You are on page 1of 83

PGS, TS.

PHẠM NGỌC ANH


(Chủ biên)

HỎI VÀ ĐÁP MÔN HỌC


TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH
(Dành cho sinh viên đại học, cao đẳng khối không chuyên ngành Mác –
Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh)

NHÀ XUẤT BẢN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HÀ NỘI – 201


TẬP THỂ TÁC GIẢ
PGS. TS. Phạm Ngọc Anh (Chủ biên)
PGS. TS. Bùi Đình Phong
TS. Phạm Văn Bính
CHÚ DẪN CỦA NHÀ XUẤT BẢN
Nhằm đáp ứng yêu cầu nghiên cứu, giảng dạy và học môn “Tư tưởng Hồ Chí Minh”, Nhà xuất bản
Chính trị quốc gia xuất bản cuốn sách Hỏi và đáp môn học Tư tưởng Hồ Chí Minh (Dành cho sinh viên đại
học, cao đẳng khối không chuyên ngành Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh) do PSG.TS Phạm Ngọc Anh
chủ biên.
Các câu hỏi và câu trả lời được sắp xếp theo nội dung, trình tự phù hợp với chương trình môn học, bảo
đảm tính cơ bản, hệ thống, cô đọng.
Trong quá trình biên soạn và xuất bản, cuốn sách khó tránh khỏi thiếu sót, các tác giả, Nhà xuất bản rất
mong nhận được ý kiến đóng góp của bạn đọc để lần xuất bản sau được hoàn chỉnh hơn.
Xin giới thiệu cuốn sách cùng bạn đọc.
Tháng 3 năm 2013
NHÀ XUẤT BẢN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA

MỤC LỤC
Câu 1. Khái niệm và hệ thống tư tưởng Hồ Chí Minh? ..................................................................... 1
Câu 2. Đối tượng và nhiệm vụ của môn học tư tưởng Hồ Chí Minh?................................................ 2
Câu 3. Các nguyên tắc có tính chất phương pháp luận và các phương pháp nghiên cứu của môn
học tư tưởng Hồ Chí Minh? ............................................................................................................... 2
Câu 4. Ý nghĩa của việc học tập môn học tư tưởng Hồ Chí Minh đối với sinh viên? ......................... 4
Câu 5. Hoàn cảnh lịch sử ra đời tư tưởng Hồ Chí Minh?.................................................................. 5
Câu 6. Nguồn gốc hình thành tư tưởng Hồ Chí Minh? ..................................................................... 6
Câu 7. Quá trình hình thành và phát triển tư tưởng Hồ Chí Minh? .................................................. 7
Câu 8. Giá trị to lớn của tư tưởng Hồ Chí Minh đối với dân tộc và nhân loại? ............................... 10
Câu 9. Nội dung tư tưởng Hồ Chí Minh về vấn đề dân tộc? ............................................................ 12
Câu 10. Những quan điểm chủ yếu của Hồ Chí Minh về cách mạng giải phóng dân tộc? .............. 14
Câu 11. Giá trị lý luận và thực tiễn của tư tưởng Hồ Chí Minh về vấn đề dân tộc và cách mạng giải
phóng dân tộc? ................................................................................................................................. 16
Câu 12. Nhận thức của Hồ Chí Minh về tính tất yếu của chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam? ................ 18
Câu 13. Quan niệm của Hồ Chí Minh về bản chất đặc trưng của chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam? ... 19
Câu 14. Quan niệm Hồ Chí Minh về mục tiêu và động lực của chủ nghĩa xã hội?.......................... 20
Câu 15. Quan niệm của Hồ Chí Minh về thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam? ........... 22
Câu 16. Quan điểm Hồ Chí Minh về nội dung xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta trong thời kỳ
quá độ? ............................................................................................................................................. 23
Câu 17. Quan điểm của Hồ Chí Minh về bước đi và các biện pháp xây dựng chủ nghĩa xã hội ở
nước ta?............................................................................................................................................ 24
Câu 18. Giá trị lý luận và thực tiễn của tư tưởng Hồ Chí Minh về chủ nghĩa xã hội và con đường
quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam?......................................................................................... 25
Câu 19. Cơ sở lý luận và thực tiễn hình thành tư tưởng Hồ Chí Minh về Đảng Cộng sản Việt Nam?
.......................................................................................................................................................... 26
Câu 20. Quan điểm của Hồ Chí Minh về sự ra đời và vai trò của Đảng Cộng sản Việt Nam? ......... 28
Câu 21. Quan niệm của Hồ Chí Minh về Đảng Cộng sản Việt Nam cầm quyền? ............................ 29
Câu 22. Quan niệm của Hồ Chí Minh về bản chất giai cấp công nhân và nền tảng tư tưởng của
Đảng Cộng sản Việt Nam? ............................................................................................................... 30
Câu 23. Quan điểm của Hồ Chí Minh về các nguyên tắc tổ chức, sinh hoạt đảng? ......................... 32
Câu 24. Quan điểm của Hồ Chí Minh về cán bộ và công tác cán bộ? .............................................. 33
Câu 25. Quan điểm Hồ Chí Minh xây dựng Đảng về chính trị, đạo đức? ........................................ 35
Câu 26. Giá trị lý luận và thực tiễn của tư tưởng Hồ Chí Minh về Đảng Cộng sản Việt Nam? ....... 36
Câu 27. Cơ sở hình thành tư tưởng Hồ Chí Minh về đại đoàn kết? ................................................. 37
Câu 28. Nội dung cơ bản của tư tưởng Hồ Chí Minh về đại đoàn kết dân tộc? ............................... 39
Câu 29. Nội dung cơ bản của tư tưởng Hồ Chí Minh về đoàn kết quốc tế? ..................................... 40
Câu 30. Giá trị lý luận và thực tiễn của tư tưởng Hồ Chí Minh về đại đoàn kết? ............................ 41
Câu 31. Cơ sở hình thành và quá trình phát triển tư duy lý luận của Hồ Chí Minh về vấn đề dân
chủ và nhà nước? ............................................................................................................................. 42
Câu 32. Quan niệm của Hồ Chí Minh về dân chủ?.......................................................................... 44
Câu 33. Quan điểm của Hồ Chí Minh về nội dung dân chủ trong các lĩnh vực đời sống xã hội? .... 45
Câu 34. Quan điểm của Hồ Chí Minh về phương pháp và các điều kiện bảo đảm thực hành dân chủ
ở nước ta?......................................................................................................................................... 46
Câu 35. Quan niệm của Hồ Chí Minh về Nhà nước của dân, do dân, vì dân? ................................. 47
Câu 36. Quan điểm Hồ Chí Minh về sự thống nhất bản chất giai cấp công nhân đối với tính nhân
dân, tính dân tộc của Nhà nước?...................................................................................................... 48
Câu 37. Quan niệm của Hồ Chí Minh về nhà nước pháp quyền? .................................................... 49
Câu 38. Quan điểm của Hồ Chí Minh về xây dưng bộ máy và đội ngũ cán bộ, công chức nhà nước?
.......................................................................................................................................................... 51
Câu 39. Giá trị lý luận và thực tiễn tư tưởng Hồ Chí Minh về dân chủ và nhà nước của dân, do dân,
vì dân? .............................................................................................................................................. 52
Câu 40. Tư tưởng Hồ Chí Minh về phát triển kinh tế, không ngừng nâng cao đời sống vật chất của
nhân dân?......................................................................................................................................... 53
Câu 41. Các cống hiến của Nhà văn hóa Hồ Chí Minh? ................................................................. 54
Câu 42. Khái niệm văn hóa của Hồ Chí Minh? ............................................................................... 54
Câu 43. Phân tích quan điểm của Hồ Chí Minh về tính chất của nền văn hóa mới? ....................... 55
Câu 44. Quan điểm của Hồ Chí Minh về chức năng của nền văn hóa mới?.................................... 57
Câu 45. Quan điểm của Hồ Chí Minh về một số lĩnh vực chính của văn hóa? ................................ 58
Câu 46. Đặc điểm và bản chất của tư tưởng Hồ Chí Minh về đạo đức?........................................... 60
Câu 47. Quan niệm của Hồ Chí Minh về vị trí, vai trò của đạo đức cách mạng?............................. 61
Câu 48. Quan điểm của Hồ Chí Minh về các phẩm chất đạo đức cách mạng cơ bản của con người
Việt Nam trong thời đại mới? ........................................................................................................... 62
Câu 49. Các nguyên tắc xây dựng đạo đức cách mạng theo tư tưởng Hồ Chí Minh? ...................... 64
Câu 50. Trình bày nội dung, phương pháp học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh?65
Câu 51. Quan niệm của Hồ Chí Minh về con người và chiến lược “trồng người? .......................... 67
Câu 52. Quan điểm của Hồ Chí Minh về nội dung xây dựng con người mới? ................................. 69
Câu 53. Quan điểm của Hồ Chí Minh về các phương pháp xây dựng con người mới? ................... 70
Câu 54. Giá trị lý luận và thực tiễn của tư tưởng Hồ Chí Minh về văn hóa, đạo đức và xây dựng con
người mới? ....................................................................................................................................... 72
Câu 55. Nội dung cơ bản của tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng thế hệ cách mạng cho đời sau? 73
Câu 56. Cơ sở hình thành tư tưởng Hồ Chí Minh về quân sự?........................................................ 75
Câu 57. Nội dung chủ yếu của tư tưởng Hồ Chí Minh về quân sự?................................................. 75
Câu 58. Các nhân tố tác động đến việc học tập, vận dụng, phát triển tư tưởng Hồ Chí Minh trong
điều kiện hiện nay?........................................................................................................................... 77
Câu 59. Nội dung cơ bản học tập, vận dụng, phát triển tư tưởng Hồ Chí Minh trong sự nghiệp đổi
mới ở nước ta?.................................................................................................................................. 78
Câu 1. Khái niệm và hệ thống tư tưởng Hồ Chí Minh?
Trả lời:
- Khái niệm tư tưởng Hồ Chí Minh
+ Theo nghĩa phổ thông nhất, tư tưởng là suy nghĩ, ý nghĩ. Thế nhưng trong cụm từ “tư tưởng Hồ Chí
Minh”, thuật ngữ “tư tưởng” có ý nghĩa ở tầm khái quát triết học. Nó được dùng với nghĩa là “học thuyết”, là
một hệ thống những quan điểm, quan niệm, luận điểm được xây dựng trên một nền tảng triết học nhất quán,
đại biểu cho ý chí, nguyện vọng của một giai cấp, một dân tộc, được hình thành trên cơ sở hiện thực, thực tiễn
nhất định và trở lại chỉ đạo hoạt động thực tiễn, cải tạo hiện thực.
+ Quá trình nhận thức của Đảng ta về tư tưởng Hồ Chí Minh đi từ thấp đến cao, từ những vấn đề cụ thể
đến hệ thống, từ cá nhân các đồng chí lãnh đạo chủ chốt của Đảng, Nhà nước đến nhận thức chung của toàn
Đảng. Điều này phản ánh quy luật: nhận thức là một quá trình, giai đoạn sau bao hàm và cao hơn giai đoạn
trước; giai đoạn trước làm tiền đề, cơ sở cho giai đoạn sau.
Có thể nói, Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII của Đảng (tháng 6 – 1991) đánh dấu một cột mốc
quan trọng trong nhận thức của Đảng ta về tư tưởng Hồ Chí Minh. Tại Đại hội này, Đảng đã khẳng định:
Đảng lấy chủ nghĩa Mác – Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho hành
động. Kể từ sau Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII của Đảng, đội ngũ các nhà giáo, các nhà khoa học đã
dày công nghiên cứu tư tưởng Hồ Chí Minh và đạt được những kết quả quan trọng. Những thành tựu nghiên
cứu theo cả chiều rộng và chiều sâu đã cung cấp luận cứ khoa học có sức thuyết phục để Đại hội đại biểu toàn
quốc lần thứ IX của Đảng (tháng 4 – 2001) xác định rõ, khá toàn diện và hệ thống những vấn đề cốt yếu thuộc
nội hàm khái niệm tư tưởng Hồ Chí Minh. Văn kiện Đại hội lần thứ IX của Đảng viết: “Tư tưởng Hồ Chí
Minh là một hệ thống quan điể toàn diện và sâu sắc về những vấn đề cơ bản của cách mạng Việt Nam, là kết
quả của sự vận dụng và phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác – Lênin vào điều kiện cụ thể của nước ta, kế thừa
và phát triển các giá trị truyền thống tốt đẹp của dân tộc, tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân loại. Đó là tư tưởng
về giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp, giải phóng con người; về độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa
xã hội, kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại; về quyền làm chủ của nhân dân, xây dựng Nhà nước
thật sự của dân, do dân, vì dân; về quốc phòng toàn dân, xây dựng lực lượng vũ trang nhân dân; về phát triển
kinh tế và văn hóa, không ngừng nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân; về đạo đức cách mạng
cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư; về chăm lo bồi dưỡng thế hệ cách mạng cho đời sau; về xây dựng Đảng
trong sạch, vững mạnh, cán bộ, đảng viên vừa là người lãnh đạo, vừa là người đầy tớ thật trung thành của
nhân dân…
Tư tưởng Hồ Chí Minh soi đường cho cuộc đấu tranh của nhân dân ta giành thắng lợi, là tài sản tinh
thần to lớn của Đảng và dân tộc ta”1.
Trong định nghĩa này, Đảng ta đã bước đầu làm rõ được:
Một là, bản chất cách mạng, khoa học của tư tưởng Hồ Chí Minh: Đó là hệ thống các quan điểm lý luận,
phản ánh những vấn đề có tính quy luật của cách mạng Việt Nam; tư tưởng Hồ Chí Minh xứng tầm một học
thuyết, hệ tư tưởng.
Hai là, nguồn gốc tư tưởng – lý luận của tư tưởng Hồ Chí Minh: Chủ nghĩa Mác – Lênin; giá trị văn hóa
dân tộc; tinh hoa văn hóa nhân loại.
Ba là, nội dung cơ bản nhất của tư tưởng Hồ Chí Minh bao gồm những vấn đề có liên quan trực tiếp đến
cách mạng Việt Nam.
Bốn là, giá trị, ý nghĩa, sức hấp dẫn, sức sống lâu bền của tư tưởng Hồ Chí Minh: Soi đường thắng lợi
cho cách mạng Việt Nam; tài sản tinh thần to lớn của Đảng và dân tộc.
- Hệ thống tư tưởng Hồ Chí Minh
+ Dù định nghĩa theo cách nào, tư tưởng Hồ Chí Minh đều được nhìn nhận với tư cách là một hệ thống
lý luận. Hiện nay, tồn tại hai phương thức tiếp cận hệ thống tư tưởng Hồ Chí Minh.

1
Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2001, tr.83 - 84

1
Thứ nhất, tư tưởng Hồ Chí Minh được nhận diện như một hệ thống tri thức tổng hợp, bao gồm tư tưởng
triết học; tư tưởng kinh tế; tư tưởng chính trị; tư tưởng quân sự; tư tưởng văn hóa, đạo đức và nhân văn.
Thứ hai, tư tưởng Hồ Chí Minh là hệ thống các quan điểm về cách mạng Việt Nam bao gồm: Tư tưởng
về vấn đề dân tộc và cách mạng giải phóng dân tộc; về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã
hội; về Đảng Cộng sản Việt Nam; về đại đoàn kết dân tộc; về dân chủ, Nhà nước của dân, do dân, vì dân; về
văn hóa, đạo đức, v.v…
Cuốn sách này vận dụng phương thức tiếp cận thứ hai để giới thiệu và nghiên cứu hệ thống tư tưởng Hồ
Chí Minh.
+ Là một hệ thống lý luận, tư tưởng Hồ Chí Minh có cấu trúc logic chặt chẽ và có hạt nhân cốt lõi, đó
là tư tưởng về độc lập dân tộc, dân chủ và chủ nghĩa xã hội; độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội
nhằm giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp và giải phóng con người.
Câu 2. Đối tượng và nhiệm vụ của môn học tư tưởng Hồ Chí Minh?
Trả lời:
- Đối tượng nghiên cứu
+ Để xác định đối tượng nghiên cứu của môn học phải căn cứ vào vai trò, chức năng của môn học; các
chỉ dân trực tiếp của Hồ Chí Minh khi Người xác định về nội dung các bài viết, bài nói, các tác phẩm; các
quan điểm có tính định hướng của Đảng về tư tưởng Hồ Chí Minh.
+ Đối tượng nghiên cứu tư tưởng Hồ Chí Minh bao gồm hệ thống quan điểm, quan niệm, lý luận về
cách mạng Việt Nam trong dòng chảy của thời đại mới mà cốt lõi là tư tưởng độc lập, tự do của dân tộc, dân
chủ và chủ nghĩa xã hội; về mối quan hệ biện chứng trong sự tác động qua lại của tư tưởng độc lập, tự do, dân
chủ, chủ nghĩa xã hội với tư tưởng giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp, giải phóng con người; về độc lập
dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội, về các quan điểm cơ bản trong hệ thống tư tưởng Hồ Chí Minh.
+ Đối tượng của môn học tư tưởng Hồ Chí minh không chỉ là bản thân hệ thống các quan điểm, lý luận
được thể hiện trong toàn bộ di sản Hồ Chí Minh mà còn là quá trình vận động, hiện thực hóa các quan điểm,
lý luận đó trong thực tiễn cách mạng Việt Nam. Đó là quá trình mang tính quy luật bao gồm hai mặt thống
nhất biện chứng: sản sinh tư tưởng và hiện thực hóa tư tưởng theo các mục tiêu dân chủ và nhân đạo.
- Nhiệm vụ nghiên cứu
Trên cơ sở đối tượng, bộ môn tư tưởng Hồ Chí Minh có nhiệm vụ đi sâu nghiên cứu làm rõ:
+ Cơ sở (khách quan và chủ quan) hình thành tư tưởng Hồ Chí Minh nhằm khẳng định sự ra đời của tư
tưởng Hồ Chí Minh là một tất yếu để giải đáp các vấn đề lịch sử dân tộc đặt ra.
+ Các giai đoạn hình thành, phát triển tư tưởng Hồ Chí Minh.
+ Nội dung, bản chất cách mạng, khoa học, đặc điểm của các quan điểm trong toàn bộ hệ thống tư tưởng
Hồ Chí Minh.
+ Nội dung, bản chất cách mạng, khoa học, đặc điểm của các quan điểm trong toàn bộ hệ thống tư tưởng
Hồ Chí Minh.
+ Vai trò nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam hành động của tư tưởng Hồ Chí Minh đối với cách mạng Việt
Nam.
+ Quá trình quán triệt, vận dụng, phát triển tư tưởng Hồ Chí Minh qua các giai đoạn cách mạng của
Đảng và Nhà nước ta.
+ Các giá trị tư tưởng lý luận của Hồ Chí Minh đối với kho tàng tư tưởng, lý luận cách mạng thế giới
của thời đại.
Câu 3. Các nguyên tắc có tính chất phương pháp luận và các phương pháp nghiên cứu của môn học
tư tưởng Hồ Chí Minh?
Trả lời:
- Các nguyên tắc có tính chất phương pháp luận

2
Nghiên cứu, giảng dạy, học tập môn Tư tưởng Hồ Chí Minh phải trên cơ sở thế giới quan, phương pháp
luận khoa học chủ nghĩa Mác – Lênin và bản thân các quan điểm có giá trị phương pháp luận của Hồ Chí
Minh. Trong đó, các nguyên lý triết học Mác – Lênin với tư cách là phương pháp luận chung của các ngành
khoa học cần phải được quán triệt thật sự, thấu đáo trong nghiên cứu bộ môn này. Dưới đây là một số nguyên
tắc phương pháp luận trong nghiên cứu tư tưởng Hồ Chí Minh.
+ Bảo đảm sự thống nhất nguyên tắc tính Đảng và tính khoa học
Nghiên cứu tư tưởng Hồ Chí Minh phải đứng trên lập trường, quan điểm, phương pháp luận chủ nghĩa
Mác – Lênin và quan điể, đường lối của Đảng Cộng sản Việt Nam; bảo đảm tính khách quan khi phân tích,
lý giải và đánh giá tư tưởng Hồ Chí Minh, tránh việc áp đặt, cường điệu hóa hoặc hiện đại hóa tư tưởng của
Người. Tính đảng và tính khoa học thống nhất với nhau trong sự phản ánh trung thực, khách quan tư tưởng
Hồ Chí Minh trên cơ sở lập trường, phương pháp luận và định hướng chính trị nghiên cứu đúng đắn.
+ Quan điểm thực tiễn và nguyên tắc lý luận gắn liền với thực tiễn.
Trong cuộc đời hoạt động cách mạng của mình, Hồ Chí Minh đều bám sát thực tiễn cách mạng dân tộc
và thế giới, coi trọng tổng kết thực tiễn, coi đây là biện pháp không chỉ nâng cao năng lực hoạt động thực tiễn,
mà còn là điều kiện để nâng cao trình độ lý luận. Đồng thời, Người cùng đặc biệt coi trọng việc kết hợp lý
luận với thực tiễn, lời nói đi đôi với việc làm. Hồ Chí Minh là người luôn xuất phát từ thực tiễn Việt Nam,
vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác – Lênin vào thực tiễn đất nước, đề ra được đường lối cách mạng đúng đắn,
lãnh đạo nhân dân ta vượt qua muôn vàn khó khăn, thử thách, giành được những thắng lợi vẻ vang.
+ Quan điểm lịch sử - cụ thể
Cùng với chủ nghĩa duy vật biện chứng, chúng ta cần vận dụng chủ nghĩa duy vật lịch sử vào việc nghiên
cứu, học tập tư tưởng Hồ Chí Minh. Trong nghiên cứu khoa học, theo V.I.Lênin, không được quên mối liên
hệ lịch sử căn bản, nghĩa là phải xem xét một hiện tượng nhất định đã xuất hiện trong lịch sử như thế nào,
hiện tượng đó đã trải qua những giai đoạn phát triển chủ yếu nào và đứng trên quan điểm của sự phát triển đó
để xem xét hiện nay nó đã trở thành như thế nào? Nắm vững quan điểm này giúp chúng ta hiểu được tư tưởng
Hồ Chí Minh mang đậm dấu ấn của quá trình phát triển lịch sử, quá trình phát triển sáng tạo, đổi mới.
+ Quan điểm toàn diện và hệ thống
Tư tưởng Hồ Chí Minh là một hệ thống quan điểm toàn diện và sâu sắc về cách mạng Việt Nam, có
quan hệ thống nhất biện chứng nội tại của nó. Một yêu cầu về lý luận khi nghiên cứu tư tưởng Hồ Chí Minh
trên bình diện tổng thể hay từng bộ phận là phải luôn luôn quán triệt mối liên hệ qua lại của các yếu tố, các
bộ phận khác nhau trong sự gắn kết tất yếu của hệ thống tư tưởng đó quanh hạt nhân cốt lõi là tư tưởng độc
lập, tự do, dân chủ và chủ nghĩa xã hội. Trong nghiên cứu tư tưởng Hồ Chí Minh, cần nắm vững và đầy đủ hệ
thống các quan điểm của Người trên tất cả các lĩnh vực. Nếu tách rời một yếu tố nào đó khỏi hệ thống sẽ hiểu
sai tư tưởng Hồ Chí Minh. Chẳng hạn, tách rời độc lập dân tộc với chủ nghĩa xã hội là xa rời tư tưởng Hồ Chí
Minh.
+ Quan điểm kế thừa và phát triển
Hồ Chí Minh là một mẫu mực về sự vận dụng và phát triển sáng tạo lý luận Mác – Lênin vào điều kiện
cụ thể của Việt Nam. Người đã bổ sung, phát triển chủ nghĩa Mác – Lênin trên nhiều lĩnh vực quan trọng và
hình thành nên một hệ thống các quan điểm lý luận mới hết sức sáng tạo. Nghiên cứu, học tập tư tưởng Hồ
Chí Minh đòi hỏi không chỉ biết kế thừa, vận dụng mà còn phải biết phát triển sáng tạo tư tưởng của Người
trong điều kiện lịch sử mới, trong bối cảnh cụ thể của đất nước và quốc tế.
+ Kết hợp nghiên cứu các tác phẩm với thực tiễn chỉ đạo cách mạng của Hồ Chí Minh
Hồ Chí Minh là một nhà lý luận – thực tiễn. Người xây dựng lý luận, vạch cương lĩnh, đường lối, chủ
trương cách mạng và trực tiếp tổ chức. lãnh đạo thực hiện. Từ thực tiễn, Người tổng kết, bổ sung để hoàn
chỉnh và phát triển lý luận, cho nên tư tưởng Hồ Chí Minh mang tính cách mạng, luôn luôn sáng tạo, không
lạc hậu, giáo điều. Nghiên cứu tư tưởng Hồ Chí Minh không chỉ căn cứ vào các tác phẩm mà cần coi trọng
hoạt động thực tiễn của Người, thực tiễn cách mạng dưới sự tổ chức và lãnh đạo của Đảng do Người đứng
đầu. Hành động thực tiễn, chủ nghĩa anh hùng cách mạng trong chiến đấu và xây dựng của nhân dân Việt

3
Nam theo tư tưởng Hồ Chí Minh cũng chính là lời giải thích rõ ràng giá trị khoa học của tư tưởng Hồ Chí
Minh.
+ Các phương pháp cụ thể
+ Giữa phương pháp nghiên cứu và nội dung nghiên cứu có mối liên hệ biện chứng và chi phối lẫn nhau;
phương pháp phải trên cơ sở vận động của bản thân nội dung; nội dung nào phương pháp đấy. Vì vậy, ngoài
các nguyên tắc phương pháp luận chung, với một nội dung cụ thể cần phải vận dụng một phương pháp nghiên
cứu cụ thể phù hợp. Trong đó, việc vận dụng phương pháp lịch sử và phương pháp logic là hết sức cần thiết
trong nghiên cứu, giảng dạy, học tập tư tưởng Hồ Chí Minh.
+ Vận dụng phương pháp liên ngành trong nghiên cứu tư tưởng Hồ Chí Minh. Trên bình diện nhà tư
tưởng, Hồ Chí Minh đã thể hiện tư tưởng của mình như một hệ thống, bao quát nhiều lĩnh vực: Tư tưởng triết
học, tư tưởng kinh tế, tư tưởng chính trị, tư tưởng quân sự, tư tưởng văn hóa – đạo đức… trong mỗi lĩnh vực
lại có thể tìm thấy những hệ thống nhỏ. Vì thế, cần thiết phải áp dụng các phương pháp liên ngành khoa học
xã hội – nhân văn, lý luận chính trị để nghiên cứu toàn bộ hệ thống tư tưởng Hồ Chí Minh cũng như mỗi tác
phẩm lý luận riêng biệt của Người.
+ Để việc nghiên cứu tư tưởng Hồ Chí Minh đạt được trình độ khoa học ngày một cao hơn, cần phải đổi
mới và hiện đại hóa các phương pháp nghiên cứu cụ thể trên cơ sở không ngừng phát triển và hoàn thiện về
lý luận và phương pháp luận khoa học nói chung. Trong nghiên cứu hệ thống tư tưởng Hồ Chí Minh hiện nay,
các phương pháp cụ thể thường được áp dụng có hiệu quả là: phân tích, tổng hợp, so sánh, đối chiếu, thống
kê trắc lượng, văn bản học, điều tra điền dã, phỏng vấn nhân chứng lịch sử, v.v… Mỗi phương pháp này khi
vận dụng vào nghiên cứu tư tưởng Hồ Chí Minh có những đặc điểm và đặt ra các yêu cầu khác nhau. Việc
vận dụng các phương pháp và kết hợp các phương pháp cụ thể phải căn cứ vào nội dung nghiên cứu.
Câu 4. Ý nghĩa của việc học tập môn học tư tưởng Hồ Chí Minh đối với sinh viên?
Trả lời:
Đối với sinh viên, đội ngũ trí thức tương lai của nước nhà, việc học tập tư tưởng Hồ Chí Minh có ý nghĩa
đặc biệt quan trọng, nhất là trong thời kỳ đẩy mạng công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, gắn liền với phát
triển kinh tế tri thức, hội nhập vào đời sống toàn cầu.
- Nâng cao năng lực tư duy lý luận và phương pháp công tác
Tư tưởng Hồ Chí Minh soi đường cho Đảng và nhân dân Việt Nam trên con đường thực hiện mục tiêu:
dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh. Thông qua việc làm rõ và truyền thụ nội dung hệ
thống quan điểm lý luận của Hồ Chí Minh về những vấn đề cơ bản của cách mạng Việt Nam, làm cho sinh
viên nâng cao nhận thức về vai trò, vị trí của tư tưởng Hồ Chí Minh đối với đời sống cách mạng Việt Nam;
làm cho tư tưởng của Người ngày càng giữ vai trò chủ đạo trong đời sống tinh thần của thế hệ trẻ nước ta.
Thông qua học tập, nghiên cứu tư tưởng Hồ Chí Minh để bồi dưỡng, củng cố cho sinh viên, thanh niên
lập trường, quan điểm cách mạng trên nền tảng chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh; kiên định mục
tiêu độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội; tích cực, chủ động đấu ranh phê phán những quan điểm sai
trái, bảo vệ chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng, Nhà
nước ta; biết vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh vào giải quyết các vấn đề đặt ra trong cuộc sống.
- Bồi dưỡng phẩm chất đạo đức, rèn luyện bản lĩnh chính trị. Học tập tư tưởng Hồ Chí Minh góp phần
giáo dục đạo đức, tư cách, phẩm chất cách mạng, biết sống ở đời và làm người hợp đạo lý, yêu cái tốt, cái
thiện, ghét cái ác, cái xấu; nâng cao lòng tự hào về Người, về Đảng Cộng sản Việt Nam, tự nguyện “sống,
chiến đấu, lao động, học tập theo gương Bác Hồ vĩ đại”.
Trên cơ sở kiến thức đã được học, sinh viên vận dụng vào cuộc sống, tu dưỡng, rèn luyện bản thân, hoàn
thành tốt chức trách của mình, đóng góp thiết thực và hiệu quả cho sự nghiệp cách mạng, con đường cách
mạng mà Hồ Chí Minh và Đảng ta đã lựa chọn. Đối với sinh viên, giáo dục tư tưởng, văn hóa, đạo đức Hồ
Chí Minh là giáo dục lý luận sống, đạo làm người, hoàn thiện nhân cách cá nhân, trang bị cho họ trí tuệ và
phương pháp tư duy biện chứng để họ trở thành những chiến sĩ đi tiên phong trong sự nghiệp bảo vệ, xây
dựng một nước Việt Nam đàng hoàng hơn, to đẹp hơn như mong muốn và khát vọng của Hồ Chí Minh.

4
Câu 5. Hoàn cảnh lịch sử ra đời tư tưởng Hồ Chí Minh?
Trả lời:
- Bối cảnh lịch sử Việt Nam cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX
Hồ Chí Minh sinh ra và lớn lên trong hoàn cảnh đất nước và thế giới có nhiều biến động.
Trong nước, chính quyền triều Nguyễn đã từng bước khuất phục trước cuộc xâm lược của tư bản Pháp,
biểu hiện cụ thể bằng việc lần lượt ký kết các hiệp ước đầu hàng, thừa nhận nền bảo hộ của thực Pháp trên
toàn cõi Việt Nam.
Cho đến cuối thế kỉ XIX các cuộc khởi nghĩa vũ trang dưới khẩu hiệu “Cần vương” do các sĩ phu, văn
thân lãnh đạo cuối cùng cũng thất bại. Hệ tư tưởng phong kiến đã tỏ ra lỗi thời trước các nhiệm vụ lịch sử.
Các cuộc khai thác của thực dân Pháp cũng khiến cho xã hội nước ta có sự biến chuyển và phân hóa,
tầng lớp tiẻu tư sản và tư sản bắt đầu xuất hiện, tạo ra những tiền đề bên trong cho phong trào yêu nước – giải
phóng dân tộc Việt Nam đầu thế kỉ XX.
Cùng vào thời điểm lịch sử đó, các “tân thử”, “tân văn”, “tân báo” và những ảnh hưởng của trào lưu cải
cách ở Nhật Bản, Trung Quốc tràn vào Việt Nam, phong trào yêu nước của nhân dân ta chuyển dần sang xu
hướng dân chủ tư sản.
Phát huy truyền thống yêu nước của dân tộc, các sĩ phu nho học có tư tưởng tiến bộ, thức thời, tiêu biểu
như Phan Bội Châu, Phan Chu Trinh đã cố gắng tổ chức và vận động cuộc đấu tranh yêu nước chống Pháp
theo mục tiêu và phương pháp mới. Song, chủ trương cầu ngoại viện, dùng bạo lực để khôi phục độc lập của
Phan Bội Châu đã thất bải. Chủ trương “ỷ Pháp cầu tiến bộ”, khai thông dân trí, nâng cao dân khí trên cơ sở
đó mà lần lần tính chuyện giải phóng… của Phan Chu Trinh cũng không thành công. Còn con đường khởi
nghĩa của anh hùng Hoàng Hoa Thám thì vẫn mang nặng “cốt cách phong kiến”, chưa phải là lối thoát rõ ràng,
hướng đi đúng đắn. Phong trào cứu nước của nhân dân ta muốn giành được thắng lợi, phải đi theo một con
đường mới.
- Bối cảnh quốc tế
Khi con thuyền Việt Nam còn lênh đênh chưa rõ bờ bến phải đi tới thì lịch sử thế giới trong giai đoạn
này cũng đang có những chuyển biến to lớn.
Chủ nghĩa tư bản từ giai đoạn cạnh tranh tự do chuyển sang giai đoạn độc quyền, đã xác lập quyền thống
trị của chúng trên phạm vi toàn thế giới. Chủ nghĩa đế quốc đã trở thành kẻ thù chung của các dân tộc thuộc
địa.
Có một thực tế lịch sử là, trong quá trình xâm lược và thống trị của chủ nghĩa thực dân, tại các nước
nhược tiểu ở châu Á, châu Phi và khu vực Mĩ – Latinh, sự bóc lột phong kiến trước kia vẫn được duy trì, và
bao trùm lên nó là sự bóc lột tư bản chủ nghĩa. Bên cạnh các giai cấp cơ bản trước kia, đã xuất hiện thêm các
giai cấp, tầng lớp xã hội mới.
Từ cuộc đấu tranh sôi nổi của công nhân các nước tư bản cuối thế kỷ XIX và nhất là “sự thức tỉnh châu
Á” đầu thế kỷ XX đã dẫn đến một cao trào mới của cách mạng thế giới với đỉnh cao là Cách mạng Thánh
Mười Nga năm 1917.
Cách mạng Tháng Mười Nga đã lật đổ nhà nước tư sản, thiết lập Chính quyền Xôviết, mở ra một thời
kỳ mới trong lịch sử loài người. Với thắng lợi của Cách mạng Tháng Mười, nhiều dân tộc vốn là thuộc địa
của đế quốc Nga đã được tự do, được hưởng quyền dân tộc tự quyết, được hình thành nên các quốc gia độc
lập và dẫn đến sự ra đời của Liên bang Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Xô viết (1922).
Từ sau Cách mạng Tháng Mười Nga, với sự ra đời của Quốc tế Cộng sản (3 – 1919), phong trào công
nhân trong các nước tư bản phương Tây và phong trào giải phóng dân tộc ở các nước thuộc địa phương Đông
càng có quan hệ mật thiết với nhau trong cuộc đấu tranh chống kẻ thù chung là chủ nghĩa đế quốc.
Ở Hồ Chí Minh cũng như ở nhiều anh hùng, danh nhân khác của dân tộc ta, sự kết hợp hài hòa giữa
những điều kiện khách quan và chủ quan chính là nhân tố có ý nghĩa quyết định dẫn tới hành động cách mạng
và giành thắng lợi.

5
Câu 6. Nguồn gốc hình thành tư tưởng Hồ Chí Minh?
Trả lời:
- Giá trị truyền thống dân tộc Việt Nam
Lịch sử dựng nước và giữ nước lâu đời đã hình thành nên những giá trị truyền thống hết sức đặc sắc và
cao quý của dân tộc Việt Nam, trở thành tiền đề tư tưởng – lý luận xuất phát hình thành tư tưởng Hồ Chí
Minh. Đó là truyền thống yêu nước, kiên cường bất khuất, là tinh thần tương thân tương ái, lòng nhân nghĩa,
ý thức cố kết cộng đồng, là ý chí vươn lên vượt qua mọi khó khăn thử thách, là trí thông minh, tài sáng tạo,
quý trọng hiền tài, khiêm tốn tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân loại để làm giàu cho văn hóa dân tộc…
Trong những giá trị đó, chủ nghĩa yêu nước truyền thống là tư tưởng, tình cảm cao quý, thiêng liêng
nhất, là cội nguồn của trí tuệ sáng tạo và lòng dũng cảm của người Việt Nam, cũng là chuẩn mực đạo đức cơ
bản của dân tộc.
Chính sức mạnh của chủ nghĩa yêu nước đã thúc giục Nguyễn Tất Thành quyết chí ra đi tìm đường cứu
nước, tìm sức sống cho cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc.
Chủ nghĩa yêu nước sẽ biến thành lực lượng vật chất thực sự khi nó ăn sâu vào tiềm thức, vào ý chí và
hành động của mỗi con người.
- Tinh hoa văn hóa nhân loại
Kết hợp các giá trị truyền thống của văn hóa phương Đông với các thành tựu hiện đại của văn minh
phương Tây – đó chính là nét đặc sắc trong quá trình hình thành nhân cách và văn hóa Hồ Chí Minh.
Đối với văn hóa phương Đông, cùng với những hiểu biết uyên bác về Hán học, Người biết chắt lọc
những gì tinh túy nhất trong các học thuyết triết học, hoặc trong tư tưởng như Lão Tử, Mặc Tử, Quản Tử…
Người tiếp thu những mặt tích cực của Nho giáo. Đó là các triết lý hành động, tư tưởng nhập thế, hành đạo,
giúp đời, đó là ước vọng về một xã hội bình trị, hòa mục, hòa đồng, là triết lý nhân sinh; tu thân dưỡng tính;
đề cao văn hóa lễ giáo, tạo ra truyền thống hiếu học.
Về Phật giáo, Hồ Chí Minh tiếp thu và chịu ảnh hưởng sâu sắc các tư tưởng vị tha, từ bi, bác ái, cứu khổ
cứu nạn, thương người như thể thương thân…; là nếp sống có đạo đức, trong sạch, giản dị, chống phân biệt
đẳng cấp; là việc đề cao lao động, chống lười biếng; là chủ trương sống không xa lánh việc đời mà gắn bó với
dân, với nước.
Đến khi đã trở thành người mácxít, Người lại tiếp tục tìm hiểu chủ nghĩa Tam dân của Tôn Trung Sơn,
nhằm tìm trong đó “những điều thích hợp với điều kiện của nước ta”.
Cùng với những tư tưởng triết học phương Đông, Hồ Chí Minh còn nghiên cứu tiếp thu ảnh hưởng của
nền văn hóa dân chủ và cách mạng phương Tây. Người sớm làm quen với văn hóa Pháp, tìm hiểu các cuộc
cách mạng ở Pháp và ở Mỹ. Người trực tiếp đọc và tiếp thu các tư tưởng về tự do, bình đẳng qua các tác phẩm
của các nhà khai sáng như Vonte (Voltaire), Rútxô (Rousso), Môngtétxkiơ (Montésquieu). Người tiếp thu các
giá trị của bản Tuyên ngôn nhân quyền và dân quyền năm 1791 của Đại cách mạng Pháp, các giá trị về quyền
sống, quyền tự do, quyền mưu cầu hạnh phúc của Tuyên ngôn độc lập ở Mỹ năm 1776.
- Chủ nghĩa Mác – Lênin
Chủ nghĩa Mác – Lênin là cơ sở thế giới quan và phương pháp luận của tư tưởng Hồ Chí Minh.
Việc tiếp thu chủ nghĩa Mác – Lênin ở Hồ Chí Minh diễn ra trên nền tảng của những tri thức văn hóa
tinh túy được chắt lọc, hấp thụ và một vốn chính trị, vốn hiểu biết phong phú, được tích lũy qua thực tiễn hoạt
động đấu tranh vì mục tiếp cứu nước và giải phóng dân tộc.
Bản lĩnh trí tuệ đó đã nâng cao khả năng đọc lập tự chủ và sáng tạo ở Người khi vận dụng những nguyên
lý cách mạng của thời đại vào hoàn cảnh điều kiện cụ thể của Việt Nam.
Thực tiễn trong gần 10 năm đi tìm đường cứu nước, nhất là sau khi đọc Sơ thảo lần thứ nhất những luận
cương về vấn đề dân tộc và vấn đề thuộc địa của V.I.Lênin (1920) Nguyễn Ái Quốc đã “cảm động, phấn khởi,
vui mừng đến phát khóc…” vì đã tìm thấy con đường giải phóng dân tộc. Như vậy, chính Luận cương của
Lênin đã nâng cao nhận thức của Hồ Chí Minh về con đường giải phóng. Nó phù hợp và đáp ứng những tình
cảm, suy nghĩ, hoài bão được ấp ủ từ lâu, nay đang trở thành hiện thực.

6
Hồ Chí Minh đã học học thuyết Mác – Lênin một cách có chọn lọc, không rập khuôn máy móc, không
sao chép giáo điều. Người tiếp thu lý luận Mác – Lênin theo phương pháp mácxít, nắm lấy cái tinh thần, cái
bản chất. Người vận dụng lập trường, quan điểm, phương pháp biện chứng của chủ nghĩa Mác – Lênin để giải
quyết những vấn đề thực tiễn của cách mạng Việt Nam, chứ không đi tìm những kết luận có sẵn trong sách
vở.
Thế giới quan và phương pháp luận Mác – Lênin đã giúp Hồ Chí Minh tổng kết kiến thức và kinh
nghiệm thực tiễn để tìm ra con đường cứu nước.
- Nhân tố chủ quan:
+ Khả năng tư duy và trí tuệ Hồ Chí Minh.
Những năm tháng hoạt động trong nước và bôn ba khắp thế giới để học tập, nghiên cứu, Hồ Chí Minh
đã không ngừng quan sát, nhận xét thực tiễn, làm phong phú thêm sự hiểu biết của mình, đồng thời hình thành
những cơ sở quan trọng để tạo dựng nên những thành công trong lĩnh vực hoạt động lý luận của Người về
sau.
Trong quá trình tìm đường cứu nước, Hồ Chí Minh khám phá các quy luật vận động xã hội, đời sống
văn hóa và cuộc đấu tranh của các dân tộc trong hoàn cảnh cụ thể để khái quát thành lý luận, đem lý luận chỉ
đạo hoạt động thực tiễn và được kiểm nghiệm trong thực tiễn. Nhờ vào con đường nhận thức chân lý như vậy
mà lý luận của Hồ Chí Minh mang giá trị khách quan, cách mạng và khoa học.
+ Phẩm chất đạo đức và năng lực hoạt động thực tiễn.
Mục tiêu đấu tranh giải phóng dân tộc, sự tác động mạnh mẽ của thời đại và sự nhận thức đúng đắn về
thời đại đã tạo điều kiện để Hồ Chí Minh hoạt động có hiệu quả cho dân tộc và nhân loại.
Có được điều đó là nhờ vào nhân cách, phẩm chất và tài năng trí tuệ siêu việt của Hồ Chí Minh. Phẩm
chất, tài năng đó được biểu hiện trước hết là ở tư duy độc lập, tự chủ, sáng tạo, cộng với đầu óc phê phán tinh
tường, sáng suốt trong việc nhận xét, đánh giá các sự vật, sự việc xung quanh; là ở bản lĩnh kiên định, luôn
tin vào nhân dân; khiêm tốn, bình dị, ham học hỏi; nhạy bén với cái mới, có phương pháp biện chứng; có đầu
óc thực tiễn.
Phẩm chất cá nhân Hồ Chí Minh còn biểu hiện ở sự khổ công học tập để chiếm lĩnh đỉnh cao tri thức
nhân loại, là tâm hồn của một nhà yêu nước chân chính, một chiến sĩ cộng sản nhiệt thành cách mạng, một
trái tim yêu nước, thương dân, sẵn sàng chịu đựng hy sinh vì độc lập, tự do của Tổ quốc, hạnh phúc của đồng
bào.
Câu 7. Quá trình hình thành và phát triển tư tưởng Hồ Chí Minh?
Trả lời:
- Thời kỳ hình thành tư tưởng yêu nước và chí hướng cứu nước (trước năm 1911)
Hồ Chí Minh sinh ngày 19/5/1890 trong một gia đình nhà nho yêu nước, gần gũi với nhân dân. Cụ Phó
bảng Nguyễn Sinh Sắc, thân sinh của Người là một nhà nho cấp tiến, có lòng yêu nước, thương dân sâu sắc.
Tấm gương lao động cần cù, ý chí kiên cường vượt qua gian khổ để đạt được mục tiêu, đặc biệt là tư tưởng
thân dân, lấy dân làm hậu thuẫn cho các cuộc cải cách chính trị - xã hội của cụ Phó bảng đã có ảnh hưởng sâu
sắc đối với quá trình hình thành nhân cách của Nguyễn Tất Thành.
Cuộc sống của người mẹ - bà Hoàng Thị Lan – cũng ảnh hưởng đến tư tưởng, tình cảm của Nguyễn
Sinh Cung về đức tính nhân hậu, đảm đang, sống chan hòa với mọi người.
Còn phải kể tới mối quan hệ và tác động qua lại giữa ba chị em Nguyễn Thị Thanh (Nguyễn Thị Bạch
Liên), Nguyễn Sinh Khiêm (Nguyễn Tất Đạt) và Nguyễn Sinh Cung (Nguyễn Tất Thành) về lòng yêu nước,
thương nòi.
Nghệ Tĩnh là vùng đất vừa giàu truyền thống văn hóa, vừa giàu truyền thống lao động, đấu tranh chống
ngoại xâm… Nơi sản sinh ra biết bao anh hùng nổi tiếng trong lịch sử Việt Nam.
Từ thuở thiếu thời, Nguyễn Tất Thành đã tận mắt chứng kiến cuộc sống nghèo khổ, bị áp bức bóc lột
đến cùng cực của đồng bào mình ngay trên quê hương. Khi vào Huế, Anh lại tận mắt nhìn thấy tội ác của thực
dân Pháp và thái độ ươn hèn của bọn phong kiến Nam triều. Thêm vào đó là những bài học thất bại của các

7
nhà yêu nước tiền bối và đương thời… Tất cả đã thôi thúc Anh ra đi tìm một con đườn mới để cứu dân, cứu
nước.
Phát huy truyền thống yêu nước bất khuất của dân tộc, truyền thống tốt đẹp của gia đình, quê hương,
với sự nhạy cảm đặc biệt về chính trị, Hồ Chí Minh đã sớm nhận ra hạn chế của những người đi trước, tìm
cho mình một hướng đi mới.
- Thời kỳ xác định con đường cứu nước, giải phóng dân tộc (1911 – 1920)
Mùa hè năm 1911, Nguyễn Tất Thành rời Tổ quốc sang phương Tây tìm đường cứu nước. Đó là việc
làm mới mẻ, chưa có tiền lệ, khác với hướng đi truyền thống sang phương Đông của các bậc tiền bối.
Qua cuộc hành trình đến nhiều nước thuộc địa, phụ thuộc, tư bản, đế quốc, Người đã xúc động trước
cảnh khổ cực, bị áp bức của những người dân lao động. Người nhận thấy, ở đâu nhân dân cũng mong muốn
được thoát khỏi ách áp bức, bóc lột. Ở Người, đã nảy sinh ý thức về sự cần thiết phải đoàn kết những người
bị áp bức để đấu tranh cho nguyện vọng và quyền lợi chung.
Với lòng yêu nước nồng nàn, Hồ Chí Minh kiên trì chịu đựng mọi khó khăn, gian khổ. Người chú ý xem
xét tình hình các nước, suy nghĩ về những điều mắt thấy tai nghe, hăng hái học tập và tham gia các cuộc diễn
thuyết của nhiều nhà chính trị và triết học. Năm 1919, thay mặt những người Việt Nam yêu nước tại Pháp,
Nguyễn Ái Quốc gửi Bản yêu sách của nhân dân An Nam tới Hội nghị Vécxây, đòi Chính phủ Pháp thừa
nhận các quyền tự do, dân chủ và bình đẳng của nhân dân Việt Nam.
Cuộc hành trình qua năm châu bốn biển đã không chỉ hình thành ở Hồ Chí Minh tình cảm và ý thức
đoàn kết giữa các dân tộc bị áp bức, mà còn rèn luyện Người trở thành một công nhân có đầy đủ phẩm chất,
tư tưởng, tâm lý của giai cấp vô sản. Thực tiễn trong gần 10 năm đi tìm đường cứu nước, nhất là khi đọc Sơ
thảo lần thứ nhất những luận cương về vấn đề dân tộc và vấn đề thuộc địa của Lênin đã làm cho Người “cảm
động, phấn khởi, sáng tỏ, tin tưởng… vui mừng đến phát khóc…”.
Luận cương của Lênin đã giải đáp cho Nguyễn Ái Quốc con đường giành độc lập cho dân tộc và tự do
cho đồng bào, nó đáp ứng những tình cảm, suy nghĩ, hoài bão được ấp ủ bấy lâu nay ở Người.
Việc biểu quyết tán thành Đệ tam Quốc tế (Quốc tế III), tham gia thành lập Đảng Cộng sản Pháp (12 –
1920), trở thành người cộng sản Việt Nam đầu tiên, đã đánh dấu bước chuyển biến về chất trong tư tưởng
Nguyễn Ái Quốc, từ chủ nghĩa yêu nước đến với chủ nghĩa Lênin, từ giác ngộ dân tộc đến giác ngộ giai cấp,
từ người yêu nước trở thành người cộng sản.
- Thời kỳ hình thành cơ bản tư tưởng về cách mạng Việt Nam (1921 – 1930)
Trong giai đoạn từ năm 1921 đến năm 1930, Nguyễn Ái Quốc có những hoạt động thực tiễn và hoạt
động lý luận hết sức phong phú, sôi nổi trên địa bàn nước Pháp (1921 – 1923), Liên Xô (1923 – 1924), Trung
Quốc (1924 – 1927), Thái Lan (1928 – 1929). Trong khoảng thời gian này, tư tưởng Hồ Chí Minh về cách
mạng Việt Nam đã hình thành về cơ bản.
Những tác phẩm của Người thời kỳ này có tính chất lý luận chứa đựng những nội dung căn bản sau đây:
+ Bản chất của chủ nghĩa thực dân là “ăn cướp” và “giết người”. Vì vậy, chủ nghĩa thực dân là kẻ thù
chung của các dân tộc thuộc địa, của giai cấp công nhân và nhân dân lao động toàn thế giới.
+ Cách mạng giải phóng dân tộc trong thời đại mới phải đi theo con đường cách mạng vô sản và là một
bộ phận của cách mạng vô sản thế giới. Giải phóng dân tộc phải gắn liền với giải phóng nhân dân lao động,
giải phóng giai cấp công nhân.
+ Cách mạng giải phóng dân tộc ở thuộc địa và cách mạng vô sản ở chính quốc có mối quan hệ khăng
khít với nhau, nhưng không phụ thuộc vào nhau. Cách mạng giải phóng dân tộc có thể bùng nổ và giành thắng
lợi trước cách mạng vô sản chính quốc.
+ Cách mạng thuộc địa trước hết là một cuộc “dân tộc cách mệnh”, đánh đuổi bọn ngoại xâm, giành độc
lập, tự do.
+ Ở một nước nông nghiệp lạc hậu, nông dân là lực lượng đông đảo nhất trong xã hội, bị đế quốc, phong
kiến bóc lột nặng nề. Vì vậy, cách mạng giải phóng dân tộc muốn giành được thắng lợi cần phải thu phục, lôi

8
cuốn được nông dân đi theo, cần xây dựng khối công nông liên minh làm động lực cho cách mạng. Đồng thời,
cần phải thu hút, tập hợp rộng rãi các giai cấp xã hội khác vào trận tuyến đấu tranh chung của dân tộc.
+ Cách mạng muốn thành công trước hết cần phải có Đảng lãnh đạo. Đảng phải theo chủ nghĩa Mác –
Lênin và phải có một đội ngũ cán bộ sẵn sàng hy sinh chiến đấu vì lý tưởng của Đảng, vì lợi ích và sự tồn
vong của dân tộc, vì lý tưởng giải phóng giai cấp công nhân và nhân loại.
+ Cách mạng là sự nghiệp của quần chúng nhân dân chứ không phải việc của một vài người. Vì vậy,
cần phải tập hợp, giác ngộ và từng bước tổ chức quần chúng đấu tranh từ thấp lên cao. Đây là quan điểm cơ
bản đầu tiên của Nguyễn Ái Quốc về nghệ thuật vận động quần chúng và tiến hành đấu tranh cách mạng.
- Thời kỳ vượt qua thử thách, kiên trì con đường đã xác định, tiến tới giành thắng lợi đầu tiên cho cách
mạng Việt Nam (1930 – 1945)
Vào cuối những năm 20, đầu những năm 30 của thế kỷ XX, Quốc tế Cộng sản bị chi phối nặng bởi
khuynh hướng “tả”. Khuynh hướng này đã trực tiếp tác động vào phong trào cách mạng Việt Nam. Trên cơ
sở xác định chính xác con đường cần phải đi của cách mạng Việt Nam. Nguyễn Ái Quốc đã kiên trì bảo vệ
quan điểm của mình về vấn đề dân tộc và vấn đề giai cấp, về cách mạng giải phóng dân tộc thuộc địa và cách
mạng vô sản, chống lại những biểu hiện “tả” khuynh và biệt phái trong Đảng.
Sự chuyển hướng đấu tranh của Quốc tế Cộng sản đã chứng tỏ quan điểm của Nguyễn Ái Quốc về cách
mạng Việt Nam, về Mặt trận dân tộc thống nhất, về việc tập trung mũi nhọn vào chống chủ nghĩa đế quốc là
hoàn toàn đúng đắn. Trên quan điểm đó, năm 1936, Đảng ta đã đề ra chính sách mới, phê phán những biểu
hiện "tả” khuynh, cô độc, biệt phái trước đây.
Như vậy là sau quá trình thực hành cách mạng, cọ xát với thực tiễn, vấn đề phân hóa kẻ thù, tranh thủ
bạn đồng minh… đã trở lại với Chánh cương, Sách lược vắn tắt của Nguyễn Ái Quốc. Đó cũng là cơ sở để
Đảng ta chuyển hướng đấu tranh trong thời kì 1936 – 1939, thành lập Mặt trận nhân dân phản đế Đông Dương.
Trước khi về nước (28/01/1941), trong thời gian còn hoạt động ở nước ngoài, lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc
vẫn luôn luôn theo dõi tình hình trong nước, kịp thời có những chỉ đạo để cách mạng Việt Nam tiếp tục tiến
lên.
Được Quốc tế Cộng sản chấp thuận, Nguyễn Ái Quốc từ Mátxcơva về Trung Quốc (tháng 10 – 1938).
Tại đây, Người đã có những chỉ đạo sát hợp gửi cho các đồng chí lãnh đạo trong nước. Ngày 28/01/1941, sau
30 năm hoạt động ở nước ngoià, Nguyễn Ái Quốc trở về Tổ quốc. Tại Hội nghị Trung ương lần thứ tám (từ
ngày 10 đến 19/5/1941) họp tại Pác Bó (Cao Bằng) dưới sự chủ trì của Nguyễn Ái Quốc, Ban Chấp hành
Trung ương Đảng Cộng sản Đông Dương đã hoàn chỉnh việc chuyển hướng chiến lược của cách mạng Việt
Nam.
Hội nghị Trung ương lần thứ tám là Hội nghị đánh dấu bước chuyến hướng chiến lược đúng đắn, sáng
tạo theo tư tưởng Hồ Chí Minh. Những tư tưởng và đường lối được đưa ra và thông qua trong hội nghị này
có ý nghĩa quyết định chiều hướng phát triển của cách mạng giải phóng dân tộc ở nước ta, dẫn đến thắng lợi
của Cách mạng tháng Tám năm 1945.
Trong bản Tuyên ngôn độc lập ngày 02/9/1945, khai sinh nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, Hồ Chí
Minh đã nhấn mạnh các quyền cơ bản của các dân tộc trên thế giới, trong đó có Việt Nam. Tuyên ngôn độc
lập là một văn kiện lịch sử có giá trị to lớn, trong đó độc lập, tự do gắn với phương hướng phát triển lên chủ
nghĩa xã hội là tư tưởng chính trị cốt lõi, vốn đã được Hồ Chí Minh phác thảo lần đầu trong Cương lĩnh của
Đảng năm 1930, nay trở thành hiện thực cách mạng, đồng thời trở thành chân lý của sự nghiệp đấu tranh giải
phóng dân tộc, xây dựng xã hội mới của dân tộc ta.
Thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám năm 1945 với sự ra đời của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa là
thắng lợi của chủ nghĩa Mác – Lênin được vận dụng, phát triển ngày càng sát đúng với hoàn cảnh Việt Nam,
là thắng lợi của tư tưởng: độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội của Hồ Chí Minh.
- Thời kỳ tiếp tục bổ sung, phát triển, hoàn thiện tư tưởng về độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội (1945
– 1969)

9
Mới giành được chính quyền chưa được bao lâu, thực dân Pháp đã lăm le quay lại xâm lược nước ta.
Ngày 23/9/1945, chúng núp sau quân đội Anh gây hấn ở Nam Bộ. Ở miền Bắc, hơn 20 vạn quân Tưởng kéo
vào hòng thực hiện âm mưu tiêu diệt Đảng ta, bóp chết nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa non trẻ. Đứng
trước tình thế “ngàn cân treo sợi tóc” của dân tộc, Hồ Chí Minh đã chèo lái con thuyền cách mạng Việt Nam
vượt qua thác ghềnh hiểm trở, tới bờ bến thắng lợi.
Hồ Chí Minh đã phát động cuộc kháng chiến toàn quốc chống thực dân Pháp. Từ đây, Người là linh hồn
của cuộc kháng chiến. Người đề ra đường lối vừa kháng chiến vừa kiến quốc, thực hiện kháng chiến toàn dân,
toàn diện, trường kỳ, tự lực cánh sinh. Người đặc biệt chăm lo xây dựng Đảng, xây dựng lực lượng cán bộ,
đấu tranh chống tệ quan liêu, mệnh lệnh, xây dựng đạo đức cách mạng, cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô
tư, phát động cao trào thi đua ái quốc.
Năm 1951, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã triệu tập Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ II của Đảng. Đại hội
cũng thông qua Cương lĩnh và Điều lệ mới của Đảng, đề ra chủ trương, đường lối đúng đắn, giải quyết tốt
mối quan hệ giữa dân tộc và giai cấp, nhằm động viên toàn Đảng, toàn quân, toàn daan ta kháng chiến chống
thực dân Pháp và can thiệp Mỹ đến thắng lợi hoàn toàn.
Năm 1954, dưới sự lãnh đạo của Trung ương Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh, cuộc kháng chiến chống
thực dân Pháp xâm lược của nhân dân ta đã kết thúc thắng lợi.
Sau Hiệp định Giơnevơ năm 1954, miền Bắc hoàn toàn giải phóng nhưng đất nước vẫn bị chia cắt bởi
âm mưu gây chiến và xâm lược của đế quốc Mỹ và bè lũ tay sai.
Đứng trước yêu cầu mới của sự nghiệp cách mạng, Hồ Chí Minh cùng với Trung ương Đảng đã sớm
xác định kẻ thù chính của nhân dân Việt Nam, đề ra cho mỗi miền Nam, Bắc Việt Nam một nhiệm vụ chiến
lược khác nhau, xếp cách mạng miền Bắc vào phạm trù cách mạng xã hội chủ nghĩa, cách mạng miền Nam
thuộc phạm trù cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân; cách mạng xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc giữ vai trò
quyết định đối với sự phát triển của toàn bộ cách mạng Việt Nam, đối với sự nghiệp thống nhất nước nhà;
cách mạng miền Nam giữ vị trí quan trọng có tác dụng quyết định trực tiếp đối với sự nghiệp giải phóng miền
Nam, thực hiện hòa bình, thống nhất Tổ quốc, hoàn thành nhiệm vụ cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân
trong cả nước.
Xuất phát từ thực tiễn, trong suốt quá trình Đảng lãnh đạo cách mạng nước ta, tư tưởng Hồ Chí Minh
về nhiều vấn đề đã tiếp thu được phát triển, hợp thành một hệ thống những quan điểm lý luận về cách mạng
Việt Nam.
Câu 8. Giá trị to lớn của tư tưởng Hồ Chí Minh đối với dân tộc và nhân loại?
Trả lời:
- Tư tưởng Hồ Chí Minh soi sáng con đường giải phóng và phát triển dân tộc
+ Tài sản tinh thần vô giá của dân tộc Việt Nam
Tư tưởng Hồ Chí Minh là sản phẩm của thời đại, trường tồn, là tài sản vô giá của dân tộc ta.
Sở dĩ như vậy, là vì tư tưởng của Người không chỉ tiếp thu, kế thừa những giá trị, tinh hoa văn hóa, tư
tưởng “vĩnh cửu” của loài ngời, trong đó chủ yếu là chủ nghĩa Mác – Lênin, mà còn đáp ứng nhiều vấn đề
của thời đại, của sự nghiệp cách mạng Việt Nam và thế giới.
Tính sáng tạo của tư tưởng Hồ Chí Minh được thể hiện ở chỗ: Nó trung thành với những nguyên lý phổ
biến của chủ nghĩa Mác – Lênin, đồng thời khi nghiên cứu, vận dụng những nguyên lý đó, Hồ Chí Minh đã
mạnh dạn loại bỏ những gì không thích hợp với điều kiện cụ thể của nước ta, đề xuất những vấn đề mới do
thực tiễn đạt ra và giải quyết một cách linh hoạt, khoa học.
Tư tưởng Hồ Chí Minh đã được kiểm nghiệm trong quá khứ, với những hoạt động cách mạng của Người.
Ngày nay, tư tưởng đó, bao gồm một hệ thống những quan điểm lý luận, tư tưởng về chiến lược, sách lược
cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân, cách mạng xã hội chủ nghĩa ở nước ta, về sự cải biến cách mạng đối
với thế giới, về đạo đức, phong cách, phương pháp Hồ Chí minh, về việc hiện thực hóa các tư tưởng ấy trong
đời sống xã hội,… đang soi sáng cho chúng ta.

