You are on page 1of 92

ĐỀ CƯƠNG TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH

1. Hồ Chí Minh nói: Đoàn kết, đoàn kết, đại đoàn kết, thành công, thành
công, đại thành công. Anh chị hãy phân tích nội dung và nêu ý nghĩa của
quan điểm trên?.......................................................................................................
2. Hồ Chí Minh nói: Đoàn kết là sức mạnh, đoàn kết là thắng lợi, đoàn kết
là điểm mẹ, điểm này mà thực hiện tốt thì con cháu đều tốt. Anh chị hãy
phân tích nội dung và nêu ý nghĩa của quan điểm trên?.....................................
3. Hồ Chí Minh nói: Bất kỳ ai tán thành hòa bình, độc lập, thống nhất dân
chủ thì ta thật thà đoàn kết với họ. Anh chị hãy phân tích nội dung và nêu ý
nghĩa của quan điểm trên?.....................................................................................
4. Hồ Chí Minh nói: Ai có tài, có sức, có đức, có lòng phụng sự Tổ quốc và
nhân dân thì ta đoàn kết với họ. Anh chị hãy phân tích nội dung và nêu ý
nghĩa của quan điểm trên?.....................................................................................
5. Hồ Chí Minh nói: Tôi khuyên đồng bào đoàn kết chặt chẽ và rộng rãi
hơn nữa, năm ngón tay cũng có ngón dài ngón ngắn, đã là người Việt Nam
ít nhiều đều có lòng ái quốc, chúng ta phải chân thành đoàn kết. Anh chị
hãy phân tích nội dung và nêu ý nghĩa của quan điểm trên?..............................
6. Theo Hồ Chí Minh: Tư tưởng đại đoàn kết dân tộc phải trở thành sức
mạnh vật chất, lực lượng vật chất có tổ chức. Anh chị hãy phân tích luận
điểm trên và nêu ý nghĩa trong xây dựng Mặt trận Tổ quốc hiện nay?.............
7. Hồ Chí Minh nói: Đảng ta có chính sách Mặt trận dân tộc đúng đắn, cho
nên đã phát huy được truyền thống đoàn kết và yêu nước của dân tộc ta.
Anh chị hãy phân tích luận điểm trên và nêu ý nghĩa trong xây dựng Mặt
trận hiện nay?..........................................................................................................
8. Theo Hồ Chí Minh: Phải kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời
đại để đưa cách mạng Việt Nam tiến lên, đồng thời góp phần vào thắng lợi
của cách mạng thế giới. Anh chị hãy phân tích nội dung và ý nghĩa của luận
điểm trên?...............................................................................................................
9. Hồ Chí Minh nói: Rằng đây bốn biển một nhà; Vàng, đen, trắng, đỏ đều
là anh em; Bốn phương vô sản đều là anh em. Anh chị hãy phân tích nội
dung và ý nghĩa luận điểm trên?..........................................................................
10. Hồ Chí Minh nói: Cách mệnh An Nam cũng là một bộ phận trong cách
mạng thế giới. Ai làm cách mệnh trong thế giới đều là đồng chí của dân An
Nam cả. Anh chị hãy phân tích nội dung và ý nghĩa luận điểm trên?..............
11. Anh (chị) hãy chứng minh: Tư tưởng Hồ Chí Minh soi đường cho mọi
thắng lợi của cách mạng Việt Nam và phản ánh khát vọng của nhân loại
tiến bộ? Tại sao sinh viên cần học tập làm theo tư tưởng, đạo đức, phong
cách Hồ Chí Minh?................................................................................................
12. Nghị quyết của UNESCO năm 1987 có viết: Tư tưởng Hồ Chí Minh là
hiện thân của những khát vọng của các dân tộc bị áp bức, tiêu biểu thúc
đẩy sự hiểu biết giữa các dân tộc trên thế giới. Anh (chị) hiểu thế nào về ý
nghĩa câu nói trên?................................................................................................
13. Hãy phân tích thời kỳ hình thành cơ bản nhân cách và thời kỳ có sự
thay đổi sâu sắc về bản chất trong quá trình hình thành, phát triển tư
tưởng Hồ Chí Minh? Tại sao sinh viên cần học tập làm theo tư tưởng, đạo
đức, phong cách Hồ Chí Minh?............................................................................
14. Hồ Chí Minh từng nói: Khổng Tử, Giêsu, Mác, Tôn Trung Sơn nếu còn
sống sẽ là những người bạn tốt của nhau vì họ đều mưu cầu hạnh phúc cho
nhân loại, tôi cố gắng làm học trò của các vị đó. Anh (chị) hiểu thế nào về ý
nghĩa của câu nói trên?.........................................................................................
15. Sự sáng tạo của Hồ Chí Minh trong việc giải quyết mối quan hệ giữa
vấn đề dân tộc và vấn đề giai cấp và ý nghĩa của tư tưởng đó với cách mạng
Việt Nam?...............................................................................................................
16. Cơ sở nào Hồ Chí Minh cho rằng cách mạng giải phóng dân tộc có thể
giành thắng lợi trước cách mạng vô sản? Ý nghĩa của tư tưởng đó với cách
mạng Việt Nam?....................................................................................................
17. Cơ sở lý luận và thực tiễn để Hồ Chí Minh xác định con đường đi lên
chủ nghĩa xã hội ở nước ta? Đặc điểm, xu thế của thời đại hiện nay ảnh
hưởng thể nào đến con đường phát triển của đất nước theo định hướng
XHCN?...................................................................................................................
18. Theo Hồ Chí Minh: CNXH không thể làm mau được mà phải làm dần
dần, đi bước nào phải vững chắc bước ấy. Anh (chị) hãy phân tích nội dung
và ý nghĩa của luận điểm trên?............................................................................
19. Hồ Chí Minh viết: Chủ nghĩa xã hội là nhằm nâng cao đời sống vật chất
và văn hóa của nhân dân và do nhân dân tự xây dựng lấy. Anh (chị) hãy
phân tích nội dung và ý nghĩa của luận điểm trên?...........................................
20. Nội dung kinh tế trong xây dựng CNXH được Hồ Chí Minh đề cập trên
các mặt lực lượng sản xuất, quan hệ sản xuất như thế nào? Ý nghĩa của
quan điểm đó với nước ta hiện nay?....................................................................
21. Hồ Chí Minh cho rằng: Cũng như cây phải có gốc, sông phải có nguồn,
người cách mạng phải có đạo đức làm nền tảng. Anh (chị) hãy phân  tích
nội dung và ý nghĩa của luận điểm trên?............................................................
22. Tại sao nói Hồ Chí Minh đã thực hiện cuộc cách mạng về đạo đức, đưa
vào những khái niệm đạo đức cũ những tư tưởng mới? Anh (chị) đã tu
dưỡng theo những phẩm chất đạo đức cách mạng như thế nào?.....................
23. Hồ Chí Minh nói: Đạo đức cách mạng là do đấu tranh rèn luyện bền bỉ
hàng ngày. Hoặc " HCM nói Đạo đức Cách mạng phải rèn luyện gian khổ
mới có được; chủ nghĩa cá nhân thì cũng như cỏ dại, sinh sôi, nảy nở rất
dễ." Anh (chị) hãy phân tích nội dung và ý nghĩa của luận điểm trên?...........
25. Hồ Chí Minh nói: Đầu tiên là công việc đối với con người; Vì lợi ích
mười năm thì phải trồng cây, vì lợi ích trăm năm thì phải trồng người. Anh
(chị) hãy phân tích nội dung và ý nghĩa của luận điểm trên?...........................
26. Hồ Chí Minh quan niệm: Văn hóa là một mặt trận, văn hóa hóa kháng
chiến, kháng chiến hóa văn hóa. Anh (chị) hãy phân tích nội dung và ý
nghĩa của luận điểm trên?....................................................................................
27. Hồ Chí Minh nói: Tư tưởng cộng sản với tư tưởng cá nhân ví như lúa
với cỏ dại. Lúa phải chăm bón rất khó nhọc thì mới tốt được. Còn cỏ dại
không cần chăm sóc cũng mọc lu bù. Anh (chị) hãy phân tích nội dung và ý
nghĩa của luận điểm trên?....................................................................................
28. Hồ Chí Minh cho rằng: Một dân tộc dốt là một dân tộc yếu. Dân tộc
Việt Nam có được vẻ vang sánh vai với năm châu chính là nhờ giáo dục.
Anh (chị) hãy phân tích nội dung và ý nghĩa của luận điểm trên?...................
29. Hồ Chí Minh nói: Mỗi con người đều có cái thiện và ác ở trong lòng. Ta
phải biết làm cho phần tốt ở trong mỗi con người nảy nở như hoa mùa
xuân và phần xấu bị mất dần đi. Anh (chị) hãy phân tích nội dung và ý
nghĩa của luận điểm trên?....................................................................................
30. Hồ Chí Minh cho rằng: "Văn hóa phải lấy hạnh phúc của đồng bào làm
cơ sở, phải soi đường cho quốc dân, phải bồi dưỡng tư tưởng, tình cảm, lối
sống và nâng cao dân trí." Anh (chị) hãy phân tích nội dung và ý nghĩa của
luận điểm trên?......................................................................................................
Câu 31: HCM viết: Một đảng mà giấu khuyết điểm là một đảng hỏng, một
đảng biết thừa nhận khuyết điểm và có quyết tâm sửa chữa là một đảng
tiến bộ, chân chính. Anh (chị) hãy phân tích nội dung và ý nghĩa của luận
điểm trên?...............................................................................................................
Câu 32: HCM nói: “Nước VN là 1 dân tộc, dân tộc Việt Nam là một. Sông
có thể cạn, núi có thể mòn song chân lý đó không bao giờ thay đổi”. Anh
(chị) hiểu thế nào về nội dung và ý nghĩa của quan điểm trên?........................
Câu 33: HCM nói trước Quốc hội năm 1946 chính phủ này là chính phủ
toàn quốc, có đủ nhân tài Nam, Trung, Bắc tham gia. Anh chị hãy phân
tích nội dung và ý nghĩa của luận điểm trên?.....................................................
Câu 34: Tại sao Hồ Chí Minh cho rằng xây dựng CNXH ở nước ta sẽ lâu
dài, khó khăn, phức tạp không thể làm mau được mà phải làm từng bước
đi bước nào phải vững chắc chắn bước ấy, tiến dần dần. Anh chị hãy phân
tích nội dung và ý nghĩa của luận điểm trên?.....................................................
Câu 35: Hãy chỉ rõ sự sáng tạo của Hồ Chí Minh về thành lập Đảng cộng
sản Việt Nam? Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của vấn đề trên?..........................
Câu 36: Trong các tiền đề hình thành tư tưởng Hồ Chí Minh, yếu tố nào
quan trọng nhất quyết định bản chất, tư tưởng của Người. Giải thích tại
sao? Ý nghĩa của vấn đề này?...............................................................................
Câu 37: Hồ Chí Minh nói cách mạng là một bộ phận của cách mạng trên
thế giới, phải tranh thủ sự ủng hộ của cách mạng thế giới, đồng thời chủ
động sáng tạo, góp phần thắng lợi Cách mạng thế giới. Anh chị hãy phân
tích nội dung và ý nghĩa luận điểm trên?............................................................
Câu 38: Hồ Chí Minh nói: Trong bầu trời không gì quý bằng nhân dân,
trong thế giới không gì mạnh bằng sức mạnh của nhân dân. Anh chị hãy
phân tích nội dung và ý nghĩa của luận điểm trên?...........................................
Câu 39: Hồ Chí Minh nói trong ngoại giao phải giữ vững nguyên tắc,
nhưng mềm dẻo trong sách lược Dĩ bất biến ứng vạn biến. Hãy phân tích
nội dung của luận điểm trên và nêu ý nghĩa trong quan hệ quốc tế hiện
nay?.........................................................................................................................
Câu 40: Trong các nguyên tắc xây dựng đạo đức cách mạng thì nguyên tắc
nào thiết thực với sinh viên nhất. Anh chị hãy nêu ý nghĩa của nguyên tắc
đó trong quá trình rèn luyện tu dưỡng đạo đức của sinh viên?........................
Câu 41: Hồ Chí Minh đã nói: Đảng ta là đảng cầm quyền, mỗi cán bộ đảng
viên phải thật sự thấm nhuần đạo đức cách mạng. Anh chị hãy phân tích
nội dung và ý nghĩa của luận điểm trên?............................................................
Câu 42: Hãy làm rõ mối quan hệ giữa Chủ nghĩa mác-lênin với tư tưởng
Hồ Chí Minh. Vận dụng chủ nghĩa Mác với tư tưởng Hồ Chí Minh cần chú
ý điều gì?.................................................................................................................
Câu 43: Hồ Chí Minh nói thực lực có mạnh thì ngoại giao mới thắng lợi,
thực lực là cái chiêng, ngoại giao là cái tiếng, chiêng có to tiếng mới lớn.
Phân tích nội dung và nêu ý nghĩa?.....................................................................
Câu 44: Hồ Chí Minh viết: Mỗi đảng viên phải giữ gìn sự đoàn kết trong
Đảng như giữ gìn con ngươi của mắt mình và phải có kỷ luật nghiêm minh,
tự giác. Anh chị hãy phân tích nội dung và nêu ý nghĩa của luận điểm trên?
.................................................................................................................................
Câu 45: Tại sao Hồ Chí Minh cho rằng: Muốn cứu nước giải phóng dân tộc
không có con đường nào khác con đường cách mạng vô sản. Ý nghĩa của
con đường đó với nước ta?....................................................................................
Câu 46: HCM nói: Nước độc lập mà dân không hưởng tự do hạnh phúc, thì
độc lập cũng chẳng có ý nghĩa gì. Anh chị hiểu thế nào về nội dung và ý
nghĩa của quan điểm trên?

Câu 47: HCM nói “Chính vì Đảng Lao động VN là Đảng của giai cấp công
nhân và nhân dân lao động, cho nên nó phải là Đảng của dân tộc Việt
Nam”. Ac hãy phân tích nội dung luận điểm trên và nêu ý nghĩa với nước
ta hiện nay?

Câu 48: Hồ Chí Minh nói: “Hiền dữ đâu phải là tính sẵn phần nhiều do
giáo dục mà nên”. anh chị hãy phân tích nội dung và ý nghĩa của luận điểm
trên?

Câu 49: Hồ Chí Minh viết: “Chỉ có Chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng sản
mới giải phóng được các dân tộc bị áp bức và những người lao động trên
thế giới khỏi ách nô lệ”. Anh chị hãy phân tích nội dung và ý nghĩa của
luận điểm trên?

Câu 50: Hồ Chí Minh có câu nói “chính sách ngoại giao của Chính phủ là
thân thiện với tất cả các nước dân chủ trên thế giới để giữ gìn Hòa Bình”
hãy phân tích nội dung và ý nghĩa của câu nói đó?
Câu51: HCM nói: “Một tấm gương sống còn có giá trị hơn một trăm bài
diễn văn tuyên truyền hay”. Phân tích nội dung và ý nghĩa luận điểm này? (
tr.93)
Câu 52: HCM nói: Đảng muốn vững thì phải có chủ nghĩa làm cốt, trong
Đảng ai cũng phải hiểu phải tuân theo chủ nghĩa ấy. Phân tích nội dung, ý
nghĩa của luận điểm trên?
Câu 53: HCM đã viết Trăm điều phải có thần linh pháp quyền. Ac hãy
phân tích nội dung và ý nghĩa của luận điểm trên trong xd nhà nước hiện
nay? (tr.30)
Câu 54: HCM viết Mỗi Đảng viên phải giữ gìn sự đoàn kết trong Đảng như
giữ gìn con ngươi của mắt mình và phải có kỷ luật nghiêm minh tự gốc. Ac
hãy phân tích nội dung và ý nghĩa của luận điểm trên?
Câu 55: HCM nói Chính vì Đảng Lao động VN là Đảng của giai cấp công
nhân và nhân dân lao động, cho nên nó phải là Đảng của dân tộc Việt
Nam. Ac hãy phân tích nội dung luận điểm trên và nêu ý nghĩa với nước ta
hiện nay? (Trang49- 55 sgk)
Câu 56: Có học giả nghiên cứu HCM từng đánh giá Người mang trong
mình một phần V Lê-nin, một phần …, một phần Khổng Tử và luôn luôn
là một người Việt Nam. Ac hiểu thế nào về nội dung và ý nghĩa của quan
điểm này?

1. Hồ Chí Minh nói: Đoàn kết, đoàn kết, đại đoàn kết, thành công, thành công,
đại thành công. Anh chị hãy phân tích nội dung và nêu ý nghĩa của quan điểm trên?
SGK 65…phúc cho con người
* Ý nghĩa của quan điểm trên:
Đoàn kết là một trong các truyền thống quí báu của dân tộc ta đã được hun đúc trên
nền tảng lòng yêu nước nồng nàn của các thế hệ người Việt Nam. Người muốn gửi đến
quốc dân đồng bào thông điệp về sức mạnh của tinh thần đoàn kết, đại đoàn kết là vấn đề
có ý nghĩa chiến lược, nhất quán và xuyên suốt để tập hợp lực lượng cách mạng và là nhân
tố quyết định sự thành công, đoàn kết rộng rãi, đoàn kết chặt chẽ, đoàn kết thực sự. Thấy
rõ vai trò quan trọng của đoàn kết toàn dân trong sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc
cũng như trong công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa.
Câu nói của Bác chính là lời kêu gọi, thức tỉnh chúng ta, nó không chỉ có ý nghĩa
trong kháng chiến cứu mà còn có ý nghĩa trong công cuộc xây dựng đất nước, đặc biệt là
quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa, Đảng và nhà nước phải tập hợp và tranh thủ được
sức mạnh của khối đại đoàn kết dân tộc thì chắc chắn sẽ đi tới được thắng lợi và thành
công, đạt được mục tiêu mà chúng ta đã đề ra.
2. Hồ Chí Minh nói: Đoàn kết là sức mạnh, đoàn kết là thắng lợi, đoàn kết là
điểm mẹ, điểm này mà thực hiện tốt thì con cháu đều tốt. Anh chị hãy phân tích nội
dung và nêu ý nghĩa của quan điểm trên?
-> Đại đoàn kết dân tộc là vấn đề có ý nghĩa chiến lược, quyết định thành công
của cách mạng
- Trong tư tưởng Hồ Chí Minh, đại đoàn kết dân tộc không phải là sách lược hay thủ
đoạn chính trị mà là chiến lược lâu dài, nhất quán của cách mạng Việt Nam. Người nói rõ:
“Sử dạy cho ta bài học này: Lúc nào dân ta đoàn kết muôn người như một thì nước ta độc
lập, tự do. Trái lại lúc nào dân ta không đoàn kết thì bị nước ngoài xâm lấn”.
Trong mỗi giai đoạn cách mạng, trước những yêu cầu và nhiệm vụ khác nhau, chính
sách và phương pháp tập hợp đại đoàn kết có thể và cần thiết phải điều chỉnh cho phù hợp
với từng đối tượng khác nhau song không bao giờ được thay đổi chủ trương đại đoàn kết
dân tộc, vì đó là nhân tố quyết định sự thành bại của cách mạng.
- Từ thực tiễn xây dựng khối đại đoàn kết dân tộc, Hồ Chí Minh đã khái quát thành
nhiều luận điểm mang tính chân lý về vai trò và sức mạnh của khối đại đoàn kết toàn dân
tộc: “Đoàn kết là sức mạnh của chúng ta”, “Đoàn kết là một lực lượng vô địch của chúng
ta để khắc phục khó khăn, giành lấy thắng lợi”, “Đoàn kết là sức mạnh, đoàn kết là thắng
lợi”, “Đoàn kết là sức mạnh, là then chốt của thành công”, “Bây giờ còn một điểm rất quan
trọng, cũng là điểm mẹ. Điểm này mà thực hiện tốt thì đẻ ra con cháu đều tốt: Đó là đoàn
kết”. Người đã đi đến kết luận: “Đoàn kết, đoàn kết, đại đoàn kết/ Thành công, thành công,
đại thành công”.
-> Đại đoàn kết dân tộc là mục tiêu, nhiệm vụ hàng đầu của cách mạng Việt
Nam
- Đối với Hồ Chí Minh, đại đoàn kết dân tộc không chỉ là khẩu hiệu chiến lược mà
còn là mục tiêu lâu dài của cách mạng. Đảng là lực lượng lãnh đạo cách mạng Việt Nam
nên tất yếu đại đoàn kết toàn dân tộc phải được xác định là nhiệm vụ hàng đầu của Đảng
và nhiệm vụ này phải được quán triệt trong tất cả mọi lĩnh vực, từ đường lối, chủ trương,
chính sách, tới hoạt động thực tiễn của Đảng. Trong lời kết thúc buổi ra mắt Đảng Lao
động Việt Nam ngày 3-3-1951, Hồ Chí Minh tuyên bố: “Mục đích của Đảng Lao động
Việt Nam có thể gồm trong tám chữ là: ĐOÀN KẾT TOÀN DÂN, PHỤNG SỰ TỔ
QUỐC”.
- Đại đoàn kết dân tộc không những là mục tiêu, nhiệm vụ hàng đầu của Đảng, của
cách mạng, mà còn là mục tiêu, nhiệm vụ hàng đầu của cả dân tộc. Nhận thức rõ điều đó,
Người yêu cầu Đảng Cộng sản phải có sứ mệnh thức tỉnh, tập hợp, hướng dẫn quần chúng,
chuyển những nhu cầu, những đòi hỏi khách quan, tự phát của quần chúng thành những
đòi hỏi tự giác, thành hiện thực có tổ chức trong khối đại đoàn kết, tạo thành sức mạnh
tổng hợp trong cuộc đấu tranh vì độc lập của dân tộc, tự do cho nhân dân và hạnh phúc cho
con người.
* Ý nghĩa của quan điểm trên: Đoàn kết là một trong các truyền thống quí báu của
dân tộc ta đã được hun đúc trên nền tảng lòng yêu nước nồng nàn của các thế hệ người
Việt Nam. Người muốn gửi đến quốc dân đồng bào thông điệp về sức mạnh của tinh thần
đoàn kết, đại đoàn kết là vấn đề có ý nghĩa chiến lược, nhất quán và xuyên suốt để tập hợp
lực lượng cách mạng và là nhân tố quyết định sự thành công, đoàn kết rộng rãi, đoàn kết
chặt chẽ, đoàn kết thực sự. Thấy rõ vai trò quan trọng của đoàn kết toàn dân trong sự
nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc cũng như trong công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ
quốc xã hội chủ nghĩa. Câu nói của Bác chính là lời kêu gọi, thức tỉnh chúng ta, nó không
chỉ có ý nghĩa trong kháng chiến cứu mà còn có ý nghĩa trong công cuộc xây dựng đất
nước, đặc biệt là quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa, Đảng và nhà nước phải tập hợp
và tranh thủ được sức mạnh của khối đại đoàn kết dân tộc thì chắc chắn sẽ đi tới được
thắng lợi và thành công, đạt được mục tiêu mà chúng ta đã đề ra.
3. Hồ Chí Minh nói: Bất kỳ ai tán thành hòa bình, độc lập, thống nhất dân chủ
thì ta thật thà đoàn kết với họ. Anh chị hãy phân tích nội dung và nêu ý nghĩa của quan
điểm trên?
* Chủ thể của khối đại đoàn kết dân tộc
- Chủ thể của khối đại đoàn kết dân tộc, theo Hồ Chí Minh bao gồm toàn thể nhân
dân, tất cả những người Việt Nam yêu nước ở các giai cấp, các tầng lớp trong xã hội, các
ngành, các giới, các lứa tuổi, các dân tộc, đồng bào các tôn giáo, các đảng phái, v.v. Đại
đoàn kết toàn dân tộc là tập hợp, đoàn kết mọi người dân vào một khối thống nhất, không
phân biệt dân tộc, giai cấp, tầng lớp, đảng phái, tôn giáo, lứa tuổi, giới tính, nghề nghiệp, ở
trong nước hay ở ngoài nước cùng hướng vào mục tiêu chung.
- Hồ Chí Minh còn chỉ rõ, trong quá trình xây dựng khối đại đoàn kết dân tộc, phải
đứng vững trên lập trường giai cấp công nhân, giải quyết hài hòa mối quan hệ giai cấp, dân
tộc để tập hợp lực lượng, không bỏ sót một lực lượng nào miễn là họ có lòng trung thành
và sẵn sàng phục vụ Tổ quốc. Tư tưởng của Người đã định hướng cho việc xây dựng khối
đại đoàn kết dân tộc trong suốt tiến trình cách mạng Việt Nam, từ cách mạng dân tộc dân
chủ nhân dân đến cách mạng xã hội chủ nghĩa.
Hồ Chí Minh thấu hiểu sâu sắc rằng, để phát huy được vai trò của hệ thống chính
trị trong việc thực hành dân chủ, thì đại đoàn kết toàn dân là một nhân tố quyết định và
phải được thực hành ngay trong tổ chức và hoạt động của bộ máy Nhà nước. Người
chỉ rõ, mục tiêu lý tưởng xuyên suốt của cách mạng Việt Nam là độc lập, tự do và
CNXH, cùng phương châm: dân tộc trên hết, Tổ quốc trên hết; tất cả do con người, vì
con người là mẫu số chung, là điểm quy tụ khối đoàn kết. Bác thường nhắc nhở: “Bất
kỳ ai mà thật thà tán thành hòa bình, thống nhất, độc lập, dân chủ thì dù những người
đó trước đây chống chúng ta, bây giờ chúng ta cũng thật thà đoàn kết với họ…’’
Ta đoàn kết để đấu tranh cho thống nhất và độc lập của Tổ quốc; ta còn phải
đoàn kết để xây dựng nước nhà. Ai có tài, có đức, có sức, có lòng phụng sự Tổ quốc
và phục vụ nhân dân thì ta đoàn kết với họ”1. Chính vì vậy, ngay sau cách mạng Tháng
8-1945 thành công, Hồ Chí Minh đã ký nhiều sắc lệnh chiêu tập quan lại cũ triều
Nguyễn tham gia chính quyền mới, tạo điều kiện cho họ đóng góp tài lực vào sự
nghiệp chung của dân tộc. Chính sự bao dung, độ lượng của Hồ Chí Minh đã cảm hoá,
mở rộng con đường cho họ trở lại sum họp trong đại gia đình Việt Nam.
Người còn quan tâm đến vấn đề đoàn kết tôn giáo tìm được điểm chung nhất có
khả năng vượt qua được những khác biệt về tư tưởng, quan điểm, chính kiến tôn giáo
để mọi người thống nhất đoàn kết dưới sự lãnh đạo của Đảng, phấn đấu cho mục tiêu,
lý tưởng của dân tộc, của cách mạng.Mặt khác, phải biết khai thác, kế thừa những giá
trị tích cực của các tôn giáo, tranh thủ giáo sĩ, quan tâm đến giáo dân; tôn trọng quyền
tự do tín ngưỡng và không tín ngưỡng của nhân dân; độ lượng, vị tha với người lầm
lỗi; đấu tranh kiên quyết với bọn phản động âm mưu chia rẽ lương-giáo, lợi dụng tôn
giáo chống phá Nhà nước Việt Nam.
Cùng với đoàn kết tôn giáo, đoàn kết đồng bào các dân tộc cũng là vấn đề có
ý nghĩa chiến lược của cách mạng Việt Nam. Sức mạnh đoàn kết đồng bào các dân tộc
trong đại gia đình các dân tộc Việt Nam không những phát huy vai trò quan trọng
trong cuộc đấu tranh lật đổ ách thống trị của đế quốc và tay sai, giành độc lập, thống
nhất đất nước, mà còn có vai trò quan trọng trong công cuộc xây dựng xã hội mới,
hướng tới xóa bỏ nghèo nàn, lạc hậu và sự ngăn cách giữa các dân tộc; đồng thời,
mang lại hạnh phúc, no ấm và sự tiến bộ, văn minh cho tất cả đồng bào các dân tộc.
Hồ Chí Minh chỉ rõ: “Đồng bào Kinh hay Thổ, Mường hay Mán, Gia Rai hay Ê Đê,
Xê Đăng hay Ba Na và các dân tộc thiểu số khác, đều là con cháu Việt Nam, đều là
anh em ruột thịt. Chúng ta sống chết có nhau, sướng khổ cùng nhau, no đói giúp
nhau…Sông có thể cạn, núi có thể mòn, nhưng lòng đoàn kết của chúng ta không bao
giờ giảm bớt”.
Một điều quan trọng nữa để đoàn kết toàn dân là tập hợp mọi lực lượng yêu
nước trong một tổ chức mặt trận thống nhất, dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản
Việt Nam. Tùy theo yêu cầu của từng giai đoạn cách mạng mà tổ chức các hình thức
mặt trận tương ứng, Lấy mục tiêu giải phóng dân tộc lên trên hết, Mặt trận Việt Minh
là nơi tập hợp sức mạnh dân tộc để Đảng ta lãnh đạo toàn dân thực hiện thành công
cuộc cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân đầu tiên ở Đông Nam Á, lập nên Nhà nước
VN DCCH. Nó là sự phát triển tiếp nối của các hình thức mặt trận trước đó và là bộ
phận quan trọng để hợp nhất và phát triển thành Mặt trận Tổ quốc Việt Nam.
* Ý nghĩa của quan điểm trên:
Dưới ánh sáng tư tưởng Hồ Chí Minh, trong sự nghiệp đổi mới, Đảng và Nhà nước
ta đã rút ra những bài học kinh nghiệm quý báu về xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân:
Đoàn kết trong tư tưởng của Người có ý nghĩa là sự đoàn kết rộng rãi, mở rộng và tranh
thủ tất cả những lực lượng và bộ phận có thể tranh thủ. giáo dục để quần chúng giác ngộ sự
cần thiết phải đoàn kết lại; thu hút rộng rãi các lực lượng yêu nước tiến bộ trong dân
chúng; hướng dẫn khối đại đoàn kết toàn dân đấu tranh, lao động sáng tạo theo những mục
tiêu, nhiệm vụ phù hợp với lợi ích thiêng liêng của dân tộc và nguyện vọng chính đáng của
nhân dân. thấy rõ được tầm quan trọng của quần chúng nhân dân và thể hiện tầm nhìn xa
trông rộng của Người về việc phát huy sức mạnh toàn dân tộc trong sự nghiệp cách mạng.
Việc đưa ra tư tưởng đại đoàn kết, trực tiếp lãnh đạo chỉ đạo việc xây dựng khối đại
đoàn kết toàn dân tộc quan điểm của HCM đã làm cho các tầng lớp, giai cấp nhân dân ở
mọi vùng miền của Tổ quốc, kể cả đồng bào sinh sống ở nước ngoài đã cùng chung tay
đoàn kết, thống nhất, tạo thành sức mạnh to lớn để Việt Nam lần lượt chiến thắng được kẻ
thù xâm lược, thực hiện được mục tiêu độc lập cho dân tộc và tự do cho nhân dân.
4. Hồ Chí Minh nói: Ai có tài, có sức, có đức, có lòng phụng sự Tổ quốc và nhân dân
thì ta đoàn kết với họ. Anh chị hãy phân tích nội dung và nêu ý nghĩa của quan điểm
trên?
* Nền tảng của khối đại đoàn kết dân tộc
- Muốn xây dựng khối đại đoàn kết dân tộc, phải xác định rõ đâu là nền tảng của
khối đại đoàn kết dân tộc và những lực lượng nào tạo nên nền tảng đó. Hồ Chí Minh chỉ
rõ: “Đại đoàn kết tức là trước hết phải đoàn kết đại đa số nhân dân, mà đại đa số nhân dân
là công nhân, nông dân và các tầng lớp nhân dân lao động khác. Đó là nền, gốc của đại
đoàn kết”. Như vậy, lực lượng làm nền tảng cho khối đại đoàn kết toàn dân tộc theo quan
điểm của Hồ Chí Minh là công nhân, nông dân và trí thức. Nền tảng này càng được củng
cố vững chắc thì khối đại đoàn kết toàn dân tộc càng có thể mở rộng, khi ấy không có thế
lực nào có thể làm suy yếu khối đại đoàn kết dân tộc.
- Trong khối đại đoàn kết toàn dân tộc, phải đặc biệt chú trọng yếu tố “hạt nhân” là
sự đoàn kết và thống nhất trong Đảng vì đó là điều kiện cho sự đoàn kết ngoài xã hội. Sự
đoàn kết của Đảng càng được củng cố thì sự đoàn kết toàn dân tộc càng được tăng cường,
Đảng đoàn kết, dân tộc đoàn kết và sự gắn bó máu thịt giữa Đảng với nhân dân đã tạo nên
sức mạnh bên trong của cách mạng Việt Nam để vượt qua mọi khó khăn, thử thách, chiến
thắng mọi kẻ thù, đi tới thắng lợi cuối cùng của cách mạng.
* Ý nghĩa của quan điểm trên:
Đoàn kết trong tư tưởng của Người có ý nghĩa là sự đoàn kết rộng rãi, mở rộng và
tranh thủ tất cả những lực lượng và bộ phận có thể tranh thủ, giáo dục để quần chúng giác
ngộ sự cần thiết phải đoàn kết lại; thu hút rộng rãi các lực lượng yêu nước tiến bộ trong
dân chúng; hướng dẫn khối đại đoàn kết toàn dân đấu tranh, lao động sáng tạo theo những
mục tiêu, nhiệm vụ phù hợp với lợi ích thiêng liêng của dân tộc và nguyện vọng chính
đáng của nhân dân; thấy rõ được tầm quan trọng của quần chúng nhân dân và thể hiện tầm
nhìn xa trông rộng của Người về việc phát huy sức mạnh toàn dân tộc trong sự nghiệp cách
mạng.
Việc đưa ra tư tưởng đại đoàn kết, trực tiếp lãnh đạo chỉ đạo việc xây dựng khối đại
đoàn kết toàn dân tộc quan điểm của HCM đã làm cho các tầng lớp, giai cấp nhân dân ở
mọi vùng miền của Tổ quốc, kể cả đồng bào sinh sống ở nước ngoài đã cùng chung tay
đoàn kết, thống nhất, tạo thành sức mạnh to lớn để Việt Nam lần lượt chiến thắng được kẻ
thù xâm lược, thực hiện được mục tiêu độc lập cho dân tộc và tự do cho nhân dân.
5. Hồ Chí Minh nói: Tôi khuyên đồng bào đoàn kết chặt chẽ và rộng rãi hơn
nữa, năm ngón tay cũng có ngón dài ngón ngắn, đã là người Việt Nam ít nhiều đều có
lòng ái quốc, chúng ta phải chân thành đoàn kết. Anh chị hãy phân tích nội dung và
nêu ý nghĩa của quan điểm trên?
Để xây dựng khối đại đoàn kết dân tộc, quy tụ, đoàn kết được mọi giai cấp, tầng lớp
cần phải bảo đảm các điều kiện sau đây:
Một là, phải kế thừa truyền thống yêu nước, nhân nghĩa, đoàn kết của dân tộc.
Truyền thống này được hình thành, củng cố và phát triển trong suốt quá trình dựng nước
và giữ nước hàng ngàn năm của dân tộc và đã trở thành giá trị bền vững, thấm sâu vào tư
tưởng, tình cảm, tâm hồn của mỗi con người Việt Nam, được lưu truyền qua nhiều thế hệ.
Truyền thống đó là cội nguồn sức mạnh vô địch để cả dân tộc chiến đấu và chiến thắng
thiên tai, địch họa, làm cho đất nước được trường tồn, bản sắc dân tộc được giữ vững.
Thứ hai, phải có lòng khoan dung, độ lượng với con người. Theo Hồ Chí Minh,
trong mỗi cá nhân cũng như mỗi cộng đồng đều có những ưu điểm, khuyết điểm, mặt tốt,
mặt xấu... Cho nên, vì lợi ích của cách mạng, cần phải có lòng khoan dung độ lượng, trân
trọng phần thiện dù nhỏ nhất ở mỗi người, có vậy mới tập hợp, quy tụ rộng rãi mọi lực
lượng. Người từng căn dặn đồng bào: “Năm ngón tay cũng có ngón vắn, ngón dài. Nhưng
vắn dài đều họp nhau lại nơi bàn tay.
Trong mấy triệu người cũng có người thế này hay thế khác, nhưng thế này hay thế
khác đều dòng dõi của tổ tiên ta. Vậy nên ta phải khoan hồng đại độ”.
Ba là, phải có niềm tin vào nhân dân. Với Hồ Chí Minh, yêu dân, tin dân, dựa vào
dân, sống, phấn đấu vì hạnh phúc của nhân dân là nguyên tắc tối cao trong cuộc sống.
Nguyên tắc này vừa là sự tiếp nối thống dân tộc “Nước lấy dân làm gốc”, “Chở thuyền và
lật thuyền cũng là dân”, đồng thời là sự quán triệt sâu sắc nguyên lý mácxít “Cách mạng là
sự nghiệp của quần chúng”. Dân là chỗ dựa vững chắc đồng thời cũng là nguồn sức mạnh
vô địch của khối đại đoàn kết toàn dân tộc, quyết định thắng lợi của cách mạng.
* Ý nghĩa của quan điểm trên:
Quan điểm ở thời điểm đó đã khơi dậy tất cả mọi người nhằm phát huy cao nhất sức
mạnh của dân tộc, của quốc tế trong sự nghiệp đấu tranh cho độc lập dân tộc, dân chủ và
chủ nghĩa xã hội. Với tư tưởng truyền thống của tổ tiên “Nước lấy dân làm gốc”, “Cách
mạng là sự nghiệp của quần chúng”, “mọi con dân nước Việt” mọi “Con Lạc, cháu Hồng”
không phân biệt dân tộc thiểu số hay đa số, người có tín ngưỡng với người không tín
ngưỡng, không phân biệt giàu nghèo, già trẻ, gái trai.
Chính tư tưởng đại đoàn kết của Bác Hồ đã tập hợp được tất cả mọi lực lượng của
nhân dân tạo thành sức mạnh to lớn, vĩ đại của toàn dân tộc để cả dân tộc ta kết thành khối
thống nhất chiến thắng mọi kẻ thù xâm lược và xây dựng đất nước trong hòa bình.
6. Theo Hồ Chí Minh: Tư tưởng đại đoàn kết dân tộc phải trở thành sức mạnh
vật chất, lực lượng vật chất có tổ chức. Anh chị hãy phân tích luận điểm trên và nêu ý
nghĩa trong xây dựng Mặt trận Tổ quốc hiện nay?
Theo HCM khối đại đoàn kết toàn dân tộc không thể chỉ dừng lại ở quan niệm, ở
những lời kêu gọi, mà nó chỉ trở thành lực lượng to lớn, có sức mạnh khi được tập hợp, tổ
chức lại thành một khối vững chắc, đó là Mặt trận dân tộc thống nhất, nơi quy tụ mọi tổ
chức, cá nhân yêu nước, tập hợp mọi người dân trong nước và kiều bào sinh sống ở nước
ngoài.
Hồ Chí Minh chú trọng đến việc tập hợp quần chúng nhân dân vào những tổ chức
yêu nước phù hợp như các hội ái hữu hay tương trợ, công hội hay nông hội, đoàn thanh
niên hay hội phụ nữ, đội thiếu niên nhi đồng hay phụ lão,..., trong đó bao trùm là Mặt trận
dân tộc thống nhất.
- Tùy theo từng thời kỳ và căn cứ vào nhiệm vụ của từng chặng đường cách mạng,
Mặt trận dân tộc thống nhất có những tên gọi khác nhau như:
+ Hội Phản đế đồng minh (1930);
+ Mặt trận dân chủ (1936);
+ Mặt trận nhân dân phản đế (1939);
+ Mặt trận Việt Minh (1941);
+ Mặt trận Liên Việt (1951);
+ Mặt trận dân tộc giải phóng miền Nam Việt Nam (1960);
+ Mặt trận Tổ quốc Việt Nam (1955, 1976- nay)
 Tuy nhiên, thực chất chỉ là một, đó là tổ chức chính trị - xã hội rộng rãi, tập hợp mọi
người dân Việt Nam phấn đấu vì mục tiêu chung.
* Ý nghĩa trong xây dựng Mặt trận Tổ quốc hiện nay:
- Mặt trận phải thể hiện ý chí nguyện vọng của nhân dân:
+ Tham gia xây dựng và củng cố chính quyền nhân dân; cùng Nhà nước chăm lo, bảo vệ
quyền và lợi ích chính đáng của nhân dân; tham gia phát triển tình hữu nghị, hợp tác giữa
nhân dân Việt Nam với nhân dân các nước trong khu vực và trên thế giới.
+ Làm cho nhân dân ý thức được về quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của mình, đồng
thuận và tích cực thực hiện chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà
nước. 
+ Phát huy vai trò của nhân dân trong thực hiện dân chủ, giám sát, phản biện xã hội,
phòng, chống tham nhũng, lãng phí, xây dựng Đảng, chính quyền trong sạch, vững mạnh;
vận động nhân dân tích cực tham gia phát triển kinh tế - xã hội, xây dựng đời sống mới,
góp phần xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
- Là cầu nối giữa Đảng, Nhà nước với nhân dân:
+ Góp phần tạo sự đồng thuận ngày càng cao trong xã hội; góp phần cùng Đảng, Nhà nước
xây dựng một cơ chế kết hợp hài hòa, hợp lý giữa lợi ích vật chất và tinh thần, lợi ích
chung và lợi ích riêng, lợi ích trước mắt và lợi ích lâu dài... của các thành phần kinh tế, các
tầng lớp nhân dân, các dân tộc, các tôn giáo, người Việt Nam ở nước ngoài => Tạo động
lực mạnh mẽ cho việc tập hợp, phát huy sức mạnh tổng hợp của khối đại đoàn kết toàn dân
tộc trong tình hình mới.
- Thực hiện giám sát phản biện xã hội:
+ Phát huy vai trò của nhân dân trong thực hiện dân chủ, giám sát, phản biện xã hội,
phòng, chống tham nhũng, lãng phí, xây dựng Đảng, chính quyền trong sạch, vững mạnh
+ Đẩy mạnh việc tuyên truyền, khơi dậy trong các tầng lớp nhân dân về truyền thống hào
hùng của dân tộc và khát vọng phát triển, từ đó phát huy chủ nghĩa yêu nước, ý thức dân
tộc, lòng tự tôn, khí phách và khát vọng của dân tộc trong mỗi người Việt Nam, nhất là đối
với thế hệ trẻ; qua đó xây dựng niềm tin, tạo sự thống nhất trong nhận thức và hành động
để thực hiện các mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc xã hội
chủ nghĩa trong tình hình mới.

