Professional Documents
Culture Documents
Tài liệu Người lái đò sông Đà thầy Hoà Văn
Tài liệu Người lái đò sông Đà thầy Hoà Văn
- Nguyễn Tuân -
1. Tác giả: Nguyễn Tuân
- Tài hoa, uyên bác, nghệ sĩ
- Yêu cái đẹp, chân thiện mỹ, cảm giác mạnh
2. Hoàn cảnh sáng tác - trích từ tập Sông Đà - 1960
- Cuộc vận động lên Tây Bắc xây dựng kinh tế (Tiếng hát con tàu…)
- Lên Tây Bắc - thỏa mãn cảm giác lạ - đi tìm chất vàng 10 thiên nhiên và vàng 10 đã qua thử
lửa của con người - người nghệ sĩ - chiến sĩ…
3. Đề tài, cảm hứng chủ đạo
- Đề tài: sông nước, quen thuộc trong thi ca … nhưng Sông Đà - Tây Bắc thì còn chưa được
khám phá (chiều chiều oai linh thác gầm thét…)à Đóng góp của NT
- Cảm hứng chủ đạo: Ngợi ca, tự hào, khẳng định…Hòa mình vào cái ta
4. Giá trị nội dung và nghệ thuật
- Nội dung: Vẻ đẹp độc đáo của Sông Đà và người lái đò sông Đà
+ Đẹp trên nhiều phương diện, khối lượng tri thức khổng lồ
+ Thiên nhiên làm nền để nổi bật con người
- Nghệ thuật: Phong cách nghệ thuật Nguyễn Tuân
Ý 1: Giới thiệu về tác giả, hoàn cảnh sáng tác, cảm hứng chủ đạo
Chú ý chất vàng 10 đã qua thử lửa…
Ý 2: Giới thiệu chung về người lái đò sông Đà
- Không tên – vô danh – lao động bình thường (liên hệ Đất nước – NKĐ) (cụ thể mà khái
quát)
- So sánh với Huấn Cao à NT tìm thấy cái phi thường trong cái bình thường
- Ngoại hình: rắn rỏi, mắt, tay, chân.. mang dấu ấn nghề nghiệp à gắn bó máu thịt với sông
nước
Ý 3: Công việc người lái đò – trong cuộc chiến với thiên nhiên
- Sông Đà: hung bạo, dữ dội (xem Ý 3 đề 1)
- Người lái đò: 1 mình, vũ khí mỏng manh
Ý 4: Phẩm chất của người lái đò
a. Lao động trí dũng
- Lòng dũng cảm, can trường, ý chí
+ Không run sợ trước sông Đà, phá trùng vi, nén đau chỉ huy thuyền…
- Thông minh, mưu trí, kinh nghiệm
+ Nắm chắc binh pháp của thần sông thần đá
+ Động từ chủ động … tài trí - nghệ sĩ trong việc chèo đò vượt thác..
à Cuộc chiến với sông Đà là bản anh hùng ca ngợi ca con người lao động
b. Nghệ sĩ chèo đò
+ Động tác thuần thục, điêu luyện
+ Sự tự tin – Phi thường trong cái bình thường – Cái đời thường trong cái phi thường
Ý 5: Tổng kết về nội dung và nghệ thuật
Ý 1: Giới thiệu về tác giả, hoàn cảnh sáng tác, cảm hứng chủ đạo
à NLĐSĐ là tác phẩm thể hiện rõ nhất phong cách nghệ thuật Nguyễn Tuân
Đề 1: Hình tượng người lái đò sông Đà: Lao động trí dũng + Người nghệ sĩ
Hình tượng người lái đò xuất phát từ tác phẩm “Người lái đò sông Đà” được in trong tập tùy
bút “Sông Đà” (1960). Đây là kết quả của chuyến đi thực tế gian khổ và hào hùng tới miền Tây Bắc
rộng lớn, xa xôi, không chỉ để thỏa mãn cái thú tìm đến những miền đất lạ cho thỏa niềm khát khao
“xê dịch”, mà chủ yếu để tìm kiếm chất vàng của mảnh đất trung du nơi đây cũng như “thứ vàng
mười đã qua thử lửa” ở tâm hồn của những con người lao động và chiến đấu trên miền sông núi hùng
vĩ và thơ mộng đó. Tất cả được thể hiện rõ nhất trong vẻ đẹp người lái đò sông Đà.