10
Nét đặc sắc nhất trong tư tưởng Hồ Chí Minh là những vấn đề xung quanh việc giải phóng dân tộc và
định hướng cho sự phát triển của dân tộc. Tư tưởng của Người gắn liền với chủ nghĩa Mác – Lênin và thực
tiễn cách mạng nước ta, vừa phản ánh quy luật khách quan của sự nghiệp đấu tranh giải phóng trong thời đại
cách mạng vô sản, vừa phản ánh mối quan hệ khăng khít giữa mục tiêu giải phóng dân tộc với mục tiêu giải
phóng giai cấp và giải phóng con người.
+ Nền tảng tư tưởng và kim chỉ nam cho hành động của cách mạng Việt Nam
Tư tưởng Hồ Chí Minh soi đường cho Đảng ta và nhân dân ta trên con đường thực hiện mục tiêu dân
giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh.
Trong suốt những chặng đường cách mạng, tư tưởng Hồ Chí Minh đã trở thành ngọn cờ dẫn dắt cách
mạng nước ta đi từ thắng lợi này đến thắng lợi khác.
Trong bối cảnh của thế giới ngày nay, tư tưởng Hồ Chí Minh giúp chúng ta nhận thức đúng những vấn
đề to lớn có liên quan đến viêc bảo vệ nền độc lập dân tộc, phát triển xã hội và bảo đảm quyền con người, bởi
vì Hồ Chí Minh đã suốt đời phấn đấu cho viec giải phóng các dân tộc, đã đề ra lý luận về sự phát triển của
các dân tộc giành được độc lập tiến lên chủ nghĩa xã hội và luôn luôn quan tâm đến lợi ích con người.
Tư tưởng Hồ Chí Minh là chỗ dựa vững chắc để Đảng ta vạch ra đường lối cách mạng đúng đắn, là sợi
chỉ đỏ dẫn đường cho toàn Đảng, toàn quân, toàn dân ta đi tới thắng lợi.
- Giá trị nhân loại của tư tưởng Hồ Chí Minh
+ Phát triển tư duy lý luận
Hồ Chí Minh là nhân vật lịch sử vĩ đại, không chỉ là sản phẩm của dân tộc, của giai cấp công nhân Việt
Nam, mà còn là sản phẩm của thời đại, của nhân loại tiến bộ.
Ngay trong những năm 20 của thế kỷ XX, cùng với quá trình hình thành về cơ bản tư tưởng Hồ Chí
Minh, Người đã có những cống hiến xuất sắc về lý luận cách mạng giải phóng dân tộc thuộc địa dưới ánh
sáng của chủ nghĩa Mác – Lênin: giành độc lập dân tộc để tiến lên xây dựng chủ nghĩa xã hội. Người cũng có
những nhận thức sâu sắc và độc đáo về mối quan hệ chặt chẽ giữa vấn đề dân tộc và vấn đề giai cấp trong
cáhc mạng giải phóng dân tộc theo con đường cách mạng vô sản.
Người chỉ rõ tầm quan trọng đặc biệt của độc lập dân tộc trong tiến trình đi lên chủ nghĩa xã hội, về tính
tự thân vận động của công cuộc đấu tranh giải phóng của nhân dân các nước thuộc địa và phụ thuộc, về mối
quan hệ giữa cách mạng giải phóng dân tộc thuộc địa với cách mạng vô sản ở chính quốc và về khả năng cách
mạng giải phóng dân tộc thuộc địa nổ ra và thắng lợi trước cách mạng vô sản chính quốc.
Từ nghiên cứu lý luận, áp dụng vào những điều kiện cụ thể, Hồ Chí Minh đã hình thành một hệ thống
các luận điểm chính xác và đúng đắn về vấn đề dân tộc và cách mạng giải phóng dân tộc ở thuộc địa, góp
phần làm phong phú thêm kho tàng lý luận của chủ nghĩa Mác – Lênin.
+ Phản ánh chân lý thời đại
Có thể nói, đóng góp lớn nhất của Hồ Chí Minh đối với thời đại là từ việc xác định con đường cứu nước
đúng đắn cho dân tộc dựa trên chủ nghĩa Mác – Lênin, đến việc xác định được một con đường cách mạng,
một hướng đi và tiếp theo đó là một phương pháp để thức tỉnh hàng trăm triệu con người bị áp bức trong cá
nước thuộc địa lạc hậu.
Giá trị tư tưởng Hồ Chí Minh đối với thế giới còn là ở chỗ ngay từ rất sớm, Người đã nhận thức đúng
sự biến chuyển của thời đại. Trên cơ sở nắm vững đặc điểm thời đại, Hồ Chí Minh đã hoạt động không mệt
mỏi để gắn cách mạng Việt Nam với cách mạng thế giới. Người đặt cách mạng giải phóng dân tộc thuộc địa
vào phạm trù cách mạng vô sản; Người cương quyết bảo vệ và phát triển quan điểm của V.I.Lênin về khả
năng to lớn và vai trò chiến lược của cách mạng giải phóng dân tộc ở thuộc địa đối với cách mạng vô sản.
Với việc nắm bắt chính xác xu thế phát triển của thời đại, Hồ Chí Minh đã đề ra đường lối chiến lược,
sách lược và phương pháp cách mạng đúng đắn cho sự nghiệp cứu nước, giải phóng dân tộc Việt Nam. Những
tư tưởng trên đây của Hồ Chí minh đã, đang và sẽ mãi mãi là chân lý sáng ngời, góp phần vào sự kiến tạo và
phát triển của nhân loại. Đó là một sự thật lịch sử.
+ Cổ vũ các dân tộc đấu tranh vì những mục tiêu cao cả

11
Hồ Chí Minh là vị anh hùng dân tộc vĩ đại, người thầy thiên tài của cách mạng Việt Nam, một nhà
mácxít – lêninnít lỗi lạc, nhà hoạt động xuất sắc của phong trào cộng sản và công nhân quốc tế, một chiến sĩ
kiên cường của phong trào giải phóng dân tộc trong thế kỷ XX.
Hồ Chí Minh đã làm sống lại những giá trị tinh thần của dân tộc Việt Nam. Sự nghiệp cứu nước của
Người đã xóa bỏ tất cả những tủi nhục của gần một thế kỷ nô lệ đè nặng trên đầu dân tộc ta.
Lần đầu tiên trong lịch sử Việt Nam, dưới ngọn cờ bách chiến bách thắng Hồ Chí Minh, Đảng ta đã lãnh
đạo nhân dân ta xóa bỏ được mọi hình thức áp bức bóc lột và xây dựng chủ nghĩa xã hội trên phạm vi cả nước.
Sự nghiệp cách mạng vĩ đại và đạo đức phẩm chất cao quý đã thống nhất làm một ở Hồ Chí Minh.
Trong lòng nhân dân thế giới, Hồ Chí Minh là bất diệt. Bạn bè năm châu khâm phục và coi Hồ Chí Minh
là biểu tượng cao đẹp của những gì thuộc về lương tri và phẩm giá con người.
Câu 9. Nội dung tư tưởng Hồ Chí Minh về vấn đề dân tộc?
Trả lời:
- Vấn đề dân tộc trong tư tưởng Hồ Chí Minh là vấn đề dân tộc thuộc địa. Thực chất của vấn đề dân tộc
thuộc địa bao gồm:
+ Đấu tranh chống chủ nghĩa thực dân, giải phóng dân tộc
Hồ Chí Minh sớm nhận thấy, yêu cầu của xã hội thuộc địa là phải tiến hành cuộc đấu tranh giành độc
lập dân tộc chứ không phải là đấu tranh giai cấp như trong các xã hội tư bản chủ nghĩa phương Tây. Đối tượng
của cách mạng thuộc địa là chủ nghĩa thực dân, chứ không phải chủ nghĩa tư bản, chủ nghĩa đế quốc nói
chung. Người dành sự quan tâm đến các thuộc địa, vạch ra thực chất của vấn đề dân tộc ở thuộc địa là vấn đề
chống chủ nghĩa thực dân, vấn đề độc lập dân tộc. Người chỉ rõ sự đối kháng giữa các dân tộc bị áp bức với
chủ nghĩa đế quốc thực dân là mâu thuẫn chủ yếu ở thuộc địa, đó là mâu thuẫn không thể điều hòa được.
+ Lựa chọn con đường phát triển của dân tộc
Để giải phóng dân tộc, cần xác định phương hướng phát triển của dân tộc, đề ra quy định những yêu cầu
và nội dung trước mắt của cuộc đấu tranh giành độc lập. Mỗi phương hướng phát triển gắn liền với một hệ tư
tưởng và một giai cấp nhất định.
Từ thực tiễn phong trào cứu nước của ông cha và lịch sử nhân loại, Hồ Chí Minh khẳng định phương
hướng phát triển của dân tộc trong bối cảnh thời đại mới là chủ nghĩa xã hội.
Hoạch định con đường phát triển của dân tộc thuộc địa là một vấn đề hết sức mới mẻ. Từ một nước
thuộc địa đi lên chủ nghĩa xã hội phải trải qua nhiều giai đoạn chiến lược khác nhau. Trong Cương lĩnh chính
trị đầu tiên của Đảng Cộng sản Việt Nam. Hồ Chí Minh viết: “Làm tư sản dân quyền cách mạng và thổ địa
cách mạng để đi tới xã hội cộng sản”2
Sự hoạch định con đường phát triển dân tộc của Hồ Chí Minh là biện chứng và khách quan, không nhập
hai nhiệm vụ chống đế quốc và chống phong kiến vào một cuộc cách mạng tư sản dân quyền. Nó phù hợp với
hoàn cảnh lịch sử cụ thể ở thuộc địa. Đó cũng là nét độc đáo, khác biệt với con đường phát triển của các dân
tộc đã phát triển lên chủ nghĩa tư bản ở phương Tây.
- Độc lập tự do, nội dung cốt lõi của vấn đề dân tộc thuộc địa
+ Cách tiếp cận từ quyền con người
Hồ Chí Minh hết sức trân trọng quyền con người. Người đã tìm hiểu và tiếp nhận những nhân tố về
quyền con người được nêu trong Tuyên ngôn độc lập 1776 của nước Mỹ, Tuyên ngôn nhân quyền và dân
quyền 1791 của cách mạng Pháp, như quyền bình đẳng, quyền được sống, quyền tự do và quyền mưu cầu
hạnh phúc. Người khẳng định: “Đó là những lẽ phải không ai chối cãi được”.
Nhưng từ quyền con người, Hồ Chí Minh đã khái quát và nâng cao thành quyền dân tộc: Tất cả các dân
tộc trên thế giới đều sinh ra bình đẳng, dân tộc nào cũng có quyền sống, quyền sung sướng và quyền tự do.
+ Nội dung của độc lập dân tộc

2
Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2002, t.3, tr.1

12
Độc lập, tự do là khát vọng lớn nhất của các dân tộc thuộc địa, quyền thiêng liêng bất khả xâm phạm;
gắn với bình đẳng dân tộc; hòa bình chân chính; thống nhất toàn vẹn lãnh thổ đất nước; cơm no, áo ấm, hạnh
phúc của mọi người dân.
Độc lập, tự do là mục tiêu chiến đấu, là nguồn sức mạnh làm nên chiến thắng của dân tộc Việt Nam
trong thế kỷ XX, một tư tưởng lớn trong thời đại giải phóng dân tộc. “Không có gì quý hơn độc lập, tự do” là
khẩu hiệu hành động của dân tộc Việt Nam đồng thời cũng là nguồn cổ vũ các dân tộc bị áp bức trên toàn thế
giới đang đấu tranh chống chủ nghĩa thực dân. Vì thế, Hồ Chí Minh không chỉ là Anh hùng giải phóng dân
tộc của Việt Nam mà còn là “Người khởi xướng cuộc đấu tranh giải phóng của các dân tộc thuộc địa trong
thế kỷ XX”.
+ Chủ nghĩa dân tộc
Hồ Chí Minh khẳng định: Đối với các dân tộc thuộc địa ở phương Đông, “chủ nghĩa dân tộc là động lực
lớn của đất nước”3. Vì thế, “người ta sẽ không thể làm gì được cho người An Nam nếu không dựa trên các
động lực vĩ đại, và duy nhất của đời sống xã hội của họ”3.
Hồ Chí Minh thấy rõ sức mạnh của chủ nghĩa yêu nước Việt Nam. Đó là sức mạnh chiến đấu và thắng
lợi trước bất cứ thế lực ngoại xâm nào.
Xuất phát từ sự phân tích quan hệ giai cấp trong xã hội thuộc địa, từ truyền thống dân tộc Việt Nam, Hồ
Chí Minh đã đánh giá cao sức mạnh của chủ nghĩa dân tộc mà những người cộng sản phải nắm lấy và phát
huy, và Người cho đó là “một chính sách mang tính hiện thực tuyệt vời”.
- Kết hợp nhuần nhuyễn dân tộc với giai cấp, độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, chủ nghĩa yêu nước
với chủ nghĩa quốc tế
+ Vấn đề dân tộc và vấn đề giai cấp có quan hệ chặt chẽ với nhau
Hồ Chí Minh rất coi trọng vấn đề dân tộc, đề cao sức mạnh chủ nghĩa yêu nước, nhưng Người luôn đứng
trên quan điểm giai cấp để nhận thức và giải quyết vấn đề dân tộc. Sự kết hợp nhuần nhuyễn vấn đề giai cấp
và vấn đề dân tộc của Hồ Chí Minh thể hiện: khẳng định vao trò lịch sử của giai cấp công nhân và quyền lãnh
đạo duy nhất của Đảng Cộng sản trong quá trình cách mạng Việt Nam; chủ trương đại đoàn kết dân tộc rộng
rãi trên nền tảng liên minh công nhân, nông dân và tầng lớp trí thức, dưới sự lãnh đạo của Đảng, sử dụng bạo
lực cách mạng của quần chúng để chống lại bạo lực phản cách mạng của kẻ thù; thiết lập chính quyền nhà
nước của dân, do dân và vì dân; gắn kết mục tiêu độc lập dân tộc với chủ nghĩa xã hội.
+ Giải phóng dân tộc là vấn đề trên hết, trước hết, độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội
Khác với các con đường cứu nước của ông cha, gắn độc lập dân tộc với chế độ phong kiến (cuối thế kỷ
XIX), hoặc chủ nghĩa tư bản (đầu thế kỷ XX), con đường cứu nước của Hồ Chí Minh là độc lập dân tộc gắn
liền với phương hướng xã hội chủ nghĩa.
Tư tưởng Hồ Chí Minh vừa phản ánh quy luật khách quan của sự nghiệp giải phóng dân tộc trong thời
đại chủ nghĩa đế quốc, vừa phản ánh mối quan hệ khăng khít giữa mục tiêu giải phóng dân tộc với mục tiêu
giải phóng giai cấp và giải phóng con người. Chỉ có xóa bỏ tận gốc tình trạng áp bức, bóc lột; thiết lập một
nhà nước thực sự của dân, do dân, vì dân, bảo đảm cho người lao động có quyền làm chủ, thực hiện được sự
phát triển hài hòa giữa cá nhân và xã hội, giữa độc lập dân tộc với tự do và hạnh phúc của con người.
+ Giải phóng dân tộc tạo tiền đề để giải phóng giai cấp
Hồ Chí minh giải quyết vấn đề dân tộc theo quan điểm giai cấp, nhưng đồng thời đặt vấn đề giai cấp
trong vấn đề dân tộc. Giải phóng dân tộc khỏi ách thống trị của chủ nghĩa thực dân là điều kiện để giải phóng
giai cấp. Vì thế, lợi ích của giai cấp phải phục tùng lợi ích của dân tộc.
+ Đấu tranh cho độc lập của dân tộc mình, đồng thời tôn trọng độc lập của dân tộc khác
Là một chiến sĩ quốc tế chân chính, Hồ Chí Minh không chỉ đấu tranh cho độc lập của dân tộc Việt Nam,
mà còn đấu tranh cho độc lập dân tộc của tất cả các dân tộc bị áp bức.

3
Sđd, t.1, tr.466, 467

13
Nêu cao tinh thần độc lập tự chủ, thực hiện nguyên tắc về quyền dân tộc tự quyết, nhưng Hồ Chí Minh
không quên nghĩa vụ quốc tế trong việc ủng hộ các cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc trên thế giới. Người
nhiệt liệt ủng hộ cuộc kháng chiến chống Nhật của nhân dân Trung Quốc, các cuộc kháng chiến chống thực
dân Pháp và đế quốc Mỹ xâm lược của nhân dân Lào và Campuchia, đề ra khẩu hiệu “giúp bạn là tự giúp
mình”.
Câu 10. Những quan điểm chủ yếu của Hồ Chí Minh về cách mạng giải phóng dân tộc?
Trả lời:
- Cách mạng giải phóng dân tộc muốn thắng lợi phải đi theo con đường cách mạng vô sản
+ Bài học từ sự thất bại của các con đường cứu nước trước khi Nguyễn Ái Quốc ra đi tìm đường cứu
nước
Tất cả các phong trào cứu nước của ông cha, mặc dù đã diễn ra vô cùng anh dũng nhưng rốt cuộc đều
bị thực dân Pháp dìm trong biển máu. Đất nước lâm vào “tình hình đen tối tưởng như không có đường ra”.
Nó đặt ra yêu cầu bức thiết phải tìm một con đường cứu nước mới.
Hồ Chí Minh được chứng kiến các phong trào cứu nước của ông cha. Người nhận thấy con đường của
Phan Bội Châu chẳng khác gì “đuổi hổ cửa trước, rước beo cửa sau”, con đường của Phan Chu Trinh cũng
chẳng khác gì “xin giặc rủ lòng thương”. Con đường của Hoàng Hoa Thám tuy có phần thực tế hơn, nhưng
vẫn mang nặng cốt cách phong kiến.
Chính vì thế, mặc dù rất khâm phục tinh thần cứu nước của ông cha, nhưng Hồ Chí Minh không tán
thành các con đường của họ, mà quyết tâm ra đi tìm một con đường mới.
+ Cách mạng tư sản là không triệt để
Người đọc Tuyên ngôn độc lập của nước Mỹ, tìm hiểu thực tiễn cuộc cách mạng tư sản Mỹ; đọc Tuyên
ngôn dân quyền và dân quyền của cách mạng Pháp, tìm hiểu cách mạng tư sản Pháp. Người nhận thấy: Cách
mạng Pháp cũng như cách mạng Mỹ là không triệt để. Bởi lẽ đó, Người không đi theo con đường cách mạng
tư sản.
+ Con đường giải phóng dân tộc
Hồ Chí Minh thấy được Cách mạng Tháng Mười không chỉ là một cuộc cách mạng vô sản, mà còn là
một cuộc cách mạng giải phóng dân tộc. Nó nêu tấm gương sáng về sự giải phóng các dân tộc thuộc địa.
Người “hoàn toàn tin theo Lênin và Quốc tế thứ ba” chính vì Lênin và Quốc tế ba đã “bênh vực cho các
dân tộc bị áp bức”. Người thấy trong lý luận của Lênin một phương hướng mới để giải phóng dân tộc: con
đường cách mạng vô sản.
- Cách mạng giải phóng dân tộc trong thời đại mới phải do Đảng Cộng sản lãnh đạo
+ Cách mạng trước hết phải có Đảng
Nguyễn Ái Quốc phân tích: Muốn làm cách mạng thì phải bền gan, đồng lòng và quyết tâm, “lại phải
biết cách làm thì làm mới chóng”.
“Sửa cái xã hội cũ đã mấy ngàn năm làm xã hội mới, ấy là rất khó. Nhưng biết cách làm, biết đồng tâm
hiệp lực mà làm thì chắc làm được, thế thì không khó. Khó dễ cũng tại mình, mình quyết chí thì làm được”.
Nhưng muốn làm cách mệnh, “trước hết phải làm cho dân giác ngộ”, “phải giảng giải lý luận và chủ
nghĩa cho dân hiểu”.
Người khẳng định: Trước hết phải có đảng cách mạng để trong thì vận động và tổ chức dân chúng, ngoài
thì liên lạc với dân tộc bị áp bức và vô sản giai cấp mọi nơi. Đảng có vững cách mạng mới thành công, cũng
như người cầm lái có vững thuyền mới chạy.
+ Đảng Cộng sản Việt Nam là người lãnh đạo duy nhất
Đầu năm 1930, Người sáng lập Đảng Cộng sản Việt Nam, một chính đảng của giai cấp công nhân và
dân tộc Việt Nam, lấy chủ nghĩa Mác – Lênin “làm cốt”, có tổ chức chặt chẽ, kỷ luật nghiêm minh và mật
thiết liên lạc với quần chúng.

14
Theo Hồ Chí Minh, Đảng Cộng sản Việt Nam là đảng của giai cấp công nhân, của nhân dân lao động
và của dân tộc Việt Nam.
Hồ Chí Minh đã xây dựng được một đảng cách mạng tiên phong, phù hợp với thực tiễn Việt Nam, gắn
bó với nhân dân, với dân tộc, một lòng một dạ phụng sự Tổ quốc, phụng sự nhân dân, được nhân dân, được
dân tộc thừa nhận là đội tiên phong của mình.
Ngay từ khi mới ra đời, Đảng do Hồ Chí Minh sáng lập đã quy tụ được lực lượng và sức mạnh của toàn
bộ giai cấp công nhân và cả dân tộc Việt Nam. Đó là một đặc điể và đồng thời là một ưu điểm của Đảng. Nhờ
đó, ngay từ khi mới ra đời, Đảng đã nắm ngọn cờ lãnh đạo duy nhất đối với cách mạng Việt Nam và trở thành
nhân tố hàng đầu bảo đảm mọi thắng lợi của cách mạng.
- Lực lượng của cách mạng giải phóng dân tộc bao gồm toàn dân tộc
+ Cách mạng là sự nghiệp của dân chúng bị áp bức
Hồ Chí Minh nghiêm khắc phê phán việc lấy ám sát cá nhân và bạo động non làm phương thức hành
động, “hoặc xúi dân bạo động mà không bày cách tổ chức; hoặc làm cho dân quen ỷ lại, mà quên tính tự
cường”. Người khẳng định “cách mệnh là việc chung cả dân chúng chứ không phải việc một hai người”.
Trong Cách mạng Tháng Tám 1945 cũng như hai cuộc kháng chiến chống Pháp và chống mỹ, Hồ Chí
Minh lấy nhân dân làm nguồn sức mạnh. Quan điểm “lấy dân làm gốc” xuyên suốt quá trình chỉ đạo chiến
tranh của Người. “Có dân là có tất cả”, “Dễ trăm lần không dân cũng chịu, khó vạn lần dân liệu cũng xong”.
Hồ Chí Minh đánh giá rất cao vai trò của quần chúng nhân dân trong khởi nghĩa vũ trang. Người coi sức mạnh
vĩ đại và năng lực sáng tạo vô tận của quần chúng là then chốt bảo đảm thắng lợi.
+ Lực lượng của cách mạng giải phóng dân tộc bao gồm toàn dân tộc
Hồ Chí Minh xác định lực lượng cách mạng bao gồm cả dân tộc: Đảng phải tập hợp đại bộ phận giai
cấp công nhân, tập hợp đại bộ phận nông dân và phải dựa vào hạng dân cày nghèo, lãnh đạo nông dân làm
cách mạng ruộng đất; lôi kéo tiểu tư sản, trí thức, trung nông,… đi vào phe vô sản giai cấp; đối với phú nông,
trung tiểu địa chủ và tư bản Việt Nam mà chưa rõ mặt phản cách mạng thì phải lợi dụng, ít lâu mới làm cho
họ đứng trung lập.
Trong lực lượng toàn dân tộc, Hồ Chí Minh hết sức nhấn mạnh vai trò động lực cách mạng công nhân
và nông dân. Người phân tích: các giai cấp công nhân và nông dân có số lượng đông nhất, nên có sức mạnh
lớn nhất. Họ lại bị áp bức bóc lột nặng nề nhất, nên “lòng cách mệnh càng bền, chí cách mệnh càng quyết”.
Khẳng định vai trò động lực cách mạng của công nhân và nông dân là một vấn đề hết sức mới mẻ so với nhận
thức của những nhà yêu nước trước đó.
Trong khi hết sức nhấn mạnh vai trò của công nhân và nông dân, Hồ Chí Minh không coi nhẹ khả năng
tham gia sự nghiệp giải phóng dân tộc của các giai cấp và tầng lớp khác. Người coi tiểu tư sản, tư sản dân tộc
và một bộ phận giai cấp địa chủ là bạn đồng minh của cách mạng.
- Cách mạng giải phóng dân tộc cần được tiến hành chủ động, sáng tạo và có khả năng giành thắng lợi
trước cách mạng vô sản ở chính quốc
+ Cách mạng giải phóng dân tộc cần được tiến hành chủ động, sáng tạo
Khi chuyển sang giai đoạn độc quyền (đế quốc chủ nghĩa), nền kinh tế hàng hóa phát triển mạnh, đặt ra
yêu cầu bức thiết về thị trường. Đó là nguyên nhân sâu xa dẫn tới những cuộc chiến tranh xâm lược thuộc địa.
Các nước thuộc địa trở thành một trong những nguồn sống của chủ nghĩa đế quốc.
Trong cuộc đấu tranh chống chủ nghĩa đế quốc, chủ nghĩa thực dân, cách mạng thuộc địa có tầm quan
trọng đặc biệt. Nhân dân các dân tộc thuộc địa có khả năng cách mạng to lớn
Trong khi yêu cầu Quốc tế Cộng sản và các Đảng Cộng sản quan tâm đến cách mạng thuộc địa, Hồ Chí
Minh vẫn khẳng định công cuộc giải phóng nhân dân thuộc địa chỉ có thể thực hiện bằng sự nỗ lực tự giải
phóng.
Người đánh giá rất cao sức mạnh của một dân tộc vùng dậy chống đế quốc thực dân. Người chủ trương
phát huy nỗ lực chủ quan của dân tộc, tránh tư tưởng bị động trông chờ vào sự giúp đỡ bên ngoài.
+ Quan hệ của cách mạng thuộc địa với cách mạng vô sản ở chính quốc

15
Theo Hồ Chí Minh, giữa cách mạng giải phóng dân tộc ở thuộc địa và cách mạng vô sản ở chính quốc
có mối quan hệ mật thiết với nhau, tác động qua lại lẫn nhau trong cuộc đấu tranh chống kẻ thù chung là chủ
nghĩa đế quốc. Đó là mối quan hệ bình đẳng chứ không phải là quan hệ lệ thuộc, hoặc quan hệ chính – phụ.
Nhận thức đúng vai trò, vị trí chiến lược của cách mạng thuộc địa và sức mạnh dân tộc, Nguyễn Ái Quốc
cho rằng cách mạng giải phóng dân tộc ở thuộc địa có thể giành thắng lợi trước cách mạng vô sản ở chính
quốc.
Đây là một luận điểm sáng tạo, có giá trị lý luận và thực tiễn to lớn; một cống hiến rất quan trọng của
Hồ Chí Minh vào kho tàng lý luận của chủ nghĩa Mác – Lênin, đã được thắng lợi của phong trào cách mạng
giải phóng dân tộc trên toàn thế giới trong gần một thế kỷ qua chứng minh là hoàn toàn đúng đắn.
- Cách mạng giải phóng dân tộc phải được tiến hành bằng con đường cách mạng bạo lực
+ Tính tất yếu của bạo lực cách mạng
Các thế lực đế quốc sử dụng bạo lực để xâm lược và thống trị thuộc địa, đàn áp dã man các phong trào
yêu nước. Vì thế, con đường để giành và giữ độc lập dân tộc chỉ có thể là con đường cách mạng bạo lực.
Đánh giá đúng bản chất cực kỳ phản động của bọn đế quốc và tay sai, Hồ Chí Minh vạch rõ tính tất yếu
của bạo lực cách mạng. Quán triệt quan điểm của chủ nghĩa Mác – Lênin, coi sự nghiệp cách mạng là sự
nghiệp của quần chúng, Hồ Chí Minh cho rằng bạo lực cách mạng là bạo lực của quần chúng.
Hình thức của bạo lực cách mạng bao gồm cả đấu tranh chính trị và đấu tranh vũ trang, nhưng phải
tùy tình hình cụ thể mà quyết định những hình thức đấu tranh cách mạng thích hợp, sử dụng đúng và khéo kết
hợp các hình thức đấu tranh vũ trang và đấu tranh chính trị để giành thắng lợi cho cách mạng.
+ Tư tưởng bạo lực cách mạng gắn bó hữu cơ với tư tưởng nhân đạo và hòa bình. Tư tưởng Hồ Chí
Minh về bạo lực cách mạng khác hẳn tư tưởng hiếu chiến của các thế lực đế quốc xâm lược. Xuất phát từ tình
yêu thương con người, quý trọng sinh mạng con người, người tìm mọi cách ngăn chặn xung đột vũ trang, tận
dụng mọi khả năng giải quyết xung đột bằng biện pháp hòa bình, chủ động đàm phán, thương lượng, chấp
nhận nhượng bộ có nguyên tắc.
Việc tiến hành chiến tranh chỉ là giải pháp bắt buộc cuối cùng. Chỉ khi không còn khả năng hòa hoãn,
khi kẻ thù ngoan cố bám giữ lập trường thực dân, chỉ muốn giành thắng lợi bằng quân sự, thì Hồ Chí Minh
mới kiên quyết phát động chiến tranh.
+ Hình thái bạo lực cách mạng
Theo Hồ Chí minh, trong sự nghiệp kháng chiến, kiến quốc “lực lượng chính là ở dân”. Người chủ
trương tiến hành khởi nghĩa toàn dân và chiến tranh nhân dân.
Toàn dân khởi nghĩa, toàn dân nổi dậy là nét đặc sắc trong tư tưởng Hồ Chí Minh về hình thái của bạo
lực cách mạng.
Mục đích cách mạng và chiến tranh chính nghĩa – vì độc lập, tự do, làm cho khả năng tiến hành chiến
tranh nhân dân trở thành hiện thực, làm cho toàn dân tự giác tham gia kháng chiến.
Trước những kẻ thù lớn mạnh, Hồ Chí Minh chủ trương sử dụng phương châm chiến lược đánh lâu dài.
Tự lực cánh sinh cũng là một phương châm chiến lược rất quan trọng, nhằm phát huy cao độ nguồn sức
mạnh chủ quan, tránh tư tưởng bị động trông chờ vào sự giúp đỡ bên ngoài. Mặc dù rất coi trọng sự giúp đỡ
quốc tế nhưng Hồ Chí Minh luôn đề cao sức mạnh bên trong, phát huy đến mức cao nhất mọi nội lực, nỗ lực
của dân tộc, đề cao tinh thần độc lập tự chủ.
Câu 11. Giá trị lý luận và thực tiễn của tư tưởng Hồ Chí Minh về vấn đề dân tộc và cách mạng giải
phóng dân tộc?
Trả lời:
- Làm phong phú học thuyết Mác – Lênin về cách mạng thuộc địa
+ Về lý luận cáhc mạng giải phóng dân tộc
Đến với chủ nghĩa Mác – Lênin, xác định con đường cứu nước theo khuynh hướng chính trị vô sản,
nhưng con đường cách mạng giải phóng dân tộc là do Hồ Chí Minh hoạch định, chứ không phải đã tồn tại từ
trước.
16
Hồ Chí Minh không tự khuôn mình trong những nguyên lý có sẵn, không rập khuôn máy móc lý luận
đấu tranh giai cấp vào điều kiện lịch sử ở thuộc địa, mà có sự kết hợp hài hòa vấn đề dân tộc với vấn đề giai
cấp, giải quyết vấn đề dân tộc với vấn đề giai cấp, giải quyết vấn đề dân tộc theo quan điểm giai cấp và giải
quyết vấn đề giai cấp trong vấn đề dân tộc, gắn độc lập dân tộc với phương hướng xã hội chủ nghĩa.
Sử dụng “phương pháp làm việc biện chứng”, Người đã phân tích thực tiễn xã hội thuộc địa, phát triển
chủ nghĩa Mác – Lênin trong điều kiện lịch sử cụ thể ở thuộc địa, xây dựng nên lý luận cách mạng giải phóng
dân tộc và truyền bá vào Việt Nam.
Lý luận cách mạng giải phóng dân tộc của Hồ Chí Minh bao gồm một hệ thống những quan điểm sáng
tạo, độc đáo. Lý luận đó phải trải qua những thử thách hết sức gay gắt. Trong những năm 1923 – 1924, 1927
– 1928 và 1934 – 1938, Quốc tế Cộng sản không ủng hộ, mà coi đó là những tư tưởng “dân tộc chủ nghĩa”.
Những năm 1930 – 1935, tư tưởng đó bị phê phán trong Ban Chấp hành Trung ương Đảng và trên báo chí
nước ngoài. Song, thực tiễn đã chứng minh lý luận cách mạng giải phóng dân tộc của Hồ Chí Minh là đúng
đắn.
+ Về phương pháp tiến hành cách mạng giải phóng dân tộc
Phương pháp tiến hành cách mạng giải phóng dân tộc của Hồ Chí Minh hết sức độc đáo và sáng tạo,
thấm nhuần thính nhân văn.
Xuất phát từ điều kiện lịch sử cụ thể ở thuộc địa, nhất là so sánh lực lượng quá chênh lệch về kinh tế và
quân sự giữa các dân tộc bị áp bức và chủ nghĩa đế quốc, Hồ Chí Minh đã xây dựng nên lý luận về phương
pháp khởi nghĩa toàn dân và chiến tranh nhân dân.
Hồ Chí Minh đã vận dụng sáng tạo và phát triển học thuyết của Lênin về cách mạng thuộc địa thành
một hệ thống luận điểm mới mẻ, sáng tạo, bao gồm cả đường lối chiến lược, sách lược và phương pháp tiến
hành cách mạng giải phóng dân tộc ở thuộc địa. Đó là một di sản tư tưởng quân sự vô giá mà Hồ Chí Minh
để lại cho Đảng và nhân dân ta.
- Làm chuyển hóa phong trào yêu nước, tạo điều kiện cho sự ra đời Đảng Cộng sản Việt Nam
+ Làm chuyển hóa phong trào yêu nước Việt Nam
Tư tưởng Hồ Chí Minh về cách mạng giải phóng dân tộc là ánh sáng soi đường cho lớp thanh niên yêu
nước Việt Nam đầu thế kỷ XX đang đi tìm chân lý, là ngọn cờ hướng đạo phong trào cách mạng Việt Nam
trước khi Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời. Cùng với chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng đó được những người
Việt Nam yêu nước tiếp thu như một ánh sáng chân lý của chính mình, “giống như người đang khát mà có
nước uống, đang đói mà có cơm ăn”.
Tư tưởng đó thâm nhập vào phong trào công nhân và phong trào yêu nước Việt Nam, góp phần quyết
định trong việc xác lập con đường cứu nước mới, làm cho phong trào yêu nước Việt Nam chuyển dần sang
quỹ đạo cách mạng vô sản.
Hồ Chí Minh đã tập hợp những thanh niên yêu nước Việt Nam, rồi đem chủ nghĩa Mác – Lênin và lý
luận cách mạng giải phóng dân tộc truyền bá cho họ, dẫn dắt họ đi theo con đường mà chính Người đã trải
qua: từ chủ nghĩa yêu nước đến với chủ nghĩa Mác – Lênin. Sự chuyển hóa tiêu biểu nhất là Tân Việt cách
mạng đảng, từ lập trường tư sản đã chuyển sang lập trường vô sản.
Đó là sự chuyển hóa mang tính cách mạng, đưa sự nghiệp giải phóng và phát triển dân tộc tiến lên theo
định hướng xã hội chủ nghĩa.
+ Tạo điều kiện chín muồi cho sự ra đời Đảng Cộng sản Việt Nam
Trước hết, cùng với chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng cách mạng giải phóng dân tộc của Hồ Chí Minh
là một vũ khí tư tưởng mới của phong trào yêu nước Việt Nam, làm cho phong trào yêu nước chuyển dần
sang quỹ đạo cách mạng vô sản và cũng trở thành một trong những điều kiện dẫn đến sự ra đời của Đảng
Cộng sản Việt Nam.
Hai là, lý luận cách mạng giải phóng dân tộc và chủ nghĩa Mác – Lênin được truyền bá vào giai cấp
công nhân, soi đường chỉ lối cho giai cấp công nhân đấu tranh, làm cho giai cấp công nhân ngày càng giác

17
ngộ, phong trào công nhân Việt Nam phát triển mạnh theo hướng từ tự phát đến tự giác và trở thành một điều
kiện dẫn tới sự ra đời của Đảng Cộng sản Việt Nam.
Ba là, lý luận cách mạng giải phóng dân tộc của Hồ Chí Minh, nhất là những tư tưởng hình thành trong
những năm 20 của thế kỷ XX là sự chuẩn bị tích cực về mặt tư tưởng chính trị cho sự ra đời của Đảng Cộng
sản Việt Nam.
- Đặt cơ sở để xây dựng nên đường lối cách mạng giải phóng dân tộc của Đảng
+ Là cơ sở hình thành Cương lĩnh cách mạng đầu tiên của Đảng
Tư tưởng Hồ Chí Minh về cách mạng giải phóng dân tộc là một hệ thống quan điểm toàn diện và sâu
sắc, phản ánh yêu cầu khách quan của lịch sử, đáp ứng nguyện vọng độc lập, tự do của quần chúng nhân dân,
phù hợp với xu thế phát triển tất yếu của thời đại, đặt nền móng vững chắc để xây dựng nên Cương lĩnh chính
trị đầu tiên của Đảng và được Hội nghị thành lập Đảng thông qua đầu năm 1930.
+ Là cơ sở để phát triển và hoàn chỉnh đường lối cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân tiến lên chủ nghĩa
xã hội qua ba giai đoạn chiến lược
Từ tư tưởng cách mạng giải phóng dân tộc của Hồ Chí Minh, Hội nghị lần thứ tám của Ban Chấp hành
Trung ương Đảng (5 – 1941) đã xác định đường lối cách mạng giải phóng dân tộc với chủ trương “thay đổi
chiến lược”, nhấn mạnh cuộc đấu tranh dân tộc ở thuộc địa. Đó là những bước đi khác nhau để tiến lên chủ
nghĩa xã hội, là biểu hiện của tư tưởng Hồ Chí Minh về độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội được
khẳng định ngay từ Cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng.
+ Là cơ sở của đường lối chiến tranh nhân dân, toàn dân, toàn diện
Tư tưởng Hồ Chí Minh về cách mạng giải phóng dân tộc được tiếp tục phát triển trong tiến trình cách
mạng Việt Nam; được quán triệt, vận dụng và phát triển trong sự nghiệp kháng chiến – kiến quốc, hình thành
nên đường lối quân sự nói chung và đường lối chiến tranh nhân dân nói riêng của Đảng Cộng sản Việt Nam,
nhất là trong hai cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ xâm lược.
Đường lối chiến tranh nhân dân của Đảng phát triển và ngày càng hoàn chỉnh gắn liền với sự nghiệp và
tư tưởng quân sự Hồ Chí Minh. Đó là ngọn cờ trăm trận trăm thắng của dân tộc Việt Nam trước những kẻ thù
đế quốc lớn mạnh.
- Soi đường thắng lợi cho cách mạng giải phóng dân tộc ở Việt Nam
Thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám và 30 năm chiến tranh cách mạng Việt Nam (1945 – 1975) đã
chứng minh tinh thần độc lập, tự chủ, tính khoa học, tính cách mạng và sáng tạo của tư tưởng Hồ Chí Minh
về con đường giải phóng dân tộc ở Việt Nam, soi đường cho dân tộc Việt Nam tiến lên, cùng nhân loại biến
thế kỷ XX thành một thế kỷ giải trừ chủ nghĩa thực dân trên toàn thế giới. Những thắng lợi chiến lược của
cách mạng Việt Nam trong thế kỷ XX chứng tỏ hùng hồn giá trị khoa học và thực tiễn của tư tưởng Hồ Chí
Minh về cách mạng giải phóng dân tộc.
Câu 12. Nhận thức của Hồ Chí Minh về tính tất yếu của chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam?
Trả lời:
- Hồ Chí Minh đã tiếp thu, vận dụng sáng tạo lý luận Mác – Lênin về sự phát triển tất yếu của xã hội
loài người theo các hình thái kinh tế - xã hội. Quan điểm của Hồ Chí Minh là: Tiến lên chủ nghĩa xã hội là
bước phát triển tát yếu ở Việt Nam sau khi nước nhà đã giành được độc lập theo con đường cách mạng vô
sản.
- Mục tiêu giải phóng dân tộc theo con đường cách mạng vô sản mà Hồ Chí Minh đã lựa chọn cho dân
tộc Việt Nam là nước nhà được độc lập, nhân dân được hưởng cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc, tức là sau
khi giành được độc lập dân tộc, nhân dân ta sẽ xây dựng một xã hội mới, xã hội xã hội chủ nghĩa.
- Hồ Chí Minh tiếp cận chủ nghĩa xã hội theo quan điểm Mác – Lênin từ lập trường của một người yêu
nước đi tìm con đường giải phóng dân tộc để xây dựng một xã hội mới tốt đẹp. Người tiếp thu quan điểm của
những nhà sáng lập chủ nghĩa xã hội khoa học, đồng thời có sự bổ sung cách tiếp cận mới về chủ nghĩa xã
hội.

18
+ Hồ Chí Minh tiếp thu lý luận về chủ nghĩa xã hội khoa học của học thuyết Mác – Lênin trước hết là
từ khát vọng giải phóng dân tộc Việt Nam. Người tìm thấy trong lý luận Mác – Lênin sự thống nhất biện
chứng của giải phóng dân tộc, giải phóng xã hội (trong đó có giải phóng giai cấp), giải phóng con người. Đó
cũng là mục tiêu cuối cùng của chủ nghĩa cộng sản theo đúng bản chất của chủ nghĩa Mác – Lênin.
+ Hồ Chí Minh tiếp cận chủ nghĩa xã hội ở một phương diện nữa là đạo đức, hướng tới giá trị nhân
đạo, nhân văn mácxít, giải quyết tốt quan hệ giữa cá nhân với xã hội theo quan điểm C.Mác và Ph.Ăngghen
trong bản Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản mà hai ông công bố tháng 02 – 1848: Sự phát triển tự do của mỗi
người là điều kiện cho sự phát triển tự do của tất cả mọi người.
+ Bao trùm lên tất cả là Hồ Chí Minh tiếp cận chủ nghĩa xã hội từ văn hóa. Văn hóa trong chủ nghĩa xã
hội ở Việt Nam có quan hệ biện chứng với chính trị, kinh tế. Quá trình xây dựng xã hội xã hội chủ nghĩa ở
Việt Nam cũng là quá trình xây dựng một nền văn hóa mà trong đó kết tinh, kế thừa, phát triển những giá trị
truyền thống văn hóa tốt đẹp hàng ngàn năm của dân tộc Việt Nam, tiếp thu tinh hoa văn hóa thế giới, kết hợp
truyền thống với hiện đại, dân tộc và quốc tế.
Nhân dân Việt Nam xây dựng một xã hội như vậy theo quan điểm của Hồ Chí Minh cũng tức là tuân
theo một quy luật phát triển của dân tộc Việt Nam: Độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội gắn liền với nhau.
Độc lập dân tộc là tiền đề, là điều kiện tiên quyết để xây dựng chủ nghĩa xã hội; xây dựng thành công chủ
nghĩa xã hội là một điều kiện bảo đảm vững chắc, đồng thời là mục tiêu cho độc lập dân tộc hướng tới. Hồ
Chí Minh đã thấy rõ tính chất tất yếu của sự phát triển dân tộc Việt Nam lên chủ nghĩa xã hội ngay khi trở
thành người cộng sản năm 1920 và khẳng định điều đó trong Cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng Cộng
sản Việt Nam khi thành lập đầu năm 1930, kiên trì, nhất quán bảo vệ và phát triển quan điểm đó trong suốt
bước đường phát triển của cách mạng Việt Nam từ đó về sau, mặc dù con đường phát triển đó thực chất là
một cuộc chiến đấu khổng lồ chống lại những gì là cũ kỹ, hư hỏng, để tạo ra những cái mới mẻ, tốt tươi; mặc
dù con đường đó có nhiều khó khăn, chông gai, phức tạp.
Câu 13. Quan niệm của Hồ Chí Minh về bản chất đặc trưng của chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam?
Trả lời:
- Hồ Chí Minh bày tỏ quan niệm của mình về chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam không hẳn chỉ là trong một
bài viết hay trong một cuộc nói chuyện nào đó, mà tùy từng lúc, từng nơi, tùy từng đối tượng người đọc, người
nghe mà Người diễn đạt quan niệm của mình. Vẫn là theo các nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác – Lênin
về chủ nghĩa xã hội, nhưng với cách diễn đạt ngôn ngữ nói và viết của Hồ Chí Minh thì những vấn đề đầy
chất lý luận chính trị phong phú, phức tạp được biểu đạt bằng ngôn ngữ của cuộc sống của nhân dân Việt
Nam, rất mộc mạc, dung dị, dễ hiểu.
- Hồ Chí Minh có quan niệm tổng quát khi coi chủ nghĩa cộng sản, chủ nghĩa xã hội như là một chế độ
xã hội bao gồm các mặt rất phong phú, hoàn chỉnh, trong đó con người được phát triển toàn diện, tự do. Trong
một xã hội như thế, mọi thiết chế, cơ cấu xã hội đều nhằm tới mục tiêu giải phóng con người.
- Hồ Chí Minh diễn đạt quan niệm của mình về chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam trên một số mặt nào đó
của nó, như chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội,… Với cách diễn đạt như thế của Hồ Chí Minh về chủ nghĩa xã
hội, chúng ta không nên tuyệt đối hóa từng mặt hoặc tách riêng rẽ từng mặt của nó mà cần phải đặt trong một
tổng thể chung.
- Hồ Chí Minh quan niệm về chủ nghĩa xã hội ở nước ta bằng cách nhấn mạnh mục tiêu vì lợi ích của
Tổ quốc, của nhân dân, là làm cho mọi người được ăn no, mặc ấm, được sung sướng, tự do, là “nước ta được
hoàn toàn độc lập, dân ta được hoàn toàn tự do, đồng bào ai cũng có cơm ăn áo mặc, ai cũng được học hành”
như “ham muốn tột bậc” mà Người đã trả lời các nhà báo tháng 01 năm 1946.
- Hồ Chí Minh nêu xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam trong ý thức, động lực của toàn dân dưới sự
lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam. Xây dựng một xã hội như thế là trách nhiệm, nghĩa vụ và quyền lợi,
động lực của toàn dân tộc. Cho nên, với động lực xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam, sức mạnh tổng hợp
được sử dụng và phát huy, đó là sức mạnh toàn dân tộc kết hợp với sức mạnh thời đại.
- Những đặc trưng chủ yếu

19
Đặc trưng tổng quát của chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam theo Hồ Chí Minh, cũng trên cơ sở của lý luận
Mác – Lênin, nghĩa là trên những mặt về chính trị, kinh tế, văn hóa – xã hội. Còn về cụ thể, chúng ta thấy Hồ
Chí Minh nhấn mạnh chủ yếu trên những điểm sau đây:
+ Đó là một chế độ chính trị do nhân dân làm chủ
Chủ nghĩa xã hội có chế độ chính trị dân chủ, nhân dân lao động là chủ và nhân dân lao động làm chủ,
Nhà nước là của dân, do dân và vì dân, dựa trên khối đại đoàn kết toàn dân mà nòng cốt là liên minh công –
nông – lao động trí óc, do Đảng Cộng sản lãnh đạo.
Mọi quyền lực trong xã hội đều tập trung trong tay nhân dân. Nhân dân đoàn kết thành một khối thống
nhất để làm chủ nước nhà. Nhân dân là người quyết định vận mệnh cũng như sự phát triển của đất nước chế
độ xã hội chủ nghĩa. Hồ Chí Minh coi nhân dân có vị trí tối thượng trong mọi cấu tạo quyền lực. Chủ nghĩa
xã hội chính là sự nghiệp của chính bản thân nhân dân, dựa vào sức mạnh của toàn dân để đưa lại quyền lợi
cho nhân dân.
+ Chủ nghĩa xã hội là một chế độ xã hội có nền kinh tế phát triển cao, gắn liền với sự phát triển của khoa
học – kỹ thuật.
Đó là xã hội có một nền kinh tế phát triển dựa trên cơ sở năng suất lao động xã hội cao, sức sản xuất
luôn luôn phát triển với nền tảng phát triển khoa học – kỹ thuật, ứng dụng có hiệu quả những thành tựu khoa
học – kỹ thuật của nhân loại.
+ Chủ nghĩa xã hội là chế độ không còn người bóc lột người
Đây là một vấn đề được hiểu nó như là một chế độ hoàn chỉnh, đạt đến độ chín muồi. Trong giai đoạn
đầu (quá độ lên chủ nghĩa xã hội), vẫn có tình trạng bóc lột sức lao động của người lao động làm thuê. Trong
chủ nghĩa xã hội, thực hiện chế độ sở hữu xã hội về tư liệu sản xuất và thực hiện nguyên tắc phân phối theo
lao động. Đó là một xã hội được xây dựng trên nguyên tắc công bằng, hợp lý.
+ Chủ nghĩa xã hội là một xã hội phát triển cao về văn hóa, đạo đức.
Đó là một xã hội có hệ thống quan hệ xã hội lành mạnh, công bằng, bình đẳng, không còn áp bức, bóc
lột, bất công, không còn sự đối lập giữa lao động chân tay và lao động trí óc, giữa thành thị và nông thôn, con
người được giải phóng, có điều kiện phát triển toàn diện, có sự hài hòa trong phát triển của xã hội và tự nhiên.
Các đặc trưng nêu trên là hình thức thể hiện một hệ thống giá trị vừa kế thừa các di sản của quá khứ,
vừa được sáng tạo mới trong quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội. Chủ nghĩa xã hội là hiện thân đỉnh cao của
tiến hóa lịch sử nhân loại. Hồ Chí Minh quan niệm chủ nghĩa xã hội là sự tổng hợp quyện chặt ngay trong cấu
trúc nội tại của nó, một hệ thống giá trị làm nền tảng điều chỉnh các quan hệ xã hội, đó là độc lập, tự do, bình
đẳng, công bằng, dân chủ, bảo đảm quyền con người, bác ái, đoàn kết, hữu nghị.
Câu 14. Quan niệm Hồ Chí Minh về mục tiêu và động lực của chủ nghĩa xã hội?
Trả lời:
- Những mục tiêu cơ bản
+ Hồ Chí Minh ý thức được rõ ràng giá trị của chủ nghĩa xã hội về mặt lý luận là quan trọng, nhưng vấn
đề quan trọng hơn là tìm ra con đường để thực hiện những giá trị này. Điểm then chốt, có ý nghĩa phương
pháp luận quan trọng của Hồ Chí Minh là đề ra các mục tiêu chung và mục tiêu cụ thể xây dựng chủ nghĩa xã
hội trong mỗi giai đoạn cách mạng khác nhau ở nước ta. Chính thông qua quá trình đề ra các mục tiêu đó, chủ
nghĩa xã hội được biểu hiện với việc thỏa mãn các nhu cầu, lợi ích thiết yếu của người lao động. Ở Hồ Chí
Minh, mục tiêu chung của chủ nghĩa xã hội và mục tiêu phấn đấu của Người là một, đó là độc lập, tự do cho
dân tộc, hạnh phúc cho nhân dân; đó là làm sao cho nước ta được hoàn toàn độc lập, dân ta được hoàn toàn
tự do, đồng bào ta ai cũng có cơm ăn, áo mặc, ai cũng được học hành.
+ Từ cách đặt vấn đề này, theo Hồ Chí Minh, hiểu mục tiêu của chủ nghĩa xã hội, nghĩa là nắm bắt nội
dung cốt lõi con đường lựa chọn và bản chất thực tế xã hội mà chúng ta phấn đấu xây dựng. Tiếp cận chủ
nghĩa xã hội về phương diện mục tiêu là một nét đặc sắc, thể hiện phong cách và năng lực tư duy lý luận khái
quát của Hồ Chí Minh. Hồ Chí Minh có nhiều cách đề cập mục tiêu của chủ nghĩa xã hội.

