Professional Documents
Culture Documents
Bỏng có nhiều mức độ khác nhau, yêu cầu những cách chữa trị, chăm sóc khác nhau.
· Có ba mức độ bỏng
- Bỏng mức độ 1: Da bị đỏ, đau, sưng nhẹ. Vết bỏng trở thành màu trắng khi ấn lên và
da trên vết bỏng sẽ lột sau 1-2 ngày.
- Bỏng mức độ 2: Vết bỏng này dày hơn, rất đau và tạo mụn nước trên da. Da rất đỏ,
sưng nhiều, loang lổ.
- Bỏng mức độ 3: Gây tổn thương cho tất cả lớp da, da chuyển màu trắng hoặc cháy
xém. Vết bỏng có thể đau rất ít hoặc không đau vì dây thần kinh và mô da đã bị tổn
thương.
Thường thì vết bỏng mức độ 1 sẽ lành trong 3-6 ngày. Bỏng mức độ 2 lành trong
vòng ba tuần. Vết bỏng mức độ 3 cần thời gian dài mới lành.
Bạn nên đi khám bác sĩ khi vết bỏng mức độ 1 rộng hơn 6-10 cm, hoặc vết bỏng trên
mặt, ở những vị trí khớp quan trọng như vai hay đầu gối, bàn tay, bàn chân, phần kín...
Vết bỏng mức độ 3 cần được cấp cứu y khoa ngay lập tức.
Bỏng mức độ 1: Ngâm phần bị bỏng vào nước lạnh ít nhất năm phút, nước lạnh làm
giảm sưng, hạ nhiệt khỏi vết bỏng. Sau đó, thoa vết bỏng bằng sản phẩm dưỡng da có
tác dụng bảo vệ, làm lành da như lô hội, thuốc mỡ kháng sinh.
Bạn có thể quấn vết thương bằng băng gạc lỏng để bảo vệ vùng bị thương. Cũng có
thể dùng thuốc giảm đau bán sẵn.
Bỏng mức độ 2: Nhúng vết bỏng vào nước ít nhất 15 phút. Nếu vết bỏng nhỏ, có thể
đắp vải ướt lạnh chừng vài phút mỗi ngày, sau đó thoa thuốc mỡ kháng sinh. Băng vết
bỏng bằng băng gạc khô không dính, thay băng mỗi ngày, rửa sạch tay rồi rửa vết
bỏng, thoa thuốc mỡ kháng sinh rồi băng lại.
Cùng với đó, bạn cần kiểm tra vết bỏng hàng ngày để xem có dấu hiệu bị viêm nhiễm
như sưng đau, đỏ hơn hay không. Tránh bóc da lột từ vết bỏng để tránh nhiễm trùng,
không gãi.
Vết bỏng sẽ trở nên nhạy cảm với ánh sáng tới chừng một năm, nên dùng kem chống
nắng khi ra ngoài.
Bỏng mức độ 3: Khi bị bỏng nặng, nên tới bệnh viện ngay lập tức. Tránh bất cứ vải
vóc, quần áo nào dính vào vết thương, không nhúng vết bỏng vào nước hay bất cứ loại
thuốc mỡ nào.
Nếu có thể, hãy nâng phần bị bỏng cao hơn tim, có thể băng phần bỏng bằng băng ẩm,
mát, sạch.
Không nên thoa bơ hay dầu lên vết bỏng, không đặt băng, nước đá trực tiếp lên vết
bỏng mức độ 2 trở lên. Nếu vết bỏng kết vảy, không làm vỡ chúng khiến da càng tổn
thương hơn.
Khi bị bỏng điện, bỏng hóa chất thì nên tới bệnh viện ngay. Bỏng điện có thể gây tổn
thương nghiêm trọng tới nội tạng.
Bị bỏng hóa chất có thể xối thật nhiều nước mát để rửa, cởi bất cứ quần áo hay nữ
trang nào dính hóa chất, không đặt thứ gì lên vết thương, kể cả thuốc mỡ, vì chúng có
thể gây phản ứng hóa chất nặng hơn. Có thể băng vết bỏng với gạc khô, vô trùng.