Nếu như trước Cách mạng, Nguyễn Tuân nhìn những con người tài hoa nghệ sĩ chỉ ở một số ít
với vẻ đẹp “một thời vang bóng” trong xã hội thì sau Cách mạng, họ được ông nhìn thấy trên mọi lĩnh
vực đời sống với những vẻ đẹp đời thường, bình dị nhất. Tác giả đã tước đi những nét riêng trong tiểu
sử người lái đò, chỉ miêu tả rằng dấu ấn của miền song nước dường như đã ăn vào máu thịt, xương
cốt của con người bé nhỏ ấy. Dường như ở đây, Nguyễn Tuân muốn xây dựng một bức chân dung
của những con người lao động dễ lẫn vào đám đông, lẩn khuất giữa miền núi rừng hùng vĩ gắn liền
với nghề lái đò – một công việc mà thoạt nghe, ta thấy nó bình dị đến tầm thường, gắn liền với con
thuyền bé nhỏ, mái chèo cùng cái sào mỏng manh. Thế nhưng đây lại là một dụng ý nghệ thuật rất
tinh tế của nhà văn, bởi chính những con người chẳng ai nhớ mặt đặt tên ấy lại mang một vẻ đẹp của
tài năng và tâm hồn, là thứ vàng mười đã làm rạng danh ra đất nước, non sông. Cuộc sống của người
lái đò là một cuộc chiến trên sông nước, luôn phải giành giật sự sống từ thiên nhiên hung bạo, xảo trá
về tay mình. Chính sự chênh lệch về sức mạnh giữa người lái đò và con sông Đà khiến ông phải luôn
mắt, luôn tay và luôn cả tim nữa, phải có một hệ thần kinh thật vững vàng mới có thể sống chết với
nghề lái đò sông Đà. Hình ảnh người lái đò chống lại dòng thác dữ gợi ta đến cuộc thủy chiến và phải
chăng người lao động ấy là tượng trưng cho con người từ xưa đến nay luôn khát khao chinh phục
thiên nhiên?
Nhưng có lẽ khoảnh khắc đẹp nhất của người lái đò lại nằm ở khúc sau của trận chiến cam go
ấy. Sau trùng vy thứ nhất, con sông thay đổi chiến thuật. Vòng đầu mở ra năm cửa trận trong đây có
bốn cửa tử và một cửa sinh nằm ở phía tả, vòng hai lại nhiều cửa tử hơn và cửa sinh lại chuyển sang
Ông lái đò thực sự là một nghệ sĩ tài hoa trong lĩnh vực trèo đò vượt thác. Trước đây ta vẫn
nghĩ nghệ sĩ là người hoạt động trong lĩnh vực nghệ thuật, sáng tao ra cái đẹp, nhưng với Nguyễn
Tuân ta còn hiểu là những người lao động bình thường nhưng đạt đến trình độ tinh vi xảo diệu thì
cũng xứng đáng được ngợi ca. Ông lái là một tay lái ra hoa, điêu luyện , thành thục trong chính công
việc của mình. Ở cửa thứ nhất, sông Đà hiện ra với những boong ke chìm, pháo đài nổi cùng những
ngón đòn hiểm độc, chúng ta được chứng kiến sự bình tĩnh hóa giải trận địa của người lái đò. Ông
như vị tướng đang chỉ huy con đò của mình phá tung vòng vây kẻ địch. Sang đến cửa hai, cửa ba dòng
sông ngoan cố kia liên tục biến hóa, quyết ăn chết con đò. Lúc này, ta càng thấy rõ hơn sự trí dũng,
tài hoa của con người ấy qua một loạt những động từ chủ động từ “cưỡi”, “nắm chặt”, “ghì cương”
đến “rảo bơi chèo”, “chặt đôi”, “chọc thẳng”. Những động tác nhanh, chính xác và thuần thục, như
một phút giây thăng hoa của người nghệ sĩ. Đến đây, dường như người lái đò không còn là một vị
chiến tướng mà thay vào đó là người nhạc trưởng đang chỉ huy một dàn nhạc viết lên bản hùng ca
của mình , ngợi ca vẻ đẹp của con người trước thiên nhiên hung bạo.
