì vật chất là phạm trù triết học được dùng để chỉ một thực tại
khách quan được đem lại cho con người cảm giác của chúng ta chép lại, chụp lại, phản ánh và
tồn tại mà không lệ thuộc vào cảm giác.
- Ý thức chính là một phạm trù song song với phạm trù vật chất, theo đó ý thức là sự phản ánh
thế giới vật chất khách quan vào bộ óc con người và có sự cải biến, sáng tạo. Ý thức có mỗi
quan hệ hữu cơ và vật chất. Tính sáng tạo của ý thức được biểu hiện phong phú và đa dạng.
Trên cơ sở những gì đã có, ý thức có thể tạo ra những hiểu biết mới về sự vật, có thể hình dung
ra những gì không có trong thực tế. Ý thức cũng có thể tạo ra những ảo tưởng, những lý thuyết
khoa học và lý thuyết trừu tượng có tính khái quát cao. Ý thức cũng chính là sản phẩm lịch sử
của quá trình phát triển xã hội nên mang bản chất xã hội.
 Tính quyết định của vật chất đối với ý thức:
- Theo quan điểm của duy vật biện chứng, vật chất là cơ sở, cội nguồn sản sinh ra ý thức. Vật
chất là cái có trước, nó sinh ra ý thức, quyết định nội dung và xu hướng phát triển của ý thức.
- Vật chất tồn tại khách quan, độc lập với ý thức nên vật chất là cái có trước, là tính thứ nhất.
Ý thức chỉ là hình thức phản ánh của vật chất vào trong bộ óc con người nên ý thức là cái có
sau, là tính thứ hai.
- Không có vật chất thì không thể có ý thức, bởi vì nguồn gốc của ý thức chính là vật chất. Ý
thức ra đời và tồn tại được là nhờ các yếu tố vật chất đóng vai trò nguồn gốc tự nhiên và nguồn
gốc xã hội.
- Ý thức là sản phẩm của một dạng vật chất có tổ chức cao, là sự phản ánh của thế giới vật
chất, là hình ảnh mang tính chủ quan của thế giới vật chất. Vì vậy, nội dung của ý thức do vật
chất quyết định. Nên vật chất không chỉ quyết định nội dung mà hình thức biểu hiện cũng như
mọi sự biến đổi của ý thức.
- Các yếu tố cấu thành nguồn gốc tự nhiên, nguồn gốc xã hội của ý thức là bản thân thế giới
khách quan hoặc các dạng tồn tại của vật chất đều khẳng định vật chất là nguồn gốc của ý
thức.
Thứ nhất, vật chất là nguồn gốc của ý thức:
Phải có sự vận động của vật chất trong tự nhiên (bộ óc người và thế giới khách quan)
và vật chất trong xã hội (lao động và ngôn ngữ) thì mới có sự ra đời ý thức
Sự vận động của vật chất trong tự nhiên (bộ óc người và thế giới khách quan)
+ Ý thức chỉ là sự phản ánh thế giới vật chất bởi bộ óc con người. Ý thức chính là sản phẩm
vật chất, được tổ chức nên bộ não của con người. Do đó, chỉ có con người mới có ý thức và
con người chính là kết quả của quá trình phát triển thế giới vật chất, và là sản phẩm từ thế giới
vật chất. Ý thức thể hiện thể giới vật chất, là hình ảnh mang tính chủ quan, nội dung của ý thức
được quyết định bởi vật chất.
+ Những giác quan của con người khi phản ánh về sự vật, hiện tượng thì sẽ đưa thông tin vào
bộ não, thì những thao tác, tư duy trong não bộ diễn ra ( tức quá trình phân tích, quá trình tổng
hợp, so sánh, đối chiếu... => con người mới có tri thức, có tình cảm, có niềm tin, ý chí). Nếu
bộ não bị trục trặc, không hoàn thiện thì ý thức cũng sẽ không hoàn thiện được. Đây là điều
kiện cần chứng minh vật chất quyết định nguồn góc của ý thức.
Vật chất trong xã hội (lao động và ngôn ngữ)
+ Nhưng ý thức hình thành, tồn tại, vận hành, hoạt động, phát triển như thế nào, phụ thuộc vào
quá trình con người tiến hành hoạt động lao động sản xuất. Chính trong quá trình lao động sản
xuất vật chất thì con người mới có nhu cầu tìm hiểu về thế giới xung quanh, mới có nhu cầu
giải thích về thế giới này.
+ Lao động trong hoạt động thực tiễn, hoạt động sản xuất của cải vật chất và ngôn ngữ ( tiếng
nói, chữ viết), cùng với nguồn gốc tự nhiên quyết định sự tồn tại, hình thành và phát triển của
ý thức. Trong lao động mới xuất hiện nhu cầu trao đổi thông tin với nhau => ngôn ngữ ra đời.
Khi có ngôn ngữ thì giúp cho ý thức của con người hoàn thiện dần.
+ Ngòai ra, ý thức chỉ có thể trở thành sức mạnh vật chất, sức mạnh cải tạo thực hiện thông
qua hoạt động thực tiễn, bằng việc khai thác, sử dụng hợp lý các điều kiện, phương tiện vật
chất cần thiết cho hành động.
+ Ý thức là sự phản ánh thế giới vật chất, là hình ảnh chủ quan về thế giới vật chất nên nội
dung của ý thức được quyết định bởi vật chất. Sự vận động và phát triển của ý thức, hình thức
biểu hiện của ý thức bị các quy luật sinh học, các quy luật xã hội và sự tác động của môi
trường sống quyết định. Những yếu tố này thuộc lĩnh vực vật chất nên vật chất không chỉ
quyết định nội dung mà còn quyết định cả hình thức biểu hiện cũng như mọi sự biến đổi của ý
thức.
Thí dụ:
 Ông cha ta dạy : ” Có Voi, đòi Tiên “.
=> VC biến đổi thì YT biến đổi theo .
 Ví dụ: Ông A sinh sống ở vùng sâu, vùng xa không có cơ hội tiếp cận với công nghệ thông
tin, việc tiếp cận còn nhiều hạn chế, cũng như khi đi học thì A cũng thiếu đội ngũ giáo viên
giảng vậy. Tức là về điều kiện cơ sở hạ tầng không đáp ứng nên cá nhân A không có kiến thức,
hiểu biết nhiều về các sản phẩm công nghệ thông tin, thậm chí không biết sử dụng. Tuy nhiên,
đối với ông B - sống ở Thủ đô, từ nhỏ B có cơ hội học tập, tiếp cận với các công nghệ thông
tin hiện đại, có cha mẹ cũng như thầy cô chỉ dạy, vì vậy B dễ dàng sử dụng và tiếp cận các
công nghệ thông tin dù là những công nghệ mới nhất. Như vậy, có thể thấy điều kiện vật chất
sẽ quyết định ý thức.
 Ví dụ 2: Việt Nam ta có câu ca dao tục ngữ "có thực mới vực được đạo" ý là vật chất
quyết định nhận thức của con người. Khi con người không đủ no, không có sức khoẻ thì bộ
não của con người sẽ khó hoạt động. Bộ não con người sẽ phản ánh những hiện thực của cuộc
sống một cách cụ thể nhất.
- Vật chất quyết định nội dung, bản chất và sự vận động, phát triển của ý thức: ý thức là hình
ảnh chủ quan của thế giới khách quan. Nội dung của ý thức do thế với khách quan quy định.
Hoạt động vật chất cải biến thế giới của con người là cơ sở hình thành phát triển ý thức.
Thứ hai, vật chất quyết định nội dung của ý thức:
- Dưới bất kỳ hình thức nào, ý thức đều là phản ánh hiện thực khách quan. Nội dung của ý
thức là kết quả của sự phản ánh hiện thực khách quan trong đầu óc con người.
- Sự phát triển của hoạt động thực tiễn là động lực mạnh mẽ nhất quyết định tính phong phú và
độ sâu sắc nội dung của ý thức con người qua các thế hệ.
- Nội dung của ý thức là kết quả của sự phản ánh thế giới vật chất. Như vậy xét cho cùng thì
nội dung của ý thức là do vật chất quy định. Mà sự phản ánh của ý thức là sự phản ánh sáng
tạo thế giới vật chất chứ không phải là sự phản ánh một cách rập khuôn, máy móc.
+ Sự phản ánh của ý thức là sáng tạo, nhưng dù có sáng tạo như thế nào thì vẫn phải nằm
trong khuôn khổ của thế giới vật chất, không thoát ly khỏi thế giới vật chất.
+ Sự phản ánh sáng tạo: chọn lọc, có sự cải biến, phản ánh vượt trướt. Tuy nhiên chọn lọc
cũng không có nghĩa là xa rời vật chất, mà chọn lọc ở đây là dựa trên những tiền đề vật chất có
rồi từ đó mới chọn lọc, chắt lọc ra được. Sự cải biến phải dựa trên tiền đề vật chất hiện thực,
muốn phản ánh vượt trướt thì phải lấy vật chất hiện thực làm căn cứ, làm tiền đề để dự báo,
phản ánh vượt trướt. Chứ không phải vượt trướt là ý thức quyết định vật chất.
+ Thí dụ: Dự báo thời tiết hằng ngày, tại sao dự báo thời tiết buổi sáng lại nói là nhiệt độ của
ngày hôm nay lại hạ. Lý do là do có áp thấp nhiệt đới... Như vậy để dự báo thời tiết đúng thì
các nhà khoa học họ phải căn cứ trên điều kiện vật chất hiện thực, họ nắm được bản chất và
nắm được quy luật của nó thì họ mới dự báo được vật chất tương lai sẽ diễn biến theo quy luật
nào, theo phương hướng nào.
=> Xét cho cùng thì vật chất quyết định nội dung của ý thức. Nội dung của ý thức không phải
tự bộ óc con người sáng tạo ra, nó phải là kết quả của quá trình mà con người phản ánh về thế
giới vật chất. Ngay cả trí tưởng tượng của con người cũng không phải tự nhiên mà có mà phải
dựa trên những điều mình đã biết trong thế giới hiện thực để bắt đầu tưởng tượng ra những cái
mới mẻ hơn.
Vật chất quyết định sự biến đổi của ý thức:
- Thế giới vật chất không bao giờ đứng yên bất biến, vận động là tuyệt đối => thế nên mọi vật
chất luôn vận động, luôn biến đổi không ngừng. Nên khi những điều kiện vật chất đã thay đổi
một cách căn bản thì sớm muộn gì ý thức của con người cũng sẽ thay đổi theo.
- Mọi sự tồn tại, phát triển của ý thức đều gắn liền với sự biến đổi của vật chất. Vật chất thay
đổi thì ý thức cũng phải thay đổi theo.
- Vật chất luôn vận động và biến đổi nên con người cũng ngày càng phát triển cả về thể chất
lẫn tinh thần, thì dĩ nhiên ý thức cũng phát triển cả về nội dung và hình thức phản ánh.
+ Thí dụ: người xưa có câu “ Giàu đổi bạn, sang đổi vợ” ; “ Gần mực thì đen, gần đèn thì
sáng”. Thế nên suy nghĩ của mình thay đổi cũng dựa trên điều kiện tiền đề vật chất.
Vật chất là cơ sở, điều kiện để hiện thực hóa ý thức:
- Nếu không có tiền đề vật chất, nếu không có những tiền đề vật chất cho phép thì mọi ước mơ,
nguyện vọng của con người chỉ là ảo tưởng. Vật chất quyết định ý thức vì nó là cơ sở, là điều
kiện để hiện thực hóa ý thức.
- Có những người có ước mơ nhưng mãi nó không thành hiện thực được là do chưa chuẩn bị
được tiền đề vật chất. Phải chuẩn bị hết những tiền đề vật chất thì mới thực hiện được ước mơ,
nguyện vọng của mình.