Nếu là rắn thường (rắn không độc) như: trăn, rắn nước, rắn ri cá, rắn ri voi, rắn bông
súng, rắn lục cườm... thì không có tuyến nọc và không có răng độc mà chỉ có răng
hàm, nên khi cắn để lại vết cắn hình vòng cung, dấu răng đều nhau hoặc để lại răng
trên vết cắn.
Rắn độc: có răng độc (hay răng khóa). Rắn độc có hai tuyến nọc và hai răng độc, do
đó khi cắn mổ từ trên xuống có hình chữ V hoặc hình chấm than song song và thường
để lại hai dấu răng trên vết cắn.
Rắn không độc cắn: phản ứng tại chỗ nhẹ, ít; phản ứng toàn thân không có.
Rắn độc (rắn hổ, rắn lục): nạn nhân sẽ tăng tiết đàm, sụp mi, mờ mắt, miệng há không
được, nuốt khó hoặc sưng nề, chảy máu tại chỗ, chảy máu toàn thân, nôn ra máu…
- Cố gắng xác định được loài rắn đã cắn; màu sắc, kích thước, hình dạng đầu, cách
thức tấn công, tất cả đều hữu ích.
- Để nạn nhân nằm yên và trấn an họ; cử động sẽ khiến máu chảy và truyền nọc độc
đến tim nhanh hơn.
- Cố định chân tay nhưng không được hạn chế sự lưu thông của máu .
- Nới lỏng quần áo của nạn nhân và nếu cần thiết có thể cởi các đồ trang sức (nhẫn,
vòng) ở vùng bị cắn.
- Cần phải theo dõi sát tình trạng hô hấp của nạn nhân, nếu thở nhanh > 30 lần/phút,
yếu, hoặc xuất hiện tím môi phải hô hấp nhân tạo ngay.
- Nếu bệnh nhân bị hoại tử: rửa sạch bằng nước muối sinh lý, dùng gạc sạch đậy lên,
băng lại, rồi chuyển đi bệnh viện.
- Đưa nạn nhân đến bệnh viện càng sớm càng tốt.
Nếu bệnh nhân còn tỉnh táo, cần đưa đến bệnh viện lớn, nơi có sẵn huyết thanh kháng
nọc rắn đặc hiệu, vì huyết thanh kháng nọc rắn nên dùng sớm, tốt nhất trong 4 giờ
đầu.
Tuy nhiên nếu bệnh nhân lơ mơ, hôn mê hay yếu liệt nên đưa đến cơ sở y tế gần nhất
để được xử trí kịp thời. Có thể mang theo con rắn đã cắn bệnh nhân đến cơ sở y tế để
bác sĩ xác định thuốc kháng nọc rắn phù hợp.
- Bất cứ trường hợp nào bị rắn cắn, ngay cả khi xác định là rắn lành, đều cần xử trí và
theo dõi tại bệnh viện như trường hợp rắn độc cắn, ít nhất trong 12 giờ đầu. Nếu trễ
sau 24-48 giờ, việc điều trị hiệu quả rất kém hoặc không hiệu quả.
+ Thứ nhất cột chặt có thể làm máu không đến được vị trí đã bị buộc khiến phần này
dễ hoại tử.
+ Thứ hai, khi đến bệnh viện, bác sĩ tháo băng garo ra thì chất độc sẽ cùng lúc ùa về
tim khiến bệnh nhân vào cơn sốc. Bệnh nhân có thể tử vong lập tức.
Tuyệt đối không được đắp đá, chườm lạnh, đốt vết cắn và tuyệt đối không bôi hóa
chất, thuốc, lá cây… lên vết cắn.
Cách tốt nhất sau khi bị rắn cắn là rửa sạch vết thương, băng quấn kín vết thương bình
thường để không tạo áp suất và gây bầm tím, hoặc băng nẹp giống như khi gãy chân
tay.