Thế nhưng, nhìn người lái đò bươn trải lúc chèo thuyền vượt thác vất vả, nguy hiểm và căng
thẳng bao nhiêu thì chúng ta lại thấy lúc dừng thuyền ông vui vẻ, hào hứng bấy nhiêu. “Thế là hết
thác”. Vừa phải gồng mình vượt qua bao con thác, bao trận địa đá hiểm nguy thế mà lúc dừng chèo,
tuyệt nhiên không ai nhắc về cuộc chiến thắng vừa qua ở nơi ải nước. Dường như cái gian nan kia đối
với họ đã trở thành những thứ thật thường nhật, họ biến những thứ phi thường thành những điều bình
thường nhất. Một phần bởi họ khiêm tốn mà cũng một phần bởi con sông Đà tuy dữ dội nhưng sự
chiến đấu ngày qua ngày kia đã khiến cho chiến thắng trở thành điều hiển nhiên, chẳng “có gì là
hồi hộp và đáng nhớ cả. Nói cách khác, nhân vật ông lái đò dường như mang chút gì đó khinh bạc
và kiêu ngạo của Nguyễn Tuân – có thể hồn nhiên quên đi cái lớn của mình hay đúng hơn, họ không
hề cho là lớn, cái chúng ta thấy rõ ràng là vĩ đại” (Nguyễn Tấn Huy).
Qua việc miêu tả người lái đò, ta thấy rõ phong cách bút kí tài hoa của nhà văn họ Nguyễn,
tài hoa uyên bác. Tài hoa là khả năng phô bày 1 kho ngôn ngữ cực kì phong phú được sử dụng điêu
luyện luôn gây hứng thú bất ngờ. Uyên bác thể hiện ở 1 kho kiến thức rất rộng lớn được phối hợp tài
tình khi miêu tả. Điều này khiến văn Nguyễn Tuân mang vẻ đẹp sang trọng của sự tổng hòa văn hòa.
Đọc “Người lái đò sông Đà”, người đọc phát hiện ra một quan niệm mới về nghệ thuật. Cái đẹp
không ở đâu xa mà vốn sẵn có trong thiên nhiên và những con người bình dị nhưng cần cù, đầy đam
mê và khát vọng. Thế nhưng, biết nhìn thấy và biết cách làm cho mọi người cũng nhìn thấy lại không
hề dễ dàng gì. Phải có sự kết hợp giữa cái tài và cái tâm của người nghệ sĩ mới làm được điều đó. Với
một tình yêu lớn lao đối với Tổ quốc và nhân dân, nghệ sĩ Nguyễn Tuân đã dấu mình trong cảnh và
người Tây Bắc để phát hiện ra chất “vàng mười đã qua thử lửa” quý giá từ những con người lao
động thầm lặng nhất nói chung và người lái đò sông Đà nói riêng. Đặc biệt, làm nên sự thành công
của hình tượng người lái đò phải kể đến nghệ thuật sử dụng ngôn từ trong nhiều lĩnh vực khác nhau
như thể thao, quân sự, kiến trúc, điện ảnh ….
Nguyễn Tuân có cái thú xê dịch, ham khám phá cảnh vật khắp nơi nhưng lần ấy đến với Tây
Bắc, ông gặp sông Đà như gặp lại người tri kỉ. Đọc những đoạn văn miêu tả dòng sông Đà trong
“Người lái đò sông Đà” dường như Nguyễn Tuân đang viết về chính mình. Sông nước trong văn học
không phải là chủ đề mới lạ, nhưng đôi khi nhắc đến những con sông ấy, người ta chỉ nghĩ đến vẻ đẹp
bãi bờ, sự mênh mông, nét hoang sơ, yên bình của nó. Còn sông Đà thông qua lưng kính nghệ thuật
của Nguyễn Tuân lại hết sức đặc biệt, vẫn có những nét mênh mông, hoang sơ, yên bình của núi rừng
thiên nhiên nhưng điều ghi dấu trong lòng người đọc về con sông Đà còn là sự hung bạo, mạnh mẽ,
là cảm giác mạnh, phiêu lưu mà nó mang lại cho mỗi người đọc khi đọc tác phẩm của Nguyễn Tuân.
Là một nhà văn có khả năng sử dụng ngôn từ nhuần nhuyễn, vốn hiểu biết sâu rộng với những
cái nhìn toàn diện trên mọi phương diện văn hóa, thẩm mỹ,…nên hẳn nhiên Nguyễn Tuân sẽ rất khó
tính trong việc tìm kiếm nhân vật trong mỗi tác phẩm của mình, có lẽ chính những nét độc đáo của
sông Đà đã hấp dẫn, thu hút sự quan tâm của tác giả. Nếu mọi con sông đều chạy về hướng Đông
“Chúng thủy giai đông tẩu” thì sông Đà lại ngược lại chảy về hướng Bắc “Đà giang độc bắc lưu”.
