Professional Documents
Culture Documents
Tài liệu Đất Nước thầy Hoà Văn
Tài liệu Đất Nước thầy Hoà Văn
Dàn ý
I. MB.
- Giới thiệu tác giả và tác phẩm
- Tư tưởng Đất nước của nhân dân
- Đề bài
II. TB.
1. Vị trí, ND chủ đạo :
- Vị trí : Phần đầu của chương Đất nước, là những băn khoăn trăn trở: đất nước có từ bao giờ?
Ai là người đã tạo ra đất nước? Đất nước có từ đâu ?
- ND : lần trở về quá khứ, cho chúng ta thấy một chân lý giản dị: Đất nước được khai sinh bởi
Nhân dân.
2. Cảm nhận cụ thể
- 2 câu đầu :
+ vang lên như 1 chân lí : con người ai sinh ra đều là người con của Đất Nước
+ nhịp điệu của truyện cổ tích
Bài học đường đời, đạo lí tốt đẹp , ngôn ngữ của dân tộc.
- 2 câu tiếp : Đất Nước bắt đầu và lớn lên từ miếng trầu, cây tre.
+ Miếng trầu : hình ảnh giản dị, rất đỗi bình thường
miếng trầu là quá khứ, là hiện tại và là tương lai , tình bạn, tình yêu lứa đôi, đạo lý uống nước
nhớ nguồn chẳng phải là cội nguồn sâu xa nhất của đất nước hay sao?
+ Cây tre: quen thuộc, bình dị.
biểu tượng của làng quê, biểu tượng cho nhân dân Việt Nam – kiên cường bất khuất: ý chí,
dáng đứng của con người Việt Nam
- 4 câu còn lại : nền văn hóa lúa nước
+ Búi tóc : gọn gàng, tròn đầy, phù hợp với công việc đồng áng – thời tiết
+ Gừng cay muối mặn : gia vị hàng ngày trong cuộc sống => tình cảm vợ chồng
+ Cái kèo cái cột .. : nhắc nhở con người về quê hương, dân tộc
+ Hạt gạo : biểu tượng của cuộc sống ấm no, trù phú => sự vất vả, nhọc nhằn của nhân dân.
3. Những nét mới mẻ trong tư tưởng đất nước của nhân dân:
1. Mở bài.
“Đất nước tôi thon thả giọt đàn bầu”, “quê hương là chùm khế ngọt” …“Đất Nước” là hình tượng trữ
tình lớn, là cảm xúc nghệ thuật cao cả và mê say của nhiều thế hệ thơ Việt Nam, trong đó có Nguyễn Khoa
Điềm. Nguyễn Khoa Điềm thuộc thế hệ thơ trẻ chống Mỹ, nổi bật ở ông là chất thơ trữ tình chính luận vừa
chặt chẽ vừa phóng túng, vừa lắng đọng cảm xúc vừa giàu suy tư trăn trở. Viết về Đất nước, ông đã có nhận
thức sâu xa “Đất Nước của Nhân dân”. Tất cả những tư tưởng độc đáo, mới mẻ ấy có lẽ đã được dồn nén trong
đoạn thơ đầu của đoạn trích.
2. Hoàn cảnh ra đời, cảm hứng chủ đạo
Trường ca “Mặt đường khát vọng” được Nguyễn Khoa Điềm hoàn thành ở chiến khu Trị Thiên năm
1971. Tư tưởng “đất nước của nhân dân” là việc trả lại cho đất nước người chủ nhân đích thực đó là nhân dân,
nhân dân không chỉ là người đã tạo ra đất nước mà còn gìn giữ bảo vệ đất nước trong suốt tiến trình lịch sử.
Tư tưởng này không chỉ có ý nghĩa thôi thúc thế hệ trẻ trong đô thị miền Nam tham gia vào cuộc đấu tranh
giải phóng đất nước lúc bấy giờ mà còn có ý nghĩa nhận thức lâu dài với con người VN vốn yêu tha thiết Tổ
quốc mình.
3.Thân bài
3.1. 9 CÂU THƠ ĐẦU
A. Vị trí đoạn thơ, nội dung chủ đạo.
Đoạn thơ nằm ở phần đầu của chương Đất nước, có nhiệm vụ dẫn dắt mạch suy tư trăn trở: đất nước
có từ bao giờ? Ai là người đã tạo ra đất nước? Đất nước có từ đâu ?