7. Hồ Chí Minh nói: Đảng ta có chính sách Mặt trận dân tộc đúng đắn, cho nên đã
phát huy được truyền thống đoàn kết và yêu nước của dân tộc ta. Anh chị hãy phân
tích luận điểm trên và nêu ý nghĩa trong xây dựng Mặt trận hiện nay?
* Trong tư tưởng Hồ Chí Minh, Mặt trận dân tộc thống nhất cần được xây
dựng và hoạt động trên cơ sở các nguyên tắc:
Một là: Phải được xây dựng trên nền tảng liên minh công nhân - nông dân - trí thức
và đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng.
Hồ Chí Minh xác định Mặt trận là một khối đoàn kết chặt chẽ, có tổ chức trên nền
tảng khối liên minh giữa giai cấp công nhân, giai cấp nông dân, đội ngũ trí thức dưới sự
lãnh đạo của Đảng. Đây là nguyên tắc cốt lõi trong chiến lược đại đoàn kết dân tộc của Hồ
Chí Minh, trên cơ sở đó mở rộng Mặt trận, làm cho Mặt trận thực sự quy tụ được cả dân
tộc, kết thành một khối vững chắc. Đảng Cộng sản Việt Nam vừa là thành viên, vừa là lực
lượng lãnh đạo Mặt trận.
Hai là: Phải xuất phát từ mục tiêu vì nước, vì dân.
Theo Người, đại đoàn kết phải xuất phát từ mục tiêu vì nước, vì dân, trên cơ sở yêu
nước, thương dân, chống áp bức bóc lột, nghèo nàn lạc hậu, lấy lợi ích tối cao của dân tộc,
lợi ích căn bản của nhân dân lao động làm mục tiêu phấn đấu. Đây là nguyên tắc bất di bất
dịch, là ngọn cờ đoàn kết và là mẫu số chung để quy tụ các tầng lớp, giai cấp, đảng phái,
dân tộc và tôn giáo vào trong Mặt trận.
Ba là: Phải hoạt động theo nguyên tắc hiệp thương dân chủ.
Mặt trận dân tộc thống nhất là tổ chức chính trị - xã hội rộng lớn của cả dân tộc, bao
gồm nhiều giai cấp, tầng lớp, đảng phái, dân tộc, tôn giáo khác nhau, với nhiều lợi ích khác
nhau. Do vậy, hoạt động của Mặt trận phải dựa trên nguyên tắc hiệp thương dân chủ, Mọi
vấn đề của Mặt trận đều phải được đem ra để tất cả các thành viên cùng nhau bàn bạc công
khai, để đi đến nhất trí, loại trừ mọi sự áp đặt hoặc dân chủ hình thức.
Bốn là: Phải đoàn kết lâu dài, chặt chẽ, đoàn kết thật sự, chân thành, thân ái giúp đỡ
nhau cùng tiến bộ.
Theo Hồ Chí Minh, đoàn kết trong Mặt trận phải lâu dài, chặt chẽ, thật sự, chân
thành, thân ái giúp đỡ nhau cùng tiến bộ. Hồ Chí Minh nhấn mạnh phương châm “cầu
đồng tồn dị”, lấy cái chung để hạn chế cái riêng, cái khác biệt; đồng thời Người nêu rõ:
“Đoàn kết thực sự nghĩa là mục đích phải nhất trí và lập trường cũng phải nhất trí. Đoàn
kết thực sự nghĩa là vừa đoàn kết, vừa đấu tranh”.
*Ý nghĩa trong xây dựng Mặt trận hiện nay:
- Mặt trận phải thể hiện ý chí nguyện vọng của nhân dân:
+ Tham gia xây dựng và củng cố chính quyền nhân dân; cùng Nhà nước chăm lo,
bảo vệ quyền và lợi ích chính đáng của nhân dân; tham gia phát triển tình hữu nghị, hợp
tác giữa nhân dân Việt Nam với nhân dân các nước trong khu vực và trên thế giới.
+ Làm cho nhân dân ý thức được về quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của
mình, đồng thuận và tích cực thực hiện chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp
luật của Nhà nước. 
+ Phát huy vai trò của nhân dân trong thực hiện dân chủ, giám sát, phản biện xã hội,
phòng, chống tham nhũng, lãng phí, xây dựng Đảng, chính quyền trong sạch, vững mạnh;
vận động nhân dân tích cực tham gia phát triển kinh tế - xã hội, xây dựng đời sống mới,
góp phần xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
- Là cầu nối giữa Đảng, Nhà nước với nhân dân:
+ Góp phần tạo sự đồng thuận ngày càng cao trong xã hội; góp phần cùng Đảng,
Nhà nước xây dựng một cơ chế kết hợp hài hòa, hợp lý giữa lợi ích vật chất và tinh thần,
lợi ích chung và lợi ích riêng, lợi ích trước mắt và lợi ích lâu dài... của các thành phần kinh
tế, các tầng lớp nhân dân, các dân tộc, các tôn giáo, người Việt Nam ở nước ngoài => tạo
động lực mạnh mẽ cho việc tập hợp, phát huy sức mạnh tổng hợp của khối đại đoàn kết
toàn dân tộc trong tình hình mới.
- Thực hiện giám sát phản biện xã hội:
+ Phát huy vai trò của nhân dân trong thực hiện dân chủ, giám sát, phản biện xã hội,
phòng, chống tham nhũng, lãng phí, xây dựng Đảng, chính quyền trong sạch, vững mạnh
+ Đẩy mạnh việc tuyên truyền, khơi dậy trong các tầng lớp nhân dân về truyền
thống hào hùng của dân tộc và khát vọng phát triển, từ đó phát huy chủ nghĩa yêu nước, ý
thức dân tộc, lòng tự tôn, khí phách và khát vọng của dân tộc trong mỗi người Việt Nam,
nhất là đối với thế hệ trẻ; qua đó xây dựng niềm tin, tạo sự thống nhất trong nhận thức và
hành động để thực hiện các mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội, xây dựng và bảo vệ Tổ
quốc xã hội chủ nghĩa trong tình hình mới.
8. Theo Hồ Chí Minh: Phải kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại để
đưa cách mạng Việt Nam tiến lên, đồng thời góp phần vào thắng lợi của cách mạng thế
giới. Anh chị hãy phân tích nội dung và ý nghĩa của luận điểm trên?
* Thực hiện đoàn kết quốc tế nhằm kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh
thời đại, tạo sức mạnh tổng hợp cho cách mạng
- Theo Hồ Chí Minh, thực hiện đoàn kết quốc tế để tập hợp lực lượng bên ngoài,
tranh thủ sự đồng tình, ủng hộ và giúp đỡ của bạn bè quốc tế, kết hợp sức mạnh dân tộc với
sức mạnh của các trào lưu cách mạng thời đại để tạo thành sức mạnh tổng hợp cho cách
mạng Việt Nam.
Sức mạnh dân tộc là sự tổng hợp của các yếu tố vật chất và tinh thần, song trước hết
là sức mạnh của chủ nghĩa yêu nước và ý thức tự lực, tự cường dân tộc; sức mạnh của tinh
thần đoàn kết; của ý chí đấu tranh anh dũng, bất khuất cho độc lập, tự do... Sức mạnh đó đã
giúp cho dân tộc Việt Nam vượt qua mọi thử thách, khó khăn trong dựng nước và giữ
nước.
Sức mạnh thời đại là sức mạnh của phong trào cách mạng thế giới, đó còn là sức
mạnh của chủ nghĩa Mác - Lênin được xác lập bởi thắng lợi của Cách mạng Tháng Mười
Nga năm 1917. Trong quá trình hoạt động cách mạng, nhờ chú ý tổng kết thực tiễn dưới
ánh sáng chủ nghĩa Mác - Lênin, Hồ Chí Minh đã từng bước phát hiện ra sức mạnh vĩ đại
tiềm ẩn trong các phong trào cách mạng thế giới mà Việt Nam cần tranh thủ.
- Hồ Chí Minh đã sớm xác định cách mạng Việt Nam là một bộ phận của cách
mạng thế giới ngay từ khi tìm thấy con đường cứu nước, Người cho rằng, cách mạng Việt
Nam chỉ có thể thành công khi thực hiện đoàn kết chặt chẽ với phong trào cách mạng thế
giới.
Thực hiện đại đoàn kết toàn dân tộc phải gắn liền với đoàn kết quốc tế; đại đoàn kết
toàn dân tộc là cơ sở cho việc thực hiện đoàn kết quốc tế. Cùng với quá trình phát triển
thắng lợi của cách mạng Việt Nam trong quan hệ với quốc tế, tư tưởng đoàn kết với phong
trào cách mạng thế giới đã được Hồ Chí Minh phát triển ngày càng đầy đủ, rõ ràng và cụ
thể hơn.
* Thực hiện đoàn kết quốc tế nhằm góp phần cùng nhân dân thế giới thực hiện
thắng lợi các mục tiêu cách mạng của thời đại
- Hồ Chí Minh chỉ ra rằng, chủ nghĩa yêu nước chân chính phải được gắn liền với
chủ nghĩa quốc tế vô sản, đại đoàn kết dân tộc phải gắn liền với đoàn kết quốc tế; thực hiện
đoàn kết quốc tế không những vì thắng lợi của cách mạng mỗi nước mà còn vì sự nghiệp
chung của nhân loại tiến bộ trong cuộc đấu tranh chống chủ nghĩa đế quốc và các thế lực
phản động quốc tế.
- Thời đại mà Hồ Chí Minh sống và hoạt động chính trị là thời đại đã chấm dứt thời
kỳ tồn tại biệt lập giữa các quốc gia, mở ra các quan hệ quốc tế ngày càng sâu rộng cho các
dân tộc, làm cho vận mệnh của mỗi dân tộc không thể tách rời vận mệnh chung của cả loài
người. Ngay sau khi nắm được đặc điểm của thời đại mới, Hồ Chí Minh đã hoạt động
không mệt mỏi để phá thế đơn độc của cách mạng Việt Nam, gắn cách mạng Việt Nam với
cách mạng thế giới.
- Theo Hồ Chí Minh, muốn tăng cường đoàn kết quốc tế trong cuộc đấu tranh vì
mục tiêu chung, các đảng cộng sản trên thế giới phải kiên trì chống lại mọi khuynh hướng
sai lầm của chủ nghĩa cơ hội, chủ nghĩa vị kỷ dân tộc, chủ nghĩa sô vanh..., tiến hành có
hiệu quả việc giáo dục chủ nghĩa yêu nước chân chính kết hợp với chủ nghĩa quốc tế vô
sản cho nhân dân.
* Ý nghĩa của luận điểm trên:
Với đường lối đúng đắn của Đảng ta về sự kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh
của thời đại, Đảng ta đã chủ trương nêu cao ý chí tự lực, tự cường, tinh thần độc lập tự chủ
dựa vào sức mình là chính, huy động đến mức cao nhất, lực lượng chính trị, quân sự, kinh
tế văn hoá, lực lượng vật chất tinh thần có sẵn trong nước.
Phát huy những tiềm lực của đất nước với truyền thống lịch sử oanh liệt của tổ tiên,
với kinh nghiệm cách mạng quý báu của dân tộc, đã tạo ra một sức mạnh to lớn nhất cho
nhân dân ta làm nên chiến công hiển hách, vĩ đại mang tính thời đại của dân tộc.
Đồng thời với đường lối quốc tế đúng đắn, Đảng ta đã tranh thủ được sự ủng hộ to
lớn và hiệu quả của các nước XHCN mà nòng cốt là Liên Xô và Trung Quốc với anh em
các nước bè bạn năm châu góp phần làm nên thắng lợi cho đất nước và cho cả cuộc cách
mạng thế giới.
Ở thời điểm hiện tại với luận điểm trên nó mang ý nghĩa sâu sắc cho đất nước ta
hướng vào mục tiêu chung là hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ tiến bộ xã hội; 
Hợp tác và phát triển; đa phương hoá, đa dạng hoá quan hệ, chủ động và tích cực
hội nhập quốc tế; nâng cao vị thế của đất nước; vị lợi ích quốc gia, dân tộc, vì một nước
Việt Nam xã hội chủ nghĩa giàu mạnh; là bạn, đối tác tin cậy và thành viên có trách nhiệm
trong cộng đồng quốc tế, góp phần vào sự nghiệp hoà bình, độc lập dân tộc và và tiến bộ
xã hội trên thế giới.

Câu 9 Hồ Chí Minh nói: Rằng đây bốn biển một nhà; Vàng, đen, trắng, đỏ đều là
anh em; Bốn phương vô sản đều là anh em. Anh chị hãy phân tích nội dung và ý
nghĩa luận điểm trên?
Lực lượng đoàn kết quốc tế trong tư tưởng Hồ Chí Minh bao gồm: phong trào cộng
sản và công nhân quốc tế; phong trào đấu tranh giải phóng dân tộc và phong trào hoà bình,
dân chủ thế giới, trước hết là phong trào chống chiến tranh của nhân dân các nước đang
xâm lược Việt Nam.
- Đối với phong trào cộng sản và công nhân quốc tế, Hồ Chí Minh cho rằng, sự
đoàn kết giữa giai cấp công nhân quốc tế là một bảo đảm vững chắc cho thắng lợi của chủ
nghĩa cộng sản. Chủ trương đoàn kết giai cấp công nhân quốc tế, đoàn kết giữa các đảng
cộng sản trong tư tưởng Hồ Chí Minh xuất phát từ tính tất yếu về vai trò của giai cấp công
nhân trong thời đại ngày nay. Hồ Chí Minh cho rằng, chủ nghĩa tư bản là một lực lượng
phản động quốc tế, là kẻ thù chung của nhân dân lao động toàn thế giới. Trong hoàn cảnh
đó, chỉ có sức mạnh của sự đoàn kết, nhất trí, sự đồng tình và ủng hộ lẫn nhau của lao động
toàn thế giới theo tinh thần “bốn phương vô sản đều là anh em” mới có thể chống lại được.
- Đối với phong trào đấu tranh giải phóng dân tộc, từ rất sớm, Hồ Chí Minh đã thấy
rõ âm mưu chia rẽ dân tộc của các nước đế quốc. Chính vì vậy, Người đã lưu ý Quốc tế
Cộng sản về những biện pháp nhằm “làm cho các dân tộc thuộc địa, từ trước đến nay vẫn
cách biệt nhau, hiểu biết nhau hơn và đoàn kết lại để đặt cơ sở cho một liên minh phương
Đông tương lai, khối liên minh này sẽ là một trong những cái cánh của cách mạng vô sản”.
Thêm vào đó, để tăng cường đoàn kết giữa cách mạng thuộc địa và cách mạng vô sản
chính quốc, Hồ Chí Minh còn đề nghị Quốc tế Cộng sản, bằng mọi cách phải “làm cho đội
quân tiên phong của lao động thuộc địa tiếp xúc mật thiết với giai cấp vô sản phương Tây
để dọn đường cho một sự hợp tác thật sự sau này”.
- Đối với các lực lượng tiến bộ, những người yêu chuộng hoà bình, dân chủ, tự do
và công lý, Hồ Chí Minh cũng tìm mọi cách để thực hiện đoàn kết. Trong xu thế mới của
thời đại, sự thức tỉnh dân tộc gắn liền với sự thức tỉnh giai cấp, Hồ Chí Minh đã gắn cuộc
đấu tranh vì độc lập ở Việt Nam với mục tiêu bảo vệ hòa bình, tự do, công lý và bình đẳng
để tập hợp và tranh thủ sự ủng hộ của các lực lượng tiến bộ trên thế giới. Gắn cuộc đấu
tranh vì độc lập của dân tộc với mục tiêu hòa bình, tự do và công lý, Hồ Chí Minh đã khơi
gợi lương tri của những người tiến bộ tạo nên những tiếng nói ủng hộ mạnh mẽ của các tổ
chức quần chúng, các nhân sĩ trí thức và từng con người trên hành tinh.
* Ý nghĩa của luận điểm trên:
Giáo dục nhân dân về lòng yêu hòa bình và tình hữu nghị giữa các dân tộc, biết kết
hợp chủ nghĩa yêu nước chân chính với chủ nghĩa quốc tế trong sáng.
Đẩy mạnh việc giao lưu, tiếp xúc, nhằm tăng cường sự hiểu biết lẫn nhau giữa các
dân tộc - một cơ sở để duy trì và củng cố hòa bình.
Đó là tư tưởng có tầm nhìn xa, đi trước thời đại, đặt nền móng cho chiến lược hội
nhập kinh tế quốc tế, mở cửa, hợp tác làm ăn với nước ngoài của Đảng và Nhà nước Việt
Nam hiện nay, ghi nhớ công ơn to lớn của nhân dân các nước xã hội chủ nghĩa, thể hiện
bằng việc hợp tác cùng phát triển; phân biệt chủ nghĩa quốc tế chân chính, vượt qua chủ
nghĩa dân tộc, mở rộng khối đại đoàn kết, tạo sức mạnh nội lực và ngoại lực để phát triển
Việt Nam ngày càng vững mạnh.

CÂU10 Hồ Chí Minh nói: Cách mệnh An Nam cũng là một bộ phận trong cách
mạng thế giới. Ai làm cách mệnh trong thế giới đều là đồng chí của dân An Nam cả.
Anh chị hãy phân tích nội dung và ý nghĩa luận điểm trên?
- Đoàn kết quốc tế trong tư tưởng Hồ Chí Minh không phải là vấn đề sách lược, một
thủ đoạn chính trị nhất thời mà là vấn đề có tính nguyên tắc, một đòi hỏi khách quan của
cách mạng Việt Nam. Từ năm 1924, Hồ Chí Minh đã đưa ra quan điểm về thành lập “Mặt
trận thống nhất của nhân dân chính quốc và thuộc địa” chống chủ nghĩa đế quốc, đồng thời
kiến nghị Quốc tế Cộng sản cần có giải pháp cụ thể để quan điểm này trở thành sự thật.
- Đối với các dân tộc trên bán đảo Đông Dương, Hồ Chí Minh dành sự quan tâm
đặc biệt. Cả ba dân tộc đều là láng giềng gần gũi của nhau, có nhiều điểm tương đồng về
lịch sử, văn hoá và cùng chung một kẻ thù là thực dân Pháp. Năm 1941, để khơi dậy sức
mạnh và quyền tự quyết của mỗi dân tộc, theo đúng quan điểm của Hồ Chí Minh về tập
hợp lực lượng cách mạng, Đảng quyết định thành lập Mặt trận Việt Nam Độc lập đồng
minh (gọi tắt là Việt Minh); giúp Lào và Campuchia thành lập mặt trận yêu nước. Trong
hai cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ, Hồ Chí Minh đã chỉ đạo việc
hình thành Mặt trận nhân dân ba nước Đông Dương.
- Với các dân tộc châu Á, Người chỉ rõ, các dân tộc châu Á có độc lập thì nền hoà
bình thế giới mới thực hiện. Vận mệnh dân tộc châu Á có quan hệ mật thiết với vận mệnh
dân tộc Việt Nam. Do vậy, từ những năm 20 của thế kỷ XX, cùng với việc sáng lập Hội
Liên hiệp thuộc địa tại Pháp, Hồ Chí Minh đã tham gia sáng lập Hội Liên hiệp các dân tộc
bị áp bức tại Trung Quốc. Đây là hình thức sơ khai của mặt trận thống nhất các dân tộc bị
áp bức theo xu hướng vô sản, lần đầu tiên xuất hiện trong lịch sử phong trào đấu tranh giải
phóng dân tộc. Với việc tham gia sáng lập các tổ chức này, Hồ Chí Minh đã góp phần đặt
cơ sở cho sự ra đời của Mặt trận nhân dân Á - Phi đoàn kết với Việt Nam.
- Những năm đấu tranh giành độc lập dân tộc, Hồ Chí Minh tìm mọi cách xây dựng
các quan hệ với mặt trận dân chủ và lực lượng đồng minh chống phátxít, nhằm tạo thế và
lực cho cách mạng Việt Nam. Trong kháng chiến chống thực dân Pháp và chống đế quốc
Mỹ, bằng hoạt động ngoại giao không mệt mỏi, Hồ Chí Minh đã nâng cao vị thế của Việt
Nam trên trường quốc tế, tranh thủ được sự đồng tình, ủng hộ của các nước xã hội chủ
nghĩa, của bạn bè quốc tế và nhân loại tiến bộ, trong đó có cả nhân dân yêu chuộng hoà
bình Pháp trong kháng chiến chống Pháp và cả nhân dân yêu chuộng hoà bình Mỹ trong
kháng chiến chống Mỹ, hình thành Mặt trận nhân dân thế giới đoàn kết với Việt Nam
chống đế quốc xâm lược.
Như vậy, tư tưởng đoàn kết vì thắng lợi của cách mạng Việt Nam đã định hướng
cho việc hình thành bốn tầng mặt trận: Mặt trận đại đoàn kết dân tộc; Mặt trận đoàn kết
Việt Nam – Lào – Campuchia; Mặt trận nhân dân Á - Phi đoàn kết với Việt Nam; Mặt trận
nhân dân thế giới đoàn kết với Việt Nam chống đế quốc xâm lược. Đây thực sự là sự phát
triển rực rỡ nhất và thắng lợi to lớn nhất của tư tưởng Hồ Chí Minh về đại đoàn kết.
* Ý nghĩa của luận điểm trên:
Quan điểm đoàn kết rộng mở của Người về hội nhập quốc tế là hướng vào những
người làm cách mạng, không bị ràng buộc bởi châu lục hay màu da. => thể hiện tầm nhìn
mở rộng ra toàn thế giới, không chỉ thu hẹp ở phương Đông 
Tư tưởng Hồ Chí Minh đã chỉ ra một trong những yếu tố dẫn đến thành công của sự
nghiệp cách mạng Việt Nam là phải hội nhập với thế giới, đoàn kết với phong trào cách
mạng thế giới để góp phần tạo nên sức mạnh tổng hợp của cách mạng nước ta. Chính từ
đây, Người chủ trương đưa cách mạng Việt Nam đi theo con đường của thời đại mới: con
đường cách mạng vô sản và Việt Nam đã trở thành một bộ phận không thể tách rời của
phong trào cách mạng thế giới.
Ngày nay với phương châm chủ động và tích cực hội nhập quốc tế, vị thế của nước
ta ngày càng được nâng cao trên trường quốc tế, đạt  nhiều thành tựu to lớn trên các lĩnh
vực của đời sống chính trị, kinh tế, xã hội. 
Điều này một lần nữa khẳng định, trong bất kỳ giai đoạn nào của lịch sử, nếu nhận
thức đúng và nắm bắt được xu thế phát triển, các dòng chảy của cách mạng thế giới, gắn
mục tiêu đấu tranh của nhân dân ta với các quốc gia, dân tộc trên thế giới vì hòa bình, độc
lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội, thì sẽ tranh thủ được sự đồng tình, ủng hộ của các
lực lượng cách mạng và tiến bộ trên thế giới.

11. Anh (chị) hãy chứng minh: Tư tưởng Hồ Chí Minh soi đường cho mọi thắng
lợi của cách mạng Việt Nam và phản ánh khát vọng của nhân loại tiến bộ? Tại sao
sinh viên cần học tập làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh?
1. Đối với cách mạng Việt Nam
a. Tư tưởng Hồ Chí Minh đưa cách mạng giải phóng dân tộc Việt Nam đến
thắng lợi và bắt đầu xây dựng một xã hội mới trên đất nước ta
Hồ Chí Minh tìm thấy con đường cứu nước cứu dân, sáng lập, lãnh đạo và rèn luyện
Đảng ta thành một đảng cách mạng chân chính toàn tâm, toàn ý phục vụ nhân dân đã lãnh
đạo cuộc cách mạng Tháng Tám năm 1945 thành công. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã mở ra
một thời đại mới trong lịch sử dân tộc Việt Nam - Thời đại độc lập dân tộc gắn liền với chủ
nghĩa xã hội.
Tư tưởng Hồ Chí Minh từ khi ra đời đã trở thành ngọn cờ tư tưởng dẫn đường cách
mạng Việt Nam đi từ thắng lợi này đến thắng lợi khác, và chính thực tiễn thắng lợi của
cách mạng Việt Nam chứng mình, khẳng định tính đúng đắn, giàu sáng tạo của tư tưởng
Hồ Chí Minh. Tư tưởng Hồ Chí Minh là một hệ thống mở đầy sức sống được Đảng cộng
sản Việt Nam tiếp tục vận dụng sáng tạo, bổ sung, phát triển trong sự nghiệp đổi mới hiện
nay và trong tương lai.
b. Tư tưởng Hồ Chí Minh là nền tảng tư tưởng và kim chỉ nam cho cách mạng
Việt Nam
Tư tưởng Hồ Chí Minh tiếp tục soi đường cho Đảng Cộng sản Việt Nam và nhân
dân Việt Nam trên con đường thực hiện mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội dân chủ,
công bằng, văn minh.
Trong bối cảnh của thế giới ngày nay, tư tưởng Hồ Chí Minh giúp Đảng ta, nhân
dân ta nhận thức đúng những vấn đề lớn có liên quan đến việc bảo vệ nền độc lập dân tộc,
phát triển kinh tế-xã hội, bảo đảm tự do và hạnh phúc của con người, tiến tới xã hội xã hội
chủ nghĩa. Tất cả các quan điểm lý luận và phương pháp cách mạng cơ bản trong tư tưởng
Hồ Chí Minh đều là nhằm tới mục tiêu: Độc lập, thống nhất cho Tổ quốc, tự do, dân chủ
cho nhân dân, công bằng và hạnh phúc cho mọi người, hòa bình và hữu nghị cho các dân
tộc với sự phát triển các quan hệ văn hóa, nhân văn của thời đại.
Tư tưởng Hồ Chí Minh là chỗ dựa vững chắc để Đảng Cộng sản Việt Nam vạch ra
đường lối cách mạng đúng đắn, là sợi chỉ đỏ dẫn đường cho toàn Đảng, toàn dân, toàn
quân Việt Nam đi tới thắng lợi. Tư tưởng Hồ Chí Minh trường tồn, bất diệt cùng với sự
phát triển vững mạnh của dân tộc Việt Nam.
2. Đối với sự phát triển tiến bộ của nhân loại
a. Tư tưởng Hồ Chí Minh góp phần mở ra cho các dân tộc thuộc địa con đường
giải phóng dân tộc gắn với sự tiến bộ xã hội
Cống hiến lý luận lớn đầu tiên của Hồ Chí Minh là về cách mạng giải phóng dân
tộc. Cách mạng giải phóng dân tộc muốn giành thắng lợi triệt để phải đi theo con đường
cách mạng vô sản, được tiến hành bởi toàn thể nhân dân với nòng cốt liên minh công nông
dưới sự lãnh đạo của Đảng cộng sản. Cách mạng giải phóng dân tộc cần được tiến hành
chủ động, sáng tạo, có thể thắng lợi trước cách mạng vô sản ở chính quốc, bằng con đường
bạo lực: Kết hợp đấu tranh chính trị của quần chúng với đấu tranh vũ trang.
Tư tưởng Hồ Chí Minh về cách mạng giải phóng dân tộc bao gồm một hệ thống các
luận điểm giải quyết một cách đúng đắn, sáng tạo vấn đề dân tộc và thuộc địa, dân tộc và
giai cấp, độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, về cách mạng giải phóng dân tộc gắn với giải
phóng giai cấp và giải phóng con người, góp phần bổ sung, phát triển kho tàng lý luận chủ
nghĩa Mác - Lênin.
b. Tư tưởng Hồ Chí Minh góp phần tích cực vào cuộc đấu tranh vì độc lập dân
tộc, dân chủ, hòa bình, hợp tác và phát triển trên thế giới
Hồ Chí Minh là người Việt Nam đầu tiên khẳng định hợp tác quốc tế là xu thế tất
yếu của thời đại, phá bỏ sự biệt lập, mở đường cho sự phát triển, liên kết các dân tộc trong
cuộc đấu tranh vì độc lập, tự do, hòa bình, dân chủ và tiến bộ xã hội. Người là một nhà
hoạt động quốc tế lỗi lạc trong phong trào giải phóng dân tộc, phong trào cộng sản, công
nhân quốc tế và phong trào vì hòa bình, hợp tác và phát triển trên thế giới.
Hồ Chí Minh đã gắn cách mạng Việt Nam với các phong trào giải phóng dân tộc,
phong trào đấu tranh của giai cấp công nhân trong các nước tư bản và phong trào cộng sản
quốc tế, phong trào vì hòa bình, hợp tác và phát triển.
Hồ Chí Minh chủ trương hòa bình, hữu nghị, hợp tác lâu dài giữa các nước, không
chỉ xuất phát từ những mục tiêu chính trị vì độc lập dân tộc, tiến bộ xã hội của thời đại, mà
còn vì sự phát triển nhanh chóng của lực lượng sản xuất thế giới. Trong tư tưởng Hồ Chí
Minh, hợp tác quốc tế không chỉ để giành độc lập dân tộc, mà còn là để xóa bỏ nghèo nàn,
lạc hậu, tiến kịp các nước tiên tiến và sâu xa là đặt chiến lược phát triển đất nước gắn với
những chuyển biến của thời đại về chính trị, kinh tế, giữ vững độc lập của dân tộc mình
đồng thời tôn trọng độc lập của các dân tộc khác, được thể hiện qua quan điểm nổi bật của
Người: “Làm bạn với tất cả mọi nước dân chủ và không gây thù oán với một ai”.
Bạn bè năm châu khâm phục và coi Hồ Chí Minh là biểu tượng cao đẹp của những
giá trị về tư tưởng, lương tri và phẩm giá làm người.
Việc nghiên cứu, học tập tư tưởng Hồ Chí Minh cần góp phần thiết thực vào việc
làm cho tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh trở thành một bộ phận cấu thành nền
tảng tinh thần vững chắc của xã hội Việt Nam hiện đại.
* Sinh viên cần học tập làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh
vì:
- Nâng cao năng lực tư duy lý luận và pp học tập, công tác
=> Gương mẫu trong sinh hoạt học tập, tránh rơi vào thói ích kỷ, cá nhân, trưởng
thành hơn sau quá trình học ở trường, để có đủ năng lực trở thành công dân trẻ có đạo đức,
tri thức, góp phần xây dựng đất nước giàu đẹp, văn minh.
- Học tập và làm theo để tự hoàn thiện mình
Sinh viên là thế hệ trẻ - “người chủ tương lai của nước nhà", cần phải học tập theo
Bác hoàn thiện về đạo đức, lối sống thẩm mỹ, ứng xử văn hóa và kỹ năng để hoàn thiện
bản thân; sống trong sạch, giản dị, giàu lòng nhân ái, ý chí và nghị lực tinh thần to lớn
quyết tâm vượt qua mọi thử thách, gian nguy để đạt được mục đích trong cuộc sống
- Bồi dưỡng đạo đức cách mạng, rèn luyện bản lĩnh chính trị 
Đạo đức cách mạng đối với SV rất quan trọng, vì nếu SV không tự nâng cao, trau
dồi cho bản thân thì trong giai đoạn hiện nay rất dễ bị tác động bởi những giá trị văn hóa
không lành mạnh, tệ nạn xã hội, tư tưởng sai trái, xuyên tạc vô căn cứ của một số bộ phận
có âm mưu thù địch chia rẽ nước nhà.

12. Nghị quyết của UNESCO năm 1987 có viết: Tư tưởng Hồ Chí Minh là hiện
thân của những khát vọng của các dân tộc bị áp bức, tiêu biểu thúc đẩy sự hiểu biết
giữa các dân tộc trên thế giới. Anh (chị) hiểu thế nào về ý nghĩa câu nói trên?
a. Tư tưởng Hồ Chí Minh góp phần mở ra cho các dân tộc thuộc địa con đường
giải phóng dân tộc gắn với sự tiến bộ xã hội
Cống hiến lý luận lớn đầu tiên của Hồ Chí Minh là về cách mạng giải phóng dân
tộc. Cách mạng giải phóng dân tộc muốn giành thắng lợi triệt để phải đi theo con đường
cách mạng vô sản, được tiến hành bởi toàn thể nhân dân với nòng cốt liên minh công nông
dưới sự lãnh đạo của Đảng cộng sản. Cách mạng giải phóng dân tộc cần được tiến hành
chủ động, sáng tạo, có thể thắng lợi trước cách mạng vô sản ở chính quốc, bằng con đường
bạo lực: Kết hợp đấu tranh chính trị của quần chúng với đấu tranh vũ trang.
Tư tưởng Hồ Chí Minh về cách mạng giải phóng dân tộc bao gồm một hệ thống các
luận điểm giải quyết một cách đúng đắn, sáng tạo vấn đề dân tộc và thuộc địa, dân tộc và
giai cấp, độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, về cách mạng giải phóng dân tộc gắn với giải
phóng giai cấp và giải phóng con người, góp phần bổ sung, phát triển kho tàng lý luận chủ
nghĩa Mác - Lênin.
b. Tư tưởng Hồ Chí Minh góp phần tích cực vào cuộc đấu tranh vì độc lập dân
tộc, dân chủ, hòa bình, hợp tác và phát triển trên thế giới
Hồ Chí Minh là người Việt Nam đầu tiên khẳng định hợp tác quốc tế là xu thế tất
yếu của thời đại, phá bỏ sự biệt lập, mở đường cho sự phát triển, liên kết các dân tộc trong
cuộc đấu tranh vì độc lập, tự do, hòa bình, dân chủ và tiến bộ xã hội. Người là một nhà
hoạt động quốc tế lỗi lạc trong phong trào giải phóng dân tộc, phong trào cộng sản, công
nhân quốc tế và phong trào vì hòa bình, hợp tác và phát triển trên thế giới.
Hồ Chí Minh đã gắn cách mạng Việt Nam với các phong trào giải phóng dân tộc,
phong trào đấu tranh của giai cấp công nhân trong các nước tư bản và phong trào cộng sản
quốc tế, phong trào vì hòa bình, hợp tác và phát triển.
Hồ Chí Minh chủ trương hòa bình, hữu nghị, hợp tác lâu dài giữa các nước, không
chỉ xuất phát từ những mục tiêu chính trị vì độc lập dân tộc, tiến bộ xã hội của thời đại, mà
còn vì sự phát triển nhanh chóng của lực lượng sản xuất thế giới. Trong tư tưởng Hồ Chí
Minh, hợp tác quốc tế không chỉ để giành độc lập dân tộc, mà còn là để xóa bỏ nghèo nàn,
lạc hậu, tiến kịp các nước tiên tiến và sâu xa là đặt chiến lược phát triển đất nước gắn với
những chuyển biến của thời đại về chính trị, kinh tế, giữ vững độc lập của dân tộc mình
đồng thời tôn trọng độc lập của các dân tộc khác, được thể hiện qua quan điểm nổi bật của
Người: “Làm bạn với tất cả mọi nước dân chủ và không gây thù oán với một ai”.
Bạn bè năm châu khâm phục và coi Hồ Chí Minh là biểu tượng cao đẹp của những
giá trị về tư tưởng, lương tri và phẩm giá làm người.
Việc nghiên cứu, học tập tư tưởng Hồ Chí Minh cần góp phần thiết thực vào việc
làm cho tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh trở thành một bộ phận cấu thành nền
tảng tinh thần vững chắc của xã hội Việt Nam hiện đại.

13. Hãy phân tích thời kỳ hình thành cơ bản nhân cách và thời kỳ có sự thay đổi
sâu sắc về bản chất trong quá trình hình thành, phát triển tư tưởng Hồ Chí Minh?
Tại sao sinh viên cần học tập làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí
Minh?
* Tư tưởng HCM hình thành và phát triển qua 5 giai đoạn:
- Thời kỳ hình thành tư tưởng yêu nước và chí hướng cứu nước (trước năm
1911)
- Thời kỳ tìm kiếm và xác định con đường cứu nước, giải phóng dân tộc (1911 -
1920)
- Thời kỳ hình thành những nội dung cơ bản tư tưởng về cách mạng Việt Nam
(1920 -1930)
- Thời kỳ vượt qua thử thách, giữ vững đường lối cách mạng đúng đắn, sáng
tạo (1930 -1941)
- Thời kỳ tư tưởng Hồ Chí Minh phát triển và thắng lợi (1941 -1969)
Thời kỳ hình thành cơ bản nhân cách - Thời kỳ tìm kiếm và xác định con đường
cứu nước, giải phóng dân tộc (1911 -1920):
- Hồ Chí Minh đến nhiều nước trên thế giới để tìm hiểu, khảo sát, lựa chọn con
đường cứu nước. Qua cuộc hành trình này, ở Người hình thành một nhận thức mới: Nhân
dân lao động các nước, trong đó có giai cấp công nhân, đều bị bóc lột có thể là bạn của
nhau; còn chủ nghĩa đế quốc, bọn thực dân ở đâu cũng là kẻ bóc lột, là kẻ thù của nhân dân
lao động.
- Năm 1919, Người thay mặt những người Việt Nam yêu nước ở Pháp, lấy tên là
Nguyễn Ái Quốc, gửi Yêu sách của nhân dân An Nam tới Hội nghị Vécxây, đòi quyền tự
do, dân chủ cho nhân dân Việt Nam. Đây là tiếng nói chính nghĩa đầu tiên của đại biểu
phong trào giải phóng dân tộc Việt Nam trên diễn đàn quốc tế. Tiếng nói chính nghĩa đó có
ảnh hưởng lớn tới các phong trào yêu nước ở Việt Nam.
- Hồ Chí Minh đã tìm thấy và xác định rõ phương hướng đấu tranh giải phóng dân
tộc Việt Nam theo con đường cách mạng vô sản qua nghiên cứu "Sơ thảo lần thứ nhất luận
cương về những vấn đề dân tộc và vấn đề thuộc địa» của Lênin vào tháng 7-1920.
- Cuối năm 1920, Hồ Chí Minh cùng những người phái tả trong Đảng Xã hội Pháp
tại Đại hội ở thành phố Tua, bỏ phiếu tán thành Quốc tế Cộng sản, tham gia sáng lập Đảng
Cộng sản Pháp, trở thành người cộng sản Việt Nam đầu tiên. Đây là bước ngoặt quan trọng
trong cuộc đời của Hồ Chí Minh, bước ngoặt chủ nghĩa yêu nước kết hợp chặt chẽ với lập
trường cách mạng vô sản.
Thời kỳ có sự thay đổi sâu sắc về bản chất trong quá trình hình thành, phát triển
tư tưởng Hồ Chí Minh - Thời kỳ hình thành những nội dung cơ bản tư tưởng về cách
mạng Việt Nam (1920 -1930):
- Đây là thời kỳ Hồ Chí Minh hoạt động lý luận và thực tiễn sôi nổi, phong phú ở
nhiều nơi trên thế giới: Pháp (1921-1923), Liên Xô (1923-1924), Trung Quốc(1924-1927),
Thái Lan (1928-1929), đẩy mạnh hoạt động lý luận chính trị, tổ chức, chuẩn bị cho việc
thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam để lãnh đạo cách mạng Việt Nam.
- Thông qua báo chí và các hoạt động thực tiễn Người tích cực truyền bá chủ nghĩa
Mác - Lênin vào phong trào công nhân và phong trào yêu nước Việt Nam. Các tác phẩm
như Bản án chế độ thực dân Pháp (1925), Đường Kách mệnh (1927) và nhiều bài viết của
Hồ Chí Minh trong thời kỳ này thể hiện những quan điểm độc đáo, sáng tạo của Người về
con đường cách mạng Việt Nam.
- Cũng trong thời kỳ này, Hồ Chí Minh sáng lập tổ chức tiền thân của Đảng Cộng
sản: Hội Việt Nam Thanh niên Cách mạng (tháng 6-1925), ra báo Thanh niên bằng tiếng
Việt, từng bước truyền bá chủ nghĩa Mác - Lênin và lý luận cách mạng trong những người
yêu nước và công nhân.
- Hồ Chí Minh chủ trì Hội nghị hợp nhất các tổ chức cộng sản Việt Nam thành
Đảng Cộng sản Việt Nam, thông qua các văn kiện do Người khởi thảo (đầu năm 1930).
Các văn kiện này là Cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng Cộng sản Việt Nam, trong đó
chính thức khẳng định rõ những quan điểm cơ bản về đường lối, phương pháp cách mạng
Việt Nam, việc tổ chức, xây dựng Đảng Cộng sản Việt Nam thành một tổ chức lãnh đạo
cách mạng Việt Nam.
- Hồ Chí Minh thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam với Cương lĩnh chính trị đúng
đắn và sáng tạo đã chấm dứt cuộc khủng hoảng về đường lối và tổ chức lãnh đạo cách
mạng Việt Nam kéo dài suốt từ cuối thế kỷ XIX sang đầu năm 1930.
* Sinh viên cần học tập làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh
vì:
- Nâng cao năng lực tư duy lý luận và pp học tập, công tác
=> Gương mẫu trong sinh hoạt học tập, tránh rơi vào thói ích kỷ, cá nhân, trưởng
thành hơn sau quá trình học ở trường, để có đủ năng lực trở thành công dân trẻ có đạo đức,
tri thức, góp phần xây dựng đất nước giàu đẹp, văn minh.
- Học tập và làm theo để tự hoàn thiện mình
Sinh viên là thế hệ trẻ - “người chủ tương lai của nước nhà", cần phải học tập theo
Bác hoàn thiện về đạo đức, lối sống thẩm mỹ, ứng xử văn hóa và kỹ năng để hoàn thiện
bản thân; sống trong sạch, giản dị, giàu lòng nhân ái, ý chí và nghị lực tinh thần to lớn
quyết tâm vượt qua mọi thử thách, gian nguy để đạt được mục đích trong cuộc sống
- Bồi dưỡng đạo đức cách mạng, rèn luyện bản lĩnh chính trị 
Đạo đức cách mạng đối với SV rất quan trọng, vì nếu SV không tự nâng cao, trau
dồi cho bản thân thì trong giai đoạn hiện nay rất dễ bị tác động bởi những giá trị văn hóa
không lành mạnh, tệ nạn xã hội, tư tưởng sai trái, xuyên tạc vô căn cứ của một số bộ phận
có âm mưu thù địch chia rẽ nước nhà.