- Thế nên, bây giờ khi xây dựng, xem xét, đánh giá sự vật, hiện tượng để từ đó xây dựng kế
hoạch, chủ trương, chính sách nếu không lấy điều kiện vật chất, hiện thực khách quan làm căn
cứ, làm tiền đề mà chỉ dựa vào tình cảm, lý tưởng thay cho hiện thực thì đấy là bệnh CHỦ
QUAN.
 Ý thức tác động trở lại vật chất
- Khẳng định vật chất quyết định ý thức nhưng chủ nghĩa Mác không bao giờ xem thường vai
trò của ý thức. Quan hệ giữa vật chất và ý thức không phải là quan hệ một chiều mà là quan hệ
tác động qua lại.
- Mặc dù do vật chất quyết định nhưng ý thức có sự tác động trở lại vật chất thông qua hoạt
động của con người. Ý thức sẽ tác động gián tiếp vào vật chất, chứ không tác động trực tiếp để
làm biến đổi vật chất.
- Tính độc lập của ý thức có thể hiện ở vị trí có “đời sống” quy luật vận hành phát triển riêng,
ý thức có thể thay đổi nhanh hơn hoặc chậm hơn so với thực thi. Thường thay đổi chậm hơn so
với sự thay đổi của thế giới vật chất . Sự tác động thông qua phương thức thực hiện ý thức tự
giác của con người, nó không thể thực hiện chuyển hoá được. Con người luôn phải dựa vào
hiểu biết về thế giới khách quan.
- Bởi ví ý thức chính là ý thức của con người, ý thức chính là sự phản ánh thế giới vật chất vào
trong đầu óc của con người, do vật chất sinh ra, nhưng khi đã ra đời thì ý thức có "đời sống"
riêng.
- Nhờ vào các hoạt động thực tiễn, ý thức có thể làm biến đổi những điều kiện, hoàn cảnh vật
chất, thậm chí còn tạo ra những "sản phẩm tự nhiên khác" phục vụ cho hoạt động cuộc sống
của con người. Con người dựa trên những tri thức về thế giới khách quan, hiểu biết những quy
luật khách quan, từ đó đề ra mục tiêu, biện pháp và ý chí quyết tâm để thực hiện thắng lợi mục
tiêu đã xác định. Khi xã hội càng phát triển thì vai trò của ý thức lại vô cùng quan trọng. Khi
mà tri thức khoa học đã trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp. Trong bối cảnh toàn cầu hoá,
vai trò của tri thức khoa học, cử tư tưởng chính trị, tư tưởng nhân văn là hết sức quan trọng.
Thí dụ: Khi ở nhiệt đố 0 độ C thì nước đông thành đá, do đó con người muốn uống nước đá đã
cung cấp một nhiệt độ vừa đủ để nước chuyển từ trạng thái lỏng, sang trạng thái rắn (nước
đá).
- Ý thức có vai trò chỉ đạo, định hướng mọi hoạt động của con người:
+ Trong quá trình chúng ta tiến hành hoạt động nào đó, thì ý thức sẽ giúp mình xác định mục
tiêu, sau đó ý thức sẽ giúp mình chuẩn bị lực lượng vật chất để thực hiện và lựa chọn các giải
pháp để thực hiện. Hiệu quả hoạt động của con người đạt được tới đâu là do ý thức quyết định.
+ Mặc dù vật chất quyết định ý thức nhưng ý thức quyết định hiệu quả hoạt động thực tiễn của
con người. Thế nên cùng chung một hoàn cảnh đó nhưng có người thì thành công, có người lại
thất bại, do đó ta không thể đổ lỗi do hoàn cành.
+ Thí dụ, như cùng học 1 người 1 lớp nhưng khi đi xin việc có người được nhận ngay trong lúc
thực tập còn có người dù đã trải qua thời gian thử việc vẫn không được nhận. Thế nên không
thể đổ lỗi do hoàn cảnh, ý thức quyết định sự thành công hay thất bại của con người.
- Ý thức tác động trở lại vật chất diễn ra theo hai hướng:
 Tích cực: Nếu ý thức phản ánh đúng đắn, quy luật, bản chất hiện thực của thế giới thì ý
thức sẽ là động lực thúc đẩy vật chất phát triển. Nếu nhận thức đúng về thế giới, xác định đúng
mục tiêu, lựa chọn đúng giải pháp thì hoạt động thực tiễn sẽ đạt được hiệu quả cao => như
vậy, mình đã tác động vào thế giới theo hướng cải tạo thế giới.
 Tiêu cực: Khi phản ánh sai lạc hiện thực, ý thức có thể kìm hãm sự phát triển của vật
chất. Thất bại chỉ là điều kiện cho sự thành công chứ không có nghĩa thất bại là mãi mãi. Thế
nên, nếu ý thức kìm hãm sự phát triển của thế giới thì sự kìm hãm này chỉ có tính chất tạm
thời.
- Xã hội càng phát triển thì vai trò của ý thức ngày càng to lớn, nhất là trong thờiđại ngày nay,
khi mà tri thức khoa học đã trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp.
- Tính năng động, sáng tạo của ý thức mặc dù rất to lớn nhưng không thể vượt quá tính quy
định của những tiền đề vật chất đã xác định, phải dựa vào các điều kiện khách quan và năng
lực chủ quan của các chủ thể hoạt động.
- Thí dụ: Có nhận thức đúng đắn về thực tế kinh tế đất nước, từ sau Đại hội VI, Đảng ta
chuyển nền kinh tế tự cung, quan liêu sang nền kinh tế thị trường để phát triển đất nước như
hôm nay. Điều này cho thấy ý thức đã phản ánh được thực tiễn và đưa ra mục tiêu, phương
hướng để tác động lại vật chất, tạo sự phát triển cho vật chất
 Ý nghĩa phương pháp luận:
- Trong nhận thức nói chung phải quán triệt quan điểm khách quan, phòng tránh bệnh chủ
quan, đồng thời phát huy tính năng động, sáng tạo của ý thức:
+ Từ mối quan hệ vật chất và ý thức Đảng đã xác định “Đảng phải luôn luôn xuất phát từ thực
tế tôn trọng và hành động theo qui luật khách quan”.Quy luật của thế giới khách quan không
được tự ý lấy ý muốn chủ quan làm điểm xuất phát. Bởi mọi hoạt động nhận thức, đều phải từ
hiện thực khách quan .Và vì ý thức tác động lại vật chất nên trong giáo dục thực tiễn chúng ta
phải chú ý đến và nâng cao nhận thức của con người.
+ Khi xem xét, đáng giá sự vật, hiện tượng phải xuất phát từ bản thân sự vật, hiện tượng đó để
xem xét, không được lấy ý muốn chủ quan áp đặt vào sự vật, hiện tượng; phải trung thực trong
quá trình đánh giá, tránh chủ quan.
* Không lấy tình cảm, sự nhiệt tình, lý tưởng áp đặt vào sự vật hiện tượng mà phải dự vào
những điều hiện thực, bản thân sự vật, hiện tượng, đặc điểm, tính chất để đánh giá.
* Thí dụ: trung thực trong việc đánh giá Đoàn viên ứu tú, không vì quan hệ thân thiết mà nâng
đỡ.
+ Khi xây dựng, xem xét, đánh giá sự vật, hiện tượng để từ đó xây dựng kế hoạch, chủ trương,
chính sách nếu không lấy điều kiện vật chất, hiện thực khách quan làm căn cứ, làm tiền đề mà
chỉ dựa vào tình cảm, lý tưởng thay cho hiện thực thì đấy là bệnh CHỦ QUAN.
 Nguyên nhân của bệnh chủ quan:
- 2 nguyên nhân cơ bản
+ Do chủ nghĩa cá nhân ( vì lợi ích cá nhân chi phối).
+ Do tính tự mãn
- Thí dụ: trong cán tác cán bộ ngày nay vẫn có bệnh CHỦ QUAN, trong việc tuyển dụng, bổ
nhiệm, đề bạt vẫn còn vấn đề chủ quan, cậy nhờ các mối quan hệ.
+ Trong hoạt động phải tôn trọng quy luật và hành động theo quy luật;
* Tôn trọng quy luật và hành động theo quy luật thì hiệu quả hoạt động thực tiễn mới đạt kết
quả cao; còn nếu làm trái với quy luật thì hiệu quả hoạt động sẽ thấp.
* Quy luật là những mối liên hệ tất nhiên phổ biến, lặp đi lặp lại giữa các sự vật, hiện tượng.
Thế nên đã là quy luật thì nó sẽ mang tính khách quan, không lệ thuộc vào ý thức của mình.
Cho nên trong hoạt động, thái độ đúng đắn nhất của chúng ta là phải tôn trọng quy luật, sau khi
tôn trọng quy luật thì cố gắng nhận thức đúng quy luật và hành động theo đúng quy luật thì
hiệu quả hoạt động mang lại sẽ rất cao; làm trái quy luật thì hiệu quả hoạt động sẽ thấp.
* Thí dụ: Như trong hoạt động kinh doanh thì phải tuân theo quy luật cung - cầu. Khi bán
mặt hàng gì thì phải xem xét về nhu cầu của thị trường thì mới có thể hoạt động được.
+ Phát huy tính năng động, sáng tạo của ý thức: nâng cao trình độ, bồi dưỡng tình cảm, củng
cố niềm tin,...
* Phát huy tính năng động, sáng tạo của ý thức thì hiệu quả họat động thực tiễn sẽ cao, bằng
cách nâng cao trình độ, bởi kiến thức, kinh nghiệm, tích lũy kiến thức vừa sâu vừa rộng thì khi
làm việc sẽ hiệu quả hơn, ít xẩy ra sai sót hơn.
* Bồi dưỡng tình cảm: khi đặt tình cảm vào trong công việc, khi mà tình cảm phát triển theo
chiều hướng tích cực thì mới có sự đam mê trong công việc. Khi làm việc mà có sự đam mê thì
sẽ toàn tâm toàn ý cho công việc đó, từ đó mới có những sáng tạo, không đi theo lối mòn của
người đi trước thì sẽ đạt hiệu quả trong công việc,
* Củng cố niềm tin: khi đã có niềm tin thì khi gặp những trở ngại mới có đủ bản lĩnh, ý chí,
sức mạnh để vượt qua => không chùng bước. Còn nếu không có niềm tin thì sẽ dễ dẫn đến thất
bại.
+ Chống bệnh chủ quan, tư tưởng thụ động, trì trệ,...
* Chống bệnh chủ quan:
+ Chủ quan là cái thuộc về ý thức, ý chí của con người; nói cách khác nó là cái thuộc về tự bản
thân mình, về cái vốn có và có thể có của bản thân. Trong cuộc sống, chủ quan được thể hiện
dưới nhiều hình thức.
+ Ví dụ như: Khi tham gia giao thông, ta chủ quan không đội mũ bảo hiểm đúng quy định,
phóng nhanh, vượt ẩu sẽ gây ra tai nạn; công nhân lao động sản xuất trên công trường, nhà
máy chủ quan không mang bảo hộ lao động, không thắt dây an toàn sẽ dễ xảy ra tai nạn;
những hộ dân miền núi làm nhà ở vào nơi nguy hiểm, chủ quan không di dời kịp thời trước
mùa mưa bão sẽ có nguy cơ bị sạt lở đất; hoặc trước tình hình thời tiết diễn biến hết sức phức
tạp như hiện nay, nếu ta chủ quan, không có kế hoạch chủ động triển khai các biện pháp phòng
chống mưa bão, rét đậm, rét hại cho người và vật nuôi, thì hậu quả xảy ra sẽ đe dọa đến tính
mạng con người và ảnh hưởng xấu đến sản xuất...