Sông Đà như một đứa con nhỏ ngỗ ngược của ba mẹ được ba mẹ thiên nhiên Tây Bắc ưu ái, hội tụ cả
hai đặc điểm đối nghịch. Đó là nét hung bạo, dữ dội của ba ở thượng nguồn, nhưng cũng mang nét
mộng mơ, trữ tình của mẹ ở nơi hạ lưu. Quả là con sông phức tạp, cá tính, là sự thách thức đối với
bất kỳ nhà văn nào. Dưới ngòi bút tài hoa của Nguyễn Tuân, sông Đà hiện lên như một công trình
thẩm mỹ, một tuyệt tác nghệ thuật mà thiên nhiên ban tặng cho con người nơi đây.
Không chỉ hung dữ và bạo ngược mà con sông Đà còn mang trong mình một tâm địa xảo trá và
nham hiểm. Để thể hiện điều ấy, Nguyễn Tuân tưởng tượng ra một cuộc giao chiến giữa người lái đò
và dòng sông. Lúc đó, sông Đà hiện lên trong một trùng vi thạch trận rất bài bản với ba vòng. Vòng
đầu mở ra năm cửa trận trong đây có bốn cửa tử và một cửa sinh nằm ở phía tả, vòng hai lại nhiều
cửa tử hơn và cửa sinh lại chuyển sang phía hữu, sang đến vòng cuối, ít cửa hơn, tả hữu đều là luồng
chết, chỉ còn lại một lối đi chính giữa. Có thể nói, qua trùng vi thạch trận, ngay lập tức chúng ta nhận
ra trận đồ bát quái mà con sông tạo ra biến hóa khôn lường và cực kỳ nham hiểm, quyết ăn chết kẻ
nào dám xông vào. Quả thật, nếu người lái đò không đủ trí tuệ và sự dũng cảm cũng như kinh nghiệm
thì chắc chắn sẽ bỏ mạng như chơi. Nếu như Khổng Minh khi xưa bày trận trên mặt đất thì nay
Nguyễn Tuân bày trận trên mặt nước.
Trấn giữ ở nơi ải nước ấy là những tảng đá đã được Nguyễn Tuân nhân hóa, thổi hồn, biến
những viên đá vô tri vô giác nay dường như có cảm xúc như con người, chúng đứng chúng ngồi,
chúng gầm gừ, “ngỗ ngược”, “méo mó”, “nhăn nhúm”, “bệ vệ oai phong lẫm liệt”. Đặc biệt, chỉ riêng
từ “hất hàm” đã đủ soi rõ sự ngỗ ngược, kiêu ngạo, thái độ bề trên, khinh thường kẻ địch, khẳng định
sự độc dữ của con sông. Không chỉ dựng đá đứng đá ngồi mà Nguyễn Tuân còn bắt nó cựa quậy, mỗi
hòn đều có một nhiệm vụ, một tâm thế riêng: hòn làm mồi nhử, hòn khác lại làm boong ke, hòn lại
làm nhiệm vụ tấn công, chúng “nhổm cả dậy”, “vồ lấy thuyền”. Tất cả tạo ra một thế trận không chỉ
để đe dọa người lái đò mà còn khiến người đọc thực sự như nhìn thấy một chiến trường cổ xưa với
những tên tướng đá thiện chiến, mưu mô, xảo quyệt đã ngàn năm mai phục khiến cho không biết bao
nhiêu con thuyền phải bỏ mạng ở khúc sông này. Phối hợp với đá còn có đội quân sóng nước reo hò,
làm thanh viện cho đá tạo nên một bản giao hưởng của gió thác giữu một “trận nước vang trời thanh
la não bạt”. Ngay từ đầu, chưa đến thác những tiếng cuồng nộ của nước đã gần lại mãi. Chúng như
Sông Đà vừa hùng vĩ, hiểm trờ vừa trữ tình, thơ mộng. Trên kia, Nguyễn Tuân nói con sông
hung bạo thì đến nơi hạ lưu, cũng con sống ấy, không ai nghĩ rằng đó từng là con sông có lúc như kẻ
thù số một của con người. Sự biến đổi của dòng sông chính là sự biến hóa của một ngòi bút vừa có
tâm vừa có tầm uốn lợn từ nét bút rắn rỏi, khỏe khoắn đến những nét bút mềm mại, tinh tế. Và để
miêu tả trọn vẹn vẻ kiều diễm của Đà giang, Nguyễn Tuân đã không tiếc sức mình khám phá dòng
sông ở nhiều góc độ mà trước nhất là từ trên cao khi ông bay tạt ngang qua đây. Lúc ấy, chính người
viết về con sông cũng có sự ngạc nhiên đến ngỡ ngàng. Thật thú vị trước phát hiện của Nguyễn Tuân