20
+ Hồ Chí Minh quan niệm mục tiêu cao nhất của chủ nghĩa xã hội là nâng cao đời sống nhân dân. Đó là
sự tin tưởng cao độ vào lý tưởng vì dân. Theo Người, muốn nâng cao đời sống nhân dân, phải tiến lên chủ
nghĩa xã hội. Mục tiêu nâng cao đời sống toàn dân đó là tiêu chí tổng quát để khẳng định và kiểm nghiệm tính
chất xã hội chủ nghĩa của các lý luận chủ nghĩa xã hội và chính sách thực tiễn. Trượt ra khỏi quỹ đạo đó thì
hoặc là chủ nghĩa xã hội giả hiệu không có gì tương thích với chủ nghĩa xã hội.
+ Chỉ rõ và nêu bật mục tiêu của chủ nghĩa xã hội. Hồ Chí Minh khẳng định tính ưu việt của chủ nghĩa
xã hội so với chế độ xã hội đã tồn tại trong lịch sử, chỉ ra nhiệm vụ giải phóng con người một cách toàn diện,
theo các cấp độ: từ giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp, xã hội đến giải phóng từng cá nhân con người,
hình thành các nhân cách phát triển tự do.
Như vậy, Hồ Chí Minh đã xác định các mục tiêu cụ thể của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội trên tất
cả các lĩnh vực của đời sống xã hội.
- Mục tiêu chính trị: Theo tư tưởng Hồ Chí Minh, trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, chế độ
chính trị phải là do nhân dân lao động làm chủ. Nhà nước là của dân, do dân và vì dân. Nhà nước có hai chức
năng: dân chủ với nhân dân, chuyên chính với kẻ thù của nhân dân. Hai chức năng đó không tách rời nhau,
mà luôn luôn đi đôi với nhau. Một mặt, Hồ Chí Minh nhấn mạnh phải phát huy quyền dân chủ và sinh hoạt
chính trị của nhân dân; mặt khác lại yêu cầu phải chuyên chính với thiểu số phản động chống lại lợi ích của
nhân dân, chống lại chế độ xã hội chủ nghĩa.
Để phát huy quyền làm chủ của nhân dân, Hồ Chí Minh chỉ rõ con đường và biện pháp thực hiện các
hình thức dân chủ trực tiếp, nâng cao năng lực hoạt động của các tổ chức chính trị - xã hội của quần chúng;
củng cố các hình thức dân chủ đại diện, tăng cường hiệu lực và hiệu quả quản lý của các cơ quan lập pháp,
hành pháp và tư pháp, xử lý và phân định rõ chức năng của chúng.
- Mục tiêu kinh tế: Theo Hồ Chí Minh, chế độ chính trị của chủ nghĩa xã hội chỉ được bảo đảm và đứng
vững trên cơ sở một nền kinh tế vững mạnh. Nền kinh tế mà chúng ta xây dựng là nền kinh tế xã hội chủ nghĩa
với công – nông nghiệp hiện đại, khoa học – kỹ thuật tiên tiến, cách bóc lột theo chủ nghĩa tư bản được bỏ
dân, đời sống vật chất của nhân dân ngày càng được cải thiện.
Nền kinh tế xã hội chủ nghĩa ở nước ta cần phát triển toàn diện các ngành mà những ngành chủ yếu là
công nghiệp, nông nghiệp, thương nghiệp, trong đó “công nghiệp và nông nghiệp là hai chân của nền kinh tế
nước nhà”.
Kết hợp các loại lợi ích kinh tế là vấn đề rất được Hồ Chí Minh quan tâm. Người đặc biệt nhấn mạnh
chế độ khoán là một trong những hình thức của sự kết hợp lợi ích kinh tế.
- Mục tiêu văn hóa – xã hội: Theo Hồ Chí Minh, văn hóa là một mục tiêu cơ bản của cách mạng xã họi
chủ nghĩa. Văn hóa thể hiện trong mọi sinh hoạt tinh thần của xã hội, đó là xóa nạn mù chữ, xây dựng, phát
triển giáo dục, nâng cao dân trí, xây dựng phát triển văn hóa – nghệ thuật, thực hiện nếp sống mới, thực hành
vệ sinh phòng bệnh, giải trí lành mạnh, bài trừ mê tín dị đoan, khắc phục phong tục tập quán lạc hậu…
Về bản chất của nền văn hóa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, Người khẳng định: “phải xã hội chủ nghĩa về
nội dung”; để có một nền văn hóa như thế ta phải phát huy vốn cũ quý báu của dân tộc, đồng thời học tập văn
hóa tiên tiến của thế giới. Phương châm xây dựng nền văn hóa mới là: Dân tộc, khoa học, đại chúng.
Hồ Chí Minh đặt lên hàng đầu nhiệm vụ của cách mạng xã hội chủ nghĩa là đào tạo con người. Bởi lẽ,
mục tiêu cao nhất, động lực quyết định nhất công cuộc xây dựng chính là con người.
- Các động lực của chủ nghĩa xã hội
+ Theo Hồ Chí Minh, những động lực biểu hiện ở các phương diện: vật chất và tinh thần; nội sinh và
ngoại sinh, động lực quan trọng và quyết định nhất là con người, là nhân dân lao động. Hồ Chí Minh thường
xuyên quan tâm đến lợi ích chính đáng, thiết thân của họ; đồng thời chăm lo bồi dưỡng sức dân. Đó là lợi ích
của nhân dân và từng cá nhân.
+ Nói con người là động lực của chủ nghĩa xã hội, hơn nữa là động lực quan trọng nhất, Hồ Chí Minh
đã nhận thấy ở động lực này có sự kết hợp giữa cá nhân với xã hội. Người cho rằng, không có chế độ xã hội
nào coi trọng lợi ích chính đáng của cá nhân con người bằng chế độ xã hội chủ nghĩa. Truyền thống yêu nước

21
của dân tộc, sự đoàn kết cộng đồng, sức lao động sáng tạo của nhân dân, đó là sức mạnh tổng hợp tạo nên
động lực quan trọng của chủ nghĩa xã hội.
+ Nhà nước đại diện cho ý chí và quyền lực của nhân dân dưới sự lãnh đạo của Đảng, thực hiện chức
năng quản lý xã hội, đưa sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội đến thắng lợi. Người đặc biệt quan tâm đến
hiệu lực của tổ chức, bộ máy, tính nghiêm minh của kỷ luật, pháp luật, sự trong sạch, liêm khiết của đội ngũ
cán bộ, công chức các cấp từ Trung ương tới địa phương.
+ Hồ Chí Minh rất coi trọng động lực kinh tế, phát triển kinh tế, sản xuất, kinh doanh, làm cho mọi
người, mọi nhà trở nên giàu có, ích quốc lợi dân, gắn liền kinh tế với kỹ thuật, kinh tế với xã hội.
+ Cùng với động lực kinh tế, Hồ Chí Minh cũng quan tâm tới văn hóa, khoa học, giáo dục, coi đó là
động lực tinh thần không thể thiếu của chủ nghĩa xã hội.
Tất cả những nhân tố động lực nêu trên là những nguồn lực tiềm tàng của sự phát triển. Làm thế nào để
những khả năng, năng lực tiềm tàng đó trở thành sức mạnh và không ngừng phát triển. Hồ Chí Minh nhận
thấy sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng có ý nghĩa quyết định đối với sự phát triển của chủ nghĩa xã hội. Đây là
hạt nhân trong hệ động lực của chủ nghĩa xã hội.
+ Ngoài các động lực bên trong, theo Hồ Chí Minh, phải kết hợp được với sức mạnh thời đại, tăng cường
đoàn kết quốc tế, chủ nghĩa yêu nước phải gắn liền với chủ nghĩa quốc tế của giai cấp công nhân, phải sử
dụng tốt những thành tựu khoa học – kỹ thuật thế giới…
Nét độc đáo trong phong cách tư duy biện chứng Hồ Chí Minh là ở chỗ bên cạnh viêc chỉ ra các nguồn
động lực phát triển của chủ nghĩa xã hội, Người còn lưu ý, cảnh báo và ngăn ngừa các yếu tố kìm hãm, triệt
tiêu nguồn năng lượng vốn có của chủ nghĩa xã hội, làm cho chủ nghĩa xã hội trở nên trì trệ, xơ cứng, không
có sức hấp dẫn, đó là tham ô, lãng phí, quan liêu… mà Người gọi đó là “giặc nội xâm”.
Câu 15. Quan niệm của Hồ Chí Minh về thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam?
Trả lời:
- Thực chất, loại hình và đặc điểm của thời kỳ quá độ
C.Mác, Ph.Ăngghen, V.I.Lênin đều khẳng định tính tất yếu khách quan của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa
xã hội và chỉ rõ vị trí lịch sử, nhiệm vụ đặc thù của nó trong quá trình vận động, phát triển của hình thái kinh
tế - xã hội cộng sản chủ nghĩa. Trên cơ sở vận dụng lý luận về cách mạng không ngừng, về thời kỳ quá độ lên
chủ nghĩa xã hội của chủ nghĩa Mác – Lênin và xuất phát từ đặc điểm tình hình thực tế Việt Nam. Hồ Chí
Minh đã khẳng định con đường cách mạng Việt Nam là tiến hành giải phóng dân tộc, hoàn thành cách mạng
dân tộc dân chủ nhân dân, tiến dần lên chủ nghĩa xã hội.
Quan niệm Hồ Chí Minh về thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam là quan niệm về một hình
thái quá độ gián tiếp cụ thể - quá độ từ một xã hội thuộc địa nửa phong kiến, nông nghiệp lạc hậu sau khi
giành được độc lập dân tộc đi lên chủ nghĩa xã hội. Chính ở nội dung cụ thể này, Hồ Chí Minh đã cụ thể và
làm phong phú thêm lý luận Mác – Lênin về thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội.
- Đặc điểm của thời kỳ quá độ
Theo Hồ Chí Minh, khi bước vào thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, nước ta có đặc điểm lớn nhất là
từ một nước nông nghiệp lạc hậu tiến lên chủ nghĩa xã hội không phải kinh qua giai đoạn phát triển tư bản
chủ nghĩa. Đặc điểm này chi phối các đặc điểm khác, thể hiện trong tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội và
làm cơ sở nảy sinh nhiều mâu thuẫn. Trong đó, Hồ Chí Minh đặc biệt lưu ý đến mâu thuẫn cơ bản của thời kỳ
quá độ, đó là mâu thuẫn giữa nhu cầu phát triển cao của đất nước theo xu hướng tiến bộ và thực trạng kinh tế
- xã hội quá thấp kém của nước ta.
- Nhiệm vụ lịch sử của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam
Theo Hồ Chí Minh, thực chất của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta là quá trình cải biến nền
sản xuất lạc hậu thành nền sản xuất tiên tiến, hiện đại. Thực chất của quá trình cải tạo và phát triển nền kinh
tế quốc dân cũng là cuộc đấu tranh giai cấp gay go, phức tạp trong điều kiện mới, khi mà nhân dân ta hoàn
thành cơ bản cách mạng dân tộc dân chủ, so sánh lực lượng trong nước và quốc tế đã có những biến đổi. Điều

22
này đòi hỏi phải áp dụng toàn diện các hình thức đấu tranh cả về chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội nhằm
chống lại các thế lực đi ngược lại con đường xã hội chủ nghĩa.
Theo Hồ Chí Minh, do những đặc điểm và tính chất quy định, quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam
là một quá trình dần dần, khó khăn, phức tạp và lâu dài. Nhiệm vụ lịch sử của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa
xã hội ở Việt Nam bao gồm hai nội dung lớn:
Một là, xây dựng nền tảng vật chất và kỹ thuật cho chủ nghĩa xã hội, xây dựng các tiền đề về kinh tế,
chính trị, văn hóa, tư tưởng cho chủ nghĩa xã hội.
Hai là, cải tạo xã hội cũ, xây dựng xã hội mới, kết hợp cải tạo và xây dựng, trong đó lấy xây dựung làm
trọng tâm, làm nội dung cốt yếu nhất, chủ chốt, lâu dài.
Hồ Chí Minh nhấn mạnh đến tính chất tuần tự, dần dần của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Tính
chất phức tạp và khó khăn của nó được Hồ Chí Minh lý giải trên các điểm sau:
Thứ nhất, đây thực sự là một cuộc cách mạng làm đảo lộn mọi mặt đời sống xã hội, cả lực lượng sản
xuất và quan hệ sản xuất, cả cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng. Nó đặt ra và đòi hỏi đồng thời giải quyết
hàng loạt mâu thuẫn khác nhau.
Thứ hai, trong sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội, Đảng, Nhà nước và nhân dân ta chưa có kinh
nghiệm, nhất là trên lĩnh vực kinh tế. Đây là công việc hết sức mới mẻ đối với Đảng ta, nên phải vừa làm, vừa
học và có thể có vấp váp và thiếu sót. Xây dựng xã hội mới bao giờ cũng khó khăn, phức tạp hơn đánh đổ xã
hội cũ đã lỗi thời.
Thứ ba, sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta luôn luôn bị các thế lực phản động trong và
ngoài nước tìm cách chống phá.
Câu 16. Quan điểm Hồ Chí Minh về nội dung xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta trong thời kỳ
quá độ?
Trả lời:
Công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta là một sự nghiệp cách mạng mang tính toàn diện. Hồ
Chí Minh đã xác định rõ nhiệm vụ cụ thể cho từng lĩnh vực:
- Trong lĩnh vực chính trị, nội dung quan trọng nhất là phải giữ vững và phát huy vai trò lãnh đạo của
Đảng. Đảng phải luôn luôn tự đổi mới và tự chỉnh đốn, nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu, có hình
thức tổ chức phù hợp để đáp ứng các yêu cầu, nhiệm vụ mới. Bước vào thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội,
Đảng ta đã trở thành Đảng cầm quyền. Mối quan tâm lớn nhất của Người về Đảng cầm quyền là làm sao cho
Đảng không trở thành Đảng quan liêu, xa dân, thoái hóa, biến chất, làm mất lòng tin của dân, có thể dẫn đến
nguy cơ sai lầm về đường lối, cắt đứt mối quan hệ máu thịt với nhân dân và để cho chủ nghĩa cá nhân nảy nở
dưới nhiều hình thức.
Một nội dung chính trị quan trọng trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội là củng cố và mở rộng Mặt
trận dân tộc thống nhất, nòng cốt là liên minh công nhân, nông dân và trí thức, do Đảng Cộng sản lãnh đạo;
củng cố và tăng cường sức mạnh toàn bộ hệ thống chính trị cũng như từng thành tố của nó.
- Nội dung kinh tế được Hồ Chí Minh đề cập trên các mặt: lực lượng sản xuất, quan hệ sản xuất, cơ chế
quản lý kinh tế. Người nhấn mạnh đến việc tăng năng suất lao động trên cơ sở tiến hành công nghiệp hóa xã
hội chủ nghĩa. Đối với cơ cấu kinh tế, Hồ Chí Minh đề cập cơ cấu ngành và cơ cấu các thành phần kinh tế, cơ
cấu kinh tế vùng, lãnh thổ.
Người quan niệm hết sức độc đáo về cơ cấu kinh tế nông – công nghiệp, lấy nông nghiệp làm mặt trận
hàng đầu, củng cố hệ thống thương nghiệp làm cầu nối tốt nhất giữa các ngành sản xuất xã hội, thỏa mãn nhu
cầu thiết yếu của nhân dân.
Đối với kinh tế vùng, lãnh thổ, Hồ Chí Minh lưu ý phải phát triển đồng đều giữa kinh tế đô thị và kinh
tế nông thôn. Người đặc biệt chú trọng chỉ đạo phát triển kinh tế vùng núi, hải đảo, vừa tạo điều kiện không
ngừng cải thiện và nâng cao đời sống của đồng bào, vừa đảm bảo an ninh, quốc phòng cho đất nước.
Ở nước ta, Hồ Chí Minh là người đầu tiên chủ trương phát triển cơ cấu kinh tế nhiều thành phần trong
suốt thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Người xác định rõ vị trí và xu hướng vận động của từng thành phần

23
kinh tế. Nước ta cần ưu tiên phát triển kinh tế quốc doanh để tạo nền tảng vật chất cho chủ nghĩa xã hội, thúc
đẩy việc cải tạo xã hội chủ nghĩa. Kinh tế hợp tác xã là hình thức sở hữu tập thể của nhân dân lao động, nhà
nước cần đặc biệt khuyến khích, hướng dẫn và giúp đỡ nó phát triển. Về tổ chức hợp tác xã, Hồ Chí Minh
nhấn mạnh nguyên tắc dần dần, từ thấp đến cao, tự nguyện, cùng có lợi, chống chủ quan, gò ép, hình thức.
Đối với người làm nghề thủ công và lao động riêng lẻ khác, nhà nước bảo hộ quyền sở hữu về tư liệu sản xuất,
hướng dẫn và giúp họ cải thiến cách làm ăn, khuyến khích họ đi vào con đường hợp tác. Đối với những nhà
tư sản công thương, vì họ đã tham gia ủng hộ cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân, có đóng góp nhất định
trong khôi phục kinh tế và sẵn sàng tiếp thu, cải tạo để góp phần xây dựng nước nhà, xây dựng chủ nghĩa xã
hội, nên nhà nước không xóa bỏ quyền sở hữu về tư liệu sản xuất và của cải khác của họ, mà hướng dẫn họ
hoạt động làm lợi cho quốc kế dân sinh, phù hợp với kinh tế nhà nước, khuyến khích và giúp đỡ họ cải tạo
theo chủ nghĩa xã hội bằng cách hình thức tư bản nhà nước.
Bên cạnh chế độ và quan hệ sở hữu, Hồ Chí Minh rất coi trọng quan hệ phân phối và quản lý kinh tế.
Quản lý kinh tế phải dựa trên cơ sở hạch toán, đem lại hiệu quả cao, sử dụng tốt các đòn bẩy trong phát triển
sản xuất. Người chủ trương và chỉ rõ các điều kiện thực hiện nguyên tắc phân phối theo lao động: làm nhiều
hưởng nhiều, làm ít hưởng ít, không làm không hưởng. Gắn liền với nguyên tắc phân phối theo lao động, Hồ
Chí Minh bước đầu đề cập vấn đề khoán trong sản xuất.
- Trong lĩnh vực văn hóa – xã hội, Hồ Chí Minh nhấn mạnh đến vấn đề xây dựng con người mới. Đặc
biệt, Hồ Chí Minh đề cao vai trò của văn hóa, giáo dục và khoa học – kỹ thuật trong xã hội xã họi chủ nghĩa.
Người cho rằng, muốn xây dựng chủ nghĩa xã hội nhất định phải có học thức, cần phải học cả văn hóa, chính
trị, kỹ thuật và chủ nghĩa xã hội với khoa học chắc chắn đưa loài người đến hạnh phúc vô tận. Hồ Chí Minh
rất coi trọng việc nâng cao dân trí, đào tạo và sử dụng nhân tài, khẳng định vai trò to lớn của văn hóa trong
đời sống xã hội.
Câu 17. Quan điểm của Hồ Chí Minh về bước đi và các biện pháp xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước
ta?
Trả lời:
Hồ Chí Minh xác định rõ nhiệm vụ lịch sử, nội dung của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt
Nam. Điều trăn trở khôn nguôi của Người là tìm ra hình thức, bước đi, biện pháp tiến hành xây dựng chủ
nghĩa xã hội, biến nhận thức lý luận thành chương trình hành động, thành hoạt động thực tiễn hằng ngày.
Để xác định bước đi và tìm cách làm phù hợp với Việt Nam, Hồ Chí Minh đề ra hai nguyên tắc có tính
phương pháp luận:
Một là, xây dựng chủ nghĩa xã hội là một hiện tượng phổ biến mang tính quốc tế, cần quán triệt các
nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác – Lênin về xây dựng chế độ mới, có thể tham khảo, học tập kin nghiệm
của các nước anh em. Học tập những kinh nghiệm của các nước tiên tiến, nhưng không được sao chép, máy
móc, giáo điều. Hồ Chí Minh cho rằng, Việt Nam có thể làm khác Liên Xô, Trung Quốc và các nước khác vì
Việt Nam có đièu kiện cụ thể khác.
Hai là, xác định bước đi và biện pháp xây dựng chủ nghĩa xã hội chủ yếu xuất phát từ điều kiện thực tế,
đặc điểm dân tộc, nhu cầu và khả năng thực tế của nhân dân.
Trong khi nhấn mạnh hai nguyên tắc trên đây, Hồ Chí Minh lưu ý vừa chống việc xa rời nguyên lý cơ
bản của chủ nghĩa Mác – Lênin, quá tuyệt đối hóa cái riêng, những đặc điểm của dân tộc, vừa chống máy móc,
giáo điều khi áp dụng các nguyên lý của chủ nghĩa Mác – Lênin mà không tính đến những điều kiện lịch sử
cụ thể của đất nước và của thời đại.
Quán triệt hai nguyên tắc phương pháp luận này, Hồ Chí Minh xác định phương châm thực hiện bước
đi trong xây dựng chủ nghĩa xã hội: Dần dần, thận trọng từng bước một, từ thấp đến cao, không chủ quan nôn
nóng và việc xác định bước đi phải luôn luôn căn cứ vào các điều kiện khách quan quy định. Hồ Chí Minh
nhận thức về phương châm “Tiến nhanh, tiến mạnh, tiến vững chắc lên chủ nghĩa xã hội” không có nghĩa là
làm bừa, làm ẩu, “đốt cháy giai đoạn”, chủ quan, duy ý chí, mà phải làm vững chắc từng bước, phù hợp với
điều kiện thực tế. Trong các bước đi lên chủ nghĩa xã hội, Hồ Chí Minh đặc biệt lưu ý đến vai trò của công

24
nghiệp hóa xã hội chủ nghĩa, coi đó là “con đường phải đi của chúng ta”, là nhiệm vụ trọng tâm của cả thời
kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội; nhưng công nghiệp hóa không có nghĩa là xây dựng những nhà máy, xí nghiệp
cho thật to, quy mô cho thật lớn bất chấp những điều kiện cụ thể cho phép trong từng giai đoạn nhất định.
Theo Người, công nghiệp hóa xã hội chủ nghĩa chỉ có thể thực hiện thắng lợi trên cơ sở xây dựng và phát
triển nền nông nghiệp toàn diện, vững chắc, một hệ thống tiểu thủ công nghiệp, công nghiệp nhẹ đa dạng
nhằm giải quyết vấn đề lương thực, thực phẩm cho nhân dân, các nhu cầu tiêu dùng thiết yếu cho xã hội.
Cùng với các bước đi, Hồ Chí Minh đã gợi ý nhiều phương thức, biện pháp tiến hành xây dựng chủ
nghĩa xã hội. Trên thực tế, Người đã sử dụng một số cách làm cụ thể sau đây:
+ Thực hiện cải tạo xã hội cũ, xây dựng xã hội mới, kết hợp cải tạo với xây dựng, lấy xây dựng làm
chính.
+ Kết hợp xây dựng và bảo vệ, đồng thời tiến hành hai nhiệm vụ chiến lược ở hai miền Nam – Bắc khác
nhau trong phạm vi một quốc gia.
+ Xây dựng chủ nghĩa xã hội phải có kế hoạch, biện pháp, quyết tâm để thực hiện thắng lợi kế hoạch.
+ Trong điều kiện nước ta, biện pháp cơ bản, quyết định, lâu dài trong xây dựng chủ nghĩa xã hội là đem
của dân, tài dân, sức dân, làm lợi cho dân dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam.
Hồ Chí Minh cho rằng, phải huy động hết tiềm năng, nguồn lực có trong dân để đem lại lợi ích cho dân.
Nói cách khác, phải biến sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội thành sự nghiệp của toàn dân do Đảng lãnh
đạo. Vai trò lãnh đạo của Đảng cầm quyền là tập hợp lực lượng, đề ra đường lối, chính sách để huy động và
khai thác triệt để các nguồn lực của dân, vì lợi ích của quần chúng lao động.
Câu 18. Giá trị lý luận và thực tiễn của tư tưởng Hồ Chí Minh về chủ nghĩa xã hội và con đường
quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam?
Trả lời:
- Tư tưởng Hồ Chí Minh về chủ nghĩa xã hội và con đường quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam bao
quát những vấn đề cốt lõi, cơ bản nhất, trên cơ sở vận dụng và phát triển sáng tạo học thuyết Mác – Lênin.
Đó là các luận điểm về bản chất, mục tiêu và động lực của chủ nghĩa xã hội; về tính tất yếu khách quan của
thời kỳ quá độ; về đặc điểm, nhiệm vụ lịch sử, nội dung, các hình thức, bước đi và biện pháp tiến hành công
cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta. Tư tưởng đó trở thành tài sản vô giá, cơ sở lý luận và kim chỉ nam
cho việc kiên trì, giữ vững định hướng xã hội chủ nghĩa của Đảng ta, đồng thời gợi mở nhiều vấn đề về xác
định hình thức, biện pháp và bước đi lên chủ nghĩa xã hội phù hợp với những đặc điểm dân tộc và xu thế vận
động của thời đại ngày nay.
- Cùng với tổng kết lý luận – thực tiễn, quan niệm của Đảng ta về chủ nghĩa xã hội, về con đường đi lên
chủ nghĩa xã hội ngày càng sát thực, cụ thể hóa. Nhưng, trong quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội, bên cạnh
những thời cơ, vận hội, nước ta đang phải đối đầu với hàng loạt thách thức, khó khăn cả trên bình diện quốc
tế, cũng như từ các điều kiện thực tế trong nước tạo nên. Trong bối cảnh đó, vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh
về chủ nghĩa xã hội và con đường quá độ lên chủ nghĩa xã hội, chúng ta cần tập trung giải quyết những vấn
đề quan trọng nhất.
+ Giữ vững mục tiêu của chủ nghĩa xã hội
Hồ Chí Minh là người tìm ra con đường giải phóng dân tộc Việt Nam: Con đường độc lập dân tộc gắn
liền với chủ nghĩa xã hội. Độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội cũng chính là mục tiêu cao cả, bất biến của
toàn Đảng, toàn dân ta. Dưới sự lãnh đạo của Đảng, nhân dân ta đã đấu tranh giành được độc lập dân tộc, từng
bước quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Trong điều kiện nước ta, độc lập dân tộc phải gắn liền với chủ nghĩa xã hội,
sau khi giành được độc lập dân tộc phải đi lên chủ nghĩa xã hội, vì đó là quy luật tiến hóa trong quá trình phát
triển của xã hội loài người. Chỉ có chủ nghĩa xã hội mới đáp ứng được khát vọng của toàn dân tộc: độc lập
cho dân tộc, dân chủ cho nhân dân, cơm no áo ấm cho mọi người dân Việt Nam. Thực tiễn phát triển đất nước
cho thấy, độc lập dân tộc là điều kiện tiên quyết để thực hiện chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa xã hội là cơ sở
bảo đảm vững chắc cho độc lập dân tộc.

25
Vấn đề đặt ra là trong quá trình phát triển vẫn giữ vững định hướng xã hội chủ nghĩa, biết cách sử dụng
các thành tựu của loài người phục vụ cho công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội, nhất là thành tựu khoa học –
công nghệ hiện đại làm cho tăng trưởng kinh tế luôn đi liền với sự tiến bộ, công bằng xã hội, sự trong sạch,
lành mạnh về đạo đức, tinh thần.
+ Phát huy quyền làm chủ của nhân dân, khơi dậy mạnh mẽ tất cả các nguồn lực, trước hết là nội lực để
đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước gắn với phát triển kinh tế tri thức.
Công nghiệp hóa, hiện đại hóa gắn với phát triển kinh tế tri thức là con đường tất yếu phải đi của đất
nước ta. Chúng ta phải tranh thủ thành tựu của cách mạng khoa học và công nghệ, của điều kiện giao lưu, hội
nhập quốc tế để nhanh chóng biến nước ta thành một nước công nghiệp theo hướng hiện đại, sánh vai với các
cường quốc năm châu như mong muốn của Hồ Chí Minh.
Hồ Chí Minh đã chỉ dân: Xây dựng chủ nghĩa xã hội là sự nghiệp của toàn dân, do Đảng lãnh đạo, phải
đem tài dân, sức dân, của dân làm lợi cho dân, nghĩa là phải biết phát huy mọi nguồn lực vốn có trong dân để
xây dựng cuộc sống ấm no, hạnh phúc cho nhân dân. Theo tinh thần đó, ngày nay, công nghiệp hóa, hiện đại
hóa đất nước gắn với phát triển kinh tế tri thức phải dựa vào nguồn lực trong nước là chính, có phát huy mạnh
mẽ nội lực mới có thể tranh thủ sử dụng hiệu quả các nguồn lực bên ngoài. Trong nội lực, nguồn lực con
người là vốn quý nhất.
Nguồn lực của nhân dân, của con người Việt nam bao gồm trí tuệ, tài năng, sức lao động, của cải thật to
lớn. Để phát huy tốt sức mạnh của toàn dân tộc nhằm xây dựng và phát triển đất nước, cần giải quyết tốt các
vấn đề sau:
 Tin dân, dựa vào dân, xác lập quyền làm chủ của nhân dân trên thực tế, làm cho chế độ dân chủ được
thực hiện trong mọi lĩnh vực hoạt động của con người, nhất là ở địa phương, cơ sở, làm cho dân chủ thật sự
trở thành động lực của sự phát triển xã hội.
 Chăm lo mọi mặt đời sống của nhân dân để nâng cao chất lượng nguồn nhân lực.
 Thực hiện nhất quán chiến lược đại đoàn kết dân tộc của Hồ Chí Minh, trên cơ sở lấy liên minh công
– nông – trí thức làm nòng cốt, tạo nên sự đồng thuận xã hội vững chắc vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã
hội công bằng, dân chủ, văn minh.
+ Kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại
Xây dựng chủ nghĩa xã hội phải biết tranh thủ các điều kiện quốc tế thuận lợi, tận dụng tối đa sức mạnh
của thời đại. Ngày nay, sức mạnh của thời đại tập trung ở cuộc cách mạng khoa học, công nghệ, xu thế toàn
cầu hóa. Chúng ta cần ra sức tranh thủ tối đa các cơ hội do xu thế đó tạo ra để nâng cao hiệu quả hợp tác quốc
tế; phải có cơ chế, chính sách đúng để thu hút vốn đầu tư, kinh nghiệm quản lý và công nghệ hiện đại, thực
hiện kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại theo tư tưởng Hồ Chí Minh.
+ Chăm lo xây dựng Đảng vững mạnh, làm trong sạch bộ máy nhà nước, đẩy mạnh đấu tranh chống
quan liêu, tham nhũng, lãng phí, thực hiện cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư để xây dựng chủ nghĩa xã
hội.
Thực hiện mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, phát huy quyền làm chủ của nhân dân cần đến
vai trò lãnh đạo của Đảng cách mạng chân chính, một Nhà nước thật sự của dân, do dân và vì dân. Muốn vậy,
phải:
 Xây dựng Đảng Cộng sản Việt Nam cầm quyền, một Đảng “đạo đức, văn minh”. Cán bộ, đảng viên
gắn bó máu thịt với nhân dân, vừa là người hướng dẫn, lãnh đạo nhân dân, vừa hết lòng hết sức phục vụ nhân
dân, gương mẫu trong mọi việc.
 Xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa mạnh mẽ, của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân;
thực hiện cải cách nền hành chính quốc gia một cách đồng bộ để phục vụ đời sống nhân dân.
Câu 19. Cơ sở lý luận và thực tiễn hình thành tư tưởng Hồ Chí Minh về Đảng Cộng sản Việt Nam?
Trả lời:
Cơ sở lý luận: Tư tưởng Hồ Chí Minh về Đảng Cộng sản Việt Nam có cơ sở lý luận từ chủ nghĩa Mác
– Lênin về Đảng Cộng sản, đặc biệt là học thuyết về Đảng kiểu mới của V.I.Lênin.

26
Trong quá trình xây dựng học thuyết về cách mạng vô sản, C.Mác và Ph.Ăngghen chú ý tới việc thành
lập các Đảng Cộng sản ở những nước tư bản chủ nghĩa để lãnh đạo giai cấp vô sản và quần chúng lao động
lật đổ chế độ tư bản chủ nghĩa tiến thẳng lên chủ nghĩa xã hội.
Trong giai đoạn đế quốc chủ nghĩa, vấn đề dân tộc và thuộc địa được đặt ra như một vấn đề bức thiết,
Lênin phát triển nhiều luận điểm của C.Mác về cách mạng trong điều kiện các nước thuộc địa. Luận điểm về
Đảng kiểu mới của Lênin không chỉ nhằm xóa bỏ chế độ tư bản chủ nghĩa, giải phóng giai cấp vô sản rồi giải
phóng quần chúng lao động, giải phóng con người mà còn nhằm trước hết giải phóng dân tộc rồi giải phóng
giai cấp, giải phóng con người. Lênin nhấn mạnh vai trò của Đảng Cộng sản ở các nước thuộc địa trong việc
giải quyết quyền lợi giai cấp gắn liền với quyền lợi dân tộc; giải quyết vấn đề dân tộc và vấn đề dân chủ trên
lập trường cách mạng triệt để của giai cấp vô sản.
Năm 1919, V.I.Lênin sáng lập ra Quốc tế III – Quốc tế Cộng sản, bộ tham mưu của giai cấp vô sản thế
giới. Từ đây, cùng với lý luận của Lênin, Quốc tế Cộng sản đóng vai trò quan trọng thúc đẩy phong trào giải
phóng dân tộc theo con đường cách mạng vô sản.
Hồ Chí Minh đến với chủ nghĩa Mác – Lênin không chỉ tìm thấy ở đây con đường cứu nước đúng đắn,
mà còn nhận thức được sự cần thiết phải có một đảng cách mạng chân chính lãnh đạo sự nghiệp giải phóng
dân tộc theo con đường cách mạng vô sản. Cuối tháng 12 – 1920, Người đã tán thành Quốc tế III và là người
dân thuộc địa duy nhất tham gia sáng lập Đảng Cộng sản Pháp. Đây là sự phát triển logic tất yếu của tư duy
Nguyễn Ái Quốc từ khi ra đi tìm đường cứu nước và đến với Cách mạng Tháng Mười và chủ nghĩa Mác –
Lênin.
Cơ sở thực tiễn: Hồ Chí Minh tiếp nhận ánh sáng Cách mạng Tháng Mười cả giá trị lý luận và thực tiễn.
Thực tiễn lớn nhất ở đây là dưới sự lãnh đạo của Đảng Bônsêvích Nga, cách mạng đã thành công. Sau Cách
mạng Tháng Mười Nga, Quốc tế Cộng sản ra đời. Từ đó, nhiều Đảng Cộng sản được thành lập ở các nước và
gia nhập Quốc tế Cộng sản. Đảng Cộng sản Trung Quốc và Đảng Cộng sản Nhật Bản ra đời năm 1921, Đảng
Cộng sản Triều Tiên ra đời năm 1925, Đảng Cộng sản Ấn Độ và Đảng Cộng sản Thái Lan ra đời năm 1928…
Từ sau năm 1920, Hồ Chí Minh tiếp tục theo dõi các sự kiện quốc tế, tiếp tục nghiên cứu lý luận và hoạt
động thực tiễn, tranh thủ các diễn đàn quốc tế, thông qua các phương tiện báo chí để truyền bá tư tưởng về
đảng vào phong trào cách mạng Việt Nam. Người tích cực hòa bình vào phong trào cách mạng thế giới mà
trước hết là tham gia vào các tổ chức có tính chất quốc tế như tham gia sáng lập Hội Liên hiệp thuộc địa được
tổ chức ở Pari năm 1921, Hội Liên hiệp các dân tộc bị áp bức được tổ chức ở Quảng Châu năm 1925…
Từ năm 1921, đặc biệt là từ khi về hoạt động ở Trung Quốc đến đầu năm 1930 khi Đảng Cộng sản Việt
Nam ra đời, hoạt động chủ yếu của Nguyễn Ái Quốc là chuẩn bị chu đáo các yếu tố về chính trị, tư tưởng và
tổ chức để cho ra đời Đảng Cộng sản Việt Nam. Việc tổ chức Hội Việt Nam cách mạng thanh niên được thành
lập năm 1925 đánh dấu mốc quan trọng trong hoạt động thực tiễn của Nguyễn Ái Quốc. Thông qua tổ chức
tiền thân này, Nguyễn Ái Quốc có điều kiện đào tạo, bồi dưỡng lớp cán bộ đầu tiên theo chủ nghĩa Mác –
Lênin để hướng đạo sự nghiệp giải phóng dân tộc theo con đường cách mạng mới – con đường cách mạng vô
sản. Cũng trong thời gian ở Trung Quốc, Nguyễn Ái Quốc đã chọn người gửi vào học Trường Quân sự Hoàng
Phố ở Quảng Châu và Trường Đại học Phương Đông của Quốc tế Cộng sản Mátxcơva để sau đó về nước hoạt
động. Đây cũng là một trong phương cách để đưa chủ nghĩa Mác – Lênin du nhập trực tiếp vào Việt Nam một
cách nhanh chóng, từng bước làm cho phong trào công nhân chuyển nhanh từ tự phát sang tự giác.
Từ năm 1925, với sự ra đời của Hội Việt Nam cách mạng thanh niên, có Cộng sản đoàn làm nòng cốt,
“quả trứng bắt đầu nở ra con chim non cộng sản”, một cơ sở lúc đầu còn nhỏ bé nhưng sẽ là cơ sở cho một
đảng lớn hơn. Từ đây, chủ nghĩa Mác Lênin từng bước du nhập mạnh mẽ vào Việt Nam, kết hợp với phong
trào công nhân và phong trào yêu nước Việt Nam dẫn tới việc xuất hiện ba tổ chức cộng sản ở Việt Nam:
Đông Dương Cộng sản ở Bắc Kỳ, tháng 6 – 1929, An Nam Cộng sản Đảng ở Nam Kỳ, tháng 8 – 1929 và
Đông Dương Cộng sản liên đoàn, tháng 9 – 1929. Đây là cơ sở thực tiễn trực tiếp và quan trọng nhất để từ đó
Nguyễn Ái Quốc chủ động để thống nhất ba tổ chức thành một tổ chức duy nhất là Đảng Cộng sản Việt Nam
vào đầu năm 1930.

27
Với sự ra đời của Đảng Cộng sản Việt Nam, cách mạng Việt Nam bắt đầu chuyển sang một bước ngoặt
mới, chấm dứt sự khủng hoảng về đường lối cách mạng kéo dài mấy thập kỷ đầu thế kỷ XX. Từ đây, phong
trào giải phóng dân tộc Việt Nam tiến hành theo con đường cách mạng vô sản.
Câu 20. Quan điểm của Hồ Chí Minh về sự ra đời và vai trò của Đảng Cộng sản Việt Nam?
Trả lời:
Hồ Chí Minh có hai cống hiến lớn về Đảng. Một là, cống hiến trong việc sáng lập Đảng (về sự ra đời
của Đảng); hai là, cống hiến về xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh.
Về sự ra đời của Đảng Cộng sản Việt Nam: Theo quan điểm của V.I.Lênin (chủ nghĩa Mác – Lênin),
Đảng Cộng sản ra đời chỉ cần hai yếu tố, đó là sự kết hợp chủ nghĩa Mác với phong trào công nhân. Điều này
hoàn toàn phù hợp với điều kiện cụ thể của nước Nga và tình hình ở châu Âu. Tuy nhiên, ngay khi tổng kết
như vậy, Lênin cũng lưu ý rằng Đảng ra đời là sản phẩm của lịch sử và diễn ra trong những điều kiện không
gian và thời gian nhất định. Điều này có thể được hiểu các yếu tố dẫn tới sự ra đời của một Đảng Cộng sản
không phải bao giờ cũng khuôn lại trong những yếu tố cố định, cứng nhắc.
Nhân dịp kỷ niệm ba mươi năm thành lập Đảng, Hồ Chí Minh khẳng định: “Chủ nghĩa Mác – Lênin kết
hợp với phong trào công nhân và phong trào yêu nước đã dẫn tới việc thành lập Đảng Cộng sản Đông Dương
vào đầu năm 1930”4. Tổng kết của Hồ Chí Minh nói lên quy luật ra đời của Đảng Cộng sản ở một nước thuộc
địa. So với “công thức” của Lênin, “công thức” của Hồ Chí Minh có thêm một yếu tố mới là phong trào yêu
nước.
Trước hết phải khẳng định rằng Hồ Chí Minh nhận thức rất rõ vai trò của chủ nghĩa Mác – Lênin như
là cơ sở tư tưởng của phong trào công nhân. Người cũng nhận thức rõ vai trò của phong trào công nhân như
là cơ sở xã hội của chủ nghĩa Mác – Lênin. Không có chủ nghĩa Mác – Lênin thì phong trào công nhân thì
chủ nghĩa Mác – Lênin không có đất để bám rễ. Nhưng tại sao Hồ Chí Minh lại nêu thêm yếu tố mới là phong
trào yêu nước? Và yếu tố mới này lại có khả năng kết hợp với phong trào công nhân.
Sự ra đời của Đảng Cộng sản Việt Nam phải có thêm yếu tố mới là phong trào yêu nước, vì phong trào
yêu nước là một yếu tố trường tồn trong lịch sử, có trước phong trào công nhân, đóng vai trò quan trọng trong
quá trình phát triển của dân tộc. Ngay cả khi có phong trào công nhân (từ khi có giai cấp công nhân ra đời
trong cuộc khai thác thuộc địa lần thứ nhất của thực dân Pháp, 1897 – 1914), thì phong trào yêu nước vẫn giữ
vai trò cực kỳ to lớn trong cuộc đấu tranh cách mạng, vì lúc này phong trào công nhân vẫn còn trong tình
trạng “tự phát”. Các phong trào yêu nước đấu tranh đòi thả Phan Bội Châu, đòi để tang Phan Châu Trinh trong
những năm 1925 – 1926 là những minh chứng cho sức mạnh của phong trào yêu nước.
Phong trào yêu nước bàn tới ở đây không phải tất cả mọi loại hình mà chỉ là những phong trào yêu nước
theo khuynh hướng cách mạng vô sản, tức là các phong trào yêu nước triệt để. Các loại phong trào yêu nước
triệt để đó có thể kết hợp được với phong trào công nhân vì mấy lý do cơ bản sau đây:
Thứ nhất, cả phong trào công nhân và phong trào yêu nước trong điều kiện một nước thuộc địa đều có
mục tiêu chung là giải phóng dân tộc, giành độc lập dân tộc, đưa đất nước phát triển theo con đường phồn
vinh, hạnh phúc. Nói tới phong trào công nhân là nói đấu tranh chống ách áp bức giai cấp, là nói tới chủ nghĩa
xã hội; nói tới phong trào yêu nước là nói đấu tranh chống ách áp bức dân tộc, là nói tới độc lập dân tộc.
Nhưng dưới ách áp bức của thực dân Pháp thì trước hết đất nước phải giành được độc lập dân tộc. Không có
độc lập dân tộc không có gì hết. Giải phóng dân tộc trong đó có cả lợi ích của giai cấp công nhân.
Thứ hai, trong phong trào yêu nước, lực lượng nông dân chiếm phần lớn. Mà nông dân Việt Nam lại có
quan hệ tự nhiên với giai cấp công nhân (nông dân mất ruộng trở thành công nhân và công nhân mất việc trở
thành nông dân). Vì vậy, phong trào nông dân có khả năng kết hợp với phong trào công nhân.
Thứ ba, trong phong trào yêu nước, đội ngũ trí thức giữ vai trò quan trọng cả về số lượng và vị trí, vai
trò. Đội ngũ trí thức nhờ điều kiện làm việc đặc thù nên rất nhanh nhạy với thời cuộc, dễ tiếp thu cái mới. Vì

4
Sđd, t.10, tr.8

28
vậy, họ thường là “ngòi nổ” của các phong trào chống Pháp. Họ đưa lý luận cách mạng vào phong trào công
nhân, làm cho phong trào công nhân chuyển dần từ “tự phát” sang “tự giác”.
Về vai trò của Đảng Cộng sản Việt Nam: Nói tới Đảng Cộng sản Việt Nam là nói tới lãnh đạo cách
mạng, tổ chức, giáo dục, tập hợp quần chúng đưa quần chúng ra đấu tranh cách mạng. Hồ Chí Minh chỉ rõ:
Cách mạng là sự nghiệp của quần chúng, chứ không phải là sự nghiệp của cá nhân anh hùng nào. Thành công
của Đảng ta là ở nơi Đảng ta đã tổ chức và phát huy lực lượng cách mạng vô tận của nhân dân, đã lãnh đạo
nhân dân phấn đấu dưới lá cờ tất thắng của chủ nghĩa Mác – Lênin.
Cách mạng là sự nghiệp của quần chúng nhưng nếu không có Đảng lãnh đạo thì lực lượng vô tận của
quần chúng không chắc chắn thắng lợi. Ngay từ năm 1927, Hồ Chí Minh đã chỉ rõ vai trò của Đảng là trong
thì vận động và tổ chức dân chúng, ngoài thì liên lạc với dân tộc bị áp bức và vô sản giai cấp mọi nơi. Người
cho rằng: “Muốn khỏi đi lạc phương hướng, quần chúng phải có Đảng lãnh đạo để nhận rõ tình hình, đường
lối và định phương châm cho đúng. Cách mạng là cuộc đấu tranh rất gian khổ. Lực lượng kẻ địch rất mạnh.
Muốn thắng lợi thì quần chúng phải tổ chức rất chựat chẽ; chí khí phải kiên quyết. Vì vậy, phải có Đảng để
tổ chức và giáo dục nhân dân thành một đội quân thật mạnh, để đánh đổ kẻ địch, tranh lấy chính quyền. Cách
mạng thắng lợi rồi, quần chúng vẫn cần có Đảng lãnh đạo”5.
Tóm lại, Đảng là nhân tố hàng đầu đưa cách mạng Việt Nam đến thắng lợi.
Câu 21. Quan niệm của Hồ Chí Minh về Đảng Cộng sản Việt Nam cầm quyền?
Trả lời:
Khái niệm “Đảng cầm quyền” được dùng trong khoa học chính trị để chỉ một chính đảng chính trị đại
diện cho một giai cấp đang nắm giữ và lãnh đạo chính quyền nhằm thực hiện lợi ích của giai cấp mình.
Khái niệm “Đảng cầm quyền” được dùng phổ biến tại các nước tư bản chủ nghĩa với nội dung một đảng
nào đó giành được đa số phiếu trong nghị viện. Đảng đó có quyền lập chính phủ; nếu giành được 2/3 số phiếu
thì có quyền sửa đổi hiến pháp. Như vậy, đảng cầm quyền ở các nước tư bản gắn với thể chế đảng nghị viện
và nắm cơ quan hành pháp.
Trong các bài viết, bài nói của mình, Hồ Chí Minh từng nói “Đảng nắm quyền”, “Đảng lãnh đạo chính
quyền” đều là những khái niệm liên quan tới Đảng cầm quyền. Trong Di chúc, Người nói rõ “Đang ta là một
Đảng cầm quyền”. Đây là một tổng kết toàn bộ quá trình lãnh đạo của Đảng từ sau khi giành được chính
quyền trong Cách mạng Tháng Tám năm 1945.
Quan niệm của Hồ Chí Minh về Đảng Cộng sản Việt Nam cầm quyền không đơn thuần chỉ là vấn đề
thời gian, Đảng lãnh đạo nhân dân giành chính quyền, trở thành Đảng cầm quyền (từ sau Cách mạng Tháng
Tám năm 1945), mà thể hiện mục tiêu, lý tưởng, mối quan hệ giữa Đảng với dân, về đạo đức, trí tuệ, bản lĩnh
của Đảng cầm quyền, v.v…
Hồ Chí Minh chưa hề đưa ra định nghĩa (khái niệm) nào về Đảng Cộng sản Việt Nam cầm quyền, nhưng
từ di sản của Người, chúng ta có thể hiểu Đảng Cộng sản Việt Nam cầm quyền theo tư tưởng Hồ Chí Minh
như sau: Đảng Cộng sản Việt Nam cầm quyền là nói tới giai đoạn Đảng đã nắm chính quyền, tiếp tục lãnh
đạo cách mạng để thực hiện lý tưởng của Đảng và dân tộc là Độc lập – Tự do – Hạnh phúc.
Quan niệm của Hồ Chí Minh về Đảng Cộng sản Việt Nam cầm quyền bắt đầu từ việc xác định nhiệm
vụ và sứ mệnh của Đảng. Điều này cũng chi phối toàn bộ những nội dung khác của Đảng cầm quyền. Cùng
một bộ tham mưu tức Đảng Cộng sản Việt Nam, nhưng khi chưa cầm quyền thì nhiệm vụ chủ yếu là lãnh đạo
nhân dân xóa bỏ chính quyền bóc lột của thực dân phong kiến, giành chính quyền về tay nhân dân. Nhưng
khi đã có chính quyền thì nhiệm vụ chủ yếu là xây dựng đất nước, thắng bần cùng, lạc hậu. Nhiệm vụ này
khó khăn hơn nhiệm vụ chống đế quốc và phong kiến. Chống lại những gì đã cũ kỹ, hư hỏng, để tạo ra những
cái mới mẻ, tốt tươi là một cuộc chiến đấu khổng lồ.