- Thông thường các nhà tư tưởng, nhà thơ lại xác định đất nước gắn với các triều đại, những
người anh hùng, ví như: thiên thư – đế cư; hai vầng nhật nguyệt chói loà – một mối xa đồ sộ rồi “Triệu Đinh
Lý Trần bao đời gây nền độc lập”.
Nguyễn Khoa Điềm dường như có cách lý giải khác, lần trở về quá khứ, thủa khai thiên lập địa của
con người, thủa những Việt đầu tiên đặt chân lên mảnh đất Việt, xây dựng đất nước bằng chính cuộc đời mình:
yêu thương, đoàn kết, thuỷ chung, cần cù chăm chỉ, những phẩm chất đã làm nên tính cách con người Việt
Nam – Đất Nước Việt Nam. Nói cách khác, Nguyễn Khoa Điềm cho chúng ta thấy một chân lý giản dị: Đất
nước được khai sinh bởi Nhân dân.
Nguyễn Khoa Điềm xác định cái buổi ban đầu của Đất nước qua một nét sống giản dị nhưng đậm đà
của những người mẹ, người bà Việt Nam hay cây tre thân thuộc của mỗi làng quê:
Đất Nước bắt đầu với miếng trầu bây giờ bà ăn
Đất Nước lớn lên khi mình biết trồng tre mà đánh giặc
Không ai lấy tiêu chuẩn đo lường của nhà khoa học để bắt bẻ thi nhân. Những hình tượng
bình thường quen thuộc trong đời sống của nhân dân Việt Nam, nhưng mãi cho đến khi Nguyễn Khoa Điềm
phát biểu, cái chân lí ngỡ là hiển nhiên đấy, người đọc lắng lại một khoảnh khắc, sau đó nhận ra bao điều thú
vị. Bởi lẽ, thẩm thấu vào các tế bào mỏng manh ấy, là những mối quan hệ tình nghĩa truyền thống đẹp của
con người Việt Nam. Miếng trầu xuất hiện không chỉ trong giao tiếp hàng ngày “miếng trầu là đầu câu chuyện”
mà còn hiện lên trên bàn thờ gia tiên của mỗi gia đình trong những dịp lễ tết – như tấm lòng thành kính của
con cháu gửi đến các bậc tiền nhân, thậm chí trong đám cưới dám hỏi bởi “miếng trầu nên dâu nhà người”.
Để rồi khi họ về già, thong thả nhai miếng trầu, nhớ buổi thanh xuân tình nồng nghĩa đượm, mà đột nhiên nở
nụ cười mãn nguyện chuyện tình xưa. Chẳng phải từ miếng trầu là quá khứ, là hiện tại và là tương lai , tình
bạn, tình yêu lứa đôi, đạo lý uống nước nhớ nguồn chẳng phải là cội nguồn sâu xa nhất của đất nước hay sao?
Nhà thơ lại liên tưởng song hành về sự lớn mạnh của đất nước từ buổi "dân mình biết trồng tre
mà đánh giặc". Đất nước Việt có điều kiện thổ nhưỡng phù hợp tạo điều kiện cho cây tre sinh sôi phát triển
khắp mọi miền của Tổ Quốc, đem lại một màu xanh bát ngát cho quê hương. Nguyễn Duy cũng từng trăn trở
về những phẩm chất kì lạ của cây tre Việt :
Tre xanh xanh tự bao giờ?
Từ những giá trị vật chất bình dị thân quen, Nguyễn Khoa Điềm gắn dòng suy tưởng đến
con người ngàn đời cư trú, lao động, chiến đấu trên mảnh đất Việt để giữ gìn tôn tạo mảnh đất thân yêu. Đó
không ai khác là những người mẹ, người cha một đời kính trọng thuỷ chung, "thương nhau bằng gừng cay
muối mặn". Tình cảm chân thành ấy không phải là lớp son phấn với "sắc màu lộng lẫy, sáo ngữ ồn ào", mà là
những nét duyên như búi tóc mẹ bới sau đầu gọn gàng ý nhị, đủ để làm cho con tim xao xuyến khi gần nhau,
và khi xa thì không bao giờ nguôi ngoai nhung nhớ, để rồi họ bật lên những câu ca dao nghe như muối xát
tâm can “gừng cay muối mặn xin đừng quên nhau” .