14. Hồ Chí Minh từng nói: Khổng Tử, Giêsu, Mác, Tôn Trung Sơn nếu còn sống sẽ
là những người bạn tốt của nhau vì họ đều mưu cầu hạnh phúc cho nhân loại, tôi
cố gắng làm học trò của các vị đó. Anh (chị) hiểu thế nào về ý nghĩa của câu nói
trên?
Có thể tham khảo đề cương Tư tưởng Đề mở 2020 - Câu 13
Tinh hoa văn hoá nhân loại
- Văn hóa phương Đông
Tinh hoa văn hoá, tư tưởng phương Đông kết tinh trong ba học thuyết lớn Nho giáo,
Phật giáo, Lão giáo. Đó là những học thuyết có ảnh hưởng sâu rộng ở phương Đông, và ở
Việt Nam trước đây.
Về Nho giáo, Hồ Chí Minh chú ý kế thừa và đổi mới tư tưởng dùng nhân trị, đức trị
để quản lý xã hội. Kế thừa và phát triển quan niệm của Nho giáo về việc xây dựng một xã
hội lý tưởng trong đó công bằng, bác ái, nhân, nghĩa, trí, dũng, tín, liêm được coi trọng để
có thể đi đến một thế giới đại đồng với hòa bình, không có chiến tranh, các dân tộc có quan
hệ hữu nghị và hợp tác. Đặc biệt, Hồ Chí Minh chú ý kế thừa, đổi mới, phát triển tinh thần
trọng đạo đức của Nho giáo trong việc tu dưỡng, rèn luyện đạo đức của con người; trong
công tác xây dựng Đảng về đạo đức.
Về Phật giáo, Hồ Chí Minh chú ý kế thừa, phát triển tư tưởng từ bi, vị tha, yêu
thương con người, khuyến khích làm việc thiện, chống lại điều ác; đề cao quyền bình đẳng
của con người và chân lý; khuyên con người sống hòa đồng, gắn bó với đất nước của Đạo
Phật.
Về Lão giáo, Hồ Chí Minh chú ý kế thừa, phát triển tư tưởng của Lão Tử, khuyên
con người nên sống gắn bó với thiên nhiên, hoà đồng với thiên nhiên, hơn nữa phải biết
bảo vệ môi trường sống; tư tưởng thoát mọi ràng buộc của vòng danh lợi trong Lão giáo.
Các học thuyết phương Đông khác, Hồ Chí Minh còn chú ý kế thừa, phát triển nhiều ý
tưởng của các trường phái khác nhau trong các nhà tư tưởng phương Đông cổ đại khác như
Mặc Tử, Hàn Phi Tử, Quản Tử, v,v... Người cũng chú ý tìm hiểu những trào lưu tư tưởng
tiến bộ thời cận hiện đại ở Ấn Độ, Trung Quốc như chủ nghĩa Găngđi, chủ nghĩa Tam dân
của Tôn Trung Sơn. Người đã phát triển sáng tạo các quan điểm về dân tộc, dân quyền,
dân sinh của Tôn Trung Sơn trong cách mạng dân chủ tư sản thành tư tưởng đấu tranh cho
Độc lập -Tự do - Hạnh phúc của con người và dân tộc Việt Nam theo con đường cách
mạng vô sản.
Như vậy, là nhà mácxít sáng tạo, Hồ Chí Minh đã kế thừa và phát triển những tinh
hoa trong tư tưởng, văn hóa phương Đông để giải quyết những vấn đề thực tiễn của cách
mạng Việt Nam thời hiện đại.
- Văn hoá phương Tây
Ngay từ khi còn học ở Trường tiểu học Pháp-bản xứ ở thành phố Vinh (1905), Hồ
Chí Minh đã quan tâm tới khẩu hiệu nổi tiếng của Đại Cách mạng Pháp năm 1789: Tự do -
Bình đẳng - Bác ái.
Đi sang phương Tây, Người tiếp cận những tác phẩm của các nhà tư tưởng thế kỷ
ánh sáng; quan tâm tìm hiểu những khẩu hiệu nổi tiếng đó trong các cuộc cách mạng tư sản
ở Anh, Pháp, Mỹ. Người đã kế thừa, phát triển những quan điểm nhân quyền, dân quyền
trong Bản Tuyên ngôn Độc lập năm 1776 của nước Mỹ, Bản Tuyên ngôn Nhân quyền và
Dân quyền năm 1791 của nước Pháp và đề xuất quan điểm về quyền mưu cầu độc lập, tự
do, hạnh phúc của các dân tộc trong thời đại ngày nay.
Như vậy, Hồ Chí Minh đã tiếp thu chọn lọc các tư tưởng, văn hóa tiến bộ của
phương Đông và phương Tây, dân tộc và thời đại; truyền thống và hiện đại, không ngừng
làm giàu trí tuệ của mình bằng tri thức, văn hóa phong phú của nhân loại.

15. Sự sáng tạo của Hồ Chí Minh trong việc giải quyết mối quan hệ giữa vấn đề
dân tộc và vấn đề giai cấp và ý nghĩa của tư tưởng đó với cách mạng Việt Nam?
CHÉP PHẦN NÀY hoặc Câu 6 Đề cương ôn tập có tên Tống Kim Đông
Cách mạng giải phóng dân tộc phải dựa trên lực lượng đại đoàn kết toàn dân tộc, lấy
liên minh công - nông làm nền tảng
- Các nhà lý luận kinh điển của chủ nghĩa Mác - Lênin khẳng định rằng: cách mạng
là sự nghiệp của quần chúng nhân dân; quần chúng nhân dân là chủ thể sáng tạo ra lịch sử.
- Hồ Chí Minh khẳng định: “cách mệnh là việc chung cả dân chúng chứ không phải
việc một hai người”; có dân là có tất cả, trên đời này không gì quý bằng dân, được lòng
dân thì được tất cả, mất lòng dân thì mất tất cả. Người luôn quan niệm phải đoàn kết toàn
dân tộc, đoàn kết tất cả giai cấp, đảng phái, dân tộc, tôn giáo, mọi người Việt Nam yêu
nước, phải tập hợp và đoàn kết toàn dân thì cách mạng mới thành công.
- Trong khi xác định lực lượng cách mạng là toàn dân, Hồ Chí Minh lưu ý rằng,
không được quên “công nông là chủ cách mệnh...là gốc cách mệnh”. Trong tác phẩm
Đường cách mệnh, Người giải thích: giai cấp công nhân và nông dân là hai giai cấp đông
đảo và cách mạng nhất, bị bóc lột nặng nề nhất, vì thế “lòng cách mệnh càng bền, chí cách
mệnh càng quyết...công nông là tay không chân rồi, nếu thua thì chỉ mất một cái kiếp khổ,
nếu được thì được cả thế giới, cho nên họ gan góc”.
*Ý nghĩa của tư tưởng đó với cách mạng Việt Nam:
Sự sáng tạo của Hồ Chí Minh trong việc giải quyết mối quan hệ giữa vấn đề
dân tộc và vấn đề giai cấp là một trong những nhân tố đảm bảo thành công của cách
mạng Việt Nam, vừa có tính cách mạng triệt để vừa có tính khoa học sâu sắc. Trên cơ
sở đó HCM đã xây dựng nên những luận điểm cụ thể về cách mạng giải phóng dân tộc
VN.
Sự phát triển tư tưởng Hồ Chí Minh đã chỉ đạo sự phát triển của thực tiễn cách
mạng Việt Nam, trong sự thúc đẩy lẫn nhau giữa dân tộc và giai cấp, ý thức giác ngộ
về cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc
Thực tiễn cần phải tiếp tục nghiên cứu, học tập, quán triệt tư tưởng Hồ Chí
Minh về vấn đề dân tộc và giai cấp trong tình hình mới, làm cơ sở vững chắc cho việc
vận dụng, hoạch định, tổ chức và thực hiện đường lối, chính sách của Đảng và Nhà
nước, để đưa dân tộc ta vượt qua mọi thử thách, giữ vững mục tiêu độc lập dân tộc và
CNXH; vững bước trong quá trình xây dựng một đất nước vì mục tiêu dân giàu, nước
mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh.

16. Cơ sở nào Hồ Chí Minh cho rằng cách mạng giải phóng dân tộc có thể giành
thắng lợi trước cách mạng vô sản? Ý nghĩa của tư tưởng đó với cách mạng Việt
Nam?
Cách mạng giải phóng dân tộc cần chủ động, sáng tạo, có khả năng giành thắng lợi
trước cách mạng vô sản ở chính quốc
- Quan điểm của Quốc tế cộng sản:
Do chưa đánh giá hết tiềm lực và khả năng to lớn của cách mạng thuộc địa nên
Quốc tế cộng sản có lúc xem nhẹ vai trò của cách mạng thuộc địa, coi cách mạng thuộc địa
phụ thuộc vào cách mạng vô sản ở chính quốc: “Chỉ có thể thực hiện hoàn toàn công cuộc
giải phóng các nước thuộc địa khi giai cấp vô sản giành được thắng lợi ở các nước tư bản
tiên tiến”. Quan điểm này có tác động không tốt, làm giảm đi tính chủ động, sáng tạo của
nhân dân các nước thuộc địa trong công cuộc đấu tranh chống thực dân, đế quốc, giành độc
lập cho dân tộc.
- Quan điểm của Hồ Chí Minh:
Chỉ rõ mối quan hệ khắng khít, tác động qua lại lẫn nhau giữa cách mạng thuộc địa
và cách mạng vô sản ở chính quốc, là mối quan hệ bình đẳng, không lệ thuộc, phụ thuộc
vào nhau. Người nói: “Vận mệnh của giai cấp vô sản thế giới và đặc biệt là vận mệnh của
giai cấp vô sản ở các nước đi xâm lược thuộc địa gắn chặt với vận mệnh của giai cấp bị áp
bức ở các thuộc địa”.
Cách mạng thuộc địa không những không phụ thuộc vào cách mạng vô sản ở chính
quốc mà có thể giành thắng lợi trước.Người nói: “ Nan Nam dân tộc cách mệnh thành công
thì tư bản Pháp yếu, Tư bản Pháp yếu thì công nông Pháp làm cách mạng cững dễ và nếu
công nông Pháp làm cách mạng thành công thì dân tộc An Nam sẽ được tự do”
- Cơ sở để Hồ Chí Minh khẳng định cách mạng thuộc địa có thể giành thắng lợi
trước cách mạng vô sản chính quốc vì:
+ Thấy rõ tầm quan trọng của thuộc địa đối với các nước đế quốc: Thuộc địa có một
vị trí, vai trò, tầm quan trọng đặc biệt đối với chủ nghĩa đế quốc, là nơi duy trì sự tồn tại,
phát triển, là món mồi “béo bở” cho chủ nghĩa đế quốc.
Người cho rằng: “nọc độc và sức sống của con rắn độc tư bản chủ nghĩa đang tập
trung ở các thuộc địa hơn là ở chính quốc”; nếu thờ ơ về vấn đề cách mạng ở thuộc địa thì
như “đánh chết rắn đằng đuôi”; “Chủ nghĩa tư bản là một con đỉa có một cái vòi bám vào
giai cấp vô sản ở chính quốc và một cái vòi khác bám vào giai cấp vô sản ở thuộc địa. Nếu
muốn giết con vật ấy, người ta phải đồng thời cắt cả hai vòi. Nếu người ta chỉ cắt một vòi
thôi, thì cái vòi còn lại kia vẫn tiếp tục hút máu của giai cấp vô sản, con vật vẫn tiếp tục
sống và cái vòi bị cắt đứt lại sẽ mọc ra”.Cho nên, cách mạng ở thuộc địa có vai trò rất lớn
trong việc cùng với cách mạng vô sản ở chính quốc tiêu diệt chủ nghĩa đế quốc.
+ Thấy rõ tiềm năng to lớn của cách mạng ở thuộc địa: “Ngày mà hàng trăm triệu
nhân dân châu Á bị tàn sát và áp bức thức tỉnh để gạt bỏ sự bóc lột đê tiện của một bọn
thực dân lòng tham không đáy, họ sẽ hình thành một lực lượng khổng lồ”.Người viết: “Hỡi
anh em ở các thuộc địa... Anh em phải làm thế nào để được giải phóng? Vận dụng công
thức của Các Mác, chúng tôi xin nói với anh em rằng, công cuộc giải phóng anh em chỉ có
thể thực hiện được bằng sự nổ lực của bản thân anh em”.
- Với thực tiễn thắng lợi năm 1945 ở Việt Nam cũng như phong trào giải phóng dân
tộc trên thế giới đã thành công, trong khi cách mạng vô sản ở chính quốc chưa nổ ra và
thắng lợi, đã chứng minh luận điểm trên của Hồ Chí Minh là độc đáo, sáng tạo, có giá trị lí
luận và thực tiễn to lớn.
*Ý nghĩa của tư tưởng đó với cách mạng Việt Nam:
Quan điểm trên đã kế thừa, phát triển, vận dụng sáng tạo CN Mác- Lênin vào
một nước thuộc địa nửa phong kiến (sáng tạo hơn so với QTCS) đóng góp vào
kho tàng lý luận CN Mác-Lênin.
Là cơ sở, nền tảng đúng đắn cho chủ trương đường lối của Đảng.
Đây là quan điểm có ý nghĩa thực tiễn to lớn, giúp cách mạng giải phóng dân tộc ở
Việt Nam không thụ động, ỷ nại chờ sự giúp đỡ từ bên ngoài mà luôn phát huy tính độc lập
tự chủ, tự lực, tự cường; tinh thần tự lực cánh sinh, dựa vào sức mình là chính (kể cả khi
nền kinh tế còn kém phát triển). Nhờ đó mà cách mạng Việt Nam giành được thắng lợi vĩ
đại.
Đồng thời nó cũng góp phần định hướng cho phong trào giải phóng dân tộc ở các
nước khác trên thế giới trong thời kì bấy giờ. Thực tiễn cách mạng ở một số nước thuộc địa
và cách mạng Việt Nam đã chứng minh rằng đây là một tư tưởng hoàn toàn đúng đắn.

17. Cơ sở lý luận và thực tiễn để Hồ Chí Minh xác định con đường đi lên chủ nghĩa
xã hội ở nước ta? Đặc điểm, xu thế của thời đại hiện nay ảnh hưởng thể nào đến
con đường phát triển của đất nước theo định hướng XHCN?
Tư tưởng Hồ Chí Minh về thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam
a. Tính chất, đặc điểm và nhiệm vụ của thời kỳ quá độ
- Tính chất của thời kỳ quá độ: thực hiện con đường quá độ gián tiếp tiến lên CNXH
bỏ qua chế độ TBCN; đây là thời kỳ cải biến sâu sắc nhất nhưng phức tạp, lâu dài, khó
khăn, gian khổ. Trong điều kiện nước ta là một nước nông nghiệp lạc hậu, mới thoát khỏi
ách thực dân, phong kiến nên nó là công cuộc biến đổi sâu sắc nhất, khó khăn nhất, thậm
chí còn khó khăn, phức tạp hơn cả việc đánh giặc, vì vậy, tiến lên chủ nghĩa xã hội không
thể một sớm một chiều, không thể làm mau được mà phải làm dần dần.
- Đặc điểm của thời kỳ quá độ: Đặc điểm lớn nhất của thời kỳ quá độ ở Việt Nam là
từ một nước nông nghiệp lạc hậu tiến thẳng lên chủ nghĩa xã hội, không trải qua giai đoạn
phát triển tư bản chủ nghĩa.
- Nhiệm vụ của thời kỳ quá độ: Kết hợp giữa cải tạo, xóa bỏ tàn tích của chế độ xã
hội cũ với xây dựng các yếu tố của xã hội mới. Trọng tâm là tiến hành công nghiệp hóa
nhằm xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật của CNXH, đồng thời xây dựng các tiền đề về
chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội. Phải xây dựng một xã hội hoàn toàn chưa từng có trong
lịch sử dân tộc, phải thay đổi triệt để những nếp sống, thói quen, ý nghĩ và thành kiến có
gốc rễ sâu xa hàng ngàn năm; phải xóa bỏ giai cấp bóc lột; phải biến một nước dốt nát, cực
khổ thành một nước văn hóa cao và đời sống tươi vui hạnh phúc.
* Ảnh hưởng của đặc điểm, xu thế thời đại hiện nay đã ảnh hưởng đến con
đường phát triển của đất nước theo định hướng XHCN:
* Trong giai đoạn mới của thời đại, khi cách mạng khoa học- công nghệ và toàn cầu
hoá đời sống thế giới, tất cả các nước đều ở trong mối liên hệ phụ thuộc lẫn nhau, không
một nước nào sống biệt lập mà có thể phát triển được
- Trong hợp tác kinh tế với các nước, nhất là với các nước tư bản phát triển, là
những trung tâm kinh tế kỹ thuật hùng mạnh, họ có thể lợi dụng ưu thế về vốn, kỹ thuật và
công nghệ hiện đại để gây sức ép đối với chúng ta, nhất là trong những lúc chúng ta gặp
khó khăn, buộc chúng ta phải chấp nhận những điều kiện có lợi cho họ, hòng lái chúng ta
đi chệch khỏi định hướng XHCN.
=> VN phải luôn kiên định bảo vệ nền tảng tư tưởng và giữ vững định hướng xã hội
chủ nghĩa, hợp tác cùng phát triển phục vụ cho việc phát triển kinh tế đẩy mạnh CNH,
HĐH đất nước, xây dựng cơ sở vật chất - kỹ thuật của CNXH, nhưng phải luôn cảnh giác
và sẵn sàng đấu tranh bảo vệ lợi ích quốc gia, dân tộc và mục tiêu lý tưởng của mình.
-  Mưu toan của các thế lực cường quyền, hiếu chiến đang thể hiện trong các điểm
nóng trên nhiều khu vực của thế giới đang là những mưu toan độc chiếm các vùng biển
đảo, xâm phạm độc lập, chủ quyền của nước khác 
=> Đó là những thách thức, những nguy cơ mà chúng ta cần có sự nhận thức sâu sắc
và tỉnh táo, không một chút mơ hồ, mất cảnh giác, để có những chủ trương, biện pháp ngăn
ngừa, đối phó hữu hiệu nhằm thực hiện thắng lợi hai nhiệm vụ chiến lược xây dựng CNXH
và bảo vệ Tổ quốc.
* Khi nước ta hội nhập vào kinh tế khu vực và kinh tế thế giới, chúng ta cũng chịu
sự tác động hai chiều tích cực và tiêu cực đến kinh tế của nước ta.
Tác động tích cực khi kinh tế khu vực và kinh tế thế giới ổn định phát triển, tác
động tiêu cực khi kinh tế thế giới và kinh tế khu vực rơi vào trì trệ khủng hoảng.
- Xu thế phát triển mạnh mẽ của khoa học – công nghệ =>  tác động lớn đến cơ
cấu và động thái phát triển của sức sản xuất xã hội, thúc đẩy quá trình toàn cầu hóa và
hội nhập quốc tế có những bước tiến mới mạnh mẽ hơn, làm cho đất nước có cơ hội mới
và cũng đứng trước những thách thức mới.
=> Đảng ta phải vận dụng một cách sáng tạo, phù hợp với thực tiễn cách mạng nước
ta, kiên định con đường đã lựa chọn, để có đủ sức lực và trí tuệ tiến bước cùng thế giới,
tiến cùng thời đại; nhất định thực hiện được mục tiêu: dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công
bằng, văn minh.

18. Theo Hồ Chí Minh: CNXH không thể làm mau được mà phải làm dần dần, đi
bước nào phải vững chắc bước ấy. Anh (chị) hãy phân tích nội dung và ý nghĩa của
luận điểm trên?
* Phân tích nội dung:
* Tính chất, đặc điểm và nhiệm vụ của thời kỳ quá độ
- Tính chất của thời kỳ quá độ: thực hiện con đường quá độ gián tiếp tiến lên
CNXH bỏ qua chế độ TBCN; đây là thời kỳ cải biến sâu sắc nhất nhưng phức tạp, lâu
dài, khó khăn, gian khổ.
Trong điều kiện nước ta là một nước nông nghiệp lạc hậu, mới thoát khỏi ách
thực dân, phong kiến nên nó là công cuộc biến đổi sâu sắc nhất, khó khăn nhất, thậm
chí còn khó khăn, phức tạp hơn cả việc đánh giặc, vì vậy, tiến lên chủ nghĩa xã hội
không thể một sớm một chiều, không thể làm mau được mà phải làm dần dần.
Xây dựng chủ nghĩa xã hội phải thận trọng từng bước một, từ thấp đến cao,
không chủ quan, nôn nóng. Người chỉ rõ: “Ta xây dựng chủ nghĩa xã hội từ hai bàn
tay trắng đi lên thì khó khăn còn nhiều và lâu dài”, “phải làm dần dần”, “không thể
một sớm, một chiều”, “ai nói dễ là chủ quan và sẽ thất bại”. Tư tưởng chủ đạo của Hồ
Chí Minh về bước đi của thời kỳ quá độ ở Việt Nam là phải qua nhiều bước, “bước
ngắn, bước dài, tùy theo hoàn cảnh”, nhưng “chớ ham làm mau, ham rầm rộ……Đi
bước nào vững vàng, chắc chắn bước ấy, cứ tiến tới dần dần”.
- Đặc điểm của thời kỳ quá độ: Đặc điểm lớn nhất của thời kỳ quá độ ở Việt
Nam là từ một nước nông nghiệp lạc hậu tiến thẳng lên chủ nghĩa xã hội, không trải
qua giai đoạn phát triển tư bản chủ nghĩa.
Từ thực tế của xã hội VN, HCM nhận thấy “đặc điểm to lớn nhất của ta trong
thời kỳ quá độ là 1 nước nông nghiệp lạc hậu tiến thẳng lên CNXH không phải phải
kinh qua giai đoạn phát triển
TBCN”. Vì vậy, khi nói về độ dài của thời kỳ quá độ, Người chỉ rõ: “Xây dựng
chủ nghĩa xã hội là một cuộc đấu tranh cách mạng phức tạp, gian khổ và lâu dài”.
- Nhiệm vụ của thời kỳ quá độ: Kết hợp giữa cải tạo, xóa bỏ tàn tích của chế độ
xã hội cũ với xây dựng các yếu tố của xã hội mới. Trọng tâm là tiến hành công nghiệp
hóa nhằm xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật của CNXH, đồng thời xây dựng các tiền đề
về chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội. Phải xây dựng một xã hội hoàn toàn chưa từng có
trong lịch sử dân tộc, phải thay đổi triệt để những nếp sống, thói quen, ý nghĩ và thành
kiến có gốc rễ sâu xa hàng ngàn năm; phải xóa bỏ giai cấp bóc lột; phải biến một nước
dốt nát, cực khổ thành một nước văn hóa cao và đời sống tươi vui hạnh phúc.
Về chính trị, phải xây dựng được chế độ dân chủ vì đây là bản chất của chủ
nghĩa xã hội. Muốn xây dựng được chế độ này, theo HCM, phải chống tất cả các biểu
hiện của chủ nghĩa cá nhân, trước hết ở trong Đảng, trong bộ máy chính quyền từ cấp
cơ sở đến Trung ương đồng thời bồi dưỡng, giáo dục nhân dân có tri thức, có năng lực
làm chủ xã hội.
Về kinh tế, trong bối cảnh nền kinh tế nước ta còn nghèo nàn, kỹ thuật còn lạc
hậu, HCM xác định nhiệm vụ quan trọng nhất của thời kỳ quá độ phải cải tạo nền kinh
tế cũ, xây dựng nền kinh tế mới có công nghiệp và nông nghiệp hiện đại. Đây là quá
trình xây dựng nền tảng vật chất và kỹ thuật của CNXH. Giữa cải tạo và xây dựng thì
xây dựng là nhiệm vụ chủ chốt và lâu dài và phải luôn gắn với việc thực hiện đầy đủ
quyền làm chủ của nhân dân
Về văn hoá, phải triệt để tẩy trừ mọi di tích thuộc địa và ảnh hưởng nô dịch của
văn hoá đế quốc, đồng thời, phát triển những truyền thống tốt đẹp của văn hoá dân tộc
và hấp thụ những cái mới của văn hoá tiến bộ thế giới để xây dựng 1 nền văn hoá VN
có tính chất dân tộc, khoa học, đại chúng.
Về quan hệ xã hội, phải thay đổi triệt để những quan hệ cũ đã trở thành thói
quen trong lối sống, nếp sống của con người, phải xây dựng được 1 XH dân chủ, công
bằng, văn minh, tôn trọng con người, chú ý xem xét những lợi ích cá nhân đúng đắn
và bảo đảm cho nó được thoả mãn để mọi người có điều kiện cải thiện đời sống riêng
của mình, phát huy tính cách riêng và sở trường riêng trong sự hài hoà với đời sống
chung, là lợi ích của tập thể.
Xây dựng chủ nghĩa xã hội là thực hiện cải tạo xã hội cũ, xây dựng xã hội mới,
kết hợp cải tạo với xây dựng, trong đó lấy xây dựng làm chính. Kết hợp xây dựng và
bảo vệ trong phạm vi một quốc gia. Xây dựng chủ nghĩa xã hội phải có kế hoạch, biện
pháp, đặc biệt là quyết tâm (chỉ tiêu 1, biện pháp 10, quyết tâm 20) để thực hiện thắng
lợi kế hoạch đã đề ra.
* Ý nghĩa của luận điểm trên:
Xây dựng chủ nghĩa xã hội là thực hiện cải tạo xã hội cũ, xây dựng xã hội mới,
kết hợp cải tạo với xây dựng, trong đó lấy xây dựng làm chính. Kết hợp xây dựng và
bảo vệ trong phạm vi một quốc gia (tiến hành đồng thời hai nhiệm vụ chiến lược khác
nhau ở hai miền Nam – Bắc trong kháng chiến chống Mỹ, cứu nước). Xây dựng chủ
nghĩa xã hội phải có kế hoạch, biện pháp, đặc biệt là quyết tâm (chỉ tiêu 1, biện pháp
10, quyết tâm 20) để thực hiện thắng lợi kế hoạch đã đề ra.
- Làm rõ quá trình với các bước đi cụ thể trong công cuộc đổi mới
- Phát huy mọi nguồn lực vốn có trong dân để xây dựng thành công CNXH
- Tăng cường vai trò lãnh đạo của Đảng, hiệu lực quản lý của Nhà nước trong việc
huy động các nguồn lực của nhân dân để xây dựng và bảo vệ Tố quốc.
Theo Hồ Chí Minh, biện pháp cơ bản, quyết định, lâu dài trong xây dựng chủ
nghĩa xã hội ở nước ta là đem của dân, tài dân, sức dân làm lợi cho dân dưới sự lãnh
đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam. Vai trò lãnh đạo của Đảng cầm quyền là tập hợp
lực lượng, đề ra đường lối, chính sách nhằm huy động và khai thác các nguồn lực
trong dân để phát triển đất nước vì lợi ích của nhân dân. Người luôn luôn nhắc nhở
phải nêu cao tinh thần độc lập, tự chủ, sáng tạo, chống giáo điều, rập khuôn kinh
nghiệm nước ngoài, phải suy nghĩ tìm tòi, sáng tạo ra cách làm phù hợp với thực tiễn
Việt Nam.

19. Hồ Chí Minh viết: Chủ nghĩa xã hội là nhằm nâng cao đời sống vật chất và văn
hóa của nhân dân và do nhân dân tự xây dựng lấy. Anh (chị) hãy phân tích nội
dung và ý nghĩa của luận điểm trên?
Đặc trưng cơ bản của xã hội xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam
Qua nghiên cứu lý luận CNXHKH về mô hình xã hội xã hội chủ nghĩa, qua thực
tiến xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc trong điều kiện chiến tranh, và qua tìm hiểu
kinh nghiệm của các nước về xây dựng CNXH, Hồ Chí Minh đã viết về mô hình CNXH ở
Việt Nam với một số đặc trưng cơ bản sau:
Thứ nhất, về chính trị: Xã hội xã hội chủ nghĩa là xã hội có chế độ dân chủ.
Chế độ dân chủ trong xã hội xã hội chủ nghĩa được thể hiện trước hết là xã hội do
nhân dân làm chủ, nhân dân là chủ, địa vị cao nhất là nhân dân. Nhà nước là của dân, do
dân và vì dân. Mọi quyền lợi, quyền lực, quyền hạn thuộc về nhân dân và mọi hoạt động
xây dựng, bảo vệ đất nước, bảo vệ chế độ xã hội cũng thuộc về nhân dân.
Thứ hai, về kinh tế: Xã hội xã hội chủ nghĩa là xã hội có nền kinh tế phát triển cao
dựa trên lực lượng sản xuất hiện đại và chế độ công hữu về tư liệu sản xuất chủ yếu.
Theo Hồ Chí Minh, chủ nghĩa xã hội là chế độ xã hội phát triển cao hơn chủ nghĩa
tư bản nên xã hội xã hội chủ nghĩa phải có nền kinh tế phát triển cao hơn nền kinh tế của
chủ nghĩa tư bản, đấy là nền kinh tế dựa trên lực lượng sản xuất hiện đại và chế độ sở hữu
tư liệu sản xuất tiến bộ.
Thứ ba, về văn hóa, đạo đức và các quan hệ xã hội: Xã hội xã hội chủ nghĩa có trình
độ phát triển cao về văn hoá và đạo đức, bảo đảm sự công bằng, hợp lý trong các quan hệ
xã hội.
Văn hóa, đạo đức thể hiện ở tất cả các lĩnh vực của đời sống song trước hết là ở các
quan hệ xã hội. Sự phát triển cao về văn hóa và đạo đức của xã hội xã hội chủ nghĩa thể
hiện: xã hội không còn hiện tượng người bóc lột người; con người được tôn trọng, được
bảo đảm đối xử công bằng, bình đẳng và các dân tộc đoàn kết, gắn bó với nhau.
Chủ nghĩa xã hội bảo đảm tính công bằng và hợp lý, đem lại quyền bình đẳng cho
mọi công dân về quyền lợi và nghĩa vụ; ai cũng phải lao động và ai cũng có quyền lao
động, ai cũng được hưởng thành quả lao động của mình trên nguyên tắc làm nhiều thì
hưởng nhiều, làm ít thì hưởng ít, không làm thì không hưởng, tất nhiên là trừ những người
chưa có khả năng lao động hoặc không còn khả năng lao động.
Thứ tư, về chủ thể xây dựng chủ nghĩa xã hội: Chủ nghĩa xã hội là công trình tập
thể của nhân dân dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản.
Trong chế độ xã hội chủ nghĩa – chế độ của nhân dân, do nhân dân làm chủ, lợi ích
của cá nhân gắn liền với lợi ích của chế độ xã hội nên chính nhân dân là chủ thể, là lực
lượng quyết định tốc độ xây dựng và sự vững mạnh của chủ nghĩa xã hội. Trong sự nghiệp
xây dựng này, Hồ Chí Minh khẳng định: Cần có sự lãnh đạocủa một đảng cách mạng chân
chính của giai cấp công nhân, toàn tâm toàn ý phục vụ nhân dân.Sự lãnh đạo của Đảng là
nhân tố bảo đảm cách mạng xã hội chủ nghĩa thành công.
Những đặc trưng trên đây thể hiện bản chất ưu việt của CNXH, định hướng cho
công cuộc xây dựng CNXH ở nước ta.
* Ý nghĩa của luận điểm trên:
Luận điểm trên có ý nghĩa sâu sắc trong việc định hướng CNXH hiện nay đối với
đất nước:
Con người là chủ thể sáng tạo văn hóa, đồng thời là chủ thể sáng tạo lịch sử, là mục
tiêu và động lực của đổi mới của CNXH => muốn xây dựng CNXH thì Con người cần có
nhân cách, lối sống tốt đẹp, với các đặc tính cơ bản: yêu nước, nhân ái, nghĩa tình, trung
thực, đoàn kết, cần cù, sáng tạo nhằm nâng cao đời sống vật chất và văn hóa
Mỗi người dân cần nâng cao nhận thức, trách nhiệm của quần chúng nhân dân, nhất
là đối với thế hệ trẻ về bản chất tốt đẹp của xã hội XHCN, của công cuộc đổi mới, từ đó,
xây dựng hoài bão, lý tưởng cao đẹp của con người mới XHCN. 
Con người mới Việt Nam XHCN nhất định không thể yếu kém về năng lực, phẩm
chất, càng không thể dao động, “a dua” với một số phần tử bất mãn, cực đoan => tiếp tục
giác ngộ lập trường, tư tưởng, nâng cao năng lực, phẩm chất cách mạng, kiên quyết vạch
trần những âm mưu xảo quyệt của các thế lực thù địch, cùng nhau phối hợp hành động, đẩy
lùi và làm thất bại những thủ đoạn đen tối. 

20. Nội dung kinh tế trong xây dựng CNXH được Hồ Chí Minh đề cập trên các mặt
lực lượng sản xuất, quan hệ sản xuất như thế nào? Ý nghĩa của quan điểm đó với
nước ta hiện nay?
Nếu có thời gian trình bày mục A và không có thời gian chỉ chép mục B
A. Mục tiêu chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam
Mục tiêu về chế độ chính trị: Phải xây dựng được chế độ dân chủ. Chế độ dân chủ
trong mục tiêu của chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam được Hồ Chí Minh khẳng định và giải
thích: “Chế độ ta là chế độ dân chủ. Tức là nhân dân làm chủ”, “Nước ta là nước dân chủ,
địa vị cao nhất là dân, vì dân là chủ”. Khi nói “dân làm chủ” và “dân là chủ”đã khẳng định
quyền lợi và quyền hạn, trách nhiệm và địa vị của nhân dân.
Mục tiêu về kinh tế: Phải xây dựng nền kinh tế phát triển cao “với công nghiệp và
nông nghiệp hiện đại, khoa học kỹ thuật tiên tiến”.
Mục tiêu về văn hoá: Phải xây dựng được nền văn hóa mang tính dân tộc, khoa học,
đại chúng và tiếp thu tinh hoa văn hóa của nhân loại.
Mục tiêu về quan hệ xã hội: Phải bảo đảm dân chủ, công bằng, văn minh.
B. Động lực của chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam
Động lực là những nhân tố thúc đẩy xã hội phát triển. Hệ thống động lực rất phong
phú, bao gồm nhiều nguồn lực: vật chất và tinh thần, nội lực và ngoại lực, dân tộc và thời
đại v.v. Tất cả các động lực đều rất quan trọng và có mối quan hệ biện chứng với nhau
nhưng giữ vai trò quyết định là nguồn lực con người.
Người nói:“Muốn xây dựng chủ nghĩa xã hội, trước hết cần có những con người xã
hội chủ nghĩa”. Khơi dậy phát huy nguồn lực con người là cơ sở để giải phóng các nguồn
lực khác, thúc đẩy xã hội phát triển.
Để phát huy tốt nguồn lực con người thì cần phải: Chăm lo bảo đảm lợi ích chính
đáng của nhân dân; Thực hiện dân chủ, công bằng xã hội; Thực hiện đại đoàn kết, phát huy
sức mạnh toàn dân tộc; Củng cố, xây dựng và phát huy sức mạnh, hiệu quả của cả hệ thống
chính trị.
Bên cạnh việc khơi dậy phát huy các nguồn động lực, cần phải đấu tranh phải ngăn
chặn, loại trừ những lực cản, phải chống lại những tư tưởng, tác phong xấu như: Chủ nghĩa
cá nhân; quan liêu, tham ô, lãng phí; bảo thủ, giáo điều, mất đoàn kết.
* Ý nghĩa của quan điểm đó với nước ta hiện nay:
Khơi dậy mạnh mẽ tinh thần yêu nước, ý chí tự cường dân tộc, sức mạnh đại
đoàn kết toàn dân tộc và khát vọng phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc.
Kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại, thúc đẩy đổi mới sáng tạo,
ứng dụng mạnh mẽ khoa học và công nghệ tạo động lực thúc đẩy sự phát triển đất
nước.
Xác định đúng động lực cơ bản thúc đẩy sự phát triển kinh tế - xã hội của đất
nước với những mục tiêu chiến lược đã đặt ra đảm bảo sự phát triển đất nước theo
định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta.

21. Hồ Chí Minh cho rằng: Cũng như cây phải có gốc, sông phải có nguồn, người
cách mạng phải có đạo đức làm nền tảng. Anh (chị) hãy phân  tích nội dung và ý
nghĩa của luận điểm trên?
Thứ nhất, đạo đức là gốc, là sức mạnh của người cách mạng
Đạo đức là một hình thái ý thức xã hội, là nền tảng tinh thần của xã hội. Giá trị
đạo đức khi được con người tiếp nhận sẽ biến thành một sức mạnh vật chất to lớn. Hồ
Chí Minh đã thực sự làm một cuộc cách mạng trên lĩnh vực đạo đức ở Việt Nam, đó là
nền đạo đức mới, đạo đức cách mạng. (THÊM)
- Hồ Chí Minh cho rằng, đạo đức là nguồn nuôi dưỡng và phát triển con người
cũng như gốc của cây, ngọn nguồn của sông. Trong tác phẩm Sửa đổi lối làm việc
(1947), Hồ Chí Minh viết: “Cũng như sông thì có nguồn mới có nước, không có nguồn
thì sông cạn. Cây phải có gốc, không có gốc thì cây héo”.
- Người cách mạng phải lấy đạo đức làm gốc vì, nếu không có đạo đức sẽ
không hoàn thành được nhiệm vụ cách mạng, sự nghiệp cách mạng vô cùng khó khăn,
gian khổ nó đòi hỏi phải sự hy sinh rất lớn. Đạo đức cách mạng tạo ra sức mạnh về ý
chí, nghị lực cho người cách mạng từ đó mới hoàn thành được những nhiệm vụ cách
mạng đặt ra. Trong tác phẩm Đạo đức cách mạng (1958), Hồ Chí Minh viết: “Làm
cách mạng để cải tạo xã hội cũ thành xã hội mới là một sự nghiệp rất vẻ vang, nhưng
nó cũng là một nhiệm vụ rất nặng nề, một cuộc đấu tranh rất phức tạp, lâu dài, gian
khổ. Sức có mạnh mới gánh được nặng và đi được xa. Người cách mạng phải có đạo
đức cách mạng làm nền tảng, mới hoàn thành được nhiệm vụ cách mạng vẻ vang”.
VD: Trong kháng chiến, nhiều chiến sĩ cách mạng bị địch giam cầm, tra tấn hết
sức dã man nhưng nhất quyết không đầu hàng, đó là do họ có sức mạnh của đạo đức
cách mạng
- Người cách mạng phải lấy đạo đức làm gốc, nếu không có đạo đức sẽ không
được quần chúng nhân dân tin tưởng từ đó không lãnh đạo được nhân dân. Người cách
mạng khi có đạo đức cách mạng sẽ tạo được niềm tin cho quần chúng, được quần
chúng quý mến, kính trọng. Hồ Chí Minh nói: “Người cách mạng phải có đạo đức,
không có đạo đức thì dù tài giỏi mấy cũng không lãnh đạo được nhân dân. Vì muốn
giải phóng cho dân tộc, giải phóng cho loài người là một công việc to tát, mà tự mình
không có đạo đức, không có căn bản, tự mình đã hủ hóa, xấu xa thì còn làm nổi việc
gì?”. 
“Mọi việc thành hay bại, chủ chốt là do cán bộ có thấm nhuần đạo đức cách
mạng hay là không”. Bởi lẽ, đạo đức tạo nên uy tín của người cán bộ; là cơ sở để giáo
dục, thuyết phục và lãnh đạo quần chúng, là tấm gương sáng cho quần chúng noi theo.
Có đạo đức cách mạng thì khi gặp thuận lợi và thành công vẫn giữ vững tinh thần
khiêm tốn, “Trước mặt quần chúng, không phải ta cứ viết lên trán chữ “cộng sản” mà
ta được họ yêu mến. Quần chúng chỉ quý mến những người có tư cách, đạo đức”.
- Đạo đức cách mạng tạo nên bản lĩnh, khí chất cho người cách mạng. Người
cách mạng có đạo đức cách mạng thì khi gặp khó khăn, gian khổ, thất bại, cũng không
sợ sệt, rụt rè, lùi bước..., khi gặp thuận lợi và thành công vẫn giữ vững tinh thần gian
khổ, chất phác, khiêm tốn.
b. Đạo đức là nền tảng tinh thần của xã hội
- Đạo đức trở thành nhân tố quyết định của sự thành bại của mọi công việc,
phẩm chất mỗi con người. Đạo đức có ảnh hưởng lớn đến sự nghiệp đổi xã hội cũ
thành xã hội mới và xây dựng thuần phong mỹ tục. Hồ Chí Minh quan niệm, “Việc
nước lấy Đoàn thể làm cốt cán. Việc Đoàn thể lấy cán bộ làm cốt cán. Cán bộ lấy đạo
đức làm cốt cán”
Đạo đức là nhân tố tạo nên sự hấp dẫn đối với chủ nghĩa xã hội
Chủ nghĩa xã hội chưa phải ở lý tưởng cao xa, ở mức sống dồi dào, ở tư tưởng
được tự do, giải phóng, mà trước hết nó ở những giá trị đạo đức cao đẹp, ở phẩm chất
của những người cộng sản ưu tú, bằng tấm gương sống, bằng hành động của mình
chiến đấu cho lý tưởng xã hội chủ nghĩa trở thành hiện thực.
- Đạo đức, với những chuẩn giá trị có tác dụng chi phối đời sống tinh thần của
xã hội. Là bộ phận quan trọng của nền tảng tinh thần xã hội. Đạo đức góp phần giữ
vững ổn định chính trị, xã hội, qua đó thúc đẩy sự phát triển của kinh tế - xã hội.
Trong xã hội, sự suy thoái đạo đức trong mỗi con người và xã hội là một trong những
nguyên nhân dẫn đến khủng hoảng chính trị, kinh tế, xã hội. Hồ Chí Minh nhắc lại lời
Mạnh Tử: “Ai cũng tham lợi, thì nước sẽ nguy”. Chính vì vậy, Người thường nhắc lại
tinh thần của V.I.Lênin: Đảng Cộng sản phải tiêu biểu cho trí tuệ, danh dự, lương tâm
của dân tộc và thời đại.
c. Đức và tài có mối quan hệ chặt chẽ với nhau
- Tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh là đạo đức trong hành động, lấy hiệu quả thực
tế làm thước đo. Chính vì vậy, Hồ Chí Minh luôn đặt đạo đức bên cạnh tài năng, gắn
đức với tài, lời nói đi đôi với hành động và hiệu quả trên thực tế.
- Theo Hồ Chí Minh, đức và tài phải là những phẩm chất thống nhất của con
người. Nếu đạo đức là tiêu chuẩn cho mục đích hành động thì tài là phương tiện thực
hiện mục đích đó. Vì vậy, con người cần có cả đức và tài, nếu thiếu tài thì làm việc gì
cũng khó, nhưng thiếu đạo đức thì vô dụng, thậm chí có hại.
- Trong tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh, đức và tài, hồng và chuyên, phẩm chất
và năng lực phải thống nhất làm một. Trong đó, đạo đức là gốc, là nền tảng của người
cách mạng. Người đòi hỏi tài năng phải gắn chặt và đặt vững trên nền tảng đạo đức.
Người thường khuyên: “Dạy cũng như học phải biết chú trọng cả tài lẫn đức. Đức là
đạo đức cách mạng. Đó là cái gốc, rất quan trọng. Nếu không có đạo đức cách mạng
thì có tài cũng vô dụng”.
- Quan điểm lấy đức làm gốc của Hồ Chí Minh không có nghĩa là tuyệt đối hóa
mặt đức, coi nhẹ mặt tài. Đức là gốc, nhưng đức và tài, hồng và chuyên phải kết hợp,
phẩm chất và năng lực phải đi đôi, không thể có mặt này lại thiếu mặt kia. Hồ Chí
Minh nói: “Trong giáo dục không những phải có tri thức phổ thông mà phải có đạo
đức cách mạng. Có tài phải có đức. Có tài không có đức, tham ô hủ hóa có hại cho
nước. Có đức không có tài...không giúp ích gì được ai”.
* Ý nghĩa của luận điểm trên:
Nâng cao nhận thức về vị trí, vai trò của đạo đức cách mạng và phát huy tính
tích cực tự giác phấn đấu, tu dưỡng, rèn luyện đạo đức, lối sống của đội ngũ cán bộ,
đảng viên trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc thời kỳ mới, phát triển kinh tế
thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa có ý nghĩa đặc biệt quan trọng. 
Coi trọng giáo dục mục tiêu, lý tưởng cách mạng, lối sống xã hội chủ nghĩa.
Làm cho toàn Đảng, toàn dân, toàn quân nhận thức ngày càng sâu sắc những nội dung
cơ bản và giá trị to lớn của tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh; làm cho tư
tưởng, đạo đức, phong cách của Người thật sự trở thành nền tảng tinh thần vững chắc
của đời sống xã hội, xây dựng văn hóa, con người Việt Nam đáp ứng yêu cầu phát
triển bền vững và bảo vệ vững chắc Tổ quốc, vì Mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân
chủ, công bằng, văn minh.