về con sông: như cái “dây thừng ngoằn nghèo dưới chân mình” và đẹp nhất là hình ảnh con sông Đà
“tuôn dài, tuôn dài như một áng tóc trữ tình, đầu tóc, chân tóc ẩn hiện trong mây trời Tây Bắc bung
nở hoa ban, hoa gạo tháng hai và cuồn cuộn mù khói núi Mèo đốt nương xuân”. Hai chữ “tuôn dài”
được điệp lại làm ta có cảm giác áng tóc trở nên mượt mà, bồng bềnh, gợi cảm vô cùng. Dòng sông
Với Nguyễn Tuân, sông Đà con là một cố nhân. Bất ngờ gặp lại dòng sông sau một chuyến đi
rừng dài, nhà văn gợi lại cảm giác khi ta bất ngờ gặp lại những gì đã quá xa, nhưng lại rất gần: tuổi
thơ. Bởi ánh sang hắt từ mặt sông sao mà “loang loáng như trẻ con chiếu gương vào mắt”. Lúc đó,
sông Đà đẹp như “màu nắng tháng 3 Đường Thi, Yên Hoa Tam Nguyệt há Dương Châu”, câu thơ của
Lý Bạch khi chia tay Mạnh Hạo Nhiên bên dòng Trường Giang thủa nào. Nhưng trong khoảnh khắc
thần tiên của Lý Bạch – Mạnh Hạo Nhiên ấy, không thể tạo ra “tứ thú”, còn lúc này, là khoảnh khắc
hội ngộ giữa 2 người bạn đã quá thân quen: Nguyễn Tuân và sông Đà. Câu văn của Nguyễn Tuân vẫn
vậy, vẫn tri thức và rất uyên bác, miêu tả thiên nhiên nhưng ẩn chưa biết bao cảm xúc của con người,
mà muốn hiểu cho được thật chính xác cũng chẳng dễ dàng gì.
Còn chất thơ ở vẻ đẹp sông Đà, khi thì như “nỗi niềm cổ tích”, lúc “lóe sáng ánh sáng tháng
Đường thi”, lúc như “người tình nhân chưa từng quen biết” và đáng mong chờ như nắng giòn tan sau
kỳ mưa dầm tầm tã. Không chỉ vậy ngược dòng sông của thời gian, Nguyễn Tuân còn khám phá ra
vẻ cổ kính, tĩnh lặng như từ ngàn năm trước của Đà giang. Nhà văn thả con thuyền lững lờ chậm trôi
trên dòng sông, không còn sóng to, núi đèo hiểm trở, thạch trận giăng bố khắp nơi như ở đoạn đầu
thác nữa mà mở ra trước mắt người đọc lúc này là khung cảnh thiên nhiên hết sức thơ mộng và trữ
tình. Dòng sông chảy trậm, hai bên bờ dòng sông là những thảm cỏ gianh “nõn búp” đang nhú, là đàn
hươu nhung cúi đầu ăn cỏ đẫm sương đêm, là đàn cá đầm xanh quẫy đuôi vọt lên mặt nước, là mặt
sông loang loáng phản chiếu ánh mặt trời, là những tia lóe lên của những chiếc đuôi cá dưới ánh mặt
trời. Quãng sông này vẫn giữ nguyên được nét đẹp tự bao đời Lý, đời Trần, đời Lê. Hai bên bờ sông
không một bóng người, hoang sơ, vắng vẻ như một bờ tiền sử. Những thi nhân thời trung đại khi xưa
thường tránh xa cái xô bồ của cuộc sống, tìm đến những nơi hoang sơ, vắng lặng để tĩnh tâm, giữ cho
lòng mình trong sạch như Nguyễn Trãi đã từng viết:
Ta dại ta tìm nơi vắng vẻ
Người khôn, người đến chốn lao xao
Thế nhưng, sang đến thời hiện đại, đọc bài “Tràng giang” của Huy Cận, ta lại thấy được một thiên
nhiên mênh mông, vắng lặng không một bóng người, cảm giác cô độc bao trùm khắp không gian. Khi
ấy, con người khao khát nhất là sự thấu hiểu, chia sẻ. Vậy phải chăng, cái tĩnh lặng của dòng sông Đà
dang chứa đựng cái cảm giác cổ tích của lòng người khi trở về với thiên nhiên. Thế nhưng không,
Cảm xúc từ thực tại của Nguyễn Tuân còn khơi nguồn cho những mơ ước mang tính dự báo
về tương lai, biến sức mạnh của dòng sông trái tính trái nết thành nguồn thủy điện dồi dào. Rõ ràng,
thực tại cuộc sống mới đã giúp cho Nguyễn Tuân có những dự cảm chính xác, có niềm tin vững chắc
vào những con người đang xây dựng một chế độ mới, đem lại sinh khí mới cho cuộc sống ở sông Đà.