Trong khi vận chuyển nạn nhân đi cấp cứu nên để vùng bị cắn thấp hơn vị trí của tim,
nếu ở chân, tay thì có thể để thõng tay hoặc chân.
- Cảnh giác với rắn sau các cơn mưa, lũ lụt, mùa thu hoạch và ban đêm.
- Không đến gần nơi đống gạch vụn, đống rác, tổ mối, nơi nuôi các động vật.
- Đội mũ rộng vành nếu đi trong rừng, khu vực nhiều cây cỏ.
- Dùng đèn nếu ở trong bóng tối hoặc vào ban đêm.
- Không trêu chọc, sờ vào miệng rắn, kể cả rắn chết hay đầu rắn đã cắt rời.
Chảy máu ngoài là tình trạng mà bất kì ai cũng có thể gặp phải.
Chảy máu ngoài rất dễ nhận biết, đó có thể là khi bạn sơ ý để da bị những vết cắt như
đứt tay, trầy xước khi cạo râu, điều này vô tình đã làm các mạch máu dưới da bị tổn
thương gây chảy máu. Đôi khi việc chảy máu có lợi vì lượng máu chảy ra giúp làm
sạch vết thương. Tuy nhiên, chảy máu quá nhiều có thể khiến cơ thể bạn bị sốc.
Bạn không thể đánh giá mức độ nghiêm trọng của một vết cắt hoặc vết thương bởi số
lượng máu chảy ra. Một số thương tích nghiêm trọng chảy máu rất ít. Mặt khác,
những vết cắt trên đầu, mặt và miệng có thể chảy rất nhiều máu bởi vì những vùng
này chứa khá nhiều mạch máu.
Trong nhiều trường hợp, các vết xước do cạo râu, vết thương do kim may có thể dẫn
đến tình trạng chảy máu. Đối với các thương tích nhẹ như vậy, bạn vẫn nên thực hiện
các biện pháp để cầm máu. Một chiếc băng cá nhân (băng dán vết thương) đã được
khử trùng và các tuýp thuốc có chứa chất neosporin khá hữu ích trong việc ngăn ngừa
nhiễm trùng và điều trị những vết thương nhẹ.
Rửa vết thương bằng nước sạch, có thể rửa dưới vòi máy
Nếu là vết thương nhẹ như xước da chỉ có máu rỉ ra thì để hở cho khô. Nếu máu chảy
nhiều hơn thì đặt miếng gạc lên vết thương và băng lại hoặc dùng băng keo băng kín.
Bạn không nên chủ quan với những vết thương nhỏ, chỉ một vết cắt đôi khi có thể ảnh
hưởng tới các mạch máu. Nếu máu vẫn còn chảy sau 20 phút, bạn cần đến bệnh viện
ngay.
Những vết thương do các loài động vật gây ra hay bị những vật nhọn đâm sâu hoặc
vết thương chảy máu liên tục từ 15 đến 20 phút sau khi sơ cứu thường là những
trường hợp chảy máu khẩn cấp.
Khi một người bị chảy máu rất nhiều, hãy theo dõi các triệu chứng của sốc. Nếu các
nạn nhân có các biểu hiện như da lạnh, da bị sưng, nhịp tim suy yếu và mất ý thức thì
rất có thể nạn nhân sẽ bị sốc vì mất máu. Ngay cả trong trường hợp lượng máu chảy ra
chỉ ở mức trung bình thì người bị chảy máu vẫn có thể cảm thấy lâng lâng hoặc buồn
nôn.
Nói nạn nhân hoặc nhân viên cấp cứu dùng các ngón tay ép chặt lên hai mép vết
thương ít nhất 5 – 10 phút để cầm máu.
Đặt nạn nhân nằm xuống. Nếu vết thương ở tay hay chân, gác tay hoặc chân lên cao
hơn so với tim đồng thời tay bạn vẫn ép chặt vết thương để cầm máu. Điều này sẽ
giúp máu lưu thông đến các cơ quan quan trọng trong khi bạn chờ đợi để được giúp
đỡ.
Phủ vết thương bằng miếng gạc sạch rồi băng lại, đừng băng chặt quá làm tắc nghẽn
lưu thông máu.
