Professional Documents
Culture Documents
Ythuc 3
Ythuc 3
phản ánh thế giới vật chất khách quan vào bộ óc con người và có sự cải biến và sáng
tạo. Ý thức có mối quan hệ biện chứng với vật chất.
Để hiểu rõ hơn về ý thức ta cần biết được nguồn gốc của ý thức:
Ý thức có hai nguồn gốc là nguồn gốc tự nhiên và nguồn gốc xã hội.
1) Nguồn gốc tự nhiên
(Dựa trên những thành tựu của khoa học tự nhiên, nhất là sinh lý học thần kinh, các
nhà duy vật biện chứng cho rằng, nguồn gốc tự nhiên của ý thức có hai yếu tố không
thể tách rời nhau là bộ óc con người và thế giới bên ngoài tác động lên óc người.)
a) Bộ óc người
-Ý thức là thuộc tính của một dạng vật chất có tổ chức cao là bộ óc người, là chức
năng của bộ óc, là kết quả hoạt động sinh lý thần kinh của bộ óc. Bộ óc càng hoàn
thiện, hoạt động sinh lý thần kinh của bộ óc càng có hiệu quả, ý thức của con người
càng phong phú và sâu sắc. Điều này lý giải tại sao quá trình tiến hóa của loài người
cũng là quá trình phát triển năng lực của nhận thức, của tư duy và tại sao đời sống tinh
thần của con người bị rối loạn khi sinh lý thần kinh của con người không bình thường
do bị tổn thương bộ óc.
b) Sự tác động của thế giới bên ngoài lên bộ óc người
- Trong tự nhiên, mọi đối tượng vật chất (con khỉ, con voi, cái bàn, mặt nước, cái
gương…) đều có thuộc tính chung, phổ biến là phản ánh. Đó là sự tái tạo những đặc
điểm của một hệ thống vật chất này ở hệ thống vật chất khác trong quá trình tác động
qua lại giữa chúng.
(Nói một cách dễ hiểu, phản ánh chính là sự chép lại, chụp lại, kể lại mộtcái gì đó.
Chép lại lời nói ra giấy là sự phản ánh. Chụp một bức ảnh cũng là sự phản ánh.)
(Để có quá trình phản ánh xảy ra, cần có vật tác động và vật nhận tác động.)
- Đương nhiên, bộ óc người cũng có thuộc tính phản ánh. Nhưng phản ánhcủa bộ óc
con người có trình độ cao hơn, phức tạp hơn so với các dạng vật chấtkhác.
(Sau quá trình tiến hóa lâu dài của tự nhiên, con người trở thành sản phẩmcao nhất, thì
thuộc tính phản ánh của óc người cũng hoàn mỹ nhất so với mọi đốitượng khác trong
tự nhiên)
(Do hoàn mỹ nhất như vậy, nên thuộc tính phản ánh của óc người được gọi riêng bằng
phạm trù “ý thức”. Đó là sự phản ánh, sự tác động của thế giới bênngoài vào bộ óc con
người.)
2) Nguồn gốc xã hội
(Để cho ý thức ra đời, nguồn gốc tự nhiên là rất quan trọng, không thể thiếu được,
song chưa đủ. Điều kiện quyết định, trực tiếp và quan trọng nhất cho sự ra đời của ý
thức là những tiền đề, nguồn gốc xã hội. Đó là lao động, tức là Ý thức xã hội và ngôn
ngữ.) (Ý thức là sự phản ánh hiện thực khách quan vào trong bộ óc người thông
qua lao động, ngôn ngữ và các cơ quan xã hội. Theo Ph.Ăng-ghen, lao động và ngôn
ngữ là hai sức kích thích biến đổi bộ não động vật thành bộ não người, biến tâm lý
động vật thành ý thức con người.)
a) Lao động
Lao động là quá trình con người sử dụng công cụ tác động vào giới tự nhiên nhằm
thay đổi giới tự nhiên cho phù hợp với nhu cầu của con người; là quá trình trong đó
bản thân con người đóng vai trò môi giới, điều tiết sự trao đổi vật chất giữa mình với
giới tự nhiên. Đây cũng là qúa trình làm thay đổi cấu trúc cơ thể, đem lại dáng đi thẳng
bằng hai chân, giải phóng hai tay, phát triển khí quan, phát triển bộ não,… của con
người. Trong quá trình lao động, con người tác động vào thế giới khách quan làm cho
thế giới khách quan bộc lộ những thuộc tính, những kết cấu, những quy luật vận động
của nó, biểu hiện thành những hiện tượng nhất định mà con người có thể quan sát
được. Những hiện tượng ấy, thông qua hoạt động của các giác quan, tác động vào bộ
óc người, thông qua hoạt động của bộ não con người, tạo ra khả năng hình thành nên
những tri thức nói riêng và ý thức nói chung.
Ví dụ: Trong tự nhiên, con vật tồn tại nhờ những vật phẩm có sẵn như trái cây, côn
trùng hoặc loài vật yếu hơn nó… Nhưng đối với con người thì khác: Con người có khả
năng và bắt buộc phải sản xuất ra những sản phẩm mới (bàn, ghế, quần áo, ti vi, tủ
lạnh…), khác với những sản phẩm có sẵn.Tức là, con người phải lao động mới đáp
ứng được nhu cầu cuộc sống của mình.
Chính thông qua lao động, hay còn gọi là hoạt động ý thức,nhằm cải tạo thế giới khách
quan mà con người mới có thể phản ánhđược, biết được nhiều bí mật về thế giới đó,
mới có ý thức về thế giới này. Nhưng ở đây, không phải bỗng nhiên mà thế giới khách
quan tác động vào bộ óc con người để con người có ý thức).Ý thức có được chủ yếu là
do con người chủ động tác động vào thế giới khách quan để cải tạo, biến đổi nó nhằm
tạo ra những sản phẩm mới.
Nhờ chủ động tác động vào thế giới khách quan, con người bắtnhững đối tượng trong
hiện thực (núi, rừng, sông, mỏ than, sắt,đồng…) phải bộc lộ những thuộc tính, kết cấu,
quy luật của mình. Những bộc lộ này tác động vào bộ óc người để hình thành ý thức
của con người.
b) Ngôn ngữ
Ngôn ngữ là hệ thống tín hiệu vật chất chứa đựng thông tin mang nội dung ý thức.
Không có ngôn ngữ, ý thức không thể tồn tại và thể hiện.
Sự ra đời của ngôn ngữ gắn liền với lao động. Lao động ngay từ đầu đã mang tính tập
thể. Mối quan hệ giữa các thành viên trong lao động nảy sinh ở họ nhu cầu phải có
phương tiện để biểu đạt. Nhu cầu này làm ngôn ngữ nảy sinh và phát triển ngay trong
quá trình lao động. (Nhờ ngôn ngữ con người đã không chỉ giao tiếp, trao đổi mà còn
khái quát, tổng kết đúc kết thực tiễn, truyền đạt kinh nghiệm, truyền đạt tư tưởng từ
thế hệ này sang thế hệ khác.)
Như vậy, nguồn gốc trực tiếp quan trọng nhất quyết định sự ra đời và phát triển của ý
thức là lao động. Sau lao động và đồng thời với lao động là ngôn ngữ; đó là hai chất
kích thích chủ yếu làm cho bộ óc vượn dần dần chuyển hóa thành bộ óc người, khiến
cho tâm lý động vật dần dần chuyển hóa thành ý thức.