+ Người mắc phải căn bệnh chủ quan, sẽ dẫn đến đề ra các chủ trương, quyết sách lãnh đạo,
chỉ đạo, quản lý điều hành xa rời thực tiễn;
+ Đường lối, chủ trương, quyết sách không phản ánh lợi ích của tập thể, không thể hiện được ý
chí của quần chúng mà chỉ là lợi ích, ý chí của một bộ phận, một nhóm người nào đó.
+ Mặt khác căn bệnh chủ quan, sẽ khiến con người ta tuyệt đối hóa vai trò cá nhân, biện pháp
mệnh lệnh hành chính, hành động bất chấp quy luật khách quan.
+ Thí dụ: Cán bộ, đảng viên, đặc biệt là những người có chức, có quyền mắc bệnh chủ quan,
duy ý chí sẽ dẫn tới tình trạng lạm dụng chức quyền, mất dân chủ, thờ ơ với tâm tư, nguyện
vọng của quần chúng... Những hệ lụy tiêu cực từ căn bệnh chủ quan, duy ý chí đối với đời
sống kinh tế-xã hội là hết sức khó lường.
* Tư tưởng thụ động
+ Phải phát huy tính năng động sáng tạo của ý thức, phát huy vai trò của nhân tố con người,
chống tư tưởng, thái độ thụ động, ỷ lại, ngồi chờ, bảo thủ, trì trệ, thiếu tính sángtạo. Điều này
đòi hỏi con người phải coi trọng ý thức, coi trọng vai trò của tri thức, phải tích cực học tập,
nghiên cứu khoa học, đồng thời phải tu dưỡng, rèn luyện phẩm chất đạo đức, ý chí, nghị lực
của bản thân
* Tư tưởng trì trệ :
+ Thường gặp, tình trạng “né” việc, “né” trách nhiệm, “đùn cho người khác” trong giải quyết
những công việc đòi hỏi phải có sự phối hợp của nhiều đơn vị. Nhẹ thì gây phiền hà cho người
dân, doanh nghiệp, lớn hơn thì hình thành kiểu vòi vĩnh “bôi trơn”, gây tiêu cực, tham nhũng.
+ Vẫn còn đó, những cán bộ, đảng viên phai nhạt lý tưởng, giảm sút ý chí, ngại khó, ngại
khổ, không hoàn thành nhiệm vụ được giao; và giờ thêm nhiều người suy thoái về tư tưởng
chính trị, đạo đức, lối sống, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”…
+ Bệnh trì trệ, như Chủ tịch Hồ Chí Minh đã thẳng thắn chỉ ra, gây nên tác hại nhiều mặt:
“Phá hoại tổ chức của Đảng, giảm bớt kỷ luật của Đảng, bỏ mất thời cơ tốt, lúc nên làm thì
không làm, khi làm thì trễ rồi”.
+ Chống bệnh trì trệ là để trả lại cho Đảng giá trị thiêng liêng “tiên phong, gương mẫu”; để
tăng sức mạnh cho tổ chức Đảng! Và cũng là để thúc đẩy phát triển đất nước!
+ Do vậy, chống bệnh trì trệ, đồng nghĩa với việc phải bắt đầu từ việc quan tâm hơn tới xây
dựng đội ngũ cán bộ, đảng viên thật sự trong sạch, vững mạnh. Nhận thức rõ tầm quan trọng
này, nghị quyết đại hội Đảng của các cấp vừa qua đều rất chú trọng tới việc xây dựng cho
được một đội ngũ cán bộ mới với nhiều phẩm chất mới.
+ Điển hình như Đảng bộ Khối các cơ quan Trung ương đặt mục tiêu trong nhiệm kỳ 2020-
2025: “Phát huy tinh thần đoàn kết, dân chủ, đổi mới, sáng tạo, dám nghĩ, dám làm, dám chịu
trách nhiệm vì lợi ích chung và nâng cao đạo đức cách mạng, trách nhiệm nêu gương, quyết
tâm xây dựng, chỉnh đốn Đảng bộ Khối các cơ quan Trung ương trong sạch, vững mạnh”.
+ Để chữa bệnh trì trệ, trước hết, cần xác định rõ chức năng, nhiệm vụ tổ chức bộ máy, qua đó
xác định rõ nhiệm vụ, chức trách mỗi thành viên trong tổ chức, cơ quan, đơn vị. Trên cơ sở
“chuẩn hóa” công việc, cần tiến hành “chuẩn hóa” nhân sự thực hiện công việc đó.
+ Điều mang ý nghĩa quyết định trong chống bệnh trì trệ là phải xây dựng cho được một bộ
khung pháp lý trong quy trình công tác, với những quy định, quy chế… thật cụ thể, rõ ràng.
Thông qua đó, thực hiện “chuẩn hóa” quy trình công tác gắn với trách nhiệm cá nhân người
thực hiện và người phụ trách.
 Liên hệ bản thân :
- Đầu tiên, vì vật chất quyết định ý thức nên nhận thức và hoạt động của tôi phải xuất phát từ
thực tế khách quan. Bản thân tôi phải nhận thức được các điều kiện thực tiễn ảnh hưởng đến
học tập, cuộc sống của mình để tôn trọng và hành động theo quy luật khách quan.
Ví dụ:
+ Trong học tập, tôi cần phải xác định được nội quy trường học, giờ học, thời khóa biểu,
những yếu tố thực tế để có ý thức chấp hành đúng quy định, tham gia các tiết học đầy đủ và
hoàn thành các nhiệm vụ giảng viên đề ra.
+ Trong thời gian dịch bệnh Covid-19 diễn biến phức tạp, tôi nhận thức được sự nguy hiểm
của dịch bệnh để thực hiện các phương pháp phòng tránh dịch, tuân thủ quytắc 5K, ở yên tại
nhà để bảo vệ sức khỏe bản thân, gia đình và cộng đồng.
- Thứ hai, ý thức cũng có sự tác động trở lại với vật chất nên cần phải phát huy tính năng động,
sáng tạo của ý thức. Tôi phải chủ động tìm kiếm và trau dồi tri thức cho bản thân mình, bồi
dưỡng những kỹ năng cần thiết cho bản thân, không quá phụ thuộc vào người khác mà phải tự
phát huy tính sáng tạo, suy nghĩ mới lạ.
+ Ví dụ: Trước mỗi giờ học, tôi phải chủ động xem trước giáo trình của ngày hôm đó để đánh
dấu những chỗ mình vẫn chưa hiểu. Trong giờ học tôi thường xuyên tích cực phát biểu và thảo
luận để hiểu rõ hơn bài học. Sau giờ học tôi sẽ tìm thêm bài tập và tàiliệu để luyện tập thêm,
trau dồi thêm kiến thức. Ngoài ra để cải thiện kỹ năng mềm tôi cũng tích cực tham gia các hoạt
động ngoại khóa, các phong trào của các tổ chức xã
hội.
+ Không chỉ bồi dưỡng kiến thức, tôi còn cố gắng rèn luyện đạo đức, phẩm chất của mình qua
việc đọc sách, tập yoga, tham gia các buổi trao đổi, thảo luận.
- Thứ ba, tôi phải tiếp thu chọn lọc các ý kiến mới, không để bản thân thụ động, bảo thủ,
không chủ quan trước mọi tình huống.
+ Ví dụ: Khi tham gia thảo luận nhóm, tôi sẽ lắng nghe và tiếp thu những điều hay mà các
thành viên góp ý cho mình để hoàn thành công việc theo kế hoạch. Hay khi đăng ký học phần,
tôi không chủ quan vào năng lực của mình mà đăng ký quá nhiều môn tránh cho bản thân
không kham nổi.
+ Trong cuộc sống, trước khi đánh giá một người nào đó, tôi phải tiếp xúc với người đó và
lắng nghe những đánh giá của những người xung quanh về người đó, không thể chủ quan
“trông mặt mà bắt hình dong”, không thể chỉ dựa vào cảm xúc cá nhân mà đánh giá người đó.
- Thứ tư, Lối sống tích cực thể hiện ở việc kế thừa và phát huy truyền thống tốt đẹp của ông
cha ta loại bỏ yếu tố lạc hậu như lười biếng ,vô kỷ luật....Bên cạnh đó cần phải tự biết làm giàu
vốn kiến thức tích cực tham gia vào các phong trào thi đua ,sôi nổi trong các hoạt động do
trường tổ chức.
Ví dụ : khi lên đại học sẽ rất khó nắm bắt được kiến thức vậy nên tôi thường tự chủ động
nghiên cứu ,tìm kiếm thông tin để việc học dễ dàng hơn. Cụ thể khi xong bài thuyết trình thì
biết lắng nghe ý kiến chỉnh sửa của lớp và giảng viên hay khi làm bài tập hoặc họp nhóm cần
phải sáng tạo, đột phá, nhưng không nên quá cầu toàn, bảo thủ.
- Thứ năm, Xây dựng tinh thần trách nhiệm có tính kỷ luật, tính tập thể nghĩa là trong một tập
thể cần biết tôn trọng, ưu tiên lợi ích chung có ý thức giữ gìn, đoàn kết tuyệt đối không gây
mâu thuẫn chia bè kéo phái trong nội bộ.
- Thứ sáu, Ngoài ra thì thực hiện tuyên truyền những lối sống tích cực cho mọi người ca ngợi
những tấm gương người tố việc tốt , phê pháp và loại bỏ những hành vi tiêu cực ,những tấm
gương xấu.Vì thế là một sinh viên cần phải biết cách rèn luyện bản thân lối sống tích cực ,chủ
động ,sáng tạo cùng tinh thần hăng say và nhiệt huyết không chỉ để nâng cao giá trị cho bản
thân mà còn là xây dựng tiếp nối làm giàu đất nước .
- Thứ bảy, liên hệ nguyên tắc khách quan trong quá trình học tập:
+ Chấp hành nghiêm chỉnh nội quy nhà trường. Không nên có tư tưởng cá nhân là nội quy nhà
trường rườm rà, làm ảnh hưởng không tốt đến việc học, đến thời gian cá nhân mà không thực
hiện theo thì sẽ dẫn đến hậu quả không tốt.
+ Trong học tập khi làm việc theo nhóm, theo tổ chức khi đề bạt hoặc phân công trong hoạt
động phải đảm bảo tính công bằng, đánh giá trung thực năng lực của từng cá nhân để có thể bổ
nhiệm những vị trí phù hợp để có được kết quả thành công.
+ Khi sinh viên muốn tham gia vào một câu lạc bộ hay đội nhóm nào đó thì bản thân phải đánh
giá đúng bản thân, những điều kiện mà câu lạc bộ hay đội nhóm cần có phù hợp hay không.
Không nên đưa ra mục tiêu mà chưa rõ bản thân và điều kiện cần có phù hợp hay không điều
đó rất dễ dẫn đến thất bại.
+ Để có thể học tập tốt, sinh viên cần nghiên cứu các giáo trình, sách, vở, tài liệu… để có cái
nhìn khách quan về vấn đề để đánh giá đúng đắng về vấn đề.
Bài 3:
Quan điểm toàn diện lịch sử cụ thể và quan điểm phát triển. Phòng tránh bệnh phiến
diện, bảo thủ, trì trệ. Từ đó liên hệ bản thân.
Thế giới tồn tại: có 2 quan điểm đối lập nhau đó là quan điểm siêu hình và quan điểm
biện chứng.