22. Tại sao nói Hồ Chí Minh đã thực hiện cuộc cách mạng về đạo đức, đưa vào
những khái niệm đạo đức cũ những tư tưởng mới? Anh (chị) đã tu dưỡng theo
những phẩm chất đạo đức cách mạng như thế nào? 
a. Trung với nước, hiếu với dân
- Trung với nước, hiếu với dân là phẩm chất đạo đức bao trùm quan trọng nhất
và chi phối các phẩm chất khác.
- Trung và hiếu là những khái niệm đạo đức cũ đã có từ lâu trong tư tưởng đạo
đức truyền thống Việt Nam và phương Đông, phản ánh mối quan hệ lớn nhất và cũng
là phẩm chất bao trùm nhất: “Trung với vua, hiếu với cha mẹ”. Phẩm chất này được
Hồ Chí Minh sử dụng với những nội dung mới, rộng lớn: “Trung với nước, hiếu với
dân”.
+ Trung với nước, là phải yêu nước, tuyệt đối trung thành với Tổ quốc, suốt đời
phấn đấu cho Đảng, cho cách mạng, phải làm cho “dân giàu, nước mạnh”.
+ Hiếu với dân, là phải thương dân, tin dân, thân dân, học hỏi dân, lấy trí tuệ ở
dân, kính trọng dân, lấy dân làm gốc, “hết lòng hết sức phục vụ nhân dân. Phải yêu
kính nhân dân. Phải thật sự tôn trọng quyền làm chủ của nhân dân. Tuyệt đối không
được lên mặt “quan cách mạng”.
b. Cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư
Cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư là nội dung cốt lõi của đạo đức cách
mạng, đó là phẩm chất đạo đức gắn liền với hoạt động hằng ngày của mỗi người.
“Cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư” cũng là những khái niệm cũ trong đạo đức
truyền thống dân tộc, được Hồ Chí Minh lọc bỏ những nội dung không phù hợp và
đưa vào những nội dung mới đáp ứng yêu cầu của cách mạng.
- Cần là siêng năng, chăm chỉ, cố gắng dẻo dai. Lao động có kế hoạch, sáng
tạo, có năng suất cao; lao động với tinh thần tự lực cánh sinh, không lười biếng. Phải
thấy rõ, “Lao động là nghĩa vụ thiêng liêng, là nguồn sống, nguồn hạnh phúc của
chúng ta”.
- Kiệm là tiết kiệm, không xa xỉ, không hoang phí, không bừa bãi. Tiết kiệm
sức lao động; thì giờ; tiền bạc của của nhân dân, của đất nước, của bản thân mình.
Không phô trương hình thức, không liên hoan chè chén lu bù. Tiết kiệm không phải là
bủn xỉn. Khi không nên tiêu xài thì một đồng xu cũng không nên tiêu. Khi có việc
đáng làm, việc ích lợi cho đồng bào, cho Tổ quốc, thì dù bao nhiêu công, tốn bao
nhiêu của, cũng vui lòng. Cần với kiệm, phải đi đôi với nhau, như hai chân của con
người.
- Liêm là trong sạch, liêm khiết, không tham lam; luôn luôn tôn trọng giữ gìn
của công, của dân. Liêm là không tham địa vị. Không tham tiền tài. Không tham sung
sướng. Không ham người tâng bốc mình.
- Chính nghĩa là không tà, nghĩa là thẳng thắn, đứng đắn. Chính được thể hiện
rõ trong ba mối quan hệ:
+ Đối với mình, chớ tự kiêu, tự đại
+ Đối với người, chớ nịnh hót người trên. Chớ xem khinh người dưới. Thái độ
phải chân thành, khiêm tốn,... Phải thực hành chữ Bác – Ái.
+ Đối với việc: Phải để công việc nước lên trên, trước việc tư, việc nhà; việc
thiện thì dù nhỏ mấy cũng làm. Việc ác thì dù nhỏ mấy cũng tránh.
- Chí công vô tư là vì lợi ích chung, không tư lợi; là công bằng, công tâm không
thiên tư, thiên vị. Luôn đặt lợi ích của Đảng, của nhân dân, của dân tộc lên trên hết,
trước hết, “lo trước thiên hạ, vui sau thiên hạ”. Chí công vô tư về thực chất là sự tiếp
nối cần, kiệm, liêm, chính. Hồ Chí Minh quan niệm: “Một dân tộc biết cần, kiệm, biết
liêm, là một dân tộc giàu về vật chất, mạnh về tinh thần, là một dân tộc văn minh tiến
bộ”. Cần, kiệm, liêm, chính còn là nền tảng của đời sống mới, của các phong trào thi
đua yêu nước. Để trở thành người có phẩm chất đạo đức tốt, phải hội đủ các yếu tố
cần, kiệm, liêm, chính. Hồ Chí Minh coi cần, kiệm, liêm, chính là bốn đức tính cơ bản
của con người, giống như bốn mùa của trời, bốn phương của đất; “Thiếu một đức, thì
không thành người”.
* Đã tu dưỡng theo những phẩm chất đạo đức cách mạng như thế nào?
Ra sức lao động học tập, rèn luyện: học tập kiến thức, tích cực tu dưỡng đạo
đức, rèn luyện sức khỏe, có lối sống lành mạnh, không vướng vào tệ nạn xã hội
Rèn luyện cho mình những đức tính: trung thành, tận tụy, thật thà và chính trực,
thực hành tiết kiệm; tích cực vận dụng kiến thức học được từ nhà trường áp dụng vào
cuộc sống hằng ngày, vào công việc. 
Trong học tập, rèn luyện, phải kết hợp lý luận với thực hành, học tập với lao
động; phải chống mọi biểu hiện của chủ nghĩa cá nhân, chống tư tưởng hám danh,
hám lợi. Không lười biếng, xa xỉ. Không kiêu ngạo, giả dối, khoe khoang 
Sống có bản lĩnh, có chí lập thân, lập nghiệp, năng động, nhạy bén, dám đối
mặt với những khó khăn thách thức, dám chịu trách nhiệm, đồng hành cùng dân tộc
phấn đấu cho sự nghiệp dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng văn minh.

23. Hồ Chí Minh nói: Đạo đức cách mạng là do đấu tranh rèn luyện bền bỉ hàng
ngày. Anh (chị) hãy phân tích nội dung và ý nghĩa của luận điểm trên? 
Quan điểm về những nguyên tắc xây dựng đạo đức cách mạng
a. Nói đi đôi với làm, nêu gương về đạo đức
- Nói đi đôi với làm là nét đẹp trong đạo đức truyền thống của dân tộc được Hồ
Chí Minh nâng lên một tầm cao mới. Người coi đây là nguyên tắc quan trọng bậc nhất
trong xây dựng nền đạo đức mới.
- Nói đi đôi với làm thể hiện bản chất và nhân cách của con người. Nói đi đôi
với làm thì mới đem lại hiệu quả thiết thực cho chính bản thân mình và mới có tác
dụng đối với người khác. Nếu nói nhiều làm ít, nói mà không làm, hơn nữa nói một
đằng, làm một nẻo thì chỉ đem lại những hậu quả phản tác dụng.
- Nói đi đôi với làm đối lập hoàn toàn với thói đạo đức giả, nói một đằng làm
một nẻo, nói nhiều làm ít, thậm chí nói mà không làm. Ngay sau thắng lợi Cách mạng
Tháng Tám 1945, Hồ Chí Minh đã chỉ ra những biểu hiện của thói đạo đức giả ở một
số cán bộ “vác mặt làm quan cách mạng”.“Miệng thì nói dân chủ, nhưng làm việc thì
họ theo lối “quan” chủ”.
- Nêu gương về đạo đức là một nét đẹp của truyền thống văn hóa phương Đông.
Để đạo đức cách mạng thấm sâu, bám chắc vào đời sống xã hội và trở thành nền tảng
tinh thần của nhân dân, Hồ Chí Minh yêu cầu cán bộ, đảng viên cần phải: “Trước hết,
mình phải làm gương, gắng làm gương trong anh em, và khi đi công tác, gắng làm
gương cho dân. Làm gương về cả ba mặt: Tinh thần, vật chất và văn hóa”. Hồ Chí
Minh đã viết: “Nói chung thì các dân tộc phương Đông đều giàu tình cảm, và đối với
họ một tấm gương sống còn có giá trị hơn một trăm bài diễn văn tuyên truyền”.
- Hồ Chí Minh cho rằng, hơn bất cứ một lĩnh vực nào mà vấn đề nêu gương lại
được đặt ra và rất có ý nghĩa giáo dục như trong lĩnh vực đạo đức. Sự làm gương của
thế hệ đi trước với thế hệ đi sau; trong gia đình thì cha mẹ làm gương cho con, anh chị
làm gương cho em, ông bà làm gương cho con cháu, trong nhà trường thì thầy, cô làm
gương cho học sinh, trong các tổ chức đoàn thể thì cấp trên làm gương cho cấp dưới...
b. Xây đi đôi với chống
- Xây tức là xây dựng các giá trị, các chuẩn mực đạo đức mới.
- Chống là chống các biểu hiện, các hành vi vô đạo đức, suy thoái đạo đức.
- Để xây dựng một nền đạo đức mới, cần phải kết hợp chặt chẽ giữa xây và
chống. Muốn xây phải chống, chống nhằm mục đích xây, lấy xây làm chính. Vì trong
đời sống hằng ngày, những hiện tượng tốt
- xấu, đúng - sai, cái đạo đức và cái vô đạo đức thường đan xen nhau,
đối chọi nhau thông qua hành vi của những con người khác nhau, thậm chí
trong mỗi con người.
- Xây phải đi đôi với chống, nhằm loại bỏ cái sai, cái xấu, cái vô đạo đức trong
đời sống hàng ngày. Khơi dậy được ý thức đạo đức trong mỗi người. Hồ Chí Minh
quan niệm, “Mỗi con người đều có thiện và ác ở trong lòng. Ta phải biết làm cho phần
tốt ở trong mỗi con người nảy nở như hoa mùa Xuân và phần xấu bị mất dần đi, đó là
thái độ của người cách mạng”
- Xây dựng đạo đức mới trước hết phải được tiến hành bằng giáo dục nhận
thức, từ trong gia đình đến nhà trường, tập thể và toàn xã hội. Những phẩm chất đạo
đức chung phải được cụ thể hóa, sát hợp với từng đối tượng.
c. Tu dưỡng đạo đức suốt đời
- Theo Hồ Chí Minh, tu dưỡng đạo đức như một cuộc cách mạng trường kỳ,
gian khổ. Một nền đạo đức mới chỉ có thể được xây dựng trên cơ sở tự giác tu dưỡng
đạo đức của mỗi người. Hồ Chí Minh nêu rõ: “Chính tâm tu thân tức là cải tạo. Cải tạo
cũng phải trường kỳ gian khổ, vì đó là một cuộc cách mạng trong bản thân của mỗi
người”
- Đạo đức cách mạng không phải tự nhiên hình thành, nó phải trải qua quá trình
đấu tranh, rèn luyện, bền bỉ hàng ngày mới có được. Người tổng kết sâu sắc: “Đạo đức
cách mạng không phải trên trời sa xuống. Nó do đấu tranh, rèn luyện bền bỉ hằng ngày
mà phát triển và củng cố. Cũng như ngọc càng mài càng sáng, vàng càng luyện càng
trong”.
- Tu dưỡng đạo đức phải được thực hiện kiên trì trong mọi hoạt động thực tiễn,
trong đời tư cũng như trong sinh hoạt cộng đồng, trong mọi mối quan hệ của mình. (
Tu dưỡng đạo đức cách mạng phải trên tinh thần tự giác, tự nguyện, dựa vào lương
tâm của mỗi người và dư luận quần chúng.
Người cách mạng phải ý thức cho được đạo đức cách mạng là nhằm giải phóng
con người vào đạo đức của những con người được giải phóng. Đã hoạt động cách
mạng thì khó tránh khỏi những sai lầm và khuyết điểm. Vấn đề là phải cố gắng sửa
chữa sai lầm, khuyết điểm.
Tu dưỡng đạo đức mới phải gắn với thực tiễn, bền bỉ mọi lúc mọi nơi, mọi hoàn
cảnh. Như vậy, mới phân biệt được với cách tu dưỡng đạo đức của các nhà Nho. Hồ
Chí Minh viết: “Tư tưởng cộng sản với tư tưởng cá nhân ví như lúa với cỏ dại. Lúa
phải chăm bón rất khó nhọc thì mới tốt được. Còn cỏ dại không cần chăm sóc cũng
mọc lu bù. Tư tưởng cộng sản phải rèn luyện gian khổ mới có được. Còn tư tưởng cá
nhân thì cũng như cỏ dại, sinh sôi, nảy nở rất dễ”. Vì vậy, gột rửa chủ nghĩa cá nhân
“ví như rửa mặt thì phải rửa hàng ngày”. (THÊM – Nếu có thời gian))
* Ý nghĩa của luận điểm trên:
Muốn có đạo đức mạng phải rèn luyện thường xuyên, bền bỉ trong mọi hoạt
động thực tiễn; phải tỉ mỉ công phu mới có được phẩm chất đạo đức tốt và ngày càng
được bồi đắp, nâng cao.
Việc giáo dục, rèn luyện đạo đức cách mạng phải được tiến hành thường xuyên,
liên tục, mọi lúc, mọi nơi. Cán bộ, đảng viên giữ cương vị càng cao càng phải tích cực,
liên tục học tập, rèn luyện, trau dồi đạo đức cách mạng. Khi gặp việc thuận lợi không
tự cao, tự đại, thỏa mãn, dừng lại, khi gặp việc khổ, việc khó thì không chùn bước,
dám nghĩ, dám làm. Việc không ngừng rèn luyện, tu dưỡng đạo đức của cán bộ, đảng
viên, cũng giống như việc tạo ra những kháng thể tốt, ngăn chặn, miễn nhiễm, đẩy lùi
và làm thất bại mọi âm mưu, thủ đoạn quyết liệt chống phá của các thế lực phản động,
thù địch đối với Đảng, Nhà nước và nhân dân ta.
24. Hồ Chí Minh nói: Muốn cho dân tin, dân yêu, dân phục thì không phải viết lên
trán chữ cộng sản là được quần chúng yêu mến. Quần chúng chỉ quý mến những
người có tư cách đạo đức. Anh (chị) hãy phân tích nội dung và ý nghĩa của luận
điểm trên? 
Đạo đức là gốc, là sức mạnh của người cách mạng
Đạo đức là một hình thái ý thức xã hội, là nền tảng tinh thần của xã hội. Giá trị
đạo đức khi được con người tiếp nhận sẽ biến thành một sức mạnh vật chất to lớn. Hồ
Chí Minh đã thực sự làm một cuộc cách mạng trên lĩnh vực đạo đức ở Việt Nam, đó là
nền đạo đức mới, đạo đức cách mạng. (THÊM)
- Hồ Chí Minh cho rằng, đạo đức là nguồn nuôi dưỡng và phát triển con người
cũng như gốc của cây, ngọn nguồn của sông. Trong tác phẩm Sửa đổi lối làm việc
(1947), Hồ Chí Minh viết: “Cũng như sông thì có nguồn mới có nước, không có nguồn
thì sông cạn. Cây phải có gốc, không có gốc thì cây héo”.
- Người cách mạng phải lấy đạo đức làm gốc vì, nếu không có đạo đức sẽ
không hoàn thành được nhiệm vụ cách mạng, sự nghiệp cách mạng vô cùng khó khăn,
gian khổ nó đòi hỏi phải sự hy sinh rất lớn. Đạo đức cách mạng tạo ra sức mạnh về ý
chí, nghị lực cho người cách mạng từ đó mới hoàn thành được những nhiệm vụ cách
mạng đặt ra. Trong tác phẩm Đạo đức cách mạng (1958), Hồ Chí Minh viết: “Làm
cách mạng để cải tạo xã hội cũ thành xã hội mới là một sự nghiệp rất vẻ vang, nhưng
nó cũng là một nhiệm vụ rất nặng nề, một cuộc đấu tranh rất phức tạp, lâu dài, gian
khổ. Sức có mạnh mới gánh được nặng và đi được xa. Người cách mạng phải có đạo
đức cách mạng làm nền tảng, mới hoàn thành được nhiệm vụ cách mạng vẻ vang”.
VD: Trong kháng chiến, nhiều chiến sĩ cách mạng bị địch giam cầm, tra tấn hết
sức dã man nhưng nhất quyết không đầu hàng, đó là do họ có sức mạnh của đạo đức
cách mạng
- Người cách mạng phải lấy đạo đức làm gốc, nếu không có đạo đức sẽ không
được quần chúng nhân dân tin tưởng từ đó không lãnh đạo được nhân dân. Người cách
mạng khi có đạo đức cách mạng sẽ tạo được niềm tin cho quần chúng, được quần
chúng quý mến, kính trọng. Hồ Chí Minh nói: “Người cách mạng phải có đạo đức,
không có đạo đức thì dù tài giỏi mấy cũng không lãnh đạo được nhân dân. Vì muốn
giải phóng cho dân tộc, giải phóng cho loài người là một công việc to tát, mà tự mình
không có đạo đức, không có căn bản, tự mình đã hủ hóa, xấu xa thì còn làm nổi việc
gì?”. 
“Mọi việc thành hay bại, chủ chốt là do cán bộ có thấm nhuần đạo đức cách
mạng hay là không”. Bởi lẽ, đạo đức tạo nên uy tín của người cán bộ; là cơ sở để giáo
dục, thuyết phục và lãnh đạo quần chúng, là tấm gương sáng cho quần chúng noi theo.
Có đạo đức cách mạng thì khi gặp thuận lợi và thành công vẫn giữ vững tinh thần
khiêm tốn, “Trước mặt quần chúng, không phải ta cứ viết lên trán chữ “cộng sản” mà
ta được họ yêu mến. Quần chúng chỉ quý mến những người có tư cách, đạo đức”.
- Đạo đức cách mạng tạo nên bản lĩnh, khí chất cho người cách mạng. Người
cách mạng có đạo đức cách mạng thì khi gặp khó khăn, gian khổ, thất bại, cũng không
sợ sệt, rụt rè, lùi bước..., khi gặp thuận lợi và thành công vẫn giữ vững tinh thần gian
khổ, chất phác, khiêm tốn.
* Ý nghĩa của luận điểm trên:
Nâng cao nhận thức về vị trí, vai trò của đạo đức cách mạng và phát huy tính
tích cực tự giác phấn đấu, tu dưỡng, rèn luyện đạo đức, lối sống của đội ngũ cán bộ,
đảng viên trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc thời kỳ mới, phát triển kinh tế
thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa có ý nghĩa đặc biệt quan trọng. 
Coi trọng giáo dục mục tiêu, lý tưởng cách mạng, lối sống xã hội chủ nghĩa.
Làm cho toàn Đảng, toàn dân, toàn quân nhận thức ngày càng sâu sắc những nội dung
cơ bản và giá trị to lớn của tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh; làm cho tư
tưởng, đạo đức, phong cách của Người thật sự trở thành nền tảng tinh thần vững chắc
của đời sống xã hội, xây dựng văn hóa, con người Việt Nam đáp ứng yêu cầu phát
triển bền vững và bảo vệ vững chắc Tổ quốc, vì Mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân
chủ, công bằng, văn minh.
25. Hồ Chí Minh nói: Đầu tiên là công việc đối với con người; Vì lợi ích mười năm
thì phải trồng cây, vì lợi ích trăm năm thì phải trồng người. Anh (chị) hãy phân tích
nội dung và ý nghĩa của luận điểm trên? 
Quan điểm của Hồ Chí Minh về vai trò của con người
- Con người là mục tiêu của cách mạng. Mục tiêu này được cụ thể hóa trong ba
giai đoạn cách mạng (giải phóng dân tộc - xây dựng chế độ dân chủ nhân dân - tiến
dần lên xã hội chủ nghĩa) nhằm giải phóng dân tộc, giải phóng xã hội, giải phóng giai
cấp, giải phóng con người.
- Con người là động lực của cách mạng. Theo Hồ Chí Minh, con người là vốn
quý nhất, động lực, nhân tố quyết định thành công của sự nghiệp cách mạng. HCM
cho rằng, “Mọi việc đều do người làm ra”; “Trong bầu trời không gì quý bằng nhân
dân, trong thế giới không gì mạnh bằng sức mạnh đoàn kết của nhân dân”. “Ý dân là ý
trời”. “Dễ trăm lần không dân cũng chịu, khó vạn lần dân liệu cũng xong”...
Quan điểm của Hồ Chí Minh về xây dựng con người
- Xây dựng con người là yêu cầu khách quan của sự nghiệp cách mạng, vừa cấp
bách vừa lâu dài, có ý nghĩa chiến lược. Xây dựng con người là một trọng tâm, bộ
phận hợp thành của chiến lược phát triển đất nước, có mối quan hệ chặt chẽ với nhiệm
vụ xây dựng chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội. Hồ Chí Minh nêu hai quan điểm nổi
bật làm sáng tỏ sự cần thiết xây dựng con người:
+ “Vì lợi ích trăm năm thì phải “trồng người”. “Trồng người” là công việc lâu
dài, gian khổ, vừa vì lợi ích trước mắt vừa vì lợi ích lâu dài, là công việc của văn hóa
giáo dục.
+ “Muốn xây dựng chủ nghĩa xã hội, trước hết cần phải có những con người xã
hội chủ nghĩa”. Chủ nghĩa xã hội sẽ tạo ra những con người xã hội chủ nghĩa, con
người xã hội chủ nghĩa là động lực xây dựng chủ nghĩa xã hội.
- Nội dung xây dựng con người. Xây dựng con người toàn diện với những khía
cạnh chủ yếu sau:
+ Có ý thức làm chủ, tinh thần tập thể xã hội chủ nghĩa và tư tưởng “mình vì
mọi người, mọi người vì mình”.
+ Cần kiệm xây dựng đất nước, hăng hái bảo vệ Tổ quốc.
+ Có lòng yêu nước nồng nàn, tinh thần quốc tế trong sáng.
+ Có phương pháp làm việc khoa học, phong cách quần chúng, dân chủ, nêu
gương.
- Phương pháp xây dựng con người.
+ Mỗi người tự rèn luyện, tu dưỡng ý thức, kết hợp chặt chẽ với xây dựng cơ
chế, tính khoa học của bộ máy và tạo dựng nền dân chủ.
+ Việc nêu gương, nhất là người đứng đầu, có ý nghĩa rất quan trọng.
+ Biện pháp giáo dục có một vị trí quan trọng.
+ Chú trọng vai trò của tổ chức Đảng, chính quyền, đoàn thể quần chúng.
* Ý nghĩa của luận điểm trên:
 Tư tưởng Hồ Chí Minh với phương châm, chiến lược, mục đích, nội dung,
phương pháp giáo dục - đào tạo con người luôn soi sáng sự nghiệp trồng người theo tư
tưởng của Người. Tư tưởng đó không chỉ là cơ sở lý luận cho việc xác định chiến lược
đào tạo con người, chủ trương, đường lối chỉ đạo phát triển nền giáo dục Việt Nam
của Đảng ta qua các thời kỳ cách mạng, mà còn là những bài học, những kinh nghiệm
thực tiễn giáo dục, thiết thực và hiệu quả đối với người làm công tác giáo dục hiện
nay.
Ngày nay, yêu cầu trước mắt đặt ra phải xây dựng và hoàn thiện giá trị, nhân
cách con người, bảo vệ và phát huy bản sắc văn hoá dân tộc trong thời kỳ công nghiệp
hoá, hiện đại hoá và hội nhập kinh tế quốc tế ở nước ta hiện nay.

26. Hồ Chí Minh quan niệm: Văn hóa là một mặt trận, văn hóa hóa kháng chiến,
kháng chiến hóa văn hóa. Anh (chị) hãy phân tích nội dung và ý nghĩa của luận
điểm trên?
- Hồ Chí Minh khẳng định một nền chính trị, kinh tế, xã hội có văn hóa. Đồng
thời trong kinh tế, chính trị, xã hội, văn hóa có vai trò dẫn đường. Người mong ước,
xây dựng một nền kinh tế có văn hóa cao, một nền chính trị có văn hóa cao, một xã hội
có văn hóa cao.
- Văn hóa là động lực của sự nghiệp cách mạng.
+ Văn hóa chính trị là động lực có ý nghĩa soi đường cho quốc dân đi, lãnh đạo
quốc dân để thực hiện độc lập, tự chủ, tự cường.
+ Văn hóa văn nghệ góp phần nâng cao lòng yêu nước, lý tưởng, tình cảm cách
mạng, sự lạc quan, ý chí, quyết tâm và niềm tin vào thắng lợi cuối cùng của cách
mạng.
+ Văn hóa giáo dục diệt giặc dốt, xóa mù chữ, giúp con người hiểu biết quy luật
phát triển của xã hội. Với sứ mệnh “trồng người”, văn hóa giáo dục đào tạo con người
mới, cán bộ mới, nguồn nhân lực chất lượng cao cho sự nghiệp cách mạng.
+ Văn hóa đạo đức, lối sống nâng cao phẩm giá, phong cách lành mạnh cho con
người, hướng con người tới các giá trị chân, thiện, mỹ.
+ Văn hóa pháp luật bảo đảm dân chủ, trật tự, kỷ cương, phép nước.
- Văn hóa ở trong kinh tế và chính trị có nghĩa là văn hóa phải tham gia thực
hiện những nhiệm vụ chính trị, thúc đẩy xây dựng và phát triển kinh tế theo tinh thần
“văn hóa cũng là một mặt trận”, “kháng chiến hóa văn hóa, văn hóa hóa kháng chiến”.
Văn hóa không thể đứng ngoài mà phải ở trong các cuộc kháng chiến thần thánh của
dân tộc. Và cuộc kháng chiến trở thành cuộc kháng chiến có văn hóa (tính chính nghĩa
của chiến tranh vệ quốc). Chính điều này đã đem lại sức mạnh vượt trội cho nhân dân
Việt Nam đánh thắng cuộc chiến tranh xâm lược của thực dân Pháp và đế quốc Mỹ
xâm lược.
* Văn hóa là một mặt trận
- Văn hóa là một trong bốn nội dung chính của đời sống kinh tế - xã hội, quan
trọng ngang các vấn đề kinh tế, chính trị và xã hội. Mặt trận văn hóa là cuộc đấu tranh
cách mạng trên lĩnh vực văn hóa - tư tưởng.
- Nội dung mặt trận văn hóa phong phú, đấu tranh trên các lĩnh vực tư tưởng,
đạo đức, lối sống... của các hoạt động văn nghệ, báo chí, công tác lý luận, đặc biệt là
định hướng giá trị chân, thiện, mỹ của văn hóa nghệ thuật.
- Mặt trận văn hóa là cuộc chiến đấu trên lĩnh vực văn hóa; vì vậy anh chị em
văn nghệ sĩ là chiến sĩ trên mặt trận ấy; cũng như các chiến sĩ khác, chiến sĩ nghệ thuật
có nhiệm vụ phụng sự Tổ quốc, phục vụ nhân dân. Hồ Chí Minh viết: “Văn hóa –
Nghệ thuật cũng là một mặt trận, anh chị em là chiến sĩ trên mặt trận ấy. Cũng như các
chiến sĩ khác, chiến sĩ nghệ thuật có nhiệm vụ nhất định, tức là: phụng sự kháng chiến,
phụng sự Tổ quốc, phụng sự nhân dân”. Vì văn hóa là mặt trận, văn nghệ sĩ là những
chiến sĩ nên các chiến sĩ văn, hóa văn nghệ phải có những tác phẩm xứng đáng với dân
tộc và thời đại.
* Ý nghĩa của luận điểm trên:
Tư tưởng Hồ Chí Minh về văn hóa đã thể hiện tư duy và tầm nhìn chiến lược
trong xây dựng và phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc,
vừa là nguồn lực nội sinh, vừa là động lực thúc đẩy sự phát triển kinh tế - xã hội nhằm
thực hiện mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh; việc thực hiện
tốt định hướng phát triển văn hóa của Đảng có ý nghĩa đặc biệt quan trọng trong tiến
trình phát triển chung của đất nước.

27. Hồ Chí Minh nói: Tư tưởng cộng sản với tư tưởng cá nhân ví như lúa với cỏ
dại. Lúa phải chăm bón rất khó nhọc thì mới tốt được. Còn cỏ dại không cần chăm
sóc cũng mọc lu bù. Anh (chị) hãy phân tích nội dung và ý nghĩa của luận điểm
trên? 
Quan điểm về những nguyên tắc xây dựng đạo đức cách mạng
a. Nói đi đôi với làm, nêu gương về đạo đức
- Nói đi đôi với làm là nét đẹp trong đạo đức truyền thống của dân tộc được Hồ
Chí Minh nâng lên một tầm cao mới. Người coi đây là nguyên tắc quan trọng bậc nhất
trong xây dựng nền đạo đức mới.
- Nói đi đôi với làm thể hiện bản chất và nhân cách của con người. Nói đi đôi
với làm thì mới đem lại hiệu quả thiết thực cho chính bản thân mình và mới có tác
dụng đối với người khác. Nếu nói nhiều làm ít, nói mà không làm, hơn nữa nói một
đằng, làm một nẻo thì chỉ đem lại những hậu quả phản tác dụng.
- Nói đi đôi với làm đối lập hoàn toàn với thói đạo đức giả, nói một đằng làm
một nẻo, nói nhiều làm ít, thậm chí nói mà không làm. Ngay sau thắng lợi Cách mạng
Tháng Tám 1945, Hồ Chí Minh đã chỉ ra những biểu hiện của thói đạo đức giả ở một
số cán bộ “vác mặt làm quan cách mạng”.“Miệng thì nói dân chủ, nhưng làm việc thì
họ theo lối “quan” chủ”.
- Nêu gương về đạo đức là một nét đẹp của truyền thống văn hóa phương Đông.
Để đạo đức cách mạng thấm sâu, bám chắc vào đời sống xã hội và trở thành nền tảng
tinh thần của nhân dân, Hồ Chí Minh yêu cầu cán bộ, đảng viên cần phải: “Trước hết,
mình phải làm gương, gắng làm gương trong anh em, và khi đi công tác, gắng làm
gương cho dân. Làm gương về cả ba mặt: Tinh thần, vật chất và văn hóa”. Hồ Chí
Minh đã viết: “Nói chung thì các dân tộc phương Đông đều giàu tình cảm, và đối với
họ một tấm gương sống còn có giá trị hơn một trăm bài diễn văn tuyên truyền”.
- Hồ Chí Minh cho rằng, hơn bất cứ một lĩnh vực nào mà vấn đề nêu gương lại
được đặt ra và rất có ý nghĩa giáo dục như trong lĩnh vực đạo đức. Sự làm gương của
thế hệ đi trước với thế hệ đi sau; trong gia đình thì cha mẹ làm gương cho con, anh chị
làm gương cho em, ông bà làm gương cho con cháu, trong nhà trường thì thầy, cô làm
gương cho học sinh, trong các tổ chức đoàn thể thì cấp trên làm gương cho cấp dưới...
b. Xây đi đôi với chống
- Xây tức là xây dựng các giá trị, các chuẩn mực đạo đức mới.
- Chống là chống các biểu hiện, các hành vi vô đạo đức, suy thoái đạo đức.
- Để xây dựng một nền đạo đức mới, cần phải kết hợp chặt chẽ giữa xây và
chống. Muốn xây phải chống, chống nhằm mục đích xây, lấy xây làm chính. Vì trong
đời sống hằng ngày, những hiện tượng tốt
- xấu, đúng - sai, cái đạo đức và cái vô đạo đức thường đan xen nhau,
đối chọi nhau thông qua hành vi của những con người khác nhau, thậm chí
trong mỗi con người.
- Xây phải đi đôi với chống, nhằm loại bỏ cái sai, cái xấu, cái vô đạo đức trong
đời sống hàng ngày. Khơi dậy được ý thức đạo đức trong mỗi người. Hồ Chí Minh
quan niệm, “Mỗi con người đều có thiện và ác ở trong lòng. Ta phải biết làm cho phần
tốt ở trong mỗi con người nảy nở như hoa mùa Xuân và phần xấu bị mất dần đi, đó là
thái độ của người cách mạng”
- Xây dựng đạo đức mới trước hết phải được tiến hành bằng giáo dục nhận
thức, từ trong gia đình đến nhà trường, tập thể và toàn xã hội. Những phẩm chất đạo
đức chung phải được cụ thể hóa, sát hợp với từng đối tượng.
c. Tu dưỡng đạo đức suốt đời
- Theo Hồ Chí Minh, tu dưỡng đạo đức như một cuộc cách mạng trường kỳ,
gian khổ. Một nền đạo đức mới chỉ có thể được xây dựng trên cơ sở tự giác tu dưỡng
đạo đức của mỗi người. Hồ Chí Minh nêu rõ: “Chính tâm tu thân tức là cải tạo. Cải tạo
cũng phải trường kỳ gian khổ, vì đó là một cuộc cách mạng trong bản thân của mỗi
người”
- Đạo đức cách mạng không phải tự nhiên hình thành, nó phải trải qua quá trình
đấu tranh, rèn luyện, bền bỉ hàng ngày mới có được. Người tổng kết sâu sắc: “Đạo đức
cách mạng không phải trên trời sa xuống. Nó do đấu tranh, rèn luyện bền bỉ hằng ngày
mà phát triển và củng cố. Cũng như ngọc càng mài càng sáng, vàng càng luyện càng
trong”.
- Tu dưỡng đạo đức phải được thực hiện kiên trì trong mọi hoạt động thực tiễn,
trong đời tư cũng như trong sinh hoạt cộng đồng, trong mọi mối quan hệ của mình. Tu
dưỡng đạo đức cách mạng phải trên tinh thần tự giác, tự nguyện, dựa vào lương tâm
của mỗi người và dư luận quần chúng.
Người cách mạng phải ý thức cho được đạo đức cách mạng là nhằm giải phóng
con người vào đạo đức của những con người được giải phóng. Đã hoạt động cách
mạng thì khó tránh khỏi những sai lầm và khuyết điểm. Vấn đề là phải cố gắng sửa
chữa sai lầm, khuyết điểm.
Tu dưỡng đạo đức mới phải gắn với thực tiễn, bền bỉ mọi lúc mọi nơi, mọi hoàn
cảnh. Như vậy, mới phân biệt được với cách tu dưỡng đạo đức của các nhà Nho. Hồ
Chí Minh viết: “Tư tưởng cộng sản với tư tưởng cá nhân ví như lúa với cỏ dại. Lúa
phải chăm bón rất khó nhọc thì mới tốt được. Còn cỏ dại không cần chăm sóc cũng
mọc lu bù. Tư tưởng cộng sản phải rèn luyện gian khổ mới có được. Còn tư tưởng cá
nhân thì cũng như cỏ dại, sinh sôi, nảy nở rất dễ”. Vì vậy, gột rửa chủ nghĩa cá nhân
“ví như rửa mặt thì phải rửa hàng ngày”. (ý quan trọng cần nhấn mạnh)
Mỗi người cần phải nhìn thẳng vào mình, phải kiên trì rèn luyện, tu dưỡng suốt
đời như công việc rửa mặt hằng ngày, việc tu dưỡng đạo đức phải được thể hiện qua
mọi hoạt động thực tiễn, trong mọi mối quan hệ xã hội.
* Ý nghĩa của luận điểm trên:
Muốn có đạo đức mạng phải rèn luyện thường xuyên, bền bỉ trong mọi hoạt
động thực tiễn; phải tỉ mỉ công phu mới có được phẩm chất đạo đức tốt và ngày càng
được bồi đắp, nâng cao.
Việc giáo dục, rèn luyện đạo đức cách mạng phải được tiến hành thường xuyên,
liên tục, mọi lúc, mọi nơi. Cán bộ, đảng viên giữ cương vị càng cao càng phải tích cực,
liên tục học tập, rèn luyện, trau dồi đạo đức cách mạng. Khi gặp việc thuận lợi không
tự cao, tự đại, thỏa mãn, dừng lại, khi gặp việc khổ, việc khó thì không chùn bước,
dám nghĩ, dám làm. Việc không ngừng rèn luyện, tu dưỡng đạo đức của cán bộ, đảng
viên, cũng giống như việc tạo ra những kháng thể tốt, ngăn chặn, miễn nhiễm, đẩy lùi
và làm thất bại mọi âm mưu, thủ đoạn quyết liệt chống phá của các thế lực phản động,
thù địch đối với Đảng, Nhà nước và nhân dân ta.