5
Sđd, t.7, tr.228 – 229

29
Trong điều kiện mới nhưng mục tiêu, lý tưởng của Đảng không thay đổi. Tức là Đảng không có lợi ích
nào khác ngoài lợi ích của giai cấp, của Tổ quốc, của nhân dân, tức là phấn đấu cho Tổ quốc hoàn toàn độc
lập, cho chủ nghĩa xã hội hoàn toàn thắng lợi trên đất nước ta.
Đảng cầm quyền phải tiếp tục hoàn thành sứ mệnh lãnh đạo của mình, thực hiện quyền lãnh đạo duy
nhất đối với toàn xã hội, lãnh đạo chính quyền nhà nước và các đoàn thể nhân dân. Để xứng danh là người
lãnh đạo, Đảng phải có trí tuệ, đạo đức, bản lĩnh. Bởi vì “chỉ trong đấu tranh và công tác hằng ngày, khi quần
chúng rộng rãi thừa nhận chính sách đúng đắn và năng lực lãnh đạo của Đảng, thì Đảng mới giành được địa
vị lãnh đạo”. Lãnh đạo không có nghĩa là đứng trên quần chúng, đứng ngoài quần chúng, mà phải bằng phương
thức lãnh đạo thích hợp, giáo dục, thuyết phục, vận động, tổ quốc quần chúng. Đảng lãnh đạo những quyền
hành và lực lượng đều ở nơi dân. Vì vậy, Đảng “phải đi đúng đường lối quần chúng; không được quan liêu,
mệnh lệnh và gò ép nhân dân”. Đảng lãnh đạo nhưng phải sâu sát quần chúng, gắn bó mật thiết với nhân dân,
lắng nghe ý kiến của dân, khiêm tốn học hỏi nhân dân và chịu sự kiểm soát của dân; “phải học dân chúng,
phải hỏi dân chúng, phải hiểu dân chúng”. Bởi vì “không học hỏi dân chúng thì không lãnh đạo được dân. Có
biết làm học trò dân, mới làm được thầy học của dân”.
Vấn đề đối với Đảng Cộng sản Việt Nam cầm quyền không chỉ là “vừa là người lãnh đạo, vừa là người
đầy tớ trung thành của nhân dân”, mà “lãnh đạo là làm đày tớ nhân dân và phải làm cho tốt”. Muốn làm được
điều đó để sự lãnh đạo trong mọi công tác thiết thực, “ắt phải từ trong quần chúng ra, trở lại nơi quần chúng”.
Hai khái niệm “lãnh đạo” và “đầy tớ” tuy hai mà một, tuy một mà hai. Là hai khái niệm bởi vì lãnh đạo
là vạch đường, chỉ lối, tổ chức thực hiện tốt đường lối nên phải có trí tuệ, bản lĩnh, đạo đức. Còn “đầy tớ trung
thành” là phục vụ hết mình, tận tâm, tận lực. Việc gì lợi cho dân thì phải hết sức làm; việc gì hại cho dân thì
phải hết sức tránh, bởi vì dù lãnh đạo hay đày tớ thì đều hết lòng, hết sức phục vụ Tổ quốc, phục vụ cách
mạng, phục vụ nhân dân một cách tốt nhất. Những khía cạnh trên đều liên quan tới trách nhiệm, đạo đức, trí
tuệ, bản lĩnh của từng cán bộ, đảng viên, bởi vì “Đảng là mỗi chúng ta”. Trong quan niệm của Hồ Chí Minh
về Đảng Cộng sản Việt Nam cầm quyền không chung chung, trừu tượng mà nói rõ trách nhiệm từng cán bộ:
“Làm cán bộ tức là suốt đời làm đày tớ trung thành của nhân dân. Mấy chữ a, b, c này không phải ai cũng
thuộc đâu, phải học mãi, học suốt đời mới thuộc được”6. Suốt đời làm đày tớ là phải có đạo đức cách mạng
cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư; chăm lo dân quyền, dân sinh, dân trí, dân chủ, như vậy mới làm cho
dân tin, dân phục, dân yêu.
Trong quan niệm của Hồ Chí Minh về Đảng Cộng sản Việt Nam cầm quyền còn có nội dung Đảng cầm
quyền nhưng dân là chủ, và Đảng cầm quyền để dân làm chủ; Đảng cầm quyền nhưng quyền hành và lực
lượng đểu ở nơi dân. Dân chủ là giá trị lớn nhất của cách mạng từ khi có Đảng lãnh đạo đấu tranh giành chính
quyền về tay nhân dân. Ý thức được điều quan trọng bậc nhất này để Đảng phải luôn luôn thực hành dân chủ
với dân.
Những điều trình bày trên đây cho thấy Đảng cầm quyền nhưng phải có mối quan hệ mật thiết với dân,
phải từ dân và vì dân. Bỏi vì “nếu xa cách dân chúng thì chẳng khác gì Đảng đứng lơ lửng giữa trời, nhất định
thất bại”.
Câu 22. Quan niệm của Hồ Chí Minh về bản chất giai cấp công nhân và nền tảng tư tưởng của Đảng
Cộng sản Việt Nam?
Trả lời:
Về bản chất giai cấp công nhân của Đảng. Đảng Cộng sản Việt Nam do Hồ Chí Minh sáng lập là Đảng
theo học thuyết chủ nghĩa Mác – Lênin, tuy có những tên gọi khác nhau phù hợp với từng giai đoạn lịch sử,
nhưng Đảng luôn luôn mang bản chất giai cấp công nhân. Điều này được thể hiện khi Hồ Chí Minh viết và
nói: Đảng Cộng sản Việt Nam là Đảng của giai cấp vô sản, đội tiên phong của vô sản giai cấp… Nhưng điều
quan trọng hơn là Hồ Chí Minh đã nêu lên mục tiêu, lý tưởng, nền tảng tư tưởng của Đảng và toàn bộ cơ sở
lý luận và các nguyên tắc tổ chức sinh hoạt Đảng mà những nguyên tắc này tuân thủ một cách chặt chẽ học
thuyết về Đảng kiểu mới của giai cấp vô sản.
6
Sđd, t.12, tr.555

30
Tuy nhiên, điều cần làm rõ và nhấn mạnh là cách thể hiện của Hồ Chí Minh về bản chất giai cấp công
nhân của Đảng Cộng sản Việt Nam không hoàn toàn theo kiểu của lãnh tụ Lênin, mà có sự vận dụng sáng tạo
phù hợp với hoàn cảnh Việt Nam, một nước thuộc địa có truyền thống yêu nước lâu đời và thành phần công
nhân chiếm một tỷ lệ nhỏ. Ngay từ Đại hội lần thứ II của Đảng (02 – 1951), Hồ Chí Minh đã khẳng định:
“Trong giai đoạn này, quyền lợi của giai cấp công nhân và nhân dân lao động và của dân tộc là một. Chính vì
Đảng Lao động Việt Nam là Đảng của giai cấp công nhân và nhân dân lao động, cho nên nó phải là Đảng của
dân tộc Việt Nam”7. Năm 1953, trong tác phẩm Thường thức chính trị, Hồ Chí Minh viết: “Đảng Lao động
là tổ chức cao nhất của giai cấp cần lao và đại biểu cho lợi ích của cả dân tộc… Đảng là Đảng của giai cấp
lao động mà cũng là Đảng của toàn dân”8. Năm 1961, khi miền Bắc chuyển sang giai đoạn cách mạng xã hội
chủ nghĩa, Hồ Chí Minh vẫn khẳng định: “Đảng ta là Đảng của giai cấp, đồng thời cũng là của dân tộc, không
thiên tư, thiên vị”.
Trước hết, cần phải khẳng định rằng dù cách thể hiện khác nhưng bản chất giai cấp công nhân của Đảng
Cộng sản Việt Nam vẫn được quán triệt trong tư duy Hồ Chí Minh, vì bao giờ Người cũng nêu lên đầu tiên
mệnh đề “Đảng ta là Đảng của giai cấp công nhân”. Mặt khác, như đã phân tích ở trên, trong di sản Hồ Chí
Minh khi nói về Đảng đều thể hiện nền tảng tư tưởng Mác – Lênin; mục tiêu, đường lối của Đảng là độc lập
dân tộc và chủ nghĩa xã hội; tuân thủ những nguyên tắc Đảng kiểu mới của Lênin.
Vấn đề cần phân tích là Hồ Chí Minh thêm về “Đảng của dân tộc; Đảng của toàn dân” có ý nghĩa gì?
Trước hết, cách thể hiện này của Hồ Chí Minh khẳng định rằng: Đảng Cộng sản Việt Nam không chỉ kết nạp
những người ưu tú trong giai cấp công nhân mà còn kết nạp những người ưu tú trong giai cấp nông dân, lao
động trí óc và những người thuộc các thành phần khác đã được rèn luyện, thử thách, được giác ngộ về Đảng
và tự nguyện đứng vào hàng ngũ của Đảng.
Thứ hai, cách thể hiện của Hồ Chí Minh chứng tỏ rằng Đảng Cộng sản Việt Nam phấn đấu vì lợi ích
của cả dân tộc, của toàn dân, không thiên tư, thiên vị.
Thứ ba, cách thể hiện của Hồ Chí Minh chỉ rõ niềm vinh dự, tự hào và trách nhiệm của Đảng Cộng sản
Việt Nam phải phấn đấu, hy sinh, rèn luyện để cho tất cả mọi người Việt Nam luôn luôn có quyền tự hào
Đảng Cộng sản Việt Nam là Đảng của mình, “Đảng ta”. Hồ Chí Minh nhấn mạnh rằng “Đảng ta vĩ đại vì nó
bao trùm cả nước, đồng thời vì nó gần gũi tận trong lòng của mỗi đồng bào ta”9. Đó là niềm vinh dự, tự cũng
là lớn nhất của Đảng Cộng sản Việt Nam vì Đảng có cội rễ sâu trong lòng dân tộc.
Về nền tảng tư tưởng của Đảng: Nói tới bản chất giai cấp công nhân của Đảng là nói tới nền tảng tư
tưởng. Bởi vì nếu Đảng không dựa trên nền tảng tư tưởng Mác – Lênin thì Đảng không thể mang bản chất
giai cấp công nhân. Tuy nhiên, trong điều kiện cụ thể của Việt Nam, quan niệm của Hồ Chí Minh về nền tảng
tư tưởng không chỉ là trung thành với Lênin mà còn cho thấy có những lý giải riêng. Trước hết, Người khẳng
định: “Đảng muốn vững, phải có chủ nghĩa làm cốt”, đó là chủ nghĩa Mác – Lênin. Chủ nghĩa đó như trí khôn
của con người, như bàn chỉ nam, Đảng không có chủ nghĩa làm cốt cũng như người không có trí khôn, tàu
không có bàn chỉ nam. Chủ nghĩa Mác – Lênin là mặt trời soi sáng con đường chúng ta đi tới thắng lợi. Đảng
phải lấy chủ nghĩa Mác – Lênin làm cốt bởi vì đây là chủ nghĩa chân chính nhất, chắc chắn nhất, cách mạng
nhất.
Lấy chủ nghĩa Mác – Lênin làm cốt là học tập tinh thần xử trí mọi việc của Mác, Lênin, là nắm lấy lập
trường, quan điểm, nguyên lý, phương pháp của chủ nghĩa Mác – Lênin để giải quyết thực tiễn cách mạng
Việt Nam. Điều đó hoàn toàn xa lạ với kiểu học thuộc lòng từng câu, từng chữ của Mác, Lênin để lòe người
khác. Lấy chủ nghĩa Mác – Lênin làm cốt cũng không phải học Mác – Lênin để có cái bằng rồi mặc cả với
Đảng. Điều quan trọng nhất là học để làm việc, làm người, làm cán bộ; học để phụng sự đoàn thể, giai cấp và
nhân loại, phục vụ Tổ quốc, phục vụ cách mạng, phục vụ nhân dân.

7
Sđd, t.6, tr.175
8
Sđd, t.7, tr.230 – 231
9
Sđd, t.10, tr.4

31
Lấy chủ nghĩa Mác – Lênin làm cốt là biết vận dụng chủ nghĩa Mác – Lênin một cách sáng tạo vào điều
kiện cụ thể của Việt Nam, làm phong phú thêm chủ nghĩa Mác – Lênin. Đồng thời phải biết học tập, kế thừa
có chọn lọc kinh nghiệm của các đảng cộng sản khác trên thế giới.
Lấy chủ nghĩa Mác – Lênin làm cốt là phải giữ vững tính nguyên tắc, đấu tranh để bảo vệ sự trong sáng
của chủ nghĩa Mác – Lênin, đồng thời chống lại những khuynh hướng sai lầm như đòi xét lại chủ nghĩa Mác
– Lênin hoặc giáo điều, rập khuôn, máy móc.
Nền tảng tư tưởng của Đảng Cộng sản ở nước thuộc địa, mà ở đó giai cấp công nhân chiếm tỷ lệ nhỏ lại
càng có ý nghĩa quan trọng. Bởi vì, chủ nghĩa Mác – Lênin sẽ góp phần quan trọng làm cho các thành phần
khác khi đứng trong hàng ngũ của Đảng kiên định lập trường giai cấp công nhân, giữ vững nguyên tắc của
Đảng, phấn đấu cho lý tưởng xã hội chủ nghĩa và cộng sản chủ nghĩa.
Câu 23. Quan điểm của Hồ Chí Minh về các nguyên tắc tổ chức, sinh hoạt đảng?
Trả lời:
Xây dựng Đảng Cộng Sản Việt Nam trong sạch, vững mạnh phải đảm bảo nhiều yếu tố, trong đó những
nội dung thuộc về các nguyên tắc tổ chức và sinh hoạt đảng có ý nghĩa quan trọng hàng đầu. Bởi vì, sức mạnh
của một đảng cách mạng, đảng chân chính theo học thuyết đảng kiểu mới của Lênin bắt nguồn từ các nguyên
tắc tổ chức, sinh hoạt đảng. Đảng không giữ vững nguyên tắc tổ chức, sinh hoạt thì chỉ như là một câu lạc bộ.
Trước hết phải nhận thức đầy đủ, đúng đắn rằng Đảng Cộng sản Việt Nam là một hệ thống tổ chức chặt
chẽ từ trung ương xuống cơ sở. Đảng là tổ chức tiên phong đấu tranh của giai cấp công nhân, có tính kỷ luật
cao. Hệ thống tổ chức của Đảng coi chi bộ là tổ chức hạt nhân quyết định chất lượng lãnh đạo của Đảng; là
môi trường tu dưỡng, rèn luyện và cũng là nơi giám sát đảng viên. Chi bộ là cầu nối giữa Đảng với quần
chúng nhân dân. Chi bộ tốt thì Đảng mạnh, chi bộ kém thì Đảng yếu.
Một trong những yếu tố quyết định sức mạnh của chi bộ là các nguyên tắc tổ chức và sinh hoạt đảng.
Tập trung dân chủ là nguyên tắc tổ chức cơ bản trong xây dựng Đảng. Nguyên tắc này thể hiện sự thống
nhất hữu cơ giữa “tập trung” và “dân chủ”. Mặt này là điều kiện của mặt kia và ngược lại. Về mối quan hệ
giữa “tập trung” và “dân chủ” được Hồ Chí Minh khẳng định: tập trung trên nền tảng dân chủ và dân chủ dưới
sự chỉ đạo tập trung, là cơ sở của tập trung. Nếu không có sự gắn bó và thống nhất với nhau thì sẽ dẫn tới độc
đoán chuyên quyền và tự do vô tổ chức, vô kỷ luật. Tuy nhiên, “tập trung” và “dân chủ” có nội dung cụ thể.
“Tập trung” là thiểu số phục tùng đa số, cấp dưới phục tùng cấp trên, đảng viên chấp hành vô điều kiện
nghị quyết của Đảng. Từ đó làm cho Đảng ta “tuy nhiều người, nhưng khi tiến đánh chỉ như một người”.
Còn dân chủ, theo Hồ Chí Minh, là của quý báu nhất của nhân dân, là thành quả của cách mạng dưới sự
lãnh đạo của Đảng. Dân chủ được thể hiện tư tưởng phải được tự do. Tự do là thế nào? Đối với mọi vấn đề,
mọi người được quyền tự do bày tỏ ý kiến của mình, góp phần tìm ra chân lý. Đó là một quyền lợi mà cũng
là một nghĩa vụ của mọi người. Khi mọi người đã phát biểu ý kiến, đã tìm thấy chân lý, lúc đó quyền tự do tư
tưởng hóa ra quyền tự do phục tùng chân lý. Hồ Chí Minh nhấn mạnh đến việc thực hiện và phát huy dân chủ
nội bộ, vì nếu không có dân chủ nội bộ thì sẽ làm cho “nội bộ của Đảng âm u”. Hơi nữa dân chủ trong Đảng
mới có thể nói dân chủ trong xã hội, mới định hướng cho việc xây dựng một chế độ dân chủ thật sự.
Tập thể lãnh đạo, cá nhân phụ trách là nguyên tắc lãnh đạo hay chế độ lãnh đạo của Đảng. Nguyên tắc
này cũng có hai mặt gắn bó mật thiết với nhau, gần với nguyên tắc tập trung dân chủ, vì tập thể lãnh đạo là
dân chủ, cá nhân phụ trách là tập trung. Tập thể lãnh đạo, cá nhân phụ trách là dân chủ tập trung. Trong lãnh
đạo pahri tập thể vì nhiều người thì nhiều kinh nghiệm, còn một người, dù tài giải đến mấy cũng không thể
xem xét tất cả mọi mặt của vấn đề. Ý nghĩa của tập thể lãnh đạo rất giản đơn, chân lý của nó rất rõ rệt. Tục
ngữ có câu: “khôn bầy hơn khôn độc” là nghĩa đó.
Cá nhân phụ trách là trên cơ sở bàn bạc kỹ lưỡng của tập thể, công việc mới chạy, kế hoạch định rõ ràng
rồi thì giao cho một người hoặc một nhóm người phụ trách theo kế hoạch đó mà thi hành. Như thế mới có
chuyên trách. Không có cá nhân phụ trách thì sẽ sinh ra cái tệ người này ủy cho người kia, người kia ủy cho
người nọ, kết quả là không ai thi hành. Như thế thì việc gì cũng không xong. Tục ngữ có câu: “Nhiều sãi
không ai đóng cửa chùa là như thế”.

32
Trong khi thực hiện nguyên tắc này phải chống lại căn bệnh độc đoán chuyên quyền và dựa dẫm vào
tập thể, không dám quyết đoán, không dám chịu trách nhiệm. Hồ Chí Minh nêu rõ: “Lãnh đạo không tập thể,
thì sẽ đi đến cái tệ bao biện, độc đoán, chủ quan. Kết quả là hỏng việc. Phụ trách không do cá nhân, thì sẽ đi
đến cái tệ bừa bãi, lộn xộn, vô chính phủ. Kết quả cũng là hỏng việc. Tập thể lãnh đạo, cá nhân phụ trách cần
phải luôn luôn đi đôi với nhau”10.
Tự phê bình và phê bình là nguyên tắc sinh hoạt của Đảng, là quy luật phát triển của Đảng. Ý nghĩa của
nguyên tắc này ở chỗ Đảng cũng từ trong xã hội mà ra nên có những căn bệnh trong xã hội lây ngấm vào
Đảng. Cá nhân đảng viên, cán bộ cũng là con người, cũng có cái tốt, cái xấu, cái thiện, ác trong lòng. Con
người ta không phải là thánh thần, ai cũng có khuyết điểm cả. Vì vậy, tự phê bình và phê bình giống như việc
rửa mặt hàng ngày, làm cho phần tốt trong mỗi con người nảy nở như hoa mùa xuân, phần xấu mất dần đi.
Cán bộ, đảng viên có khuyết điểm giống như người có bệnh. Vì vậy, phải uống thuốc. Tự phê bình là thuốc
đắng nhưng giã tật. Ngược lại không tự phê bình thì như người có bệnh mà không uống thuốc, để bệnh ngày
càng nặng thêm. Hồ Chí Minh chỉ rõ: “Một Đảng mà giấu giếm khuyết điểm của mình là một Đảng hỏng.
Một Đảng có gan thừa nhận khuyết điểm của mình, vạch rõ những cái đó, vì đâu mà có khuyết điểm đó, xét
rõ hoàn cảnh sinh ra khuyết điểm đó, rồi tìm kiếm mọi cách để sửa chữa khuyết điểm đó. Như thế là một Đảng
tiến bộ, mạnh dạn, chắc chắn, chân chính”11.
Tự phê bình và phê bình nhằm làm cho Đảng vững mạnh, cán bộ, đảng viên tiến bộ, để chữa các bệnh
trong Đảng. Đó cũng là một trong những cách tốt nhất để thực hành dân chủ rộng rãi trong Đảng, giữ vững
và củng cố uy tín của Đảng.
Tuy nhiên, một điều rất quan trọng là các thức tự phê bình và phê bình. Hồ Chí Minh thường dặn phải
thường xuyên, nghiêm chỉnh tự phê bình và phê bình trên cơ sở tình đồng chí thương yêu lẫn nhau. Trong phê
bình và tự phê bình phải thật thà, thẳng thắn, không nể nang, không giấu giếm, không thêm bớt khuyết điểm.
Phê bình và tự phê bình là vấn đề khoa học và là nghệ thuật. Vấn đề không phải gương mẫu tự phê bình và
phê bình. Phải tuyệt đối chống các biểu hiện không đúng trong phê bình và tự phê bình như: thiếu trung thực,
che giấu khuyết điểm bản thân, sợ phê bình, không dám phê bình, nể nang, né tránh, “dĩ hòa vi quý”, hoặc
ngược lại, lợi dụng phê bình để nói xấu, bôi nhọ, vùi dập, đả kích người khác.
Kỷ luật nghiêm minh, tự giác là một nguyên tắc tổ chức và sinh hoạt đảng kiểu mới của Lênin. Sức
mạnh của Đảng một phần lớn là ở kỷ luật của tổ chức. Kỷ luật của Đảng thể hiện ở chỗ chấp hành kỷ luật,
điều lệ của Đảng; mọi đảng viên đều bình đẳng trước Điều lệ Đảng và pháp luật của Nhà nước.
Đoàn kết thống nhất trong Đảng phải được thực hiện từ Trung ương đến các chi bộ. Phải giữ gìn sự đoàn
kết trong Đảng như giữ gìn con ngươi của mắt mình. Để đoàn kết có sức mạnh thật sự phải dựa trên cơ sở chủ
nghĩa Mác – Lênin và đường lối, quan điểm của Đảng; phải thực hành dân chủ rộng rãi trong Đảng, thường
xuyên và nghiêm chỉnh tự phê bình và phê bình, thường xuyên tu dưỡng đạo đức cách mạng, sống với nhau
có tình có nghĩa.
Câu 24. Quan điểm của Hồ Chí Minh về cán bộ và công tác cán bộ?
Trả lời:
Trong điều kiện Đảng cầm quyền, Đảng có trách nhiệm bố trí đội ngũ cán bộ cho cả hệ thống chính trị.
Hồ Chí Minh không chỉ quan tâm tới đảng viên mà còn rất quan tâm tới cán bộ và công tác cán bộ.
Về cán bộ, trước hết Hồ Chí Minh đánh giá cao vị trí, vai trò của cán bộ. Theo Người, cán bộ là gốc của
mọi công việc. Mọi việc thành hay bại đều liên quan tới cán bộ tốt hay xấu. Cán bộ là cái dây chuyền của bộ
máy. Nếu động cơ dù tốt mấy mà dây chuyền không chạy thì mấy cũng tê liệt. Cán bộ là tiền vốn của đoàn
thể, vốn lớn thì lãi nhiều…
Cán bộ có vai trò quan trọng như vậy, nên Hồ Chí Minh yêu cầu mỗi cán bộ phải rèn luyện trên năm
mối quan hệ: với mình, với nhân dân, với đồng sự, với tổ chức, với công việc.

10
Sđd, t.5, tr.505
11
Sđd, t.5, tr.261

33
Cốt lõi của năm mối quan hệ đó là cán bộ phải có đạo đức cách mạng. Cũng như sông phải có nguồn,
cây phải có gốc, người cán bộ phải có đạo đức cách mạng làm nền tảng thì mới gánh vác được nhiệm vụ cách
mạng tuy nặng nề, nhưng vẻ vang. Cùng với đạo đức làm gốc, người cán bộ phải có tài năng. Đức tài và hồng
chuyên gắn bó mật thiết với nhau, không xem nhẹ mặt nào. Trong đức có tài và tài càng lớn thì đức phải càng
cao. Có đức mà không có tài thì giống như ông bụt trong chùa, không làm lợi gì cũng không hại ai. Nhưng có
tài mà không có đức thì không những không làm lợi, mà còn làm hại cho nước, cho dân. Một người làm kinh
tế giỏi mà là hụt két, như vậy không đem lại lợi ích gì, mà còn có hại cho nhân dân, cho cách mạng.
Là cán bộ thì phải luôn luôn có lòng trung thành với Đảng, với Tổ quốc. Trong bất kỳ khó khăn, gian
khổ, phức tạp nào người cán bộ cũng phải có tinh thần vượt khó khăn, hoàn thành tốt nhiệm vụ của Đảng và
nhân dân giao phó.
Người cán bộ phải có mối quan hệ mật thiết, máu thịt với nhân dân mà quan trọng hàng đầu là học hỏi
dân, hiểu dân, nắm vững dân tình, dân tâm, dân ý, chăm lo dân quyền, dân sinh, dân trí, dân chủ. Là cán bộ
thì phải lo trước thiên hạ, vui sau thiên hạ; giàu sang không quyến rũ, nghèo khó không chuyển lay, uy vũ
không khuất phục. Chỉ có như vậy thì cán bộ mới được dân tin, dân phục, dân yêu.
Là cán bộ thì phải có ý thức học tập để nâng cao trình độ, hiểu biết về mọi mặt. Muốn và để nâng cao
dân trí thì phải nâng cao “đảng trí” tức là cán bộ, đảng viên phải là những người nắm vững đường lối, chủ
trương, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước.
Có trình độ hiểu biết phải kết hợp với năng lực tổ chức thực tiễn, thực hiện tốt đường lối, chủ trương,
nghị quyết của Đảng, chính sách của Nhà nước, biến đường lối thành hiện thực.
Cuối cùng, phải nói tới phong cách cán bộ. Trong thực tiễn thì tư tưởng, phương pháp, phong cách của
một con người gắn bó chặt chẽ với nhau. Tuy nhiên, phong cách vẫn có cách thể hiện riêng mà qua đó bộc lộ
nhân cách cán bộ. Quan trọng hàng đầu và xuyên suốt phong cách của một cán bộ là nói thì phải làm. Nhân
dân không chấp nhận những cán bộ nói mà không làm, nói nhiều làm ít, nói một đằng làm một nẻo. Phong
cách cán bộ theo tư tưởng và tấm gương Hồ Chí Minh là sâu sát theo tinh thần “óc nghĩ, mắt trông, tai nghe,
chân đi, miệng nói, tay làm”. Điều đó hoàn toàn xa lạ với kiểu cán bộ quan liêu. Mệnh lệnh, nhiễm bệnh hình
thức, thành tích, thiếu tính chủ động, sáng tạo.
Về công tác cán bộ. Trong tư tưởng Hồ Chí Minh về vấn đề cán bộ thì công tác cán bộ của Đảng là một
khâu hết sức quan trọng. Trong nhiều trường hợp, cán bộ tự rèn luyện tốt nhưng vì công tác cán bộ dở nên
cũng hạn chế kết quả của công việc cách mạng. Trong công tác cán bộ, thì trước tiên là phải hiểu và đánh giá
đúng cán bộ. Đây là yêu cầu đầu tiên trong toàn bộ các khâu của công tác cán bộ. Công việc này không dễ
nhưng phải làm tốt, vì chỉ có làm tốt việc đánh giá cán bộ thì mới sử dụng tốt cán bộ. Hiểu và đánh giá cán
bộ không phải chỉ một việc, chỉ bên ngoài, trong hiện tại, mà phải thông qua nhiều việc, cả quá khứ, hiện tại
và hướng phát triển trong tương lai. Muốn hiểu và đánh giá đúng cán bộ thì trước hết phải hiểu mình. Mình
không hiểu mình thì không thẻ hiểu đúng cán bộ, giống như một người đã mang kính mầu. Đòi hỏi đánh giá
cán bộ là phải công minh, khách quan.
Trên cơ sở hiểu cán bộ thì phải “khéo dùng cán bộ”. Đây chính là tư tưởng Hồ Chí Minh về dùng người,
dùng cán bộ. Phải trên cơ sở nhận thức đúng đắn rằng: người đời ai cũng có chỗ hay chỗ dở để dùng chỗ hay
và giúp chữa chỗ dở. Từ đó, phỉa biết vận dụng nhân như dụng mộc, tức là người thợ khéo thì gỗ to nhỏ, dài
ngắn, cong thẳng đều dùng được vào việc có ích. Tránh tình trạng thợ mộc bố trí làm thợ rèn, thợ rèn bố trí
làm thợ mộc, làm cho cả hai người đều lúng túng và hỏng việc. Một điều quan trọng nữa là phải biết phát
hiện, đào tạo, bồi dưỡng, có bản lĩnh trọng dụng nhân tài, chiêu hiền đãi sĩ, cầu người hiền tài. Theo quan
điểm Hồ Chí Minh thì ai có tài, có đức, có lòng phụng sự Tổ quốc. Phục vụ nhân dân thì phải trọng dụng họ.
Hồ Chí Minh là tấm gương sáng về trọng dụng nhân tài vì mục đích cách mạng.
Trong công tác cán bộ phải chú ý kết hợp các loại cán bộ, đặc biệt là cán bộ già với cán bộ trẻ, cán bộ
tại chỗ với cán bộ nơi khác đều đến. Phải biết điểm mạnh, yếu của mỗi loại cán bộ để trong quá trình sử dụng
cán bộ biết phát huy thế mạnh và khắc phục chỗ yếu của từng loại cán bộ. Bồi dưỡng thế hệ cách mạng cho
đời sau là một viêc rất quan trọng và rất cần thiết.

34
Cuối cùng, phải nói tới việc cần thiết chống các căn bệnh trong công tác cán bộ. Đó là bệnh thích người
bà con quen biết, cục bộ địa phương. Phải cảnh giác và chống bệnh thích kẻ khéo nịnh hót của mình, ghét
người chính trực; bệnh dìm người tài, ăn cắp địa vị của người khác. Tuyệt đối không được sử dụng loại cán
bộ “thấy xôi nói xôi ngọt, thấy thịt nói thịt bùi”. “đập đi hò đứng”, “gió chiều nào che chiều đó”, không có
khí khái, không có chính kiến, bản lĩnh, xu nịnh a dua, không dám chịu trách nhiệm, không dám phụ trách.
Câu 25. Quan điểm Hồ Chí Minh xây dựng Đảng về chính trị, đạo đức?
Trả lời:
Xây dựng Đảng về chính trị trước hết là xây dựng đường lối chính trị đúng đắn. Đó là một đường lối
chính trị dựa trên học thuyết Mác – Lênin, vận dụng sáng tạo vào điều kiện cụ thể của nước ta, đáp ứng được
đòi hỏi của thực tiễn cách mạng Việt Nam, phù hợp với xu thế của thời đại.
Đảng, cán bộ và đảng viên phải có một bản lĩnh chính trị vững vàng, “chớ thấy sóng cả mà ngã tay chèo”
trong mọi hoàn cảnh khó khăn, tình huống phức tạp, mọi bước ngoặt hiểm nghèo, mọi giai đoạn của cách
mạng.
Trên cơ sở một đường lối chính trị đúng đắn là độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, Đảng phải biết tập
trung giành thắng lợi từng bước, đi tới thắng lợi cuối cùng.
Xây dựng Đảng, là trong tư duy và phương pháp cách mạng phải cứng rắn về nguyên tắc và đường lối
chiến lược, mềm dẻo về sách lược, linh hoạt về biện pháp đấu tranh, vừa có khả năng tập hợp huy động toàn
dân, vừa tranh thủ được sự đồng tình ủng hộ của các lực lượng cách mạng và tiến bộ trên thế giới, tạo thành
một sức mạnh tổng hợp, chiến thắng lũ bán nước và cướp nước.
Xây dựng Đảng về chính trị, là làm đường lối chính trị của Đảng phải thấm sâu vào mọi cán bộ, đảng
viên và nhân dân, làm cho mọi người nắm vững đường lối của Đảng, tạo ra sự nhất trí cao trong Đảng và đồng
thuận trong xã hội, vượt qua mọi khó khăn, phức tạp, biến nghị quyết của Đảng thành hiện thực.
Xây phải đi đôi với chống. Phải nhận thức trong điều kiện Đảng cầm quyền, sự sai lầm về đường lối của
Đảng và quan liêu, mệnh lệnh, xa dân sẽ là nguy cơ của Đảng cầm quyền. Vì vậy, phải tránh nguy cơ sai lầm
về đường lối chính trị và thói quan liêu, xa dân. Hai điều đó sẽ dẫn tới thất bại của Đảng.
Xây dựng Đảng về đạo đức, là một nội dung quan trọng trong công tác xây dựng Đảng. Từ trước tới
nay, chúng ta thường nói xây dựng Đảng về chính trị, tư tưởng, tổ chức. Đó là ba bộ phận cấu thành công tác
xây dựng Đảng. Trong di sản Hồ Chí Minh, vấn đề đạo đức cách mạng được Người quan tâm từ sớm. Ngay
từ năm 1927, trong quá trình chuẩn bị các yếu tố cho Đảng ra đời, Hồ Chí Minh đã bàn tới 23 điều tư cách
của người cách mạng. Tuy không nêu thành một nội dung như chính trị, tư tưởng, tổ chức, nhưng trong rất
nhiều tác phẩm như Sửa đổi lối làm việc, Di chúc,… Hồ Chí Minh cho thấy xây dựng Đảng về đạo đức là một
nội dung trọng yếu.
Chẳng hạn, trong tác phẩm Sửa đổi lối làm việc có hẳn một phần về Tư cách và đạo đức cách mạng,
trong đó Hồ Chí Minh nêu 12 điều tư cách của Đảng chân chính cách mạng. Đồng thời nêu phận sự của đảng
viên và cán bộ, trong đó có đạo đức cách mạng. Theo Hồ Chí Minh, “Đạo đức cách mạng không phải là đạo
đức thủ cựu. Nó là đạo đức mới, đạo đức vĩ đại, nó không phải vì danh vọng của cá nhân, mà vì lợi ích chung
của Đảng, của dân tộc, của loài người. Cũng như sông thì có nguồn mới có nước, không có nguồn thì nông
cạn. Cây phải có gốc, không có gốc thì cây héo. Người cách mạng phải có đạo đức, không có đạo đức thì dù
tìa giỏi mấy cũng không lãnh đạo được nhân dân. Vì muốn giải phóng cho dân tộc, giải phóng cho loài người
là một công việc to tát, mà tự mình không có đạo đức, không có căn bản, tự mình đã hủ hóa, xấu xa thì còn
làm nổi việc gì?”12.
Xây dựng Đảng về đạo đức càng có ý nghĩa quan trọng khi Đảng ta trở thành Đảng cầm quyền. Bởi vì,
trong điều kiện Đảng cầm quyền, nhiều thói tật dễ nảy sinh, đặc biệt là say quyền lực, quan liêu, mệnh lệnh,
xa dân, thiếu tinh thần. Trong Di chúc, Hồ Chí Minh nhấn mạnh: “Đảng ta là một Đảng cầm quyền. Mỗi đảng
viên và cán bộ phải thật sự thấm nhuần đạo đức cách mạng, thật sự cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư.

12
Sđd, t.5, tr.252 – 253, 249

35
Phải giữ gìn Đảng ta thật trong sạch, phải xứng đáng là người lãnh đạo, là người đày tớ trung thành của nhân
dân”13.
Trong quá trình xây dựng Đảng, Hồ Chí Minh nêu câu hỏi: “Đảng là ai?”. Và Người trả lời: “Đảng là
mỗi chúng ta”. Từ đó, Người nhấn mạnh “làm cán bộ tức là suốt đời làm đầy tớ trung thành của nhân dân.
Lãnh đạo là làm đầy tớ nhân dân và phải làm cho tốt”.
Xây dựng Đảng về đạo đức chiếm một vị trí rất quan trọng, có thể được xem như gốc của mọi vấn đề.
Bởi vì, dù đường lối chính trị đúng đắn mà cán bộ, đảng viên suy thoái đạo đức, mà thông thường suy thoái
đạo đức sẽ dẫn tới suy thoái về tư tưởng chính trị, thì đường lối chính trị cũng không có ý nghĩa gì.
Câu 26. Giá trị lý luận và thực tiễn của tư tưởng Hồ Chí Minh về Đảng Cộng sản Việt Nam?
Trả lời:
Chủ tịch Hồ Chí Minh có hai cống hiến quan trọng đối với Đảng Cộng sản Việt Nam. Một là, Người
sáng lập Đảng Cộng sản Việt Nam. Hai là, Người xây dựng Đảng vững mạnh… Sự nghiệp của Hồ Chí Minh
đối với Đảng Cộng sản Việt Nam để lại những giá trị lớn về lý luận và thực tiễn.
Về giá trị lý luận phải được nhìn nhận trên hai mặt, đối với chủ nghĩa Mác – Lênin và đối với Đảng ta.
Trước hết, Hồ Chí Minh góp vào kho tàng lý luận của chủ nghĩa Mác – Lênin về quy luật hình thành
Đảng. Theo học thuyết Mác – Lênin thì Đảng Cộng sản ra đời chỉ cần hai yếu tố là đủ, đó là chủ nghĩa Mác
và phong trào công nhân. Điều này chỉ phù hợp trong hoàn cảnh nước Nga và ở các nước tư bản phát triển.
Nghiên cứu đặc điểm các nước thuộc địa, kinh tế nông nghiệp lạc hậu, thành phần công nhân ít, Hồ Chí Minh
tổng kết thành quy luật ra đời Đảng ở các nước như Việt Nam gồm ba yếu tố: Chủ nghĩa Mác – Lênin, phong
trào công nhân và phong trào yêu nước.
Cũng nhận thức rõ hoàn cảnh Việt Nam, nơi ngự trị hàng ngàn năm của chế độ phong kiến chuyên chế
và gần trăm năm của chế độ thực dân không kém phần chuyên chế, con người mang tư duy tiểu nông của một
nước văn minh nông nghiệp. Hồ Chí Minh từ sớm đã cảnh báo những nguy cơ của Đảng cầm quyền. Người
đã chỉ ra hàng trăm căn bệnh do chủ nghĩa cá nhân đẻ ra. Từ đó, Hồ Chí Minh đã có những cống hiến quan
trọng trong công tác xây dựng Đảng.
Về mặt tổng thể, Hồ Chí Minh tuân thủ các nguyên tắc xây dựng Đảng theo học thuyết Đảng kiểu mới
của Lênin như: nguyên tắc tập trung dân chủ, tự phê bình và phê bình, tập thể lãnh đạo cá nhân phụ trách;
Người cũng bàn tới xây dựng Đảng về chính trị, tư tưởng và tổ chức,… Nhưng xuất phát từ điều kiện cụ thể
của Việt Nam, Hồ Chí Minh nhấn mạnh mặt này, mặt kia. Cụ thể, Hồ Chí Minh đặc biệt quan tâm tới vấn đề
thực hành dân chủ rộng rãi trong Đảng. Người chú trọng vấn đề tự phê bình và phê bình. Cùng với nhiều nội
dung khác, Hồ Chí Minh rất quan tâm tới những vấn đề văn hóa và đạo đức trong xây dựng Đảng. Theo Hồ
Chí Minh, xây dựng văn hóa, đạo đức trong Đảng được coi là vấn đề có ý nghĩa quyết định chất lượng của cơ
sở đảng… Những vấn đề đó không xa rời tính phổ biến công tác xây dựng Đảng Cộng sản nói chung, lại rất
phù hợp với hoàn cảnh Việt Nam vừa thoát thai từ một chế độ phong kiến hàng ngàn năm.
So với học thuyết Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng Đảng có giá trị lớn khi giải quyết
vấn đề này trong điều kiện Đảng cầm quyền. Hồ Chí Minh đã bàn tới các vấn đề có giá trị lớn về lý luận, như
Đảng cầm quyền vừa là người lãnh đạo vừa là người đầy tớ trung thành của nhân dân, lãnh đạo là làm đầy tớ
của dân; về mục tiêu, lý tưởng của Đảng; về mối quan hệ giữa Đảng với dân, Đảng cầm quyền, dân là chủ…
Điều đặc biệt là Hồ Chí Minh, trên nền tảng trung thành với lý luận của chủ nghĩa Mác – Lênin về bản
chất giai cấp công nhân của Đảng, nhưng Người có sự bổ sung rất quan trọng trong cách tiếp cận sáng tạo về
bản chất giai cấp công nhân trong điều kiện các nước mà giai cấp công nhân chiếm tỷ lệ nhỏ. Lý luận soi sáng
của Hồ Chí Minh là “nghe người ta nói giai cấp đấu tranh, mình cũng ra khẩu hiệu giai cấp đấu tranh, mà
không xét hoàn cảnh nước mình thế nào để làm cho đúng”14. Từ đó, Người đã thể hiện được sự thống nhất
biện chứng giữa bản chất giai cấp công nhân với tính dân tộc, tính nhân dân sâu sắc.

13
Sđd, t.12, tr.498
14
Sđd, t.5, tr.272

36
Đối với Đảng ta, tư tưởng Hồ Chí Minh về Đảng Cộng sản Việt Nam trở thành rường cột trong đường
lối xây dựng Đảng. Từ sau khi Hồ Chí Minh qua đời, đặc biệt trong công cuộc đổi mới, Đảng ta từng bước
trở lại đích thực hiện quan điể của Hồ Chí Minh về xây dựng Đảng. Cụ thể, trong nhiệm vụ xây dựng, đổi
mới, chỉnh đốn Đảng hiện nay, Đảng ta quán triệt sâu sắc tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng Đảng trên một
số lĩnh vực chính sau:
- Nâng cao bản lĩnh chính trị và trình độ trí tuệ của Đảng. Kiên định chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng
Hồ Chí Minh, mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội.
- Kiện toàn và đổi mới hoạt động của tổ chức cơ sở đảng, nâng cao chất lượng đội ngũ đảng viên.
- Thực hiện nghiêm túc nguyên tắc tập trung dân chủ trong Đảng: tăng cường quan hệ gắn bó giữa Đảng
với nhân dân; nâng cao chất lượng và hiệu quả công tác kiểm tra, giám sát.
- Đổi mới tổ chức, bộ máy và công tác cán bộ.
- Đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng.
Về giá trị thực tiễn: Điều trước tiên cần phải ghi nhân là tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng Đảng đã
góp phần quan trọng vào công tác xây dựng Đảng khi Người còn sống cũng như khi đã đi xa. Hơn 40 năm
qua sau khi Chủ tịch Hồ Chí Minh qua đời, thực hiện Di chúc thiêng liêng của Bác, Đảng ta đã từng bước đổi
mới, tự chỉnh đốn về tất cả các mặt và đã thu được một số kết quả đáng khích lệ. Từ Đại hội X, Đảng ta khẳng
định nâng cao năng lực lãnh đạo, cầm quyền của Đảng, sớm đưa nước ta thoát khỏi tình trạng kém phát triển.
Tuy nhiên, so với yêu cầu của cách mạng trong bối cảnh mới của thế giới thì nhiệm vụ xây dựng Đảng còn
rất nặng nề. Nhưng chúng ta tin tưởng rằng, với di sản Hồ Chí Minh về Đảng Cộng sản Việt Nam, Đảng ta
nhất định sẽ đạt nhiều kết quả tốt đẹp trong công tác xây dựng Đảng trong thời gian tới.
Câu 27. Cơ sở hình thành tư tưởng Hồ Chí Minh về đại đoàn kết?
Trả lời:
Cơ sở hình thành tư tưởng Hồ Chí Minh về đại đoàn kết nằm trong nhận thức chung của cơ sở hình
thành tư tưởng Hồ Chí Minh được tiếp cận về phương diện đoàn kết.
Một là, những giá trị văn hóa truyền thống Việt Nam
Trải qua hàng ngàn năm dựng nước và giữ nước, dân tộc Việt Nam đã đắp bồi nên nhiều giá trị văn hóa
truyền thống tốt đẹp, tạo nên cốt cách của con người Việt Nam, một trong những cơ sở hình thành tư tưởng
Hồ Chí Minh về đại đoàn kết.
Giá trị hàng đầu của văn hóa Việt Nam là chủ nghĩa yêu nước, tinh thần đoàn kết, cố kết cộng đồng.
Tình cảm tự nhiên của con người Việt Nam là: “Nhiễu điều phủ lấy giá gương. Người trong một nước phải
thương nhau cùng”. Triết lý nhân sinh của dân tộc: “Một cây làm chẳng nên non. Ba cây chụm lại nên hòn
núi cao”. Tư duy chính trị được phản ánh: “Nước mất thì nhà tan. Giặc đến nhà, đàn bà cũng đánh”.
Văn hóa Việt Nam lấy nhân nghĩa làm gốc, lấy đại nghĩa thắng hung tàn, đem chí nhân thay cường bạo.
Đó là nền văn hóa trọng đạo lý làm người, đề cao trách nhiệm cá nhân với cộng đồng mà hàng đầu là bổn
phận đối với Tổ quốc.
Văn hóa Việt Nam “khoan thư sức dân để làm kế sâu rễ bền gốc”, hướng về dân, lấy dân làm gốc, “Chở
thuyền là dân, lật thuyền là dân. Lật thuyền mới biết dân như nước”. Lịch sử Việt Nam đã từng chứng kiến
“Hội nghị Diên Hồng”, những kiểu “tập hợp bốn phương manh lệ”, “Phụ tử trên dưới một lòng, hòa nước
sông chén rượu ngọt ngào”.
Văn hóa Việt Nam là nền văn hóa khoan dung hòa hợp, hòa đồng. Điểm này có nguồn gốc từ cội rễ của
văn hóa Việt Nam là mọi người Việt Nam có gốc tích, tổ tiên chung. Điều này đã được Hồ Chí Minh nhiều
lần nhấn mạnh khi nói về con Lạc cháu Hồng, con Rồng cháu Tiên. Người nhấn mạnh:
“Dân ta phải biết sử tam
Cho tường gốc tích nước nhà Việt Nam.
Kể năm hơn bốn ngàn năm,
Tổ tiên rực rỡ, anh em thuận hòa.
Hồng Bàng là tổ nước ta,
37
Nước ta lúc đó gọi là Văn Lang”15.
Hai là, tinh hoa văn hóa phương Đông, phương Tây
Văn hóa phương Đông trong đó có Nho giáo, Phật giáo, bên cạnh nhiều điều không hợp lý, có nhiều
điểm tích cực. Chẳng hạn thuyết Đại đồng và tư tưởng bình đẳng về tài sản của Nho giáo. Theo Khổng Tử,
“thiên hạ sẽ thái bình khi thế giới đại đồng. Người ta không sợ thiếu chỉ sợ có không đều”. Quan điểm “nước
lấy dân làm gốc” (Quốc dĩ dân vi bản) là của Nho giáo. Trong Phật giáo cũng có những điểm hay. Ví dụ, tư
tưởng “đại từ, đại bi, cứu khổ cứu nạn”, “cầu đồng tồn dị” (tìm cái chung chế ngự cái khác biệt) mang sức
mạnh đoàn kết.
Văn hóa phương Tây được Hồ Chí Minh khai thác ngay từ lúc còn học trên ghế Trường Quốc học. Sau
này, trong ba mươi năm hoạt động ở nước ngoài, Người đã chọn lọc những hạt nhân hợp lý trong Tuyên ngôn
độc lập của cách mạng tư sản Mỹ, trong Tuyên ngôn Nhân quyền và Dân quyền từ cách mạng tư sản Pháp.
Người đã học được tư tưởng, phong cách dân chủ phương Tây, khai thác tư tưởng tự do, bình đẳng, bác ái,
chủ nghĩa nhân văn từ các triết gia tư sản trong Thế kỷ anh sáng, Giá trị văn hóa phương Tây đã góp phần
làm giàu trí tuệ Hồ Chí Minh.
Ba là, tư tưởng đoàn kết trong học thuyết Mác – Lênin
Thắng lợi của Cách mạng Tháng Mười Nga năm 1917 là minh chứng hùng hồn cho tính đúng đắn của
tư tưởng đoàn kết trong học thuyết Mác – Lênin. Cách mạng Nga chỉ ra rằng cách mạng là sự nghiệp của quần
chúng nhân dân, nhân dân là người làm nên lịch sử. Giai cấp vô sản lãnh đạo cách mạng phải đi từ chiến lược
“giai cấp vô sản tất cả các nước đoàn kết lại!” tới chiến lược “Giai cấp vô sản tất cả các nước và các dân tộc
bị áp bức đoàn kết lại!”. Đoàn kết trong học thuyết Mác – Lênin lấy giai cấp công nhân và nông dân làm nền
tảng, kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh quốc tế. Lênin là tấm gương sáng chói về thực hành đoàn kết,
đoàn kết trong nước, đoàn kết quốc tế, hiện thân cho tình anh em bốn bể. Có thể nói những quan điểm đoàn
kết trong học thuyết Mác – Lênin là cơ sở tư tưởng – lý luận quan trọng nhất, bởi nó không chỉ trang bị thế
giới quan, phương pháp luận, mà còn chỉ ra những phương hướng rõ ràng trong quá trình thực hiện đoàn kết.
Bốn là, cơ sở thực tiễn của cách mạng Việt Nam và thế giới
Ra đi tìm đường cứu nước, Hồ Chí Minh đã phân tích nguyên nhân thất bại của các cuộc đấu tranh trong
nước cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX. Dưới ngọn cờ Cần Vương và các sĩ phu yêu nước đầu thế kỷ XX, phong
trào giải phóng dân tộc Việt Nam chưa thật sự có đường lối đúng đắn, có tổ chức chặt chẽ, có đoàn kết rộng
rãi. Hồ Chí Minh rút ra rằng đã làm cách mạng, dù là cách mạng tư sản như cách mạng Mỹ 1776, cách mạng
tư sản Pháp 1789 hay vô sản, thì điều chủ chốt là “dân chúng công nông là gốc cách mạng. Cách mạng thì có
tổ chức rất vững bền mới thành công. Đàn bà trẻ con cũng giúp làm việc cách mạng được nhiều. Dân khí
mạnh thì quân lính nào, súng ống nào cũng không chống lại”.
Phong trào giải phóng dân tộc ở các thuộc địa trên thế giới chưa giành được thắng lợi không phải vì
thiếu lòng yêu nước, căm thù bọn xâm lược, mà thiếu lực ượng lãnh đạo, thiếu tổ chức, chưa biết đoàn kết
phạm vi trong nước và trên thế giới. Vì vậy, muốn giành được thắng lợi như cách mạng Nga năm 1917 thì
phải dân chúng công nông làm gốc, phải có đảng vững bền, phải bền gan, phải hy sinh, phải thống nhất.
Năm là, phẩm chất cá nhân Hồ Chí Minh
Cơ sở hình thành tư tưởng Hồ Chí Minh về đại đoàn kết, cùng với những nội dung về lý luận – tư tưởng,
phải kể tới những phẩm chất cá nhân Hồ Chí Minh trên các phương diện đạo đức, trí tuệ, bản lĩnh. Hồ Chí
Minh là lãnh tụ quyết tâm, suốt đời hết lòng, hết sức phục vụ Tổ quốc, phục vụ cách mạng, phục vụ nhân dân,
đến khi phải từ biệt thế giới này, không có điều gì phải hối hận, chỉ tiếc là tiếc rằng không được phục vụ lâu
hơn nữa, nhiều hơn nữa. Người thương dân, trọng dân, kính dân, tin tưởng nhân dân; hiểu rõ dân tình, dân
tâm, dân ý, chú trọng tới dân quyền, dân sinh, dân trí, dân chủ. Vì vậy, Người được dân tin, dân phục, dân
yêu.