- Quan điểm siêu hình chỉ ra: mọi SV, HT trên thế giới của chúng ta thì chúng tồn tại cô lập,
tách rời. SV, HT này đứng bên cạnh SV, HT kia và chúng không hề có mối liên hệ, không hề
có sự chi phối, ảnh hưởng gì hết và quan điểm siêu hình cho rằng, các SV, HT trong thế giới
của chúng ta là có sự vận động biến đổi, nhưng sự vận động, biến đổi đó làm cho sự vật biến
đổi bên ngoài chứ không làm thay đổi về chất. Thí dụ: như con người chúng ta mỗi ngày qua
đi đều có sự thay đổi ( già đi) nhưng đó chỉ là biến đổi bên ngoài còn bản thân người đó bên
trong vẫn như vậy. Quan điểm siêu hình không thừa nhận sự vận động, phát triển mà làm thay
đổi về chất của sự vật, tức là nếu như có sự biến đổi thì chỉ biến đổi bên ngoài, những đặc
điểm thuộc về bên ngoài chứ SV, HT nó vẫn là nó không thể biến thành cái khác được.
- Quan điểm biện chứng cho rằng mọi SV, HT trong thế giới chúng ta luôn tồn tại trong vô vàn
cái mqh, tức là sự tồn tại của các SV, HT thì nó luôn luôn có sự phụ thuộc vào nhau, có sự ảnh
hưởng, có sự chi phối, có sự tác động qua lại. Và quan điểm biện chứng cho rằng mọi SV, HT
trong thế giới của chúng ta luôn vận động, khuynh hướng chung của thế giới là luôn phát triển
=> thế nên quan điểm biện chứng cho rằng SV, HT vừa là A vừa không phải là A, tức là nó có
sự thay đổi về chất chứ không phải chỉ biến đổi bên ngoài.
=> Từ quan điểm siêu hình thì sẽ xây dựng nên phương pháp nhận thức là Phương pháp siêu
hình. Phương pháp siêu hình cho rằng: muốn phản ánh đúng bản chất của SV, HT thì phải xem
xét nó trong trạng thái cô lập, trong trạng thái tách khỏi các mối liên hệ và xem nó trong trạng
thái đứng yên.
- Triết học MacLenin đứng trên quan điểm biện chứng để giải thích về thế giới. Thế nên
khi nghiên cứu về Triết học MacLennin thì sẽ giúp mình xây dựng phương pháp biện chứng
trong xem xét, trong đánh giá sự vật hiện tượng.
=> Mối liên hệ và sự phát triển của SV, HT trong thế giới là thể hiện quan điểm biện chứng
trong Triết học MacLennin. Phép biện chứng duy vật là đi vào nghiên cứu các mối liên hệ và
sự vận động phát triển của SV, HT. Thế nên phép biện chứng duy vật là hệ thống lý luận để
nghiên cứu về mối liên hệ phổ biến của các SV, HT trong thế giới và nghiên cứu về sự vận
động và phát triển của các SV, HT trong thế giới này.
 Nguyên lý về mối liên hệ phổ biến.
- Mọi SV, HT đều nằm trong mối liên hệ. Mối liên hệ khách quan, phổ biến, rất đa dạng,
phong phú. Các mối liên hệ có vai trò khác nhau đối với sự vận động, phát triển của SV,HT.
- Đứng trên quan điểm duy vật và quan điểm biện chứng, Triết học MacLennin cho rằng mọi
SV, HT trong thế giới đều luôn luôn tồn tại trong các mối liên hệ. Tức là luôn nằm trong các
mối liên hệ. Mối liên hệ mang tính khách quan, mang tính phổ biến và mang tính đa dạng
phong phú.
- Xuất phát từ quan điểm, thế giới thống nhất ở tính vật chất, có chung một nguồn gốc. Triết
học duy vật biện chứng khẳng định: các sự vật, hiện tượng trong quá trình tồn tại chúng đều có
liên hệ với nhau. Mối liên hệ được biểu hiện dưới các dạng: không thể thiếu nhau, không tách
rời nhau, ràng buộc lẫn nhau, tác động qua lại lẫn nhau, chuyển hoá lẫn nhau, sự vật này tồn
tại được là nhờ dựa vào sự vật hiện tượng khác, nếu sự vật này thay đổi thì sự vật hiện tượng
khác sớm muộn cũng sẽ thay đổi theo. Những mối liên hệ ấy không những chỉ xảy ra giữa sự
vật này với sự vật khác mà ngay trong bản thân một sự vật, hiện tượng cũng có mối liên hệ.
- Quan điểm duy vật biện chứng về mối liên hệ: Mối liên hệ là phạm trù triết học dùng để chỉ
sự quy định, sự tác động qua lại, sự chuyển hoá lẫn nhau giữa các sự vật, hiện tượng hay các
mặt sự vật, của một hiện tượng trong thế giới.
- Tính chất của mối liên hệ:
+ Tính khách quan: Các mối liên hệ bao giờ cũng mang tính khách quan, có nghĩa là các mối
liên hệ này là tự thân, vốn có của SV, HT, không lệ thuộc vào ý thức của con người. Để tồn
tại, phát triển thì các sự vật, hiện tượng buộc phải được quy định bởi các mối liên hệ, chứ nó
không thể lệ thuộc vào ý thức. Ngay cả những vật vô tri vô giác cũng đang ngày hàng ngày,
hàng giờ chịu sự tác động của các sự vật hiện tượng khác nhau (như ánh sáng, nhiệt độ, độ
ẩm...) tự phiên, dù muốn hay không, cũng luôn luôn bị tác động bởi các sự vật hiện tượng
khác. Như vậy, theo quan điêm duy vật biện chứng, các mối liên hệ của các sự vật, hiện tượng
của thể giới là có tính khách quan. Do đó, sự quy định lẫn nhau, tác động lẫn nhau và chuyển
hóa lẩn nhau của các sự vật, hiện tuợng (hoặc trong bản thân chúng) là cái vốn có của nó, tồn
tại độc lập không phụ thuộc vào ý chí của con người, con người chi có thể nhận thức và vận
dụng các mối liên hệ đó trong hoạt động thực tiễn của mình. Các mối liên hệ tác động, suy cho
đến cùng đều là sự phản ánh mối liên hệ và sự quy định lẫn nhau giữa các sự vật, hiện tượng
của thế giới khách quan. Liên hệ là tất yếu, là khách quan, vốn có của sự vật, hiện tượng. Phép
biện chứng duy vật đã khẳng định tính khách quan của các mối liên hệ, tác động qua lại trong
thế giới. Giữa các sự vật, hiện tượng với nhau, giữa các sự vật hiện tượng này với các sự vật
hiện tượng khác. Chúng tác động qua lại, chuyển hóa và phụ thuộc lẫn nhau. Đây là cái vốn có
của bản thân sự vật, tồn tại độc lập và không phụ thuộc vào ý muốn chủ quan hay nhận thức
của con người. Sở dĩ mối liên hệ có tính khách quan là do thế giới vật chất có tính khách quan.
Con người chỉ có thể nhận thức và vận dụng các mối liên hệ vật chất trong hoạt động thực tiễn
của mình.
+ Tính phổ biến: Tức là nó diễn ra với mọi sự vật, hiện tượng từ tự nhiên, xã hội cho đến tư
duy, các SV, HT đều nằm trong mối liên hệ, chứ không có SV, HT nào tách khỏi các mối liên
hệ. Các mối liên hệ cũng rất đa dạng, phong phú và phức tạp bởi SV, HT khác nhau thì sẽ có
mối liên hệ khác nhau. Nhưng phép biện chứng duy vật còn cho rằng trong cùng một mối liên
hệ, nhưng ở không gian, thời gian khác nhau thì các mối liên hệ cũng sẽ khác nhau. Tính phổ
biến của các mối liên hệ thể hiện ở chỗ dù ở bất kỳ đâu, trong tự nhiên, xã hội và tư duy đều có
vô vàn các mối liên hệ đa dạng, chúng giữ vai trò, vị trí khác nhau trong sự vận động, chuyển
hóa của các sự vật, hiện tượng. Mối liên hệ qua lại, quy định, chuyển hóa lẫn nhau không
những diễn ra ở mọi sự vật, hiện tượng tự nhiên, xã hội, tư duy mà còn diễn ra ở giữa các mặt,
các yếu tố, các quá trình của mọi sự vật, hiện tượng.
+ Thí dụ: trong lớp học thì giác viên và học sinh có mối liên hệ là cô trò, nhưng ra khỏi lớp
học thì sẽ có thể là các mối liên hệ khác. Như ở nhà là mẹ con, nhưng khi đến trường là cô trò.
=> Như vậy, trong quá trình tồn tại và phát triển thì các mối liên hệ đều có sự ảnh hưởng đến
quá trình tồn tại và phát triển của SV, HT, nhưng vai trò của các mối liên hệ này thì khác
nhau . Trong đó, mối liên hệ bên trong , mối liên hệ cơ bản là giữ vai trò quan trọng quyết định
sự tồn tại và phát triển của SV, HT.
+ Tính đa dạng, phong phú: Mỗi sự vật, hiện tượng, quá trình khác nhau thì mối liên hệ cũng
khác nhau. Một sự vật hiện tượng có nhiều mối liên hệ khác nhau (bên trong - bên ngoài, chủ
yếu - thứ yếu, cơ bản - không cơ bản,...), chúng giữ vị trí, vai trò khác nhau đối với sự tồn tại
và phát triển của sự vật, hiện tượng đó. Một mối liên hệ trong những điều kiện hoàn cảnh khác
nhau thì tính chất, vai trò cũng sẽ khác nhau. Nguyên lý về mối liên hệ phổ biến khái quát
được toàn cảnh thế giới trong những mối liên hệ chằng chịt giữa các sự vật, hiện tượng của nó.
Tính vô hạn của thế giới khách quan; tính có hạn của sự vật, hiện tượng trong thế giới đó chỉ
có thể giải thích được trong mối liên hệ phổ biến, được quy định bằng nhiều mối liên hệ có
hình thức, vai trò khác nhau.
+ Thí dụ như mỗi người khác nhau sẽ có mối liên hệ với cha mẹ, anh em, bạn bè khác nhau.
Hay cũng là mối liên hệ giữa cha mẹ với con cái nhưng trong mỗi giai đoạn lại khác nhau, có
tính chất và biểu hiện khác nhau
+ Thí dụ như các loại cá, chim, thú đều có quan hệ với nước nhưng mối quan hệ giữa cá với
nước khác hoàn toàn mối quan hệ của nước với chim, thú. Cá không thể sống thiếu nước
nhưng các loài chim, thú khác không sống trong nước thường xuyên được.
==> Ý nghĩa phương pháp luận:
- Nguyên lý về mối liên hệ phổ biến là một trong những nội dung quan trọng của phép duy vật
biện chứng. Đồng thời nó cũng là cơ sở lý luận của quan điểm toàn diện, quan điểm lịch sử -
cụ thể là những quan điểm mang tính phương pháp luận khoa học trong nhận thức và thực tiễn.
- Bất cứ sự vật, hiện tượng nào trong thế giới đếu tồn tại trong mối liên hệ với sự vật, hiện
tượng khác và mối liên hệ rất đa dạng và phức tạp, do đó, khi nhân thức về sự vật, hiện tượng,
chúng ta phải có quan điếm toàn diện, để đánh giá đúng về sự vật, hiện tượng, tránh quan điểm
phiến diện chi xét sự vật, hiện tượng ở một mối liên hệ đã vội vàng kết luận về bản chất hay
tính quy luật của chúng.
- Vì các SV, HT trong thế giới chung luôn luôn tồn tại trong các mối liên hệ, các mối liên hệ
có vai trò khác nhau trong quá trình tồn tại và phát triển của SV, HT. Thế nên phép biện chứng
duy vậy giúp chúng ta xây dựng một phương pháp biện chứng trong quá trình nhận thức ==>
Đó là QUAN ĐIỂM TOÀN DIỆN LỊCH SỬ CỤ THỂ.