28. Hồ Chí Minh cho rằng: Một dân tộc dốt là một dân tộc yếu. Dân tộc Việt Nam
có được vẻ vang sánh vai với năm châu chính là nhờ giáo dục. Anh (chị) hãy phân
tích nội dung và ý nghĩa của luận điểm trên? 
- Hồ Chí Minh khẳng định một nền chính trị, kinh tế, xã hội có văn hóa. Đồng
thời trong kinh tế, chính trị, xã hội, văn hóa có vai trò dẫn đường. Người mong ước,
xây dựng một nền kinh tế có văn hóa cao, một nền chính trị có văn hóa cao, một xã hội
có văn hóa cao.
- Văn hóa là động lực của sự nghiệp cách mạng.
+ Văn hóa chính trị là động lực có ý nghĩa soi đường cho quốc dân đi, lãnh đạo
quốc dân để thực hiện độc lập, tự chủ, tự cường.
+ Văn hóa văn nghệ góp phần nâng cao lòng yêu nước, lý tưởng, tình cảm cách
mạng, sự lạc quan, ý chí, quyết tâm và niềm tin vào thắng lợi cuối cùng của cách
mạng.
+ Văn hóa giáo dục diệt giặc dốt, xóa mù chữ, giúp con người hiểu biết quy luật
phát triển của xã hội. Với sứ mệnh “trồng người”, văn hóa giáo dục đào tạo con người
mới, cán bộ mới, nguồn nhân lực chất lượng cao cho sự nghiệp cách mạng.
+ Văn hóa đạo đức, lối sống nâng cao phẩm giá, phong cách lành mạnh cho con
người, hướng con người tới các giá trị chân, thiện, mỹ.
+ Văn hóa pháp luật bảo đảm dân chủ, trật tự, kỷ cương, phép nước.
Văn hóa giáo dục
- Vai trò của văn hoá giáo dục: Sinh thời Hồ Chí Minh là một người rất quan
tâm đến vai trò của văn hoá giáo dục, Người cho rằng một dân tộc dốt là một dân tộc
yếu, dân tộc Việt Nam có được vẻ vang sánh vai với các cường quốc năm châu hay
không chính là nhờ sự nghiệp giáo dục. 
- Hồ Chí Minh cho rằng, việc xây dựng một nền giáo dục của nước Việt Nam
mới phải được coi là nhiệm vụ cấp bách, có ý nghĩa chiến lược lâu dài. Nền giáo dục
đó “sẽ làm cho dân tộc chúng ta trở nên một dân tộc dũng cảm, yêu nước, yêu lao
động, một dân tộc xứng đáng với nước Việt Nam độc lập”.
- Trong quá trình xây dựng nền văn hoá giáo dục ở Việt Nam, Hồ Chí Minh đã
đưa ra một hệ thống quan điểm rất phong phú và hoàn chỉnh về giáo dục, định hướng
cho nền giáo dục phát triển đúng đắn, góp phần quan trọng vào sự nghiệp xây dựng
đất nước.
- Mục tiêu của văn hóa giáo dục: Chính là thực hiện ba chức năng của văn hóa.
nhằm mở mang dân trí, nâng cao kiến thức; bồi dưỡng những tư tưởng đúng đắn và
tình cảm cao đẹp…cho con người, đào tạo con người có ích cho xã hội. Đào tạo được
những con người có đức, có tài kế tục sự nghiệp cách mạng. Học không phải để lấy
bằng cấp mà phải thực học, “học để làm việc, làm người, làm cán bộ”.
- Nội dung giáo dục: đó là giáo dục một cách toàn diện trên các lĩnh vực của
đời sống xã hội: văn hoá, chính trị, khoa học - kỹ thuật, chuyên môn nghề nghiệp...
- Phương châm, phương pháp giáo dục:
-> Phương châm: học phải đi đôi với hành, lý luận phải liên hệ với thực tế, học
tập phải kết hợp với lao động, kết hợp chặt chẽ 3 khâu: nhà trường, gia đình và xã hội
trong giáo dục. Phải học tập một cách thường xuyên mọi lúc, mọi nơi, cần luôn đề cao
việc tự học.
-> Phương pháp: cách dạy phải phù hợp với lứa tuổi và trình độ người học, dạy
từ dễ đến khó, phải kết hợp học tập với vui chơi, giải trí lành mạnh, dùng biện pháp
nêu gương, gắn liền với các phong trào thi đua...
+ Đội ngũ giáo viên: quan tâm xây dựng, bồi dưỡng được đội ngũ giáo viên có
đạo đức cách mạng, yêu nghề, yên tâm công tác, đoàn kết và hợp tác với đồng nghiệp,
giỏi về chuyên môn, thành thục về phương pháp…
* Ý nghĩa của luận điểm trên:
Trong di sản tư tưởng Hồ Chí Minh về giáo dục, quan điểm về vai trò của giáo
dục trong việc phát huy nhân tố con người giữ vị trí hết sức quan trọng, thể hiện sự
quan tâm đặc biệt của Hồ Chí Minh đối với con người, coi con người là vốn quý nhất,
là nhân tố quyết định mọi thành công; con người vừa là mục tiêu, vừa là động lực của
sự nghiệp cách mạng.
      Những tư tưởng của Người về lĩnh vực này là một hệ thống quan điểm rất phong
phú và hoàn chỉnh, tạo tiền đề cho những thành tựu và phát triển của nền giáo dục Việt
Nam trong những năm cách mạng, kháng chiến và thời kỳ độc lập sau này. Đó cũng
chính là cơ sở khoa học, là kim chỉ nam cho hành động của Đảng và Nhà nước ta
trong nhận thức và hoạt động xây dựng nền giáo dục và đào tạo trong tiến trình công
nghiệp hóa, hiện đại hóa của đất nước.

29. Hồ Chí Minh nói: Mỗi con người đều có cái thiện và ác ở trong lòng. Ta phải
biết làm cho phần tốt ở trong mỗi con người nảy nở như hoa mùa xuân và phần
xấu bị mất dần đi. Anh (chị) hãy phân tích nội dung và ý nghĩa của luận điểm
trên? 
Xây đi đôi với chống
- Xây tức là xây dựng các giá trị, các chuẩn mực đạo đức mới.
- Chống là chống các biểu hiện, các hành vi vô đạo đức, suy thoái đạo đức.
- Để xây dựng một nền đạo đức mới, cần phải kết hợp chặt chẽ giữa xây và
chống. Muốn xây phải chống, chống nhằm mục đích xây, lấy xây làm chính. Vì trong
đời sống hằng ngày, những hiện tượng tốt
- Xấu, đúng - sai, cái đạo đức và cái vô đạo đức thường đan xen nhau, đối chọi
nhau thông qua hành vi của những con người khác nhau, thậm chí trong mỗi con
người.
- Xây phải đi đôi với chống, nhằm loại bỏ cái sai, cái xấu, cái vô đạo đức trong
đời sống hàng ngày. Khơi dậy được ý thức đạo đức trong mỗi người.
Hồ Chí Minh quan niệm, “Mỗi con người đều có thiện và ác ở trong lòng. Ta
phải biết làm cho phần tốt ở trong mỗi con người nảy nở như hoa mùa Xuân và phần
xấu bị mất dần đi, đó là thái độ của người cách mạng”.
- Muốn xây dựng đạo đức mới thì cùng với việc xây dựng, bồi dưỡng những
phẩm chất tốt đẹp, nhất thiết phải chống những biểu hiện sai trái xấu xa. Xây phải đi
đôi với chống, muốn xây phải chống, chống nhằm mục tiêu xây. Cũng chính vì vậy,
Hồ Chí Minh căn dặn toàn Đảng: “Phải kiên quyết quét sạch chủ nghĩa cá nhân, nâng
cao đạo đức cách mạng, bồi dưỡng tư tưởng tập thể, tinh thần đoàn kết, tính tổ chức và
tính kỷ luật”
- Việc xây dựng đạo đức mới trước hết phải được tiến hành bằng việc giáo dục
những phẩm chất, những chuẩn mực đạo đức mới; bằng việc nêu gương người tốt,
việc tốt, những tấm gương đạo đức trong sáng xuất hiện trong cuộc sống và bằng việc
khơi dậy ý thức đạo đức lành mạnh, để mỗi người tự giác với trách nhiệm đạo đức của
mình.
- Trong việc chống và xây để có đạo đức mới, Hồ Chí Minh coi trọng việc
chống chủ nghĩa cá nhân, xây dựng chủ nghĩa tập thể. Vì chủ nghĩa cá nhân là một thứ
bệnh cực kỳ nguy hiểm, do chủ nghĩa cá nhân mà ngại gian khổ, khó khăn, sa vào
tham ô, lãng phí, xa rời quần chúng, xa rời thực tế; cũng do chủ nghĩa cá nhân mà mất
đoàn kết, thiếu tính tổ chức, kém tinh thần trách nhiệm, không chấp hành đúng đường
lối, chính sách của Đảng và Nhà nước làm hại đến lợi ích chung của cách mạng, của
nhân dân, Người coi những tệ nạn đó là tội ác, là kẻ thù khá nguy hiểm của nhân dân,
là bạn đồng minh của thực dân, phong kiến, là thứ “giặc nội xâm”, “giặc ở trong
lòng”, phá từ trong phá ra. Người đã chỉ rõ tội lỗi của những kẻ tham ô, lãng phí, quan
liêu cũng nặng như tội “việt gian, mật thám”. Do vậy, phải kiên quyết chống lại những
tệ nạn đó, vừa bằng giáo dục, vừa bằng xử phạt với những mức độ nặng nhẹ khác
nhau.
- Để xây và chống có kết quả, phải tạo thành phong trào quần chúng rộng rãi
Các phong trào thi đua thực hành tiết kiệm, chống tham ô, lãng phí, quan liêu;
mở cuộc vận động “nâng cao ý thức trách nhiệm; tăng cường quản lý kinh tế tài chính,
cải tiến kỹ thuật, chống tham ô, lãng phí, quan liêu”. Có phong trào cho toàn Đảng, có
phong trào cho từng ngành, từng giới, từng địa phương... qua đó lôi cuốn mọi người
vào cuộc đấu tranh đầy cam go, để từ đó thôi thúc trách nhiệm đạo đức cá nhân, để
mọi người phấn đấu tự bồi dưỡng và nâng cao phẩm chất đạo đức cách mạng của mình
do Hồ Chí Minh và Đảng ta phát động đã thực sự mang lại những hiệu quả tích cực.
* Ý nghĩa của luận điểm trên:
Quan điểm của Hồ Chí Minh về việc “xây” đi đôi với “chống” có ý nghĩa lý
luận và thực tiễn to lớn đối với cách mạng Việt Nam, đặc biệt trong công cuộc đổi mới
của nước ta hiện nay.
Từ luận điểm trên việc kết hợp giáo dục, rèn luyện đạo đức cách mạng với đẩy
mạnh đấu tranh phòng, chống sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống,
ngăn ngừa những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong đội ngũ cán bộ,
đảng viên được đẩy mạnh.
Là nền tảng cho việc rèn luyện phẩm chất đạo đức, nhân cách của người cán bộ,
đảng viên nói chung và đạo đức cách mạng cho đội ngũ đảng viên quân đội nói riêng,
nhằm đạt được kết quả cao nhất.
Kiên định mục tiêu lý tưởng, giữ vững lòng trung thành tuyệt đối với Đảng,
Nhà nước và nhân dân; luôn là lực lượng tiên phong trên mọi mặt trận, góp phần to
lớn thực hiện thắng lợi nhiệm vụ xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ
nghĩa là vinh dự, trách nhiệm và nghĩa vụ thiêng liêng của toàn thể cán bộ, đảng viên,
chiến sĩ Quân đội nhân dân Việt Nam.
30. Hồ Chí Minh cho rằng: Văn hóa phải lấy hạnh phúc của đồng bào làm cơ sở,
phải soi đường cho quốc dân, phải bồi dưỡng tư tưởng, tình cảm, lối sống và nâng
cao dân trí. Anh (chị) hãy phân tích nội dung và ý nghĩa của luận điểm trên?
Văn hóa phục vụ quần chúng
Thực tiễn đời sống nhân dân là nguồn nhựa sống của văn hóa, văn nghệ, là chất
liệu không bao giờ cạn, là sinh khí vô tận cho văn hóa, văn nghệ sáng tác. Văn nghệ sĩ
phải xuất phát và trở về với cuộc sống thực tại của con người, cái chân thật của sinh
hoạt, nhân dân là người được hưởng thụ các giá trị tinh thần đó. Văn hoá, văn nghệ
thực sự phục vụ quần chúng nhân dân phải là:
+ Mọi hoạt động văn hoá phải gắn liền với đời sống thực tại của nhân dân.
Muốn vậy, phải từ trong quần chúng mà đến với quần chúng.
+ Mỗi một hoạt động văn hoá từ khẩu hiệu, phim ảnh, báo chí… phải thể hiện
tư tưởng và lòng ước ao của quần chúng nhân dân. Muốn vậy thì trong hoạt động văn
hoá phải nêu ra và giải quyết một cách phù hợp 3 câu hỏi sau về: đối tượng, mục đích
và phương pháp. Muốn văn hoá phục vụ quần chúng nhân dân thì phải đánh giá cho
đúng quần chúng nhân dân. Có 4 điểm để đánh giá quần chúng nhân dân như sau:
+ Quần chúng nhân dân không chỉ là những người sáng tạo ra của cải, vật chất,
mà họ còn là người sáng tác rất hay “ca dao, tục ngữ, hò, vè” là “những hòn ngọc quý”
mà văn nghệ sĩ phải nghiên cứu, học tập trong sáng tác của mình.
+ Quần chúng nhân dân là người “nuôi dưỡng cho sáng tác của nhà văn bằng
những nguồn nhựa sống. Còn nếu nhà văn quên điều đó - nhân dân cũng sẽ quên anh
ta”
.+ Quần chúng nhân dân là người kiểm nghiệm, đánh giá sản phẩm văn hoá
một cách trung thực, chính xác nhất.
+ Quần chúng nhân dân phải là người được hưởng thụ các giá trị văn hoá.
Hồ Chí Minh cho rằng : Phải có những tác phẩm văn nghệ xứng đáng với thời
đại của đất nước và của dân tộc; phản ánh cho hay, cho chân thật sự nghiệp cách mạng
của nhân dân. Tác phẩm văn nghệ xứng đáng với thời đại phải là những tác phẩm
miêu tả vừa hay, vừa chân thật sự nghiệp cách mạng của nhân dân. Tác phẩm đó phải
phục vụ đông đảo quần chúng nhân dân, được quần chúng nhân dân yêu thích. Hồ Chí
Minh nói: “Quần chúng mong muốn những tác phẩm có nội dung chân thật và phong
phú, có hình thức trong sáng và vui tươi. Khi chưa xem thì muốn xem, xem rồi thì có
bổ ích”
Theo Hồ Chí Minh, văn nghệ phục vụ quần chúng không phải là hạ thấp nghệ
thuật, không phải là cung cấp cho họ những sản phẩm “loại hai”, những món ăn tinh
thần được chế biến vội vàng, mà phải là những tác phẩm có tính nghệ thuật cao, tinh
tế, có giá trị nhân văn cao.
- Văn hóa phải bồi dưỡng tư tưởng đúng đắn và những tình cảm cao đẹp; Mở
rộng hiểu biết, nâng cao dân trí; Bồi dưỡng những phẩm chất, phong cách và lối sống
tốt đẹp, lành mạnh, hướng con người đến chân, thiện, mỹ để hoàn thiện bản thân.
- Chiến sĩ văn hóa phải hiểu và đánh giá đúng quần chúng. Quần chúng là
những người sáng tác rất hay. Họ cung cấp cho những nhà hoạt động văn hóa những
tư liệu quý. Và chính họ là những người thẩm định khách quan, trung thực, chính xác
các sản phẩm văn nghệ. Nhân dân phải là những người được hưởng thụ các giá trị văn
hóa.
* Ý nghĩa của luận điểm trên:
Từ quan điểm của Hồ Chí Minh về văn hóa văn nghệ có ý nghĩa lý luận và thực tiễn
to lớn trong công cuộc đổi mới của nước ta hiện nay. Đảng ta đã ra nhiều chỉ thị, nghị
quyết về xây dựng và phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc,
phát triển toàn diện, thống nhất trong đa dạng, thấm nhuần tinh thần nhân văn, dân chủ,
tiến bộ; làm cho văn hóa gắn kết chặt chẽ và thấm sâu vào toàn bộ đời sống xã hội, trở
thành nền tảng tinh thần vững chắc, sức mạnh nội sinh quan trọng của phát triển; là nền
tảng tinh thần của xã hội, vừa là mục tiêu vừa là động lực thúc đẩy sự phát triển kinh tế -
xã hội.
Câu 31: HCM viết: Một đảng mà giấu khuyết điểm là một đảng hỏng, một đảng biết
thừa nhận khuyết điểm và có quyết tâm sửa chữa là một đảng tiến bộ, chân chính. Anh
(chị) hãy phân tích nội dung và ý nghĩa của luận điểm trên?
Theo Hồ Chí Minh, trong đấu tranh cách mạng, trong công tác hàng ngày, Đảng
ta cũng như cán bộ, đảng viên của Đảng không tránh khỏi mắc khuyết điểm, sai lầm;
điều quan trọng là thấy rõ khuyết điểm, sai lầm, không giấu giếm và quyết tâm sửa
chữa, để Đảng ta, cán bộ ta tiến bộ mãi.
Nguyên tắc phê bình, tự phê bình trong xây dựng Đảng
- Đây là nguyên tắc hoạt động của Đảng, là luật phát triển của Đảng, là phương
pháp hiệu quả nhất để giáo dục, rèn luyện đảng viên, là vũ khí sắc bén để xây dựng
Đảng trong sạch, vững mạnh, thực hiện tốt tự phê bình và phê bình trong nội bộ là yếu
tố quyết định đến việc giữ gìn uy tín của Đảng.
- Mục đích của nguyên tắc này: là vũ khí để rèn luyện Đảng viên, tăng cường
đoàn kết nội bộ Đảng, nâng cao trình độ lãnh đạo của Đảng. “Là cốt sửa chữa, chứ
không phải để công kích, cốt giúp nhau tiến bộ chứ không phải làm cho đồng chí khó
chịu, nản lòng”. “Mỗi người đều có thiện và ác ở trong lòng ta, phải biết làm cho phần
tốt ở trong mỗi con người nảy nở như hoa mùa xuân và phần xấu bị mất dần đi, đó là
thái độ của người cách mạng. Đối với những người có thói hư tật xấu, từ hạng người
phản lại Tổ quốc và nhân dân, ta cũng phải giúp họ tiến bộ bằng cách làm cho cái
phần thiện trong con người nảy nở để đẩy lùi phần ác, chứ không phải đập cho tơi
bời".
- Phương pháp: phải được tiến hành thường xuyên như người ta rửa mặt hàng
ngày, phải thẳng thắn, thành khẩn, chân thành trung thực, không nể nang, không giấu
giếm và cũng ko thêm bớt khuyết điểm, kiên quyết, có văn hóa, có tính đồng chí yêu
thương lẫn nhau.
Người khẳng định: "Trong bao nhiêu năm hoạt động bí mật, dù bị bọn thực dân
khủng bố gắt gao và Đảng ta gặp nhiều khó khăn nguy hiểm, nhưng Đảng ta ngày
càng phát triển, càng mạnh mẽ và đã lãnh đạo nhân dân ta làm cách mạng thành công,
kháng chiến thắng lợi, đó là Đảng ta khéo dùng cái vũ khí sắc bén tự phê bình và phê
bình". Người nói: "Một Đảng mà giấu giếm khuyết điểm của mình là một Đảng hỏng.
Một Đảng có gan thừa nhận khuyết điểm của mình, vạch rõ những cái đó, vì đâu mà
có khuyết điểm đó, xét rõ hoàn cảnh sinh ra khuyết điểm đó, rồi tìm mọi cách để sửa
chữa khuyết điểm đó. Như thế là một Đảng tiến bộ, mạnh dạn, chắc chắn".
Để mọi người hiểu rõ, có nhận thức đầy đủ từ đó mà tự giác thực hiện, Bác giải
thích: “ Phê bình là nêu ưu điểm, vạch ra khuyết điểm của đồng chí mình. Tự phê bình
là nêu ưu điểm và vạch ra khuyết điểm của mình. Tự phê bình và phê bình phải đi đôi
với nhau. Mục đích là cho mọi người học lẫn ưu điểm của nhau và giúp nhau chữa
những khuyết điểm”. 
Theo Bác thì việc tự phê bình và phê bình phải thể hiện được tính Đảng, tính
giáo dục, tính khách quan, trung thực, thẳng thắn, dân chủ, cụ thể và thiết thực, mặt
khác phải thực hiện đồng bộ từ Trung ương đến cơ sở ở các cấp, các ngành, cấp trên
phải nêu gương cho cấp dưới cán bộ lãnh đạo quản lý phải gương mẫu và triệt để thực
hành. Tháng 1 năm 1965, để thực hiện cuộc chỉnh huấn trong Đảng Bác đã chỉ rõ:
“Cuộc chỉnh huấn lần này là một cơ hội tốt để tất cả chúng ta thật thà tự phê bình và
phê bình, xem xét lại mình một cách nghiêm chỉnh, thấy rõ những sai lầm để sửa chữa,
thấy rõ những ưu điểm để phát huy thêm. Muốn vậy, mỗi người phải thực sự tự giác,
tự nguyện. Nhất là các đồng chí lãnh đạo ở các cấp, các ngành cần phải gương mẫu
trong việc tự phê bình và phê bình. Tất cả các đồng chí đều phải đem hết lòng đoàn
kết, thương yêu đồng chí và giúp đỡ nhau tiến bộ. Những đảng viên nào có khuyết
điểm, nếu thật thà tự phê bình, có quyết tâm sửa chữa vứt bỏ cái ba lô cá nhân chủ
nghĩa đi thì sẽ trở nên đảng viên xứng đáng”.
Trước lúc đi xa, trong Di chúc của mình, khi nói về Đảng, một trong ba điều
Bác Hồ đã căn dặn chúng ta là: "Trong Đảng phải thực hành dân chủ rộng rãi, thường
xuyên và nghiêm chỉnh tự phê bình, phê bình là cách tốt nhất để củng cố và phát triển
sự đoàn kết và thống nhất của Đảng...".
Rõ ràng, nếu như cán bộ, đảng viên không nêu gương, không tự phê bình và sửa
chữa khuyết điểm hàng ngày, cho dù Đảng có ban hành trăm nghị quyết, quy định để
chấn chỉnh cán bộ, đảng viên và các chi, đảng bộ về lề lối làm việc, tác phong đạo đức
thì khó lòng tạo nên sức mạnh tổng hợp.
- Ý nghĩa của luận điểm trên:
+ Từ những điều Bác dạy soi vào thực tế công tác xây dựng đảng hiện nay,
chúng ta càng thấy thấm thía về sự sâu sắc, tầm nhìn xa, trông rộng của Người. Những
bệnh của cán bộ, đảng viên mà Bác Hồ đã chỉ ra hiện vẫn là điều nhức nhối trong
Đảng, trong dân. Do vậy, việc học tập và vận dụng những lời dạy của Bác về tự phê
bình và phê bình trong tình hình hiện nay thật vô cùng có ý nghĩa.
+ Từ lý luận và thực tiễn cách mạng đã chứng minh rằng, trong mọi giai đoạn
cách mạng, tự phê bình và phê bình là việc làm không thể thiếu được trong hoạt động
của Đảng để xây dựng Đảng vững mạnh. Đảng ta là một Đảng Mác-xít chân chính,
được nhân dân tin tưởng và ủng hộ chính là nhờ Đảng không ngừng đổi mới tự chỉnh
đốn, nhờ thực hiện nghiêm túc chế độ tự phê bình và phê bình.
+ Hiện nay toàn đảng , toàn quân, toàn dân ta đang tích cực thực hiện Cuộc vận
động “ Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh” và tiếp tục thực hiện
“Cuộc vận động xây dựng, chỉnh đốn Đảng” tiến hành tự phê bình và phê bình”
+ Hiện nay, chúng ta cũng thừa nhận rằng đạo đức, lối sống của không ít cán
bộ, đảng viên bị suy thoái nghiêm trọng. Trước tình trạng đó, hơn lúc nào hết cần phải
thực hiện theo quan điểm Hồ Chí Minh, huy động sức mạnh tổng hợp của toàn Đảng,
toàn dân, của cả hệ thống chính trị với những nội dung, biện pháp toàn diện và đồng
bộ, trong đó tự phê bình và phê bình là biện pháp cơ bản, có ý nghĩa quyết định đối
với công tác xây dựng đảng trong tình hình hiện nay. Đấu tranh tự phê bình và phê
bình phải được tiến hành một cách kiên quyết, thường xuyên, liên tục trong mọi hình
thức sinh.
Câu 32: HCM nói: “Nước VN là 1 dân tộc, dân tộc Việt Nam là một. Sông có thể cạn,
núi có thể mòn song chân lý đó không bao giờ thay đổi”. Anh (chị) hiểu thế nào về nội
dung và ý nghĩa của quan điểm trên? ( 2 tập khác nhau)
Mỗi quốc gia trên thế giới đều phải trải qua những cuộc chiến gìn giữ và bảo vệ
đất nước và chủ quyền dân tộc. Nhiều dân tộc chiến thắng và giữ gìn được nền độc lập
của mình nhưng có những đất nước lại bị đô hộ hoá.
Việt Nam cũng không ngoại lệ. Chúng ta đã phải trải qua bao cuộc đấu tranh mới
có thể gìn giữ được đất nước tươi đẹp và toàn vẹn như ngày hôm nay. Để làm được
điều đó, không chỉ có sự hy sinh anh dũng, cùng tinh thần dũng cảm mà còn có tình
yêu nước thắm thiết cùng ý chí quyết tâm của toàn dân tộc ta.
Độc lập, tự do là quyền thiêng liêng, bất khả xâm phạm của tất cả các dân tộc
- Lịch sử dựng nước và giữ nước của dân tộc Việt Nam từ ngàn xưa đến nay gắn liền
với truyền thống yêu nước, đấu tranh chống giặc ngoại xâm. Điều đó nói lên một khát
khao to lớn của dân tộc ta là, luôn mong muốn có được một nền độc lập cho dân tộc,
tự do cho nhân dân và đó cũng là một giá trị tinh thần thiêng liêng, bất hủ của dân tộc
mà Hồ Chí Minh là hiện thân cho tinh thần ấy.
- Căn cứ vào những quyền tự do, bình đẳng và quyền con người được ghi trong bản
Tuyên ngôn Độc lập của cách mạng Mỹ năm 1776, Tuyên ngôn Nhân quyền và Dân
quyền của Cách mạng Pháp năm 1791.
- Hồ Chí Minh khẳng định về quyền dân tộc: “Tất cả các dân tộc trên thế giới đều sinh
ra bình đẳng, dân tộc nào cũng có quyền sống, quyền sung sướng và quyền tự do”.
- Tư tưởng đó được thể hiện trong thực tiễn cách mạng Việt Nam: Trong Chánh cương
vắn tắt của Đảng năm 1930, Hồ Chí Minh cũng đã xác định mục tiêu chính trị của
Đảng là: Đánh đổ đế quốc chủ nghĩa Pháp và bọn phong kiến. Làm cho nước Nam
được hoàn toàn độc lập. Cách mạng Tháng Tám năm 1945 thành công, trong Tuyên
ngôn Độc lập, Hồ Chí Minh khẳng định: “Nước Việt Nam có quyền hưởng tự do và
độc lập, và sự thực đã thành một nước tự do và độc lập. Toàn thể dân Việt Nam quyết
đem tất cả tinh thần và lực lượng, tính mạng và của cải để giữ vững quyền tự do và
độc lập ấy”
Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến chống Pháp 1946: “Chúng ta thà hy sinh tất cả, chứ
nhất định không chịu mất nước, nhất định không chịu làm nô lệ”. Trong kháng chiến
chống đế quốc Mỹ, Người nêu cao chân lý: “Không có gì quý hơn độc lập, tự do”. Với
tư tưởng đó, nhân dân Việt Nam đã anh dũng chiến đấu, đánh thắng đế quốc Mỹ xâm
lược, giành hòa bình, độc lập, thống nhất Tổ quốc.

Theo Hồ Chí Minh, độc lập dân tộc phải là độc lập thật sự, hoàn toàn và triệt để trên
tất cả các lĩnh vực. Người nhấn mạnh: độc lập mà người dân không có quyền tự quyết
về ngoại giao, không có quân đội riêng, không có nền tài chính riêng.... , thì độc lập đó
chẳng có ý nghĩa gì.
Độc lập dân tộc gắn liền với hòa bình, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ. Tư tưởng độc
lập dân tộc gắn liền với thống nhất Tổ quốc, toàn vẹn lãnh thổ là tư tưởng xuyên suốt,
Hồ Chí Minh khẳng định: “Đồng bào Nam Bộ là dân nước Việt Nam. Sông có thể cạn,
núi có thể mòn, song chân lý đó không bao giờ thay đổi”; “Nước Việt Nam là một,
dân tộc Việt Nam là một”; “Dù khó khăn gian khổ đến mấy, nhân dân ta nhất định sẽ
hoàn toàn thắng lợi. Tổ quốc ta nhất định sẽ thống nhất. Đồng bào Nam Bắc nhất định
sẽ sum họp một nhà”.
- Độc lập dân tộc phải gắn liền tự do và hạnh phúc của nhân dân. Theo Hồ Chí Minh:
“Nước độc lập mà dân không hưởng hạnh phúc tự do, thì độc lập cũng chẳng có nghĩa
lý gì”. Ngay sau thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám năm 1945, Hồ Chí Minh yêu
cầu: Chúng ta phải thực hiện ngay làm cho dân có ăn, làm cho dân có mặc, làm cho
dân có chỗ ở, làm cho dân có học hành.
TẬP HÈ: Và chủ tịch Hồ Chí Minh đã khẳng định điều đó trong thông điệp
“Nước Việt Nam là một, dân tộc Việt Nam là một. Sông có thể cạn, núi có thể mòn,
song chân lý đó không bao giờ thay đổi”.
Câu nói này mang ý nghĩa sâu sắc có ý muốn nhắn nhủ rằng mọi thứ trên đời đều
có quy luật riêng, cho dù sông có cạn, núi có mòn thì chân lý đó “tình yêu nước cùng
tinh thần chung sức đồng lòng bảo vệ máu thịt của nhân dân Việt Nam” cũng không
bao giờ thay đổi.
Chân lý này của chủ tịch Hồ Chí Minh tuy giản dị nhưng lại giàu tính triết lý.
Mượn hình ảnh sông cạn, núi mòn, chủ tịch vĩ đại của chúng ta muốn khẳng định chắc
nịch một chân lý bất di bất dịch. Không có bất cứ ai và bất cứ điều gì có thể thay đổi.
Dân tộc ta từ thuở còn Hùng Vương dựng nước cho đến nay đã trải qua bao
thăng trầm, khó khăn, bao cuộc xâm lăng của giặc ngoại xâm. Tuy nhiên, với lòng yêu
nước vô bờ bến cùng truyền thống đánh giặc chống giặc. Dân tộc ra đã đập tan hết hy
vọng của bọn cướp nước.
Lời khẳng định của Hồ chủ tịch như muốn nói lên tinh thần đoàn kết của toàn
dân tộc sẽ là sức mạnh giúp chúng ta chiến thắng tất cả mọi kẻ thù. Lịch sử đấu tranh
của dân tộc đã cho ta thấy rõ điều đó. Với hơn một ngàn năm bị đô hộ bởi những kẻ
thù phương bắc, chúng ta đã nổi dậy bằng chiến thắng của Ngô Quyền. Đặc biệt hơn là
ba lần đánh giặc Nguyên Mông hùng mạnh, cùng những chiến thắng vô cùng oai hùng
khác.
Chân lý trên không chỉ nói lên tinh thần đoàn kết của toàn dân mà còn nói đến
lòng yêu nước sâu sắc của con người Việt Nam cùng quyết tâm bảo vệ toàn vẹn non
sông, lãnh thổ này.
Bên cạnh đó thì nó còn thể hiện sự thống nhất đất nước về cả mặt lãnh thổ và nhà
nước. Thống nhất không chỉ về chính trị, kinh tế mà còn thống nhất về mặt tư tưởng,
văn hoá, xã hội.
Thông qua chân lý vĩ đại của Hồ chủ tịch, từ đó chúng ta có thể rút ra bài học rằng:
Mỗi con dân Việt Nam cần giữ gìn phát huy cũng như chung tay bảo vệ chủ quyền của
đất nước bằng tình yêu và sự đoàn kết của mình. Chúng ta nên đấu tranh một cách ôn
hoà, tôn trọng luật pháp của Việt Nam cũng như luật pháp quốc tế.
YN:
Luận điểm “Nước VN là một, dân tộc VN là một. Sông có thể cạn, núi có thể mòn
song chân lý đó không bao giờ thay đổi” của Chủ tịch Hồ Chí Minh là một luận điểm
vô cùng chính xác,là chân lý muôn đời. Nó đã được tồn tại hàng ngàn năm nay. Khẳng
định chắc nịch một tình cảm thiêng liêng, một ý chí sắt đá, quyết tâm bảo vệ toàn vẹn
lãnh thổ, non sông Việt Nam. và nó có giá trị tới tận bây giờ và mãi về sau.
Quán triệt tư tưởng của Người, những năm qua, Đảng, Nhà nước và nhân dân ta đẩy
mạnh toàn diện, đồng bộ công cuộc đổi mới vì mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, dân
chủ, công bằng, văn minh”, quan tâm chăm lo nâng cao đời sống mọi mặt của nhân
dân; chú trọng phát huy nhân tố con người trong mọi lĩnh vực của đời sống xã hội.
Những nhiệm vụ trọng tâm đó là sự thống nhất giữa quyền và lợi ích dân tộc với
quyền, lợi ích và nghĩa vụ của con người, của công dân, như tâm nguyện của Bác.
Câu nói “nước Việt Nam là một, dân tộc Việt Nam là một. Sông có thể cạn, núi có thể
mòn, song chân lý đó không bao giờ thay đổi” của chủ tịch Hồ Chí Minh chính là chân
lý muôn đời. Nó đã được tồn tại hàng ngàn năm nay. Khẳng định chắc nịch một tình
cảm thiêng liêng, một ý chí sắt đá, quyết tâm bảo vệ toàn vẹn lãnh thổ, non sông Việt
Nam.

Câu 33: HCM nói trước Quốc hội năm 1946 chính phủ này là chính phủ toàn
quốc, có đủ nhân tài Nam, Trung, Bắc tham gia. Anh chị hãy phân tích nội dung và
ý nghĩa của luận điểm trên?
● Nền tảng của khối đại đoàn kết dân tộc
- Muốn xây dựng khối đại đoàn kết dân tộc, phải xác định rõ đâu là nền tảng của khối
đại đoàn kết dân tộc và những lực lượng nào tạo nên nền tảng đó. Hồ Chí Minh chỉ
rõ: “Đại đoàn kết tức là trước hết phải đoàn kết đại đa số nhân dân, mà đại đa số nhân
dân là công nhân, nông dân và các tầng lớp nhân dân lao động khác. Đó là nền, gốc
của đại đoàn kết”. Như vậy, lực lượng làm nền tảng cho khối đại đoàn kết toàn dân
tộc theo quan điểm của Hồ Chí Minh là công nhân, nông dân và trí thức. Nền tảng
này càng được củng cố vững chắc thì khối đại 68 đoàn kết toàn dân tộc càng có thể
mở rộng, khi ấy không có thế lực nào có thể làm suy yếu khối đại đoàn kết dân tộc.
- Trong khối đại đoàn kết toàn dân tộc, phải đặc biệt chú trọng yếu tố “hạt nhân” là sự
đoàn kết và thống nhất trong Đảng vì đó là điều kiện cho sự đoàn kết ngoài xã hội. Sự
đoàn kết của Đảng càng được củng cố thì sự đoàn kết toàn dân tộc càng được tăng
cường, Đảng đoàn kết, dân tộc đoàn kết và sự gắn bó máu thịt giữa Đảng với nhân
dân đã tạo nên sức mạnh bên trong của cách mạng Việt Nam để vượt qua mọi khó
khăn, thử thách, chiến thắng mọi kẻ thù, đi tới thắng lợi cuối cùng của cách mạng.
● Ý nghĩa của quan điểm trên
Như vậy, khác với các nhà cách mạng tiền bối khi chỉ nhìn ra vai trò của giai cấp nông
dân hoặc tầng lớp sĩ phu trí thức, Hồ Chí Minh đã thấy được vai trò to lớn của quần
chúng nhân dân lao động và chỉ ra sự cần thiết phải đoàn kết, tập hợp họ thành một
khối thống nhất, cùng với các giai cấp, tầng lớp khác để tạo thành khối đại đoàn kết
toàn dân tộc. Đây là tư tưởng tiến bộ của Hồ Chí Minh, trên cơ sở kế thừa quan điểm
của chủ nghĩa Mác - Lênin về vai trò của quần chúng nhân dân và thể hiện tầm nhìn xa
trộng rộng của Người về việc phát huy sức mạnh toàn dân tộc trong sự nghiệp cách
mạng.
Đoàn kết trong tư tưởng của Người có ý nghĩa là sự đoàn kết rộng rãi, mở rộng và
tranh thủ tất cả những lực lượng và bộ phận có thể tranh thủ, giáo dục để quần chúng giác
ngộ sự cần thiết phải đoàn kết lại; thu hút rộng rãi các lực lượng yêu nước tiến bộ trong
dân chúng; hướng dẫn khối đại đoàn kết toàn dân đấu tranh, lao động sáng tạo theo những
mục tiêu, nhiệm vụ phù hợp với lợi ích thiêng liêng của dân tộc và nguyện vọng chính
đáng của nhân dân; thấy rõ được tầm quan trọng của quần chúng nhân dân và thể hiện tầm
nhìn xa trông rộng của Người về việc phát huy sức mạnh toàn dân tộc trong sự nghiệp cách
mạng.
Việc đưa ra tư tưởng đại đoàn kết, trực tiếp lãnh đạo chỉ đạo việc xây dựng khối đại
đoàn kết toàn dân tộc quan điểm của HCM đã làm cho các tầng lớp, giai cấp nhân dân ở
mọi vùng miền của Tổ quốc, kể cả đồng bào sinh sống ở nước ngoài đã cùng chung tay
đoàn kết, thống nhất, tạo thành sức mạnh to lớn để Việt Nam lần lượt chiến thắng được kẻ
thù xâm lược, thực hiện được mục tiêu độc lập cho dân tộc và tự do cho nhân dân.
Với tư tưởng "lấy dân làm gốc", Hồ Chí Minh luôn đề cao vai trò của nhân dân và
sức mạnh đoàn kết của nhân dân: "Trong bầu trời không có gì quý bằng nhân dân. Trong
thế giới không có gì mạnh bằng lực lượng đoàn kết của nhân dân"(3). Do đó, đại đoàn kết
dân tộc trong tư tưởng Hồ Chí Minh là đoàn kết tất cả các tầng lớp nhân dân, các giai cấp,
các chính đảng, đoàn thể, các dân tộc, tôn giáo, kể cả những người trước đây lầm đường
lạc lối nhưng đã biết hối cải, quay về với chính nghĩa của dân tộc. Đoàn kết trong tư tưởng
của Người là đoàn kết rộng rãi, mở rộng và tranh thủ tất cả những lực lượng và bộ phận có
thể tranh thủ sức mạnh của họ
Câu 34: Tại sao Hồ Chí Minh cho rằng xây dựng CNXH ở nước ta sẽ lâu dài, khó
khăn, phức tạp không thể làm mau được mà phải làm từng bước đi bước nào phải
vững chắc chắn bước ấy, tiến dần dần. Anh chị hãy phân tích nội dung và ý nghĩa
của luận điểm trên?
* Phân tích nội dung:
* Tính chất, đặc điểm và nhiệm vụ của thời kỳ quá độ
- Tính chất của thời kỳ quá độ: thực hiện con đường quá độ gián tiếp tiến lên
CNXH bỏ qua chế độ TBCN; đây là thời kỳ cải biến sâu sắc nhất nhưng phức tạp, lâu
dài, khó khăn, gian khổ.
Trong điều kiện nước ta là một nước nông nghiệp lạc hậu, mới thoát khỏi ách
thực dân, phong kiến nên nó là công cuộc biến đổi sâu sắc nhất, khó khăn nhất, thậm
chí còn khó khăn, phức tạp hơn cả việc đánh giặc, vì vậy, tiến lên chủ nghĩa xã hội
không thể một sớm một chiều, không thể làm mau được mà phải làm dần dần.
(Xây dựng chủ nghĩa xã hội phải thận trọng từng bước một, từ thấp đến cao,
không chủ quan, nôn nóng. Người chỉ rõ: “Ta xây dựng chủ nghĩa xã hội từ hai bàn
tay trắng đi lên thì khó khăn còn nhiều và lâu dài”, “phải làm dần dần”, “không thể
một sớm, một chiều”, “ai nói dễ là chủ quan và sẽ thất bại”. Tư tưởng chủ đạo của Hồ
Chí Minh về bước đi của thời kỳ quá độ ở Việt Nam là phải qua nhiều bước, “bước
ngắn, bước dài, tùy theo hoàn cảnh”, nhưng “chớ ham làm mau, ham rầm rộ……Đi
bước nào vững vàng, chắc chắn bước ấy, cứ tiến tới dần dần”.)
- Đặc điểm của thời kỳ quá độ: Đặc điểm lớn nhất của thời kỳ quá độ ở Việt
Nam là từ một nước nông nghiệp lạc hậu tiến thẳng lên chủ nghĩa xã hội, không trải
qua giai đoạn phát triển tư bản chủ nghĩa.
(Từ thực tế của xã hội VN, HCM nhận thấy “đặc điểm to lớn nhất của ta trong
thời kỳ quá độ là 1 nước nông nghiệp lạc hậu tiến thẳng lên CNXH không phải phải
kinh qua giai đoạn phát triển
TBCN”. Vì vậy, khi nói về độ dài của thời kỳ quá độ, Người chỉ rõ: “Xây dựng
chủ nghĩa xã hội là một cuộc đấu tranh cách mạng phức tạp, gian khổ và lâu dài”.)
- Nhiệm vụ của thời kỳ quá độ: Kết hợp giữa cải tạo, xóa bỏ tàn tích của chế độ
xã hội cũ với xây dựng các yếu tố của xã hội mới. Trọng tâm là tiến hành công nghiệp
hóa nhằm xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật của CNXH, đồng thời xây dựng các tiền đề
về chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội. Phải xây dựng một xã hội hoàn toàn chưa từng có
trong lịch sử dân tộc, phải thay đổi triệt để những nếp sống, thói quen, ý nghĩ và thành
kiến có gốc rễ sâu xa hàng ngàn năm; phải xóa bỏ giai cấp bóc lột; phải biến một nước
dốt nát, cực khổ thành một nước văn hóa cao và đời sống tươi vui hạnh phúc.
(Về chính trị, phải xây dựng được chế độ dân chủ vì đây là bản chất của chủ
nghĩa xã hội. Muốn xây dựng được chế độ này, theo HCM, phải chống tất cả các biểu
hiện của chủ nghĩa cá nhân, trước hết ở trong Đảng, trong bộ máy chính quyền từ cấp
cơ sở đến Trung ương đồng thời bồi dưỡng, giáo dục nhân dân có tri thức, có năng lực
làm chủ xã hội.
Về kinh tế, trong bối cảnh nền kinh tế nước ta còn nghèo nàn, kỹ thuật còn lạc
hậu, HCM xác định nhiệm vụ quan trọng nhất của thời kỳ quá độ phải cải tạo nền kinh
tế cũ, xây dựng nền kinh tế mới có công nghiệp và nông nghiệp hiện đại. Đây là quá
trình xây dựng nền tảng vật chất và kỹ thuật của CNXH. Giữa cải tạo và xây dựng thì
xây dựng là nhiệm vụ chủ chốt và lâu dài và phải luôn gắn với việc thực hiện đầy đủ
quyền làm chủ của nhân dân
Về văn hoá, phải triệt để tẩy trừ mọi di tích thuộc địa và ảnh hưởng nô dịch của
văn hoá đế quốc, đồng thời, phát triển những truyền thống tốt đẹp của văn hoá dân tộc
và hấp thụ những cái mới của văn hoá tiến bộ thế giới để xây dựng 1 nền văn hoá VN
có tính chất dân tộc, khoa học, đại chúng.
Về quan hệ xã hội, phải thay đổi triệt để những quan hệ cũ đã trở thành thói
quen trong lối sống, nếp sống của con người, phải xây dựng được 1 XH dân chủ, công
bằng, văn minh, tôn trọng con người, chú ý xem xét những lợi ích cá nhân đúng đắn
và bảo đảm cho nó được thoả mãn để mọi người có điều kiện cải thiện đời sống riêng
của mình, phát huy tính cách riêng và sở trường riêng trong sự hài hoà với đời sống
chung, là lợi ích của tập thể.)
* Ý nghĩa của luận điểm trên:
Xây dựng chủ nghĩa xã hội là thực hiện cải tạo xã hội cũ, xây dựng xã hội mới,
kết hợp cải tạo với xây dựng, trong đó lấy xây dựng làm chính. Kết hợp xây dựng và
bảo vệ trong phạm vi một quốc gia (tiến hành đồng thời hai nhiệm vụ chiến lược khác
nhau ở hai miền Nam – Bắc trong kháng chiến chống Mỹ, cứu nước). Xây dựng chủ
nghĩa xã hội phải có kế hoạch, biện pháp, đặc biệt là quyết tâm (chỉ tiêu 1, biện pháp
10, quyết tâm 20) để thực hiện thắng lợi kế hoạch đã đề ra.
- Làm rõ quá trình với các bước đi cụ thể trong công cuộc đổi mới
- Phát huy mọi nguồn lực vốn có trong dân để xây dựng thành công CNXH
- Tăng cường vai trò lãnh đạo của Đảng, hiệu lực quản lý của Nhà nước trong việc
huy động các nguồn lực của nhân dân để xây dựng và bảo vệ Tố quốc.
Theo Hồ Chí Minh, biện pháp cơ bản, quyết định, lâu dài trong xây dựng chủ
nghĩa xã hội ở nước ta là đem của dân, tài dân, sức dân làm lợi cho dân dưới sự lãnh
đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam. Vai trò lãnh đạo của Đảng cầm quyền là tập hợp
lực lượng, đề ra đường lối, chính sách nhằm huy động và khai thác các nguồn lực
trong dân để phát triển đất nước vì lợi ích của nhân dân. Người luôn luôn nhắc nhở
phải nêu cao tinh thần độc lập, tự chủ, sáng tạo, chống giáo điều, rập khuôn kinh
nghiệm nước ngoài, phải suy nghĩ tìm tòi, sáng tạo ra cách làm phù hợp với thực tiễn
Việt Nam.