Nguyễn Khoa Điềm lại có một cách nhìn thấu triệt theo thời gian hao phí lao động để kết
tinh một hạt gạo trắng trong. Nó phải trải qua bao nắng sương vất vả gieo cấy, xay giã, giần sàng. Thắm vào
trong hạt gạo bé nhỏ ấy là mồ hôi vị mặn nhọc nhằn của giai cấp nông dân. Ai ơi bưng bát cơm đầy
Dẻo thơm một hạt đắng cay muôn phần.
Nhà thơ đã cụ thể hoá khái niệm đất nước trừu tượng lớn lao cả về chiều "thời gian đằng đẵng", lẫn
"không gian mênh mông" vào trong những hình ảnh nhỏ bé như hạt gạo, nhưng lấp lánh bao tầng ý nghĩa sâu
sắc, có giá trị biểu trưng những nét bản chất và tinh hoa của dân tộc, của Đất Nước Việt Nam. Nhân dân lao
động gắn mình trong môi trường đất đai từ đời này qua đời khác, sẽ định hình nên những nét cốt cách của con
người Việt . Họ yêu quý đất đến mức xem "Tấc đất tấc vàng". Và vì vậy, họ sẵn sàng hiến thân vì non sông
đất nước như.
C. Nhận xét về độc đáo trong cách cảm nhận Đất nước của nhân dân:
Nét độc đáo trong tư tưởng Đất nước của nhân dân chính là việc tác giả tập trung vào Văn hoá – tổng
hòa của những yếu tố vật chất và tinh thần được nhân dân ta gìn giữ qua năm tháng – Văn hóa chính là bản
sắc, tâm hồn của một dân tộc. Nhắc đến Việt Nam không chỉ nhắc tới thời gian 4000 năm anh hùng dựng nước
và giữ nước, chúng ta còn vô cùng tự hào về một bề dày văn hóa vừa thơ mộng vừa đậm đà, vừa đặc sắc vừa
nhân văn. Biết bao kẻ đã dã tâm xâm lược nước ta, nhưng với một gốc rễ văn hóa sâu sắc xuất phát từ nhân
dân, không một thế lực nào có thể “đồng hóa”, “nô lệ” được dân tộc ta. Nói cách khác, mạch ngầm duy trì sự
tồn tại, phát triển của một tính cách, một suy nghĩ, một dân tộc, chính là văn hóa. Đoạn thơ có 9 câu ngắn gọn,
1.MB
“Đất nước tôi thon thả giọt đàn bầu”, “quê hương là chùm khế ngọt” …“Đất Nước” là hình tượng trữ
tình lớn, là cảm xúc nghệ thuật cao cả và mê say của nhiều thế hệ thơ Việt Nam, trong đó có Nguyễn Khoa
Điềm. Ông thuộc thế hệ thơ trẻ chống Mỹ, nổi bật ở ông là chất thơ trữ tình chính luận vừa chặt chẽ vừa phóng
Một nét mới mẻ đáng quý của Nguyễn Khoa Điềm là ông đã di chuyển cách nhìn nhân dân từ vai trò
lịch sử sang vai trò văn hóa bằng lối diễn đạt đầy hình tượng:
Họ giữ và truyền cho ta hạt lúa ta trồng
Họ truyền lửa cho mỗi nhà từ hòn than qua con cúi
Họ truyền giọng điệu mình cho con tập nói
Mạch cảm xúc, suy ngẫm cứ dồn tụ dần để rồi cuối cùng bật lên tư tưởng:
Để Đất Nước này là Đất Nước Nhân dân
Đất Nước của Nhân dân, Đất Nước của ca dao thần thoại
Nhà thơ đã khẳng định chủ nhân đích thực của Đất Nước bằng một nguyên nhân giản dị mà sâu sắc:
Đất Nước này do nhân dân dựng xây và gìn giữ, kiến tạo và bảo vệ bởi tình yêu và nỗi đau, bằng nước mắt,