- Quan điểm Toàn diện yêu cầu: trong nhận thức khi mà xem xét, đánh giá SV, HT thì phải
xem xét tất cả các mặt các mối liên hệ của nó. Đây là một phương pháp biện chứng, phải quán
triệt thì nhận thức mới đúng đắn. Bởi vì SV, HT vốn dĩ tồn tại trong vô vàn các mối liên hệ
( mlh), mà mlh đa dạng, phức tạp, phong phú vô cùng, nên nếu chỉ xem xét, đánh giá SV, HT
chỉ 1 mặt của mlh nào đó thì sẽ dẫn đến kết luận mang tính phiến diện, một chìu, không thể
phản ánh đúng bản chất của SV, HT .
- Quan điểm toàn diện là khi xem xét các sự vật hiện tượng, phải xem xét ở tất cả các mặt, các
yếu tố làm nên các sự vật, hiện tượng, kể cả khâu trung gian, gián tiếp. Nghiên cứu cơ sở triết
học của quan điểm toàn diện có một vai trò vô cùng quan trọng giúp chúng ta đánh giá đúng vị
trí, vai trò của sự vật, hiện tượng.
- Phải đặt các mlh vào từng thời gian, không gian cụ thể để xem xét. Tránh phiến diện, cào
bằng.
- Trong hoạt động, phải sử dụng đồng bộ nhiều giải pháp, lực lượng khác nhau. Một mlh có
nhiều nguyên nhân khác nhau. Thế nên càng xem xét nhiều các mlh thì sẽ có nhiều nguyên
nhân khác nhau -> có nhiều giải pháp tương thích.
- Đòi hỏi chúng ta nhận thức về sự vật trong mối liên hệ qua lại giữa các bộ phận, giữa các yếu
tố, giữa các mặt của chính sự vật và trong sự tác động qua lại giữa sự vật đó với các sự vật
khác, kể cả mối liên hệ trực tiếp và mối liên hệ gián tiếp. Chỉ trên cơ sở đó mới có thể nhận
thức đúng về sự vật. Chẳng hạn, muốn nhận thức đúng và đầy đủ tri thức của khoa học triết
học, chúng ta còn phải tìm ra mối liên hệ của tri thức triết học với tri thức khoa học khác, với
tri thức cuộc sống và ngược lại, vì tri thức triết học được khái quát từ tri thức của các khoa học
khác và hoạt động của con người, nhất là tri thức chuyên môn được chúng ta lĩnh hội.
- Thế nên, trong nhận thức khi xem xét, đánh giá SV, HT thì phải xem xét tất cả các mặt, tất cả
các mối liên hệ của nó, xem xét càng nhiều mlh chừng nào thì sự đánh giá sẽ càng chính sác
chừng đó.
- Thí dụ: khi đánh giá về năng lực của 1 cán bộ chúng ta phải xem xét nhiều mặt, năng lực, tài,
đức, ý thức trách nhiệm, kỹ năng phối hợp trong quá trình thực hiện công việc... để giao việc.
Chứ không thể chỉ nhìn vào tài năng.
- Đồng thời, quan điểm toàn diện đòi hỏi chúng ta phải biết phân biệt các mối liên hệ, phải biết
chú ý đến các mối liên hệ bên trong, mối liên hệ bản chất, mối liên hệ chủ yếu, mối liên hệ tất
nhiên ... để hiểu rõ bản chất của sự vật và có phương pháp tác động phù hợp nhằm đem lại
hiệu quả cao nhất trong sự phát triển của bản thân. Đương nhiên, trong nhận thức và hành
động, chúng ta cần lưu ý tới sự chuyển hoá lẫn nhau giữa các mối liên hệ ở những điều kiện
xác định. Trong quan hệ giữa con người với con người, chúng ta phải biết ứng xử sao cho phù
hợp với từng con người. Ngay cả quan hệ với một con người nhất định ở những không gian
khác nhau hoặc thời gian khác nhau, chúng ta cũng phải có cách giao tiếp, cách quan hệ phù
hợp như ông cha đã kết luận: “đối nhân xử thế”.
- Trong hoạt động thực tế, theo quan điểm toàn diện, trong 20 năm đổi mới Đảng ta không
những phải chú ý tới những mối liên hệ nội tại của nó mà còn phải chú ý tới những mối liên hệ
của sự vật ấy với các sự vật khác. Đồng thời chúng ta phải biết sử dụng đồng bộ các biện pháp,
các phương tiện khác nhau để tác động nhằm đem lại hiệu quả cao nhất. Để thực hiện mục tiêu
: “dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh”, một mặt chúng ta phải phát
huy nội lực của đất nước ta; mặt khác phải biết tranh thủ thời cơ, vượt qua thử thách do xu
hướng quốc tế hoá mọi lĩnh vực của đời sống xã hội và toàn cầu hoá kinh tế đưa lại.
- Quan điểm toàn diện còn có ý nghĩa trong việc chống chủ nghĩa chiết trung mà đặc trưng của
nó là nhân danh quan điểm toàn diện để kết hợp một cách vô nguyên tắc những mặt khác nhau
mà thực chất là không thể kết hợp với nhau được. Trong mối liên hệ qua lại giữa sự vật đó với
các sự vật khác (kể cả trực tiếp và gián tiếp).
=> Mối liên hệ đa dạng, phong phú nên khi xem xét, đánh giá SV, HT phải đặt nó vào trong
mlh.
* Quan điểm lịch sử cụ thể:
- Quan điểm này cho rằng mọi sự vật, hiện tượng của thế giới đều tồn tại, vận động và phát
triển trong những điều kiện thời gian và không gian cụ thể, xác định, những điều kiện này sẽ
có ảnh hưởng trực tiếp tới tính chất, đặc điểm của sự vật. Cùng một sự vật nhưng nếu tồn tại
trong những điều kiện không gian và thời gian cụ thể khác nhau thì tính chất, đặc điểm của nó
sẽ khác nhau, thậm chí có thể làm thay đổi hoàn toàn bản chất của sự vật.
- Trong nhận thức và thực tiễn cần phải xem xét sự vật trong các mối quan hệ và tình huống
xác định, các giai đoạn vận động, phát triển xác định; cũng tức là: khi nhận thức và xử lý các
tình huống thực tiễn cần phải tránh quan niệm chung chung trừu tượng, thiếu tính xác định lịch
sử - cụ thể; tránh chiết trung, nguỵ biện.
- Đòi hỏi chúng ta khi nhận thức về sự vật và tác động vào sự vật phải chú ý điều kiện, hoàn
cảnh lịch sử - cụ thể, môi trường cụ thể trong đó sự vật sinh ra tồn tại và phát triển. Một luận
điểm nào đó là luận điểm khoa học trong điều kiện này nhưng sẽ không phải là luận điểm khoa
học trong điều kiện khác. Chẳng hạn, thường thường trong các định luật của hoá học bao giờ
cũng có hai điều kiện: nhiệt độ và áp suất xác định. Nếu vượt khỏi những điều kiện đó định
luật sẽ không còn đúng nữa. Trong lịch sử triết học khi xem xét các hệ thống triết học bao giờ
chúng ta cũng xem xét hoàn cảnh ra đời và phát triển của các hệ thống đó .
- Khi vận dụng quan điểm này cần phải đảm bảo các yêu cầu sau:
+ Khi nhận thức về sự vật và tác động vào sự vật phải chú ý điều kiện, hoàn cảnh lịch sử - cụ
thể, môi trường cụ thể trong đó sự vật sinh ra, tồn tại và phát triển.
+ Khi nghiên cứu một lý luận khoa học nào đó cần phải phân tích hoàn cảnh ra đời và phát
triển của lý luận đó.
+ Khi vận dụng một lý luận nào đó vào thực tiễn cũng cần phải tính đến những điều kiện, hoàn
cảnh cụ thể của nơi đó. Đồng thời cần phải có những bổ sung, điều chỉnh cho phù hợp với tình
hình thực tiễn để đạt được hiệu quả tốt nhất.
==> Quan điểm toàn diện phải đi liền với lịch sử cụ thể. Trong không gian nào, thời gian nào
thì mối liên hệ nào là cơ bản và quan trọng nhất. Nếu không tuân theo thì sẽ dễ rơi vào tình
trạng cào bằng, phiến diện. Trong hoạt động Quan điểm toàn diện lịch sử sử cụ thể yêu cầu
chúng ta sử dụng đồng bộ nhiều giải pháp, nhiều lực lượng khác nhau, chứ không có 1 giải
pháp nào là tối ưu, là tuyệt đối đúng, 1 giải pháp không thể giải quyết được triệt để vấn đề.
Trong hoạt động thực tiễn, bất cứ vấn đề nào được đặt ra để giải quyết thì cũng cần phải xây
dựng nhiều giải pháp khác nhau. Muốn đề ra giải pháp thì phải tìm hiểu được nguyên nhân, mà
nguyên nhân trong triết học là phạm trù chỉ mlh giữa các SV, HT để đưa ra những biến đổi
nhất định. Mà SV, HT vốn dĩ tồn tại trong nhiều mối liên hệ khác nhau -> có nhiều nguyên
nhân ( một vấn đề bao giờ cũng có nhiều nguyên nhân) -> xem xét càng nhiều mlh chừng nào
thì sẽ có nhiều nguyên nhân chừng đó. Mà mỗi nguyên nhân thì sẽ xây dựng một giải pháp
tương thích.
- Thí dụ: tại sao học yếu?
+ Đi tìm nguyên nhân: đi làm thêm làm sao nhãn việc học chứ kh phải do không có năng lực;
năng lực tốt nhưng không có đam mê. ...
=> Mỗi mlh thì sẽ có nguyên nhân khác nhau, muốn cải tạo SV, HT thì sẽ xây dựng giải pháp
tương thích với nguyên nhân đó. Trong quá trình hoạt động, để giải quyết hiệu quả các vấn đề
đặt ra thì chúng ta phải sử dụng đồng bộ nhiều giải pháp, sự đồng bộ của các giải pháp càng
cao thì hiệu quả hoạt động càng cao.
 Nguyên lý mối quan hệ phát triển của SV, HT trong thế giới.
- Phát triển là là quá trình vận động từ thấp đến cao, từ đơn giản đến phức tạp, từ chưa hoàn
thiện đến hoàn thiện của SV, HT trong thế giới.
- Không ai tự nhiên sinh ra mà hoàn thiện được, nó phải trải qua một quá trình rèn luyện, trau
dồi, điều chỉnh không ngừng để trở nên hoàn thiện hơn.
- Theo quan điểm biện chứng, Triết học MacLennin cho rằng mọi SV, HT luôn luôn tồn tại
trong các mlh, nhưng các SV, HT luôn vận động, không có SV, HT nào đứng im và quá trình
vận động của các SV, HT trong thế giới sẽ làm cho thế giới phát triển.
- Thí dụ:
+ Hoàn thiện về mặt tri thức từ cấp 1, cấp 2, cấp 3 đến đại học...
+ Trẻ em tập lật, tập bò, tập đứng, tập đi...
- Phát triển là một trường hợp đặt biệt của sự vận động: nảy sinh sự khác nhau về chất, từ đó
các SV, HT phát triển phức tạp hơn về phương thức tồn tại, cơ cấu tổ chức,=> SV, HT hoàn
thiện hơn.
- Thí dụ:
+ hạt ====> ( nảy mầm) ====> cây
=> Thay đổi về chất ( bản chất); cây có cách tồn tại phức tạp hơn hạt: hấp thụ ánh sáng, quang
hợp, thụ phấn...
* Nguyên lý về sự phát triển.
- Mọi SV, HT đều vận động, khuynh hướng chung của thế giới là phát triển. Nguồn gốc của sự
vận động, phát triển là quá trình đấu tranh của các mặt đối lập, giải quyết mâu thuẫn bên trong
SV, HT; cách thức phát triển là quá trình chuyển hóa từ những thay đổi về lượng đưa đến sự
thay đổi về chất và ngược lại; phát triển là quá trình vận động quanh co, phức tạp, theo đường
xoáy ốc.