Câu 35: Hãy chỉ rõ sự sáng tạo của Hồ Chí Minh về thành lập Đảng cộng sản Việt
Nam? Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của vấn đề trên?
Nguyễn Ái Quốc tích cực chuẩn bị mọi mặt cho sự ra đời của Đảng Cộng sản
Việt Nam. Đó là quá trình vận dụng sáng tạo những nguyên lý của chủ nghĩa Mác -
Lênin vào thực tiễn xã hội Việt Nam và Người cũng có những sáng tạo độc đáo phù
hợp với thực tiễn cách mạng Việt Nam.
- Một là, Hồ Chí Minh vận dụng sáng tạo quy luật ra đời Đảng cộng sản của
chủ nghĩa Mác - Lênin và chỉ ra quy luật ra đời đặc thù của Đảng Cộng sản Việt
Nam.
Ngay sau khi tìm thấy con đường cứu nước cho dân tộc, Nguyễn Ái Quốc tích
cực  hoạt động nhằm truyền bá chủ nghĩa Mác - Lênin vào Việt Nam, chuẩn bị mọi
mặt  cho việc thành lập Đảng. Người tham gia sáng lập Đảng Cộng sản Pháp, xuất
bản  báo “Người cùng khổ” để tuyên truyền chủ nghĩa Mác - Lênin vào các nước
thuộc  địa. Năm 1923, Nguyễn Ái Quốc đi Liên Xô dự Đại hội V của Quốc tế Cộng
sản.  Năm 1925, Nguyễn Ái Quốc thành lập Hội Việt Nam cách mạng thanh niên, ra
báo  Thanh niên, mở lớp đào tạo cán bộ cách mạng cho 75 đồng chí. Những bài giảng 
của Người được tập hợp thành cuốn sách “Đường cách mệnh” xuất bản năm 1927. 
Theo Hồ Chí Minh, Đảng Cộng sản là đội tiên phong của giai cấp công nhân,
được tổ chức và hoạt động theo những nguyên tắc xây dựng Đảng kiểu mới của  chủ
nghĩa Mác - Lênin, đó là: nguyên tắc tập trung dân chủ, phải đoàn kết thống  nhất,
lấy tự phê bình và phê bình làm quy luật phát triển và phải có kỷ luật nghiêm  minh...
Người khẳng định vấn đề có ý nghĩa quyết định trong xây dựng Đảng  là: “Đảng
muốn vững thì phải có chủ nghĩa làm cốt, trong đảng ai cũng phải hiểu,  ai cũng
phải theo chủ nghĩa ấy. Đảng mà không có chủ nghĩa cũng như người  không có trí
khôn, tàu không có bàn chỉ nam. Bây giờ học thuyết nhiều, chủ nghĩa  nhiều, nhưng
chủ nghĩa chân chính nhất, chắc chắn nhất, cách mệnh nhất là chủ nghĩa Lênin”. 
Theo nguyên lý của chủ nghĩa Mác - Lênin, Đảng Cộng sản ra đời là sản phẩm
của sự kết hợp giữa chủ nghĩa Mác - Lênin với phong trào công nhân và phong  trào
yêu nước. Vận dụng sáng tạo quy luật này ở một nước thuộc địa nửa phong  kiến, kinh
tế nghèo nàn lạc hậu như Việt Nam, Hồ Chí Minh khẳng định: Chủ  nghĩa Mác -
Lênin kết hợp với phong trào công nhân và phong trào yêu nước đã  dẫn đến việc
thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam. Đây chính là sáng tạo nổi bật  nhất của Hồ Chí
Minh trong quá trình vận động thành lập Đảng. Người trung thành  với nguyên lý của
chủ nghĩa Mác - Lênin về quy luật ra đời của Đảng, đồng thời có  bổ sung, sáng tạo
vào quy luật ấy với điều kiện cụ thể của Việt Nam, đó là phong  trào yêu nước. Hồ
Chí Minh đã phân tích rất kỹ tính chất xã hội, cơ cấu giai cấp  của xã hội Việt Nam để
chỉ ra quy luật này. 
-Hai là, Hồ Chí Minh xác định: giải phóng dân tộc là nhiệm vụ hàng đầu
của cách mạng Việt Nam.
Trong các văn kiện thông qua tại Hội nghị thành lập Đảng (Chính cương vắn
tắt, Sách lược vắn tắt) do Hồ Chí Minh soạn thảo xác định: “Chủ trương làm tư sản
dân quyền cách mạng và thổ địa cách mạng để đi tới xã hội cộng sản”, “Đánh đổ đế
quốc chủ nghĩa Pháp và bọn phong kiến. Làm cho nước Nam được hoàn toàn độc
lập”. Đây là đường lối đúng đắn của cách mạng Việt Nam với hai giai đoạn: Giải
phóng dân tộc đem lại độc lập cho dân tộc được đặt lên hàng đầu, tiếp đó cách mạng
phải tiến lên giai đoạn xã hội chủ nghĩa, cộng sản chủ nghĩa để thực sự giải phóng giai
cấp, giải phóng con người, đem lại ấm no, tự do, hạnh phúc cho nhân dân, con người
được phát triển toàn diện. Đây là hai giai đoạn không có sự phân biệt về không gian và
thời gian, nó gắn liền với nhau, có mối liên hệ chặt chẽ với nhau, giải phóng dân tộc là
tiền đề, là điều kiện để giải phóng giai cấp, giải phóng con người và giải phóng giai
cấp, giải phóng con người sẽ đảm bảo cho độc lập dân tộc được vững chắc,  “độc lập
dân tộc phải gắn liền với chủ nghĩa xã hội”.
-Ba là, sáng tạo của Hồ Chí Minh về việc xác định lực lượng tiến hành cách
mạng.
Chủ nghĩa Mác - Lênin chỉ rõ: Liên minh giữa giai cấp công nhân và giai cấp
nông dân là động lực của cách mạng vô sản. Vận dụng sáng tạo quan điểm đó vào
thực tiễn cách mạng Việt Nam, Hồ Chí Minh khẳng định: Công nông là chủ cách
mệnh, bên cạnh đó Người cũng chỉ ra: học trò, nhà buôn, điền chủ nhỏ là bầu bạn
cách mệnh của công nông.//
Đây chính là chủ trương tập hợp tất cả các giai cấp, tầng lớp, lực lượng có tinh
thần yêu nước, tinh thần cách mạng đứng về phe công nông, tạo nên sức mạnh tổng
hợp cho cách mạng, đồng thời phân hóa, cô lập kẻ thù, là sáng tạo độc đáo của Hồ Chí
Minh trong huy động sức mạnh toàn dân làm cách mạng.
Để thực hiện được việc tập hợp lực lượng toàn dân tộc, Hồ Chí Minh nhấn
mạnh đến tính tiên phong và vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản. Tính tiên phong của
Đảng, theo Người là thể hiện ở đường lối chính trị đúng đắn.
Bốn là, sáng tạo của Hồ Chí Minh trong việc đặt tên Đảng và chủ trương
giải  quyết vấn đề dân tộc trong khuôn khổ mỗi nước Đông Dương. 
Trong khi Quốc tế Cộng sản có chỉ thị thành lập một Đảng Cộng sản chung
cho ba dân tộc Đông Dương. Trong thảo luận tại Hội nghị thành lập Đảng, Hồ Chí
Minh  giải thích: “Cái từ Đông Dương rất rộng và theo nguyên lý của chủ nghĩa Mác -
Lênin, vấn đề dân tộc là vấn đề rất nghiêm túc, người ta không thể bắt buộc các  dân
tộc khác gia nhập Đảng, làm như thế là trái với nguyên lý của chủ nghĩa Lênin.  Còn
cái từ An Nam thì hẹp, mà nước ta có ba miền: Bắc Kỳ, Trung Kỳ, Nam Kỳ. 
Do đó, từ Việt Nam hợp với cả ba miền và cũng không trái với nguyên lý của
chủ  nghĩa Lênin về vấn đề dân tộc”, nên Hội nghị nhất trí với cách giải thích của
Người và đặt tên là Đảng Cộng sản Việt Nam. Chủ trương đó của Người tuân thủ
những nguyên lý xây dựng đảng kiểu mới của chủ nghĩa Mác - Lênin, có tính đến  yếu
tố dân tộc, nhằm thức tỉnh ý thức dân tộc, khơi dậy sức mạnh của ba dân tộc  Đông
Dương, đồng thời tạo ra sự tin cậy về chính trị để đoàn kết, giúp đỡ nhau  một cách tự
nguyện, bình đẳng và có hiệu quả. 
Ý nghĩa:
Những sáng tạo của Chủ tịch Hồ Chí Minh trong quá trình chuẩn bị thành lập
Đảng cộng sản ở một nước thuộc địa đã được thực tế cách mạng Việt Nam và cách
mạng thế giới trong thế kỷ XX kiểm chứng là đúng đắn và khoa học. Sự sáng tạo này
của Chủ tịch Hồ Chí Minh không chỉ có giá trị đặc biệt đối với sự nghiệp cách mạng
của Đảng và dân tộc Việt Nam mà còn là sự cống hiến quan trọng của Người vào kho
tàng lý luận Mác-Lênin.
 Thực tiễn hơn 91 năm qua cũng đã cho thấy sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng là
nhân tố hàng đầu quyết định mọi thắng lợi của cách mạng Việt Nam. Đảng Cộng sản
Việt Nam thực sự là đội tiên phong của giai cấp công nhân, đồng thời là đội tiên
phong của nhân dân lao động và toàn dân tộc Việt Nam. Với những thành tựu mà cách
mạng Việt Nam đã đạt được, với truyền thống vẻ vang của Đảng và dân tộc, với sức
mạnh nội lực của đất nước hơn 96 triệu dân, với những kinh nghiệm quý báu đã tích
lũy được chúng ta có đủ cơ sở để tin tưởng rằng, thời gian tới đất nước ta tiếp tục phát
triển nhanh và bền vững, thực hiện thắng lợi mục tiêu: Dân giàu, nước mạnh, dân chủ,
công bằng, văn minh, vững bước đi lên chủ nghĩa xã hội.

Câu 36: Trong các tiền đề hình thành tư tưởng Hồ Chí Minh, yếu tố nào quan
trọng nhất quyết định bản chất, tư tưởng của Người. Giải thích tại sao? Ý nghĩa
của vấn đề này?
Các tiền đề tư tưởng, lý luận hình thành tư tưởng HCM:
- Một là: Giá trị truyền thống tốt đẹp của dân tộc Việt Nam.
- Hai là: Tinh hoa văn hóa nhân loại
- Ba là: Chủ nghĩa Mác – Lênin: cơ sở thế giới quan và phương pháp luận, là
nguồn gốc lý luận quyết định bước phát triển mới về chất lượng tư tưởng Hồ Chí
Minh.
Người khẳng định rằng: Bây giờ học thuyết nhiều, chủ nghĩa nhiều, nhưng chủ
nghĩa chân chính nhất, chắc chắn nhất, cách mạng nhất là chủ nghĩa Mác- Lênin. Hồ
Chí Minh đã vận dụng và phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin, đã giải quyết yêu
cầu về đường lối cứu nước, chỉ ra con đường giải phóng dân tộc và phát triển cho dân
tộc ta. 
Chỉ khi đến với CN Mác – lênin Người mới tìm thấy con đường cứu nước đúng
cho dân tộc - con đường giải phóng dân tộc theo cách mạng vô sản.
Trên cơ sở lý luận và phương pháp luận Mác Lênin, Hồ Chí Minh đã từng bước
xây dựng nên hệ thống quan điểm toàn diện và sâu sắc của mình về những vấn đề cơ
bản của Cách mạng Việt Nam
Thế giới quan và phương pháp luận Mác Lênin đã giúp Hồ Chí Minh hấp thụ và
chuyển hóa được những nhân tố tiến bộ và tích cực của truyền thống văn hóa dân tộc,
tinh hoa văn hóa của nhân loại thành trí tuệ của bản thân; giúp người phân tích và tổng
kết đúng đắn thực tiễn trong nước và thế giới. Đây là những cơ sở quan trọng giúp
Người đề ra những chiến lược và Sách lược đúng đắn cho cách mạng Việt Nam
Ý nghĩa: Chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh trên cơ sở vạch ra được
các quy luật vận động, phát triển của xã hội loài người giúp chúng ta lựa chọn đúng
đắn con đường phát triển của dân tộc - độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã
hội. Lần đầu tiên trong lịch sử nhân loại, chủ nghĩa Mác - Lênin đã giải thích được
quy luật phát triển của xã hội loài người một cách khoa học, khách quan, toàn diện,
lịch sử - cụ thể. Chủ nghĩa Mác - Lênin đã chứng minh một cách khoa học rằng, từ
trong lòng của chủ nghĩa tư bản sẽ ra đời phương thức sản xuất mới, một xã hội mới,
một hình thái kinh tế - xã hội mới là chủ nghĩa xã hội, chủ nghĩa cộng sản. điều này
cho phép chúng ta khẳng định tư tưởng HCM có tính CM, khoa học sâu sắc và triệt để.

Câu 37: Hồ Chí Minh nói “Cách mạng là một bộ phận của cách mạng trên thế giới,
phải tranh thủ sự ủng hộ của cách mạng thế giới, đồng thời chủ động sáng tạo, góp
phần thắng lợi Cách mạng thế giới”. Anh chị hãy phân tích nội dung và ý nghĩa
luận điểm trên?
Sức mạnh dân tộc Việt Nam là sự tổng hợp của các yếu tố vật chất và tinh thần,
truyền thống và hiện đại, là sức mạnh khối đại đoàn kết toàn dân tộc, chính nghĩa dân
tộc, sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng dưới ánh sáng của chủ nghĩa Mác – Lênin, tư
tưởng Hồ Chí Minh. Yếu tố quyết định để phát huy sức mạnh dân tộc là giữ vững tinh
thần độc lập, tự chủ, tự lực, tự cường. Sức mạnh dân tộc Việt Nam được phát huy ở
mức cao trong thời đại Hồ Chí Minh đã đưa đất nước vượt qua những khó khăn, thử
thách hiểm nghèo.
Kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại để phát huy triệt để những thế
mạnh của chính mình, tận dụng mặt tích cực, hạn chế mặt tiêu cực của các quan hệ
quốc tế. Tham gia vào những hình thức tập hợp lực lượng quốc tế có lợi vừa góp phần
bảo đảm an ninh quốc gia, vừa tranh thủ cao độ mọi nguồn lực từ bên ngoài để kết hợp
và bổ sung cho nội lực, phục vụ cho phát triển và bảo vệ đất nước. Trong quá trình ấy,
cần nêu cao chính nghĩa, tính phù hợp với xu thế phát triển của thời đại, gắn kết sự
nghiệp của đất nước với những mục tiêu tiến bộ của nhân loại, chủ nghĩa yêu nước
chân chính với chủ nghĩa quốc tế trong sáng. Để tận dụng được sức mạnh thời đại
nhằm bổ sung, hỗ trợ cho các tiềm năng phát triển ở trong nước, cần tranh thủ mọi
hình thức tập hợp lực lượng và khai thác tính phụ thuộc và sự ràng buộc lẫn nhau về
lợi ích để thêm bạn, bớt thù, hạn chế sự chống phá và làm thất bại mọi âm mưu của
các thế lực bên ngoài gây mất ổn định và làm suy yếu đất nước.
Tăng cường kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại, tranh thủ sự giúp
đỡ của bạn bè quốc tế, cần nhìn nhận biện chứng trong sự đan xen và chuyển hóa lẫn
nhau giữa đối tác và đối tượng. Theo đó, trong mỗi đối tác có thể có những mâu thuẫn
với lợi ích của ta cần phải kiên quyết, kiên trì đấu tranh; trong mỗi đối tượng vẫn có
thể có mặt đồng thuận cần hợp tác; tranh thủ ngày càng tốt hơn sự ủng hộ của cộng
đồng quốc tế đối với công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Cùng với tăng cường
xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân tộc, tiếp tục thực hiện đường lối đối ngoại độc
lập, tự chủ, chủ động, tích cực hội nhập quốc tế; đẩy mạnh hợp tác tạo thế đan xen lợi
ích chiến lược giữa các nước, nhất là các nước lớn, các đối tác chiến lược, các nước
láng giềng và các nước trong khu vực; tránh xung đột, đối đầu, tránh bị cô lập, lệ
thuộc.
- Hồ Chí Minh chỉ ra rằng, chủ nghĩa yêu nước chân chính phải được gắn liền với
chủ nghĩa quốc tế vô sản, đại đoàn kết dân tộc phải gắn liền với đoàn kết quốc tế; thực hiện
đoàn kết quốc tế không những vì thắng lợi của cách mạng mỗi nước mà còn vì sự nghiệp
chung của nhân loại tiến bộ trong cuộc đấu tranh chống chủ nghĩa đế quốc và các thế lực
phản động quốc tế.
- Thời đại mà Hồ Chí Minh sống và hoạt động chính trị là thời đại đã chấm dứt thời
kỳ tồn tại biệt lập giữa các quốc gia, mở ra các quan hệ quốc tế ngày càng sâu rộng cho các
dân tộc, làm cho vận mệnh của mỗi dân tộc không thể tách rời vận mệnh chung của cả loài
người. Ngay sau khi nắm được đặc điểm của thời đại mới, Hồ Chí Minh đã hoạt động
không mệt mỏi để phá thế đơn độc của cách mạng Việt Nam, gắn cách mạng Việt Nam với
cách mạng thế giới.
- Theo Hồ Chí Minh, muốn tăng cường đoàn kết quốc tế trong cuộc đấu tranh vì
mục tiêu chung, các đảng cộng sản trên thế giới phải kiên trì chống lại mọi khuynh hướng
sai lầm của chủ nghĩa cơ hội, chủ nghĩa vị kỷ dân tộc, chủ nghĩa sô vanh..., tiến hành có
hiệu quả việc giáo dục chủ nghĩa yêu nước chân chính kết hợp với chủ nghĩa quốc tế vô
sản cho nhân dân.
Giữ vững độc lập, tự chủ không chỉ bao gồm việc khắc phục sự lệ thuộc, chống
sự áp đặt, lôi kéo, chi phối mà còn là nêu cao và phát huy tính chủ động trong việc
tham gia vào các công việc chung của cộng đồng khu vực và quốc tế. Theo đó, để giữ
được độc lập, tự chủ trong đối ngoại, hội nhập, chúng ta phải có tầm nhìn chiến lược,
khả năng bao quát và dữ liệu cả cơ hội và nguy cơ, đồng thời luôn chủ động, tích cực
tham gia các cơ chế hợp tác quốc tế, đề xuất sáng kiến, đóng góp tích cực vào quá
trình xây dựng thể chế và kiến trúc điều tiết quan hệ quốc tế.
* Ý nghĩa của luận điểm trên:
Với đường lối đúng đắn của Đảng ta về sự kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh
của thời đại, Đảng ta đã chủ trương nêu cao ý chí tự lực, tự cường, tinh thần độc lập tự chủ
dựa vào sức mình là chính, huy động đến mức cao nhất, lực lượng chính trị, quân sự, kinh
tế văn hoá, lực lượng vật chất tinh thần có sẵn trong nước.
Phát huy những tiềm lực của đất nước với truyền thống lịch sử oanh liệt của tổ tiên,
với kinh nghiệm cách mạng quý báu của dân tộc, đã tạo ra một sức mạnh to lớn nhất cho
nhân dân ta làm nên chiến công hiển hách, vĩ đại mang tính thời đại của dân tộc.
Đồng thời với đường lối quốc tế đúng đắn, Đảng ta đã tranh thủ được sự ủng hộ to
lớn và hiệu quả của các nước XHCN mà nòng cốt là Liên Xô và Trung Quốc với anh em
các nước bè bạn năm châu góp phần làm nên thắng lợi cho đất nước và cho cả cuộc cách
mạng thế giới.
Ở thời điểm hiện tại với luận điểm trên nó mang ý nghĩa sâu sắc cho đất nước ta
hướng vào mục tiêu chung là hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ tiến bộ xã hội; 
Hợp tác và phát triển; đa phương hoá, đa dạng hoá quan hệ, chủ động và tích cực
hội nhập quốc tế; nâng cao vị thế của đất nước; vị lợi ích quốc gia, dân tộc, vì một nước
Việt Nam xã hội chủ nghĩa giàu mạnh; là bạn, đối tác tin cậy và thành viên có trách nhiệm
trong cộng đồng quốc tế, góp phần vào sự nghiệp hoà bình, độc lập dân tộc và và tiến bộ
xã hội trên thế giới.
Câu 38: Hồ Chí Minh nói: Trong bầu trời không gì quý bằng nhân dân, trong thế
giới không gì mạnh bằng sức mạnh của nhân dân. Anh chị hãy phân tích nội dung
và ý nghĩa của luận điểm trên?
Hồ Chí Minh đánh giá rất cao vai trò, sức mạnh của Nhân dân trong sự nghiệp
đấu tranh giải phóng dân tộc cũng như trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Nhân dân là lực lượng vô tận của cách mạng và là nhân tố tạo nên thắng lợi của cách
mạng. Với Người, yêu dân, tin dân, dựa vào dân, sống, phấn đấu vì hạnh phúc của
nhân dân là nguyên tắc tối cao trong cuộc sống. Nguyên tắc này vừa là sự tiếp nối
truyền thống dân tộc “Nước lấy dân làm gốc”, “Chở thuyền và lật thuyền cũng là dân”,
đồng thời là sự quán triệt sâu sắc nguyên lý mác xít “Cách mạng là sự nghiệp của quần
chúng". Dân là chỗ dựa vững chắc đồng thời cũng là nguồn sức mạnh vô địch của khối
đại đoàn kết toàn dân tộc, quyết định thắng lợi của cách mạng.
Nhân dân trong tư tưởng, tình cảm của Hồ Chí Minh vừa là một tập hợp đông
đảo quần chúng, vừa là mỗi con người Việt Nam cụ thể, cả hai đều là chủ thể của đại
đoàn kết dân tộc. Chính vì thế, Hồ Chí Minh đã nói: “Lực lượng toàn dân là lực lượng
vĩ đại hơn ai hết, không ai chiến thắng được lực lượng đó”. Do đó, "trong xã hội
không có gì tốt đẹp, vẻ vang bằng phục vụ cho lợi ích của Nhân dân".
(Sinh thời, Người từng nói: "Phải đem hết sức dân, tài dân, của dân để làm lợi
cho dân", "dựa vào lực lượng của dân, tinh thần của dân để gây hạnh phúc cho dân",
"chủ nghĩa xã hội là nhằm nâng cao đời sống vật chất và văn hoá của Nhân dân và do
Nhân dân tự xây dựng lấy" bởi dân là gốc của nước. Dân là người đã không tiếc máu
xương để xây dựng và bảo vệ đất nước. Nước không có dân thì không thành nước.
Nước do dân xây dựng nên, do dân đem xương máu ra bảo vệ, do vậy dân là chủ của
nước. Nhân dân là người giữ vai trò quyết định trên tất cả các lĩnh vực: Từ kinh tế,
chính trị đến văn hóa, xã hội, từ những chuyện nhỏ có liên quan đến lợi ích của mỗi cá
nhân đến những chuyện lớn như lựa chọn thể chế, lựa chọn người đứng đầu Nhà nước.
Người dân có quyền làm chủ bản thân, nghĩa là có quyền được bảo vệ về thân thể,
được tự do đi lại, tự do hành nghề, tự do ngôn luận, tự do học tập… trong khuôn khổ
luật pháp cho phép. Người dân có quyền làm chủ tập thể, làm chủ địa phương, làm chủ
cơ quan nơi mình sống và làm việc. Người dân có quyền làm chủ các đoàn thể, các tổ
chức chính trị xã hội thông qua bầu cử và bãi miễn.)
Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn cho rằng yếu tố con người là quan trọng nhất, là
trung tâm của mọi sự vật hiện tượng, là mục tiêu và động lực của cách mạng. “Mọi
việc đều do người làm ra”. “Trong bầu trời không gì quý bằng nhân dân, trong thế giới
không gì mạnh bằng sức mạnh của nhân dân”. “Ý dân là ý trời”. “Dễ trăm lần không
dân cũng chịu, khó vạn lần dân liệu cũng xong” … Quan điểm lợi ích đều vì dân của
Hồ Chí Minh đã được Đảng và Nhà nước ta phát triển, cụ thể hóa trong Hiến pháp và
các quan điểm “lấy dân làm gốc”, “dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra” hay lấy
“con người là mục tiêu và động lực chính của sự phát triển kinh tế - xã hội”, thực hiện
một “chiến lược vì dân và do dân”.
Người cũng từng căn dặn: Chúng ta có trọng dân, yêu dân, kính dân thì dân mới
yêu ta, kính ta. Tôn trọng và tin tưởng nhân dân là tôn trọng và tin tưởng những người
làm ra lịch sử, những người sáng tạo ra của cải, vật chất, những người được sánh với
Trời, Đất theo triết học phương Đông như Bác Hồ khẳng định: “Trong bầu trời không
có gì quý bằng nhân dân”.
 Ý nghĩa của luận điểm trên
Lời khẳng định của Bác tuy ngắn gọn nhưng vô cùng sâu sắc, mãi là ngọn đuốc
soi đường cho Đảng và Nhà nước ta trong quá trình lãnh đạo nhân dân qua các thời kỳ
cách mạng.
Tư tưởng yêu nước, thương dân, trọng dân, suốt đời vì cách mạng, vì nhân dân
mà hy sinh phấn đấu, không ham danh lợi, với một lối sống chân thực, giản dị, khiêm
nhường của Bác là tấm gương đạo đức vô cùng trong sáng để toàn Đảng, toàn dân,
toàn quân chúng ta học tập và noi theo.
(Trước yêu cầu nhiệm vụ của cách mạng và Quân đội trong tình hình mới, mỗi
cán bộ, chiến sĩ phải luôn nhận thức sâu sắc về vai trò của nhân dân, về sức mạnh của
khối đại đoàn kết toàn dân; không ngừng tu dưỡng, rèn luyện, nâng cao bản lĩnh chính
trị, trình độ sẵn sàng chiến đấu, xây dựng chuẩn mực đạo đức của người quân nhân
cách mạng, tiêu chí phẩm chất “Bộ đội Cụ Hồ”; tăng cường mối quan hệ đoàn kết máu
thịt quân dân, tham gia xây dựng cơ sở địa phương vững mạnh; kiên quyết đấu tranh
chống các quan điểm sai trái nhằm chia rẽ, phá hoại khối đại đoàn kết toàn dân tộc;
bảo vệ Đảng, bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa, bảo vệ nhân dân, thực hiện thắng lợi hai
nhiệm vụ chiến lược xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.)

Câu 39: Hồ Chí Minh nói trong ngoại giao phải giữ vững nguyên tắc, nhưng mềm
dẻo trong sách lược Dĩ bất biến ứng vạn biến. Hãy phân tích nội dung của luận
điểm trên và nêu ý nghĩa trong quan hệ quốc tế hiện nay?
Triết lý ngoại giao Hồ Chí Minh "Dĩ bất biến, ứng vạn biến" là triết lý hành
động, gắn chặt với hoạt động thực tiễn, với cái "bất biến“ là lợi ích của dân tộc, là độc
lập, tự do. Triết lý ngoại giao Hồ Chí Minh "Dĩ bất biến, ứng vạn biến" cũng chỉ ra
rằng, muốn đạt được cái "bất biến", cần hành động một cách hết sức linh hoạt, trên cơ
sở giữ vững nguyên tắc, kết hợp hài hoà giữa mềm dẻo và kiên quyết, giữa chiến lược
và sách lược, giữa cương và nhu, giữa chủ động và sáng tạo. Thực hiện triết lý “Dĩ bất
biến, ứng vạn biến” của Chủ tịch Hồ Chí Minh trong hoạt động đối ngoại là nắm
vững, kiên định mục tiêu, bản lĩnh vững vàng, quyết đoán, khôn khéo, mau lẹ, kịp thời
để ứng phó thích hợp với từng hoàn cảnh, từng tình thế, từng đối tượng trong từng
trường hợp, từng vấn đề cụ thể, nhằm nhận biết, tạo dựng, nắm bắt cơ hội để bảo vệ và
thực hiện tốt nhất lợi ích của quốc gia, dân tộc.
Những thành tựu của công tác đối ngoại, trong giải quyết mối quan hệ với đối
phương, với các nước từng là kẻ thù của ta để được công nhận, giữ vững nền độc lập
nước nhà đã minh chứng điều này. Trong đó, phát huy sức mạnh khối đại đoàn kết
toàn dân tộc, kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại, sự ủng hộ của cộng
đồng quốc tế trong sự nghiệp giải phóng dân tộc, thống nhất đất nước, cũng như trong
công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc khẳng định đường lối, chính sách đối ngoại
đúng đắn của Đảng, Nhà nước ta nói chung, phương pháp ngoại giao «Dĩ bất
biến, ứng vạn biến» nói riêng.
Do đó, việc nghiên cứu, vận dụng phương pháp ngoại giao «Dĩ bất biến, ứng vạn
biến» của Chủ tịch Hồ Chí Minh nhằm nâng cao hiệu quả công tác đối ngoại,  góp
phần giữ vững môi trường hòa bình, ổn định để xây dựng và phát triển đất nước, thực
hiện thắng lợi Nghị quyết Đại hội XII của Đảng có ý nghĩa hết sức quan trọng. Đó là
mục tiêu, con đường mà Chủ tịch Hồ Chí Minh và Đảng ta đã tìm ra và đang dẫn dắt
toàn dân tộc đi những chặng đầu tiên với những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch
sử. Thấu triệt quan điểm này sẽ giúp chúng ta tăng cường, mở rộng, đi sâu vào hội
nhập quốc tế, nhưng không làm phương hại đến lợi ích quốc gia, dân tộc, mất ổn định
chính trị, xã hội, ảnh hưởng đến vai trò lãnh đạo của Đảng, sự tồn vong của chế
độ. Đồng thời, phân tích, làm rõ vấn đề thời đại, tình hình thế giới, khu vực để có
chính sách ngoại giao phù hợp, hiệu quả. Thực hiện chủ trương đó, đến nay, nước ta
đã thiết lập quan hệ ngoại giao với 185/193 quốc gia thành viên Liên hợp quốc. Phát
huy kết quả đó, trong thực hiện đường lối đa dạng hóa, đa phương hóa quan hệ đối
ngoại hiện nay, Đảng, Nhà nước ta, các ngành, các tổ chức, các cấp cần quán
triệt, thực hiện tốt đường lối đối ngoại mà Đại hội XII của Đảng đã xác định.
Có như vậy, hoạt động đối ngoại mới đạt được mục tiêu, yêu cầu đề ra. Đây là
bài học lớn của cách mạng Việt Nam nói chung, cũng như của công tác đối ngoại nói
riêng đã được thực tiễn chứng minh.
* Ý nghĩa trong quan hệ quốc tế hiện nay
Hiện nay, tình hình thế giới diễn biến phức tạp, khó lường; các nước lớn có sự
điều chỉnh chiến lược, vừa hợp tác, thỏa hiệp, vừa cạnh tranh, đấu tranh, kiềm chế lẫn
nhau. Do đó, việc nghiên cứu, vận dụng phương pháp ngoại giao “Dĩ bất biến, ứng
vạn biến” của Chủ tịch Hồ Chí Minh nhằm nâng cao hiệu quả công tác đối ngoại, góp
phần giữ vững môi trường hòa bình, ổn định để xây dựng và phát triển đất nước.
Tiếp tục “Thực hiện nhất quán đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, hòa bình, hợp
tác và phát triển”4 là một nguyên tắc bất biến trong tình hình hiện nay. Đây là “sợi chỉ
đỏ” đã được định hình và xuyên suốt các hoạt động đối ngoại của Đảng, Nhà nước ta
từ khi nước Việt Nam mới ra đời đến nay, cần được phát huy, thực hiện hiệu quả hơn
nữa trong bối cảnh mới
Trên nền tảng tư tưởng ngoại giao Hồ Chí Minh, Đảng ta đã đánh giá tình hình
thế giới một cách khách quan, khoa học, từ đó xây dựng chính sách đối ngoại ngày
càng có hiệu quả. Đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, hòa bình, hợp tác và phát triển;
đa phương hóa, đa dạng hóa quan hệ quốc tế; “chủ động và tích cực hội nhập quốc tế;
là bạn, là đối tác tin cậy và thành viên có trách nhiệm trong cộng đồng quốc tế”
Thể hiện rõ sự vận dụng hiệu quả phương pháp ngoại giao “Dĩ bất biến, ứng vạn
biến” để ứng phó với tình hình phức tạp và đầy biến động trên thế giới của Đảng, Nhà
nước ta là thực hiện đa dạng hóa, đa phương hóa trong quan hệ đối ngoại. cần chú
trọng phát triển quan hệ hợp tác, hữu nghị, truyền thống với các nước láng giềng; đẩy
mạnh và làm sâu sắc hơn quan hệ với các đối tác chiến lược.. Đồng thời, chủ động
tham gia và phát huy vai trò tại các cơ chế đa phương, đặc biệt là ASEAN và Liên hợp
quốc.
Chúng ta cần phát huy sức mạnh tổng hợp, kết hợp chặt chẽ giữa sức mạnh dân
tộc với sức mạnh thời đại. Đây là bài học lớn của cách mạng Việt Nam nói chung,
cũng như của công tác đối ngoại nói riêng đã được thực tiễn chứng minh. Ta đã tranh
thủ được sự giúp đỡ, ủng hộ của bạn bè quốc tế và các lực lượng yêu chuộng hòa bình
trên thế giới nên cách mạng nước ta đã vượt qua vô vàn khó khăn, thách thức và giành
được thắng lợi to lớn