15
Sđd, t.3, tr.221

38
Lòng thương yêu nhân dân là điểm tựa cho mọi sáng tạo của Hồ Chí Minh trong việc tổ chức và thực
hiện nhiệm vụ đoàn kết dân tộc.
Câu 28. Nội dung cơ bản của tư tưởng Hồ Chí Minh về đại đoàn kết dân tộc?
Trả lời:
Trước hết, Hồ Chí Minh nhận thức rõ vị trí, vai trò của đoàn kết trong sự nghiệp cách mạng. Đoàn kết
trong tư tưởng Hồ Chí Minh không phải là một thủ đoạn chính trị nhất thời, sách lược mà là một chiến lược.
Theo Người, “đoàn kết là lẽ sinh tồn của dân tộc. Lúc nào dân ta đoàn kết muôn người như một thì nước ta
độc lập, tự do. Trái lại, lúc nào dân ta không đoàn kết thì bị nước ngoài xâm lấn”. Dưới sự lãnh đạo của Đảng,
đoàn kết tạo nên một sức mạnh thật sự, là “điểm mẹ”, điểm này mà thực hiện tốt thì đẻ ra con cháu đều tốt.
Đoàn kết trong tư tưởng Hồ Chí Minh vừa là chiến lược vừa là yêu cầu khách quan của sự nghiệp cách
mạng. Bởi vì, cách mạng là cuộc chiến đấu khổng lồ, muốn giành thắng lợi thì phải động viên toàn dân, tổ
chức và giáo dục toàn dân, dựa vào lực lượng vĩ đại của toàn dân. Mặt khác, trong thời đại mới được mở ra
từ Cách mạng Tháng Mười, phải chống kẻ thù mới là chủ nghĩa thực dân, đế quốc, nếu không có lý luận khoa
học và cách mạng về đoàn kết thì khó thành công.
Đoàn kết toàn dân, phụng sự Tổ quốc là mục tiêu, nhiệm vụ hàng đầu của Đảng, của dân tộc trong mọi
giai đoạn lịch sử. Đại đoàn kết dân tộc cũng là đại đoàn kết toàn dân. Theo một nghĩa nào đó thì khái niệm
“dân tộc” rộng hơn khái niệm “nhân dân”. Nhưng trong nhiều trường hợp, nhất là khi bàn về đoàn kết, khái
niệm “dân” cũng rộng như dân tộc, có biên độ rộng lớn, gồm mọi con dân nước Việt, không phân biệt đa số
hay thiểu số, giàu nghèo, già trẻ, gái trai, cùng sống trên đất nước Việt Nam. “Dân tộc” thường được hiểu
theo nghĩa cộng đồng tức toàn thể đồng bào, cũng có thể được hiểu là mỗi cá nhân. Vì vậy, dân không phải là
một khối đồng nhất mà là một cộng đồng bao gồm nhiều giai cấp, dân tộc, tầng lớp, cá nhân có lợi ích chung
và riêng, có thái độ và vai trò khác nhau đối với sự phát triển kinh tế - xã hội.
Đại đoàn kết toàn dân thể hiện nhiều tầng nấc, cấp độ, các quan hệ rộng hẹp khác nhau theo tinh thần
đoàn kết rộng rãi, lâu dài vì độc lập thống nhất của Tổ quốc và xây dựng nước nhà. Vì vậy, theo Hồ Chí Minh,
ai có tài có đức, cò lòng phụng sự Tổ quốc và phục vụ nhân dân thì ta đoàn kết với họ. Trong khối đông đảo
toàn dân tộc đó, đa số nhân dân goòm công nhân, nông dân và các tầng lớp nhân dân lao động khác là nền
gốc của đại đoàn kết, trong đó nòng cốt là liên minh công nông.
Xuất phát từ truyền thống tốt đẹp của dân tộc Việt Nam, từ hoàn cảnh một nước Việt Nam thuộc địa,
muốn thực hiện được đoàn kết rộng rãi phải có lòng khoan dung độ lượng, xóa bỏ mọi thành kiến theo tinh
thần “Năm ngón tay cũng có ngón vắn ngón dài. Nhưng ván dài đều hợp nhau lại nơi bàn tay. Trong mấy triệu
người cũng có người thế này thế giới, nhưng thế này hay thế khác đều dòng dõi của tổ tiên ta”16. Đã là con
người thì có tốt có xấu, có thiện có ác trong lòng. Đặt lợi ích của cách mạng trên hết, trân trọng phần thiện
trong mỗi người dù nhỏ nhất. Cũng như “Sông to, biển rộng, thì bao nhiêu nước cũng chứa được, vì độ lượng
nó rộng và sâu. Cái chén nhỏ, cái đĩa cạn, thì một chút nước cũng đầy tràn, vì độ lượng nó hẹp nhỏ”17. Trong
hoàn cảnh nước thuộc địa, tránh quan điểm giai cấp đơn thuần, nói vô sản một cách cứng nhắc theo kiểu “nghe
người ta nói giai cấp đấu tranh, mình cũng ra khẩu hiệu giai cấp đấu tranh, mà không xét hoàn cảnh nước
mình như thế nào để làm cho đúng”17. Muốn đoàn kết phải khơi lòng yêu nước, trở về cội nguồn “đồng bào”,
căm thù đế quốc, khát vọng độc lập dân tộc của mọi người. Đó là những điểm tương đồng, mẫu số chung của
con người Việt Nam. Trên cơ sở nhận thức có ý nghĩa nhân văn và cách mạng, Hồ Chí Minh cho rằng: “Trong
mấy triệu người cũng có người thế này thế khác, nhưng thế này hay thế khác đều dòng dõi của tổ tiên ta. Vậy
nên ta phải khoan hồng đại độ. Ta phải nhận rằng đã là con Lạc cháu Hồng thì ai cũng có ít nhiều lòng ái quốc.
Đối với những đồng bào lạc lối lầm đường, ta phải lấy tình thân ái mà cảm hóa họ. Có như thế mới thành đại
đoàn kết”18. Người tuyên bố: “Bất kỳ ai mà thật thà tán thành hòa bình, thống nhất, độc lập, dân chủ thì dù
người đó trước đây chống ta, bây giờ ta cũng thật thà đoàn kết với họ”19

16
Sđd, t.4, tr.246
17
Sđd, t.5, tr.644, 272
18
Sđd, t.4, tr.246 – 257
19
Sđd, t.7, tr.438

39
Vì cách mạng là sự nghiệp của quần chúng, nhân dân làm nên thắng lợi của cách mạng là gốc của nước,
nhưng không phải là một khối đồng nhất, nên muốn có đoàn kết vững chắc, lâu dài thì phải có lòng thương
yêu, kính trọng nhân dân. Phải hiểu dân, học dân, tin dân, dựa vào dân. Mọi việc phải bàn bạc và giải thích
cho nhân dân hiểu rõ. Lòng thương yêu nhân dân là điểm xuất phát mọi sáng tạo của Hồ Chí Minh, tạo nên
sự đoàn kết chân thành, bền vững, lâu dài.
Để có sức mạnh thật sự, đại đoàn kết trong tư tưởng Hồ Chí Minh phải được tổ chức trong Mặt trận dân
tộc thống nhất. Dưới sự lãnh đạo của Đảng, Mặt trận được xây dựng trên nền tảng liên minh công nông, thực
hiện đoàn kết rộng rãi, lâu dài, vững chắc, thật sự vì mục tiêu xây dựng một nước Việt Nam hòa bình, thống
nhất, độc lập, dân chủ và giàu mạnh và góp phần xứng đáng vào sự nghiệp cách mạng thế giới.
Câu 29. Nội dung cơ bản của tư tưởng Hồ Chí Minh về đoàn kết quốc tế?
Trả lời:
Cách mạng Việt Nam diễn ra trong thời đại mới được mở ra từ Cách mạng Tháng Mười Nga năm 1917.
Vì vậy, đoàn kết quốc tế là một đòi hỏi khách quan. Từ những năm bảy mươi của thế kỷ XIX, chủ nghĩa tư
bản tự do cạnh tranh đã trở thành chủ nghĩa đế quốc, đi xâm chiếm thuộc địa, là kẻ thù chung của nhân dân
các thuộc địa và giai cấp vô sản toàn thế giới.
Từ thắng lợi của Cách mạng Tháng Mười, giai cấp vô sản đã bước lên vũ đài chính trị. Lãnh tụ V.I.Lênin
đã nêu lên khẩu hiệu chiến lược “giai cấp vô sản tất cả các nước và các dân tộc bị áp bức đoàn kết lại!”. Từ
đây, phong trào giải phóng dân tộc ở các nước thuộc địa phải là một bộ phận khăng khít của cách mạng thế
giới mới có thể giành thắng lợi. Mỗi dân tộc trước hết phải đấu tranh vì độc lập, tự do của dân tộc mình.
Nhưng bối cảnh thời đại chỉ rõ vận mệnh các dân tộc phụ thuộc vào nhau. Đứng trước chủ nghĩa đế quốc, giai
cấp vô sản và các dân tộc bị áp bức đoàn kết lại.
Trong thời đại mới, chủ nghĩa yêu nước phải kết hợp chặt chẽ với chủ nghĩa quốc tế. Chủ nghĩa yêu
nước là kiên quyết giữ gìn quyền độc lập, tự do và đất đai toàn vẹn của nước mình. Tinh thần đoàn kết quốc
tế là đoàn kết với các nước bạn và nhân dân các nước khác để giữ gìn hòa bình thế giới, chống chính sách
xâm lược và chính sách chiến tranh của đế quốc.
Trước kẻ thù chung, nhân loại tiến bộ hướng tới mục tiêu chung là hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ
và tiến bộ xã hội. Thắng lợi của dân tộc này cũng là thắng lợi của dân tộc khác. Giúp bạn là giúp mình.
Tư tưởng Hồ Chí Minh về đoàn kết quốc tế chứa đựng nhiều nội dung rộng lớn, gồm lực lượng, phương
pháp, hình thức tổ chức. Về lực lượng, Hồ Chí Minh thường đề cập tới ba lực lượng: phong trào cộng sản,
công nhân quốc tế và xã hội chủ nghĩa; phong trào đấu tranh giải phóng dân tộc và phong trào hòa bình, dân
chủ và tiến bộ, trước hết là phong trào chống chiến tranh xâm lược.
Xuất phát từ nhận thức về vị trí, vai trò của giai cấp vô sản trong thời đại mới là giai cấp lãnh đạo cách
mạng, đứng ở trung tâm của thời đại; giai cấp đại biểu cho phương thức sản xuất tiên tiến, Hồ Chí Minh nhấn
mạnh phong trào cộng sản và công nhân quốc tế là lực lượng nòng cốt của đoàn kết quốc tế. Trong đó đáng
chú ý là các nước xã hội chủ nghĩa với sức vật chất và tinh thần trở thành chỗ dựa vững chắc cho phong trào
giải phóng dân tộc nói chung, cho cách mạng Việt Nam nói riêng.
Trong việc đòi kết với phong trào giải phóng dân tộc, Hồ Chí Minh chú trọng phê phán các quan điểm
thù ghét chủng tộc, tạo sự cách biệt nhau hướng tới sự hiểu biết nhau hơn và đoàn kết lại để đặt cơ sở cho một
liên minh phương Đông tương lai, khối liên minh này sẽ là một trong những cái cánh của cách mạng vô sản.
Không chỉ chú trọng đoàn kết giữa thuộc địa với thuộc địa, Hồ Chí Minh còn đề nghị Quốc tế Cộng sản bằng
mọi cách làm cho đội tiên phong của lao động thuộc địa tiếp xúc mật thiết với tiên phong của lao động thuộc
địa tiếp xúc mật thiết với giai cấp vô sản phương Tây để dọn đường cho một sự hợp tác thật sự sau này. Theo
Hồ Chí Minh, đứng trước chủ nghĩa đế quốc, quyền lợi của giai cấp vô sản chính quốc với quyền lợi của nhân
dân thuộc địa là thống nhất.
Đối với các lực lượng tiến bộ, yêu hòa bình, tự do, chính nghĩa, Hồ Chí Minh đã tìm cách khai thác ý
nghĩa nhân văn các lực lượng này. Người gắn cuộc đấu tranh vì độc lập, tự do của dân tộc Việt Nam với mục

40
tiêu bảo vệ hòa bình, tự do và công lý trên thế giới. Người tìm thấy mẫu số chung và khơi gợi lương tri của
loài người tiến bộ, của các lượng yêu chuộng hòa bình, tự do, dân chủ trên thế giới.
Đoàn kết quốc tế có hình thức tổ chức tạo sức mạnh vật chất thật sự, đó là Mặt trận thống nhất của nhân
dân chính quốc và thuộc địa. Trên một ý nghĩa nào đó, trên thực tế đã hình thành Mặt trận nhân dân thế giới
ủng hộ nhân dân Việt Nam chống đế quốc Mỹ xâm lược.
Đối với nhân dân ba nước trên bán đảo Đông Dương, Hồ Chí Minh đã khai thác điểm tương đồng về
lịch sử, văn hóa, cùng có chung kẻ thù và vì vậy cùng vận mệnh chung. Từ sau khi về nước lãnh đạo cách
mạng, trên cơ sở mặt trận độc lập đồng minh từng nước, Hồ Chí Minh đã lập Đông Dương độc lập đồng minh.
Trong hai cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ, Hồ Chí Minh đã chỉ đạo việc hình thành Mặt trận đoàn
kết Việt – Miên – Lào (Mặt trận nhân dân ba nước Đông Dương) giúp đỡ lẫn nhau cùng chiến đấu chống kẻ
thù chung.
Như vậy, đoàn kết dân tộc và đoàn kết quốc tế đã được xây dựng trên cơ sở bốn tầng mặt trận: Mặt trận
đại đoàn kết dân tộc; Mặt trận đoàn kết Việt – Miên – Lào; Mặt trận nhân dân Á – Phi đoàn kết với Việt Nam;
Mặt trận nhân dân thế giới đoàn kết với Việt Nam chống xâm lược.
Trong đoàn kết quốc tế, một số vấn đề có tính nguyên tắc là tranh thủ sự giúp đỡ, ủng hộ của các nước
nhưng không ỷ lại mà phải nêu cao tinh thần tự lực cánh sinh, dựa vào sức mình là chính, đem sức ta mà tự
giải phóng cho ta, muốn người ta giúp mình trước hết mình phải tự cứu lấy mình. Đồng thời “có vay thì phải
có trả”, không nhận sự giúp đỡ một chiều của bạn bè quốc tế, mà phải góp phần tăng cường sức mạnh đoàn
kết quốc tế. Phải xác định “giúp bạn là tự giúp mình”, thắng lợi của bạn cũng là của mình và ngược lại.
Cách mạng Việt Nam thắng lợi vừa nhờ sức mạnh đại đoàn kết dân tộc vừa nhờ sự ủng hộ, giúp đỡ to
lớn của bạn bè quốc tế.
Câu 30. Giá trị lý luận và thực tiễn của tư tưởng Hồ Chí Minh về đại đoàn kết?
Trả lời:
Khi nói về đại đoàn kết chủ yếu là bàn tới đại đoàn kết dân tộc với một hàm ý đoàn kết lớn, đoàn kết
rộng, đoàn kết sâu sắc, bền vững. Trong phạm vi quốc tế, thông thường chỉ nói tới đoàn kết, ít hoặc không
nói đại đoàn kết. Vì vậy, vấn đề đặt ra ở đây chủ yếu ở phạm vi dân tộc.
Về giá trị lý luận: Đại đoàn kết dân tộc trong tư tưởng Hồ Chí Minh là một chiến lược cách mạng. Từ
khi Đảng ta ra đời, tư tưởng đại đoàn kết Hồ Chí Minh trở thành sợi chỉ đỏ xuyên suốt đường lối cách mạng
Việt Nam, là động lực chủ yếu làm nên thắng lợi của cách mạng Việt Nam.
Tư tưởng Hồ Chí Minh về đại đoàn kết góp phần bổ sung quan trọng vào kho tàng lý luận cách mạng
của chủ nghĩa Mác – Lênin, trong đó có lý luận về đoàn kết.
Như chúng ta đã biết, trong điều kiện của giai đoạn chủ nghĩa tư bản tự do cạnh tranh tức là khi chưa
xuất hiện vấn đề dân tộc thuộc địa, C.Mác và Ph.Ăngghen chủ yếu bàn đến đoàn kết công nông trong mỗi
nước và “Vô sản tất cả các nước, đoàn kết lại!” để lật đổ chủ nghĩa tư bản. Từ khi chủ nghĩa tư bản đã chuyển
sang chủ nghĩa đế quốc (từ thập kỷ 60, 70 thế kỉ XIX trở đi), tức là đã xuất hiện vấn đề dân tộc thuộc địa, ách
áp bức giai cấp và dân tộc đã diễn ra trên phạm vi thế giới, tư tưởng liên minh công nông và “vô sản tất cả
các nước, đoàn kết lại!” của C.Mác được V.I.Lênin và Quốc tế Cộng sản mở rộng ra trên quy mô toàn thế giới
với khẩu hiệu nổi tiếng: “Vô sản tất cả các nước và các dân tộc bị áp bức, đoàn kết lại!”. Khẩu hiệu này trở
thành lý luận đoàn kết quan trọng, định hướng cho phong trào cách mạng thế giới. Tuy nhiên, do nhiều lý do
mà V.I.Lênin và Quốc tế Cộng sản cũng chưa nhận thức đầy đủ vấn đề dân tộc thuộc địa và vì vậy, tư tưởng
đoàn kết dân tộc trong Mặt trận dân tộc thống nhất chưa thật sự được quan tâm.
Hồ Chí Minh không những “đứng ở đỉnh cao hai cực” dân tộc và giai cấp mà còn lấp đầy khoảng giữa.
Sinh ra và hoạt động cách mạng trong điều kiện một nước thuộc địa, ở đó ách áp bức dân tộc bao trùm và chi
phối mọi ách áp bức khác, Hồ Chí Minh nhận thức đầy đủ sức mạnh của chủ nghĩa dân tộc mà hạt nhân là
lòng yêu nước và tinh thần dân tộc. Đi theo chủ nghĩa Mác – Lênin tức là Hồ Chí Minh luôn luôn nhận thức
và giải quyết mọi vấn đề trên lập trường của giai cấp công nhân. Nhưng, nhờ hiểu rõ vấn đề thuộc địa nên Hồ
Chí Minh đã bổ sung vào chủ nghĩa Mác – Lênin những vấn đề thuộc địa mà ở thời mình Mác chưa có điều

41
kiện nắm bắt. Vì vậy, đoàn kết trong tư tưởng Hồ Chí Minh là “Đoàn kết, đoàn kết, đại đoàn kết!”, chứa đựng
trong đó nội dung đoàn kết trong Đảng, đoàn kết dân tộc, đoàn kết quốc tế. Người không chỉ thấy sự cần thiết
giai cấp vô sản tất cả các nước đoàn kết lại; giai cấp vô sản và các dân tộc bị áp bức đoàn kết lại, mà đặc biệt
Người đã xây dựng hệ thống lý luận về Mặt trận dân tộc thống nhất chứa đựng nhiều quan điểm về đại đoàn
kết dân tộc. Tư tưởng Hồ Chí Minh về Mặt trận dân tộc thống nhất bảo đảm tính bền vững, rộng rãi, lâu dài,
là ngọn cờ tập hợp mọi giai tầng xã hội vào sự nghiệp cách mạng giải phóng dân tộc và xây dựng đất nước.
Trong sự nghiệp đổi mới, tư tưởng Hồ Chí Minh về đại đoàn kết dân tộc tiếp tục được Đảng ta vận dụng
và phát triển sáng tạo trong bối cảnh mới của thời đại và dân tộc. Nói cách khác, tư tưởng đoàn kết của Đảng
từ khi đất nước vào đổi mới luôn luôn dựa trên nền tảng tư tưởng đại đoàn kết Hồ Chí Minh. Đó là tư tưởng
đại đoàn kết toàn dân tộc trên nền tảng liên minh giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức
dưới sự lãnh đạo của Đảng. Đại đoàn kết dân tộc lấy mục tiêu giữ vững độc lập, thống nhất của Tổ quốc, vì
dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh làm điểm tương đồng, xóa bỏ mặc cảm, định kiến,
phân biệt đối xử về quá khứ, thành phần, giai cấp, xây dựng tinh thần cởi mở, tin cậy lẫn nhau, cùng hướng
tới tương lai. Đại đoàn kết hiện nay là sự nghiệp của cả dân tộc, của cả hệ thống chính trị mà hạt nhân lãnh
đạo là các tổ chức đảng được thực hiện bằng nhiều biện pháp, trong đó các chủ trương của Đảng, chính sách,
pháp luật của Nhà nước có ý nghĩa quan trọng hàng đầu.
Về giá trị thực tiễn: Tư tưởng đại đoàn kết Hồ Chí Minh trở thành ngọn cờ quy tụ tất cả mọi con dân
nước Việt từ miền ngược tới miền xuôi, từ nông thôn tới thành thị, từ rừng núi tới hải đạo vào Mặt trận dân
tộc thống nhất, tạo nên sức mạnh vô địch đưa tới thắng lợi của cách mạng Việt Nam trong Tổng khởi nghĩa
Tháng Tám năm 1945, trong kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ xâm lược, trong xây dựng
miền Bắc xã hội chủ nghĩa.
Ngày nay, tư tưởng đại đoàn kết Hồ Chí Minh tiếp tục truyền sức mạnh vào sự nghiệp đổi mới, quy tụ
giai cấp công nhân, giai cấp nông dân, tội ngũ trí thức, doanh nhân, thế hệ trẻ, phụ nữ, cựu chiến binh, người
cao tuổi, các dân tộc, các tôn giáo, đồng bào định cư ở nước ngoài. Đặc biệt, dưới ánh sáng tư tưởng Hồ Chí
Minh, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các đoàn thể nhân dân đã đóng được vai trò tập hợp, vận động, đoàn
kết rộng rãi các tầng lớp nhân dân; đại diện cho quyền và lợi ích hợp pháp của nhân dân; đưa các chủ trương,
chính sách của Đảng, Nhà nước, các chương trình kinh tế, văn hóa, xã hội, quốc phòng, an ninh vào cuộc
sống, góp phần xây dựng sự đồng thuận trong xã hội, tạo động lực chủ yếu phát triển kinh tế - xã hội, xây
dựng nước Việt Nam dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh.
Câu 31. Cơ sở hình thành và quá trình phát triển tư duy lý luận của Hồ Chí Minh về vấn đề dân chủ
và nhà nước?
Trả lời:
Dân chủ và nhà nước gắn bó mật thiết với nhau trong tư tưởng Hồ Chí Minh. Tuy nhiên, tư duy lý luận
của Hồ Chí Minh về dân chủ và nhà nước không phải bao giờ cũng song hành với nhau.
Cơ sở hình thành tư tưởng Hồ Chí Minh về dân chủ và nhà nước.
Tư tưởng dân chủ và nhà nước của Hồ Chí Minh bắt nguồn sâu xa từ nguyện vọng hàng ngàn năm của
dân tộc Việt Nam. Sống dưới chế độ chuyên chế phong kiến hàng ngàn năm không có một chút quyền tự do
dân chủ nào, người Việt Nam muốn sống độc lập, tự do, thoát khỏi sự ràng buộc của các thế lực độc tài,
chuyên chế. Tuy nhiên về mặt tổ chức, nhà nước phong kiến bước đầu đem lại cho Hồ Chí Minh những hiểu
biết nhất định.
Dấu ấn của triết lý nhân văn phương Đông trong tư tưởng dân chủ của Hồ Chí Minh là hết sức sâu đậm.
Nó đem lại cho tư tưởng này một ý nghĩa nhân đạo cao cả, đẹp đẽ, một sức hấp dẫn đặc sắc. Nói đến phương
Đông là nói tới chữ “nhân” của Khổng giáo, nói tới “đại từ, đại bi, cứu khổ cứu nạn” của Phật giáo. Đây là
những dấu ấn trong triết lý phương Đông đã in đậm trong tư duy Hồ Chí Minh.
Từ giã phương Đông. Hồ Chí Minh đến với phương Tây. Thực chất Hồ Chí Minh đã biết tới phương
Tây từ trên ghế nhà trường Pháp – Việt khi còn học ở Tiểu học Vinh hay Quốc học Huế. Nhưng ba mươi năm
hoạt động ở nước ngoài, Hồ Chí Minh có dịp tiếp xúc với văn hóa phương Tây và đã tiếp thu được thêm tinh

42
hoa của lý tưởng dân chủ và nhân văn của thế giới, để làm phong phú và phát triển thêm tư tưởng dân chủ của
mình. Nếu ở Việt Nam, những khái niệm Tự do – Bình đẳng – Bác ái mới dừng lại ở khẩu hiệu, thì khi sang
Pháp và các nước phương Tây, Hồ Chí Minh đã cảm nhận được “người Pháp ở Pháp tốt hơn người Pháp ở
Việt Nam”. Hồ Chí Minh đã tiếp thu được tư tưởng dân chủ và phong cách dân chủ ngay trên đất Pháp. Hồ
Chí Minh đã biết tới cách mạng Mỹ 1776, cách mạng Pháp 1789. Đây là những cuộc cách mạng tư sản đã
thành công nhưng không đến nơi, không triệt để.
Sau những cuộc khảo sát dài ngày, cuối cùng Hồ Chí Minh đã đến với Cách mạng Tháng Mười, với chủ
nghĩa Lênin. Cách mạng Tháng Mười thành công triệt để và dân chủ mácxít “dân chủ gấp triệu lần dân chủ
tư sản” là cơ sở quan trọng nhất tạo ra cuộc cách mạng thật sự trong quan niệm Hồ Chí Minh về dân chủ.
Tuy nhiên, quá trình hoạt động thực tiễn của Hồ Chí Minh nhằm tìm đường, dẫn đường và cuối cùng
thực hiện giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp, giải phóng con người đã đem lại cho Hồ Chí Minh một nội
dung phong phú về dân chủ và nhà nước.
Quá trình phát triển tư duy lý luận của Hồ Chí Minh về dân chủ và nhà nước.
Tư tưởng Hồ Chí Minh về dân chủ xã hội chủ nghĩa và về nhà nước thật sự của dân, do dân và vì dân
không phải được hình thành ngay một lúc, mà phải trải qua một quá trình gắn bó chặt chẽ với sự nghiệp giải
phóng dân tộc Việt Nam.
Từ những năm 20 thế kỷ XX, chứng kiến kiểu dân chủ và nhà nước chỉ dành cho một bọn ít người từ
thành quả các cuộc cách mạng tư sản, Hồ Chí Minh nhấn mạnh “quyền giao cho dân chúng số nhiều”. Điều
này hoàn toàn phù hợp với chính quyền Xôviết. Có thể lúc đó Hồ Chí Minh đã nghĩ tới số nhiều một cách cụ
thể, nhưng trong bối cảnh lúc đó Người chỉ nói một cách chung nhất.
Ngay khi Đảng ta vừa ra đời, Hồ Chí Minh đã trình bày trong Cương lĩnh đầu tiên của Đảng. Về phương
diện xã hội thì dân chúng được tự do tổ chức; nam nữ bình quyền; phổ thông giáo dục theo công nông hóa.
Về phương diện chính trị, Người khẳng định “dựng ra chính phủ công nông binh; tổ chức quân đội công
nông”. Như vậy so với những năm 20 thế kỷ XX, tư duy lý luận của Hồ Chí Minh về nhà nước và dân chủ đã
có bước phát triển, không dừng lại số nhiều chung chung mà nói rõ là công nông binh. Tuy nhiên, chúng ta
có thể hiểu đây là tư duy theo kiểu Chính quyền Xôviết công nông năm 1917. Không phải Hồ Chí Minh không
hiểu chính quyền ở Việt Nam không thể là công nông binh, vì từ năm 1924 Người đã phsat biểu về sự khác
biệt giữa châu Âu và phương Đông. Nhưng trong bối cảnh lúc bấy giờ, Hồ Chí Minh không thể trình bày tư
duy kiểu khác.
Nhận thức trên càng rõ hơn khi Hồ Chí Minh về nước, cùng Đảng ta trực tiếp lãnh đạo cách mạng Việt
Nam. Tại Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương lần thứ tám (khóa I) tháng 5 – 1941, Hội nghị do Hồ Chí Minh
triệu tập và chủ trì, đã khẳng định: Không nên nói công nông liên hiệp và lập Chính quyền Xôviết mà phải
nói toàn thể nhân dân liên hợp và lập chính phủ dân chủ cộng hòa. Theo Nghị quyết Trung ương lần thứ tám,
Mặt trận Việt Minh được thành lập. Chương trình Việt Minh khẳng định: Sau khi đánh đuổi được đế quốc
Pháp – Nhật, sẽ thành lập một chính phủ nhân dân của Việt Nam Dân chủ Cộng hòa lấy lá cờ đỏ sao vàng
năm cánh làm lá cờ toàn quốc. Chính phủ ấy do Quốc dân đại hội cử ra. Trong Thư gửi đồng bào toàn quốc
(10 – 1944), Hồ Chí Minh khẳng định: “Chúng ta trước phải có một cái cơ cấu đại biểu cho sự chân thành
đoàn kết và hành động nhất trí của toàn thể quốc dân ta. Mà cơ cấu ấy thì phải do một cuộc Toàn quốc đại
biểu Đại hội gồm tất cả các đảng phái cách mệnh và các đoàn thể ái quốc trong nước bầu cử ra. Một cơ cấu
như thế mới đủ lực lượng và oai tín, trong thì lãnh đạo công việc cứu quốc, kiến quốc, ngoià thì giao thiệu với
các hữu bang”20.
Đại hội quốc dân Tân Trào (8 – 1945) với sự có mặt của 60 đại biểu Bắc, Trung, Nam, Việt Kiều, đảng
phái chính trị, đoàn thể cứu quốc, các dân tộc, các tôn giáo… tiêu biểu cho đồng bào Việt Nam được xem như
tiền Quốc hội. Đại hội đã quyết định thành lập Ủy ban dân tộc giải phóng, tức Chính phủ lâm thời được xem
như tiền Chính phủ do Hồ Chí Minh làm Chủ tịch. Đại hội thông qua 10 điểm được xem như tiền Hiến pháp.

20
Sđd, t.3, tr.505

43
Đây là những nội dung có tính nền tảng, để khi Cách mạng Tháng Tám năm 1945 thắng lợi, nước Việt
Nam Dân chủ Cộng hòa ra đời, Hồ Chí Minh có một quan niệm hoàn chỉnh về dân chủ và nhà nước dân chủ,
như sau này Người nói: “Nước ta là nước dân chủ. Bao nhiêu lợi ích đều vì dân. Bao nhiêu quyền hạn đều
của dân… Chính quyền từ xã đến Chính phủ trung ương do dân cử ra”21.
Câu 32. Quan niệm của Hồ Chí Minh về dân chủ?
Trả lời:
Toàn bộ di sản Hồ Chí Minh xét cho cùng là những di sản văn hóa, trong đó một giá trị to lớn, đáng tự
hào là dân chủ. Hồ Chí Minh là nhà dân chủ nổi bật ở Việt Nam thế kỷ XX. Dưới sự lãnh đạo của Người, dân
tộc Việt Nam từ thân phận nô lệ thành người chủ, làm chủ đất nước, xã hội và bản thân. Hồ Chí Minh không
những xây dựng một hệ thống quan điểm dân chủ mà còn ra sức thực hành dân chủ. Nói đến nước ta, Người
nhấn mạnh hàng đầu đó là nước dân chủ. Nói đến Đảng, Người nhấn mạnh phải mở rộng dân chủ trong Đảng.
Nói đến nhân dân, Người khẳng định nhân dân là chủ và nhân dân làm chủ. Hai cặp phạm trù đó khẳng định
vị thế, năng lực và trách nhiệm của người dân.
Có thể khái quát quan niệm của Hồ Chí Minh về dân chủ thành các nội dung sau đây:
Dân chủ là của quý báu nhất của nhân dân
Hàng ngàn năm dưới chế độ phong kiến chuyên chế, và gần trăm năm dưới chế độ thực dân không kém
phần chuyên chế, nhân dân ta không có một chút quyền tự do dân chủ nào. Với thắng lợi của Cách mạng
Tháng Tám năm 1945, nhân dân ta được hưởng quyền dân chủ. Cách mạng Tháng Tám đã đem lại cho người
dân của quý báu nhất là dân chủ. Bởi vì dân chủ là điều kiện tiến lên chủ nghĩa xã hội. Vì dân chủ là của quý
báu nhất của nhân dân nên theo Hồ Chí Minh, “làm sao cho nhân dân biết hưởng quyền dân chủ, biết dùng
quyền dân chủ của mình, dám nói, dàm làm”22. Phải mở rộng dân chủ thật sự với nhân dân, để mọi người có
quyền làm, quyền nói. Hồ Chí Minh chỉ rõ: “Có phát huy dân chủ đến cao độ thì mới động viên được tất cả
lực lượng của nhân dân đưa cách mạng tiến lên”23.
Dân chủ vừa là phương pháp thể hiện mối quan hệ mới, tốt đẹp trong xã hội vừa là nội dung của một
cuộc sống mới của nhân dân, cuộc sống mà người dân đang là chủ thật sự của đất nước, của xã hội. Nội dung
đó không thể thiếu được trong đời sống người dân một nước đã có độc lập. Bởi vì, “nước độc lập mà dân
không hưởng hạnh phúc tự do, thì ođọc lập cũng chẳng có nghĩa lý gì”. Dân chủ là động lực để xây dựng một
xã hội ấm no, hạnh phúc, tự do và bình đẳng.
Địa vị cao nhất là dân, vì dân là chủ
Dân chủ có thể hiểu một cách ngắn gọn là nhân dân nắm chính quyền. Trong một nước dân chủ thì đại
vị cao nhất là dân, vì mọi quyền hạn là của dân, mọi lợi ích là vì dân. “Dân chủ” đối lập với “quan” của là
một quan niệm thể hiện được bản chất của khái niệm dân chủ trong cấu tạo quyền lực của xã hội. Địa vị cao
nhất là dân vì “Trong bầu trời không gì quý bằng nhân dân. Trong thế giới không gì mạnh bằng lực lượng
đoàn kết của nhân dân”.
Địa vị của người dân được Hồ Chí Minh nói tới một cách cụ thể, nhấn mạnh quyền dân chủ của các giai
cấp, tầng lớp theo địa vị xã hội của họ. Đối với công nhân, Người khẳng định: có quyền thực sự trong xí
nghiệp, làm chủ tư liệu sản xuất, làm chủ việc quản lý kinh tế, làm chủ việc phân phối sản phẩm. Đối với
nông dân, Người khẳng định: Bao giờ ở nông thôn nông dân thật sự nắm chính quyền, nông dân được giải
phóng thì mới là dân chủ thực sự. Phải làm cho nông dân có ruộng cày, có cơm ăn, áo mặc, có nhà ở thì họ
mới có lực lượng dồi dào24. Đối với trí thức, Người nhấn mạnh: “Chế độ ta là chế độ dân chủ, tư tưởng phải
được tự do. Tự do là thế nào? Đối với mọi vấn đề, mọi người tự do bày tỏ ý kiến của mình, góp phần tìm ra
chân lý. Đó là một quyền lợi mà cũng là một nghĩa vụ”25. Người đề cập đến quyền bình đẳng và dân chủ của

21
Sđd, t.1, tr.XVI
22
Sđd, t.12, tr.223
23
Sđd, t.9, tr.592
24
Sđd, t.7, tr.23, 25
25
Sđd, t.8, tr.210

44
phụ nữ, “Giải phóng người đàn bà, đồng thời phải tiêu diệt tư tưởng phong kiến, tư tưởng tư sản trong người
đàn ông”26. Trong quân đội, Người nhấn mạnh, “từ tiểu đội trưởng trở lên, từ Tổng tư lệnh trở xuống, phải
săn sóc đời sống vật chất và tinh thần của đội viên… Bộ đội chưa ăn cơm, cán bộ không được kêu rét. Bộ đội
chưa đủ chỗ ở, cán bộ không được kêu mình mệt. Thế mới là dân chủ, mới đoàn kết, mới tất thắng”27.
Đối với thanh niên, Người quan niệm tuổi trẻ là dấn thân, là cống hiến. Thanh niên không nên đòi hỏi
nước nhà đã làm gì cho mình, mà nên tự hỏi mình đã làm gì cho nước nhà. Mặt khác, Người cũng quan tâm
tới quyền thanh niên được học tập, vui chơi, giải trí,…
Địa vị cao nhất là dân, vì dân là chủ. Vì vậy, trong quan niệm của Hồ Chí Minh, nhiệm vụ của chính
quyền dân chủ là phục vụ nhân dân. Trong Đảng phải thực hành dân chủ rộng rãi, có thực hiện tốt dân chủ
trong Đảng mới có dân chủ trong xã hội. Còn đoàn thể là tổ chức của dân, phấn đấu cho dân, liên lạc mật thiết
giữa cải cách xã hội để không ngừng nâng cao đời sống vật chất và văn hóa của nhân dân, thực hiện dân chủ
thật sự.
Câu 33. Quan điểm của Hồ Chí Minh về nội dung dân chủ trong các lĩnh vực đời sống xã hội?
Trả lời:
Dân chủ trong quan niệm Hồ Chí Minh được thể hiện trên tất cả các lĩnh vực đời sống xã hội như chính
trị, kinh tế, văn hóa, xã hội… mà hạt nhân là quyền con người, quyền công dân. Trong các lĩnh vực của đời
sống xã hội thì dân chủ thể hiện trên lĩnh vực chính trị là quan trọng nhất, nổi bật nhất, được biểu hiện tập
trung trong hoạt động của Nhà nước, bởi vì quyền lực của nhân dân được thể hiện trong hoạt động của Nhà
nước với tư cách nhân dân có quyền lực tối cao. Hồ Chí Minh khẳng định: Nước ta là nước dân chủ. Chính
quyền từ xã đến Chính phủ Trung ương do dân cử ra. Nhân dân tổ chức nên bộ máy nhà nước và toàn bộ hệ
thống chính trị.
Trong di sản Hồ Chí Minh nổi lên một quan điểm sáng suột: “chính quyền là của nhân dân, do nhân dân
làm chủ”. Nhân dân là ông chủ nắm chính quyền. Nhân dân bầu ra đại biểu thay mặt mình thi hành chính
quyền ấy, thế là dân chủ. Có thể nêu ra một trong nhiều minh chứng cụ thể khi Hồ Chí Minh nói về chức Chủ
tịch nước. Chúng ta đều biết, Chủ thịch nước là do Quốc hội bầu ra, Quốc hội là do nhân dân bầu ra. Như vậy,
quyền hành không phải trong tay Chủ tịch nước mà trong tay nhân dân, nhân dân ủy thác quyền lực đó cho
Chủ tịch. Vì vậy, Chủ tịch nước phải hết sức làm như một người lính vâng mệnh lệnh quốc dân ra trước mặt
trận, bao giờ đồng bào cho lui thì vui lòng lui.
Dân chủ trên lĩnh vực chính trị, là bao nhiêu quyền hành và lực lượng đều ở nơi dân. Nhân dân là nguồn
gốc và lực lượng tạo ra quyền hành của xã hội. Trong thế giới này không gì mạnh bằng lực lượng đoàn kết
của nhân dân. Mọi việc đều do người dân làm ra. Theo Hồ Chí Minh:
Dễ mười lần không dân cũng chịu
Khó trăm lần dân liệu cũng xong
Dân chúng đồng lòng việc gì cũng làm được. Dân chúng không ủng hộ, việc gì làm cũng không xong.
Cách mạng là sự nghiệp của quần chúng nhân dân, nhân dân là người làm ra lịch sử. Nhân dân không
chỉ sáng tạo ra của cải vật chất mà còn sáng tạo ra của cải tinh thần. Chính vì vậy, công cuộc đổi mới, xây
dựng kháng chiến, kháng chiến kiến quốc là trách nhiệm và công việc của dân.
Dân chủ theo quan niệm của Hồ Chí Minh là một thiết chế xã hội, một giá trị của nền văn minh nhân
loiạ, vừa là lý tưởng phấn đấu, vừa là động lực trong sự nghiệp cách mạng của các dân tộc. Trong thiết chế
xã hội đó, Hồ Chí Minh đã làm rõ cấu tạo quyền lực của xã hội là người dân. Nhận thức và thực hành tốt nội
dung quyền lực xã hội là người dân trên cả phương diện quyền lực trực tiếp và gián tiếp là một xã hội văn
minh.
Từ lúc ra đi tìm đường cứu nước cho đến tận cuối đời, Hồ Chí Minh quan tâm tới việc thực hiện quyền
con người (nhân quyền). Như đã nói ở trên, nhân quyền là hạt nhân trong lĩnh vực dân chủ của mọi lĩnh vực

26
Sđd, t.9, tr.524
27
Sđd, t.6, tr.207

45
hoạt động trong đời sống xã hội. Trong quan niệm của Hồ Chí Minh, nhân quyền và quyền làm người hòa
quyện với nhau. Và điều này phải được thể hiện rõ nhất trong kết quả của những giải pháp dân trí, dân sinh,
dân quyền. Đó là ba mặt cơ bản của dân chủ trong các lĩnh vực của đời sống xã hội. Quyền con người phải
được bảo đảm bằng pháp luật. Pháp luật phải bảo vệ quyền làm người, thẳng tay trừng trị những kẻ bất liêm,
bất chính, bất kỳ kẻ ấy ở địa vị nào và làm nghề nghiệp gì, đồng thời phải góp phần cải tạo những người phạm
pháp, giúp họ trở nên những người lương thiện.
Quyền dân chủ trong kinh tế gắn với công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội, mà mục tiêu cao nhất là làm
cho nhân dân thoát nạn bần cùng, thoát khỏi nghèo nàn, lạc hậu; làm cho mọi người có công ăn, việc làm, ấm
no, có cuộc đời hạnh phúc. Thực hiện giảm tô, cải cách ruộng đất, làm cho người cày có ruộng, khẳng định
sự tồn tại và vai trò, vị trí của nhiều thành phần kinh tế, quyền làm chủ tư liệu sản xuất, công bằng trong phân
phối sản phẩm xã hội… là những khía cạnh đặc trưng trong dân chủ kinh tế. Đặc biệt, Hồ Chí Minh nhấn
mạnh: một xã hội không có chế độ người bóc lột người, một xã hội bình đẳng, nghĩa là ai cũng phải lao động,
ai làm nhiều thì hưởng nhiều, làm ít, hưởng ít, không làm, không hưởng.
Dân chủ trong lĩnh vực văn hóa theo quan điểm Hồ Chí Minh là giải quyết mối quan hệ hài hòa giữa
kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội. Khi trình độ văn hóa được nâng cao sẽ giúp đẩy mạnh công cuộc khôi phục
kinh tế, phát triển dân chủ, xây dựng nước ta thành một nước hòa bình, thống nhất, độc lập, dân chủ và giàu
mạnh. Dân chủ trong văn hóa là nâng cao dân trí, ai cũng phải biết đọc, biết viết, ai cũng được học hành.
Câu 34. Quan điểm của Hồ Chí Minh về phương pháp và các điều kiện bảo đảm thực hành dân chủ
ở nước ta?
Trả lời:
Dân chủ là một thiết chế xã hội gồm nhân dân và chính quyền. Vì vậy, phải có phương pháp và các điều
kiện để thực hành dân chủ.
Trước hết, xây dựng và hoàn thiện chế độ dân chủ rộng rãi. Ngay sau khi nước Việt Nam Dân chủ Cộng
hòa ra đời, ngày 03-9-1945, trong phiên họp đầu tiên của Hội đồng Chính phủ, trong 6 nhiệm vụ cấp bách,
Hồ Chí Minh đã đề nghị phải có một hiến pháp dân chủ. Hiến pháp là đạo luật cơ bản thể hiện và bảo đảm
việc thực thi dân chủ. Hiến pháp năm 1946, bản Hiến pháp đầu tiên của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa,
thể hiện rõ nét tư tưởng dân chủ của Hồ Chí Minh. Hiến pháp 1946 đặt cơ sở pháp lý đầu tiên cho việc thực
hiện quyền lực của nhân dân. Điều 1 Hiến pháp 1946 ghi rõ: “Nước Việt Nam là một nước dân chủ cộng hòa.
Tất cả quyền bính trong nước là của toàn thể nhân dân Việt Nam, không phân biệt nòi giống, gái trai, giàu
nghèo, giai cấp, tôn giáo”28. Điều 6 ghi: “Tất cả công dân Việt Nam đều ngang quyền về mọi phương diện
chính trị, kinh tế, văn hóa”28.
Tiếp sau Hiến pháp 1946 là Hiến pháp 1959, một lần nữa khẳng định quan điểm bảo đảm dân chủ trong
việc xác lập quyền lực của nhân dân. Trong Lời nói đầu của Hiến pháp 1959 có ghi: “Hiến pháp mới quy định
trách nhiệm và quyền hạn của các cơ quan Nhà nước, quyền lợi và nghĩa vụ của công dân, nhằm phát huy sức
sáng tạo to lớn của nhân dân ta trong công cuộc xây dựng nước nhà, thống nhất và bảo vệ Tổ quốc”29, “Tất
cả quyền lực trong trong nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa đều thuộc về nhân dân”29 (Điều 4), “Tất cả các
cơ quan Nhà nước đều phải dựa vào nhân dân, liên hệ chặt chẽ với nhân dân, lắng nghe ý kiến và chịu sự kiể
soát của nhân dân. Tất cả các nhân viên cơ quan Nhà nước đều phải trung thành với chế độ dân chủ nhân dân,
tuân theo Hiến pháp và pháp luật, hết lòng hết sức phục vụ nhân dân”29 (Điều 6).
Hồ Chí Minh chú trọng bảo đảm quyền lực của tất cả các tầng lớp nhân dân trong xã hội. Công nhân có
quyền làm chủ xí nghiệp, làm chủ tư liệu sản xuất, làm chủ quản lý, phân phối sản phẩm. Nông dân phải thật
sự nắm chính quyền ở nông thôn thì mới có dân chủ thật sự. Trí thức có vai trò lớn trong cả tiến trình cách
mạng. Các dân tộc sống trên đất nước Việt Nam đều bình đẳng về quyền lợi và nghĩa vụ. Nhà nước có nhiệm
vụ giữ gìn và phát triển sự đoàn kết giữa các dân tộc.

28
Tuyên ngôn độc lập năm 1945 và các Hiến pháp Việt Nam năm (1946, 1959, 1980, 1992), Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2005,
tr.12, 13.
29
Sđd, tr.29, 31, 32

46
Thứ hai, xây dựng tổ chức Đảng, Nhà nước, Mặt trận và các đoàn thể chính trị - xã hội vững mạnh để
bảo đảm dân chủ trong xã hội.
Vai trò của Đảng trong việc thực hiện dân chủ ở nước ta là vai trò của tổ chức lãnh đạo, tổ chức cầm
quyền. Từ năm 1945 trở đi, Đảng lãnh đạo xã hội, lãnh đạo Nhà nước và các đoàn thể chính trị - xã hội để đạt
được mục tiêu cách mạng mà Đảng đã ghi trên lá cờ của mình từ khi ra đời là độc lập dân tộc, dân chủ và chủ
nghĩa xã hội. Để giữ được vai trò lãnh đạo, Đảng phải bảo đảm và phát huy dân chủ rộng rãi trong Đảng. Đây
là yếu tố quyết định tính chất và trình độ dân chủ trong xã hội. Bởi vì, quyền lãnh đạo của Đảng là do giai cấp
công nhân và nhân dân ủy quyền. Đảng là đội tiên phong, hạt nhân chính trị của toàn xã hội, bộ phận ưu tú
nhất của dân tộc.
Trong điều kiện Đảng cầm quyền, Nhà nước đóng một vai trò quan trọng trong việc thực hiện chức năng
quản lý xã hội. Nhà nước vừa thể hiện, thực thi ý chí của giai cấp công nhân và nhân dân lao động, vừa thể
chế hóa, cụ thể hóa toàn bộ nội dung của chế độ. Nhà nước của dân, do dân và vì dân, nên nhân dân làm chủ
bằng Nhà nước, thông qua Nhà nước. Xây dựng Nhà nước gắn với xây dựng Đảng mà trước hết là bảo đảm
Nhà nước giữ vững và tăng cường bản chất giai cấp công nhân. Nhà nước đó phải của khối đại đoàn kết toàn
dân, lấy liên minh giai cấp công nhân, nông dân và đội ngũ trí thức làm nền tảng. Nhà nước phải luôn luôn là
một tổ chức trong sạch, vững mạnh, chống tiêu cực và sự quan liêu hóa bộ máy Nhà nước. Muốn như vậy,
đội ngũ cán bộ, công chức đóng vai trò quan trọng. Họ phải là những người vừa có đạo đức cách mạng cần,
kiệm, liêm, chính, chí công vô tư, vừa là những người có trình độ chuyên môn nghiệp vụ vững vàng “làm
nghề gì cũng phải học; làm nghề gì giỏi nghề ấy”.
Tổ chức Mặt trận và các đoàn thể nhân dân thể hiện quyền làm chủ của nhân dân và tham gia quản lý
xã hội. Mặt trận Tổ quốc Việt Nam (mỗi giai đoạn có tên gọi khác nhau) và các tổ chức thành viên là cơ sở
chính quyền nhân dân, phát huy truyền thống đoàn kết toàn dân, tăng cường sự nhất trí về chính trị và tinh
thần trong nhân dân, tham gia xây dựng và củng cố chính quyền nhân dân, cùng Nhà nước chăm lo và bảo vệ
lợi ích chính đáng của nhân dân, động viên nhân dân thực hiện quyền làm chủ, nghiêm chỉnh thi hành Hiến
pháp và pháp luật, giám sát hoạt động của cơ quan nhà nước, đại biểu dân cử và cán bộ, công chức nhà nước.
Nhà nước tạo điều kiện để Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức thành viên hoạt động có hiệu quả, trong đó đặc
biệt chú trọng vấn đề thực hành dân chủ.
Tóm lại, hoạt động của Nhà nước, Đảng và Mặt trận có một mục tiêu chung là đạt tới trình độ dân chủ
cao, dân chủ xã hội chủ nghĩa. Bởi vì, chỉ khi đạt tới một trình độ dân chủ như vậy thì mới trở thành động lực
thúc đẩy sự phát triển kinh tế - xã hội, và sự phát triển của đất nước cũng hướng tới một nền dân chủ cao.
Câu 35. Quan niệm của Hồ Chí Minh về Nhà nước của dân, do dân, vì dân?
Trả lời:
Nhà nước theo tư tưởng Hồ Chí Minh là kiểu nhà nước xôviết, tức nhà nước theo học thuyết Mác –
Lênin. Đã là nhà nước theo học thuyết Mác – Lênin. Đã là nhà nước theo học thuyết Mác – Lênin thì đặc điểm
lớn nhất là nhà nước công nông. Nhưng xuất phát từ hoàn cảnh Việt Nam, với sự tham gia của nhân dân vào
quá trình đấu tranh giành chính quyền cách mạng, Nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa là nhà nước của
dân, do dân, vì dân. Hồ Chí Minh đã khẳng định: Nước ta là nước dân chủ. Bao nhiêu lợi ích đều vì dân. Bao
nhiêu quyền hạn đều của dân. Chính quyền từ xã đến Chính phủ Trung ương do dân cử ra. Nhà nước của dân,
do dân, vì dân có mối quan hệ mật thiết với nhau.
Nhà nước của dân: Quan điểm nhất quán và sâu sắc nhất về Nhà nước của dân là mọi quyền lực của
Nhà nước và trong xã hội đều thuộc về nhân dân. Điều này được ghi trong Hiến pháp đầu tiên của nước Việt
Nam Dân chủ Cộng hòa năm 1946 và sau đó tiếp tục được khẳng định trong Hiến pháp 1959. Điều thứ nhất
Hiến pháp 1946 ghi: “Nước Việt Nam là một nước dân chủ cộng hòa. Tất cả quyền bính trongnước là của
toàn thể nhân dân Việt Nam, không phân biệt nòi giống, gái trai, giàu nghèo, tôn giáo”30. “Nhân dân có quyền
bãi miễn các đại biểu mình đã bầu ra”31 (Điều 20). Đây là điều thuộc về quyền dân chủ đại diện. “Nhân dân

30
Sđd, tr.12
31
Sđd, tr.15

47
có quyền phúc quyết về Hiến pháp và những việc quan hệ đến vận mệnh quốc gia”31 (Điều 21). Điều 4 Hiến
pháp 1959 ghi: “Tất cả quyền lực trong nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa đều thuộc về nhân dân. Nhân dân
sử dụng quyền lực của mình thông qua Quốc hội và Hội đồng nhân dân các cấp do nhân dân bầu ra và chịu
trách nhiệm trước nhân dân”32. Nhân dân có quyền làm chủ về chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội, bầu ra Quốc
hội – cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất, thể hiện quyền tối cao của nhân dân.
Nhà nước của dân tức là quyền hạn trong tay dân và dân ủy quyền cho các đại biểu của mình kể cả chức
vụ Chủ tịch nước. Khi nói về chức vụ Chủ tịch nước khi mình đang đảm nhiệm, Hồ Chí Minh cho rằng “Bây
giờ phải gánh chức Chủ tịch là vì đồng bào ủy thác thì tôi phải gắng sức làm, cũng như một người lính vâng
mệnh lệnh của quốc dân ra trước mặt trận. Bao giờ đồng bào cho tôi lui, thì tôi rất vui lòng lui”33.
Như vậy, nhà nước của dân là xác định vị thế của dân – dân là chủ và nghĩa vụ của dân – dân làm chủ.
Hồ Chí Minh thường nhắc nhở dân bầu mình ra để làm việc cho dân chứ không phải để cậy thế với dân, vác
mặt làm quan cách mạng, đè đầu cưỡi cổ dân. Trong nhà nước của dân, địa vị cao nhất là dân, quyền lực của
nhân dân được đặt ở vị trí tối thượng. Giá trị lớn nhất từ thắng lợi Cách mạng Tháng Tám là từ đây quyền lực
nhà nước của toàn dân chứ không phải trong tay một bọn ít người.
Nhà nước do dân: Điểm quan trọng nhất khi nói tới nhà nước do dân là “Chính quyền từ xã đến Chính
phủ trung ương do dân cử ra”. Đồng thời nhân dân đóng góp sức người, sức của, trí tuệ để xây dựng nhà nước.
Hồ Chí Minh nhiều lần nhấn mạnh: “Dễ mười lần không dân cũng chịu. Khó trăm lần dân liệu cũng xong”.
“Dân chúng đồng lòng, việc gì cũng làm được. Dân chúng không ủng hộ, viêc gì làm cũng không nên”, “Nước
lấy dân là gốc. Gốc có vững cây mới bền, Xây lầu thắng lợi trên nền nhân dân”.
Nhà nước do dân tức là dân xây dựng nhà nước, góp ý kiến phê bình Chính phủ để Chính phủ phục vụ
dân tốt hơn, tham gia quản lý nhà nước như bầu ra Quốc hội – quan quyền lực cao nhất của Nhà nước; Quốc
hội bầu ra Chủ tịch nước, Ủy ban Thường vụ Quốc hội và Hội đồng Chính phủ (tức Chính phủ). Hội đồng
Chính phủ là cơ quan hành chính cao nhất, thực hiện các nghị quyết của Quốc hội và chấp hành pháp luật.
Mọi công việc của bộ máy nhà nước trong việc quản lý điều hành xã hội đều thực hiện ý chí của dân
thông qua Quốc hội do dân bầu ra.
Nhà nước vì dân: Quan trọng nhất của nhà nước vì dân là “bao nhiêu lợi ích đều vì dân”. Một nhà nước
mà lợi ích vì dân thì việc gì lợi cho dân – dù nhỏ mấy – cũng phải hết sức làm; việc gì hại cho dân – dù nhỏ
mấy – cũng phải hết sức tránh. Phải làm cho dân có ăn, làm cho dân có mặc, làm cho dân có chỗ ở, làm cho
dân được học hành. Nhà nước vì dân thì mọi chính sách, chủ trương của Nhà nước đều phải xuất phát từ
nguyện vọng và lợi ích chính đáng của nhân dân. Nhà nước vì dân thì từ Chủ tịch nước đến Bộ trưởng, Thứ
trưởng và cán bộ, công chức đều là đầy tớ trung thành của nhân dân tức là phục vụ nhân dân một cách tốt
nhất.
Nhà nước vì dân thì phải luôn luôn giữ cho bộ máy trong sạch, không có bất kỳ đặc quyền, đặc lợi nào;
phải chống mọi tiêu cực trong bộ máy nhà nước như tham ô, lãng phí, quan liêu, thiếu tinh thần trách nhiệm,
vô cảm, đùn đẩy trách nhiệm trước khó khăn của dân.
Câu 36. Quan điểm Hồ Chí Minh về sự thống nhất bản chất giai cấp công nhân đối với tính nhân
dân, tính dân tộc của Nhà nước?
Trả lời:
Nhà nước là một phạm trù lịch sử, sản phẩm tất yếu của một xã hội có giai cấp, và vì vậy bao giờ cũng
mang bản chất của một giai cấp nhất định. Quan điểm nhà nước phi giai cấp, đứng trên giai cấp là sự ngụy
biện. Xã hội cộng sản nguyên thủy chưa xuất hiện nhà nước, đến chủ nghĩa cộng sản thì nhà nước cũng tự
tiêu vong.
Nhà nước theo tư tưởng Hồ Chí Minh là nhà nước theo học thuyết nhà nước mácxít, mang bản chất giai
cấp công nhân, thống nhất giữa bản chất giai cấp công nhân với tính nhân dân, tính dân tộc. Nhưng sự thể