- Mọi SV, HT trong thế giới đều vận động, không có sự vật, hiện tượng nào đứng im bất biến.
Nhưng khuynh hướng chung của thế giới là phát triển.
- Ta cần phân biệt khái niệm “vận động” và khái niệm “phát triển“:
+ Vận động là mọi biến đổi nói chung. Khái niệm này có ngoại diên lớn hơn khái niệm phát
triển.
+ Phát triển là sự vận động có khuynh hướng tạo ra cái mới hợp quy luật. Phát triển gắn liền
với sự ra đời của cái mới này.
=> Nhờ có sự phát triển, cơ cấu tổ chức, phương thức tồn tại và vận động của sự vật cũng như
chức năng vốn có của nó ngày càng hoàn thiện hơn. Như thế, phát triển là một trường hợp đặc
biệt của sự vận động.
- Nguồn gốc của sự phát triển là quá trình đấu tranh của các mặt đối lập để giải quyết mâu
thuẫn ở bên trong SV, HT để làm thay đổi về chất. Mọi SV, HT đều chứa đựng các mặt đối lập
để tạo thành mâu thuẫn, khi mà mâu thuẫn trở nên gay gắt thì sẽ giải quyết mâu thuẫn, sẽ làm
cho các mặt đối lập chuyển hóa cho nhau, làm cho sự vật vận động, phát triển A thành A’ .
- Cách thức của sự phát triển là quá trình chuyển hóa từ những thay đổi về lượng dẫn đến sự
thay đổi về chất và ngược lại. Muốn có sự phát triển thì phải có quá trình tích lũy về lượng,
quá trình tích lũy về lượng sẽ làm cho lượng vận động, biến đổi từ từ và cuối cùng sẽ phá vỡ
sự cân bằng giữa chất và lượng => làm chất thay đổi. Khi chất thay đổi thì A thành A’.
- Phát triển là quá trình vận động quanh co, phức tạp, theo hình soắn ốc không bao giờ diễn ra
theo một đường thẳng tắp. Đường soắn ốc này là một quá trình phủ định nối tiếp nhau thông
qua các chu kỳ.
- Phát triển cũng là quá trình phát sinh và giải quyết mâu thuẫn khách quan vốn có của sự vật,
hiện tượng. Đó là quá trình thống nhất giữa phủ định các nhân tố tiêu cực và kế thừa, nâng cao
nhân tố tích cực từ sự vật, hiện tượng cũ trong hình thái của sự vật, hiện tượng mới.
- Các quá trình phát triển đển có tính khách quan, tính phổ biến và tính đa dạng, phong phú.
+ Tính khách quan của sự phát triển được biểu hiện trong nguồn gốc của sự vận động và phát
triển. Do tự bản thân SV, HT phát triển, không phụ thuộc vào ý thức chủ quan. Đó là quá trình
bắt nguồn từ bản thân của sự vật, hiện tượng, là sự thống nhất và đấu tranh giữa các mặt đối
lập thuộc mỗi sự vật, hiện tượng. Tính chất này là thuộc tính tất yếu không phụ thuộc vào ý
thức con người. Nguồn gốc của sự phát triển nằm ngày trong chính bản thân của sự vật, hiện
tượng. Phát triển là quá trình tự thân (tự nó, tự mình) của mọi sự vật, hiện tượng.
Thí dụ: hạt lúa, hạt đậu khi có nước, đất, chất dinh dưỡng, ánh sáng đầy đủ dù không có
con người nhưng nó vẫn phát triển.
+ Tính phổ biến của sự phát triển dược thể hiện ở các quá trình phát triển diễn ra trong một
lĩnh vực tự nhiên, xã hội và tư duy; trong tất cả mọi sự vật và hiện tượng trong quá trình, mọi
giai đoạn của sự vật hiện tượng đó. Phát triển diễn ra ở mọi lĩnh vực của tự nhiên, xã hội và tư
duy từ hiện thực khách quan đến những khái niệm, những phạm trù phản ánh hiện thực ấy. Và
nó còn được thể hiện trong mọi sự vật, mọi quá trình ở bất cứ sự vật hiện tượng nào của thế
giới khách quan. Trong một quá trình biến đổi đã bao hàm khả năng dẫn đến sự ra đời của cái
mới, phù hợp với quy luật, không có sự vật, hiện tượng nào là đứng im, luôn luôn duy trì một
trạng thái cố định trong suốt quãng đời tồn tại của nó.
Trong tự nhiên : Tăng cường khả năng thích nghi cơ thể trước sự biến đổi của môi
trường
Thí dụ: Người ở Miền Nam ra công tác làm việc ở Bắc thời gian đầu với khí hậu thay đổi họ
sẽ khó chịu nhưng dần họ quen và thích nghi.
Trong xã hội: Nâng cao năng lực chinh phục tự nhiên, cải tạo xã hội, tiến tới mức độ
ngày càng cao trong sự nghiệp giải phóng con người.
Thí dụ: Mức sống của dân cư xã hội sau lúc nào cũng cao hơn so với xã hội trước.
Trong tư duy : Khả năng nhận thức ngày càng sâu sắc, đầy đủ, đúng đắn hơn với tự
nhiên và xã hội.
Thí dụ: Trình độ hiểu biết của con người ngày càng cao so với trước đây.
+ Tính da dang, phong phú của sự phát triển được thể hiện ở chố: phát triển là khuynh hướng
phát triển của sự vật hiện tượng song mỗi sự vật hiện tượng lại có quá trình phát triên không
giống nhau, tôn tại ở những thời gian, không gian khác nhau, chịu những ảnh hưởng khác nhau
và sự tác động đó có thể làm thay đổi chiều hướng quá trình phát triển của sự vật, đôi khi có
thể làm sự vật, hiện tượng thụt lùi tạm thời.
+ Tính kế thừa của sự phát triển: Sự phát triển tạo ra cái mới phải trên cơ sở chọn lọc, kế thừa,
giữ lại, cải tạo ít nhiều những bộ phận, đặc điểm, thuộc tính… còn hợp lý của cái cũ; đồng thời
cũng đào thải, loại bỏ những gì tiêu cực, lạc hậu, không tích hợp của cái cũ. Để phát triển
thành cái mới, cái mới này lại phát triển thành cái mới khác trên cơ sở kế thừa như vậy. Đó là
quá trình phủ định biện chứng. Là sự thay đổi về lượng dẫn đến sự thay đổi về chất. Quá trình
này diễn ra vô cùng, vô tận theo hình xoáy ốc.
Thí dụ: Ngày nay trẻ em phát triển nhanh hơn cả về thể chất lẫn trí tuệ so với trẻ em ở
các thế hệ trước do chúng được thừa hưởng những thành quả, những điều kiện thuận lợi mà xã
hội mang lại
* Quan điểm phát triển.
- Đây cũng là hệ thống các phương pháp biện chứng trong nhận thức, đánh giá SV, HT.
- Quan điểm phát triển yêu cầu:
+ Thứ nhất, trong nhận thức khi xem xét, đánh giá SV, HT thì phải đặt SV, HT đó trong quá
trình vận động, phát triển của nó, phải thấy được khuynh hướng phát triển của nó. Tức là mình
đánh giá SV, HT không phải chỉ thấy SV, HT như cái nó đang tồn tại, cái nó đang hiện hữu,
mà còn phải nhìn ra được khuynh hướng vận động phát triển của nó.
* Khi nghiên cứu, cần đặt đối tượng vào sự vận động, phát hiện xu hướng biến đổi của nó để
không chỉ nhận thức nó ở trạng thái hiện tại, mà còn dự báo được khuynh hướng phát triển
trong tương lai.
Thí dụ: khi đầu tư dự án thì phải xem xét tình hình hiện tại của nó đồng thời dự đoán về triển
vọng tương lai nhằm đạt được lợi nhuận lâu dài.

* Thí dụ: khi được tuyển dụng vào một cơ quan, đơn vị thì người ta đánh giá triển vọng, tức là
có khả năng để đào tạo, khả năng để tiến bộ có thể đảm đương được công việc. Chính vì thế
nên cần phải tránh rơi vào 2 thái cực: che giấu những hạn chế; không tiếp thu sự góp ý của
những người xung quanh.
* Cần nhận thức được rằng, phát triển là quá trình trải qua nhiều giai đoạn, mỗi giai đoạn có
đặc điểm tính chất, hình thức khác nhau, là quá trình tích lũy về lượng, thay đổi lâu dài về
chất, là quá trình phủ định cái cũ nên cần tìm hình thức, phương pháp tác động phù hợp để
thúc đẩy hoặc kìm hãm sự phát triển đó.
Thí dụ: Hạt thóc phải gieo trong chậu ẩm để nảy mầm thành mạ, rồi mới đưa ruộng mạ. Đến
khi mạ đủ lớn. ta mới đem cây lúa lên đồng chính để chăm sóc đến khi thu hoạch.
+ Từ đó tránh những tư tưởng định kiến, bảo thủ, đánh giá SV, HT trong 1 giai đoạn nhất
định trong quá trình tồn tại của SV, HT đó nhưng cứ áp đặt nhận định đó trong suốt quá trình
tồn tại, vận động và phát triển của SV, HT.
* Thí dụ: một người nào đó trong quá khứ đã từng mắc sai lầm, nhưng họ đã sửa sai, tuy
nhiên người khác vẫn nhìn nhận họ là 1 người xấu, cứ lôi chuyện cũ ra để chì chiết. Thế là
đang đi ngược lại với quan điểm biện chứng.
- Thứ hai, trong hoạt động phải ủng hộ và tạo điều kiện để cái mới ra đời và phát triển. Cái
mới trong Triết học là cái tiến bộ, tức là cái phù hợp với quy luật phát triển. Có thái độ quyết
tâm, tích cực, ủng hộ cái mới, tạo điều kiện phát triển.
* Thí dụ: trong hoạt động giáo dục, phương pháp mới sẽ tiến bộ hơn phương pháp cũ, bao giờ
thầy cô cũng sẽ áp dụng cả phương pháp cũ và phương pháp mới. Là học sinh thì chủ động tìm
hiểu, học tập, chuẩn bị theo những bài mà thầy cô đã giao. Phương pháp mới muốn có hiệu
quả thì bản thân người giáo viên và cả học sinh đều phải hưởng ứng. Nếu không hưởng ứng
theo phương pháp mới này thì sẽ làm cho hiệu quả của phương pháp không được phát huy
* Thí dụ: việc thảo luận nhóm, thuyết trình của sinh viên có những bạn không nge, không làm,
không quan tâm -> họ sẽ khônh hỉu bài. Còn nếu sinh viên lên thuyết trình, tập trung, chủ động
lắng nge tương tác -> rèn luyện sự tự tin, tư duy phản biện -> thuyết trình tốt hơn -> vượt qua
giới hạn của bản thân để phát triển tốt hơn.
* Trong quá trình thay thế đối tượng cũ bằng đối tượng mới phải biết kế thừa các yếu tố tích
cực từ đối tượng cũ và phát triển sáng tạo chúng trong điều kiện mới. Tóm lại, muốn nắm
được bản chất, khuynh hướng phát triển của đối tượng nghiên cứu cần “phải xét sự vật trong
sự phát triển, trong “sự tự vận động”… trong sự biến đổi của nó”.
Thí dụ: Xã hội mới ra đời từ xã hội cũ và có tiếp thu một số điểm tích cực từ xã hội cũ để phát
huy một cách hợp lý.