Câu 40: Trong các nguyên tắc xây dựng đạo đức cách mạng thì nguyên tắc nào
thiết thực với sinh viên nhất. Anh chị hãy nêu ý nghĩa của nguyên tắc đó trong quá
trình rèn luyện tu dưỡng đạo đức của sinh viên?
Quan điểm về những nguyên tắc xây dựng đạo đức cách mạng
Một là, nói đi đôi với làm, phải nêu gương về đạo đức.
Hai là, xây đi đôi với chống.
Ba là, phải tu dưỡng đạo đức suốt đời.
:
-> * Nguyên tắc thiết thực nhất đối với sinh viên là nguyên tắc Nói đi đôi
với làm, nêu gương về đạo đức
Hồ Chí Minh là một tấm gương sáng về nói đi đôi với làm. Người quan tâm đặc
biệt, hàng đầu tới vấn đề đạo đức. Người để lại nhiều bài viết, bài nói về đạo đức và
quan trọng hơn là Người thực hiện trước hết, nhiều nhất những tư tưởng ấy. Ngay
trong quá trình chuẩn bị thành lập Đảng Cộng sản, bàn về tư cách một người cách
mệnh, Hồ Chí Minh đã chỉ rõ "nói thì phải làm"; Người còn làm nhiều hơn những điều
Người nói.
Đối với mỗi người, lời nói phải đi đôi với việc làm thì mới đem lại hiệu quả thiết
thực cho chính bản thân mình và có tác dụng đối với người khác. Nếu nói nhiều làm ít,
nói mà không làm, hơn nữa nói một đằng làm một nẻo thì chỉ đem lại những hậu quả
phản tác dụng.
Theo Hồ Chí Minh, trong lĩnh vực đạo đức, đặc biệt phải chú trọng vấn đề nêu
gương. Tùy theo nhiệm vụ và tình hình cụ thể mà tấm gương đó được biểu hiện ở
những mặt nào, trong chiến đấu, lao động, học tập, cuộc sống đời thường, trong gia
đình, ngoài xã hội... Một trăm bài diễn văn hay không bằng một tấm gương sống -
điều mà Hồ Chí Minh nói về Lê-nin, đã đặt ra cho việc xây dựng đạo đức mới một
nguyên tắc rất cơ bản là sự nêu gương về đạo đức. Đó cũng là điều mà chúng ta thấy ở
Hồ Chí Minh - Một tấm gương đạo đức trong sáng tuyệt vời của một cuộc đời trọn
vẹn.
- Nói đi đôi với làm là nét đẹp trong đạo đức truyền thống của dân tộc được Hồ
Chí Minh nâng lên một tầm cao mới. Người coi đây là nguyên tắc quan trọng bậc nhất
trong xây dựng nền đạo đức mới.
- Nói đi đôi với làm thể hiện bản chất và nhân cách của con người. Nói đi đôi
với làm thì mới đem lại hiệu quả thiết thực cho chính bản thân mình và mới có tác
dụng đối với người khác. Nếu nói nhiều làm ít, nói mà không làm, hơn nữa nói một
đằng, làm một nẻo thì chỉ đem lại những hậu quả phản tác dụng.
- Nói đi đôi với làm đối lập hoàn toàn với thói đạo đức giả, nói một đằng làm
một nẻo, nói nhiều làm ít, thậm chí nói mà không làm. Ngay sau thắng lợi Cách mạng
Tháng Tám 1945, Hồ Chí Minh đã chỉ ra những biểu hiện của thói đạo đức giả ở một
số cán bộ “vác mặt làm quan cách mạng”.“Miệng thì nói dân chủ, nhưng làm việc thì
họ theo lối “quan” chủ”.
- Nêu gương về đạo đức là một nét đẹp của truyền thống văn hóa phương Đông.
Để đạo đức cách mạng thấm sâu, bám chắc vào đời sống xã hội và trở thành nền tảng
tinh thần của nhân dân, Hồ Chí Minh yêu cầu cán bộ, đảng viên cần phải: “Trước hết,
mình phải làm gương, gắng làm gương trong anh em, và khi đi công tác, gắng làm
gương cho dân. Làm gương về cả ba mặt: Tinh thần, vật chất và văn hóa”. Hồ Chí
Minh đã viết: “Nói chung thì các dân tộc phương Đông đều giàu tình cảm, và đối với
họ một tấm gương sống còn có giá trị hơn một trăm bài diễn văn tuyên truyền”.
- Hồ Chí Minh cho rằng, hơn bất cứ một lĩnh vực nào mà vấn đề nêu gương lại
được đặt ra và rất có ý nghĩa giáo dục như trong lĩnh vực đạo đức. Sự làm gương của
thế hệ đi trước với thế hệ đi sau; trong gia đình thì cha mẹ làm gương cho con, anh chị
làm gương cho em, ông bà làm gương cho con cháu, trong nhà trường thì thầy, cô làm
gương cho học sinh, trong các tổ chức đoàn thể thì cấp trên làm gương cho cấp dưới...
Từ nguyên tắc trên việc rèn luyện tu dưỡng đạo đức trong sinh viên có ý
nghĩa thiết thực như sau:
Rèn luyện để có lập trường tư tưởng vững vàng, có lòng yêu nước, có niềm tin
vào sự lãnh đạo của Đảng và sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội; đấu tranh chống lại
âm mưu “Diễn biến hòa bình” của các thế lực thù địch và các tiêu cực, tệ nạn xã hội…
Trong giai đoạn hiện nay, nguyên tắc đạo đức “Nói đi đôi với làm” của Hồ Chí
Minh vẫn còn nguyên giá trị lý luận và thực tiễn. Để xây dựng một nước Việt Nam
hòa bình, thống nhất, độc lập, dân chủ và giàu mạnh như điều mà Bác Hồ mong muốn
cuối cùng trong Di chúc thì nguyên tắc “Nói đi đôi với làm” cần phải được thực hiện
một cách nghiêm túc.
Làm cho thế hệ sinh viên cố gắng học tập nâng cao trình độ lý luận chính trị,
bồi đắp lý tưởng cách mạng và thực hành tốt nguyên tắc “nói đi đôi với làm” để làm
nền tảng cho sự thành công trong cuộc sống, và xứng đáng với niềm tin, sự kỳ vọng
của Bác Hồ, Đảng và Nhân với thanh niên: “Thanh niên là rường cột của nước nhà,
chủ nhân tương lai của đất nước, là lực lượng xung kích trong xây dựng, bảo vệ Tổ
quốc, một trong những nhân tố quyết định sự thành bại của sự nghiệp công nghiệp
hóa, hiện đại hóa đất nước, hội nhập quốc tế và xây dựng chủ nghĩa xã hội”
Câu 41: Hồ Chí Minh đã nói: Đảng ta là đảng cầm quyền, mỗi cán bộ đảng viên
phải thật sự thấm nhuần đạo đức cách mạng. Anh chị hãy phân tích nội dung và ý
nghĩa của luận điểm trên?
Quan điểm của Hồ Chí Minh về Đảng Cộng sản Việt Nam cầm quyền
- Đảng cầm quyền là Đảng đã lãnh đạo sự nghiệp cách mạng thành công giành
được chính quyền và trở thành lực lượng lãnh đạo nhà nước và xã hội.
- Đảng cầm quyền nhưng bản chất, mục đích, lý tưởng của Đảng vẫn không
thay đổi.
- Đảng cầm quyền là Đảng trực tiếp lãnh đạo chính quyền cách mạng. Vị trí của
Đảng là đội tiên phong chính trị của giai cấp công nhân, của dân tộc. Đảng phải chịu
trách nhiệm trước lịch sử về vận mệnh dân tộc.
Đảng cầm quyền vừa là người lãnh đạo vừa là người đầy tớ trung thành của
nhân dân. Hồ Chí Minh căn dặn: ‘’Đảng ta là một Đảng cầm quyền. Mỗi đảng viên và
cán bộ phải thực sự thấm nhuần đạo đức cách mạng, phải thật sự cần, kiệm, liêm,
chính, chí công vô tư. Phải giữ gìn đảng ta thật trong sạch, phải xứng đáng là người
lãnh đạo là người đầy tớ thật trung thành của nhân dân’’ 
+ Với tư cách là người lãnh đạo, Đảng phải có trí tuệ, tầm nhìn xa, trông rộng,
có đường lối, chủ trương, chính sách đúng đắn, thể hiện vai trò tiên phong cả về lý
luận và hành động thực tiễn, biết giáo dục, thuyết phục quần chúng nhân dân.
+ Với tư cách là người đầy tớ (người phục vụ), Đảng phải tận tâm, tận lực phục
vụ nhân dân, đem lại quyền và lợi ích cho nhân dân
+ Theo Hồ Chí Minh làm lãnh đạo và làm đầy tớ thống nhất với nhau theo tinh
thần “lãnh đạo tốt là đầy tớ tốt”
- Đảng cầm quyền, nhưng dân là chủ, dân làm chủ, điều đó đòi hỏi Đảng phải
làm tốt những yêu cầu sau:
+ Đảng phải thường xuyên chăm lo củng cố mối liên hệ máu thịt với nhân dân,
lắng nghe ý kiến của nhân dân, chịu sự kiểm soát của nhân dân
+ Đảng lãnh đạo xây dựng nhà nước thật sự là nhà nước của dân, do dân, vì
dân, cán bộ công chức Nhà nước là công bộc của nhân dân
+ Đảng phải tôn trọng và phát huy quyền làm chủ của nhân dân, phải tích cực
nâng cao dân trí vì nó gắn liền với việc thực hành dân chủ và là cơ sở của Đảng trí
+ Đảng phải tôn trọng và lắng nghe ý kiến của nhân dân nhưng không được
theo đuôi quần chúng (quần chúng nhân dân gồm nhiều bộ phận: tích cực, trung gian,
lừng khừng, lạc hậu, chậm tiến và có lúc không được tổ chức, hành động tự phát, bị
kích động, lợi dụng...)
- Phải giữ gìn Đảng ta thật trong sạch, phải xứng đáng là người lãnh đạo, là
người đầy tớ thật trung thành của nhân. Người còn cho rằng, một đảng giấu giếm
khuyết điểm của mình là một đảng hỏng, có gan thừa nhận khuyết điểm, xét rõ nguyên
nhân sinh ra khuyết điểm và tìm mọi cách sửa chữa khuyết điểm đó là đảng mạnh dạn,
tiến bộ, chắc chắn, chân chính. Người nói: “Đảng không che giấu những khuyết điểm
của mình, không sợ phê bình. Đảng phải nhận khuyết điểm của mình mà tự sửa chữa,
để tiến bộ, và để dạy bảo cán bộ và đảng viên”.
Bài viết "Nâng cao đạo đức cách mạng, quét sạch chủ nghĩa cá nhân" (1969),
Hồ Chí Minh ý về vấn đề tư cách, đạo đức, chống sự suy thoái trong cán bộ, đảng
viên. Sau khi nêu lên ưu điểm của đảng viên, Hồ Chí Minh chỉ ra "còn một số ít cán
bộ, đảng viên mà đạo đức, phẩm chất còn thấp kém". Những người này mang nặng
chủ nghĩa cá nhân, việc gì cũng nghĩ đến lợi ích riêng của mình trước hết; ngại gian
khổ, sa vào tham ô, hủ hoá, lãng phí, xa hoa; tham danh, trục lợi, thích địa vị, quyền
hành; coi thường tập thể, xem khinh quần chúng; độc đoán, chuyên quyền; mắc bệnh
quan liêu, mệnh lệnh; không chịu học tập để tiến bộ; mất đoàn kết, thiếu tính tổ chức,
kỷ luật; kém tinh thần trách nhiệm; không chấp hành đúng đường lối, chính sách của
Đảng và Nhà nước.
Trong điều kiện Đảng cầm quyền, Đảng đứng trước nguy cơ của chủ nghĩa
quan liêu xa rời quần chúng vì vậy, việc đổi mới chỉnh đốn Đảng càng có ý nghĩa quan
trọng và càng cần phải tiến hành thường xuyên. Việc đổi mới chỉnh đốn Đảng càng có
ý nghĩa quan trọng và càng cần phải tiến hành thường xuyên bởi quyền lực có tính hai
mặt: quyền lực nếu được sử dụng đúng đắn có sức mạnh to lớn để cải tạo xã hội cũ,
xây dựng xã hội mới; ngược lại nếu bị thoái hóa biến chất thì sẽ có tác hại ghê gớm
thậm chí có thể làm sụp đổ cả chế độ xã hội. Để ngăn chặn và đẩy lùi nguy cơ biến
chất quyền lực thì cần phải thường xuyên Chỉnh đốn, đổi mới Đảng.
 Ý nghĩa của luận điểm trên:
Thấm nhuần tư tưởng và thực hiện Di chúc của Chủ tịch Hồ Chí Minh,
những năm qua, Đảng ta luôn coi trọng, giữ gìn và phát huy đoàn kết thống nhất.
Nhờ đó, Đảng đã quy tụ và phát huy được sức mạnh toàn dân, tạo nên sức mạnh
tổng hợp để hoàn thành nhiệm vụ lãnh đạo đất nước mà nhân dân đã tin tưởng giao
phó.
Bài học về đoàn kết nhất trí vẫn được tiếp tục khẳng định trên con đường
đổi mới, hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng. Nhiều cấp ủy đảng, nhất là các cơ
quan lãnh đạo cấp Trung ương đã luôn xác định đúng đắn tầm quan trọng của đoàn
kết, thống nhất, thường xuyên giữ gìn, vun đắp, phát triển trong điều kiện khó
khăn, trước những tác động của kinh tế thị trường và từ trong Đảng đã lan tỏa đến
toàn xã hội.
Xây dựng sự đoàn kết và thống nhất trong Đảng là bài học sống còn của
một Đảng cầm quyền, là nguồn gốc của sức mạnh, nhân tố quyết định thắng lợi của
cách mạng nước ta.

Câu 42: Hãy làm rõ mối quan hệ giữa Chủ nghĩa Mác-lênin với Tư tưởng Hồ Chí
Minh. Vận dụng chủ nghĩa Mác với tư tưởng Hồ Chí Minh cần chú ý điều gì?

c. Chủ nghĩa Mác-Lênin


Chủ nghĩa Mác - Lênin là cơ sở thế giới quan, phương pháp luận, là nguồn gốc lý luận
quyết định bước phát triển mới về chất trong tư tưởng Hồ Chí Minh. Người khẳng
định rằng: Bây giờ học thuyết nhiều, chủ nghĩa nhiều, nhưng chủ nghĩa chân chính
nhất, chắc chắn nhất, cách mạng
nhất là chủ nghĩa Mác- Lênin. Hồ Chí Minh đã vận dụng và phát triển sáng tạo chủ
nghĩa Mác - Lênin, đã giải quyết yêu cầu về đường lối cứu nước.
Trên cơ sở lập trường, quan điểm và phương pháp của chủ nghĩa Mác - Lênin, Hồ Chí
Minh đã triệt để kế thừa, đổi mới, phát triển những giá trị truyền thống tốt đẹp của dân
tộc Việt Nam, tinh
hoa văn hóa nhân loại kết hợp với thực tiễn cách mạng trong nước và thế giới hình
thành lên một hệ thống các quan điểm cơ bản, toàn diện về cách mạng Việt Nam. Chủ
nghĩa Mác - Lênin tiền đề lý luận quan trọng nhất, có vai trò quyết định trong việc
hình thành tư tưởng Hồ Chí Minh
Tinh hoa văn hoá nhân loại
- Văn hóa phương Đông
Tinh hoa văn hoá, tư tưởng phương Đông kết tinh trong ba học thuyết lớn Nho giáo,
Phật giáo, Lão giáo. Đó là những học thuyết có ảnh hưởng sâu rộng ở phương Đông,
và ở Việt Nam trước đây.
Về Nho giáo, Hồ Chí Minh chú ý kế thừa và đổi mới tư tưởng dùng nhân trị, đức trị để
quản lý xã hội. Kế thừa và phát triển quan niệm của Nho giáo về việc xây dựng một xã
hội lý tưởng trong đó
công bằng, bác ái, nhân, nghĩa, trí, dũng, tín, liêm được coi trọng để có 14 thể đi đến
một thế giới đại đồng với hòa bình, không có chiến tranh, các dân tộc có quan hệ hữu
nghị và hợp tác. Đặc biệt, Hồ Chí Minh chú ý kế thừa, đổi mới, phát triển tinh thần
trọng đạo đức của Nho giáo trong việc tu dưỡng, rèn luyện đạo đức của con người;
trong công tác xây dựng Đảng về đạo đức.
Về Phật giáo, Hồ Chí Minh chú ý kế thừa, phát triển tư tưởng từ bi, vị tha, yêu thương
con người, khuyến khích làm việc thiện, chống lại điều ác; đề cao quyền bình đẳng
của con người và chân lý; khuyên con người sống hòa đồng, gắn bó với đất nước của
Đạo Phật.
Về Lão giáo, Hồ Chí Minh chú ý kế thừa, phát triển tư tưởng của Lão Tử, khuyên con
người nên sống gắn bó với thiên nhiên, hòa đồng với thiên nhiên, hơn nữa phải biết
bảo vệ môi trường sống; tư tưởng thoát mọi ràng buộc của vòng danh lợi trong Lão
giáo.
Các học thuyết phương Đông khác, Hồ Chí Minh còn chú ý kế thừa, phát triển nhiều ý
tưởng của các trường phái khác nhau trong các nhà tư tưởng phương Đông cổ đại khác
như Mặc Tử, Hàn Phi Tử, Quản Tử, v,v... Người cũng chú ý tìm hiểu những trào lưu
tư tưởng
tiến bộ thời cận hiện đại ở Ấn Độ, Trung Quốc như chủ nghĩa Găngđi, chủ nghĩa Tam
dân của Tôn Trung Sơn. Người đã phát triển sáng tạo các quan điểm về dân tộc, dân
quyền, dân sinh của Tôn Trung Sơn trong cách mạng dân chủ tư sản thành tư tưởng
đấu tranh cho Độc lập Tự do - Hạnh phúc của con người và dân tộc Việt Nam theo con
đường cách mạng vô sản.
Như vậy, là nhà mácxít sáng tạo, Hồ Chí Minh đã kế thừa và phát triển những tinh hoa
trong tư tưởng, văn hóa phương Đông để giải quyết những vấn đề thực tiễn của cách
mạng Việt Nam thời hiện đại.
- Văn hoá phương Tây
Ngay từ khi còn học ở Trường tiểu học Pháp-bản xứ ở thành phố Vinh (1905), Hồ Chí
Minh đã quan tâm tới khẩu hiệu nổi tiếng của Đại Cách mạng Pháp năm 1789: Tự do -
Bình đẳng - Bác ái.
Đi sang phương Tây, Người tiếp cận những tác phẩm của các nhà tư tưởng thế kỷ ánh
sáng; quan tâm tìm hiểu những khẩu hiệu nổi tiếng 15 đó trong các cuộc cách mạng tư
sản ở Anh, Pháp, Mỹ. Người đã kế thừa, phát triển những quan điểm nhân quyền, dân
quyền trong Bản Tuyên ngôn Độc lập năm 1776 của nước Mỹ, Bản Tuyên ngôn Nhân
quyền và Dân quyền năm 1791 của nước Pháp và đề xuất quan điểm về quyền mưu
cầu độc lập, tự do, hạnh phúc của các dân tộc trong thời
đại ngày nay.
Như vậy, Hồ Chí Minh đã tiếp thu chọn lọc các tư tưởng, văn hóa tiến bộ của phương
Đông và phương Tây, dân tộc và thời đại; truyền thống và hiện đại, không ngừng làm
giàu trí tuệ của mình bằng tri thức, văn hóa phong phú của nhân loại.
c. Chủ nghĩa Mác-Lênin
Chủ nghĩa Mác - Lênin là cơ sở thế giới quan, phương pháp luận, là nguồn gốc lý luận
quyết định bước phát triển mới về chất trong tư tưởng Hồ Chí Minh. Người khẳng
định rằng: Bây giờ học thuyết nhiều, chủ nghĩa nhiều, nhưng chủ nghĩa chân chính
nhất, chắc chắn nhất, cách mạng
nhất là chủ nghĩa Mác- Lênin. Hồ Chí Minh đã vận dụng và phát triển sáng tạo chủ
nghĩa Mác - Lênin, đã giải quyết yêu cầu về đường lối cứu nước.
Trên cơ sở lập trường, quan điểm và phương pháp của chủ nghĩa Mác - Lênin, Hồ Chí
Minh đã triệt để kế thừa, đổi mới, phát triển những giá trị truyền thống tốt đẹp của dân
tộc Việt Nam, tinh
hoa văn hóa nhân loại kết hợp với thực tiễn cách mạng trong nước và thế giới hình
thành lên một hệ thống các quan điểm cơ bản, toàn diện về cách mạng Việt Nam. Chủ
nghĩa Mác - Lênin tiền đề lý luận quan trọng nhất, có vai trò quyết định trong việc
hình thành tư tưởng Hồ Chí Minh

Vận dụng chủ nghĩa MÁC với tư tưởng HCM cần chú ý
Chủ nghĩa Mác - Lênin là một hệ thống hoàn chỉnh những quan điểm triết học, kinh tế
chính trị, xã hội, là học thuyết khoa học về sự phát triển lịch sử tự nhiên của nhân loại.
Sự ra đời của chủ nghĩa Mác - Lênin là một chuyển biến cách mạng vĩ đại trong đời
sống chính trị của nhân loại. Mặt khác, chủ nghĩa Mác - Lênin là một hệ thống mở, có
khả năng hấp thu tinh hoa trí tuệ của nhân loại, gắn bó và phát triển cùng với thực tiễn
phong trào cách mạng đã, đang và tiếp tục phát triển trong thời đại cách mạng khoa
học, công nghệ và toàn cầu hóa.
- Đặc biệt đề cao, coi trọng vai trò của lý luận đối với cách mạng, với Đảng, với mỗi
con người, nhất là cán bộ, đảng viên;
- Quan tâm, thường xuyên đề ra nội dung, phương pháp nghiên cứu lý luận và yêu cầu
phải không ngừng kiên định và phát triển sáng tạo lý luận để đáp ứng thực tiễn cách
mạng;
- Vận dụng lý luận chủ nghĩa Mác - Lênin một cách triệt để, sáng tạo, phù hợp với
thực tiễn nước ta.

Câu 43: Hồ Chí Minh nói thực lực có mạnh thì ngoại giao mới thắng lợi, thực lực
là cái chiêng, ngoại giao như tiếng chiêng, chiêng có to tiếng mới lớn. Phân tích
nội dung và nêu ý nghĩa?

Câu 44: Hồ Chí Minh viết: Mỗi đảng viên phải giữ gìn sự đoàn kết trong Đảng như
giữ gìn con ngươi của mắt mình và phải có kỷ luật nghiêm minh, tự giác. Anh chị
hãy phân tích nội dung và nêu ý nghĩa của luận điểm trên?
Đảng có đoàn kết, thống nhất thì mới đủ sức mạnh để lãnh đạo và tập hợp
quần chúng nhân dân hoàn thành mục tiêu cách mạng giữ vững độc lập, thống
nhất Tổ quốc, phát triển đất nước. 
- Đoàn kết, thống nhất trong Đảng. Đoàn kết trong Đảng là điều kiện để xây
dựng khối đại đoàn kết toàn dân tộc; đoàn kết, thống nhất trong Đảng trước hết là
trong cấp uỷ, trong những cán bộ lãnh đạo chủ chốt; đoàn kết trên cơ sở chủ nghĩa
Mác - Lênin, trên cơ sở cương lĩnh, đường lối, quan điểm, nghị quyết của Đảng. Trong
Di chúc, Hồ Chí Minh nhấn mạnh: “Nhờ đoàn kết chặt chẽ, một lòng một dạ phục vụ
giai cấp, phục vụ nhân dân, phục vụ Tổ quốc, cho nên từ ngày thành lập đến nay,
Đảng ta đã đoàn kết, tổ chức lãnh đạo nhân dân ta hăng hái đấu tranh tiến từ thắng lợi
này đến thắng lợi khác. Đoàn kết là một truyền thống cực kỳ quý báu của Đảng và của
dân tộc ta. Các đồng chí từ Trung ương đến các chi bộ cần phải giữ gìn sự đoàn kết
nhất trí của Đảng như giữ gìn con ngươi của mắt mình”. Đảng phải thực hành dân chủ
rộng rãi trong nội bộ Đảng thường xuyên tự phê bình và tu dưỡng đạo đức cách mạng
là cách tốt nhất để tăng cường sự đoàn kết thống nhất trong Đảng 
.- Kỷ luật nghiêm minh, tự giác. Hồ Chí Minh cho rằng Đảng phải có kỷ luật
nghiêm minh, sức mạnh của đảng bắt nguồn từ kỷ luật, muôn người như một, cùng
một ý chí và hành động :“Đảng phải giữ kỷ luật rất nghiêm từ trên xuống dưới. Kỷ
luật này là tư tưởng phải nhất trí, hành động phải nhất trí”.
Kỷ luật của Đảng là kỷ luật tự giác, mỗi đảng viên tự giác thực hiện điều lệ
đảng, cương lĩnh đường lối của đảng, nhiệm vụ mà đảng phân công. Người nói: đo
lòng tự giác của đảng viên về nhiệm vụ của họ đối với Đảng; khi đã tự giác thì kỷ luật
của Đảng mới nghiêm và mới bền lâu, thực sự tạo sức mạnh cho Đảng. Đảng viên
không chỉ chấp hành nghiêm minh và tự giác kỷ luật của Đảng mà còn phải gương
mẫu chấp hành kỷ luật của nhà nước và kỷ luật của các đoàn thể nhân dân.

Để tiếp tục phát huy vai trò lãnh đạo của Đảng trong sự nghiệp cách
mạng, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã vạch ra các yêu cầu và giải pháp nhằm củng cố
khối đoàn kết trong Đảng sau khi chiến tranh kết thúc. Trong điều kiện cả nước
quá độ đi lên CNXH từ muôn vàn khó khăn do hậu quả của chiến tranh đòi hỏi
«Đảng phải mạnh hơn bao giờ hết». Vì vậy, để Đảng tiếp tục làm tròn sứ mệnh
tiền phong của mình, nhất định mỗi cán bộ, đảng viên phải thực hiện tốt nguyên
tắc tự phê bình và phê bình. Phải giữ gìn Đảng ta thật trong sạch, phải xứng
đáng là người lãnh đạo, là người đầy tớ thật trung thành của nhân dân, phải làm
hết sức mình để phục vụ nhân dân, chăm lo tới cuộc sống của người dân, củng
cố bền chặt mối quan hệ máu thịt giữa Đảng với nhân dân
 Ý nghĩa của luận điểm trên:
Lời căn dặn sâu sắc, đầy tính nhân văn của Người đã trở thành lẽ sống, phương
châm hành động, nền tảng tư tưởng và là cơ sở để Đảng tiến hành công cuộc đổi mới,
xây dựng và chỉnh đốn, làm trong sạch nội bộ, giữ vững niềm tin và lòng kính trọng
đối với nhân dân. Đồng thời, đề ra chủ trương, đường lối đúng đắn, nâng cao năng lực
lãnh đạo, vị thế cầm quyền của Đảng để thực hiện khát vọng phát triển, đổi mới, sáng
tạo, sớm đưa nước ta trở thành nước phát triển, có thu nhập cao, theo định hướng xã
hội chủ nghĩa.
Thực tiễn chỉ ra rằng, bản lĩnh, trí tuệ, niềm tin, đạo đức và năng lực cầm quyền
của Đảng là nhân tố hàng đầu quyết định mọi thắng lợi của cách mạng Việt Nam, đặc
biệt là trước những khó khăn, thử thách, bước ngoặt của cách mạng, giải quyết kịp
thời, hiệu quả nhiều vấn đề mới, phức tạp nảy sinh, những lĩnh vực quan trọng, then
chốt liên quan trực tiếp đến sinh mệnh của Đảng, sự tồn vong của chế độ, lợi ích quốc
gia - dân tộc, hạnh phúc của nhân dân. Điều đó đã khẳng định “cái tâm, cái tầm, cái
tuệ”, danh dự, uy tín và vị thế của Đảng trước toàn thể nhân dân và dân tộc, không có
đảng phái, lực lượng nào có thể thay thế.

Câu 45: Tại sao Hồ Chí Minh cho rằng: Muốn cứu nước giải phóng dân tộc không
có con đường nào khác con đường cách mạng vô sản. Ý nghĩa của con đường đó
với nước ta?
- Rút ra bài học kinh nghiệm từ sự thất bại của những phong trào yêu nước theo
con đường phong kiến, tư sản ở Việt Nam cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX: Chứng
kiến sự thất bại, bế tắc của các phong trào yêu nước, mặc dù rất khâm phục tinh thần
yêu nước, tinh thần kiên cường bất khuất chống ngoại xâm của thế hệ cha anh nhưng
Hồ Chí Minh đã không tán thành con đường, phương pháp đấu tranh đó. Người đã phê
phán con đường của Phan Bội Châu, Phan Châu Trinh, Hoàng Hoa Thám...từ đó nuôi
dưỡng lòng yêu nước và ý chí, quyết tâm tìm kiếm con đường cứu nước, giải phóng
dân tộc. Hồ Chí Minh lựa chọn đi sang phương Tây để tìm con đường mới, như Người
đã nói: “Tôi muốn đi ra nước ngoài, xem nước Pháp và các nước khác. Sau khi xem
xét họ làm như thế nào, tôi sẽ trở về giúp đồng bào chúng ta”.
- Đánh giá các cuộc cách mạng trên thế giới: Nhưng qua tìm hiểu thực tế thế
giới, Người cho rằng: “Cách mệnh Pháp cũng như cách mệnh Mỹ, nghĩa là cách mệnh
tư bản, cách mệnh không đến nơi, tiếng là cộng hòa và dân chủ, kỳ thực trong thì nó
tước lục công nông, ngoài thì nó áp bức thuộc địa.” Năm 1917, Cách mạng Tháng
Mười Nga thắng lợi đã ảnh hưởng sâu sắc tới Hồ Chí Minh trong việc lựa chọn con
đường cứu nước, giải phóng dân tộc. Người cho rằng: “Trong thế giới bây giờ chỉ có
cách mệnh Nga là đã thành công và thành công đến nơi, nghĩa là dân chúng được
hưởng cái hạnh phúc tự do, bình đẳng thật”.
- Năm 1920, sau khi đọc bản Sơ thảo lần thứ nhất những luận cương về vấn đề
dân tộc và vấn đề thuộc địa của Lênin, Hồ Chí Minh tìm thấy ở đó con đường cứu
nước, giải phóng dân tộc: Người khẳng định: “Muốn cứu nước và giải phóng dân tộc
không có con đường nào khác con đường cách mạng vô sản”. Đây là con đường cách
mạng triệt để nhất phù hợp với yêu cầu của cách mạng Việt Nam và xu thế phát triển
của thời đại. Học thuyết cách mạng vô sản của chủ nghĩa Mác- Lênin được Người vận
dụng một cách sáng tạo trong điều kiện cách mạng Việt Nam.
- Xác định cách mạng giải phóng dân tộc ở Việt Nam đi theo con đường cách
mạng vô sản, thực hiện mục tiêu độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội: Trong
Chánh cương vắn tắt của Đảng năm 1930, Hồ Chí Minh đã khẳng định phương hướng
chiến lược cách mạng Việt Nam: làm tư sản dân quyền cách mạng và thổ địa cách
mạng để đi tới xã hội cộng sản. Phương hướng này vừa phù hợp với xu thế phát triển
của thời đại vừa hướng tới giải quyết một cách triệt để những yêu cầu khách quan, cụ
thể mà cách mạng Việt Nam đặt ra vào cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX.
- Nội dung của con đường cách mạng vô sản: Cách mạng vô sản là một quá
trình vận động liên tục; Lực lượng lãnh đạo cách mạng là giai cấp công nhân mà đội
tiên phong là Đảng Cộng sản; Lực lượng cách mạng là khối đoàn kết toàn dân, nòng
cốt là liên minh công nông và lao động trí óc; Cách mạng Việt Nam là một bộ phận
của cách mạng thế giới.
* Ý nghĩa của con đường đó đối với nước ta:
Đó là bước ngoặt lớn, giải thoát cho sự khủng hoảng về đường lối; là cơ sở, nền
tảng đúng đắn cho chủ trương đường lối của Đảng. Đồng thời nó cũng góp phần định
hướng cho phong trào giải phóng dân tộc ở các nước khác trên thế giới trong thời kì
bấy giờ.
Bằng việc nêu lên luận điểm mang tầm chân lý thời đại, Chủ tịch Hồ Chí Minh
đã làm phong phú lý luận Mác - Lênin về cách mạng vô sản ở các nước thuộc địa, làm
cho chủ nghĩa Mác - Lênin trở nên phổ biến đối với mọi dân tộc trên thế giới trong
cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp, giải phóng con người
Bài học lịch sử trong thế kỷ XX và thập kỷ đầu của thế kỷ XXI cảnh tỉnh chúng ta
rằng, còn chủ nghĩa tư bản là còn nguy cơ bị xâm lược; độc lập dân tộc, chủ quyền quốc
gia, sự thống nhất đất nước còn bị đe dọa. Do đó, chủ nghĩa tư bản quyết không phải là
sự lựa chọn của nhân loại trong thời đại ngày nay. Chỉ có đi theo con đường cách mạng
vô sản, gắn độc lập dân tộc với chủ nghĩa xã hội thì độc lập dân tộc mới được giữ vững,
nhân dân lao động mới được giải phóng thực sự.

Việc vận dụng sáng tạo đường lối của Lênin vào cuộc cách mạng giải phóng
dân tộc ở Việt Nam là một quyết định đúng đắn đưa Việt Nam từ thân phận nô lệ lên
làm chủ đất nước, khẳng định được vai trò và tầm quan trọng của giai cấp công
nhân.

Câu 46: HCM nói: Nước độc lập mà dân không hưởng tự do hạnh phúc, thì độc
lập cũng chẳng có ý nghĩa gì. Anh chị hiểu thế nào về nội dung và ý nghĩa của
quan điểm trên?
Độc lập, tự do là quyền thiêng liêng, bất khả xâm phạm của tất cả các dân tộc
- Lịch sử dựng nước và giữ nước của dân tộc Việt Nam từ ngàn xưa đến nay
gắn liền với truyền thống yêu nước, đấu tranh chống giặc ngoại xâm. Điều đó nói lên
một khát khao to lớn của dân tộc ta là, luôn mong muốn có được một nền độc lập cho
dân tộc, tự do cho nhân dân và đó cũng là một giá trị tinh thần thiêng liêng, bất hủ của
dân tộc mà Hồ Chí Minh là hiện thân cho tinh thần ấy.
- Căn cứ vào những quyền tự do, bình đẳng và quyền con người được ghi trong
bản Tuyên ngôn Độc lập của cách mạng Mỹ năm 1776, Tuyên ngôn Nhân quyền và
Dân quyền của Cách mạng Pháp năm 1791.
- Hồ Chí Minh khẳng định về quyền dân tộc: “Tất cả các dân tộc trên thế giới
đều sinh ra bình đẳng, dân tộc nào cũng có quyền sống, quyền sung sướng và quyền tự
do”.
- Tư tưởng đó được thể hiện trong thực tiễn cách mạng Việt Nam: Trong Chánh
cương vắn tắt của Đảng năm 1930, Hồ Chí Minh cũng đã xác định mục tiêu chính trị
của Đảng là: Đánh đổ đế quốc chủ nghĩa Pháp và bọn phong kiến. Làm cho nước Nam
được hoàn toàn độc lập. Cách mạng Tháng Tám năm 1945 thành công, trong Tuyên
ngôn Độc lập, Hồ Chí Minh khẳng định: “Nước Việt Nam có quyền hưởng tự do và
độc lập, và sự thực đã thành một nước tự do và độc lập. Toàn thể dân Việt Nam quyết
đem tất cả tinh thần và lực lượng, tính mạng và của cải để giữ vững quyền tự do và
độc lập ấy”.
 Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến chống Pháp 1946: “Chúng ta thà hy sinh tất
cả, chứ nhất định không chịu mất nước, nhất định không chịu làm nô lệ”.
Trong kháng chiến chống đế quốc Mỹ, Người nêu cao chân lý: “Không có gì
quý hơn độc lập, tự do”. Với tư tưởng đó, nhân dân Việt Nam đã anh dũng chiến đấu,
đánh thắng đế quốc Mỹ xâm lược, giành hòa bình, độc lập, thống nhất Tổ quốc.
Theo Hồ Chí Minh, độc lập dân tộc phải là độc lập thật sự, hoàn toàn và triệt để
trên tất cả các lĩnh vực. Người nhấn mạnh: độc lập mà người dân không có quyền tự
quyết về ngoại giao, không có quân đội riêng, không có nền tài chính riêng.... , thì độc
lập đó chẳng có ý nghĩa gì.
Độc lập dân tộc gắn liền với hòa bình, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ. Tư
tưởng độc lập dân tộc gắn liền với thống nhất Tổ quốc, toàn vẹn lãnh thổ là tư tưởng
xuyên suốt, Hồ Chí Minh khẳng định: “Đồng bào Nam Bộ là dân nước Việt Nam.
Sông có thể cạn, núi có thể mòn, song chân lý đó không bao giờ thay đổi”; “Nước Việt
Nam là một, dân tộc Việt Nam là một”; “Dù khó khăn gian khổ đến mấy, nhân dân ta
nhất định sẽ hoàn toàn thắng lợi. Tổ quốc ta nhất định sẽ thống nhất. Đồng bào Nam
Bắc nhất định sẽ sum họp một nhà”.
- Độc lập dân tộc phải gắn liền tự do và hạnh phúc của nhân dân. Theo Hồ Chí
Minh: “Nước độc lập mà dân không hưởng hạnh phúc tự do, thì độc lập cũng chẳng có
nghĩa lý gì”. Ngay sau thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám năm 1945, Hồ Chí Minh
yêu cầu: Chúng ta phải thực hiện ngay làm cho dân có ăn, làm cho dân có mặc, làm
cho dân có chỗ ở, làm cho dân có học hành.
YN:
Luận điểm “Nước được độc lập mà dân không được hưởng hạnh phúc, tự do thì
độc lập cũng không có nghĩa lý gì” của Chủ tịch Hồ Chí Minh là một luận điểm vô
cùng chính xác và nó có giá trị tới tận bây giờ và mãi về sau.
Quán triệt tư tưởng của Người, những năm qua, Đảng, Nhà nước và nhân dân ta
đẩy mạnh toàn diện, đồng bộ công cuộc đổi mới vì mục tiêu “dân giàu, nước mạnh,
dân chủ, công bằng, văn minh”, quan tâm chăm lo nâng cao đời sống mọi mặt của
nhân dân; chú trọng phát huy nhân tố con người trong mọi lĩnh vực của đời sống xã
hội. Những nhiệm vụ trọng tâm đó là sự thống nhất giữa quyền và lợi ích dân tộc với
quyền, lợi ích và nghĩa vụ của con người, của công dân, như tâm nguyện của Bác.

Câu 47: HCM nói Chính vì Đảng Lao động VN là Đảng của giai cấp công nhân
và nhân dân lao động, cho nên nó phải là Đảng của dân tộc Việt Nam. Ac hãy
phân tích nội dung luận điểm trên và nêu ý nghĩa với nước ta hiện nay?
* Đảng Cộng sản Việt Nam mang bản chất giai cấp công nhân
Bản chất giai cấp công nhân của Đảng được thể hiện ở những đặc điểm
sau:
- Đảng lấy chủ nghĩa Mác - Lênin – vũ khí lý luận của giai cấp công nhân
làm nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho hành động. Hồ Chí Minh cho rằng: chủ
nghĩa Mác-Lênin là học thuyết chân chính nhất, cách mạng nhất, khoa học nhất,
Đảng phải biết vận dụng sáng tạo và phát triển lý luận đó phù hợp với hoàn cảnh
đất nước.
- Mục tiêu cách mạng của Đảng là độc lập dân tộc gắn liền với CNXH, đây
cũng là sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân.Mục đích hoạt động của Đảng là
lãnh đạo đấu tranh giải phóng dân tộc, giải phóng xã hội, giải phóng giai cấp,
giải phóng con người; làm cho dân tộc được độc lập, nhân dân có cuộc sống ấm
no, tự do, hạnh phúc thực sự.
- Đảng được tổ chức và hoạt động theo những nguyên tắc Đảng kiểu mới
của giai cấp công nhân. Các nguyên tắc cơ bản là: tập trung, dân chủ; tập thể
lãnh đạo, cá nhân phụ trách; tự phê bình và phê bình; đoàn kết, thống nhất; kỷ
luật nghiêm minh, tự giác; gắn bó mật thiết với nhân dân.
* Đảng Cộng sản Việt Nam cũng là đảng của nhân dân lao động, của
dân tộc Việt Nam:
Hồ Chí Minh khẳng định chính vì Đảng Cộng sản Việt Nam là đảng của
giai cấp công nhân nên đồng thời cũng là đảng của nhân dân lao động, của dân
tộc Việt Nam, điều đó thể hiện như sau:
- Đảng đại biểu cho lợi ích của giai cấp công nhân, nhân dân lao động và
cả dân tộc. Đảng luôn trung thành với lợi ích toàn dân tộc; sự ra đời và phát
triển của Đảng đều vì mục đích làm cho đất nước hùng cường đi lên chủ nghĩa
xã hội, đưa lại quyền lợi cho dân.
- Đảng có cơ sở xã hội rộng rãi, vững chắc, đó là sự ủng hộ, thừa nhận vai
trò lãnh đạo của toàn xã hội. Ngay từ khi Đảng ra đời và trong suốt tiến trình
cách mạng Đảng luôn được nhân dân ủng hộ, tin tưởng, theo Đảng.
- Đứng trong hàng ngũ của Đảng là những người ưu tú nhất của giai cấp
công nhân, của các tầng lớp nhân dân lao động, được giác ngộ chủ nghĩa Mác –
Lênin, hăng hái đấu tranh leo lý tưởng của Đảng, được rèn luyện phấn đấu trong
tổ chức Đảng. Theo Hồ Chí Minh: Đảng của giai cấp công nhân và nhân dân lao
động, nghĩa là những người thợ thuyền, dân cày và lao động trí óc kiên quyết
nhất, hăng hái nhất, trong sạch nhất, tận tâm tận lực phụng sự Tổ quốc và nhân
dân.
*Ý nghĩa:
Trong giai đoạn hiện nay, Đảng ta xác định xây dựng kinh tế là nhiệm vụ trọng
tâm, xây dựng Đảng là nhiệm vụ then chốt. Đảng đồng hành cùng dân tộc. Đảng
lãnh đạo nhưng dân làm chủ. Đảng ta trong công cuộc đổi mới đã rút ra bài học
quan trọng: “ Từ trước đến nay, bất cứ việc gì đáp ứng được nguyện vọng của
nhân dân, của toàn Đảng, được nhân dân và toàn Đảng đồng lòng góp sức thì
nhất định thắng lợi .”
Từ quan điểm trên đã giúp Đảng nâng cao năng lực lãnh đạo trong sự nghiệp cách
mạng; đồng thời, làm cho mỗi tổ chức đảng và cá nhân người đảng viên trở thành một
tấm gương đạo đức có sức cổ vũ toàn xã hội.  

Đảng có trách nhiệm to lớn không chỉ đối với giai cấp công nhân, mà còn đối
với nhân dân lao động và cả dân tộc. Trách nhiệm này vừa có tính chiến lược
lâu dài, là xây dựng một nước Việt Nam hoà bình, thống nhất, độc lập, dân chủ,
giàu mạnh, công bằng, văn minh, góp phần xứng đáng vào sự nghiệp cách mạng
thế giới, vừa mang tính lợi ích cụ thể.
Đảng ta không thiên tư thiên vị, lo việc cho cả nước. Ngoài lợi ích của giai cấp,
của nhân dân, của dân tộc, Đảng ta không có lợi ích gì khác. Đó là một trong
những lý do làm cho Đảng ta vĩ đại.
Câu 48: Hồ Chí Minh nói: Hiền dữ đâu phải là tính sẵn phần nhiều do giáo dục
mà nên. anh chị hãy phân tích nội dung và ý nghĩa của luận điểm trên?