mồ hôi, xương máu của vô vàn những con người thầm lặng, đói nghèo nhưng nghĩa tình trung hậu, của những
số phận bất hạnh khổ đau mà dũng cảm kiên cường. Qua đó, Nguyễn Khoa Điềm bỗng làm sáng lên vẻ đẹp
của tâm hồn và tính cách con người Việt Nam: yêu say đắm mà thủy chung nghĩa tình, song với kẻ thù thì đấu
tranh quyết liệt . Điều thú vị nhất là những nét đẹp ấy lại thấm đẫm trong thi liệu văn hóa dân gian khiến cảm
hứng thi ca như cơn lũ tràn qua bờ đâp ngôn từ:
Dạy anh biết “yêu em từ thuở trong nôi”
Biết quý công cầm vàng những ngày lặn lội
C. Những nét mới mẻ trong tư tưởng đất nước của nhân dân:
Nhắc đến Việt Nam không chỉ nhắc tới thời gian 4000 năm anh hùng dựng nước và giữ nước, ta còn
vô cùng tự hào về một bề dày văn hóa vừa thơ mộng vừa đậm đà, vừa đặc sắc vừa nhân văn. Văn hoá dân gian
thấm thía vào hệ thống từ vựng, cấu trúc hình tượng rải khắp bài thơ khiến nhân dân hiện diện khắp nơi, trở
thành chủ nhân, thành linh hồn Đất Nước.Đó là nền văn hóa gốc nông nghiệp cần có “ đất và nước ’’, gắn với
nền văn minh lúa nước, đó là nền văn hóa luôn gắn bó chặt chẽ với thiên nhiên, giản dị mà thân thuộc, trọng
hòa bình, tình cảm hơn là chiến tranh, bạo lực.
Cũng chính chất liệu văn hoá còn ùa vào cả phương diện nghệ thuật. Mỗi sợi dọc sợi ngang dệt nên
hình tượng thơ NKĐ đều óng ánh sắc màu đặc biệt của văn hóa dân gian_. Thơ cổ thường dùng những hình
ảnh ước lệ cao xa, tạo 1 khoảng cánh thiêng để diễn tả niềm ngưỡng vọng vô biên của con người đối với giang
sơn Tổ quốc. Hệ thống ngôn từ mới mẻ của NKĐ lại mang nỗ lực xoá nhoà khoảng cách để bình dị hoá đất
nước, để đất nước hoà thân vào ca dao, dân ca, vào đời sống hằng ngày. Đất Nước vì thế mà là mỗi người,
mỗi người là Đất Nước. Thế nên ta hãy:
Ôi Tổ Quốc ta yêu như máu thịt
Như mẹ cha ta như vợ như chồng
Ôi Tổ Quốc nếu cần ta chết
Cho mỗi ngôi nhà ngọn núi con sông
Điểm đáng chú ý thứ hai là tư tưởng Đất Nước của Nhân dân được biểu hiện trong hình thức thơ chính
luận - trữ tình vừa chặt chẽ vừa phóng túng. Nói đến chất chính luận là nói đến tư duy logic, những lý lẽ, dẫn
chứng, đưa ra thuyết phục người đọc, ở đây, nhà thơ đã dùng sự chặt chẽ của lập luận, phân tích một cách
toàn diện đất nước trên cả 3 phương diện: địa lý, lịch sử và văn hoá. Nói đến chất trữ tình là nói đến cảm xúc
mãnh liệt, những hình ảnh gợi cảm hấp dẫn. Với thể thơ trữ tình chính luận, những lý lẽ không thể hiện một
cách khô khan mà bằng hình ảnh đầy sức gợi cảm, bằng những cảm xúc dạt dào.
4.KB
Trải qua hơn nửa thế kỉ với bao thăng trầm của lịch sử, bao nhiêu biến đổi của lòng người, có nhiều
tác phẩm trong đó không còn gía trị như xưa, mà trở nên lạc hậu với thời cuộc , vô tình bị trôi vào dĩ vãng.