Kiểm tra lại, nếu thấy máu còn chảy thấm qua lớp băng thì đặt thêm miếng gạc nữa rồi
băng phủ lên, không được tháo lớp băng lần đầu ra.
Nếu băng ở các chi, phải thường xuyên kiểm tra các ngón xem màu da có hồng và có
ấm không, nếu da các ngón tím tái và lạnh thì phải nới lỏng băng để máu lưu thông.
Nếu có dấu hiệu sốc như xanh tái, mệt, lạnh, nhớp nháp mồ hôi thì phải chống sốc.
Chảy máu trong được định nghĩa là tình trạng chảy máu không quan sát được từ bên
ngoài cơ thể.
Chảy máu trong thường khó phát hiện hơn so với chảy máu ngoài và nếu để lâu thì có
thể xảy ra những biến chứng rất nguy hiểm. Vì vậy khi xảy ra tai nạn, trước tiên bạn
cần xác định rõ xem nạn nhân chảy có bị máu trong hay không để kịp thời xử lý.
Thường thì người bị xuất huyết trong sẽ có các biểu hiện như nôn ói, dịch nôn, đờm…
Vết thương ở các vùng bụng và ngực thường khá nghiêm trọng vì các cơ quan nội
tạng bị ảnh hưởng, có thể gây ra chảy máu bên trong cũng như sốc. Các vết thương ở
ngực và bụng được coi là trường hợp khẩn cấp và nên đưa đến các trạm y tế gần nhất
càng sớm càng tốt, nhất là khi nạn nhân có các triệu chứng sốc như chóng mặt, yếu
đuối, da nhợt nhạt và lạnh, khó thở, tăng nhịp tim…
Trong trường hợp này, người bệnh cần được đặt ở tư thế thoải mái tránh việc di
chuyển và đụng chạm đến vết thương. Không được bôi thuốc hoặc chất sát trùng trực
tiếp lên vết thương. Sau đó, hãy đưa bệnh nhân đến bệnh viện gần nhất để tránh các
trường biến chứng nặng hơn có thể xảy ra.
Trước khi bắt đầu sơ cứu thương tích, bạn nên xác định mức độ nghiêm trọng của vết
thương một cách cẩn thận. Có một số tình huống mà bạn không nên thực hiện bất kỳ
loại sơ cứu nào cả. Sau khi vết thương đã được sơ cứu và băng bó cẩn thận, bạn cần
theo dõi để đảm bảo rằng vết thương đang dần lành lại và tránh tình trạng nhiễm
trùng. Một chất dịch hoặc mủ chảy ra từ vết thương đôi khi có thể là dấu hiệu của
nhiễm trùng. Bạn cần đi khám ngay nếu thấy cơ thể bị sốt hoặc bắt đầu thấy đau nhức
khi chạm vào vết thương.
Các vết thương chảy máu có thể để lại hậu quả rất lớn nếu không xử lý kịp thời và
đúng cách. Với những bước sơ cứu khi bị chảy máu trên đây, hy vọng bạn đã có được
những kiến thức cần thiết cho mình để xử lý trong những tình huống tai nạn khẩn cấp.
Chấn thương trực tiếp: xương bị gãy ở ngay nơi lực gây chấn thương tác động, thường
gặp trong tai nạn giao thông do bánh xe ô tô, xe máy,
Chấn thương gián tiếp: gãy xương ở xa nơi tác động của lực gây chấn thương.
Do xương bị bệnh rồi gãy như u nang xương, viêm xương, loạn sản xương.
Người bệnh bị ung thư ở các tổ chức khác nhưng di căn vào xương làm cho
Gãy xương kín: là gãy xương mà ổ gãy không thông với bên ngoài.
Gãy xương hở: là gãy xương mà ổ gãy thông với bên ngoài. Gãy hở nguy hiểm hơn
gãy kín vì nguy cơ nhiễm trùng cao.