 Ý nghĩa phương pháp luận
Từ việc nghiên cứu nguyên lý về sự phát triển của các sự vật, hiện tượng, chúng ta rút ra quan
điểm phát triển trong nhận thức và hoạt động thực tiễn. Quan điển này đòi hỏi:
Thứ nhất: Khi xem xét các sự vật, hiện tượng, ta phải đặt nó trong sự vận động và phát triển.
– Ta cần phải nắm được sự vật không chỉ như là cái nó đang có, đang hiện hữu trước mắt, mà
còn phải nắm được khuynh hướng phát triển tương lai, khả năng chuyển hóa của nó. Bằng tư
duy khoa học, ta phải làm sáng tỏ được xu hướng chủ đạo của tất cả những biến đổi khác nhau
đó.
– Quan điểm phát triển hoàn toàn đối lập với quan điểm bảo thủ, trì trệ, định kiến. Tuyệt đối
hóa một nhận thức nào đó về sự vật có được trong một hoàn cảnh lịch sử nhất định, xem đó là
nhận thức duy nhất đúng về toàn bộ sự vật trong quá trình phát triển tiếp theo của nó sẽ đưa
chúng ta đến sai lầm nghiêm trọng.
Thứ hai: Không dao động trước những quanh co, phức tạp của sự phát triển trong thực tiễn.
Ta cần phải xác quyết rằng các sự vật, hiện tượng phát triển theo một quá trình biện chứng đầy
mâu thuẫn. Do đó ta phải công nhận tính quanh co, phức tạp của quá trình phát triển như một
hiện tượng phổ biến, đương nhiên.
Quan điểm phát triển đòi hỏi phải có sự nhìn nhận, đánh giá khách quan đối với mỗi bước thụt
lùi tương đối của sự vật, hiện tượng. Bi quan về sự thụt lùi tương đối sẽ khiến chúng ta gặp
phải những sai lầm tai hại.
Thứ ba: Phải chủ động tìm ra phương pháp thúc đẩy sự phát triển của sự vật, hiện tượng.
– Ta phải tích cực, chủ động nghiên cứu, tìm ra những mâu thuẫn trong mỗi sự vật, hiện tượng.
Từ đó, xác định biện pháp phù hợp giải quyết mâu thuẫn để thúc đẩy sự vật, hiện tượng phát
triển.
Việc xác định những biện pháp cũng cần căn cứ vào từng giai đoạn, hoàn cảnh cụ thể của sự
vật, hiện tượng. Vì sự phát triển diễn ra theo nhiều giai đoạn, từ thấp đến cao, từ kém hoàn
thiện đến hoàn thiện hơn.
– Vì trong sự phát triển có sự kế thừa, ta phải chủ động phát hiện, cổ vũ cái mới phù hợp, tìm
cách thúc đẩy để cái mới đó chiếm vai trò chủ đạo.
Ta cũng phải tìm cách kế thừa những bộ phận, thuộc tính… còn hợp lý của cái cũ, đồng thời
kiên quyết loại bỏ những gì thuộc cái cũ mà lạc hậu, cản trở sự phát triển.
Thứ tư: Phải tích cực học hỏi, tích lũy kiến thức khoa học và kiến thức thực tiễn.
Tuyệt đối tránh bảo thủ, trì trệ trong tư duy và hành động.
– Sự phát triển được thực hiện bằng con đường tích lũy về lượng để tạo ra sự thay đổi về chất.
Do đó, chúng ta phải luôn nỗ lực, chăm chỉ lao động để làm cho sự vật, hiện tượng tích lũy đủ
về lượng rồi dẫn đến sự thay đổi về chất.
 Phòng tránh bệnh phiến diện, bảo thủ, trì trệ
- Trông chờ, ỷ lại, trì trệ, thụ động trước hoàn cảnh, không phát huy tính năng động của ý
chí
Ngược lại với bệnh chủ quan duy ý chí là bệnh trông chờ, ỷ lại, trì trệ, thụ động trong
nhận thức và hoạt động thực tiễn, không phát huy được tính năng động của ý chí con người.
Các trường phái quyết định luận về hoàn cảnh thường rơi vào biểu hiện này. Nó triệt tiêu tính
năng động của ý chí con người, không chủ động ứng phó hoặc thích nghi trước hoàn cảnh thay
đổi, thụ động trước biến đổi của tự nhiên và xã hội. Nó biến con người trở thành tự ti, bất lực
trước hoàn cảnh, không có ý thức nắm bắt quy luật khách quan và tổ chức lãnh đạo, quản lý
phù hợp với quy luật khách quan, thiếu bản lĩnh hóa giải các nguy cơ, thách thức và tranh thủ
các cơ hội phát triển.
- Tình trạng bảo thủ, trì trệ, không chấp nhận ý kiến mới, những mô hình mới, những cách làm
mới.
Trên thực tế, tư duy bảo thủ thường hướng chủ thể nhận thức tới việc muốn duy trì, bảo
vệ những cái cũ, cái đã lỗi thời, lạc hậu; Kỳ thị cái mới, không chịu tiếp thu cái mới, cái tiến
bộ, thậm chí là chống lại cái mới trên cả phương diện nhận thức lẫn hành động. Tư duy bảo
thủ đem lại hậu quả rất lớn đối với tập thể khi họ đem tư duy, nhận thức bảo thủ đó áp đặt cho
các cá nhân và tập thể, tụt hậu, kéo lùi sự phát triển của đơn vị; không thích ứng được với
những cái mới. Bóp nghẹt hoặc ngăn cản sự sáng tạo của đội ngũ dưới quyền, gây tâm lý
hoang mang, chán nản, mất động lực phấn đấu. Hài lòng với cái đã có, an phận, thủ thường =>
Hậu quả là không phát triển được hiệu quả hoạt động của đơn vị, tình trạng trì trệ kéo dài.
- Phiến diện khi nhìn nhận và giải quyết các vấn đề
Phiến diện là nhìn nhận và giải quyết các vấn đề một cách đơn tuyến, không bao quát
tất cả các mặt của một vấn đề hoặc mối quan hệ giữa các vấn đề tương tác với nhau, từ đó tìm
ra mối quan hệ cơ bản, chủ yếu, chi phối đến bản chất của sự vật, hiện tượng. Đối lập với
phiến diện chính là quan điểm toàn diện và hệ thống, nhìn nhận và giải quyết từng vấn đề
trong các mối quan hệ phổ biến, bao gồm cả mặt “trục ngang” (toàn diện) và “trục dọc” (hệ
thống). Sai lầm từ căn bệnh phiến diện là không xem xét tất cả các mặt, các mối liên hệ của
các sự vật, hiện tượng hoặc các yếu tố cấu thành một sự vật, hiện tượng để phản ánh được mặt
bản chất, cốt lõi, chi phối đến toàn bộ quá trình vận động và phát triển.
- Nguyên nhân:
+ Do non kém về trình độ lý luận nên không có được tư duy biện chứng ở mức độ đủ làm cơ
sở phương pháp luận cho ban hành các quyết định cũng như tổ chức thực hiện. Do đó, các
quyết định nhiều khi chỉ đề cập được một mặt nào đó mà không có tính toàn diện hoặc không
tìm được trọng tâm, trọng điểm để can thiệp tạo nên các cú hích có ý nghĩa kéo các bộ phận
khác cùng chuyển động.
+ Do sai lầm trong nhận thức vai trò của lý luận, nhất là coi thường lý luận, nên không thường
xuyên chủ động nâng cao năng lực tư duy lý luận, tư duy khoa học, bao gồm cả xem xét lý
luận trong thực tiễn.
+ Do hạn chế trong sáng tạo các phương pháp, cách thức, công cụ để vận dụng lý luận vào
thực tiễn, vì vậy, các nguyên tắc phương pháp luận chỉ hiểu chung chung, trừu tượng, không
thể vận dụng vào từng trường hợp cụ thể, hoàn cảnh cụ thể.
+ Về mặt lợi ích: Trong điều kiện kinh tế thị trường, với nhiều trường hợp, chủ quan duy ý chí
không hẳn do nhận thức chi phối mà do lợi ích cá nhân, lợi ích nhóm tạo nên. Ở đây, nhiều
người nhận thức lý luận rất tốt, nhưng hành vi thực tiễn lại luôn bị lợi ích cá nhân, cục bộ,
nhóm chi phối, làm biến dạng các chủ trương, chính sách đúng đắn. Đặc biệt, nếu thiếu cơ chế
kiểm soát, thì các biểu hiện chủ quan, tùy tiện trong hoạt động lãnh đạo, quản lý, không tuân
quy luật khách quan, càng dễ nảy nở và phát triển. Bệnh chủ quan duy ý chí trên phương diện
này thường đồng nghĩa với “nói một đằng, làm một nẻo”.
- Giải pháp phòng ngừa, khắc phục:
Muốn chống giáo điều, trì trệ bảo thủ trong hành động, ta phải đổi mới tư duy. Đổi mới
được tư duy thì việc dám nghĩ dám làm, dám chịu trách nhiệm như một hệ quả, kết quả, động
lực tất yếu bên trong. Tất nhiên cũng cần đến môi trường để thực hiện
* Một là, nâng cao nhận thức lý luận thông qua đổi mới phương thức đào tạo, huấn luyện cán
bộ theo phương châm lý luận gắn với thực tiễn, lấy thực tiễn kiểm chứng lý luận
Cách thức đào tạo cán bộ bấy lâu nay chủ yếu truyền thụ kiến thức một chiều, ít chú ý đối
thoại giữa người dạy với người học, thiếu các chương trình ngoại khóahoặc thực tếđúng nghĩa
gắn kết lý luận với thực tiễn. Vì thế, việc học lý luận mang tính khuôn sáo, rất hạn chế khi áp
dụng lý luận vào thực tiễn. Để nâng cao nhận thức lý luận của cán bộ, đảng viên, vấn đề cốt
yếu vẫn là tăng cường đào tạo lý luận chính trị. Tuy nhiên, mô hình đào tạo phải được đổi mới
theo hướng sau đây:
- Xây dựng khung chương trình lý luận hướng nhiều đến thực tiễn, nhất là giải quyết các vấn
đề thực tiễn bức xúc đang đặt ra. Xác định đúng“chuẩn đầu ra”của người học đối với mỗi chức
danh, trong đó, đối với cán bộ lãnh đạo, quản lý phải lấy mục tiêu tăng cường năng lực tư duy
lý luận, rèn luyện các kỹ năng lãnh đạo, quản lý và tu dưỡng tính đảng làm yêu cầu hàng đầu.
- Phương pháp đào tạophải được đổi mới theo hướng thật sự lấy người học làm trung tâm. Đối
với học tập lý luận chính trị, vấn đề là làm sao để người học sau khi được nâng cao nhận thức
lý luận có thể tự phát hiện các vấn đềvàtự giải quyết các vấn đề trong lãnh đạo, quản lý do
công tác của mình đòi hỏi. Muốn vậy, trong học tập, phải dành nhiều thời gian cho trao đổi,
thảo luận các vấn đề một cách đến nơi, đến chốn.
- Cải tiến các chương trình ngoại khóa và thực tếđể đảm bảo tính thiết thực. Mỗi chuyến thực
tế là một lần đối chiếu lý luận với thực tiễn, lấy lý luận để soi vào mỗi việc làm cụ thể, lấy
thực tiễn để kiểm chứng lại lý luận.