Nhưng có những tác phẩm cho đến ngày hôm nay vẫn còn nguyên giá trị của nó, vẫn được độc giả tìm đến
với sự ngưỡng mộ , trân trọng. Và “Đất nước” chính là tác phẩm như thế. Đặc biệt qua những suy ngẫm về
lịch sử văn hóa khiến “Đất nước” trở nên tuyệt đẹp và thiêng liêng hơn bao giờ hết.
BÀI LÀM:
I. Mở bài
“Đất nước tôi thon thả giọt đàn bầu”, “quê hương là chùm khế ngọt” …“Đất Nước” là hình tượng trữ
tình lớn, là cảm xúc nghệ thuật cao cả và mê say của nhiều thế hệ thơ Việt Nam, trong đó có Nguyễn Khoa
Điềm. Nguyễn Khoa Điềm thuộc thế hệ thơ trẻ chống Mỹ, nổi bật ở ông là chất thơ trữ tình chính luận vừa
chặt chẽ vừa phóng túng, vừa lắng đọng cảm xúc vừa giàu suy tư trăn trở. Viết về Đất nước, ông đã có nhận
thức sâu xa “Đất Nước của Nhân dân” đặc biệt là những cảm nhận mới mẻ, những phát hiện độc đáo về không
gian địa lí của Đất Nước trong mối quan hệ với Nhân Dân.
II. Thân bài
1. Hoàn cảnh sáng tác, cảm xúc chủ đạo
Trường ca “Mặt đường khát vọng” được NKĐ hoàn thành ở chiến khu Trị Thiên năm 1971. Tư tưởng
“đất nước của nhân dân” là việc trả lại cho đất nước người chủ nhân đích thực đó là nhân dân, nhân dân không
chỉ là người đã tạo ra đất nước mà còn gìn giữ bảo vệ đất nước trong suốt tiến trình lịch sử. Tư tưởng này
không chỉ có ý nghĩa thôi thúc thế hệ trẻ trong đô thị miền Nam tham gia vào cuộc đấu tranh giải phóng đất
nước lúc bấy giờ mà còn có ý nghĩa nhận thức lâu dài với con người VN vốn yêu tha thiết Tổ quốc mình.
Từ xưa đến nay, những tên núi, tên sông đã in bóng trong thơ ca của dân tộc: “Bạch Đằng giang phú”,
“Nam quốc sơn hà”, “ Qua đèo Ngang”… và mỗi khi nhắc tới những tên núi, tên sông này chúng ta không
khỏi tự hào về những vẻ đẹp thiên nhiên kì thú, mĩ lệ; tự hào về những địa linh nhân kiệt, về chủ quyền dân
tộc, về những chiến công lừng lẫy,… Và trong thơ NKĐ cũng chật ních những địa danh nhưng những địa
danh ấy lại vừa quen, vừa lạ. Quen là bởi đây là những danh lam thắng cảnh quen thuộc, gần gũi của đất nước
nhưng nó được “góp”: “góp cho”, “góp nên”, “góp tên”, “góp mình”… bởi những con người bình dị, là cuộc
sống và tâm hồn của họ, chủ nhân của những chữ “góp” ấy chính là nhân dân - những con người bình thường,
giản dị nhất.