Cho dù là gãy xương kín hay gãy xương hở thì công tác sơ cứu gãy xương cũng phải
được tiến hành nhanh chóng chính xác tại nơi xảy ra tai nạn nhằm mục đích:
Giảm bớt nguy cơ gây tổn thương thêm mạch máu, thần kinh, cơ, da do gãy xương
gây nên.
Phòng ngừa gãy xương kín biến thành gãy xương hở di lệch.
· Trong trường hợp gãy xương hở, cố định gãy xương kết hợp với xử lý vết
thương phần mềm tốt còn có tác dụng phòng ngừa nhiễm khuẩn.
Gãy cột sống luôn được xếp là một chấn thương nặng. Trong khi khám và sơ cứu
tuyệt đối không cho di chuyển mạnh nạn nhân, không cho nạn nhân ngồi dậy. Sơ cứu
gãy xương cột sống phải luôn có người chỉ huy, người này luôn đứng ở phía trên đầu
nạn nhân để giữ thẳng đầu và cổ nạn nhân cho đến khi bất động xong. Trong gãy cột
sống cổ, nhất là đoạn cao, nếu sơ cứu không tốt sẽ gây tử vong tức khắc vì bị kích
thích hành não.
Xương đùi là xương dài nhất cơ thể, nằm trong khu có nhiều cơ, mạch máu, thần kinh
lớn, vì vậy nếu không xử trí kịp thời và đúng kỹ thuật, nạn nhân có thể chết do sốc do
chảy máu hoặc do đau.
Nẹp được sử dụng để cố định xương gãy phải đủ dài để đủ bất động chắc khớp trên và
dưới ổ gãy.
Buộc dây cố định nẹp phải trên chỗ gãy, dưới chỗ gãy, khớp trên và khớp dưới chỗ
gãy.
Không nên cố cởi quần áo nạn nhân, nếu cần phải bộc lộ vết thương thì cắt quần áo
theo đường chỉ (nếu phải cởi thì cởi bên lành trước).
Không đặt trực tiếp nẹp vào da nạn nhân. Các mấu lồi đầu xương, vùng tỳ đè phải có
lót bông rồi mới đặt nẹp.
Bất động xương gãy (chi) theo tư thế cơ năng (đối với chi dưới duỗi gối ở tư thế 170°
- 180°, đối với chi trên gấp khuỷu 90°).
Cố định nhẹ nhàng, cẩn thận, phải có người phụ kéo nắn chi liên tục cho tới khi cố
định xong.
Phải bất động theo tư thê gãy, không kéo nắn. Kết hợp xử trí vết thương phần mềm.
Nếu có tổn thương mạch máu phải cầm máu trước khi bất động..
Sau khi cố định xong: đối với chi trên dùng băng tam giác treo đỡ tay lên cổ. Đối với
chi dưới buộc hai chi vào nhau.
- Lấy dấu hiệu sinh tồn, xác định vị trí gãy xương.
- Người phụ đứng phía trước nạn nhân đỡ trên và dưới ổ gãy:
Một tay đỡ khuỷu, một tay nắm lấy bàn tay của nạn nhân kéo nhẹ theo trục của chi.
Nẹp thứ nhất ở mặt trước cẳng tay từ khuỷu đến khớp ngón bàn.
Nẹp thứ hai đặt ở mặt sau cẳng tay, đối xứng với nẹp thứ nhất.
- Độn bông:
- Cố định nẹp:
Dùng băng cuộn cố định hai nẹp vối nhau theo thứ tự: trên chỗ gãy, dưới chỗ gãy, bàn
tay, khuỷu(nếu cần).
Để cẳng tay nhân nạn nhân gấp 90° so với cánh tay, dùng băng cuộn đỡ cẳng tay nạn
nhân vòng qua cổ nạn nhân.
- Đánh giá:
Lấy dấu hiệu sinh tồn, khám thực thể, xác định vị trí xương gãy.
Hai nẹp dài từ quá vai đến khuỷu tay và dải từ dưới hố nách đến quá nếp gấp khuỷu
tay.