32
Sđd, tr.31
33
Sđd, t.4, tr.161

48
hiện Nhà nước Việt Nam mang bản chất giai cấp công nhân trong tư tưởng Hồ Chí Minh có những khía cạnh
đặc trưng.
Một là, Nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ra đời năm 1945 là thành quả của cuộc đấu tranh giải
phóng dân tộc do giai cấp công nhân thông qua đội tiên phong là Đảng Cộng sản lãnh đạo.
Hai là, Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo Nhà nước. Trong Lời nói đầu Hiến pháp năm 1959 ghi rõ:
“Nhà nước dân chủ nhân dân, dựa trên nền tảng liên minh công nông, do giai cấp công nhân lãnh đạo”34.
Phương pháp và cách thức lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước theo tư tưởng Hồ Chí Minh trong điều kiện
vừa kháng chiến vừa xây dựung đất nước là bằng đường lối, chủ trương được thể chế hóa thành pháp luật;
đồng thời lãnh đạo bằng hoạt động của các tổ chức đảng và đảng viên trong các cơ quan nhà nước.
Ba là, bản chất giai cấp công nhân của nhà nước được thể hiện tính định hướng xã hội chủ nghĩa trong
các hoạt động đối nội và đối ngoại của nhà nước. Nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ra đời đưa đất nước
bước vào kỷ nguyên mới, kỷ nguyên độc lập dân tộc, dân chủ và chủ nghĩa xã hội. Từ đó trở đi, độc lập dân
tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội là sợi chỉ đỏ xuyên suốt mọi hoạt động của Đảng và Nhà nước.
Bốn là, nguyên tắc tập trung dân chủ trong hoạt động của nhà nước cũng là một biểu hiện bản chất giai
cấp công nhân của nhà nước. Tập trung dân chủ là nguyên tắc quan trọng nhất trong hoạt động của Đảng. Nhà
nước tập trung quyền lực vào tay nhân dân nhưng lại phát huy cao độ dân chủ trong mọi hoạt động của các
cơ quan trong bộ máy nhà nước như Quốc hội, Chính phủ, tư pháp.
Bản chất giai cấp công nhân của nhà nước luôn luôn thống nhất với tính dân tộc, tính nhân dân của nhà
nước. Đây là một nét đặc trưng trong quan niệm của Hồ Chí Minh về nhà nước, phù hợp vơi quá trình hình
thành nhà nước mới Việt Nam.
Một là, Nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ra đời từ thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám năm 1945,
là kết quả của cuộc đấu tranh gian khổ, hy sinh của cả dân tộc Việt Nam. Đảng của giai cấp công nhân lãnh
đạo nhưng Cách mạng Tháng Tám là sự nghiệp của toàn dân tộc Việt Nam mà nòng cốt là nhân dân lao động.
Hai là, Nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ra đời tiếp tục hoạt động, quản lý, điều hành đất nước
dưới sự lãnh đạo của Đảng nhưng vì lợi ích của cả dân tộc. Nhà nước cùng với cả dân tộc thực hiện nhiệm vụ
tiến hành hai cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ xâm lược và xây dựng chủ nghĩa xã hội,
vì một nước Việt Nam hòa bình, thống nhất, độc lập, dân chủ và giàu mạnh và góp phần vào sự nghiệp cách
mạng thế giới. Mục tiêu đó không chỉ của Đảng, của giai cấp công nhân mà của cả dân tộc.
Ba là, Nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ra đời là nhà nước của khối đại đoàn kết toàn dân, lấy
liên minh giai cấp công nhân và giai cấp nông dân làm nền tảng, do Đảng của giai cấp công nhân lãnh đạo.
Tóm lại, về bản chất giai cấp của nhà nước thì chỉ có một, đó là bản chát giai cấp công nhân. Nhưng cơ
sở xã hội của nhà nước thì rộng, đó là toàn dân tộc, lấy hai giai cấp công nhân và nông dân làm nền tảng.
Theo tư tưởng Hồ Chí Minh, bản chất giai cấp công nhân của nhà nước càng sâu sắc thì tính dân tộc, tính
nhân dân của nhà nước càng đậm đà. Ngược lại, tính dân tộc, tính nhân dân của nhà nước càng rộng rãi thì
bản chất giai cấp công nhân càng sâu sắc. Bởi vì, trong hoàn cảnh cụ thể của nước ta, lợi ích của giai cấp công
nhân, của nhân dân lao động và toàn dân tộc là hoàn toàn thống nhất.
Câu 37. Quan niệm của Hồ Chí Minh về nhà nước pháp quyền?
Trả lời:
Nói tới nhà nước pháp quyền là nhấn mạnh tính tối thượng, vị trí, vai trò của pháp luật. Vì vậy, có nhà
nước pháp quyền tư sản và nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa. Cái khác nhau là ở tính từ của khái niệm
“pháp quyền”. Quan niệm của Hồ Chí Minh về nhà nước pháp quyền là nhà nước pháp quyền xã hội chủ
nghĩa, của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân. Quan niệm của Hồ Chí Minh có các nội dung chính sau đây:
Một là, Hồ Chí Minh quan tâm tới nhà nước pháp quyền từ sớm, khi chưa phải là người cộng sản. Năm
1919, trong bản Yêu sách của nhân dân An Nam do người ký tên Nguyễn Ái Quốc gửi đến Hội nghị Vécxây
(Pháp) đã nêu yêu cầu cải cách nền pháp lý ở Đông Dương bằng cách cho người bản xứ cũng được hưởng

34
Sđd, tr.29

49
những bảo đảm về mặt pháp luật như người Âu châu; xóa bỏ hoàn toàn các tòa án đặc biệt dùng làm công cụ
để khủng bố và áp bức bộ phận trung thực nhất trong nhân dân An Nam. “Thay thế chế độ ra các sắc lệnh
bằng các đạo luật”. Trong Việt Nam yêu cầu ca, một cách chuyển thể Yêu sách của nhân dân An Nam thành
văn vần, có đoạn:
“Một xin tha kẻ đồng bào,
Vì chưng chính trị mắc vào tù giam.
Hai xin phép luật sửa sang,
Người Tây, người Việt hai phương cùng đồng.
Những tòa đặc biệt bất công,
Giám xin bỏ dứt rộng dung dân lành.
Ba xin rộng phép học hành,
Mở mang kỹ nghệ lập thành công thương.
Bốn xin được phép hội hàng,
Năm xin nghĩ ngợi nói bàn tự do.
Sáu xin được phép lịch du,
Bốn phương mặc sức, năm châu mặc tình.
Bảy xin hiến pháp ban hành,
Trăm đều phải có thần linh pháp quyền.
Tám xin được cử nghị viên,
Qua Tây thay mặt giữ quyền thổ dân”35
Hai là, xây dựng Nhà nước hợp pháp, hợp hiến.
Một trong những quan tâm của Hồ Chí Minh là nhà nước ra đời từ thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám
phải là nhà nước hợp pháp, hợp hiến. Chính vì vậy, ngay khi cách mạng vừa thành công, Hồ Chí Minh đã
muốn toàn thể dân tộc Việt Nam và nhân dân thế giới biết và ghi nhận sự kiện này một cách chính đáng, công
khai. Người đã chuẩn bị sớm cho việc dự thảo Tuyên ngôn độc lập. Chỉ một ngày sau khi đến ở số nhà 48
Hàng Ngang, trong cuộc họp Thường vụ Trung ương ngày 26-8-1945, Người đề nghị chuẩn bị ra Tuyên ngôn
độc lập và tổ chức mítting lớn ở Hà Nội để ra mắt nhân dân, ngày ra mắt của Chính phủ lâm thời cũng là ngày
nước Việt Nam chính thức công bố quyền độc lập và thiết lập Chính phủ dân chủ cộng hòa. Người nhấn mạnh
những việc cần làm ngay trước khi quân đội Tưởng vào Đông Dương tước vũ khí của quân đội Nhật. Chỉ
trong vòng khoảng 5 ngày, Người đã hoàn thành bản Tuyên ngôn độc lập. Đọc Tuyên ngôn độc lập chính là
khai sinh ra nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, tuyên bố với thế giới rằng nước Việt Nam có quyền hưởng
tự do và độc lập, và sự thật đã thành một nước tự do, độc lập.
Một ngày sau, trong phiên họp đầu tiên của Hội đồng Chính phủ, Hồ Chí Minh đã đề nghị Chính phủ tổ
chức càng sớm càng hay cuộc Tổng tuyển cử với chế độ phổ thông đầu phiếu. Tổng tuyển cử để bầu ra Quốc
hội, có Quốc hội sẽ lập ra Chính phủ và các cơ quan, bộ máy chính thức của Nhà nước mới.
Cuộc Tổng tuyển cử được tiến hành ngày 06-01-1946 đã thể hiện tinh thần dân chủ, bình đẳng; đã bầu
ra được những đại biểu ưu tú vào Quốc hội. Ngày 02-3-1946, Quốc hội khóa I nước Việt Nam Dân chủ Cộng
hòa đã họp phiên đầu tiên, lập ra các tổ chức, bộ máy và các chức vụ chính thức của Nhà nước. Chính phủ
liên hiệp kháng chiến ra đời. Đây là Chính phủ hợp hiến đầu tiên do đại biểu của nhân dân bầu ra, có đầy đủ
tư cách và hiệu lực trong việc giải quyết mọi vấn đề đối nội và đối ngoại của Nhà nước Việt Nam mới.
Ba là, tăng cường tính nghiêm minh, hiệu quả của pháp luật và tăng cường giáo dục đạo đức.
Tính nghiêm minh, hiệu quả của pháp luật trước hết thể hiện ở khâu soạn thảo Hiến pháp. Hồ Chí Minh
đã có cống hiến lớn trong viêc soạn thảo Hiến pháp 1946 và 1959. Nhưng một việc làm hết sức quan trọng là
đưa Hiến pháp và pháp luật vào cuộc sống. Hồ Chí Minh chú ý xây dựng một nền pháp chế xã hội chủ nghĩa
để bảo đảm quyền làm chủ thật sự của nhân dân. Nền pháp chế đó có hiệu lực với tất cả mọi cơ quan nhà nước

35
Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2002, t.1, tr.438 – 439

50
và cá nhân. Hồ Chí Minh luôn luôn nêu một tấm gương sáng trong việc sống, làm việc theo Hiến pháp và
pháp luật.
Nhà nước pháp quyền chứa đựng nội dung khoa học của pháp luật. Vì vậy, Hồ Chí Minh quan tâm tới
việc giáo dục pháp luật cho mọi người, phát huy tính tích cực chính trị của công dân, khuyến khích nhân dân
tham gia vào các công việc của nhà nước. Nâng cao dân trí để nhân dân hiểu pháp luật, hiểu quyền lợi và làm
tốt nghĩa vụ công dân. Thực thi pháp luật là dân chủ và dân chủ là một biểu hiện của pháp luật. Người thường
nhắc nhở làm sao cho mọi người biết hưởng quyền dân chủ, biết dùng quyền dân, có năng lực làm chủ, dám
nói, dám làm. Đây là một khía cạnh của văn hóa chính trị.
Trong khi chú trọng tính nghiêm và minh của pháp luật như “pháp luật phải thẳng tay trừng trị những
kẻ bất liêm, bất kỳ kẻ ấy ở địa vị nào và làm nghề nghiệp gì”, hoặc “không vì công mà quên lỗi, vì lỗi mà
quên công”, Hồ Chí Minh rất chú trọng tới giáo dục đạo đức. Theo Người, đối với những người do chế độ cũ
để lại như trộm cắp, gái điếm, cờ bạc, buôn lậu, Nhà nước phải dùng vừa pháp luật vừa giáo dục đạo đức để
cải tạo họ, giúp đỡ họ trở nên những người lương thiện. Sự kết hợp “đức trị” với “pháp trị” là một nét đặc sắc
trong tư tưởng và cách làm của Hồ Chí Minh.
Câu 38. Quan điểm của Hồ Chí Minh về xây dưng bộ máy và đội ngũ cán bộ, công chức nhà nước?
Trả lời:
Trước hết, nói về quan điểm của Hồ Chí Minh về xây dựng bộ máy nhà nước.
Nói đến bộ máy nói chung và bộ máy nhà nước nói riêng là đề cập tới hệ thống, gồm nhiều bộ phận liên
quan, gắn bó và ràng buộc lẫn nhau, thúc đẩy nhau cùng phát triển. Bộ phận này là điều kiện của bộ phận kia
và ngược lại. Tuy nhiên, mỗi bộ phận lại có chức năng, vị trí riêng, có tính độc lập tương đối trong toàn bộ hệ
thống. Cả bộ máy phải đạt được những tiêu chí chung và có mục đích chung. Bộ máy nhà nước theo quan
điểm Hồ Chí Minh phải bảo đảm hiện đại, dân chủ, hiệu lực, phù hợp với tình hình, đặc điểm từng giai đoạn
lịch sử. Quyền lực của bộ máy nhànước thuộc về nhân dân và nhân dân sử dụng quyền lực thông qua Quốc
hội và Hội đồng nhân dân. Bộ máy như vậy là thể hiện bản chất dân chủ của nhà nước kiểu mới: mạnh mẽ,
sáng suốt, hoạt động vì lợi ích của nhân dân. Quyền lực của bộ máy nhà nước thì không chia sẻ theo kiểu
“tam quyền phân lập”, mà tập trung, thống nhất. Nhưng để bộ máy hoạt động có hiệu quả thì có sự phân công
thực hiện các chức năng cụ thể. Bộ máy đó gồm:
Quốc hội là cơ quan quyền lực cao nhất của Nhà nước, có quyền lập pháp, biểu quyết ngân sách và giải
quyết những vấn đề chung trên phạm vi toàn quốc theo chức năng của mình. Quốc hội chuẩn y các hiệp ước
và Chính phủ ký với nước ngoài. Quốc hội bầu Chủ tịch nước, Phó Chủ tịch nước, biểu quyết danh sách Thủ
tướng và các bộ trưởng.
Chính phủ là cơ quan hành pháp cao nhất của Nhà nước, hoạt động trên cơ sở Hiến pháp và pháp uật.
Chính phủ là cơ quan thần kinh điều chỉnh mọi hoạt động quản lý của các cơ quan nhà nước.
Bộ máy tư pháp gồm tòa án, viện kiểm sát hoạt động độc lập, theo pháp luật và lương tâm, không phụ
thuộc với bất cứ một quyền lực nào. Thẩm phán được Chính phủ bổ nhiệm. Khi xét xử có sự tham gia của
phụ (hội) thẩm nhân dân. Quyền bào chữa, biện hộ của các bị cáo được bảo đảm. Tư tưởng Hồ Chí Minh về
bộ máy tư pháp thể hiện tính dân chủ, hiện đại, đáp ứng nguyện vọng của nhân dân về một nền công lý sáng
suốt.
Nền hành chính tập trung theo nguyên tắc dân chủ. Để nền hành chính hoạt động có hiệu quả, Hồ Chí
Minh quan tâm tới giải quyết mối quan hệ giữa chính quyền các cấp. Theo đó, nhà nước trung ương thực hiện
sự thống nhất tập trung công việc có tính chất quốc gia, còn chính quyền địa phương giải quyết những công
việc theo chức năng, quyền hạn của mình. Hội đồng nhân dân do nhân dân bầu ra, chịu trách nhiệm trước
nhân dân địa phương, quyết định những vấn đề trong phạm vi của mình nhưng phải theo đúng Hiến pháp và
pháp luật.
Tùy theo hoàn cảnh lịch sử để vận dụng sáng tạo, nhưng vẫn bảo đảm quy định của Hiến pháp và pháp
luật, nhằm đem lại hiệu quả hoạt động của bộ máy nhà nước trong mọi tình huống.
Thứ hai, xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức nhà nước.

51
Nói đến bộ máy nói riêng và mọi hoạt động của nhà nước nói chung là nói tới con người, nói tới đội ngũ
cán bộ, công chức. Bởi vì, mọi việc đều do con người làm ra, cán bộ tốt thì bộ máy hoạt động tốt, cán bộ dở
thì bộ máy hoạt động kém, thậm chí không chạy. Vì vậy, Hồ Chí Minh hết sức quan tâm tới đội ngũ cán bộ,
công chức cả hai mặt xây và chống.
Trước hết, Hồ Chí Minh chú trọng việc đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ, công chức có trình độ văn
hóa, am hiểu pháp luật, thành thạo nghiệp vụ hành chính và nhất là phải có đạo đức cách mạng cần, kiệm,
liêm, chính, chí công vô tư, một tiêu chuẩn cơ bản của người cầm cân nảy mực cho công lý.
Trong điều kiện vừa thoát khỏi chế độ cũ thực dân, phong kiến, chúng ta chưa có kinh nghiệm trong
quản lý đất nước. Vì vậy, cán bộ nhà nước phải biết quản lý nhà nước. Hồ Chí Minh vừa sử dụng viên chức,
quan lại dưới chế độ cũ vừa tích cực tìm người tài đức vì kiến thiết cần có nhân tài.
Cần lưu ý thêm khi bàn về công chức, Hồ Chí Minh coi “cán bộ là nguồn vốn của Nhà nước”, “cái gốc
của mọi công việc”. Vì vậy, trong Quy chế công chức, Người xác định rõ vị trí và nhiệm vụ của công chức.
Vì công chức giữ một vị trí và nhiệm vụ nhất định trong bộ máy nhà nước, nên phải đem hết tất cả sức lực và
tâm trí để làm việc cho nhân dân. Họ cần có một địa vị xứng đáng với tài năng của mình, nằm trong thang
lương nhất định và phải có quy chế khung thi tuyển. Như vậy, có thể thấy Hồ Chí Minh đã chỉ rõ tính chất
chuyên nghiệp của công chức theo chế độ chức nghiệp.
Nói đến cán bộ công chức, cùng với xây những phẩm chất tốt cần chống lại những thói hư tật xấu. Hồ
Chí Minh là lãnh tụ nhìn xa, trông rộng. Ngay sau khi có chính quyền cách mạng, Người đã chỉ ra những căn
bệnh trong bộ máy nhà nước và trong cả hệ thống chính trị. Từ đó, Người trăn trở với cách đề phòng và khắc
phục những thói tật của cán bộ, công chức. Đó là những thứ “giặc nội xâm”, “giặc trong lòng” mà rõ nhất là
tham ô, lãng phí, quan liêu, thiếu tinh thần trách nhiệm, óc bè phái, đặc quyền đặc lợi, tư túng, chia rẽ, kiêu
ngạo… Theo Hồ Chí Minh, tham ô, lãng phí và bệnh quan liêu là đồng minh của thực dân phong kiến. Nó
phá hoại đạo đức cách mạng của ta, phá từ trong phá ra. Tội lỗi ấy nặng như Việt gian, mật thám. Vì vậy,
chống “giặc trong lòng” cũng cần kíp như việc đánh giặc trên mặt trận. Đáng chú ý bệnh quan liêu. Những
người mắc bệnh quan liêu là trọng hình thức, chứ không kiểm tra đến nơi, đến chốn… Thành thử có mắt mà
không thấy suốt, có tai mà không nghe thấu, có chế độ mà không giữ đúng, có kỷ luật mà không nắm vững…
Thế là, bệnh quan liêu đã ấp ủ, dung túng, che chở cho nạn tham ô, lãng phí. Vì vậy, muốn trừ sạch nạn tham
ô, lãng phí, thì trước mắt phải tẩy sạch bệnh quan liêu. Đây chính là tinh thần của Lênin khi cho rằng tệ quan
liêu sẽ làm tiêu vong chúng ta.
Tóm lại, xây dựng bộ máy và cán bộ công chức liên quan với nhau. Bộ máy trong sạch, vững mạnh là
nhờ đội ngũ cán bộ, công chức trong sạch, vững mạnh. Đội ngũ cán bộ, công chức thì bộ máy trong sạch.
Câu 39. Giá trị lý luận và thực tiễn tư tưởng Hồ Chí Minh về dân chủ và nhà nước của dân, do dân,
vì dân?
Trả lời:
Điều có ý nghĩa quan trọng nhất khi nghiên cứu tư tưởng và tấm gương Hồ Chí Minh nói chung, về dân
chủ và nhà nước nói riêng trong tình hình hiện nay là trên cơ sở tổng kết, đánh giá những cống hiến của Hồ
Chí Minh cho cách mạng Việt Nam giai đoạn trước đây (khi Người còn sống và sua khi Người qua đời đến
trước đổi mới) là việc cần làm rõ giá trị lý luận và thực tiễn tư tưởng và tấm gương của Người trong bối cảnh
hiện nay, trong đó có sự vận dụng của Đảng ta.
Nghiên cứu tư tưởng Hồ Chí Minh về dân chủ và Nhà nước, đặt trong bối cảnh hiện nay, thấy vẫn còn
nhiều giá trị lớn về lý luận và thực tiễn. Trên nền tảng tư tưởng Hồ Chí Minh, Đảng ta khẳng định: dân chủ
xã hội chủ nghĩa vừa là mục tiêu vừa là động lực của công cuộc đổi mới. Xây dựng một xã hội dân chủ, trong
đó cán bộ, đảng viên, và các công chức phải thực sự là công bộc của nhân dân. Xác định các hình thức tổ chức
và có cơ chế để nhân dân thực hiện quyền dân chủ trên các lĩnh vực kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội. Đề cao
trách nhiệm của các tổ chức Đảng, Nhà nước đối với nhân dân. Bộ máy nhà nước, các thiết chế khác trong hệ
thống chính trị có nhiệm vụ đề xuất ý kiến với Đảng trong quá trình xây dựng, hoạch định tổ chức thực hiện
đường lối, chính sách của Đảng. Đảng ta xác định Nhà nước bảo đảm quyền làm chủ thật sự của nhân dân,

52
thể chế hóa bằng Hiến pháp và pháp luật, đưa Hiến pháp và pháp luật vào cuộc sống. Bảo đảm cho mọi người
bình đẳng trước pháp luật, xử phạt nghiêm minh mọi hành động vi phạm pháp luật. Đó là yêu cầu xây dựng
nhà nước của dân, do dân, vì dân theo tư tưởng Hồ Chí Minh. Mặt khác, kết hợp mở rộng dân chủ đi đôi với
pháp chế xã hội chủ nghĩa.
Tư tưởng Hồ Chí Minh soi sáng công tác xây dựng bộ máy hành chính nhà nước, bảo đảm một nền hành
chính dân chủ, trong sạch, vững mạnh. Nhiệm vụ đẩy mạnh cải cách hành chiến hiện nay theo hướng “một
cửa”, khắc phục thói quan liêu, hách dịch, cửa quyền, gây phiền hà, sách nhiễu nhân dân. Tập trung cải cách
các thủ tục hành chính, đề cao trách nhiệm cá nhân trong việc giải quyết khiếu kiện của công dân theo đúng
quy định của pháp luật. Xây dựng bộ máy, cùng với xây dựng thể chế, thực chất là xây dựng đội ngũ cán bộ,
công chức nhà nước. Đó phải là những người tận tâm, tận lực, có ý thức trách nhiệm với công việc, với nhân
dân, đủ tài đủ đức. Muốn vậy, phải tập trung đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ, công chức có phẩm chất và
năng lực để hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao.
Nhà nước trong bối cảnh toàn cầu hóa phải được đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng. Tuy nhiên, so với thời
Hồ Chí Minh, ngày nay phải có những vận dụng sáng tạo như: Đảng lãnh đạo Nhà nước bằng phương pháp
thích hợp, tức lãnh đạo bằng đường lối, bằng tổ chức, bộ máy của Đảng trong các cơ quan nhà nước; bằng vai
trò tiên phong, gương mẫu của đội ngũ đảng viên hoạt động trong bộ máy nhà nước; lãnh đạo bằng công tác
kiểm tra,… Phát huy vai trò quản lý của nhà nước cũng có nghĩa tăng cường sự lãnh đạo của Đảng; ngược lại,
sự trong sách, vững mạnh của Đảng lại trở thành yếu tố quyết định sự thành công của việc xây dựng bộ máy
nhà nước.
Cần phải nhấn mạnh thêm rằng, tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với nhà nước có một nội dung rất
quan trọng là: Đảng thống nhất lãnh đạo công tác cán bộ trong hệ thống chính trị trên cơ sở bảo đảm chức
năng, nhiệm vụ, quyền hạn của nhà nước theo luật định. Đội ngũ cán bộ tốt là nhân tố quan trọng xây dựng
nhà nước vững mạnh. Nhà nước vững mạnh là một thước đo vai trò và năng lực lãnh đạo của Đảng cầm quyền.
Tóm lại, những nội dung cơ bản nhất trong tư tưởng Hồ Chí Minh về dân chủ và nhà nước của dân, do
dân, vì dân đã và đang được Đảng ta vận dụng sáng tạo và phát triển trong bối cảnh mới để xây dựng nhà
nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa với ý nghĩa là một đặc trưng của xã hội xã hội chủ nghĩa.
Câu 40. Tư tưởng Hồ Chí Minh về phát triển kinh tế, không ngừng nâng cao đời sống vật chất của
nhân dân?
Trả lời:
Sau khi giành lại được độc lập dân tộc, toàn bộ sức mạnh và ý chí của nhân dân ta đấu tranh cho độc
lập, tự do được chuyển sang đấu tranh cho mục tiêu ấm no, hạnh phúc, từ đánh giặc chuyển sang xây dựng,
phát triển kinh tế để dựng nước và giữ nước dân chủ. Như Hồ Chí Minh từng nói: “Chúng ta tranh được tự
do, độc lập rồi mà dân cứ chết đói, chết rét thì tự do, độc lập cũng không làm gì. Dân chỉ biết rõ giá trị của tự
do, độc lập khi mà dân được ăn no, mặc đủ”36. Chính vì vậy, theo Hồ Chí Minh, tất cả đường lối, chính sách
xây dựng kinh tế của Đảng đều chỉ nằm “nâng cao đời sống của nhân dân”, nghĩa là làm sao cho mỗi người
dân có đủ ăn, mặc, ở, học hành, đi lại, chữa bệnh, giải trí,… Xây dựng chủ nghĩa xã hội thực chất là xây dựng
kinh tế “làm cho dân giàu, nước mạnh. Dân có giàu thì nước mới mạnh”, và phải đẩy mạnh sản xuất, phát
triển kinh tế nhằm “làm cho người nghèo thì đủ ăn. Người đủ ăn thì khá giàu. Người khá giàu thì giàu thêm”.
Điều này có nghĩa là Hồ Chí Minh quan tâm đến nhu cầu tối thiểu của con người, dù là con người sinh vật
hay con người xã hội để tồn tại như một con người phải có ăn, mặc, ở, đi lại. Đó là nhu cầu để được sống, có
sống mới nói đến đạo lý và các việc cao xa khác như chính trị, quân sự, chinh phục vũ trụ…
Hồ Chí Minh cũng cho rằng con người không phải chỉ có nhu cầu vật chất, mà còn có những nhu cầu
về tinh thần, và nhu cầu tinh thần là cái đặc trưng của con người, cho con người. Con người khác con vật
chính ở nhu cầu tinh thần. Tất cả những nhu cầu vật chất và tinh thần có được đáp ứng hay không lại hoàn
toàn phụ thuộc vào chế độ xã hội, vào hình thái kinh tế - xã hội mà họ đang sống. Phát triển kinh tế tạo tiền
đề cho phát triển văn hóa nhằm thỏa mãn nhu cầu tinh thần của nhân dân.

36 Sđd, t.4, tr.152

53
Câu 41. Các cống hiến của Nhà văn hóa Hồ Chí Minh?
Trả lời:
Hồ Chí Minh được tổ chức Khoa học – Giáo dục của Liên hợp quốc (UNESCO) công nhận là nhà văn
hóa kiệt xuất (éminent homme de culture) là do cống hiến của Người:
Thứ nhất, Người đã khởi xướng phong trào đấu tranh chống chủ nghĩa thực dân, chủ nghĩa đế quốc,
giải phóng dân tộc thuộc địa, giành lại độc lập, tự do. Đó không chỉ là một sự nghiệp chính trị phi thường mà
còn là một sự nghiệp văn hóa cao cả. “Đổi người nô lệ thành người tự do”, giải phóng con người khỏi thân
phận nô lệ, khỏi cái đói, cái rét, cái dốt là một sự nghiệp văn hóa có ý nghĩa cao cả nhất, đầy đủ nhất, một ước
mơ ngàn đời của nhân loại.
Thứ hai, Người đã sớm thấy vai trò và sức mạnh của văn hóa, đã sớm đưa văn hóa vào chiến lược phát
triển đất nước Việt Nam. Giành được độc lập là mở ngay chiến dịch chống giặc dốt. Người nói: “Một dân tộc
dốt là một dân tộc yếu”. Người phát động Đời sống mới, xây dựng và phát triển những thuần phong, mỹ tục
mới trong nhân dân. Công lao to lớn của Hồ Chí Minh là đã đưa văn hóa đi sâu vào quần chúng, tác động như
một sức mạnh vật chất, biến đổi phong hóa, cải tạo con người.
Thứ ba, Hồ Chí Minh là người đầu tiên đưa chủ nghĩa Mác – Lênin vào Việt Nam, xây dựng thế giới
quan và phương pháp luận cho việc xây dựng nền văn hóa mới Việt Nam. Người là kiến trúc sư vĩ đại của
công cuộc “văn hóa hóa kháng chiến, kháng chiến hóa văn hóa”, cải cách và xây dựng nền văn hóa Việt
Nam, ý thức đạo đức, ý thức pháp luật, ý thức nghệ thuật mới… chưa từng có trong lịch sử văn hóa Việt Nam.
Thứ tư, Hồ Chí Minh là một nhà hoạt động và sáng tạo văn hóa lớn.
Văn hóa Hồ Chí Minh là sự kết hợp hài hòa tinh hoa văn hóa dân tộc và văn hóa nhân loại. Bản thân
Hồ Chí Minh là nhà thơ, nhà văn, nhà báo cách mạng vĩ đại.
Thơ Hồ Chí Minh viết bằng chữ Việt và chữ Hán. Văn thơ “vốn không ham”, nhưng những bài thơ ngẫu
hứng, sản phẩm của một thời của Hồ Chí Minh, trong đó không ít bài ra đời trong cảnh tù đày, biệt xứ đã trở
thành “thơ của muôn đời”, “xáo trộn cả tâm hồn nhân loại” bởi những giá trị nhân văn cao quý, tỏa sáng từ
một tâm hồn lớn, một nhân cách lớn.
Hồ Chí Minh là nhà văn lớn. Người đã tìm tòi và viết nhiều thể loại: tiểu thuyết, du ký, truyện viễn
tưởng, truyện ngắn, thư từ, ký, lịch, tiểu phẩm, văn chính luận. Ở lĩnh vực nào Người cũng đạt được những
thành tựu, có những yếu tố rất mới, hiện đại. Hiện nay vẫn giữ nguyên giá trị trong sự đổi mới văn học hôm
nay.
Hồ Chí Minh là một nhà báo, nhà báo bậc thầy của báo chí cách mạng Việt Nam. Người không nhận
mình là nhà thơ, nhà văn, chỉ là “người có nhiều duyên nợ với báo chí”. Người đã sáng lập và là linh hồn của
nhiều tờ báo vô sản đầu tiên ở nước ta. Những bài báo của Người đã góp phần thức tỉnh các dân tộc bị áp bức,
truyền bá chủ nghĩa Mác – Lênin, lên án chủ nghĩa thực dân, chỉ đạo phong trào cách mạng ở thuộc địa, chứa
đựng trung thực, hồn nhiên cái đẹp, cao quý của đạo đức, trí tuệ, tiêu biểu cho cái đẹp – cái thiện của con
người.
Thứ năm, Hồ Chí Minh là mẫu mực của tinh thần bao dung, khoan dung văn hóa. Đây là sự thể hiện tài
tình quy luật tiếp biến của văn hóa. Văn hóa Hồ Chí Minh không tự bó mình trong chủ nghĩa dân tộc hẹp hòi,
thiển cận, Người trân trọng những giá trị khác biệt, không hề bài bác hay phủ định tôn giáo, mà biết khéo
hướng lý tưởng của các tôn giáo vào phục vụ sự nghiệp giải phóng dân tộc và mưu cầu hạnh phúc cho nhân
dân.
Thứ sáu, Hồ Chí Minh là hiện thân rực rỡ của văn hóa hòa bình, ngoại giao hòa bình, luôn chủ trương
giải quyết tranh chấp, xung đột bằng thương lượng, đối thoại với thái độ hiểu biết và nhân nhượng lẫn nhau.
Tóm lại, Nhà văn hóa kiệt xuất Hồ Chí Minh đã sáng tạo ra một thời đại mới, một nền văn hóa mới trong
lịch sử dân tộc Việt Nam, cũng là những giá trị đóng góp vào sự phát triển văn hóa của thế giới.
Câu 42. Khái niệm văn hóa của Hồ Chí Minh?
Trả lời:

54
Trong ngôn ngữ của nhân loại, khái niệm văn hóa có nhiều định nghĩa, có nhiều cách hiểu nhất. Hiện
có đến vài trăm định nghĩa về văn hóa, trong đó có định nghĩa văn hóa của Hồ Chí Minh đưa ra năm 1943.
Trong tư tưởng Hồ Chí Minh, khái niệm văn hóa được hiểu theo cả ba nghĩa rộng, hẹp và rất hẹp:
Theo nghĩa rộng: Hồ Chí Minh nêu văn hóa là toàn bộ những giá trị vật chất và tinh thần do loài người
sáng tạo ra. “Văn hóa là sự tổng hợp của mọi phương thức sinh hoạt cùng với biểu hiện của nó mà loài người
đã sản sinh ra nhằm thích ứng những nhu cầu đời sống và đòi hỏi của sự sinh tồn”37.
Theo nghĩa hẹp, văn hóa là những giá trị tinh thần. Người viết: Trong công cuộc kiến thiết nước nhà, có
bốn vấn đề cần chú ý đến, cũng phải coi là quan trọng ngang nhau: chính trị, kinh tế, xã hội, văn hóa. Nhưng
văn hóa là một kiến trúc thượng tầng (báo Cứu quốc, tháng 8 – 1945).
Theo nghĩa rất hẹp, văn hóa đơn giản chỉ là trình độ học vấn của con người được đánh giá bằng trình
độ học vấn phổ thông, thể hiện ở việc Hồ Chí Minh yêu cầu mọi người “phải đi học văn hóa”, “xóa mù chữ”…
Đặc biệt, năm 1943 Hồ Chí Minh viết: “Vì lẽ sinh tồn cũng như mục đích của cuộc sống, loài người mới
sáng tạo và phát minh ra ngôn ngữ, chữ viết, đạo đức, pháp luật, khoa học, tôn giáo, văn học, nghệ thuật,
những công cụ cho sinh hoạt hằng ngày về mặc, ăn, ở và các phương thức sử dụng. Toàn bộ những sáng tạo
và phát minh đó tức là văn hóa. Văn hóa là sự tổng hợp của mọi phương thức sinh hoạt cùng với biểu hiện
của nó mà loài người đã sản sinh ra nhằm thích ứng những nhu cầu đời sống và đòi hỏi của sự sinh tồn”38.
Đây có thể coi là định nghĩa văn hóa của Hồ Chí Minh. Và đây cũng là lần duy nhất, không thấy Hồ chí Minh
trở lại định nghĩa văn hóa này.
Song, trong định nghĩa này, Hồ Chí Minh cho chúng ta hiểu được:
- Văn hóa là những sáng tạo và phát minh của con người.
- Nguồn gốc là mục đích và động lực của cuộc sống, nhằm thích ứng những nhu cầu đời sống và đòi hỏi
của sự sinh tồn.
- Cấu trúc của văn hóa: ngôn ngữ, chữ viết, đạo đức, luật pháp, khoa học, tôn giáo, văn học – nghệ thuật,
những công cụ cho sinh hoạt hàng ngày về ăn, mặc, ở và các phương thức sử dụng.
- Văn hóa là tổng hợp mọi phương thức sinh hoạt (ứng xử, giao tiếp).
Điều thú vị là định nghĩa văn hóa của Hồ Chí Minh có nhiều điểm gần giống với quan niệm hiện đại
của UNESCO về văn hóa theo các khía cạnh sau: Phức thể, tổng thể nhiều mặt; nét riêng biệt, đặc trưng riêng
về tinh thần và vật chất, khắc họa nên bản sắc, nghệ thuật, văn chương, và những quyền cơ bản của con người,
hệ thống giá trị; cách ứng xử và sự giao tiếp.
Câu 43. Phân tích quan điểm của Hồ Chí Minh về tính chất của nền văn hóa mới?
Trả lời:
Sự khác nhau giữa nền văn hóa mới Việt Nam với nền văn hóa cũ trước hết ở tính chất cơ bản của nó.
Nền văn hóa cũ mang tính chất nô dịch, ngu dân đã được Hồ Chí Minh phân tích, tố cáo, lên án trong nhiều
bài viết, nhất là trong Bản án chế độ thực dân Pháp ở Đông Dương.
Trong Đề cương văn hóa năm 1943, lần đầu tiên Đảng ta nêu lên ba tính chất của cuộc vận động xây
dựng nền văn hóa mới: dân tộc, khoa học, đại chúng.
Sau khi nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ra đời, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nhiều lần nhắc lại ba tính
chất này. Ngày 07-9-1945, trong buổi tiếp đoàn đại biểu Ủy ban Văn hóa lâm thời Bắc Bộ, Người nói: Cái
văn hóa mới này cần phải có tính cách khoa học, tính cách đại chúng thì mới thuận với trào lưu tiến hóa của
tư tưởng hiện đại.
Trong Báo cáo chính trị đọc tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ II của Đảng (1951), Người khẳng
định phải “Xây dựng một nền văn hóa Việt Nam có tính chất dân tộc, khoa học và đại chúng”39.
- Tính dân tộc của văn hóa

37
Sđd, t.3, tr.431
38
Sđd, t.3, tr.431
39
Sđd, t.6, tr.173

55
Tính dân tộc của văn hóa là sự thể hiện của chủ nghĩa yêu nước và tinh thần độc lập, tự cường của dân
tộc trong lĩnh vực văn hóa, nên trước hết, nó phải được thể hiện ở nội dung tuyên truyền cho “lý tưởng tự chủ,
độc lập, tự do” và “tinh thần vì nước quên mình” như Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nói.
Tính dân tộc của văn hóa đòi hỏi phải thể hiện được cốt cách và tâm hồn con người Việt Nam, đó là
truyền thống yêu nước, cần cù, dũng cảm, đoàn kết, thương người… tóm lại, là tất cả những gì cao đẹp nhất
trong tâm hồn và tính cách Việt Nam đã được hun đúc trong suốt hàng nghìn năm lịch sử dựng nước và giữ
nước.
Muốn thể hiện được yêu cầu này, Hồ Chí Minh đòi hỏi các nhà văn hóa – văn nghệ phải đi sâu vào quần
chúng nhân dân, thực hiện ba cùng với họ, có thế mới phát hiện và mô tả được chiều sâu của tính cách và tâm
hồn quần chúng, lại phải học lịch sử, hiểu truyền thống dân tộc. Người từng cảnh báo: “Coi chừng, có nhiều
người Việt nam lại không hiểu rõ lịch sử, đất nước, con người và những cái vốn rất quý báu của mình bằng
những người nước ngoài”40. Lại cũng phải hiểu kỹ, hiểu sâu truyền thống văn hóa – nghệ thuật Việt Nam.
Người căn dặn văn nghệ sĩ: Nghệ thuât của cha ông hay lắm, tốt lắm! Cố mà giữ gìn; làm công tác văn nghệ
mà không tìm hiểu sâu vốn của dân tộc thì không làm được đâu.
Tính dân tộc của văn hóa còn được thể hiện ở hình thức và phương tiện diễn đạt. Mỗi dân tộc có nếp
cảm, nếp nghĩ riêng đi thẳng vào lòng người, lay động sâu xa tâm hồn họ. Người nhắc nhở: “Nhân dân ta có
truyền thống kể chuyện ngắn gọn mà lại có duyên. Các chú phải học cách kể chuyện của nhân dân”41.
Về mặt ngôn ngữ, Người căn dặn: “Tiếng nói là một thứ của cải rất quý báu của dân tộc, chúng ta phải
hết sức giữ gìn lấy nó, chớ để bệnh nói chữ lấn át nó đi”42.
Quan điểm của Hồ Chí Minh về tính dân tộc của văn hóa, rất toàn diện và sâu sắc, từ nội dung đến hình
thức diễn đạt. Bản thân Người là nhà văn hóa kiệt xuất, là biểu tượng cao đẹp của bản sắc, tính cách, tâm hồn
dân tộc, là tấm gương cho các nhà văn hóa – văn nghệ học tập.
- Tính khoa học của văn hóa
Nhấn mạnh giá trị của truyền thống dân tộc, đồng thời Chủ tịch Hồ Chí Minh cũng chỉ rõ trong truyền
thống có mặt tích cực và mặt tiêu cực. Một trong những thiếu hụt của văn hóa cổ truyền là chưa hình thành
được một truyền thống khoa học. Tư duy nông nghiệp là một loại tư duy kinh nghiệm, không mở đường cho
khoa học tự nhiên phát triển, nên tư duy lý luận, khái niệm khoa học, phương pháp khoa học chưa trở thành
mặt chủ đạo của ý thức toàn xã hội. Trong điều kiện đó, mê tín dị đoan có đất để phát triển.
Chủ tịch Hồ Chí Minh nói: Nay nước ta đã được độc lập, tinh thần được giải phóng, cần phải có một
nền văn hóa hợp với khoa học và hợp với cả nguyện vọng của nhân dân.
Tính khoa học của văn hóa đòi hỏi phải đấu tranh chống lại những gì trái với khoa học, phản tiến bộ;
phải truyền bá tư tưởng triết học mácxít, đấu tranh chống chủ nghĩa duy tâm, thần bí, mê tín, dị đoan. Người
giao cho ngành giáo dục phải “dạy bảo các cháu thiếu niên về khoa học, kỹ thuật, làm cho các cháu ngay từ
thuở nhỏ đã biết yêu khoa học, để mai sau các cháu trở thành những người có thói quen sinh hoạt và là việc
theo khoa học”43.
Người nhắc nhở ngành văn hóa: trong việc khôi phục vốn cũ, chỉ “nên khôi phục cái gì tốt, còn cái gì
không tốt thì phải loại dần ra”, không được “khôi phục cả đồng bóng, rước xách thần thánh”44.
Để tuyên truyền nếp sống vệ sinh, phong cách sống làm việc theo khoa học, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã
viết các tác phẩm Đời sống mới, Sửa đổi lối làm việc; nhằm tổ chức lại các quan hệ văn hóa từ trong một nhà,
một làng, một trường học đến các cơ quan, đơn vị bộ đội, v.v. sao cho việc ăn, ở, học tập, lao động,… phải
tuân theo Đời sống mới, bài trừ các phong tục tập quán cổ hủ, làm cho nếp sống xã hội ta mỗi ngày một tiến
bộ hơn, hợp với khoa học và văn minh.

40
Sđd, t.12, tr.556 – 557
41
Sđd, t.12, tr.553
42
Sđd, t.9, tr.413
43
Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2002, t.11, tr.80
44
Sđd, t.9, tr.248

56
- Tính đại chúng của văn hóa
Đây là vấn đề thuộc về tính nhân dân, về đối tượng phục vụ của văn hóa – nghệ thuật. Trước kia, trong
xã hội cũ, văn hóa – văn nghệ được coi là món ăn tinh thần sang trọng, chỉ dành riêng cho một thiểu số người
ăn trên ngồi chốc. Đó là một trong những điều bất công của xã hội cũ.
Chủ tịch Hồ Chí Minh xuất phát từ quan điểm của chủ nghĩa duy vật lịch sử: Quần chúng nhân dân là
người sáng tạo ra mọi của cải vật chất và tinh thần, sáng tạo ra văn hóa, do đó họ phải được hưởng thụ các
giá trị văn hóa. Người nói: “Quần chúng là những người sáng tạo, công nông là những người sáng tạo. Nhưng,
quần chúng không chỉ sáng tạo ra những của cải vật chất cho xã hội. Quần chúng còn là người sáng tác
nữa…”45.
Từ đó, Người đặt vấn đề: “Văn hóa phục vụ ai?” và Người khẳng định dứt khoát: Văn hóa phải phục
vụ đại đa số nhân dân, phải hướng về đại chúng, phải phản ánh được tâm tư, nguyện vọng, ý chí của nhân dân.
Người thường xuyên nhắc nhở người cầm bút: “Phải đặt câu hỏi: Viết cho ai?
- Viết cho đại đa số: Công – Nông – Binh.
Viết để làm gì?
- Để giáo dục, giải thích, cổ động, phê bình. Để phục vụ quần chúng”46.
Tại Hội nghị những người tích cực làm công tác văn hóa quần chúng (02 – 1960), Người nói: “Văn hóa
thực phục vụ nhân dân, góp phần vào việc nâng cao đời sống vui tươi, lành mạnh của quần chúng”47.
Văn hóa là trình độ phát triển của con người, do con người làm ra, nó phải trở về phục vụ con người.
Chủ tịch Hồ Chí Minh đấu tranh giải phóng dân tộc để đem lại tự do, ấm no, hạnh phúc cho nhân dân, trong
đó có văn hóa. Đó là tính nhất quán trong sự nghiệp cách mạng của Người.
Tính đại chúng của văn hóa đòi hỏi các nhà hoạt động văn hóa phải tăng cường liên hệ với thực tế, đi
sâu vào cuộc sống của nhân dân vừa để tìm hiểu và phản ánh những nỗi lo âu và suy nghĩ, khát vọng và tình
yêu, cuộc đời và số phận của nhân dân; vừa để đem ánh sáng văn hóa đến mọi người, mọi nhà, nhất là các
vùng sâu, vùng xa. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã thẳng thắn phê bình: “Phải thấy rằng nói chung văn hóa của ta
còn loanh quanh trong thành phố, chỗ dễ ăn, chứ chưa đến chỗ đồng bào Mèo, đồng bào Mán”48.
Tóm lại, ba tính chất dân tộc, khoa học, đại chúng hợp thành một chỉnh thể thống nhất, ngày càng thấm
sâu vào ý thức sáng tạo của các nhà hoạt động văn hóa nước ta, giúp họ sáng tạo nên những tác phẩm tiêu
biểu cho nền văn hóa mới. Dù sau này, tính chát của nền văn hóa mới có sự thay đổi nhất định về cách diễn
đạt, nhưng tinh thần cốt lõi của nó cũng không đi ra ngoài ba tính chất đã được Đảng ta và Chủ tịch Hồ Chí
Minh nêu lên từ những ngày đầu dựng nước.
Câu 44. Quan điểm của Hồ Chí Minh về chức năng của nền văn hóa mới?
Trả lời:
Từ di sản tư tưởng Hồ Chí Minh, có thể thấy văn hóa có ba chức năng cơ bản sau:
Một là, bồi dưỡng tư tưởng đúng và tình cảm cao đẹp cho con người.
Hồ Chí Minh nêu rõ: Văn hóa phải làm cho ai cũng có lý tưởng tự chủ, độc lập, tự do. Đồng thời văn
hóa phải làm thế nào cho quốc dân có tinh thần vì nước quên mình, vì lợi ích chung mà quên lợi ích riêng. Hồ
Chí mInh cũng thường nói phải làm thế nào cho văn hóa đi sâu vào tâm lý quốc dân để xây dựng những tình
cảm lớn: yêu, ghét, căm thù, tin tưởng. Như lòng yêu nước, thủy chung, ghét những thói hư tật xấu, những sa
đọa biến chất, căm thù những thứ giặc nội xâm… tin ở con người, ở chân lý, ở sự thật, ở đường lối của Đảng,
của cách mạng xã hội chủ nghĩa… Từ đó Hồ Chí Minh nêu một luận điểm quan trọng: “Văn hóa phải soi
đường cho quốc dân đi”.
Hai là, nâng cao dân trí, mở rộng hiểu biết của con người.

45
Sđd, t.9, tr.250
46
Sđd, t.7, tr.117
47
Sđd, t.10, tr.59
48
Sđd, t.9, tr.249

57
Khi mới giành được độc lập, Hồ Chí Minh đã nói: “Một trong những công việc phải thực hiện cấp tốc
trong lúc này, là nâng cao dân trí”49. Dân trí, theo Hồ Chí Minh là: “Mọi người Việt Nam phải hiểu biết quyền
lợi của mình…, phải có kiến thức mới để có thể tham gia vào công cuộc xây dựng nước nhà, và trước hết phải
biết đọc, biết viết chữ quốc ngữ”50.
Khi miền Bắc bước vào thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, Hồ Chí Minh viết: “Chúng ta phải biến một
nước dốt nát, cực khổ thành một nước văn hóa cao và đời sống tươi vui hạnh phúc”51.
Chính văn hóa giúp con người hiểu họ được hưởng những quyền lợi gì và phải có trách nhiệm gì với
dân, với nước và ngay với chính bản thân mình, muốn biết được phải biết đọc, biết viết chữ quốc ngữ. Ngay
khi bắt tay vào xây dựng đất nước, Hồ Chí Minh đã đặt chỉ tiêu phải phổ cập trình độ tiểu học cho mọi người
dân và đưa nước ta sánh vai với các cường quốc năm châu thông qua việc học của toàn dân.
Ba là, bồi dưỡng những phẩm chất tốt đẹp, những phong cách lành mạnh, tiên tiến, luôn hướng con
người vươn tới cái chân, thiện, mỹ để không ngừng hoàn thiện bản thân con người.
Phẩm chất và phong cách của con người được hình thành trong quan hệ đạo đức và lối sống của cá nhân
và xã hội, trong thói quen, tập quán, phong tục của cộng đồng và dân tộc. Văn hóa giúp con người nhận biết
và phân biết cái tốt đẹp, lành mạnh với cái xấu xa, hư hỏng, giữa cái tiến bộ với cái lạc hậu cản trở con người
và dân tộc tiến lên phía trước. Hồ Chí Minh từng nhấn mạnh: Văn hóa phải sửa đổi được những tham nhũng,
lười biếng, phù hoa, xa xỉ, sửa xã hội cũ, xây xã hội mới.
Nếu hiểu văn hóa là tất cả những gì do con người, ở trong con người và liên quan trực tiếp nhất đến con
người, thì khi chúng ta bàn đến khái niệm văn hóa, cả bản chất, chức năng và vai trò của văn hóa tức là đã
bàn vấn đề con người trong tư tưởng Hồ Chí Minh. Và qua đó cũng thấy rõ ràng, sự nghiệp xây dựng nền văn
hóa mới cũng là sự nghiệp xây dựng con người, đó cũng là sự nghiệp của mỗi con người, của toàn dân. Nhưng
lực lượng nòng cốt lại là những nhà văn hóa, những người làm công tác văn hóa, giáo dục… mà Hồ Chí Minh
gọi là các chiến sĩ trên mặt trận văn hóa “phải biết xung phong”.
Câu 45. Quan điểm của Hồ Chí Minh về một số lĩnh vực chính của văn hóa?
Trả lời:
Các lĩnh vực văn hóa là bộ phận cấu thành nền văn hóa. Ở đây, chỉ đề cập ba lĩnh vực chính: văn hóa
giáo dục, văn học – nghệ thuật, văn hóa đời sống.
* Văn hóa giáo dục
Những quan điểm của Hồ Chí Minh về văn hóa giáo dục tập trung ở các điểm sau:
- Mục tiêu của văn hóa giáo dục là thực hiện cả ba chức năng của văn hóa bằng giáo dục, có nghĩa là
bằng dạy và học. Đó là đào tạo những con người toàn diện vừa có đức có tài, những công dân biết làm và đủ
điều kiện làm chủ để xây dựng và bảo vệ đất nước. Đó là cải tạo trí thức cũ, đào tạo trí thức mới, thực hiện
công nông trí thức hóa, trí thức công nông hóa, xây dựng đội ngũ trí thức ngày càng đông đảo, trình độ ngày
càng cao.
- Chương trình, nội dung dạy và học thật khoa học, thật hợp lý, phù hợp với những bước phát triển của
nước ta, phản ánh được mục tiêu không chỉ dạy và học chữ mà phải dạy và học làm người.
- Học đi đôi với hành, lý luận phải liên hệ với thực tế, học tập phải kết hợp với lao động, phải luôn luôn
gắn nội dung giáo dục với thực tiễn Việt Nam. Có như vậy, văn hóa giáo dục mới có tính hướng đích đúng
đắn, rõ ràng, thiết thực.
- Phải tạo môi trường giáo dục lành mạnh, dân chủ, trường phải ra trường, lớp phải ra lớp, thầy ra thầy,
trò ra trò. Đồng thời phải phối hợp cả ba khâu nhà trường, gia đình và xã hội trong giáo dục.
- Học ở mọi nơi, mọi lúc, học mọi người: học suốt đời; phải coi trọng việc tự học, tự đào tạo và đào tạo
lại.