Theo quan niệm của Hồ Chí Minh con người ta khi mới sinh ra vốn bản chất là tốt,
nhưng chỉ sau do ảnh hưởng của giáo dục và môi trường sống cùng sự phấn đấu, rèn
luyện của mỗi cá nhân mà hình thành những con người thiện, ác khác nhau. Câu nói
của người xưa trong Tam Tự Kinh: “Nhân chi sơ, tính bản thiện” đã từng được Người
nhắc lại nhiều lần trong các bài viết, bài nói chuyện. Theo Người con người sinh ra
bản chất là tốt, sống trong xã hội luôn có thiện và có ác nên trong bản thân mỗi con
người cũng có thiện và ác. 
Cái ác có là do ảnh hưởng của xã hội và sự biến đổi của mỗi người. Đối với mỗi chúng
ta, sống trong xã hội mới nhưng cái ác vẫn còn là do ảnh hưởng của những tàn dư của
xã hội cũ. Người viết: “Bản thân chúng ta đều chịu ảnh hưởng của xã hội cũ hoặc
nhiều hoặc ít. Cho nên trong người chúng ta hoặc nhiều hoặc ít không tránh khỏi có
cái ác, như tự đại, tự kiêu, tự tư, tự lợi”. Nhưng cũng do sự tác động của xã hội, của
chế độ mới cùng sự cố gắng vươn lên của mỗi người thì cái ác sẽ mất dần. “Với sự
giúp đỡ của Đảng và Chính phủ, sự cố gắng học tập và cải tạo của mọi người, thì cái
ác trong con người chúng ta càng ngày càng biến đi, cái thiện càng ngày càng tăng. 
Theo Hồ Chí Minh chính sự tác động, sự giáo dục của xã hội cùng với khả năng và sự
tiếp nhận của mỗi cá nhân, sự tác động đó đã làm nên bản chất thiện hay ác của mỗi
con người trong xã hội. Có thể nói đây cũng chính là quan điểm cơ bản của Người về
bản chất quá trình xã hội hoá cá nhân. Đó là quá trình tương tác qua lại liên tục giữa
một bên là xã hội và một bên là cá nhân. Người không hoàn toàn tuyệt đối hoá vai trò
tác động của xã hội hay vai trò tiếp nhận của cá nhân trong quá trình này. 
Điều quan trọng tuỳ từng điều kiện cụ thể với từng cá nhân cụ thể mà vai trò đó được
thể hiện ở các mức độ khác nhau, thậm chí mâu thuẫn nhau. Khi nói về sự tác động
của xã hội, Người đặc biệt nhấn mạnh đến vai trò giáo dục của xã hội, nhất là với lớp
người trẻ. Người cho rằng để mỗi con người trở thành một người thiện, một công dân
tốt, có ích cho xã hội thì sự tác động của xã hội, đặc biệt là quá trình giáo dục có một ý
nghĩa thật to lớn. 
Quan điểm này cũng hướng đến mục tiêu: nếu xã hội chúng ta muốn có nhiều người
hiền tài, hạn chế những điều ác, thì xã hội cần quan tâm đến việc giáo dục, đến việc
đào tạo thế hệ mai sau. Hồ Chí Minh đã sử dụng thuật ngữ “trồng người”: “Vì lợi ích
mười năm thì phải trồng cây, vì lợi ích trăm năm thì phải trồng người”. Chúng ta phải
đào tạo ra những công dân tốt và cán bộ tốt cho nước nhà. 
Quá trình hình thành nhân cách nói riêng và hình thành con người nói chung đã được
Marx chỉ ra từ lâu: “con người vừa là chủ thể vừa là sản phẩm của lịch sử” và “con
người tạo ra hoàn cảnh tới mức nào thì hoàn cảnh cũng tạo ra con người tới mức đó”.
Như vậy là con người với tư cách loài người đóng vai trò chủ động trong quá trình
hình thành nhân cách của mình.
Xây dựng con người là yêu cầu khách quan của sự nghiệp cách mạng, vừa cấp bách
vừa lâu dài, có ý nghĩa chiến lược. Xây dựng con người là một trọng tâm, bộ phận hợp
thành của chiến lược phát triển đất nước, có mối quan hệ chặt chẽ với nhiệm vụ xây
dựng chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội. Hồ Chí Minh nêu hai quan điểm nổi bật làm
sáng tỏ sự cần thiết xây dựng con người:
+ “Vì lợi ích trăm năm thì phải “trồng người”. “Trồng người” là công việc lâu dài,
gian khổ, vừa vì lợi ích trước mắt vừa vì lợi ích lâu dài, là công việc của văn hóa giáo
dục.
+ “Muốn xây dựng chủ nghĩa xã hội, trước hết cần phải có những con người xã hội
chủ nghĩa”. Chủ nghĩa xã hội sẽ tạo ra những con người xã hội chủ nghĩa, con người
xã hội chủ nghĩa là động lực xây dựng chủ nghĩa xã hội.
Câu 49: Hồ Chí Minh viết: Chỉ có Chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng sản mới
giải phóng được các dân tộc bị áp bức và những người lao động trên thế giới khỏi
ách nô lệ. Anh chị hãy phân tích nội dung và ý nghĩa của luận điểm trên?

ÝN
Như vậy, Hồ chí Minh đã vận dụng trung thành và phát triển sáng tạo quan điểm của
chủ nghĩa Mác - Lênin về quan hệ lợi ích giai cấp và lợi ích dân tộc phù hợp với điều
kiện cách mạng Việt Nam. Đây là một sự đóng góp to lớn, có ý nghĩa đối với phong
trào cộng sản và công nhân quốc tế, cũng như đối với phong trào đấu tranh giải phóng
dân tộc ở các nước thuộc địa. Quan điểm nhất quán và xuyên suốt của Chủ tịch Hồ
Chí Minh và Đảng ta là đặt lợi ích của giai cấp và dân tộc trong mối quan hệ thống
nhất biện chứng - lợi ích của giai cấp gắn liền với lợi ích của dân tộc, lợi ích của dân
tộc được thể hiện ở bản chất lợi ích của giai cấp.
Hiện nay, trong công cuộc đổi mới đất nước, bài học kinh nghiệm này được Đảng ta
tiếp tục quán triệt và phát huy.

Câu 50: Hồ Chí Minh có câu nói chính sách ngoại giao của Chính phủ là thân
thiện với tất cả các nước dân chủ trên thế giới để giữ gìn Hòa Bình hãy phân tích
nội dung và ý nghĩa của câu nói đó?
Thực hiện đoàn kết quốc tế nhằm góp phần cùng nhân dân thế giới thực hiện thắng lợi
các mục tiêu cách mạng của thời đại
- Hồ Chí Minh chỉ ra rằng, chủ nghĩa yêu nước chân chính phải được gắn liền với chủ
nghĩa quốc tế vô sản, đại đoàn kết dân tộc phải gắn liền với đoàn kết quốc tế; thực hiện
đoàn kết quốc tế không những vì thắng lợi của cách mạng mỗi nước mà còn vì sự
nghiệp chung của nhân loại tiến bộ trong cuộc đấu tranh chống chủ nghĩa đế quốc và
các thế lực phản động quốc tế.
- Thời đại mà Hồ Chí Minh sống và hoạt động chính trị là thời đại đã chấm dứt thời kỳ
tồn tại biệt lập giữa các quốc gia, mở ra các quan hệ quốc tế ngày càng sâu rộng cho
các dân tộc, làm cho vận mệnh của mỗi dân tộc không thể tách rời vận mệnh chung
của cả loài người. Ngay sau khi nắm được đặc điểm của thời đại mới, Hồ Chí Minh đã
hoạt động không mệt mỏi để phá thế đơn độc của cách mạng Việt Nam, gắn cách
mạng Việt Nam với cách mạng thế giới.
- Theo Hồ Chí Minh, muốn tăng cường đoàn kết quốc tế trong cuộc đấu tranh vì mục
tiêu chung, các đảng cộng sản trên thế giới phải kiên trì chống lại mọi khuynh hướng
sai lầm của chủ nghĩa cơ hội, chủ nghĩa vị kỷ dân tộc, chủ nghĩa sô vanh..., tiến hành
có hiệu quả việc giáo dục chủ nghĩa yêu nước chân chính kết hợp với chủ nghĩa quốc
tế vô sản cho nhân dân.
2. Lực lượng đoàn kết quốc tế và hình thức tổ chức
a. Các lực lượng cần đoàn kết
Lực lượng đoàn kết quốc tế trong tư tưởng Hồ Chí Minh bao gồm: phong trào cộng
sản và công nhân quốc tế; phong trào đấu tranh giải phóng dân tộc và phong trào hòa
bình, dân chủ thế giới, trước hết là phong trào chống chiến tranh của nhân dân các
nước đang xâm lược Việt Nam.
- Đối với phong trào cộng sản và công nhân quốc tế, Hồ Chí Minh cho rằng, sự đoàn
kết giữa giai cấp công nhân quốc tế là một bảo đảm vững chắc cho thắng lợi của chủ
nghĩa cộng sản. Chủ trương đoàn kết giai cấp công nhân quốc tế, đoàn kết giữa các
đảng cộng sản trong tư tưởng Hồ Chí Minh xuất phát từ tính tất yếu về vai trò của giai
cấp công nhân trong thời đại ngày nay. Hồ Chí Minh cho rằng, chủ nghĩa tư bản là một
lực lượng phản động quốc tế, là kẻ thù chung của nhân dân lao động toàn thế giới.
Trong hoàn cảnh đó, chỉ có sức mạnh của sự đoàn kết, nhất trí, sự đồng tình và ủng hộ
lẫn nhau của lao động toàn thế giới theo tinh thần “bốn phương vô sản đều là anh em”
mới có thể chống lại được.
- Đối với phong trào đấu tranh giải phóng dân tộc, từ rất sớm, Hồ Chí Minh đã thấy rõ
âm mưu chia rẽ dân tộc của các nước đế quốc. Chính vì vậy, Người đã lưu ý Quốc tế
Cộng sản về những biện pháp nhằm “làm cho các dân tộc thuộc địa, từ trước đến nay
vẫn cách biệt nhau, hiểu biết nhau hơn và đoàn kết lại để đặt cơ sở cho một liên minh
phương Đông tương lai, khối liên minh này sẽ là một trong những cái cánh của cách
mạng vô sản”. Thêm vào đó, để tăng cường đoàn kết giữa cách mạng thuộc địa và
cách mạng vô sản chính quốc, Hồ Chí Minh còn đề nghị Quốc tế Cộng sản, bằng mọi
cách phải “làm cho đội quân tiên phong của lao động thuộc địa tiếp xúc mật thiết với
giai cấp vô sản phương Tây để dọn đường cho một sự hợp tác thật sự sau này”.
- Đối với các lực lượng tiến bộ, những người yêu chuộng hoà bình, dân chủ, tự do và
công lý, Hồ Chí Minh cũng tìm mọi cách để thực hiện đoàn kết. Trong xu thế mới của
thời đại, sự thức tỉnh dân tộc gắn liền với sự thức tỉnh giai cấp, Hồ Chí Minh đã gắn
cuộc đấu tranh vì độc lập ở Việt Nam với mục tiêu bảo vệ hòa bình, tự do, công lý và
bình đẳng để tập hợp và tranh thủ sự ủng hộ của các lực lượng tiến bộ trên thế giới.
Gắn cuộc đấu tranh vì độc lập của dân tộc với mục tiêu hòa bình, tự do và công lý, Hồ
Chí Minh đã khơi gợi lương tri của những người tiến bộ tạo nên những tiếng nói ủng
hộ mạnh mẽ của các tổ chức quần chúng, các nhân sĩ trí thức và từng con người trên
hành tinh.
*Ý nghĩa:
Dưới sự lãnh đạo của Đảng, cách mạng Việt Nam đã đạt được những thắng lợi vẻ vang
trong sự nghiệp giành độc lập dân tộc, giải phóng và thống nhất đất nước, xây dựng và
bảo vệ Tổ quốc. Những thành tựu vĩ đại của dân tộc có phần đóng góp hết sức quan
trọng của công tác ngoại giao. Ngoại giao Việt Nam đã luôn đồng hành cùng dân tộc
trong mọi giai đoạn cách mạng. Ngày nay, trong bối cảnh tình hình mới, ngoại giao
Việt Nam tiếp tục vận dụng sáng tạo tư tưởng Hồ Chí Minh về đối ngoại, đi tiên phong
kiến tạo môi trường hòa bình, an ninh, ổn định, hợp tác và kết hợp sức mạnh của dân
tộc với sức mạnh của thời đại nhằm phục vụ hiệu quả nhất cho sự nghiệp xây dựng và
bảo vệ Tổ quốc, nâng cao uy tín và vị thế quốc tế của Việt Nam.

Câu 51: HCM nói: “Một tấm gương sống còn có giá trị hơn một trăm bài diễn văn
tuyên truyền hay”. Phân tích nội dung và ý nghĩa luận điểm này? ( tr.93)
* Quan điểm về những nguyên tắc xây dựng đạo đức cách mạng
a. Nói đi đôi với làm, nêu gương về đạo đức
- Nói đi đôi với làm là nét đẹp trong đạo đức truyền thống của dân tộc được Hồ
Chí Minh nâng lên một tầm cao mới. Người coi đây là nguyên tắc quan trọng bậc nhất
trong xây dựng nền đạo đức mới.
- Nói đi đôi với làm thể hiện bản chất và nhân cách của con người. Nói đi đôi với
làm thì mới đem lại hiệu quả thiết thực cho chính bản thân mình và mới có tác dụng
đối với người khác. Nếu nói nhiều làm ít, nói mà không làm, hơn nữa nói một đằng,
làm một nẻo thì chỉ đem lại những hậu quả phản tác dụng.
- Nói đi đôi với làm đối lập hoàn toàn với thói đạo đức giả, nói một đằng làm
một nẻo, nói nhiều làm ít, thậm chí nói mà không làm. Ngay sau thắng lợi Cách mạng
Tháng Tám 1945, Hồ Chí Minh đã chỉ ra những biểu hiện của thói đạo đức giả ở một
số cán bộ “vác mặt làm quan cách mạng”.“Miệng thì nói dân chủ, nhưng làm việc thì
họ theo lối “quan” chủ”.
- Nêu gương về đạo đức là một nét đẹp của truyền thống văn hóa phương Đông.
Để đạo đức cách mạng thấm sâu, bám chắc vào đời sống xã hội và trở thành nền tảng
tinh thần của nhân dân, Hồ Chí Minh yêu cầu cán bộ, đảng viên cần phải: “Trước hết,
mình phải làm gương, gắng làm gương trong anh em, và khi đi công tác, gắng làm
gương cho dân. Làm gương về cả ba mặt: Tinh thần, vật chất và văn hóa”. Hồ Chí
Minh đã viết: “Nói chung thì các dân tộc phương Đông đều giàu tình cảm, và đối với
họ một tấm gương sống còn có giá trị hơn một trăm bài diễn văn tuyên truyền”.
- Hồ Chí Minh cho rằng, hơn bất cứ một lĩnh vực nào mà vấn đề nêu gương lại
được đặt ra và rất có ý nghĩa giáo dục như trong lĩnh vực đạo đức. Sự làm gương của
thế hệ đi trước với thế hệ đi sau; trong gia đình thì cha mẹ làm gương cho con, anh chị
làm gương cho em, ông bà làm gương cho con cháu, trong nhà trường thì thầy, cô làm
gương cho học sinh, trong các tổ chức đoàn thể thì cấp trên làm gương cho cấp dưới…
b. Xây đi đôi với chống
- Xây tức là xây dựng các giá trị, các chuẩn mực đạo đức mới.
- Chống là chống các biểu hiện, các hành vi vô đạo đức, suy thoái đạo đức.
- Để xây dựng một nền đạo đức mới, cần phải kết hợp chặt chẽ giữa xây và
chống. Muốn xây phải chống, chống nhằm mục đích xây, lấy xây làm chính. Vì trong
đời sống hằng ngày, những hiện tượng tốt - xấu, đúng - sai, cái đạo đức và cái vô đạo
đức thường đan xen nhau, đối chọi nhau thông qua hành vi của những con người khác
nhau, thậm chí trong mỗi con người.
- Xây phải đi đôi với chống, nhằm loại bỏ cái sai, cái xấu, cái vô đạo đức trong
đời sống hàng ngày. Khơi dậy được ý thức đạo đức trong mỗi người.Hồ Chí Minh
quan niệm, “Mỗi con người đều có thiện và ác ở trong lòng. Ta phải biết làm cho phần
tốt ở trong mỗi con người nảy nở như hoa mùa Xuân và phần xấu bị mất dần đi, đó là
thái độ của người cách mạng”
- Xây dựng đạo đức mới trước hết phải được tiến hành bằng giáo dục nhận thức,
từ trong gia đình đến nhà trường, tập thể và toàn xã hội. Những phẩm chất đạo đức
chung phải được cụ thể hóa, sát hợp với từng đối tượng.
c. Tu dưỡng đạo đức suốt đời
- Theo Hồ Chí Minh, tu dưỡng đạo đức như một cuộc cách mạng trường kỳ, gian
khổ. Một nền đạo đức mới chỉ có thể được xây dựng trên cơ sở tự giác tu dưỡng đạo
đức của mỗi người. Hồ Chí Minh nêu rõ: “Chính tâm tu thân tức là cải tạo. Cải tạo
cũng phải trường kỳ gian khổ, vì đó là một cuộc cách mạng trong bản thân của mỗi
người”
- Đạo đức cách mạng không phải tự nhiên hình thành, nó phải trải qua quá trình
đấu tranh, rèn luyện, bền bỉ hàng ngày mới có được. Người tổng kết sâu sắc: “Đạo đức
cách mạng không phải trên trời sa xuống. Nó do đấu tranh, rèn luyện bền bỉ hằng ngày
mà phát triển và củng cố. Cũng như ngọc càng mài càng sáng, vàng càng luyện càng
trong”.
- Tu dưỡng đạo đức phải được thực hiện kiên trì trong mọi hoạt động thực tiễn,
trong đời tư cũng như trong sinh hoạt cộng đồng, trong mọi mối quan hệ của mình.
Ý nghĩa
Cán bộ, đảng viên có chức vụ càng cao, càng phải sống thanh bạch, giản dị và
nêu gương tốt trước hết. Học tập gương đạo đức Hồ Chí Minh là học cho được cái
gốc, tức là học cho được cái tâm và tấm lòng của mình  trước nỗi khổ của con người,
của đồng loại, của nhân dân, nhất là những người nghèo, người bất hạnh; biết đồng
cảm, sẻ chia những nỗi đau của từng cảnh đời trong cuộc sống.
Bác Hồ thường nói: Người cách mạng là người rất giàu tình cảm, và vì giàu tình
cảm nên mới đi làm cách mạng. Người có lòng thương yêu mênh mông xúc động đến
tâm can của mọi người. Học gương đạo đức Bác Hồ là phải học từ cái tâm, từ những
xúc động đến rưng nước mắt của Bác trước nỗi khổ của con người, là vận dụng bài
học đó để suy nghĩ và thực hiện trong đời sống hàng ngày.
Thực hiện học tập, làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh cần phải tiếp tục
đề cao phương pháp nêu gương, nhất là đội ngũ cán bộ, đảng viên. Cụ thể là nói đi đôi
với làm, nói được thì phải làm được; cán bộ cấp trên gương mẫu, có tinh thần trách
nhiệm cao trước cán bộ cấp dưới; kiên quyết khắc phục mọi biểu hiện quan liêu, mệnh
lệnh, xa rời thực tế, xa rời cơ sở, xa rời quần chúng; kiên quyết phê phán những cán
bộ, đảng viên không dám nói, không dám hành động, hoặc “nói nhiều làm ít”, “nói mà
không làm”, “nói một đường làm một nẻo”, thậm chí chỉ thụ động, ngồi chờ, ỷ lại, sợ
trách nhiệm. Những biểu hiện đó hoàn toàn trái với tư tưởng và tấm gương đạo đức
Hồ Chí Minh, làm cho phương pháp “nêu gương” mất ý nghĩa, tác dụng trong giáo
dục đạo đức, lối sống ngay trong nội bộ tổ chức đảng, chính quyền, đoàn thể xã hội…
Phương pháp “nêu gương” đòi hỏi mỗi cán bộ, đảng viên ở bất kỳ vị trí công tác
nào cũng phải nêu cao tính chiến đấu tự phê bình và phê bình. Bởi vì, quần chúng
nhân dân luôn chú ý tới lời nói và việc làm của cán bộ, đảng viên để xem có nên noi
theo hay không noi theo. Và cũng qua đó, họ biết rất rõ cán bộ, đảng viên, nhất là cán
bộ, đảng viên ở cơ sở, có những ưu điểm, nhược điểm gì, và đã sửa chữa nhược điểm,
phát huy ưu điểm đến đâu. Cán bộ, đảng viên càng giữ vị trí cao, vị trí quan trọng,
nhất là người đứng đầu, càng phải hết sức nêu gương tự phê bình và phê bình về phẩm
chất đạo đức, lối sống ở mọi lúc, mọi nơi.
Câu 52: HCM nói: Đảng muốn vững thì phải có chủ nghĩa làm cốt, trong Đảng ai
cũng phải hiểu phải tuân theo chủ nghĩa ấy. Phân tích nội dung, ý nghĩa của luận
điểm trên?
Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định, lý luận cách mạng có vai trò hết sức quan trọng đối
với Đảng Cộng sản và sự nghiệp cách mạng Việt Nam. “Chủ nghĩa” mà Hồ Chí Minh
đề cập ở đây chính là hệ thống lý luận để Đảng Cộng sản lấy đó làm nền tảng tư tưởng
và kim chỉ nam cho hành động. Đối với Đảng ta, đó chính là chủ nghĩa Mác - Lê-nin.
Trong suốt quá trình hoạt động cách mạng của mình, Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn nhất
quán quan điểm này.
Chủ nghĩa Mác - Lênin là tinh hoa trí tuệ của sự phát triển những tư tưởng tiên tiến của
nhân loại. Đó là lý luận cách mạng và khoa học, là vũ khí tư tưởng sắc bén của giai cấp
công nhân và Đảng Cộng sản. Được trang bị lý luận Mác - Lênin (lý luận cách mạng
tiên phong), Đảng Cộng sản Việt Nam mới xứng đáng là đội tiên phong chính trị, bộ
tham mưu chiến đấu của giai cấp công nhân và dân tộc, Đảng mới thực sự tiêu biểu
cho trí tuệ, danh dự, lương tâm của dân tộc và thời đại. Chủ nghĩa Mác - Lênin là linh
hồn, là chất kết dính làm cho Đảng thống nhất ý chí và hành động lãnh đạo sự nghiệp
cách mạng đi đến thắng lợi cuối cùng.
Đảng Cộng sản Việt Nam lấy chủ nghĩa Mác - Lê-nin “làm cốt” còn được quy định bởi
quy luật ra đời của Đảng. Đảng ta ra đời là sản phẩm của sự kết hợp chủ nghĩa Mác -
Lênin với phong trào công nhân và phong trào yêu nước Việt Nam. Quy luật ra đời của
Đảng tự nó đã nói lên tính tất yếu khách quan của việc Đảng phải lấy chủ nghĩa Mác -
Lê-nin “làm cốt”. Thực tiễn cách mạng Việt Nam đã khẳng định chân lý đó. Chỉ sau
khi Chủ tịch Hồ Chí Minh đưa ánh sáng của chủ nghĩa Mác - Lênin vào nước ta với tư
tưởng chỉ đạo muốn cứu nước và giải phóng dân tộc không có con đường nào khác con
đường cách mạng vô sản, cách mạng giải phóng dân tộc ở nước ta mới thoát ra khỏi
cuộc khủng hoảng về tư tưởng và có được tôn chỉ hành động đúng đắn.
Tuy nhiên, theo quan điểm của Hồ Chí Minh, chủ nghĩa Mác - Lênin không phải là
“chìa khóa vạn năng”, càng không phải là những tín điều trong kinh thánh. Với vai trò
cải tạo thế giới, chủ nghĩa Mác - Lênin chỉ phát huy tác dụng và trở thành lực lượng
vật chất to lớn khi nó được thâm nhập vào quần chúng, khi Đảng Cộng sản nắm được
bản chất khoa học, cách mạng và vận dụng, phát triển nó một cách đúng đắn, sáng tạo
vào điều kiện, hoàn cảnh cụ thể. Hồ Chí Minh đã chỉ rõ: “… chúng ta phải học chủ
nghĩa Mác - Lênin để phân tích và giải quyết các vấn đề cụ thể của cách mạng nước ta,
cho hợp với điều kiện đặc biệt của nước ta. Khi vận dụng thì bổ sung, làm phong phú
thêm lý luận bằng những kết luận mới rút ra từ trong thực tiễn cách mạng của ta”(2).
Hồ Chí Minh là tấm gương mẫu mực tuyệt vời trong việc bảo vệ, vận dụng đúng đắn,
phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin vào điều kiện cụ thể của cách mạng Việt
Nam.
Quán triệt sâu sắc tư tưởng Hồ Chí Minh, những người Cộng sản Việt Nam không bao
giờ được kỳ vọng rằng, những nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác - Lênin đã nêu ra
những chân lý tuyệt đối cuối cùng về con đường đi lên chủ nghĩa xã hội. Điều quan
trọng trong vận dụng và phát triển chủ nghĩa Mác - Lênin là chúng ta có thể biết được
phương hướng, bước đi của con đường đó,… còn như về cụ thể và trên thực tế con
đường đi lên chủ nghĩa xã hội của mỗi quốc gia, dân tộc ra sao, thì kinh nghiệm của
hàng triệu con người khi họ bắt tay vào hành động mới hiểu rõ.
Như vậy, việc Hồ Chí Minh khẳng định, Đảng lấy chủ nghĩa Mác - Lênin “làm cốt” là
luận điểm có giá trị to lớn cả lý luận, và đặc biệt là từ thực tiễn sống động hơn 80 năm
qua của cách mạng Việt Nam. Chính đó là căn cứ tạo dựng niềm tin đối với cán bộ,
đảng viên, đồng thời bác bỏ những luận điệu sai trái, phản động phủ nhận chủ nghĩa
Mác - Lê-nin.
Chủ nghĩa Mác - Lênin là vũ khí lý luận sắc bén trong cách mạng dân tộc, dân chủ
nhân dân trước đây và là vũ khí tư tưởng không gì có thể thay thế được trong cuộc đấu
tranh tư tưởng, lý luận hiện nay để Đảng ta lãnh đạo thành công sự nghiệp đổi mới,
công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Đúng như lời dạy của Người: “Chủ nghĩa
Lênin đối với chúng ta, những người cách mạng và nhân dân Việt Nam, không những
là cái "cẩm nang" thần kỳ, không những là cái kim chỉ nam, mà còn là mặt trời soi
sáng con đường chúng ta đi tới thắng lợi cuối cùng, đi tới chủ nghĩa xã hội và chủ
nghĩa cộng sản”(3)..
●Ý nghĩa của luận điểm trên
Tư tưởng và những chỉ dẫn quý báu của Hồ Chí Minh về Đảng Cộng sản Việt Nam và
xây dựng Đảng cầm quyền, là đường hướng, phương châm khoa học, cách mạng, để
Đảng và Nhân dân ta xây dựng Đảng của mình trở thành Đảng cách mạng chân chính,
vững mạnh, có năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu cao, đưa sự nghiệp cách mạng Việt
Nam đi tới thành công. Trong xu thế mới của đất nước và thời đại đặt ra cho vai trò
lãnh đạo của Đảng những nhiệm vụ mới. Đó là lãnh đạo nhân dân thực hiện thành công
sự nghiệp đổi mới, trong điều kiện nền kinh tế thị trường, định hướng XHCN. Đây vừa
là điều kiện thuận lợi nhưng cũng đầy khó khăn thách thức đối với sự lãnh đạo của
Đảng. Hơn lúc nào hết, chúng ta phải vận dụng sáng tạo và giữ vững những nguyên tắc
trong tư tưởng của Người về xây dựng Đảng Cộng sản Việt Nam.

Câu 53: HCM đã viết Trăm điều phải có thần linh pháp quyền. Ac hãy phân tích
nội dung và ý nghĩa của luận điểm trên trong xd nhà nước hiện nay? (tr.30)

CHÉP SÁCH TRANG 30-31..thể mà cách mạng Việt Nam đặt ra vào cuối thế kỷ
XIX đầu thế kỷ XX. Như vậy cách mạng giải phóng dân tộc được dẫn dắt bởi hệ tư
tưởng Mác – Lênin, là 1 cách của cách mạng vô sản

Câu 54: HCM viết Mỗi Đảng viên phải giữ gìn sự đoàn kết trong Đảng như giữ gìn
con ngươi của mắt mình và phải có kỷ luật nghiêm minh tự gốc. Ac hãy phân tích
nội dung và ý nghĩa của luận điểm trên?
Đảng có đoàn kết, thống nhất thì mới đủ sức mạnh để lãnh đạo và tập hợp quần
chúng nhân dân hoàn thành mục tiêu cách mạng giữ vững độc lập, thống nhất Tổ
quốc, phát triển đất nước. Trong bản Di chúc thiêng liêng trước lúc Người qua
đời, vấn đề đầu tiên Người đề cập đến cũng là nói về Đảng và về việc giữ gìn, phát
triển khối đoàn kết, thống nhất trong Đảng. Di chúc của Chủ tịch Hồ Chí Minh là một
tác phẩm «đặc biệt», một tài sản vô cùng quý báu Người để lại cho Đảng và cho dân
tộc Việt Nam, có ý nghĩa lịch sử và giá trị lý luận, thực tiễn sâu sắc, không chỉ trong
quá khứ mà cả trong thời kỳ đổi mới hiện nay. 50 năm là lúc chúng ta cùng nhau nhìn
nhận lại, một lần nữa khẳng định tính đúng đắn và giá trị to lớn của những lời Người
căn dặn trong Di chúc, đặc biệt là đối với vấn đề củng cố và phát huy sự đoàn kết
trong Đảng.
Cho đến nay thì đây vẫn là một vấn đề thời sự, mang ý nghĩa quyết định đến sự
sống còn mà Đảng đặc biệt quan tâm. Bối cảnh đó đòi hỏi sự đoàn kết chặt chẽ, chiến
đấu bền bỉ của toàn Đảng, toàn dân, toàn quân hai miền Nam - Bắc mà khối đoàn kết
trong Đảng để đảm bảo vai trò lãnh đạo là yếu tố quyết định. « Đoàn kết là một truyền
thống cực kỳ quý báu của Đảng và của nhân dân ta». Từ «đoàn kết» được Bác nhắc lại
3 lần trong đoạn văn trên, qua đó, Người đã khẳng định vai trò to lớn của khối đoàn
kết thống nhất trong Đảng.
Theo Người, đây là một trong những yếu tố quan trọng tạo nên sức mạnh của
Đảng để lãnh đạo nhân dân ta vượt qua muôn vàn thử thách khó khăn, hoàn thành
thắng lợi các mục tiêu cách mạng. Điều này đã được chứng minh qua thực tiễn đấu
tranh và trở thành một truyền thống, một tài sản quý báu của Đảng ta. Đoàn kết trong
Đảng được hình thành từ chính truyền thống đoàn kết của dân tộc Việt Nam thể hiện
qua lịch sử hình thành và phát triển dựng nước, giữ nước và được phát triển ngày càng
phong phú, khắc hoạ ngày càng đậm nét trong văn hoá, bản sắc dân tộc và là bộ phận
hợp thành sức mạnh dân tộc. Đối với nước ta, thắng lợi trong đấu tranh giành chính
quyền, trong đấu tranh dựng nước, giữ nước và những thành quả trong xây dựng
CNXH, xét đến cùng đều là kết quả của sự đoàn kết thống nhất của toàn Đảng, toàn
quân, toàn dân ta.
Nói một cách khác, sự đoàn kết thống nhất trong Đảng là nhân tố quyết định mọi
thắng lợi của cách mạng Việt Nam. Đoàn kết trong Đảng còn được coi là hạt nhân, là
cơ sở vững chắc để xây dựng khối đại đoàn kết dân tộc. Tuyệt đối không gây mất đoàn
kết trong Đảng, vì như vậy là tự mình làm hại đến sức mạnh và truyền thống của
Đảng.
Để tiếp tục phát huy vai trò lãnh đạo của Đảng trong sự nghiệp cách mạng, Chủ
tịch Hồ Chí Minh đã vạch ra các yêu cầu và giải pháp nhằm củng cố khối đoàn kết
trong Đảng sau khi chiến tranh kết thúc. Trong điều kiện cả nước quá độ đi lên CNXH
từ muôn vàn khó khăn do hậu quả của chiến tranh đòi hỏi «Đảng phải mạnh hơn bao
giờ hết». Vì vậy, để Đảng tiếp tục làm tròn sứ mệnh tiền phong của mình, nhất định
mỗi cán bộ, đảng viên phải thực hiện tốt nguyên tắc tự phê bình và phê bình. Phải giữ
gìn Đảng ta thật trong sạch, phải xứng đáng là người lãnh đạo, là người đầy tớ thật
trung thành của nhân dân, phải làm hết sức mình để phục vụ nhân dân, chăm lo tới
cuộc sống của người dân, củng cố bền chặt mối quan hệ máu thịt giữa Đảng với nhân
dân.
Chỉ có như vậy mới có thể lan tỏa uy tín và ảnh hưởng sâu rộng của Đảng trong xã
hội, xây dựng và củng cố niềm tin trong nhân dân, được dân tin tưởng, dân yêu
mến, dân ủng hộ, dân giúp đỡ và dân bảo vệ. Cho đến nay sau 50 năm kể từ ngày Bác
đi xa, những lời dặn dò tâm huyết đó vẫn là kim chỉ nam trong công tác xây dựng và
phát triển Đảng từ trung ương đến các cơ sở.
Câu 55: Ý đầu trang 49 Hảo- 55Hằng
Ý nghĩa với nước ta hiện nay:
Trong giai đoạn hiện nay, Đảng ta xác định xây dựng kinh tế là nhiệm vụ trọng tâm,
xây dựng Đảng là nhiệm vụ then chốt. Đảng đồng hành cùng dân tộc. Đảng lãnh đạo
nhưng dân làm chủ. Đảng ta trong công cuộc đổi mới đã rút ra bài học quan trọng: “
Từ trước đến nay, bất cứ việc gì đáp ứng được nguyện vọng của nhân dân, của toàn
Đảng, được nhân dân và toàn Đảng đồng lòng góp sức thì nhất định thắng lợi .”
Từ quan điểm trên đã giúp Đảng nâng cao năng lực lãnh đạo trong sự nghiệp cách
mạng; đồng thời, làm cho mỗi tổ chức đảng và cá nhân người đảng viên trở thành một
tấm gương đạo đức có sức cổ vũ toàn xã hội.  
Đảng có trách nhiệm to lớn không chỉ đối với giai cấp công nhân, mà còn đối với nhân
dân lao động và cả dân tộc. Trách nhiệm này vừa có tính chiến lược lâu dài, là xây
dựng một nước Việt Nam hoà bình, thống nhất, độc lập, dân chủ, giàu mạnh, công
bằng, văn minh, góp phần xứng đáng vào sự nghiệp cách mạng thế giới, vừa mang
tính lợi ích cụ thể.
Đảng ta không thiên tư thiên vị, lo việc cho cả nước. Ngoài lợi ích của giai cấp, của
nhân dân, của dân tộc, Đảng ta không có lợi ích gì khác. Đó là một trong những lý do
làm cho Đảng ta vĩ đại.

Câu 56: Có học giả nghiên cứu HCM từng đánh giá Người mang trong mình một
phần V Lê-nin, một phần …, một phần Khổng Tử và luôn luôn là một người Việt
Nam. Ac hiểu thế nào về nội dung và ý nghĩa của quan điểm này?
Trong quá trình hoạt động cách mạng, Người nhận thấy: “Học thuyết của Khổng
Tử có ưu điểm của nó là sự tu dưỡng đạo đức cá nhân. Tôn giáo Giêsu có ưu điểm
của nó là lòng nhân ái cao cả. Chủ nghĩa Mác có ưu điểm là phương pháp biện
chứng. Chủ nghĩa Tôn Dật Tiên có ưu điểm của nó, chính sách của nó thích hợp với
điều kiện nước ta”. Khổng Tử, Giêsu, Mác, Tôn Dật Tiên đều mưu cầu hạnh phúc
cho loài người, mưu phúc lợi cho xã hội. Do đó, Người nói: “Tôi cố gắng làm người
học trò nhỏ của các vị ấy”
Tiếp thu tinh hoa văn hóa phương Đông và phương Tây trong quá trình tự học,
Hồ Chí Minh đã khắc phục được hạn chế của các bậc tiền bối, không tuyệt đối hoá
ưu điểm cũng như hạn chế của các học thuyết. Với cái nhìn biện chứng, Người luôn
đặt các học thuyết vào bối cảnh lịch sử - cụ thể để học được những điều bổ ích.
Chính sự tu dưỡng đạo đức cá nhân, tấm lòng thương yêu con người cùng quá
trình hoạt động cách mạng sôi nổi đã giúp Hồ Chí Minh đến với Chủ nghĩa Mác -
Lênin. Đây là dấu mốc quan trọng, đánh dấu bước chuyển biến trong nhận thức và tư
tưởng của Người. Người đã học được trong Chủ nghĩa Mác - Lênin phương pháp
biện chứng và hơn thế nữa, đó là con đường đánh đổ ách thống trị đế quốc, giải
phóng dân tộc Việt Nam: con đường cách mạng vô sản.
Tinh hoa văn hoá, tư tưởng phương Đông kết tinh trong ba học thuyết lớn Nho
giáo, Phật giáo, Lão giáo. Đó là những học thuyết có ảnh hưởng sâu rộng ở phương
Đông, và ở Việt Nam trước đây.
Về Nho giáo người sáng lập là Khổng Tử, Hồ Chí Minh chú ý kế thừa và đổi
mới tư tưởng dùng nhân trị, đức trị để quản lý xã hội; tiếp thu những yếu tố tích cực
của Nho giáo đồng thời, phê phán và lọc bỏ những tiêu cực của học thuyết này(“tam
cương”, “ngũ thường”,…).
Về Phật giáo, Hồ Chí Minh chú ý kế thừa, phát triển tư tưởng từ bi, vị tha, yêu
thương con người, khuyến khích làm việc thiện, chống lại điều ác; đề cao quyền bình
đẳng của con người và chân lý; khuyên con người sống hòa đồng, gắn bó với đất
nước của Đạo Phật.
Về Lão giáo, Hồ Chí Minh chú ý kế thừa, phát triển tư tưởng của Lão Tử,
khuyên con người nên sống gắn bó với thiên nhiên, hòa đồng với thiên nhiên, hơn
nữa phải biết bảo vệ môi trường sống; tư tưởng thoát mọi ràng buộc của vòng danh
lợi trong Lão giáo.
Các học thuyết phương Đông khác, Hồ Chí Minh còn chú ý kế thừa, phát triển
nhiều ý tưởng của các trường phái khác nhau trong các nhà tư tưởng phương Đông cổ
đại khác như Mặc Tử, Hàn Phi Tử, Quản Tử, v,v... Người cũng chú ý tìm hiểu những
trào lưu tư tưởng tiến bộ thời cận hiện đại ở Ấn Độ, Trung Quốc như chủ nghĩa
Gandhi, chủ nghĩa Tam dân của Tôn Trung Sơn. Người đã phát triển sáng tạo các
quan điểm về dân tộc, dân quyền, dân sinh của Tôn Trung Sơn trong cách mạng dân
chủ tư sản thành tư tưởng đấu tranh cho Độc lập - Tự do - Hạnh phúc của con người
và dân tộc Việt Nam theo con đường cách mạng vô sản.
Nguồn tư tưởng văn hóa phương Tây đầu tiên ảnh hưởng tới HCM là tư tưởng:
Tự do- Bình đẳng- Bác ái của Đại Cách mạng Pháp. Người tiếp cận, kế thừa, và đề
xuất quan điểm về quyền mưu cầu độc lập, tự do, hạnh phúc của các dân tộc trong
thời đại ngày nay.
Như vậy, Hồ Chí Minh đã tiếp thu chọn lọc các tư tưởng, văn hóa tiến bộ của
phương Đông và phương Tây, dân tộc và thời đại; truyền thống và hiện đại, không
ngừng làm giàu trí tuệ của mình bằng tri thức, văn hóa phong phú của nhân loại.
Quan trọng nhất, chủ nghĩa Mác - Lênin là cơ sở thế giới quan, phương pháp
luận, là nguồn gốc lý luận quyết định bước phát triển mới về chất trong tư tưởng Hồ
Chí Minh. Trên cơ sở lập trường, quan điểm và phương pháp của chủ nghĩa Mác -
Lênin, Hồ Chí Minh đã triệt để kế thừa, đổi mới, phát triển những giá trị truyền thống
tốt đẹp của dân tộc Việt Nam, tinh hoa văn hóa nhân loại kết hợp với thực tiễn cách
mạng trong nước và thế giới hình thành lên một hệ thống các quan điểm cơ bản, toàn
diện về cách mạng Việt Nam. Tư tưởng Hồ Chí Minh nằm trong hệ tư tưởng Mác –
Lênin và chủ nghĩa Mác – Lênin là nguồn gốc chủ yếu nhất của tư tưởng Hồ Chí
Minh.
Dân tộc Việt Nam có lịch sử mấy ngàn năm dựng nước và giữ nước đã hình
thành những truyền thống tốt đẹp: Trước hết là tinh thần yêu nước, nhân nghĩa, đoàn
kết, nhân ái, khoan dung trong cộng đồng và hòa hiếu với các dân tộc lân bang; tinh
thần cần cù, dũng cảm, sáng tạo, lạc quan, vì nghĩa, thương người của dân tộc Việt
Nam. Đó chính là cơ sở đầu tiên, nguồn gốc sâu xa hình thành nên tư tưởng, phẩm
chất của nhà văn hóa kiệt xuất Hồ Chí Minh.
Hồ Chí Minh đã kế thừa, phát triển những giá trị truyền thống tốt đẹp của dân
tộc Việt Nam lên tầm cao mới. Tư tưởng của Người là sự kết tinh, hội tụ và tỏa sáng
tinh hoa văn hóa Việt Nam. Dân tộc ta, nhân dân ta, non sông đất nước ta đã sinh ra
Chủ tịch Hồ Chí Minh - người anh hùng dân tộc vĩ đại và cũng chính Người đã làm
rạng rỡ dân tộc ta, nhân dân ta, non sông đất nước ta.
Ý nghĩa:
Kết hợp với tư duy, trí tuệ, phẩm chất đạo đức và năng lực hoạt động thực tiễn của
Người, Hồ Chí Minh tiếp thu các tinh hoa văn hóa nhân loại một cách có chọn lọc rồi
vận dụng tinh hoa đó một cách sát hợp vào những điều kiện cụ thể của đất nước Việt
Nam, của dân tộc VN vì mục đích không chỉ cho sự nghiệp giải phóng dân tộc mình
mà còn góp phần tích cực nhất vào sự nghiệp của các dân tộc khác trên thế giới. Tư
tưởng Hồ Chí Minh là một hệ thống quan điểm toàn diện, sâu sắc về những vấn đề cơ
bản của cách mạng Việt Nam; là kết quả của sự kế thừa và phát triển các giá trị truyền
thống tốt đẹp của dân tộc và tinh hoa văn hóa nhân loại; là sự vận dụng và phát triển
sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin vào điều kiện cụ thể của Việt Nam; không chỉ giải
quyết vấn đề thuộc về tư duy lý luận mà cao hơn, đó là tư duy hành động. Là tài sản
tinh thần vô cùng to lớn và quý giá của Đảng và dân tộc ta, mãi mãi soi đường cho sự
nghiệp cách mạng giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp, giải phóng con người. Vận
dụng vào sự nghiệp đổi mới CNH- HĐH đất nước ta, luôn học hỏi tiếp thu các thành
tựu KHKT trên thế giới, các nền văn hóa tiên tiến đồng thời vẫn giữ và kế thừa những
nét đặc sắc, tốt đẹp của dân tộc. Bản thân sinh viên chúng ta không nên sao chép theo
khuôn những gì đã học mà phải kết hợp, vận dụng sáng tạo biến đó thành cái của
mình.

You might also like