- Người phụ:
Đứng đối diện với nạn nhân một tay đỡ khuỷu, một tay đỡ cánh tay sát hõm nách và
kéo nhẹ nhàng theo trục của cánh tay. Đỡ cẳng tay vuông góc với cánh tay.
Người chính đặt hai nẹp ở hai mặt trước và sau cánh tay:
Một nẹp ngoài đi từ quá vai đến quá khuỷu tay, một nẹp trong đi từ hõm nách đến quá
khuỷu tay.
- Độn bông:
- Cố định nẹp:
Dùng băng cuộn để cố định hai nẹp với nhau và đảm bảo đủ chắc, vị trí: một dây trên
ổ gãy, một dây dưới ổ gãy.
Dùng băng cuộn hoặc băng treo vòng qua cổ nạn nhân để treo tay nạn nhân ở tư thế
cẳng tay gấp 90°, bàn tay cao hơn khuỷu tay và ủp vào thân mình.
- Đánh giá:
Khám thực thể; lấy dấu hiệu sinh tổn; xác định vị trí xương gãy.
Băng cuộn.
- Chuẩn bị nạn nhân:
Ngồi bên nạn nhân {phía bên lành), luồn hai tay nâng đỡ chi nạn nhân (phía trên và
dưới chỗ gãy).
Ngồi ở phía bàn chân của nạn nhân. Một tay đỡ gót chân gãy của nạn nhân và kéo nhẹ
nhàng theo trục của chi, tay kia nắm bàn chân nạn nhân hơi đẩy về phía đùi để bàn
chân vuông góc với cẳng chân, mắt luôn theo dõi sắc mặt nạn nhân.
- Người chính:
- Độn bông:
Độn bông vào hai đầu nẹp và các đầu xương cả phía trong và ngoài của chi.
- Cố định:
Cố định hai nẹp với nhau ỏ các vị trí và đảm bảo đủ chắc theo thứ tự:
Trên ổ gãy.
Dưới ổ gãy.
Cố định hai chi với nhau bằng một dải ở cổ chân, một dải ỏ chính khớp gối.
Kiểm tra nhiệt độ, cảm giác bàn chân và màu sắc ngón chân .
- Người phụ thứ nhất ngồi phía dưới chân nạn nhân:
Một tay đỡ gót chân nạn nhân và kéo theo tư thế thẳng trục. Một tay nắm bàn chân
nạn nhân hơi đẩy ngược về đùi sao cho bàn chân vuông góc với cẳng chân. Mắt tuôn
quan sát sắc mặt nạn nhân.
Luồn hai tay nâng đỡ chi nạn nhân (phía trên và dưới chỗ gãy) và đỡ nẹp.
Người chính đặt hai nẹp phía mặt trong và mặt ngoài của đùi:
- Độn bông:
Độn bông vào hai đầu nẹp và mấu lồi của xương cả phía trong và phía ngoài.
- Cố định:
Dùng băng cuộn hoặc dây vải để cố định hai nẹp với nhau theo thứ tự:
Trên ổ gãy.
Dưới ổ gãy.
3 dây để cố định hai chân vào với nhau ở các vị trí: cổ chân, gối, sát bẹn.
Quỳ sát bên cạnh nạn nhân giúp nạn nhân nằm hơi nghiêng sang bên lành và nằm lại
tư thế ban đầu sau khi đã đặt nẹp xong. Sau đó, mỗi người về vị trí và làm nhiệm vụ
như trường hợp đặt hai nẹp.
Đặt nẹp thứ nhất từ sau xương bả vai đến quá gót chân.
- Độn bông:
Độn bông vào hai đầu nẹp và mấu lồi của xương cả phía trong và phía ngoài và phía
sau (xương bả vai).
- Cố định:
Dùng băng cuộn hoặc dây vải để cố định hai nẹp với nhau theo thứ tự:
Trên ổ gãy.
Dưới ổ gãy.
Băng số 8 để' giữ bàn chân vuông góc với cẳng chân .
Kiểm tra nhiệt độ, cảm giác và màu sắc ngón chân.
- Chuẩn bị:
Ván cứng.