* Hai là, cải tạo môi trường, điều kiện làm phát sinh, tồn tại các căn bệnh này
Các căn bệnh nêu trên có nhiều nguồn gốc phát sinh, bên cạnh nguồn gốc nhận thức - lý luận,
còn có nguồn gốc từ chính môi trường, điều kiện ngoại cảnh. Một nền kinh tế tiểu nông, kinh
tế thị trường sơ khai sẽ sản sinh tư duy kinh nghiệm chủ nghĩa. Phải chuyển sang nền kinh tế
thị trường hiện đại, đầy đủ mới khắc phục được phần nào các căn bệnh đó. Môi trường tự do
ngôn luận, thừa nhận phản biện xã hội thì mới giúp cán bộ nhìn nhận các vấn đề toàn diện,
biện chứng, khắc phục các sai lầm chủ quan duy ý chí. Còn ngược lại, trong môi trường thiếu
tự do, dân chủ, độc thoại, dễ dẫn tới độc quyền chân lý và áp đặt ý chí chủ quan sai lầm của cá
nhân cho tổ chức, của cấp trên đối với cấp dưới. Do đó, muốn khắc phục các căn bệnh này thì
phải đồng thời cải tạo môi trường xã hội bằng đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa, lấy
môi trường công nghiệp hóa, hiện đại hóa để rèn luyện cho cán bộ, đảng viên phải thích ứng,
thoát ly tác phong tiểu nông; bằng dân chủ hóa mọi mặt đời sống xã hội, trước hết tự do về mặt
ngôn luận, đảm bảo cho mỗi quyết sách chính trị luôn được phản biện để tránh những sai lầm.
Môi trường dân chủ, công khai, minh bạch sẽ là cách làm tốt nhất để loại bỏ tệ nạn quan liêu,
xa dân, không quan tâm đến nhu cầu và lợi ích chính đáng của nhân dân, thoát ly thực tiễn.
* Ba là, xây dựng cơ chế và chính sách phòng chống chủ nghĩa cá nhân, lợi ích nhóm trong
hoạt động thực tiễn
Trong điều kiện kinh tế thị trường, các căn bệnh nêu trên còn có nguyên nhân từ chủ nghĩa cá
nhân, lợi ích nhóm. Chính chủ nghĩa cá nhân, lợi ích nhóm, cùng với cơ chế, luật pháp chưa
thật sự hoàn thiện, đã bị một bộ phận cán bộ lợi dụng “công quyền” để đạt “lợi tư”. Những
người này miệng nói vì dân, nhưng hành vi thì lại theo dẫn dắt của lợi ích cá nhân, lợi ích
nhóm. Nó làm biến dạng các nguyên tắc phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật biện chứng.
Phòng ngừa và đấu tranh với các căn bệnh này không chỉ bằng nâng cao nhận thức, mà quan
trọng hơn là xây dựng cơ chế, luật pháp đủ mạnh và chặt chẽ để cán bộ, công chức không thể
lợi dụng chức quyền để mưu lợi. Đó là hệ thống cơ chế và luật pháp buộc phải minh bạch mọi
thông tin về chủ trương, chính sách gồm cả khi ở dạng dự thảovà khi tổ chức thực hiện,đặc
biệt đối với các vấn đề tổ chức cán bộ và phân bổ nguồn lực tài chính, đất đai. Đó là cơ chế
buộc cán bộ chấp nhận cạnh tranh, bỏ phiếu tín nhiệm và bất tín nhiệm, mỗi quyết sách phải
lấy ý kiến rộng rãi của chuyên gia và nhân dân. Đó là cơ chế thừa nhận vai trò của các nhóm
áp lựcđể mỗi cán bộ lãnh đạo khi quyết định bất cứ vấn đề gì phải tính toán đầy đủ quyền và
lợi ích chính đáng của các nhóm dân cư trong xã hội mà chính sách ấy sẽ tác động sau khi ban
hành. Đó là cơ chế tự do ngôn luận để đặt mọi hành vi của cán bộ trong sự giám sát của báo
chí, của nhân dân, sử dụng báo chí trở thành một kênh giám sát và phản biện xã hội.
* Bốn là, thực hiện nghiêm túc tự phê bình và phê bình
Đối với đảng cộng sản cầm quyền, tự phê bình và phê bình là một cách thức để hạn chế các
căn bệnh này. Hồ Chí Minh từng nhấn mạnh, phê bình là để giúp nhau sửa chữa khuyết điểm,
phải tiến hành như rửa mặt hàng ngày. Các căn bệnh nêu trên rất dễ vấp phải trong công việc
hàng ngày, nếu tăng cường phê bình và tự phê bình trên tinh thần đồng chí, giúp nhau tiến bộ,
sẽ có ý nghĩa nhất định cho phòng ngừa và sửa chữa. Trong mối quan hệ giữa tự phê bình và
phê bình, nếu đạt được tự phê bình thật sự thì đó là người đạt được trình độ giác ngộ cao, luôn
soi xét các sai lầm và tự điều chỉnh, sửa chữa, nhất là đứng từ giác độ đạo đức cách mạng. Còn
phê bình của đồng chí giúp nhìn nhận các sai lầm mà tự bản thân mỗi người không thể nhận
thức được. Tất nhiên, trong phê bình phải chú ý là phê bình việc chứ không phải phê bình
người, phê bình với tinh thần xây dựng chứ không “bới lông tìm vết” hay lợi dụng phê bình để
hạ bệ lẫn nhau.
* Năm là, xây dựng hệ thống phản biện chính sách và kiểm soát quyền lực có hiệu quả
Trong điều kiện dân chủ hóa ngày càng mở rộng và nhà nước pháp quyền XHCN dần định
hình thì xây dựng hệ thống phản biện xã hội và kiểm soát quyền lực có ý nghĩa rất lớn trong
phòng ngừa và khắc phục các căn bệnh này. Không có mô hình quản lý nào là hoàn hảo,
nhưng mô hình được xem là tối ưu hơn khi các sai lầm còn mới ở dạng khả năng đã có thể bị
phát biện và nhờ đó khắc phục. Phản biện xã hội là cách thức góp phần giúp cho các sai lầm
khi mới “thai nghén” có thể được phát hiện và phòng ngừa. Hệ thống phản biện xã hội đảm
bảo cho mỗi quyết định trước khi ban hành phải chấp nhận sự cọ xát với các ý kiến trái chiều,
từ đó phát hiện ra các sai lầm, khuyết điểm khi ở dạng dự thảo, hạn chế được sai lầm ở khâu tổ
chức thực hiện và vì thế tránh được tổn thất. Trong điều kiện lợi ích nhóm phức tạp thì phản
biện xã hội là một cách thức để hóa giải các áp lực của nhóm lợi ích. Hệ thống kiểm soát
quyền lực có hiệu quả nhằm làm cho quyền lực không bị tha hóa, đảm bảo mỗi văn bản pháp
luật được ban hành đều thể hiện được ý chí của nhân dân, mỗi quyết định chính trị không rơi
vào chủ quan duy ý chí. Kiểm soát quyền lực được thực hiện bao gồm cả kiểm soát bên trong
hệ thống chính trị và kiểm soát từ ngoài xã hội đối với nhà nước. Mở rộng các hình thức dân
chủ trực tiếp có ý nghĩa rất quan trọng nhằm đảm bảo cho giám sát xã hội và kiểm soát xã hội,
nhờ đó hạn chế các nhận thức và hành vi sai lầm của cán bộ, công chức.
 Liên hệ bản thân.
- Để phát triển bản thân một cách hiệu quả nhất cần hiểu được bản thân mình có những điểm
mạnh, điểm yếu nào. Tôi sẽ nhận thức và phát triển những kỹ năng cần thiết để phát huy tối đa
những điểm mạnh và cải thiện những điểm hạn chế, chưa tốt của bản thân. Là một trong những
thế hệ trẻ của đất nước thì việc học ngoại ngữ là vô vùng cần thiết đối với tôi. Nhà đầu tư
huyền thoại Warren Buffett từng nói: Khoản đầu tư tốt nhất mà bạn có thể thực hiện là đầu tư
cho bản thân. Đây là khoản đầu tư không bị tính thuế và ngay cả lạm phát cũng không thể làm
suy giảm giá trị của nó.
- Muốn thành công khi làm bất cứ việc gì, bạn cần có các mục tiêu cụ thể. Mỗi người có một
quan điểm khác nhau về thành công, do đó không thể dựa vào người khác mà phải xác định
được hướng đi của riêng mình.
- Để trở thành người có đầy đủ trình độ tri thức khoa học, tri thức chuyên ngành, có phẩm chất,
lối sống trong sáng, đúng mực, tư cách đạo đức nghề nghiệp, có lý tưởng chính trị xã hội chủ
nghĩa thì tất nhiên, điều quan trọng hơn cả chính là không ngừng trau dồi cho mình một nguồn
kiến thức chuyên ngành thật vững chắc. Tôi sẽ cần chuẩn bị một kế hoạch hoặc một tiến trình
đề án những biện pháp, những hành động cần thiết cho hiện tại và trong tương lai.
- Cần tích cực, chủ động nghiên cứu tìm ra được những mâu thuẫn trong mỗi sự vật, sự việc,
hiện tượng để từ đó xác định được định hướng phát triển và những biện pháp giải quyết phù
hợp.
– Khi xem xét các sự vật, hiện tượng thì cần đặt sự vật hiện tượng đó trong sự vận động và
phát triển. Bởi sự vật không chỉ như là cái mà nó đang có, đang hiện hữu trước mắt mà còn cần
phải nắm được và hiểu rõ được khuynh hướng phát triển, khả năng chuyển hóa của nó.
- Cần phải có sự nhìn nhận, đánh giá khách quan đối với sự vật hiện tượng, không được dao
động trước những quanh co, những phức tạp của sự phát triển ở trong thực tiễn.
– Kế thừa những thuộc tính, những bộ phận còn hợp lý của cái cũ nhưng đồng thời cũng phải
kiên quyết loại quả những cái đã quá lạc hậu cản tở và gây ảnh hưởng đến sự phát triển. Vì
trong phát triển có sự kế thừa do đó cần phải chủ động phát hiện, cổ vũ những cái mới, cái phù
hợp từ đó có thể tìm cách thúc đẩy để phát triển cái mới, để cái mới chiếm đóng vai trò chủ
đạo.

Thực trạng của bản thân em vẫn có một số thói quen làm kìm hãm sự phát triển của bản thân
như thức khuya và sử dụng Internet nhiều nhưng em đã có tích cực nhằm sửa đổi bản thân.
Đối với sự phát triển của ngành và đất nước, em có tập trung tìm hiểu thông tin qua thời sự hay
các trang web uy tín trên mạng. Em nhận thấy định hướng phát triển công nghệ số rất phù hợp
với thời đại khi tài nguyên dần cạn kiệt, khó khăn dịch bệnh kéo dài. Nhận thấy sự phù hợp thì
em phát triển bản thân qua 3 mặt như đã phân tích. Về mặt thể lực, em thường chạy bộ và
tham gia vào hoạt động thể thao của địa phương. Trong thời buổi dịch bệnh, các hoạt động
ngoài trời bị hạn chế thì em ưu tiên việc tập luyện ở nhà. Việc thay thế các thói quen xấu bằng
các việc làm tích cực giúp năng suất học tập và làm việc của em tăng lên so với trước đó. Về
mặt trí lực, khi em tiếp xúc với môi trường đại học mới thì gặp nhiều khó khăn trong việc sắp
xếp thời gian và việc học tập kèm nghiên cứu. Nhưng em đã cân bằng được việc học và các
công việc cá nhân khác. Ngoài việc học tập trên giảng đường, em có tham gia phụ giúp công
việc của gia đình ở bên ngoài để có nhiều kinh nghiệm hơn. Sinh viên trẻ như em luôn mong
muốn được tạo điều kiện làm việc nhiều hơn để có thể phát triển bản thân mình. Về mặt tâm
lực, em có tham gia các phong trào tình nguyện. Điều đó vừa có lợi cho cộng đồng, lại vừa có
lợi cho bản thân em được thỏa mãn đam mê cống hiến và thể hiện cá tính của mình.

You might also like