Chọn từ những chất liệu tiêu biểu của văn hóa dân gian, NKĐ giúp người đọc cảm nhận xúc động và
thấm thía những nỗi đau trong cuộc đời, thân phận, những vẻ đẹp tâm hồn, tính cách người Việt:
“Những người vợ nhớ chồng còn góp cho Đất Nước những núi Vọng Phu
Cặp vợ chồng yêu nhau góp nên hòn Trống Mái”
Sự tích hòn Vọng Phu không chỉ gợi ra nỗi xót xa cho cảnh li tán, sự đợi chờ mòn mỏi trong chiến
tranh mà còn ca ngợi tình nghĩa thủy chung của “những người vợ nhớ chồng”, trong bài thơ “Sóng” của Xuân
Quỳnh, nữ sĩ cũng từng viết:
“Nơi nào em cũng nghĩ
Hướng về anh - một phương”
Đối với những người phụ nữ Việt Nam, sự thủy chung có lẽ đã trở thành nét đẹp truyền thống in sâu
trong con người của họ và cùng với đó là đức hi sinh, họ đã hi sinh cái hạnh phúc nhỏ bé của mình để hòa vào
công cuộc xây dựng đất nước to lớn đặc biệt đối với một dân tộc như dân tộc mình, một đất nước như đất
nước ta, năm năm tháng tháng có biết bao cuộc chiến đấu, có bao nhiêu người đàn ông ra trận thì có bấy nhiều
nhười phụ nữ ở nhà chờ đợi mòn mỏi, có bấy nhiêu người vợ nhớ chồng. Cách gọi tên “hòn Trống Mái” của
nhân dân qua cái nhìn của nhà thơ hiện đại đã trở thành biểu tượng cho vẻ đẹp phồn thực của cuộc đời, cho
sự sắt son vĩnh hằng của tình yêu đôi lứa, tượng trưng cho tình cảm gia đình bền vững – là tình cảm vô cùng
thiêng liêng, là nền tảng vững chắc cho công cuộc xây dựng đất nước. Truyền thuyết “Thánh Gióng” – những
câu chuyện gắn liền với huyền thoại, Thánh Gióng ba tuổi vươi vai thành trang sĩ và rồi biết bao nhiêu Thánh
Ở đây cảnh vật thiên nhiên qua cách nhìn của NKĐ, hiện lên như một phần tâm hồn, máu thịt của nhân
dân . Chính nhân dân đã tạo dựng nên đất nước, đã đặt tên, đã ghi dấu vết cuộc đời mình lên mỗi ngọn núi ,
dòng sông . Từ những hình ảnh, những cảnh vật, những hiện tượng cụ thể, nhà thơ qui nạp thành một khái
quát sâu sắc :
“Và ở đâu trên khắp ruộng đồng gò bãi
Chẳng mang một dáng hình, một ao ước, một lối sống ông cha
Ôi ! Đất nước sau bốn nghìn năm đi đâu ta cũng thấy
Những cuộc đời đã hóa núi sông ta.”
Ông khẳng định chủ nhân đích thực của Đất nước chính là nhân dân và ở đây Đất nước được nhìn ở
thể toàn vẹn, thống nhất không thể tách rời, không thể chia cắt vì vậy, mỗi chúng ta cần có trách nhiệm bảo
vệ, giữ gìn đất nước, đó là cuộc sống của chúng ta.
Đoạn thơ bắt đầu từ những huyền thoại của văn hóa dân gian nhưng lại bay bổng trên thế giới ấy nhờ
cái nhìn mới mẻ, độc đáo của phương thức tư duy hiện đại. Những người làm ra Đất nước, được thể hiện qua
Điểm đáng chú ý thứ hai là tư tưởng Đất Nước của Nhân dân được biểu hiện trong hình thức thơ chính
luận - trữ tình vừa chặt chẽ vừa phóng túng. Nói đến chất chính luận là nói đến tư duy logic, những lý lẽ, dẫn
chứng, đưa ra thuyết phục người đọc, ở đây, nhà thơ đã dùng sự chặt chẽ của lập luận, phân tích một cách
toàn diện đất nước trên cả 3 phương diện: địa lý, lịch sử và văn hoá. Nói đến chất trữ tình là nói đến cảm xúc
mãnh liệt, những hình ảnh gợi cảm hấp dẫn. Với thể thơ trữ tình chính luận, những lý lẽ không thể hiện một
cách khô khan mà bằng hình ảnh đầy sức gợi cảm, bằng những cảm xúc dạt dào.
III. Kết bài
Trải qua hơn nửa thế kỉ với bao thăng trầm của lịch sử, bao nhiêu biến đổi của lòng người, có nhiều
tác phẩm trong đó không còn gía trị như xưa, mà trở nên lạc hậu với thời cuộc , vô tình bị trôi vào dĩ vãng.
Nhưng có những tác phẩm cho đến ngày hôm nay vẫn còn nguyên giá trị của nó, vẫn được độc giả tìm đến
với sự ngưỡng mộ , trân trọng. Và “Đất nước” chính là tác phẩm như thế, đặc biệt qua những phát hiện đôc
đáo về không gian danh thắng khiến “Đất nước” càng trở nên tuyệt đẹp và thiêng liêng hơn bao giờ hết.