Gối, màn.
Bộ chống sốc.
Người thứ nhất quỳ phía trên đầu nạn nhân luồn hai tay giữ đầu và vai nạn nhân.
Người thứ hai luồn hai tay dưới lưng và thắt lưng.
Khám thực thể đánh giá các tổn thương phối hợp.
- Người chính:
Dùng 8 cuộn băng để cố định nạn nhân vào ván cứng ở các vị trí: trán; qua hàm trên,
qua ngực, qua hông, qua đùi, qua khớp gối, qua cẳng chân, băng hai bàn chân.
- Chèn người:
Nhanh chóng, nhẹ nhàng bằng các phương tiện sẵn có.
· Quy trình kỹ thuật cố định gãy cột sống lưng - thắt lưng
- Chuẩn bị:
Ván cứng.
Bộ chống sốc.
Người thứ nhất luồn hai tay giữ đầu và vai nạn nhân.
Khám thực thể đánh giá các tổn thương phối hợp.
Đỡ hai chân sao cho bàn chân đứng và vuông góc với cẳng chân.
Dùng năm cuộn băng để cố định nạn nhân vào cáng hoặc cố định hai chi của nạn nhân
vào nhau ở các vị trí: hông, đùi, đầu gối, cẳng chân và bàn chân .
- Chèn người:
Dùng gối mềm hoặc chăn chèn hai bên hông nạn nhân.
Nhanh chóng, nhẹ nhàng bằng các phương tiện sẵn có.
V. Cách sơ cứu cho người bị ngất (xỉu):
· Khi phát hiện có người bị ngất xỉu, đầu tiên cần tiến hành sơ cứu:
- Đặt bệnh nhân nằm đầu thấp hơn chân để tăng lượng máu nuôi dưỡng não
- Ðể đầu quay sang một bên nhằm đề phòng tụt lưỡi vào cổ họng hoặc hít chất
nôn vào phổi.
- Nếu thân nhiệt thấp hơn bình thường thì cho đắp chăn ấm
- Gọi xe cấp cứu đưa bệnh nhân đến bệnh viện để xử trí tiếp theo và tìm nguyên
nhân có hướng điều trị tiếp tục.
- Sau khi đem nạn nhân lên bờ, hãy nhanh chóng gọi điện thoại số cấp cứu 115
và tiến hành làm hô hấp nhân tạo bằng phương pháp miệng qua miệng vì đó là
phương pháp hữu hiệu nhất. Não người sẽ bị tổn thương hoặc chết nếu nạn nhân
ngừng thở từ 4-6 phút.
- Với ngạt nước, sơ cứu tại chỗ và đúng kỹ thuật là những yếu tố quan trọng
nhất, quyết định đến sự sống còn và khả năng bị di chứng não của người bị nạn.
Bước 1: Xem xét hiện trường để đảm bảo không còn tiềm ẩn yếu tố nguy hiểm
Bước 2: Đặt người nạn nhân lên chỗ bằng phẳng, rắn chắn
Bước 3: Móc các dị vật ảnh hưởng đến hô hấp trong miệng nạn nhân( nếu có)
Bước 4: Kiểm tra nhận thức của nạn nhân bằng cách
Nếu nạn nhân đã ngừng thở thực hiện lập tức: Ép tim-Thổi ngạt:
- Cách ép tim:
Bước 2: Đặt 2 bàn tay chồng lên nhau, các ngón tay đan xen vào nhau. Gót bàn tay
đặt lên hõm ngực( xương ức), 2 khuỷu tay luôn thẳng.
Bước 3: Dùng sức nặng cả người về phía trước, ấn ngực nạn nhân sâu 4-5cm. Động
tác liên tục, dứt khoát và nhịp nhàng.
Bước 1: Đặt miếng vải mỏng, sạch lên miệng nạn nhân trước khi thổi ngạt
Bước 3: Dùng tay giữ trán bóp mũi nạn nhân, tay còn lại đẩy hàm để miệng nạn nhân
mở ra
Bước 4: Hít hơi dài rồi cúi xuống áp miệng nạn nhân và thổi hết hơi vào
- Dùng 2 ngón tay cái (đối với trẻ dưới 1 tuổi) ấn ở vị trí giữa và dưới đường nối
hai đầu vú 1 khoát ngón tay (tức khoảng bằng bề ngang một ngón tay).