49
Sđd, t.4, tr.36
50
Sđd, t.4, tr.36
51
Sđd, t.8, tr.494

58
* Văn học – nghệ thuật
Văn học, nghệ thuật gọi chung là văn nghệ. Văn nghệ là biểu hiện tập trung nhất của nền văn hóa, là
đỉnh cao của đời sống tinh thần, là hình ảnh của tâm hồn dân tộc. Trong lịch sử phát triển, dân tộc Việt Nam
là dân tộc rất quý trọng văn nghệ và văn nghệ cũng đã trở thành nhu cầu không thể thiếu của nhân dân ta. Tiếp
nối truyền thống dân tộc, Hồ Chí Minh là một chiến sĩ tiên phong trong sáng tạo văn nghệ và là người đã khai
sinh một nền văn nghệ cách mạng Việt Nam. Cống hiến của Hồ Chí Minh về văn nghệ là bộ phận đặc sắc
trong sự nghiệp của Người đã để lại cho Đảng, cho dân tộc.
Quan điểm của Hồ Chí Minh về văn nghệ có thể tóm tắt như sau:
Văn nghệ là mặt trận, nghệ sĩ là chiến sĩ, tác phẩm văn nghệ là vũ khí sắc bén trong đấu tranh cách
mạng, trong xây dựng xã hội mới, con người mới.
Quan điểm trên đặc biệt có ý nghĩa to lớn trong việc tập hợp ngày càng đông đảo văn nghệ sĩ vào một
mặt trận chiến đấu bằng vũ khí sắc bén của mình trên tinh thần: nay ở trong thơ nên có thép, nhà thơ cũng
phải biết xung phong. Và hướng vào việc “phò chính trừ tà”, “phụng sự kháng chiến, phụng sự Tổ quốc,
phụng sự nhân dân”, đặc biệt là trong việc xây dựng con người mới, xã hội mới.
Quan điểm trên của Hồ Chí Minh đã tạo nên một nền văn nghệ cách mạng và đội ngũ các nghệ sĩ cách
mạng. Nó đặt văn nghệ cách mạng của ta vào vị trí tiên phong chống đế quốc thực dân của thế kỷ XX.
Văn nghệ phải gắn với thực tiễn đời sống nhân dân.
Thực tiễn đời sống nhân dân là lao động, chiến đấu, sinh hoạt và xây dựng xã hội mới. Văn nghệ phản
ánh và hướng thực tiễn ấy phát triển theo quy luật của cái đẹp. Cái đẹp của cuộc sống đang vận động và biến
đổi, do con người tạo ra, đồng thời cũng tạo ra sự hoàn thiện của con người chứ không phải cái đẹp siêu thực,
vĩnh hằng. Theo tinh thần đó, Hồ Chí Minh yêu cầu chiến sĩ văn nghệ phải thật hòa bình với quần chúng,
nguồn nhựa sống sáng tác của nhà văn là từ nhân dân. Nhà văn quên điều đó thì nhân dân cũng quên nhà văn.
Quan điể trên của Hồ Chí Minh đã mang lại cho nền văn nghệ cách mạng ở ta tính dân tộc, tính nhân
dân, tính hiện thực sâu sắc.
Phải có những tác phẩm văn nghệ xứng đáng với thời đại mới của đất nước, của dân tộc. Phải phản
ánh cho hay, cho chân thật, cho hùng hồn sự nghiệp cách mạng của nhân dân.
Hồ Chí Minh nói với văn nghệ sĩ: “Quần chúng đang chờ đợi những tác phẩm văn nghệ xứng đáng với
thời đại vẻ vang của chúng ta”. Quần chúng mong muốn những tác phẩm có nội dung chân thật và phong phú,
có hình thức trong sáng và vui tươi. Khi chưa xem thì muốn xem, xem rồi thì có bổ ích”52. Và theo Người,
“một tác phẩm văn chương không cứ dài mới hay. Khi nào tác phẩm ấy chỉ diễn đạt vừa đủ những điều đáng
nói, khi nó được trình bày sao cho mọi người ai cũng hiểu được, và khi đọc xong độc giả phải suy ngẫm, thì
tác phẩm ấy mới xem như một tác phẩm hay và biên soạn tốt”53.
Tính chân thực không đối lập với sự hư cấu. Hư cấu từ hiện thực, hướng người đọc vươn tới cái cần có,
cái lý tưởng. Đó là tính hướng đích của văn nghệ. Sự phong phú không phỉ đòi hỏi ở nội dung mà còn ở thể
loại của tác phẩm văn nghệ. Hồ Chí Minh nêu: “Cần làm cho món ăn tinh thần được phong phú, không nên
bắt mọi người chỉ được ăn một món thôi. Cũng như vào vườn hoa, cần cho mọi người thấy được nhiều loại
hoa đẹp”54.
Định hướng mục tiêu, lý tưởng độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội là duy nhất và cũng là đề tài bao
trùm nhất của Hồ Chí Minh. Người nói: “Về nội dung viết, mà các cô các chú gọi là “đề tài”, thì tất cả những
bài Bác viết chỉ có một “đề tài” là: chống thực dân đế quốc, chống phong kiến địa chủ, tuyên truyền độc lập
dân tộc và chủ nghĩa xã hội”55. Đó cũng là đề tài bao trùm của giới văn nghệ sĩ nước nhà, thể hiện bằng nhiều
thể loại, nhiều tác phẩm. Chính điều đó mở ra con đường sáng tạo không giới hạn của văn nghệ sĩ.
* Văn hóa đời sống

52
Sđd, t.10, tr.646 – 647
53
Sđd, t.2, tr.157
54
Sđd, t.12, tr.557
55
Sđd, t.9, tr.419

59
Hồ Chí Minh đã phát động phong trào xây dựng đời sống mới và viết tác phẩm Đời sống mới để hướng
dẫn thực hiện trong xã hội.
Khái niệm “Đời sống mới” mà Hồ Chí Minh đưa ra bao hàm cả đạo đức mới, lối sống mới và nếp sống
mới. Đạo đức mới được đề cập ở phần tư tưởng Hồ Chí Minh về đạo đức, ở đây chỉ trình bày về lối sống và
nếp sống mới.
Lối sống mới là lối sống văn minh, tiên tiến, kết hợp hài hòa truyền thống tốt đẹp của dân tộc và tinh
hoa văn hóa nhân loại. Xây dựng lối sống mới, Hồ Chí Minh đòi hỏi: “sửa đổi những việc rất cần thiết, rất
phổ thông, trong đời sống của mọi người, tức là sửa đổi cách ăn, cách mặc, cách ở, cách đi lại, cách làm
việc”56. Đó là 5 cách phải sửa đổi không chỉ với mỗi người mà còn cho cả tập thể, cộng đồng.
Xây dựng lối sống mới không hoàn toàn phụ thuộc vào phương tiện sống nhiều hay ít, giản đơn hay
sang trọng, mức sống cao hay thấp mà ở chất văn hóa của lối sống. Theo Hồ Chí Minh phải xây dựng cách
sống khiêm tốn, giản dị, chừng mực, điều độ, ngăn nắp, vệ sinh, yêu lao động, biết quý trọng thời gian, ít lòng
ham muốn về vật chất, về chức quyền, danh lợi. Trong quan hệ với nhân dân, bạn bè đồng chí thì cởi mở chân
tình, ân cần tế nhị, giàu lòng yêu thương quý mến con người, trân trọng con người; đối với mình thì chặt chẽ,
đối với người thì khoan dung, độ lượng. Làm việc thì quần chúng, tập thể, dân chủ, khoa học.
Nếp sống mới. Quá trình làm cho lối sống mới dần dần thành nền nếp, thói quen, ổn định ở mỗi người,
thành phong tục tập quán của tập thể hay cả cộng đồng, trong khu vực hay cả nước, thường gọi là nếp sống
mới hay nếp sống văn hóa.
Hồ Chí Minh dạy chúng ta chẳng những phải biết kế thừa, mà còn phải phát triển những thuần phong
mỹ tục, đồng thời phải biết cải tạo những phong tục tập quán cũ lạc hậu. Việc sửa đổi những thói quen, phong
tục tập quán không còn phù hợp, loại bỏ những cái xấu, xây dựng những cái tốt là công việc khó khăn, phức
tạp. Hồ Chí Minh đã khuyến cáo: “Thói quen rất khó đổi. Cái tốt mà lạ, người ta có thể cho là xấu. Cái xấu
mà quen, người ta cho là thường”57. Vì vậy, phải nâng cao nhận thức, phải phấn đấu kiên trì mới có thể xây
dựng được những thói quen, phong tục tập quán mới, thực hiện đời sống mới.
Hồ Chí Minh cho rằng: “Đời sống mới không phải cái gì cũ cũng bỏ hết, không phải cái gì cũng làm
mới. Cái gì cũ mà xấu, thì phải bỏ… Cái gì cũ mà không xấu, nhưng phiền phức thì phải sửa đổi lại cho hợp
lý… Cái gì cũ mà tốt, thì phải phát triển thêm… Cái gì mới mà hay thì ta phải làm”58.
Như vậy, phải xây dựng được những thuần phong mỹ tục mới, đồng thời đấu tranh khắc phục rất nhiều
vấn đề, thông qua việc rà soát, đánh giá để xây, để chống cho đúng, qua việc làm gương và nêu gương. Bắt
đầu từ từng người, từng gia đình thì mới có thể xây dựng được đời sống mới ở tập thể, các đơn vị, ở làng xã,
phố phường cho đến cả nước. Có như thế mới xây dựng được nếp sống có văn hóa, xây dựng được đời sống
mới thể hiện được bản chất của chủ nghĩa xã hội.
Câu 46. Đặc điểm và bản chất của tư tưởng Hồ Chí Minh về đạo đức?
Trả lời:
- Đặc điểm của tư tưởng Hồ Chí Minh về đạo đức là có tính thực tế, tính toàn diện và tính thống nhất.
Tính thực tế trong tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh biểu hiện ở chỗ nó hình thành không phải do sự suy
lý tư biện mà do chính sự tổng kết thực tiễn đạo đức xã hội Việt Nam, đạo đức của con người Việt Nam, nhất
là tổng kết kinh nghiệm rèn luyện tu dưỡng đạo đức của chính bản thân Hồ Chí Minh mà nâng lên tầm lý luận,
và qua làm gương và nêu gương, qua các gương người tốt, việc tốt hàng ngày mà đúc kết thành luân lý, thành
chuẩn mực điều chỉnh hành vi của người Việt Nam trong hoạt động sống.
Tính toàn diện trong tư tưởng Hồ Chí Minh thể hiện ở chỗ vấn đề đạo đức được Hồ Chí Minh đề cập
cho mọi đối tượng (sĩ, nông, công, thương, chính khách, tu hành…, nam, nữ, ấu, phụ), cho mọi lĩnh vực (lao
động, sản xuất, học tập, công tác, chiến đấu…), mọi phạm vi (từ gia đình đến xã hội, từ giai cấp đến dân tộc,
từ quốc gia đến quốc tế…). Không chỉ bàn đến, đề cập đến mà Hồ Chí Minh còn nêu các tiêu chuẩn đạo đức

56
Sđd, t.5, tr.95
57
Sđd, t.5, tr.107
58
Sđd, t.5, tr.94 – 95

60
để mỗi đối tượng rèn luyện tu dưỡng theo, như năm điều điều Bác Hồ dạy thiếu nhi, 6 lòi dạy công an nhân
dân…
Tính thống nhất trong vấn đề đạo đức được Hồ Chí Minh bàn nhiều, nói nhiều. Đó là thống nhất giữa
đức với tài, giữa hồng với chuyên, thống nhất giữa đạo đức với pháp luật, giữa đạo đức với chính trị, đạo đức
đời thường với đạo đức cách mạng,… nhất là sự thống nhất trong văn hóa đạo đức, trong từng nội dung khái
niệm, chuẩn mực đạo đức, trong quan hệ cần, kiệm, liêm, chính với chí công vô tư… quan hệ thống nhất giữa
vai trò làm người lãnh đạo của cán bộ, đảng viên với trách nhiệm công bộc, phục vụ nhân dân của họ. Đặc
biệt quan trọng là “nói phải làm” và tấm gương sáng của Hồ Chí Minh nói đi đôi với làm, nhiều khi trong
quan hệ đạo đức Hồ Chí Minh làm nhiều hơn những điều đã nói, luôn làm gương và nêu gương cho mọi người
xung quanh.
- Bản chất của tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh là đạo đức cách mạng, là đạo đức của người cách mạng
trong thời kỳ giải phóng dân tộc đi lên xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam, lấy ý thức phục vụ nhân dân,
chăm lo, quan tâm, hy sinh cho người khác… Nói ngắn gọn đó là đạo đức “vì dân”, “vì mọi người” làm trung
tâm. Trên thực tế, Hồ Chí Minh đã làm một cuộc cách mạng sâu sắc trong lĩnh vực đạo đức ở Việt Nam.
Người đã đưa các nội dung mới vào các khái niệm, mệnh đề đạo đức cũ, chính Người đã khẳng định: “Đạo
đức cũ như người đầu ngược xuống đất chân chổng lên trời. Đạo đức mới như người hai chân đứng vững
được dưới đất đầu ngẩng lên trời. Bọn phong kiến ngày xưa nêu ra cần, kiệm, liêm, chính nhưng không bao
giờ làm mà lại bắt nhân dân ta phải tuân theo để phục vụ quyền lợi cho chúng. Ngày nay ta đề ra cần, kiệm,
liêm, chính cho cán bộ thực hiện làm gương cho nhân dân theo để lợi cho nước cho dân”59. Cũng trung, hiếu
nhưng xưa là trung với vua, hiếu với cha mẹ, nay là trung với nước, với Đảng, hiếu với dân.
Đạo đức cách mạng đối lập với đạo đức tư sản. Đạo đức tư sản là kiểu đạo đức được xây dựng trên cơ
sở của chủ nghĩa cá nhân. Hồ Chí Minh đã vạch trần tội ác của giai cấp tư sản “chúng cướp của chung do xã
hội sản xuất ra làm của riêng…, để chúng ngồi mát ăn bát vàng, nhưng miệng chúng luôn luôn huênh hoang,
những từ đạo đức, tự do, bác ái, dân chủ”. Nhận rõ bản chất đạo đức của giai cấp tư sản là chủ nghĩa cá nhân,
Hồ Chí Minh luôn nêu cao chủ nghĩa tập thể của giai cấp công nhân và kiên quyết tìm cách ngăn chặn mọi
biểu hiện của chủ nghĩa cá nhân, không muốn nó nảy nở, phát triển và tồn tại trong ý nghĩ và hành động hàng
ngày của cán bộ, nhân dân ta. Người kêu gọi mọi người Việt Nam hãy thực hiện công việc quét sạch chủ
nghĩa cá nhân, nâng cao đạo đức cách mạng một cách thường xuyên, hàng ngày.
Câu 47. Quan niệm của Hồ Chí Minh về vị trí, vai trò của đạo đức cách mạng?
Trả lời:
Nhận thức sâu sắc vai trò của đạo đức cách mạng trong sự nghiệp giải phóng dân tộc, trang đầu của tác
phẩm Đường cách mạng viết năm 1927 Hồ Chí Minh đã dành để viết về Tư cách người cách mạng. Người
yêu cầu người cách mạng phải biết hy sinh, ít lòng ham muốn về vật chất, không ngại gian khổ khó khăn,
thậm chí có thể phải hy sinh tính mạng của mình cho sự nghiệp chung. Người cách mạng phải rất khiêm tốn,
không hiếu danh, không kiêu ngạo, cả quyết sửa lỗi mình, cẩn thận mà không nhút nhát, nếu thấy việc đúng
thì phải quyết tâm làm và phải chịu trách nhiệm trước việc mình làm. Quần chúng tin và theo cách mạng trước
hết họ tâm phục đạo đức, gương hy sinh của người cách mạng. Họ thống nhất trong ý thức đạo đức sẽ tạo sức
mạnh vô địch trong hành vi đạo đức, có thể lấy nhân nghĩa mà thắng hung tàn, đem trí nhân mà chế ước cường
bạo.
Hồ Chí Minh coi đạo đức là gốc, là nền tảng của người cách mạng. Theo Hồ Chí Minh thì đối với con
người, sức có mạnh mới gánh được nặng và đi được xa, người cách mạng phải có đạo đức cách mạng mới
hoàn thành nhiệm vụ cách mạng. Người từng viết: “Cũng như sông thì có nguồn mới có nước, không có nguồn
thì sông cạn. Cây phải có gốc, không có gốc thì cây héo. Người cách mạng phải có đạo đức, không có đạo
đức thì dù tài giỏi mấy cũng không lãnh đạo được nhân dân”60.

59
Sđd, t.6, tr.320 – 321
60
Sđd, t.5, tr.252 – 253

61
Vì sao đạo đức cách mạng lại là gốc, nền tảng và ngọn nguồn sức mạnh của người cách mạng? Có nhiều
lý do song Hồ Chí Minh thường nhắc tới ba lý do cơ bản sau:
- Sự nghiệp độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam là sự nghiệp cách mạng to lớn, rất khó khăn,
chưa từng có trong lịch sử, hoàn thành nó đòi hỏi không phải một mà nhiều thế hệ tận trung với nước tận hiếu
với dân.
- Kẻ thù của cách mạng Việt Nam luôn là những tên phong kiến thực dân, đế quốc gian ác mất nhân
tính, chúng ta không hy vọng vào lòng tốt, “sự rủ lòng thương” của chúng để có độc lập cho Tổ quốc và tự
do, hạnh phúc cho con người. Để đạt được mục tiêu ấy, chỉ bằng con đường đấu tranh kiên cường, bằng chiến
đấu giành lấy, bằng sự hy sinh tất cả chứ nhất định không chịu làm nô lệ, khi đó mỗi người phải nêu cao đạo
đức cách mạng.
- Chủ nghĩa Mác – Lênin là cách mạng và khoa học. Đến với nó đòi hỏi mỗi người phải có quyết tâm
cách mạng và tri thức khoa học, có cái tâm trong sáng và cái đức cao đẹp. Đặc biệt, để hiện thực nó trong
cuộc sống càng đòi hỏi người cách mạng không những có tâm sáng, đức cao thượng mà còn cần có cái trí
mẫn tuệ và chỉ khi có cái đức thì mới đi đến được cái trí. Cái đức là cái bảo đảm cho người cách mạng giữ
vững được chủ nghĩa mà mình đã tin đã hiểu và đang theo. Hồ Chí Minh không chỉ đòi hỏi mỗi người vừa
hồng vừa chuyên mà cả Đảng phải “là đạo đức, là văn minh”.
Nhờ những người cách mạng có và giữ vững đạo đức cách mạng, chèo lái con thuyền cách mạng Việt
Nam, đã đưa dân tộc ta thoát khỏi ách áp bức ngoại bang, đang thoát đói giảm nghèo vươn lên tiến kịp các
nước để sánh vai với các cường quốc năm châu như Hồ Chí Minh mong đợi.
Câu 48. Quan điểm của Hồ Chí Minh về các phẩm chất đạo đức cách mạng cơ bản của con người
Việt Nam trong thời đại mới?
Trả lời:
Trong tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh, những phẩm chất đạo đức được nêu ra là phù hợp với từng đối
tượng. Hơn nữa, Người nhấn mạnh phẩm chất này hay phẩm chất khác là nhằm đáp ứng yêu cầu của nhiệm
vụ cách mạng trong từng thời kỳ nhất định. Có thể khái quát thành những phẩm chất chung, cơ bản nhất của
con người Việt Nam trong thời đại mới. Nói cách khác, đó là những chuẩn mực chung nhất của nền đạo đức
mới, đạo đức cách mạng Việt Nam mà mọi người cần được bồi dưỡng, giáo dục.
1. Trung với nước, hiếu với dân
Về quan hệ đạo đức thì đây là mối quan hệ của mỗi người với đất nước mình, với nhân dân, dân tộc
mình, là mối quan hệ lớn nhất. Về phẩm chất đạo đức thì trung với nước, hiếu với dân là phẩm chất quan
trọng nhất, bao trùm nhất.
Trung với nước là sự trung thành, yêu quý, báo ân, báo đáp của mỗi một người đối với sự nghiệp dựng
nước và giữ nước. Nước ở đây được hiểu ở ba cấp độ:
- Là đất và nước, lãnh thổ, tài nguyên, môi trường… giới hạn bởi biên giới quốc gia.
- Là quốc vong, quốc túy, quốc hồn, tựu trung trong quốc thể, hình thành từ những quan hệ đan xen giữa
chính trị, kinh tế, văn hóa, ngôn ngữ, tâm lý và truyền thống lịch sử; đó là bản sách dân tộc Việt Nam, văn
hóa Việt Nam.
- Là bộ máy công quyền, hệ thống quyền lực thực thi quyền lực chính trị, nhà nước, thực thi sức mạnh
của nhân dân.
Tư tưởng trung với nước, hiếu với dân của Hồ Chí Minh không những kế thừa giá trị của chủ nghĩa yêu
nước truyền thống của dân tộc, mà còn vượt qua những hạn chế của truyền thống đó. Trung với nước là trung
thành với sự nghiệp giữ nước và dựng nước. Nước ở đây là nước của dân, còn dân lại là chủ nhân của đất
nước. Khi Hồ Chí Minh đặt vấn đề “bao nhiêu quyền hạn đều của dân”, “bao nhiêu lợi ích đều vì dân”, “bao
nhiêu quyền hành và lực lượng đều ở nơi dân”, Đảng và Chính phủ là “đầy tớ nhân dân” chứ không phải
“quan nhân dân để đè đầu, cưỡi cổ nhân dân”, thì quan niệm về nước và dân đã hoàn toàn đảo lộn so với trước.
Có thể nói rất ít lãnh tụ cách mạng đã nói về dân nhưu vậy. Nhưng vấn đề không phải chỉ là nói mà phải làm
như thế nào, có làm hay không, điều này càng làm cho tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh vượt xa lên phía trước.

62
Trung với nước, hiếu với dân, suốt đời phấn đấu hy sinh vì độc lập, tự do của Tổ quốc, vì chủ nghĩa xã
hội, nhiệm vụ nào cũng hoàn thành, khó khăn nào cũng vượt qua, kẻ thù nào cũng đánh thắng. Câu nói đó
của Người vừa là lời kêu gọi hành động, vừa là định hướng chính trị - đạo đức cho mỗi người Việt Nam,
không phải chỉ tỏng cuộc đấu tranh cách mạng trước mắt mà còn lâu dài về sau.
Đối với cán bộ, đảng viên, như Hồ Chí Minh đã nói, “điều chủ chốt nhất” của đạo đức cách mạng là
“quyết tâm suốt đời đấu tranh cho Đảng, cho cách mạng”, là “tuyệt đối trung thành với Đảng, với nhân dân”,
là “trung với nước, hiếu với dân” hơn nữa phải là “tận trung, tận hiếu” thì mới xứng đáng vừa là người lãnh
đạo, vừa là người đầy tớ trung thành của nhân dân.
Tư tưởng hiếu với dân là chăm lo phụng dưỡng, bồi đắp và đáp ứng những nhu cầu vật chất và tinh thần
của nhân dân. Nhưng nó không còn dừng lại ở chỗ thương dân với tính chất là đối tượng cần phải dạy dỗ, ban
ơn mà là đối tượng phải phục vụ hết lòng. Vì vậy, phải gần dân, gắn bó với dân, kính trọng và học tập dân,
dựa hẳn vào dân, lấy dân làm gốc. Theo Hồ Chí Minh, lãnh đạo phải nắm vững dân tình, hiểu rõ dân tâm,
nâng cao dân trí, để nhân dân hiểu được quyền và trách nhiệm của người chủ đất nước, quyền thì hưởng, trách
nhiệm thỉ phải làm tròn. Có cái đức ấy thì người cách mạng, người lãnh đạo sẽ được dân tin yêu, quý mến,
kính trọng, nhất định sẽ tạo ra sức mạnh to lớn cho cách mạng.
2. Thương yêu con người, sống có tình nghĩa
Hồ Chí Minh đã sác định yêu thương con người là một trong những đạo đức cao đẹp nhất. Bản thân Hồ
Chí Minh đã dành tình yêu thương trọn vẹn của mình cho những người cùng khổ, những người lao động bị
áp bức, bóc lột, cho đồng chí, đồng bào.
Trên phương diện đạo đức, yêu thương con người đòi hỏi mỗi người phải luôn luôn chặt chẽ, nghiêm
khắc với mình, rộng rãi, độ lượng với người khác, phải có thái độ tôn trọng con người, biết cách nâng con
người lên chứ không phải hạ thấp, vùi dập con người.
Yêu thương con người, theo Hồ Chí Minh, còn được thể hiện qua việc đối xử, có thái độ khoan dung,
độ lượng với những người có sai lầm, khuyết điểm, kể cả với những người lầm đường lạc lối, đã hối cải, với
cả những kẻ thù đã bị thương, bị bắt hoặc đã chịu quy hàng. Chính tình yêu thương đó đã đánh thức những gì
tốt đẹp mà Hồ Chí Minh tin trong mỗi người đều có, tuy nhiều ít có khác nhau.
Trong Di chúc Hồ Chí Minh căn dặn Đảng phải có tình đồng chí thương yêu lẫn nhau. Đây là tình
thương yêu trên nguyên tắc tự phê bình và phê bình một cách chân thành, nghiêm túc giữa những người cùng
lý tưởng, phấn đấu cho một sự nghiệp chung. Điều này hoàn toàn xa lạ với thái độ dĩ hòa vi quý, bao che sai
lầm, khuyết điểm cho nhau, và càng xa lạ với thái độ, yêu nên tốt ghét nên xấu, bè cánh có thể đưa đến những
tổn thất lớn cho cách mạng, cho Đảng.
3. Cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư
Cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư gắn liền và là một biểu hiện cụ thể của phẩm chất trung với nước,
hiếu với dân. Cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư lấy chính bản thân mỗi người làm đối tượng điều chỉnh,
nó diễn ra hằng ngày, hằng giờ. Hồ Chí Minh coi cần, kiệm, liêm, chính là bốn đức mà mỗi người phải có,
nếu thiếu một đức thì không thành người, như trời có bốn mùa xuân, hạ, thu, đông; đất phải có bốn phương
đông, tây, nam, bắc. Và người giải thích:
Cần là siêng năng, chăm chỉ; lao động có kế hoạch, có hiệu quả, có hiệu suất với tinh thần tự lực cánh
sinh.
Kiệm là tiết kiệm (thời gian, công sức, của cải…) của nước, của dân, “không xa xỉ, không hoang phí,
không bừa bãi”.
Liêm là luôn tôn trọng của công và của dân. Phải “trong sách, không tham lam” tiền của, địa vị, danh
tiếng.
Chính là thẳng thắn, đứng đắn.
Hồ Chí Minh không giải thích nội dung của cần, kiệm, liêm, chính mà Người còn chỉ rõ mối quan hệ
giữa bốn đức đó: “Cần, kiệm, liêm là gốc rễ của chính… Mọi người phải cần, kiệm, liêm nhưng còn phải
chính thì mới hoàn toàn”.

63
Theo Hồ Chí Minh cần, kiệm, liêm, chính là thước đo văn minh, tiến bộ của dân tộc. Người viết: “một
dân tộc biết cần, kiệm, biết liêm là một dân tộc giàu về vật chất, mạnh về tinh thần, là một dân tộc văn minh,
tiến bộ”. Đồng thời Hồ Chí Minh cũng coi cần, kiệm, liêm, chính là nền tảng của “đời sống mới”.
Một người cần, kiệm, liêm, chính sẽ dẫn đến chí công vô tư và ngược lại đã chí công vô tư thì nhất định
sẽ thực hiện được cần, kiệm, liêm, chính và còn nhiều tính tốt khác.
Bồi dưỡng phẩm chất cần kiệm liêm chính, chí công vô tư sẽ làm cho con người vững vàng trước mọi
thử thách: Giàu sang không thể quyến rũ, nghèo khó không thể chuyển lay, uy vũ không thể khuất phục.
Nhưng đây là vấn đề hết sức phức tạp, nói dễ làm khó, và trong cuộc sống vẫn còn hay vi phạm. Bởi vì nó
đụng chạm đến nhiều mặt lợi ích cá nhân, mà tập trung nhất là chức quyền, danh lợi. Nếu không vượt qua
được chủ nghĩa cá nhân, thì bất cứ ai cũng có thể sa vào những hành vi vô đạo đức.
4. Tinh thần quốc tế trong sáng
Đó là tinh thần đoàn kết quốc tế vô sản, mà Hồ Chí Minh đã nêu lên bằng mệnh đề “Bốn phương vô sản
đều là anh em”. Đó là tinh thần đoàn kết với các dân tộc bị áp bức, với nhân dân lao động các nước, mà Hồ
Chí Minh đã dày công vun đắp bằng hoạt động cách mạng của cả dân tộc. Đó là tinh thần đoàn kết của nhân
dân Việt Nam với tất cả những người tiến bộ trên thế giới vì hòa bình, công lý và tiến bộ xã hội.
Theo Hồ Chí Minh, chủ nghĩa quốc tế vô sản gắn liền với chủ nghĩa yêu nước, đương nhiên phải là chủ
nghĩa yêu nước chân chính và chủ nghĩa quốc tế trong sáng. Nếu tinh thần yêu nước không chân chính và tinh
thần quốc tế không trong sáng thì sẽ dẫn đến chủ nghĩa dân tộc hẹp hòi, sô vanh, biệt lập, kỳ thị chủng tộc
hoặc chủ nghĩa bành chướng bá quyền. Tất cả những khuynh hướng ấy có thể phá vỡ một quốc gia dân tộc,
hay một liên bang quốc gia đa dân tộc, phá vỡ tình đoàn kết quốc tế trong cuộc đấu tranh chung, thậm chí có
thể đưa đến tình trạng đối đầu, đối địch gây chiến tranh sắc tộc, cục bộ.
Câu 49. Các nguyên tắc xây dựng đạo đức cách mạng theo tư tưởng Hồ Chí Minh?
Trả lời:
Một là, nói đi đôi với làm, phải nêu gương về đạo đức.
Đối với mỗi người, lời nói phải đi đôi với việc làm.
Nói đi đôi với làm, trước hết là sự nêu gương tốt. Sự nêu gương của thế hệ đi trước với thế hệ đi sau,
lãnh đạo với nhân viên… Đảng viên phải nêu gương trước quần chúng. Người nói: “Trước mặt quần chúng,
không phải ta cứ viết lên trán chữ “cộng sản” mà ta được họ yêu mến. Quần chúng chỉ quý mến những người
có tư cách, đạo đức. Muốn hướng dẫn nhân dân, mình phải làm mực thước cho người ta bắt chước”61.
Hai là, xây đi đôi với chống.
Cùng với việc xây dựng đạo đức mới, bồi dưỡng những phẩm chất tốt đẹp, nhất thiết phải chống những
biểu hiện đạo đức sai trái, xấu xa, không phù hợp với những yêu cầu của đạo đức mới. Xây đi đôi với chống,
muốn xây phải chống, chống nhằm mục đích xây.
Xây dựng đạo đức mới trước hết phải đẩy mạnh việc giáo dục, từ trong gia đình đến nhà trường, tập thể
và toàn xã hội. Những phẩm chất chung nhất phải được cụ thể hóa sát hợp với từng tầng lớp, đối tượng. Trong
các bài viết của mình, Hồ Chí Minh đã nêu rất cụ thể các phẩm chất đạo đức cơ bản đối với từng giai cấp,
tầng lớp, lứa tuổi và nhóm xã hội.
Trong giáo dục, vấn đề quan trọng là phải khơi dậy ý thức đạo đức lành mạnh trong mỗi người, để mỗi
người nhận thức được và tự giác thực hiện. Trong đấu tranh chống lại cái tiêu cực, lạc hậu phải phát hiện sớm,
phải chú ý phòng ngừa, ngăn chặn.
Để xây và chống cần phát huy vai trò của dư luận xã hội, tạo ra phong trào quần chúng rộng rãi, biểu
dương cái tốt, phê phán cái xấu. Người đã phát động cuộc thi đua “3 xây, 3 chống”, viết sách “người tốt, việc
tốt” để tuyên truyền, giáo dục về đạo đức lối sống.
Ba là, phải tu dưỡng đạo đức suốt đời.

61
Sđd, t.5, tr.552

64
Theo Hồ Chí Minh, đạo đức cách mạng phải qua đấu tranh, rèn luyện bền bỉ mới thành. Người viết:
“Đạo đức cách mạng không phải trên trời sa xuống. Nó do đấu tranh, rèn luyện bền bỉ hằng ngày mà phát
triển và củng cố. Cũng như ngọc càng mài càng sáng, vàng càng luyện càng trong”62. Người dạy: “Một dân
tộc, một đảng và mỗi con người, ngày hôm qua là vĩ đại, có sức hấp dẫn lớn, không nhất định hôm nay và
ngày mai vẫn được mọi người yêu mến và ca ngợi, nếu lòng dạ không trong sáng nữa, nếu sa vào chủ nghĩa
cá nhân”63.
Trong rèn luyện đạo đức, Hồ Chí Minh coi tự rèn luyện có vai trò rất quan trọng. Người khẳng định, đã
là người thì ai cũng có chỗ hay, chỗ ở, chỗ xấu, chỗ tốt, ai cũng có thiện, có ác ở trong mình. Vấn đề là dám
nhìn thẳng vào con người mình, không tự lừa dối, huyễn hoặc, thấy rõ cái hay, cái tốt, cái thiện để phát huy
và thấy rõ cái dở, cái xấu, cái ác để khắc phục. Tu dưỡng đạo đức phải được thực hiện trong mọi hoạt động
thực tiễn, trong mọi mối quan hệ của mình, trong đời tư cũng như trong sinh hoạt cộng đồng. Không thể là
chiến sĩ thi đua ở nơi công tác, khi về nhà lại mắng vợ, chửi đánh con. Những người như thế không phải là
người có đạo đức cách mạng.
Câu 50. Trình bày nội dung, phương pháp học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh?
Trả lời:
- Tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh là tấm gương đạo đức của một vĩ nhân, một lãnh tụ cách mạng vĩ
đại, một người cộng sản vĩ đại, nhưng đồng thời cũng là tấm gương đạo đức của một người chân chính, bình
thường, gần gũi, ai cũng có thể học theo, để làm theo, để trở thành một người cách mạng, người công dân tốt
hơn trong xã hội. Điều ấy thể hiện trong các quan điểm sau:
Một là, đạo đức Hồ Chí Minh là tấm gương trọn đời phấn đấu vì sự nghiệp giải phóng dân tộc, giải
phóng giai cấp, giải phóng con người.
Ngay từ thuở thiếu thời, Hồ Chí Minh đã lựa chọn một cách rõ ràng mục tiêu phấn đấu cho cả cuộc đời
mình là vì nước, vì dân. Trong cả cuộc đời hoạt động cách mạng lâu dài và gian khổ, Người đã chấp nhận sự
hy sinh, không quản gian nguy, kiên định, dũng cảm và sáng suốt để vượt qua mọi khó khăn, thách thức, thực
hiện bằng được mục tiêu đó.
Hai là, đạo đức Hồ Chí Minh là tấm gương của ý chí và nghị lực của tinh thần to lớn, vượt qua mọi thử
thách, khó khăn để đạt mục đích.
Cuộc đời cách mạng của Hồ Chí Minh là một chuỗi năm tháng đấu tranh vô cùng gian khổ. Vượt qua
bao khó khăn, Người kiên trì mục đích của cuộc sống, bảo vệ chân lý, giữ vững quan điểm, khí phách, bình
tĩnh, chủ động vượt qua mọi thử thách. Người tự răn mình: “Muốn nên sự nghiệp lớn, Tinh thần phải càng
cao”.
Ba là, đạo đức Hồ Chí Minh là tấm gương tuyệt đối tin tưởng vào sức mạnh của nhân dân, hết lòng, hết
sức phục vụ nhân dân.
Hồ Chí Minh luôn luôn tin ở con người, tin tưởng vào trí tuệ và sức mạnh của nhân dân: dựa vào dân,
lấy dân làm gốc, nguyện làm “người đầy tớ thật trung thành của nhân dân”, “người lính vâng lệnh quốc dân,
đồng bào ra mặt trận”.
Bốn là, đạo đức Hồ Chí Minh là tấm gương của một con người nhân ái, vị tha, khoan dung, nhân hậu,
hết mực vì con người.
Hồ Chí Minh có tình thương yêu bao la với tất cả mọi kiếp người. Người dành tình thương yêu cho tất
cả. Người chia sẻ với mỗi người những nỗi đau. Người nói: “Mỗi người, mỗi gia đình đều có một nỗi đau khổ
riêng và gộp cả những nỗi đau khổ riêng của mỗi người, mỗi gia đình lại thì thành nỗi đau khổ của tôi”.
Năm là, đạo đức Hồ Chí Minh là tấm gương cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư, đời riêng trong sáng,
nếp sống giản dị và đức khiêm tốn phi thường.

62
Sđd, t.9, tr.293
63
Sđd, t.12, tr.557 – 558

65
Hồ Chí Minh sống thật sự cần, kiệm, giản dị, coi khinh sự xa hoa, không ưa chuộng những nghi thức
trang trọng. Suốt đời Người sống trong sách, vì dân, vì nước, vì con người, không gợn chút riêng tư. Người
đã đề ra tư cách người cách mạng cho cán bộ, đảng viên phấn đấu và tự mình gương mẫu thực hiện.
Bấy nhiêu đức tính cao cả chung đúc lại trong một con người đã làm cho tấm gương đạo đức Hồ Chí
Minh trở nên siêu việt, vô song “khó ai có thể vượt hơn”. Nhưng cũng chính từ sự kết hợp của những đức tính
đó, Người là tấm gương cụ thể, gần gũi, mà mọi người đều có thể noi theo.
Học tập tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh trong giai đoạn hiện nay, mỗi người chúng ta cần làm tốt các
mặt sau đây:
Một là, thực hiện “trung với nước, hiếu với dân”, mỗi người phải trung thành vô hạn với mục tiêu lý
tưởng của Đảng, của dân tộc, tham gia tích cực vào việc đẩy mạnh dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng,
dân chủ, văn minh.
Suốt đời hy sinh phấn đấu vì nước, vì dân tộc, Hồ Chí Minh chỉ có một mong muốn tột bậc là đất nước
ta được hoàn toàn độc lập, dân ta được hưởng tự do, đồng bào ta ai cũng có cơm ăn, áo mặc, ai cũng được
học hành. Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh chúng ta cần:
+ Trung thành vô hạn với sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, bảo vệ độc lập, chủ quyền, toàn vẹn
lãnh thổ, nền văn hóa, bảo vệ Đảng, chế độ và sự nghiệp đổi mới, bảo vệ lợi ích của đất nước, dân tộc.
+ Luôn luôn quan tâm đến lợi ích của nhân dân, tôn trọng dân, hết lòng, hết sức phục vụ nhân dân, giải
quyết kịp thời những yêu cầu, kiến nghị của dân, biết tập hợp nhân dân, phát huy sức mạnh của dân, tổ chức,
động viên cho nhân dân phấn đấu thoát khỏi đói nghèo, “làm giàu cho mình, cho đất nước”.
+ Có ý thức vươn lên, thực hiện mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh”,
sớm đưa nước ta ra khỏi tình trạng nước kém phát triển, phấn đấu đến năm 2020 nước ta cơ bản trở thành
nước công nghiệp theo hướng hiện đại.
+ Trung với nước, hiếu với dân là phải luôn luôn có ý thức giữ gìn đoàn kết dân tộc, đoàn kết trong
Đảng, trong nhân dân; kiên quyết đấu tranh không khoan nhượng trước mọi mưu đồ chia rẽ dân tộc, chia rẽ
khối đại đoàn kết toàn dân, chia rẽ Đảng với nhân dân của các thế lực thù địch, cơ hội.
+ Có tinh thần trách nhiệm cao đối với công việc, có lương tâm nghề nghiệp trong sáng; ham học hỏi,
hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ được giao.
+ Giải quyết đúng đắn mối quan hệ cá nhân – gia đình – tập thể - xã hội; quan hệ giữa nghĩa vụ và quyền
lợi, theo lời dạy của Bác: “Việc gì có lợi cho dân thì làm. Việc gì có hại cho dân thì phải tránh”.
Hai là, thực hiện đúng lời dạy: “cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư” nêu cao phẩm giá con người
Việt Nam trong thời kỳ mới.
+ Tích cực lao động, học tập, công tác với tinh thần lao động sáng tạo, có năng suất, chất lượng, hiệu
quả cao; sử dụng lao động, vật tư, tiền vốn của Nhà nước, của tập thể, của chính mình một cách có hiệu quả.
+ Quý trọng công sức lao động và tài sản của tập thể, của nhân dân; không xa hoa, lãng phí, không phô
trương, hình thức.
+ Kiên quyết chống chủ nghĩa cá nhân, thực dụng, không để cho lợi ích cá nhân chi phối, chống thói
chạy theo danh vọng, địa vị, giành giật lợi ích của mình, lạm dụng quyền hạn, chức vụ để chiếm đoạt của
công; cục bộ địa phương, thu vén cho gia đình, cá nhân.
+ Thẳng thắn, trung thực, bảo vệ chân lý, bảo vệ đường lối, quan điểm của Đảng, bảo vệ người tốt; chân
thành, khiêm tốn; không chạy theo chủ nghĩa thành tích, bao che, giấu giếm khuyết điểm…
+ Thực hiện cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư phải kiên quyết chống bệnh lười biếng, lối sống
hưởng thụ, vị kỷ, nói không đi đôi với làm, nói nhiều, làm ít, làm dối, làm ẩu. Phải có thái độ rõ rệt lên án và
kiên quyết đấu tranh chống tham nhũng, tiêu cực, loại trừ mọi biểu hiện vô liêm, bất chính ra khỏi đời sống
xã hội.
Ba là, nâng cao ý thức dân chủ và kỷ luật, gắn bó với nhân dân, vì nhân dân phục vụ.
+ Mỗi cán bộ, đảng viên của Đảng phải đặt mình trong tổ chức, trong tập thể, phải tôn trọng nguyên tắc,
pháp luật, kỷ cương.

66
+ Gần dân, học dân, có trách nhiệm với dân, khắc phục cho được thói vô cảm, lãnh đạm, thờ ơ trước
khó khăn, thắc mắc, những đau khổ của nhân dân.
+ Coi trọng tự phê bình và phê bình, “phải nghiêm khắc với chính mình”. Phê bình phải có mục đích là
xây dựng tổ chức, xây dựng con người, xây dựng đời sống tình cảm và quan hệ đồng chí, quan hệ xã hội lành
mạnh, trong sáng, có lỹ, có tình. Phải khắc phục bệnh chuộng hình thức, thích nghe lời khen (thậm chí xu
nịnh) tâng bốc nhau, không dám nói thẳng, nói thật,… để giúp đỡ nhau cùng tiến bộ. Đồng thời, cần phê phán
những biểu hiện xuất phát từ những động cơ cá nhân, vụ lợi mà “đấu đá”, nhân danh phê bình để đả kích, lôi
kéo, chia rẽ, làm rối nội bộ.
Bốn là, học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh cần phát huy chủ nghĩa yêu nước gắn chặt
với chủ nghĩa quốc tế trong sáng, đoàn kết, hữu nghị giữa các dân tộc, chủ nghĩa, tích cực hội nhập kinh tế
quốc tế.
+ Đoàn kết quốc tế trong sáng là thực hiện chính sách đối ngoại rộng mở, đa phương hóa, đa dạng hóa
các quan hệ quốc tế với tinh thần Việt Nam là bạn, là đối tác tin cậy của các nước trong cộng đồng quốc tế,
phấn đấu vì độc lập, hòa bình và phát triển.
+ Tôn trọng độc lập, chủ quyền của các nước khác, mở rộng hợp tác cùng có lợi, cùng nhau phấn đấu vì
hòa bình, phát triển, cùng nhau hợp tác chống chiến tranh, đói nghèo, bất công, cường quyền, áp đặt trong
quan hệ quốc tế. Với những vấn đề của quá khứ, lịch sử “sẵn sàng khép lại”, xóa bỏ mặc cảm, hận thù, nhìn
về tương lai, xây dựng tình hữu nghị giũa các dân tộc.
+ Chủ động và tích cực hội nhập kinh tế quốc tế, kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại, nguồn
lực bên trong với nguồn lực bên ngoài để đẩy mạnh sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, phấn
đấu đến năm 2020 nước ta cơ bản trở thành một nước công nghiệp theo hướng hiện đại.
+ Nâng cao tinh thần độc lập tự chủ, tự lực, tự cường, tự hào, tự tôn dân tộc; đấu tranh chống tâm lý dân
tộc hẹp hòi, tự ti; phê phán tư tưởng ngoại lai, vong bản, vọng ngoại, ảo tưởng trước chủ nghĩa tư bản.
Câu 51. Quan niệm của Hồ Chí Minh về con người và chiến lược “trồng người?
Trả lời:
1) Có thể hiểu quan niệm của Hồ Chí Minh về con người qua các luận điểm sau:
a) Hồ Chí Minh đã đưa ra một định nghĩa về người: “Chữ người, nghĩa hẹp là gia đình, anh em, họ hàng,
bầu bạn. Nghĩa rộng là đồng bào cả nước. Rộng nữa là cả loài người”64.
Theo định nghĩa này (duy danh), “chữ người” mà Hồ Chí Minh đề cập ở đây chủ yếu là con người cộng
đồng, tồn tại ở ba khu vực địa lý khác nhau (làng, nước, thế giới) được hiểu ở ba nghĩa: hẹp, rộng và rất rộng
và đây chủ yếu là con người xã hội, có quan hệ xã hội và mang bản chất xã hội.
Song, sự độc đáo của cách hiểu này là ở chỗ: “Chữ người” (chữ người viết nghiêng), là chỉ cho con
người cá thể (một con người), nhưng con người đó còn là một con người xã hội, là một thành viên của một
cộng đồng xã hội nhất định. Cộng đồng đó, không chỉ là cộng đồng ba cấp nhà – làng – nước đã tồn tại từ lâu
trong quan niệm của nhân dân ta, mà còn cụ thể hơn, rộng hơn với 5 cấp là gia đình, họ tộc, làng xóm, dân
tộc và nhân loại như Hồ Chí Minh nếu trong định nghĩa. Điều này cũng có nghĩa là để thành người (chữ
người) thì điều kiện cần là con người cá thể, con người sinh vật học, nhưng điều kiện đủ phải là con người xã
hội… Nghĩa là nghiên cứu con người, bản chất con người phải đồng thời chú ý cả hai mặt sinh vật học và xã
hội.
Cái độc đáo của định nghĩa này còn hàm chứa tiêu chuẩn con người khi nói đến nghĩa hẹp, rộng và rộng
nữa, tức là nói đến khả năng phát triển của con người, đơn giản hay phong phú, trình độ cao hay thấp phụ
thuộc vào kết quả của quá trình ứng xử, giải quyết các quan hệ xã hội xuất hiện đơn giản hay phức tạp, gia
đình hay quốc gia hoặc quốc tế. Con người sẽ phát triển hơn khi được giao tiếp rộng hơn, “đi một ngày đàng,
học một sàng khôn”.

64
Sđd, t.5, tr.644

67
Cùng dùng với thuật ngữ chữ người, gia đình, anh em, họ hàng, bầu bạn, đồng bào, nhân loại để chỉ cho
“con người”, Hồ Chí Minh còn dùng các thuật ngữ khác như: dân, dân chúng, quần chúng, sĩ, nông, công,
thương, già, trẻ, gái, trai, cán bộ, đảng viên… cũng để nói về “con người”. Mặc dù thuật ngữ “con người” Hồ
Chí Minh dùng rất ít (hai lần), nhưng thông qua các thuật ngữ trên Hồ Chí Minh đề cập đầy đủ các mặt của
con người.
b) Theo Hồ Chí Minh, con người muốn tồn tại thì phải có ăn, mặc, ở, đi lại… Đó là những nhu cầu tối
thiểu của cuộc sống con người. Con người sinh vật học và con người xã hội (con người trí tuệ) đều có nhu
cầu (bản năng) ăn, ở, đi lại.
Song, con người khác con vật ở chỗ, trong con người, ý thức thay thế bản năng, hoặc bản năng của con
người là bản năng đã được ý thức. Ở con người cái bản năng đã được cải tạo, nhưng không hề bị xóa bỏ, nó
vẫn tác động tới toàn bộ đời sống của con người. Quá trình người hóa là quá trình duy nhất diễn ra trong sự
tương tác giữa yếu tố sinh vật và yếu tố xã hội.
Thực ra, không có hai loại con người, tức con người sinh vật học và con người xã hội, cùng sống trong
xã hội loài người, mà chỉ có những con người cụ thể được phát triển từ con người sinh học thành người khôn
và trưởng thành, hiện tồn tại là con người trí tuệ, có ý thức.
c) Theo Hồ Chí Minh, con người là bộ phận của tự nhiên, nhưng con người không chỉ biết thích nghi
với tự nhiên, mà còn chinh phục tự nhiên; không chịu lệ thuộc vào tự nhiên, mà còn muốn cải tạo, làm chủ tự
nhiên, không chỉ bằng lòng với cái tự nhiên vốn có, mà còn tạo ra cái thiên nhiên thứ hai để đáp ứng nhu cầu
ngày càng tăng của con người. Trong hoạt động đầy sáng tạo đó, mỗi con người cụ thể bao giờ cũng là thành
viên của một cộng đồng xã hội nhất định, tham gia vào chinh phục, cải tạo tự nhiên theo chức năng và vai trò
của cộng đồng mình.
d) Chủ tịch Hồ Chí Minh phân biệt người này với người khác chủ yếu không phải là vấn đề chủng tộc
màu da (vàng, trắng, đỏ hay đen) hoặc vấn đề dân tộc, mà từ nhận thức về chủng tộc, dân tộc đi đến nhận
thức về giai cấp. Đó là sự vận động của tư duy Hồ Chí Minh về vấn đề con người. Từ việc tìm câu trả lời: Vì
sao người Việt Nam phải làm nô lệ, phải cùng khổ, mất nước, người Việt Nam da vàng bị coi thường nhân
tính cũng như nhiều dân tộc thuộc địa trên thế giới bị đọa đày, Hồ Chí Minh đã thấy được rằng, chỉ có thể giải
phóng giai cấp mới giải phóng được các dân tộc trên thế giới. Nhưng người không đi tới nhận thức một cách
cực đoan về vấn đề giai cấp, mà lại luôn luôn kết hợp dân tộc với giai cấp trong mọi vấn đề của cách mạng
Việt Nam, trong đó có vấn đề con người.
đ) Từ các vấn đề nêu trên, bản chất con người theo tư tưởng Hồ Chí Minh được bộc lộ rõ ràng. Hồ Chí
Minh luôn đặt con người, mỗi cá nhân con người trong mối quan hệ ba chiều: Quan hệ với một cộng đồng
nhất định, trong đó mỗi người là một thành viên; quan hệ với một chế độ xã hội nhất định, trong đó con người
được làm chủ hay bị áp bức, bóc lột; quan hệ với tự nhiên, mà con người là một bộ phận không tách rời, nhưng
lại luôn luôn “người hóa” tự nhiên trong những cộng đồng xã hội nhất định, và bị quy định bởi những chế độ
xã hội nhất định.
Điều này hoàn toàn phù hợp với quan điểm mácxít về con người: “bản chất con người không phải là
một cái trừu tượng cố hữu của cá nhân riêng biệt. Trong tính hiện thực của nó, bản chất con người là tổng hòa
những quan hệ xã hội”65.
Các quan hệ xã hội có nhiều loại, trong đó quan hệ sản xuất đóng vai trò chi phối, quyết định các quan
hệ xã hội khác, biểu hiện thành quan hệ giai cấp. Vì nó, xác định con người thuộc các giai tầng xã hội khác
nhau. Do vậy, nói đến bản chất con người trong xã hội có giai cấp thì trước hết phải nói đến tính giai cấp của
nó.
Chủ tịch Hồ Chí Minh vừa khẳng định quan hệ sản xuất đã phân chia con người thành “giống người bóc
lột và giống người bị bóc lột”, đồng thời lại thấy chỉ có tổng hòa tất cả các quan hệ xã hội thì mới tạo thành

65
C.Mác và Ph.Ăngghen: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1995, t.3, tr.11

68
bản chất con người. Người không coi nhẹ mặt quan hệ sản xuất, nhưng cũng không tuyệt đối hóa quan hệ sản
xuất, và cũng không coi quan hệ sản xuất là quan hệ duy nhất tạo thành bản chất con người.
Từ đó có thể thấy rằng bản chất con người cũng biến đổi cùng với sự biến đổi của các quan hệ xã hội.
Chính điều này mà Hồ Chí Minh đặc biệt coi trọng vấn đề cải tạo con người cũ, xây dựng con người mới khi
chế độ thực dân phong kiến ở nước ta bị lật đổ, khi cả một dân tộc đã bắt tay vào xây dựng một chế độ xã hội
mới dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản, thực hiện chiến lược trồng người.
2) Phát triển toàn diện con người, xây dựng con người mới xã hội chủ nghĩa, đào tạo con người phát
triển toàn diện được Hồ Chí Minh khái quát trong sự nghiệp trồng người của cách mạng Việt Nam.
Sự nghiệp trồng người của Hồ Chí Minh, của Đảng ta và toàn dân ta không chỉ giới hạn trong việc vun
trồng các mầm non tương lai của nước nhà, mà tiến hành suốt quá trình phát triển của đời người nhằm hình
thành ở Việt Nam những con người mới đủ sức làm chủ cách mạng, làm chủ xã hội phát triển. Đó là những
con người có giác ngộ lý tưởng xã hội chủ nghĩa; có kiến thức, hiểu biết, nắm vững khoa học – kỹ thuật; có
đạo đức cách mạng: trung với nước, hiếu với dân; yêu thương con người; cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô
tư; có tinh thần quốc tế trong sáng; sống có lý tưởng, có bản lĩnh, biết làm chủ tự nhiên, làm chủ xã hội, làm
chủ bản thân; biết sống “mình vì mọi người, mọi người vì mình”; lao động có kỷ luật, có kỹ thuật, lao động
có năng suất, chất lượng, hiệu quả: không sợ gian khổ, khó khăn, vì lợi ích của bản thân, tập thể và xã hội: có
năng lực để làm chủ tự nhiên, làm chủ xã hội và làm chủ bản thân. Điều này cũng có nghĩa là kết quả của sự
nghiệp trồng người là con người mới phát triển toàn diện.
Trồng người được thường xuyên đẩy mạnh trong suốt tiến trình đi lễn chủ nghĩa xã hội, và phải đạt được
kết quả cụ thể qua từng chặng đường của thời kỳ quá độ. Bởi vì, nếu sao nhãng trồng người nhất định sẽ dẫn
đến những bất cập, hơn nữa còn là những suy thoiá về con người có thể gây hậu quả khôn người.
Trồng người, phải được đặt ra trong suốt cuộc đời mỗi người. Đây là quyền lợi, cũng là trách nhiệm và
nghĩa vụ của mỗi người với sự nghiệp xây dựng đất nước. Đồng thời đó cũng là sự trưởng thành, vươn lên
của mỗi người.
Những người có trách nhiệm trồng người cũng phải được vun trồng bởi quần chúng nhân dân, bởi tập
thể người đi trồng và được trồng, bởi cuộc sống thực tiễn và sự tự vun trồng trong suốt cuộc đời của chính họ.
Câu 52. Quan điểm của Hồ Chí Minh về nội dung xây dựng con người mới?
Trả lời:
Khái niệm con người Việt Nam mới ở đây là để phân biệt với con người sống trong xã hội cũ, con người
chưa giác ngộ con đường cách mạng theo lập trường giai cấp công nhân, chưa được làm chủ, chứ tuyệt nhên
không có ý phân biệt con người theo đẳng cấp trên – dưới, trước – sau, sang – hèn, nhất là không đối lập con
người mới với con người sống trong chế độ cũ. Mới là khác cũ, nhưng con người mới hoặc con người sống
trong xã hội cũ đều có chung gốc dân tộc Việt Nam, đều có xuất phát điểm về văn hóa, xã hội của một nước
nông nghiệp chưa qua giai đoạn phát triển tư bản chủ nghĩa, nhất là phải chịu áp bức, bóc lột tàn bạo của chế
độ phong kiến và chủ nghĩa thực dân trong nhiều thập kỷ. Con người mới không phải tự nhiên mà có và càng
không phải tự nhiên mà đến, mà là kết quả của hai quá trình tiến hành đồng thời cải tạo và xây dựng. Nó gắn
liền với sự nghiệp đấu tranh cách mạng, từ chính trị, kinh tế đến tư tưởng, văn hóa, xã hội, từ đạo đức đến lối
sống, nếp sống và quá trình tự rèn luyện, tu dưỡng của cá nhân con người trong hoạt động sống. Xây dựng
con người mới cũng đồng nghĩa với xây dựng con người xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam.
Theo Hồ Chí Minh, muốn xây dựng chủ nghĩa xã hội, trước hết, cần có những con người xã hội chủ
nghĩa.
Có thể hiểu luận điểm này với những nội dung chính sau đây:
- Chủ nghĩa xã hội sẽ tạo ra những con người xã hội chủ nghĩa, những con người xã hội chủ nghĩa lại là
chủ thể của toàn bộ sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội.
- Không phải chờ cho kinh tế, văn hóa phát triển cao rồi mới xây dựng con người xã hội chủ nghĩa, cũng
không phải xây dựng xong con người xã hội chủ nghĩa rồi mới xây dựng xã hội xã hội chủ nghĩa. Việc xây
dựng con người mới phải đặt ra từ đầu và quan tâm suốt quá trình.