Ngôn ngữ so sánh biến hóa không trùng lặp, được gây men bằng những đột ngột khiến người đọc
sửng sốt vì những so sánh độc lạ gây đứt quãng liên tưởng để rồi nhận ra không thể so sánh hay hơn,
đúng hơn và cứ thế bị thôi miên vào mê hồn trận của những so sánh đầy ắp tràn bờ.
Từ trước CM tháng 8, đặc điểm này đã đưa Nguyễn Tuân đến thú quan sát những phong tục
đẹp, những cách chơi đẹp tao nhã trong việc uống trà, đánh cờ, đánh thơ, thả thơ,…Của lớp nhà nho
tài tử cuối mùa. Còn bây giờ, Nguyễn Tuân hướng tài năng vào việc ca ngợi đất nước đẹp giàu, ca
ngợi con người lao động tài hoa dũng cảm. Đầu tiên, Sông Đà khoe mình dưới ngòi bút Nguyễn Tuân
như một công trình nghệ thuật tuyệt vời của tạo hóa, thể hiện một cách tuyệt vời phong cách vốn có
của ông: những trang văn Tài hoa – Uyên bác. Uyên bác thể hiện ở 1 kho kiến thức rất rộng lớn được
phối hợp tài tình khi miêu tả. Điều này khiến văn Nguyễn Tuân mang vẻ đẹp sang trọng của sự tổng
hòa văn hòa. Nàng văn của Nguyễn Tuân thật quảng giao đón du khách ở 4 phương trời kiến thức :
lịch sử, địa lý, điện ảnh, hội họa, âm nhạc,quân sự, võ thuật,…Nguyễn Tuân tả cái hút nước bằng cái
phun ảnh rất ấn tượng. Ông giả thiết 1 nhà quay phim táo bạo ôm mây ngồi thuyền thùng xuống tận
đáy hút nước rồi quay ngược ống kính lên để thu hết cái rung rợn của cái giống thủy tinh đang xoáy
tít. Nghệ thuật tả cuộc hỗn chiến bằng 1 kho kiến thức quân sự, võ thuật rất ấn phong phú với cả 1 hệ
thống thuật ngữ khái niệm rút từ binh pháp, cửa tử, cửa sinh ,đánh vu hồn, đánh du kích, đánh giáp lá
cà…gợi bao hứng thú thẩm mỹ đa dạng, mới lạ cho người đọc. Tài hoa là khả năng phô bày 1 kho
ngôn ngữ cực kì phong phú được sử dụng điêu luyện luôn gây hứng thú bất ngờ. Tiến sĩ văn học Nga
I. Nikulin nhận xét: “Nguyễn Tuân là bậc thầy của ngôn ngữ sống động”. Đúng thế. Nguyễn Tuân là
người đã nắm chắc binh pháp của ngôn ngữ’. Ông đã dựng con sông vô tri dậy bằng 1 mật độ động
từ cực lớn, ông đã truyền hồn cho con sông Đà bằng những so sánh vô cùng phong phú, biến hóa.
Chữ -dưới tay ông- không chỉ là phương tiện mà còn là mục đích. Với một ý thức ngôn từ mới mẻ,
hiện đại như vậy, Nguyễn Tuân đã truyền điện cho chữ, chữ truyền sức nóng cho dòng sông, dòng
sông truyền ánh sang cho tâm hồn người đọc.