- Dùng 1 bàn tay (đối với trẻ từ 1-8 tuổi) hoặc 2 bàn tay đặt chồng lên nhau (đối
với trẻ hơn 8 tuổi và người lớn) ấn vào phía trên mỏm ức 2 khoát ngón tay.
- Phối hợp ép tim và thổi ngạt theo tỷ lệ 10/1 (đối với trẻ ) hoặc 30/2 (đối với
người lớn). Cần lưu ý là vẫn phải tiếp tục thực hiện các động tác cấp cứu này trên
đường chuyển người bị nạn tới cơ sở y tế, cho đến khi tự thở lại được hoặc chắc
chắn đã chết.
- Việc cấp cứu này đôi khi phải mất hàng giờ hoặc lâu hơn. Nếu lồng ngực còn
di động tức là còn tự thở được, hãy đặt nằm ở tư thế an toàn, nghĩa là nằm nghiêng
một bên để nếu nôn ói thì chất nôn dễ dàng thoát ra ngoài và không trào ngược vào
phổi, gây viêm phổi.
Bước 2: Hơi cúi đầu về phía trước, dùng ngón tay ấn chặt phần cánh mũi đang chảy
máu (nếu chỉ chảy 1 bên).
Bước 3: Dùng khăn giấy, bông sạch thấm phần máu chảy ra, tuyệt đối không đưa sâu
vào trong mũi
· Lưu ý: Nếu sau 10-15 phút, máu vẫn không ngừng chảy thì hãy đến bệnh viện
hoặc các cơ sở y tế ngay lập tức để được xử lí kịp thời.
· Khi nào cần đến gặp bác sĩ?
- Chảy máu cam kéo dài hơn 20 phút; lượng máu chảy nhiều
- Chảy máu mũi xảy ra sau một chấn thương
- Cảm nhận hoặc nếm thấy máu trong cổ họng ngay cả khi máu đã ngừng chảy
- Chảy máu kèm các triệu chứng chóng mặt, sốt cao hoặc nôn
- Chảy máu thường xuyên
- Chảy máu sau khi sử dụng thuốc hoặc trong tình trạng sức khỏe không tốt
- Sơ cứu trước tiên phải làm cho người bệnh nôn hết thực phẩm đã sử dụng.
- Gây nôn khi bệnh nhân còn tỉnh, bằng cách cho bệnh nhân uống 100-200ml nước
sạch rồi dùng tăm bông, hoặc ống xông ngoáy họng, cúi thấp đầu nôn, tránh sặc vào
phổi.
- Trong trường hợp không nôn được, cho người bệnh uống than hoạt tính. Tác dụng
của than hoạt tính là hút các chất độc ngăn không cho chất độc thấm vào máu.
- Không nên uống thuốc cầm tiêu chảy, cho bệnh nhân tiêu ra hết.
- Khi bệnh nhân có biểu hiện mất nước nên cho bệnh nhân uống oresol pha với 1 lít
nước hoặc nếu không có sẵn gói oresol thì có thể pha 1/2 thìa cà phê muối cộng với 4
thìa cà phê đường trong 1 lít nước .
Sau khi sơ cứu bệnh nhân chưa có biểu hiện bình phục liền mà có dấu hiệu bệnh nặng
hơn hoặc biểu hiện hôn mê, co giật cần nhanh chóng đưa bệnh nhân đến cơ sở y tế
gần nhất để có những điều trị cần thiết.
LƯU Ý:
· Giữ và bảo quản lạnh thực phẩm nghi ngờ để gửi mẫu kiểm nghiệm tìm
nguyên nhân.
· Ngưng ngay việc sử dụng thực phẩm nghi ngờ gây ngộ độc và cảnh báo
những người thân xung quanh không sử dụng.