69
- Thế nào là “Trước hết, cần có những con người xã hội chủ nghĩa”, có nghĩa là không phải tất cả mọi
người phải và có thể trở thành người xã hội chủ nghĩa thật đầy đủ, thật hoàn chỉnh ngay một lúc, mà chỉ có
nghĩa tlà trước hết cần có những người tiên tiến, có được những nét tiêu biểu của người xã hội chủ nghĩa để
có thể là gương và lôi cuốn người khác và toàn xã hội xây dựng con người mới, đồng thời họ cũng không
ngừng được hoàn thiên, được nâng cao.
- Xây dựng con người mới là đào tạo, xây dựng con người phát triển toàn diện: Đức, trí, thể, mỹ. Hồ
Chí Minh hay nhắc nhiều đến mức và tài, hồng và chuyên, song không hề coi nhẹ việc rèn luyện thể lực và
giáo dục thẩm mỹ cho con người nhất là thanh, thiếu niên.
- Tiêu chuẩn của con người xã hội chủ nghĩa được Hồ Chí Minh nêu lên nhiều lần, có thể khái quát ở
mấy điểm chính sau:
+ Có tư tưởng xã hội chủ nghĩa: có ý thức làm chủ, có tinh thần tập thể, có tư tưởng mình vì mọi người,
mọi người vì mình, có tinh thần dám nghĩ dám làm, dám chịu trách nhiệm, quyết vươn lên hàng đầu, có tinh
thần tiến nhanh, tiến mạnh, tiến vững chắc lên chủ nghĩa xã hội.
+ Có đạo đức và lối sống xã hội chủ nghĩa: trung với nước, hiếu với dân, yêu thương con người, cần
kiệm liêm chính, chí công vô tư, có tinh thần quốc tế trong sáng, có lối sống lành mạnh, trong sáng.
+ Có tác phong xã hội chủ nghĩa: làm việc có kế hoạch, có biện pháp, có quyết tâm, có tổ chức, có kỷ
luật, có kỹ thuật, có năng suất, chất lượng hiệu quả; lao động quên mình, không sợ khó, sợ khổ, làm việc vì
lợi ích của xã hội, tập thể và bản thân mình.
+ Có năng lực để làm chủ: bản thân, gia đình và công việc mình đảm nhiệm, đủ sức khỏe và tư cách
tham gia làm chủ nhà nước và xã hội, thực hiện có kết quả quyền công dân; phải không ngừng nâng cao trình
độ chính trị, văn hóa, khoa học – công nghệ, chuyên môn nghiệp vụ để làm chủ.
Ngoài những tiêu chuẩn chung nêu trên, Hồ Chí Minh còn nêu những tiêu chuẩn cụ thể cho từng giới,
từng ngành. Đảng ta tiếp thu tư tưởng Hồ Chí Minh đã vạch ra một cách toàn diện nội dung của con người
mới Việt Nam trong tất cả các quan hệ xã hội đa dạng, phức tạp. Tổng hòa các quan hệ xã hội với những tiêu
chuẩn đã được xác định, sẽ tạo ra cái bản chất của con người mới xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam. Hiện nay, các
nhà nghiên cứu đưa ra 13 tiêu chí lối sống và phong cách của con người công nghiệp và 25 yêu cầu về con
người hiện đại.
Câu 53. Quan điểm của Hồ Chí Minh về các phương pháp xây dựng con người mới?
Trả lời:
Có nhiều cách thức xây dựng con người mới. Theo Hồ Chí Minh, xây dựng con người mới là bộ phận
hợp thành chiến lược phát triển kinh tế - xã hội; trong thực hiện cần chú ý ba phương pháp sau:
+ Xây dựng đời sống mới để xây dựng con người mới.
+ Thi đua yêu nước để xây dựng con người mới.
+ Giáo dục – đào tạo co người mới.
- Về xây dựung đời sống mới. Năm 1947, sau hơn một năm giành được chính quyền, Hồ Chí Minh hoàn
thành hai tác phẩm Đời sống mới bút danh Tân sinh và Sửa đổi lối làm việc bút danh X.Y.Z. Nội dung hai tác
phẩm bổ sung cho nhau nhằm xác định các tiêu chuẩn của con người mới, của cán bộ, đảng viên trong thực
hiện nhiệm vụ cách mạng mới – vừa kháng chiến vừa kiến quốc, nhiệm vụ của một Đảng cầm quyền. Đồng
thời, nêu các phương pháp bồi dưỡng, đào tạo người Việt Nam mới thông qua hoạt động:
+ Xây dựng đời sống mới (ăn, mặc, ở, đi lại, làm việc), môi trường sống vệ sinh bảo vệ sức khỏe.
+ Chống giặc dốt, nâng cao dân trí, xây dựng nền giáo dục dân chủ.
+ Giáo dục đạo đức công nhân, xây dựng nền đạo đức cách mạng Việt Nam, chống chủ nghĩa cá nhân.
+ Xây dựng phương phpá làm việc khoa học, hiệu quả của cán bộ, đảng viên nói riêng và toàn dân nói
chung.
Đặc biệt, Sửa đổi lối làm việc góp phần to lớn vào việc giáo dục, cán bộ, đảng viên về tư tưởng, đạo đức,
phương pháp và phong cách lêninnít để họ trở thành người cán bộ cách mạng trung thành với sự nghiệp của
Đảng và của nhân dân, góp phần đẩy mạnh kháng chiến và kiến quốc thắng lợi.
70
- Phát động phong trào thi đua yêu nước để rèn luyện, xây dựng con người mới. Trong lời kêu gọi Thi
đua yêu nước, Hồ Chí Minh không trực tiếp đề cập đến vấn đề xây dựng con người mới trong phong trào thi
đua. Song, trên thực tế chỉ đạo thực hiện phong trào và chủ đích thực sự của Người chính là: “Mỗi người tốt,
mỗi việc tốt là những bông hoa đẹp. Cả dân tộc ta là một rừng hoa đẹp”. Nghĩa là qua phong trào thi đua và
trải qua rèn luyện, thử thách trong thi đua đã hình thành ở mỗi người những việc tốt, phẩm chất tốt để hình
thành một lớp người tốt, lớp người mới để “dân tộc ta là một rừng hoa đẹp”. Điều này cũng đồng nghĩa với
việc mỗi chúng ta muốn trở thành người tốt, trở thành người Việt Nam mới thì chỉ có gắn mình vào phong
trào thi đua yêu nước sôi nổi, và chính qua phong trào đó bản thân tự đánh giá, tự điểu chỉnh để có nhiều việc
tốt mà trở thành người tốt.
Bởi vì, đối với mỗi người cách mạng, mỗi người lao động chân chính, chắc không ai có thể tự cho mình
đã có được trọn vẹn những tiêu chuẩn của con người mới và bản thân mình không có gì phải làm cho tốt đẹp
hơn nữa. Thực ra, ở mỗi người đều có mặt mới mặt cũ, có cái tốt cái xấu. Vấn đề chỉ là ở chỗ mặt nào nhiều
hơn và mỗi người phải phấn đấu sao cho những mặt tốt ngày càng nhiều hơn, những cái xấu ngày càng ít. Quá
trình phấn đấu để trở thành người tốt, con người mới chính là quá trình đấu tranh để xóa bỏ cái cũ, cái xấu,
xây dựng cái tốt, cái mới từ ít đến nhiều, từ thấp đến cao, từ chưa hoàn thiện đến hoàn thiện. Đó cũng chính
là quá trình tham gia thi đua, tranh đua và hợp tác, không ngừng vươn lên của mỗi người. Đó cũng là quá
trình làm cho cái mới ngày càng trở thành phổ biến trong đông đảo những người lao động, trong toàn dân tộc,
ngược lại làm cho cái cũ, cái xấu càng bị thu hẹp và mất dần đi trong đời sống xã hội chúng ta.
Chủ tịch Hồ Chí Minh nói: “Lao động sáng tạo xã hội. Thi đua thì cải tạo con người”66. Và “Hiện nay
ta mới có hàng vạn chiến sĩ thi đua, từ nay chúng ta phải có hàng triệu chiến sĩ thi đua”. Bởi vì: “Chiến sĩ thi
đua là những con người mới, những người luôn luôn cố gắng thực hành cần, kiệm, liêm, chính, là những người
tôi trung của nhân dân, con hiếu của Tổ quốc”66.
Qua câu phân tích trên, Hồ Chí Minh đã đề cập tới tác dụng nhiều mặt của phong trào thi đua yêu nước
trong việc xây dựng, phát triển các phẩm chất và năng lực của những con người mới Việt Nam. Trong thi đua
yêu nước ai nấy phát huy được mọi khả năng của mình, sáng kiến xuất hiện trong công viện, người tài xuất
hiện. Do đó thi đua cải tạo con người và phát triển tài năng của con người trong lao động, trong công việc tiến
tới cải tạo xã hội làm cho xã hội tiến hóa, phát triển.
Như vậy, theo Hồ Chí Minh, thi đua yêu nước là một phương thức trong xây dựng con người Việt Nam
mới, còn xây dựng con người mới là mục tiêu xét đến cùng của phong trào thi đua. Nói cách khác, Hồ Chí
Minh đánh giá rất cao vai trò của phong trào thi đua yêu nước trong chiến lược xây dựng con người, thậm chí
quan trọng đến mức “Thi đua là yêu nước. Yêu nước phải thi đua”, nhưng đây chỉ là một phương thức chứ
không phải là phương thức duy nhât trong chiến lược xây dựng con người Việt Nam mới, nó là động lực thúc
đẩy quá trình.
- Phát triển giáo dục – đào tạo, biện pháp quan trọng để xây dựng con người mới. Giáo dục là quá trình
đào tạo, rèn luyện con người trở thành người lao động, thành các công dân đủ năng lực làm chủ - những con
người Việt Nam phát triển đức, trí, thể, mỹ và có nghề thông qua việc dạy và học. Việc dạy và học không chỉ
giới hạn trong các trường đào tạo, mà còn là quá trình tự học, tự đào tạo và đào tạo lại, học trong cuộc sống,
học suốt đời. Trong giáo dục không chỉ dạy chữ, dạy nghề mà chủ yếu dạy làm người. Muốn vậy, cần chú ý
mấy điểm sau:
+ Nâng cao chất lượng giáo dục toàn diện; đổi mới nội dung, phương pháp dạy và học thực hiện “chuẩn
hóa, hiện đại hóa, xã hội hóa” giáo dục. Xây dựng và hoàn thiện hệ thống chuẩn quốc gia cho giáo dục. Xây
dựng danh mục ngành nghề và chương trình phát triển nguồn nhân lực quốc gia. Tiếp tục đổi mới chương
trình giáo dục. Tập trung đổi mới phương pháp dạy và học. Xây dựng và nâng cao chất lượng đội ngũ nhà
giáo và cán bộ quản lý giáo dục. Tiếp tục mở rộng quy mô giáo dục đại học và giáo dục nghề nghiệp. Hoàn
thiện hệ thống giáo dục theo hướng liên thông. Tạo điều kiện để duy trì, củng cố và phát triển các trường
ngoài công lập. Tiếp tục triển khai Đề án xây dựng xã hội học tập. Lấy Hội khuyến học và các đoàn thể làm

66
Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2002, t.6, tr.475

71
nòng cốt để thực hiện đề án này. Tổng kết, rút kinh nghiệm việc xây dựng các trung tâm học tập cộng đồng
để tiếp tục phát triển có hiệu quả. Củng cố, tăng cường phát triển hệ thống giáo dục cho người lớn. Xây dựng
kênh giáo dục truyền hình và các nội dung gióa dục trên mạng để phát triển giáo dục từ xa.
+ Thực hiện công bằng xã hội trong giáo dục, ưu tiên phát triển giáo dục vùng đồng bào dân tộc, vùng
khó khăn và giáo dục đối với trẻ em bị thiệt thòi.
+ Đẩy lùi những tiêu cực trong lĩnh vực giáo dục.
+ Nâng cao khả năng chủ động hội nhập quốc tế.
+ Nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý giáo dục.
Câu 54. Giá trị lý luận và thực tiễn của tư tưởng Hồ Chí Minh về văn hóa, đạo đức và xây dựng con
người mới?
Trả lời:
Hồ Chí Minh được cả thế giới tôn vinh là Nhà giáo văn hóa kiệt xuất, không chỉ vì Người đã sáng tạo
ra một thời đại mới và một nền văn hóa mới ở Việt Nam mà còn là vì những đóng góp của Người vào lý luận
và sự phát triển chung của văn hóa nhân loại.
Trong lĩnh vực văn hóa, Hồ Chí Minh đã sớm nhận thấy vai trò và sức mạnh của văn hóa, đã sớm đưa
văn hóa vào chiến lược phát triển của đất nước.
Ngay sau khi giành được độc lập, Hồ Chí Minh đã đề nghị Chính phủ bắt tay ngay vào công cuộc xây
dựng một nền văn hóa mới ở Việt Nam bằng việc phát động phong trào bình dân học vụ, diệt giặc dốt, nâng
cao dân trí và xây dựng đời sống mới, xây dựng và phát triển các thuần phong, mỹ tục… đưa những giá trị
văn hóa đi sâu vào quần chúng, coi nó như một sức mạnh vật chất, một đống lực, một mục tiêu, một hệ điều
tiết xã hội trong quá trình phát triển. đây là một quan điểm hoàn toàn mới mẻ, điều mà mãi đến những năm
80 của thế kỷ XX, UNESCO mới tổng kết và coi đó như một quy luật phát triển của xã hội.
Phát triển quan điểm của C.Mác: văn hóa không thể đứng ngoài mà phải ở trong kinh tế và chính trị, Hồ
Chí Minh bổ sung thêm: văn hóa cũng là một mặt trận, văn nghệ sĩ là chiến sĩ trên mặt trận ấy. Bàn về chức
năng của văn hóa, Người cho rằng: “văn hóa phải soi đường cho quốc dân đi” (chức năng nâng cao nhận
thức, mở rộng hiểu biết); “văn hóa phải làm cho ai cũng có lý tưởng tự chủ, độc lập, tự do” (chức năng bồi
dưỡng tinh thần vì nước quên mình); “văn hóa phải sửa đổi được tham nhũng, lười biếng, phù hoa, xa xỉ”
(xây dựng và hoàn thiện đạo đức con người)… Hầu hết những luận điẻm có tính chân lý này, Hồ Chí Minh
đều đưa ra trong thời kỳ 1945 – 1946, khi Người bắt tay vào việc xây dựng một nền văn hóa mới ở Việt Nam.
Thực tiễn chứng minh rằng, những luận điểm đó không chỉ có ý nghĩa với Việt Nam mà còn có ý nghĩa quốc
tế rất sâu sắc. Đánh giá cao tư tưởng và những đóng góp của Hồ Chí Minh, Nghị quyết của UNESCO tôn
vinh Người là Anh hùng giải phóng dân tộc và nhà văn hóa lớn có đoạn: “Những tư tưởng của Người là hiện
thân của những khát vọng của các dân tộc trong việc khẳng định bản sắc văn hóa của mình và tiêu biểu cho
việc thúc đẩy sự hiểu biết lẫn nhau”.
Trong lĩnh vực đạo đức, Hồ Chí Minh đã có những đóng góp rất đặc sắc vào tư tưởng đạo đức học
mácxít. Những đóng góp đó đã nâng Người lên vị trí một nhà đạo đức học lỗi lạc.
Do nhiều nguyên nhân, C.Mác, Ph.Ăngghen và V.I.Lênin nói nhiều về đạo đức, song chưa có điều kiện
bàn nhiều về vai trò của đạo đức trong đời sống xã hội. Hồ Chí Minh đã phát triển, hoàn thiện tư tưởng đạo
đức học mácxít về vai trò và sức mạnh của đạo đức, về những chuẩn mực đạo đức cơ bản và những nguyên
tắc xây dựng một nền đạo đức mới phù hợp với Việt Nam. Nhờ đó, đã tạo nên một cuộc cách mạng trong lĩnh
vực đạo đức ở Việt Nam.
Tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng con người mới có giá trị lý luận và thực tiễn rất quan trọng.
Về mặt lý luận, tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng con người mới với nội dung sâu sắc và mới mẻ, có
ý nghĩa rất quan trọng đối với sự nghiệp giáo dục, đào tạo con người Việt Nam. Trên cơ sở quán triệt quan
điểm giáo dục đạo lý để làm người, coi con người là vốn quý nhất, chăm lo cho hạnh phúc của con người là
mục tiêu phấn đấu cao nhất của chế độ ta, con người vừa là mục tiêu, vừa là động lực của sự nghiệp cách
mạng xã hội chủ nghĩa, Đảng ta đã xác định giáo dục và đào tạo là quốc sách hàng đầu.

72
Con người, chủ thể của mọi sáng tạo, mọi nguồn của của cải vật chất và văn hóa, ngày càng được quan
tâm chăm sóc, phát triển cao về trí tuệ, cường tráng về thể chất, phong phú về tinh thần, trong sáng về đạo
đức, là động lực của chủ nghĩa xã hội.
Chủ nghĩa xã hội là một chế độ ưu việt, nhưng phải hiểu sự ưu việt trên hai mặt gắn bó với nhau: Một
là, nó là kết quả của những nỗ lực vượt bậc và bền bỉ của toàn dân ta, với những con người phát triển cả về
trí lực và khả năng lao động, về tính tích cực chính trị - xã hội, về đạo đức, tình cảm trong sáng. Hai là, đó là
xã hội do những con người mới làm chủ, một xã hội không phải chi do con người mà còn vì con người.
Về mặt thực tiễn, sự phát triển con người đã trở thành tiêu chí ngày càng quan trọng trong việc xếp hạng
các nước trên thế giới. Năm 1990, Chương trình phát triển Liên hợp quốc (UNDP) đã đưa ra chỉ dẫn nhằm
đánh giá tiến bộ kinh tế và xã hội của một nước, không chỉ ở tổng sản phẩm quốc dân như trước đây, mà dựa
trên cơ sở của ba chỉ tiêu cơ bản: thu nhập, trình độ giáo dục, và tuổi thọ.
Hướng bồi dưỡng và phát huy nhân tố con người Việt Nam là không ngừng gia tăng tính tự giác, năng
động, tự chủ, phát huy sức mạnh bên trong của mỗi cá nhân, chú trọng xây dựng những mặt thuộc hạ tầng
của đời sống xã hội như giáo dục, y tế, phúc lợi công cộng, kết hợp với sức mạnh của cả cộng đồng, xây dựng
nền tảng tinh thần vững chắc của chế độ mới.
Dưới ánh sáng tư tưởng Hồ Chí Minh, Đảng ta nhấn mạnh viêc chăm lo cho hạnh phúc của con người
là mục tiêu phấn đấu cao nhất của chế độ ta. Trong mục tiêu phấn đấu chung “dân giàu, nước mạnh, xã hội
công bằng, dân chủ, văn minh”, Đảng ta phấn đấu làm cho “nhân dân có cuộc sống no đủ, có nhà ở tương đối
tốt, có điều kiện thuận lợi về đi lại, học hành, chữa bệnh, có mức hưởng thụ văn hóa khá. Quan hệ xã hội lành
mạnh, lối sống văn minh, gia đình hạnh phúc”.
Xét đến cùng, đó là tư tưởng phấn đấu cho độc lập, tự do, hạnh phúc của con người, của dân tộc và nhân
loại. Nói cách khác, tất cả vì con người, do con người.
Hồ Chí Minh thường nói đến “văn minh thắng bạo tàn”. Văn minh ở đây được hiểu cả trình độ phát triển
đời sống tinh thần và trình độ phát triển khoa học – kỹ thuật. Xã hội văn minh là xã hội có những con người
nhân văn, tức là những con người phát triển toàn diện cả đức, trí, thể, mỹ; lý tưởng và tình cảm; nhân ái và
khoan dung. Xã hội mới không chấp nhận con người phát triển một chiều, phiến diện, què quặt. Muốn con
người trở thành vừa là động lực, vừa là mục tiêu của sự nghiệp cách mạng thì phải phát huy vai trò của giáo
dục – đào tạo. Bởi vì, giáo dục bao gồm gia đình, nhà trường – xã hội - góp phần hình thành, phát triển và
hoàn thiện nhân cách con người, nâng cao trình độ “người”, hướng con người tới Chân – Thiện – Mỹ.
Tư tưởng về văn hóa, đạo đức và xây dựng con người mới là một bộ phận rất quan trọng trong hệ thống
tư tưởng Hồ Chí Minh. Từ lâu, tư tưởng đó đã trở thành một bộ phận của nền văn hóa dân tộc và là ngọn đèn
pha soi đường cho công cuộc xây dựng một nền văn hóa và đạo đức mới ở Việt Nam. Nghiên cứu và học tập
tư tưởng văn hóa, đạo đức Hồ Chí Minh, cũng như noi theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh không chỉ đơn
thuần là vấn đề nhận thức, mà còn là trách nhiệm chính trị của cả dân tộc, nhằm xây dựng Việt Nam thành
một quốc gia văn minh trong thời kỳ hội nhập quốc tế.
Câu 55. Nội dung cơ bản của tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng thế hệ cách mạng cho đời sau?
Trả lời:
Lịch sử là sự kế tục tiếp diễn giữa các thế hệ. Nhưng sự kế tục lịch sử bao hàm sự kế tục cách mạng lại
đòi hỏi phải có sự chuẩn bị chủ động, tự giác và chắc chắn. Tiến trình phát triển, lịch sử vận động không theo
một con đường thẳng. Những người cộng sản vốn ý thức được quy luật vận động của lịch sử thông qua hoạt
động có ý thức của con người. Vì vậy, Bác Hồ đã nói: “Muốn xây dựng chủ nghĩa xã hội thì trước hết cần có
những con người xã hội chủ nghĩa”67.
Sau ngày Tuyên ngôn Độc lập, Hồ Chí Minh gửi gắm: “Non sông Việt Nam có trở nên tươi đẹp hay
không, dân tộc Việt Nam có bước tới đài vinh quang để sánh vai với các cường quốc năm châu được hay
không, chính là nhờ một phần lớn công học tập của các em”68. Thanh niên “là người tiếp sức cách mạng cho
67
Sđd, t.10, tr.310
68
Sđd, t.4, tr.32

73
thế hệ thanh niên già, đồng thời là người phụ trách dìu dắt thế hệ thanh niên tương lai”, “là người xung phong
trong công cuộc phát triển kinh tế và văn hóa, trong sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội”, “là lực lượng cơ
bản trong bộ đội, công an và dân quân tự vệ, đang hăng hái giữ gìn trật tự, trị an, bảo vệ Tổ quốc”69.
Qua đó, ta thấy Bác Hồ luôn đánh giá cao khả năng cách mạng và cống hiến to lớn của thanh niên đối
với tương lai của dân tộc, tiền đồ của cách mạng. Thanh niên là cái cầu nối giữa các thế hệ: kế tục sự nghiệp
của lớp người đi trước đồng thời bồi dưỡng, dìu dắt thế hệ đàn em. Thanh niên bao giờ cũng là lớp người hăng
hái, nhiệt tình, luôn luôn đi đầu trong mọi việc khó khăn: “Đâu cần thanh niên có, việc gì khó có thanh niên”.
Vai trò, sức mạnh, khả năng của thanh niên ta đã được khẳng định trong lịch sử đấu tranh cách mạng
của đất nước, nhưng điều đó không phải là bất biến. Các thế hệ trẻ lớp sau có nối tiếp được lý tưởng và đi tiếp
con đường lớp cha anh đã lựa chọn hay không còn phụ thuộc vào nhiều yếu tố, trong đó phần rất quan trọng
phụ thuộc vào sự chăm lo bồi dưỡng thế hệ cách mạng cho đời sau và sự nêu gương về lý tưởng và đạo đức
của thế hệ đi trước.
Trong Di chúc, Hồ Chí Minh nhắc đến đoàn viên và thanh niên. Người lưu ý: Đảng phải chăm lo giáo
dục đạo đức cho họ, đào tạo họ thành những người thừa kế xây dựng chủ nghĩa xã hội vừa “hồng” vừa
“chuyên”, coi đó là một việc rất quan trọng và rất cần thiết. Tương lai của đất nước Việt Nam xã hội chủ nghĩa
phụ thuộc vào hiện tại ta đang thực hiện Di chúc của Bác Hồ: chăm lo “bồi dưỡng thế hệ cách mạng cho đời
sau” như thế nào.
Xây dựng, bồi dưỡng thế hệ cách mạng cho đời sau, trước hết phải xây dựng họ trở thành những người
Việt Nam mới phát triển toàn diện đức, trí, thể, mỹ và có nghề, sau đó bồi dưỡng họ thành cán bộ, đảng viên
vừa hồng vừa chuyên. Nghĩa là phải đào tạo họ thành người trước khi thành cán bộ, thành người lãnh đạo.
Trong nội dung bồi dưỡng thế hệ cách mạng cho đời sau, Bác Hồ đặt lên hàng đầu vấn đề bồi dưỡng lý
tưởng, chí khí và đạo đức cách mạng cho thanh niên.
Lý tưởng mà Bác Hồ quan tâm giáo dục cho thanh niên là lý tưởng độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội,
tức là kết hợp chủ nghĩa yêu nước với chủ nghĩa Mác – Lênin. Ngày nay, các thế lực chống chủ nghĩa xã hội
đang tìm cách lung lạc thanh niên ta bằng cách tách rời độc lập dân tộc với chủ nghĩa xã hội. Chúng ta lựa
chọn chủ nghĩa xã hội vì, như Hồ Chí Minh đã chỉ rõ: chỉ có chủ nghĩa xã hội mới cứu được nhân loại, đem
lại cho mọi người tự do, bfinh đẳng, bác ái, đoàn kết, ấm no, việc làm cho mọi người, niềm vui, hòa bình,
hạnh phúc. Và thực tế Việt Nam, du chưa thật hoàn hảo, cũng đã minh chứng điều này.
Xác định lý tưởng đúng không thực là khó đối với thanh niên hiện nay, vấn đề là phải kiên định lý tưởng,
nghĩa là phải có ý chí, nhất là ở những bước quanh (thoái trào) của cách mạng. Bồi dưỡng thế hệ cách mạng
cho đời sau là làm cho họ kế thừa được chí lớn của các thế hệ cha anh, biến lý tưởng cách mạng thành ý chí
cách mạng, thành động lực tinh thần mạnh mẽ, đánh bại âm mưu phá hoại của kẻ thù, chiến thắng nghèo nàn,
lạc hậu, đưa sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước đến thành công, nhanh chóng đưa Việt Nam
lên hàng các quốc gia phát triển của khu vực, thế giới. Trong 5 điều Bác Hồ dạy thanh niên, Người nhấn mạnh
điều trước tiên là: “Phải luôn luôn nâng cao chí khí cách mạng “trung với nước, hiếu với dân, nhiệm vụ nào
cũng hoàn thành, khó khăn nào cũng vượt qua, kẻ thù nào cũng đánh thắng”. Không sợ gian khổ, hy sinh,
hăng hái thi đua tăng gia sản xuất và anh dũng chiến đấu, xung phong đi đầu trong sự nghiệp chống Mỹ, cứu
nước”70.
Lý tưởng và ý chí cách mạng chỉ có thể duy trì và phát triển trên nền tảng đạo đức cách mạng, đó là đạo
đức cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư của Bác Hồ. Thiếu đi nền tảng này, tuổi trẻ chưa trải qua dạn dày
đấu tranh sẽ không đủ vượt qua những thăng trầm, khó khăn của hoàn cảnh để kiên trì phấn đấu đến cùng cho
lý tưởng. Thiếu nền tảng đạo đức cách mạng, người chiến sĩ trẻ dễ gục ngã trước những cám dỗ của kinh tế
thị trường. Chính vì vậy, Hồ Chí Minh yêu cầu thanh niên phải “đem lòng chí công vô tư mà đối với người,
với việc”, chỉ có lòng chí công vô tư người thanh niên sẽ không bị giàu sang quyến rũ, nghèo khó không thể
chuyển lay, uy vũ không thể khuất phục.

69
Sđd, t.10, tr.488 – 489
70
Sđd, t.11, tr.504 – 505

74
Cuối cùng trong nội dung giáo dục, Bác Hồ yêu cầu: “Thanh niên phải học và học cho giỏi”, “phải ham
học”. Cách mạng đòi hỏi cả nhiệt tình cách mạng và tri thức cách mạng. Thanh niên ta ngày nay cần theo
được tấm gương học tập của Bác Hồ: từ một người yêu nước nhiệt thành, tuy không có điều kiện học tập
nhiều trong nhà trường, nhờ sự nỗ lực với ý chí phi thường, nhờ cả thiên tài trí tuệ hiếm có, Người đã từng
bước chiếm lĩnh được những đỉnh cao của trí thức cách mạng, “là một con người kiệt xuất trên nhiều lĩnh vực,
một con người uyên bác… Người sẽ trở thành một lãnh tụ cách mạng không phải bằng hình thức bề ngoài mà
bằng học thức, hiểu biết và trí tuệ của Người”.
Noi theo tấm gương Hồ Chí Minh, thanh niên không ngừng vươn lên chiếm lĩnh những giá trị mới nhất
của thời đại văn minh trí tuệ (do phương tiện thông tin, kỹ thuật số và các điều kiện thuận lợi khác đem lại)
phấn đấu trở thành những nhân tài thuộc nhiều lĩnh vực, đưa nước ta sánh vai với các cường quốc năm châu,
như sinh thời Bác Hồ đã từng mong mỏi.
Câu 56. Cơ sở hình thành tư tưởng Hồ Chí Minh về quân sự?
Trả lời:
Tư tưởng Hồ Chí Minh về quân sự là một bộ phận hữu cơ cực kỳ quan trọng của tư tưởng Hồ Chí Minh
về con đường cách mạng Việt Nam. Đó không phải là tư tưởng thuần túy quân sự, mà luôn luôn là tư tưởng
quân sự chính trị. Tư tưởng quân sự xuất phát từ tư tưởng chính trị, quân sự gắn bó chặt chẽ với chính trị,
phục vụ cho những nhiệm vụ chính trị, nhằm thực hiện những mục tiêu chính trị, bao quát nhất là giải phóng
dân tộc, giải phóng xã hội, giải phóng con người, giành lại độc lập cho dân tộc, tự do cho nhân dân, hạnh phúc
cho mỗi người. Tư tưởng quân sự Hồ Chí Minh phản ánh những vấn đề có tính quy luật của cách mạng bạo
lực trong đấu tranh để giành và giữ chính quyền, trong khởi nghĩa vũ trang và chiến tranh cách mạng, trong
việc xây dựng căn cứ địa, hậu phương, đặc biệt là xây dựng các lực lượng vũ trang nhân dân và nền quốc
phòng toàn dân…
Tư tưởng quân sự Hồ Chí Minh đã được hình thành trên những cơ sở lý luận và thực tiễn quan trọng.
Đó là di sản quân sự rất phong phú của dân tộc ta trả qua các cuộc khởi nghĩa, chiến tranh giải phóng
và chiến tranh bảo vệ Tổ quốc mang tính nhân dân sâu rộng, trong trường kỳ lịch sử từ đầu công nguyên cho
đến sau này. Đó là tư tưởng của chủ nghĩa Mác – Lênin về cách mạng bạo lực, về khởi nghĩa, vè chiến tranh
đã được đề ra cho giai cấp vô sản và quần chúng lao động trong cuộc đấu tranh để giành và giữ chính quyền,
nhằm xóa bỏ chế độ tư bản chủ nghĩa, xây dựng chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng sản.
Đó là những tinh hoa quân sự cổ kim của cả phương Đông và phương Tây, kinh nghiệm về khởi nghĩa
và chiến tranh của nhiều nước, đặc biệt là của Trung Quốc và Liên Xô.
Đó là thực tiễn đất nước và con người Việt Nam, thực tiễn đấu tranh cách mạng lâu dài, kiên cường và
đầy sáng tạo của cả dân tộc ta từ khi có Đảng Cộng sản Việt Nam, đặc biệt là thực tiễn của hơn 30 năm chống
lại hai đế quốc lớn, nhằm giải phóng dân tộc và bảo vệ Tổ quốc.
Tư tưởng quân sự Hồ Chí Minh không phải chỉ được thể hiện trong các bài nói, bài viết của Người về
quân sự, mà còn trong thực tiễn Người chỉ đạo xây dựng lực lượng vũ trang nhân dân, chỉ đạo khởi nghĩa và
chiến tranh cách mạng, trong đường lối, chủ trương kháng chiến của Đảng và Nhà nước do Người lãnh đạo.
Tư tưởng ấy còn được thể hiện trong những hoạt động hết sức phong phú và sáng tạo của những người học
trò gần gũi của Người, của quân dân cả nước trong cuộc chiến đấu vô cùng oanh liệt chống thù trong giặc
ngoài trong suốt hơn nửa thế kỷ vừa qua. Đây chính là lý luận quân sự hiện đại của dân tộc ta, một bộ phận
quan trọng của lý luận cách mạng Việt Nam, nhằm giải phóng dân tộc khỏi sự thống trị của chủ nghĩa đế quốc
thực dân, để bước vào một thời đại mới – thời đại độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội.
Câu 57. Nội dung chủ yếu của tư tưởng Hồ Chí Minh về quân sự?
Trả lời:
Tư tưởng quân sự Hồ Chí Minh có thể khái quát thành những nội dung chủ yếu sau đây:
- Tư tưởng dùng bạo lực cách mạng để chống lại bạo lực phản cách mạng

75
Người sớm chỉ rõ: “Chế độ thực dân, tự bản thân nó, đã là một hành động bạo lực của kẻ mạnh dối với
kẻ yếu rồi”71. Do đó, “trong cuộc đấu tranh gian khổ chống kẻ thù của giai cấp và của dân tộc, cần dùng bạo
lực cách mạng chống lại bạo lực phản cách mạng, giành lấy chính quyền và bảo vệ chính quyền”72.
Theo Hồ Chí Minh, bạo lực cách mạng là bạo lực của quần chúng được tổ chức lại, bao gồm hai lực
lượng: lực lượng chính trị và lực lượng vũ trang, với hai hình thức đấu tranh: đấu tranh chính trị, đấu tranh vũ
trang và sự kết hợp khéo léo của hai hình thức ấy.
Tư tưởng bạo lực cách mạng của Hồ Chí Minh hoàn toàn khác với tư tưởng hiếu chiến tàn bạo của đế
quốc xâm lược. Nhân dân ta buộc phải cầm súng để tự vệ, nhưng chúng ta không coi đánh tiêu diệt là con
đường duy nhất để kết thúc chiến tranh, mà dùng “mưu phạt, tâm công”, coi trọng binh vận, địch vận, tranh
thủ đàm phán hòa bình, đánh sập ý chí xâm lược của chúng, cốt sao cho “Mỹ cút, ngụy nhào”. Đó là tư tưởng
bạo lực thống nhất với nhân đạo và hòa bình.
- Tư tưởng về khởi nghĩa vũ trang nhân dân
Từ rất sớm, năm 1924, Người đã đề cập đến “khả năng khởi nghĩa vũ trang ở Đông Dương”, đó phải là
“cuộc khởi nghĩa của quần chúng chứ không phải là một cuộc nổi loạn”. Thực chất, đó là một cuộc khởi nghĩa
vũ trang toàn dân, được chuẩn bị kỹ lưỡng: từ lập căn cứ địa, phát triển lực lượng chính trị, tổ chức ra các đội
tự vệ, du kích vũ trang, chuẩn bị đón thời cơ, chớp thời cơ mà nổi dậy, từ khởi nghĩa từng phần tiến lên tổng
khởi nghĩa, giành chính quyền về tay nhân dân.
Cuộc Cách mạng Tháng Tám là một cuộc tổng khởi nghĩa của toàn dân, với lực lượng chính trị của quần
chúng là chủ yếu, có lực lượng vũ trang làm nòng cốt. Đó là thắng lợi rực rõ của tư tưởng Hồ Chí Minh về
khởi nghĩa vũ trang toàn dân.
- Tư tưởng về xây dựng lực lượng vũ trang nhân dân: “từ nhân dân mà ra, vì nhân dân mà chiến đấu”,
với ba thứ quân: bộ đội chủ lực, bộ đội địa phương và dân quân tự vệ.
Trong xây dựng lực lượng vũ trang nhân dân, Người chú trọng trước hết về mặt chính trị: bồi dưỡng bản
chất cách mạng bản chất giai cấp công nhân của quân đội kiểu mới; chăm lo xây dựng Đảng trong quân đội,
xây dựng đội ngũ cán bộ chỉ huy có đủ Trí – Dũng – Nhân – Tín – Liêm – Trung. Trong quan hệ giữa con
người và vũ khí, Người nêu các quan điểm “Người trước, súng sau”. Đề cao con người nhưng không xem nhẹ
vai trò của vũ khí, kỹ thuật, nhắc nhở phải biết phát huy cao độ uy lực của vũ khí có trong tay để chiến thắng.
- Tư tưởng về kháng chiến toàn dân, toàn diện, trường kỳ, dựa vào sức mình là chính
Trước hết phải động viên được tinh thần chiến đấu của toàn dân: mỗi làng, mỗi phố là một pháo đài,
mỗi người dân là một chiến sĩ, “ai có súng dùng súng, ai có gươm dùng gươm, không có gươm thì dùng cuốc,
thuổng gậy gộc, ai cũng phải ra sức chống thực dân Pháp cứu nước”.
Đánh giặc trên tất cả các mặt: quân sự, chính trị, kinh tế, văn hóa, tư tưởng, ngoại giao… các mặt trận
đó phối hợp với nhau chặt chẽ, trong đó quân sự là hình thức chủ yếu nhất, chính trị là hình thức cơ bản của
chiến tranh nhân dân.
Kẻ thù muốn đánh nhanh, thắng nhanh; để chống lại một kẻ thù mạnh hơn mình, ta phải đánh lâu dài,
làm cho ta càng đánh càng mạnh, địch càng đánh càng suy. Kháng chiến trường kỳ nhưng lại biết tranh thủ
thời cơ, dựa vào sức mình là chính đồng thời lại phải ra sức tranh thủ sự giúp đỡ của quốc tế, tạo những đòn
quyết định chiến lược để kết thúc chiến tranh, giành thắng lợi về ta.
- Tư tưởng về quốc phòng toàn dân, về chiến lược bảo vệ Tổ quốc. Theo Hồ Chí Minh, muốn giữ nước,
phải xây dựng được “thế trận lòng dân” dựa trên cơ sở “nhân hòa”, toàn dân nhất trí, cả mnước một lòng. Có
tạo ra được sự nhất trí về chính trị - tinh thần thì vũ khí kỹ thuật hiện đại, tài thao lược của tướng lĩnh… mới
có điều kiện phát huy. Muốn vậy, Đảng và Chính phủ phải thi hành một nền chính trị liêm khiết, ra sức cải
thiện đời sống nhân dân, cứu tế thất nghiệp, sửa đổi chế độ, phát triển kinh tế, văn hóa… Có như vậy, nhân
dân mới đoàn kết chung quanh Đảng và Chính phủ, mới vì quyền lợi thiết thân của mình mà hy sinh, cống
chết với giặc. Theo gương người xưa, Hồ Chí Minh chủ trương khoan thư sức dân. Trước tình hình đời sống
71
Sđd, t.1, tr.96
72
Sđd, t.12, tr.304

76
nhân dân có nhiều khó khăn, Người đề nghị có thể giam bớt một phần xây dựng để giải quyết vấn đề ăn và
mặc cho quần chúng, đừng để cho tình hình đời sống căng thẳng quá. Nhà máy cũng cần, nhưng cần hơn là
sự phấn khởi của quần chúng. Làm tất cả là do con người
- Nghệ thuật quân sự Hồ Chí Minh đặc sắc, rất phong phú. Có thể tóm tắt trong mấy điểm lớn:
+ Nắm vững tư tưởng chiến lược tiến công, luôn giành thế chủ động. Trước hết phải có tư tưởng chiến
lược tiến công mới có hành động tiến công. Giành quyền chủ động là biểu hiện cao nhất của tư tưởng tiến
công. Nhưng Hồ Chí Minh cho rằng tư tưởng chiến lược tiến công không loại trừ cách đánh phòng ngự, nhưng
là phòng ngự tích cực, phòng ngự chủ động. “Tiến công, thoái thủ nhanh như chớp” là như vậy.
+ Kết hợp chặt chẽ Lực, Thế, Thời, Mưu: nghĩa là dựa vào sức mạnh vật chất, tinh thần của toàn quân,
toàn dân để tạo ra thế mạnh, thế thuận lợi mà tấn công địch, chớp thời cơ, chọn thời điểm tấn công vào lúc
địch bất ngờ nhất, không kịp chuẩn bị; kết hợp với mưu lược tài giỏi của chỉ huy các cấp. Sự phối hợp, biến
hóa của bốn yếu tố này làm cho nghệ thuật quân sự Hồ Chí Minh trở nên cực kỳ phong phú và sáng tạo.
+ Đánh địch bàng mọi lực lượng, mọi quy mô, mọi cách đánh, mọi vũ khí; kết hợp hiện đại với thô sơ,
du kích với tập trung, đánh tiêu hao với đánh tiêu diệt; lấy yếu đánh mạnh, lấy nhỏ thắng lớn, lấy ít địch
nhiều…
+ Đánh vào lòng người, kết hợp tác chiến với binh vận, địch vận…
Tòm lại, tư tưởng quân sự Hồ Chí Minh lấy sức mạnh chính trị - tinh thần của toàn dân làm nền tảng,
trên cơ sở đó phát huy tài thao lược của toàn Đảng, toàn quân, toàn dân, phát huy được tinh hoa nghệ thuật
quân sự của cha ông và tinh hoa nghệ thuật quân sự của thế giới. Do đó, tư tưởng quân sự Hồ Chí Minh đã
trở thành nền tảng của học thuyết quân sự cách mạng Việt Nam. Chính Người đã cũng với Đảng ta nâng nghệ
thuật quân sự trong khởi nghĩa vũ trang và chiến tranh nhân dân ở thời đại Hồ Chí minh lên một tầm cao mới.
Câu 58. Các nhân tố tác động đến việc học tập, vận dụng, phát triển tư tưởng Hồ Chí Minh trong
điều kiện hiện nay?
Trả lời:
Hiện nay so với thời kỳ Hồ Chí Minh sóng và hoạt động đã có những biến đổi rất to lớn. Thời kỳ Hồ
Chí Minh bước lên vũ đài chính trị là thời kỳ chủ nghĩa xã hội ngày càng mở rộng và trở thành hệ thống thế
giới. Đó cũng là thời kỳ mà các trào lưu cách mạng của thời đại, đấu tranh giai cấp, đấu tranh giải phóng dân
tộc đang phát triển mạnh mẽ, đạt được những thắng lượi chưa từng có.
Hiện nay, chủ nghĩa xã hội thế giới đã không tồn tại như một hệ thống. Toàn cầu hóa đang diễn ra như
một xu thế khách quan, vừa có mặt tích cực, vừa có mặt tiêu cực. Xu thế liên kết, hợp tác đang diễn ra mạnh
mẽ với nhiều cấp độ. Hòa bình, hợp tác, phát triển đang trở thành xu thế lớn của thời đại hiện nay. Văn minh
tin học, phát triển kinh tế tri thức làm thay đổi quan hệ xã hội, phân tầng xã hội. Công nghệ thông tin, kỹ thuật
Internet đã mở rộng giao lưu, kết nối các nền văn hóa với nhau, con người không thể bưng bít thông tin và
cũng không chịu mù thông tin.
Đất nước ta cũng đang đứng trước những thuận lợi và khó khăn, cơ hội và thách thức đan xen nhau. Việt
Nam coi hội nhập kinh tế quốc tế là xu thế khách quan trong thời buổi toàn cầu hóa và đã hội nhập sâu và đầy
đủ vào quá trình đó, một quá trình vừa hợp tác vừa đấu tranh cho sự phát triển bền vững. Ngày 07/11/2006
Việt Nam trở thành thành viên thứ 150 của Tổ chức Thương mại thế giới (WTO). Ngày 16/10/2007 Việt Nam
được bầu làm ủy viên không thường trực Hội đồng Bảo an Liên hợp quốc nhiệm kỳ 2008 – 2009, tức là sau
30 năm, (từ 20/9/1977) Việt Nam chính thức trở thành 1 trong 15 nước ủy viên Hội đồng Bảo an. Đây là cơ
hội để Việt Nam bứt phá đi lên trong phát triển. Sau những năm đổi mới, đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại
hóa. Việt Nam đã thu được những thành tựu to lớn có ý nghĩa lịch sử, thế và lực đều mạnh lên. Song, thách
thức, nguy cơ nằm ngay trong thời cơ, cơ hội. Phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là sự
lựa chọn đúng đắn của Đảng ta cho sự phát triển Việt Nam. Song, mặt trái của kinh tế thị trường đã và đang
làm tha hóa một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên, đang làm băng hoại xã hội. Tham nhũng không còn là
quốc nạn nữa, mà đang là thách thức mất còn đối với Đảng cầm quyền, với chế độ ta.

77
Bối cảnh mới đòi hỏi chúng ta phải biết vận dụng và phát triển tư tưởng Hồ Chí Minh một cách sáng
tạo, theo tấm gương của Người, nghĩa là phải biết xuất phát từ thực tiễn, từ những điều kiện mới, hoàn cảnh
mới, vừa nghiên cứu lý luận Mác – Lênin, vừa tổng kết thực tiễn trong nước và thế giới để tìm ra những luận
điểm mới, cách làm mới nhằm giải quyết thành công những vấn đề đang đặt ra cho cách mạng nước ta hiện
nay.
Câu 59. Nội dung cơ bản học tập, vận dụng, phát triển tư tưởng Hồ Chí Minh trong sự nghiệp đổi
mới ở nước ta?
Trả lời:
Tư tưởng Hồ Chí Minh cùng với chủ nghĩa Mác – Lênin là nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam hành động
của toàn Đảng, toàn dân ta trong sự nghiệp đổi mới đất nước. Học tập tư tưởng Hồ Chí Minh chính là học sự
vận dụng sáng tạo và phát triển chủ nghĩa Mác – Lênin vào điều kiện cụ thể của cách mạng Việt Nam, hình
thành các luận điểm mới, cách làm mới trong cách mạng Việt Nam. Đó cũng chính là nội dung tư tưởng,
phương pháp Hồ Chí Minh mà chúng ta cần phải học. Có thể nêu một cách khái lược như sau:
- Nhận thức và giải quyết đúng đắn mối quan hệ dân tộc – giai cấp, khẳng định trong cách mạng giải
phóng dân tộc “chủ nghĩa dân tộc là một động lực lớn của đất nước”.
- Vận dụng sáng tạo và phát triển học thuyết của Lênin về cách mạng thuộc địa, Hồ Chí Minh khẳng
định cách mạng thuộc địa không phụ thuộc vào thắng lợi của cách mạng vô sản chính quốc mà cần chủ động
“đem sức ta giải phóng cho ta”, góp phần thúc đẩy cách mạng vô sản chính quốc.
- Nhận thức mới về chủ nghĩa xã hội “dân giàu, nước mạnh” do nhân dân lao động làm chủ, phát triển
kinh tế nhiều thành phần trong đó kinh tế quốc doanh và hợp tác xã đóng vai trò chủ dạo nhằm không ngừng
nâng cao đời sống vật chất, tinh thần cho nhân dân, xây dựng một xã hội dân chủ, công bằng, đạo đức, văn
minh, có quan hệ nhân văn tốt đẹp giữa người với người.
- Đảng Cộng sản Việt Nam là sản phẩm của sự kết hợp chủ nghĩa Mác – Lênin với phong trào công
nhân và phong trào yêu nước, Đảng là của giai cấp công nhân, Đảng là đội tiên phong của giai cấp, đồng thời
cũng là đội tiên phong của dân tộc Việt Nam, xây dựng Đảng không chỉ trên các mặt chính trị, tư tưởng, tổ
chức mà còn xây dựng Đảng về đạo đức, đảng cầm quyền phải là đạo đức, là văn minh.
- Luận điểm về dân, dân chủ, về xây dựng nhà nước dân chủ mới – nhà nước pháp quyền của dân, do
dân, vì dân; đại diện cho khối đại đoàn kết toàn dân, một chính quyền do dân làm chủ, còn cán bộ, công chức,
Chính phủ chỉ là công bộc của dân, thực hành dân chủ là chìa khóa vạn năng trong giải quyết công việc thông
qua cơ chế dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra.
- Đề ra và thực hiện chiến lược “đoàn kết, đoàn kết, đại đoàn kết” – một chiến lược cách mạng nhất
quán, một nhân tố làm nên thắng lợi, một đóng góp quan trọng vào kho tàng kinh nghiệm cách mạng thế giới.
- Xây dựng học thuyết quân sự cách mạng thời đại Hồ Chí Minh chống chiến tranh đế quốc và bành
trướng xâm lược, đưa khoa học và nghệ thuật quân sự Việt Nam lên tầm cao mới.
- Việt Nam sẵn sàng là bạn với các nước dân chủ, kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại.
- Sáng tạo về phương pháp cách mạng “dĩ bất biến, ứng vạn biến”, nhất quán trong phương pháp ứng
xử “thấu tình đạt lý”, “lấy chí công vô tư mà đối với người, với việc”.
- Sáng tạo trong phát huy nhân tố con người, đề cao và phát huy tối đa sức mạnh của văn hóa, đạo đức,…
trong đấu tranh cách mạng và xây dựng xã hội mới, v.v…
Vận dụng, phát triển tư tưởng Hồ Chí Minh, trước hết phải quán triệt lời dạy của Hồ Chí Minh: vận
dụng lập trường, quan điểm, phương pháp của chủ nghĩa Mác – Lênin để áp dụng sáng tạo tư tưởng Hồ Chí
Minh vào hoàn cảnh cụ thể của tình hình mới, phù hợp với điều kiện từng nơi, từng lúc.
Lập trường Hồ Chí Minh nói ở đây, là lập trường của giai cấp công nhân làm chủ. Quan điểm Hồ Chí
Minh nói ở đây là cách xem xét, suy nghĩ, cách hiểu các hiện tượng, các vấn đề, giải quyết các vấn đề trong
mối quan hệ biện chứng, thực tiễn, lý luận gắn với thực tiễn, lịch sử - cụ thể, toàn diện và hệ thống, kế thừa
và phát triển, v.v… Phương pháp Hồ Chí Minh nói ở đây là phương pháp xem xét xã hội như là một cơ thể
sống, đang không ngừng vận động trong sự tương tác giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất trong một

78
hình thái kinh tế - xã hội quá độ chưa ổn định, còn đang định hướng chưa xác định, nó chống lại cách xem
xét sự vật cô lập, tĩnh tại, ngưng đọng của tư duy bảo thủ, siêu hình.
Thứ hai, đẩy mạnh việc nghiên cứu tư tưởng Hồ Chí Minh theo chiều sâu, trước mắt tập trung nghiên
cứu, tìm ra chủ thuyết phát triển Hồ Chí Minh để xây dựng thành công nước Việt Nam hòa bình, độc lập,
thống nhất, dân chủ và giàu mạnh trong bối cảnh toàn cầu hóa hiện nay. Đồng thời, cải tiến nội dung, hình
thức, phương pháp học tập tư tưởng Hồ Chí Minh nhằm nâng cao tầm nhận thức của Đảng, nhất là của đội
ngũ cán bộ chủ chốt. Mặt khác, phải chú ý đến việc giáo dục, đưa tư tưởng Hồ Chí minh vào cuộc sống, trong
các tầng lớp nhân dân nhất là thanh, thiếu niên.
Thứ ba, đấu tranh chống lại những luận điệu thù địch, xuyên tạc, phủ định, hạ thấp tư tưởng Hồ Chí
Minh. Khắc phục những hạn chế, yếu kém của đội ngũ những người nghiên cứu, tuyên truyền tư tưởng Hồ
Chí Minh như kiểu không chính xác, hời hợt, không sâu sắc, nhiều lúc rơi vào tầm thường hóa hoặc thần thán
hóa Hồ Chí Minh một cách không tự giác.
Thứ tư, xuất phát từ thực tiễn mới, không ngừng đi vào cuộc sống, tổng kết thực tiễn để tìm ra những
vấn đề có tính quy luật và quy luật của cách mạng Việt Nam, giải đáp đúng các vấn đề do công cuộc đổi mới
đặt ra để phát triển tư tưởng Hồ Chí Minh. Đó là:
- Kiên trì mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội. Đẩy mạnh giáo dục và phát huy sức mạnh của
chủ nghĩa yêu nước, khơi dậy ý chí tự lực, tự cường của toàn dân tộc, đẩy lùi nguy cơ, vượt qua thử thách,
tạo ra động lực mạnh mẽ cho sự phát triển nhanh và bền vững.
- Đổi mới là sự nghiệp của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân dưới sự lãnh đạo của Đảng, mọi chủ
trương, chính sách đều phải dựa vào dân, lấy dân làm gốc, cái gì lợi cho dân thì làm, hại đến dân phải tránh.
- Không ngừng mở rộng và củng cố khối đại đoàn kết dân tộc trong Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, làm
cho chiến lược đại đoàn kết của Hồ Chí Minh đạt được những thắng lợi rực rỡ hơn nữa.
- Vận dụng tốt hơn nữa bài học kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại, chủ động, tích cực hội
nhập sâu, đẩy đủ vào quá trình toàn cầu hóa trên cơ sở giữ vững độc lập, chủ quyền và bản sắc văn hóa dân
tộc.
- Xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh, tôn trọng và phát huy quyền làm chủ của nhân dân, tăng cường
hiệu lực, hiệu quả quản lý của Nhà nước – nhân tố quyết định thành công của sự nghiệp đổi mới.
- Nêu cao tư duy độc lập, tự chủ, sáng tạo khi tham khảo kinh nghiệm nước ngoài, tránh vay mượn, sao
chép, giáo điều, rập khuôn, cần dự báo và đề phòng những rủi ro, bất trắc xảy ra bảo đảm ổn định, an sinh, an
toàn xã hội.

79

You might also like