You are on page 1of 16

ĐẤT NƯỚC

-Nguyễn Khoa Điềm-

Phân tích 9 câu thơ đầu Đất Nước

Dàn ý
I. MB.
- Giới thiệu tác giả và tác phẩm
- Tư tưởng Đất nước của nhân dân
- Đề bài
II. TB.
1. Vị trí, ND chủ đạo :
- Vị trí : Phần đầu của chương Đất nước, là những băn khoăn trăn trở: đất nước có từ bao giờ?
Ai là người đã tạo ra đất nước? Đất nước có từ đâu ?
- ND : lần trở về quá khứ, cho chúng ta thấy một chân lý giản dị: Đất nước được khai sinh bởi
Nhân dân.
2. Cảm nhận cụ thể
- 2 câu đầu :
+ vang lên như 1 chân lí : con người ai sinh ra đều là người con của Đất Nước
+ nhịp điệu của truyện cổ tích
Bài học đường đời, đạo lí tốt đẹp , ngôn ngữ của dân tộc.
- 2 câu tiếp : Đất Nước bắt đầu và lớn lên từ miếng trầu, cây tre.
+ Miếng trầu : hình ảnh giản dị, rất đỗi bình thường
miếng trầu là quá khứ, là hiện tại và là tương lai , tình bạn, tình yêu lứa đôi, đạo lý uống nước
nhớ nguồn chẳng phải là cội nguồn sâu xa nhất của đất nước hay sao?
+ Cây tre: quen thuộc, bình dị.
biểu tượng của làng quê, biểu tượng cho nhân dân Việt Nam – kiên cường bất khuất: ý chí,
dáng đứng của con người Việt Nam
- 4 câu còn lại : nền văn hóa lúa nước
+ Búi tóc : gọn gàng, tròn đầy, phù hợp với công việc đồng áng – thời tiết
+ Gừng cay muối mặn : gia vị hàng ngày trong cuộc sống => tình cảm vợ chồng
+ Cái kèo cái cột .. : nhắc nhở con người về quê hương, dân tộc
+ Hạt gạo : biểu tượng của cuộc sống ấm no, trù phú => sự vất vả, nhọc nhằn của nhân dân.
3. Những nét mới mẻ trong tư tưởng đất nước của nhân dân:

Liên hệ đăng kí học: 0983608059 1


- Gắn với những yếu tố văn hoá – của nhân dân
- Sử dụng chất liệu văn hoá dân gian
III.Kết bài

1. Mở bài.
“Đất nước tôi thon thả giọt đàn bầu”, “quê hương là chùm khế ngọt” …“Đất Nước” là hình tượng trữ
tình lớn, là cảm xúc nghệ thuật cao cả và mê say của nhiều thế hệ thơ Việt Nam, trong đó có Nguyễn Khoa
Điềm. Nguyễn Khoa Điềm thuộc thế hệ thơ trẻ chống Mỹ, nổi bật ở ông là chất thơ trữ tình chính luận vừa
chặt chẽ vừa phóng túng, vừa lắng đọng cảm xúc vừa giàu suy tư trăn trở. Viết về Đất nước, ông đã có nhận
thức sâu xa “Đất Nước của Nhân dân”. Tất cả những tư tưởng độc đáo, mới mẻ ấy có lẽ đã được dồn nén trong
đoạn thơ đầu của đoạn trích.
2. Hoàn cảnh ra đời, cảm hứng chủ đạo
Trường ca “Mặt đường khát vọng” được Nguyễn Khoa Điềm hoàn thành ở chiến khu Trị Thiên năm
1971. Tư tưởng “đất nước của nhân dân” là việc trả lại cho đất nước người chủ nhân đích thực đó là nhân dân,
nhân dân không chỉ là người đã tạo ra đất nước mà còn gìn giữ bảo vệ đất nước trong suốt tiến trình lịch sử.
Tư tưởng này không chỉ có ý nghĩa thôi thúc thế hệ trẻ trong đô thị miền Nam tham gia vào cuộc đấu tranh
giải phóng đất nước lúc bấy giờ mà còn có ý nghĩa nhận thức lâu dài với con người VN vốn yêu tha thiết Tổ
quốc mình.
3.Thân bài
3.1. 9 CÂU THƠ ĐẦU
A. Vị trí đoạn thơ, nội dung chủ đạo.
Đoạn thơ nằm ở phần đầu của chương Đất nước, có nhiệm vụ dẫn dắt mạch suy tư trăn trở: đất nước
có từ bao giờ? Ai là người đã tạo ra đất nước? Đất nước có từ đâu ?
- Thông thường các nhà tư tưởng, nhà thơ lại xác định đất nước gắn với các triều đại, những
người anh hùng, ví như: thiên thư – đế cư; hai vầng nhật nguyệt chói loà – một mối xa đồ sộ rồi “Triệu Đinh
Lý Trần bao đời gây nền độc lập”.
Nguyễn Khoa Điềm dường như có cách lý giải khác, lần trở về quá khứ, thủa khai thiên lập địa của
con người, thủa những Việt đầu tiên đặt chân lên mảnh đất Việt, xây dựng đất nước bằng chính cuộc đời mình:
yêu thương, đoàn kết, thuỷ chung, cần cù chăm chỉ, những phẩm chất đã làm nên tính cách con người Việt
Nam – Đất Nước Việt Nam. Nói cách khác, Nguyễn Khoa Điềm cho chúng ta thấy một chân lý giản dị: Đất
nước được khai sinh bởi Nhân dân.

B. Cảm nhận cụ thể:


Hai câu thơ mở đầu

Liên hệ đăng kí học: 0983608059 2


“Khi ta lớn lên đất nước đã có rồi
có trong những cái ngày xửa ngày xưa mẹ thường hay kể”
“Ngày xửa ngày xưa…” là nhịp điệu ngàn đời của lời kể cổ tích có khả năng ngân vang trong tâm thức
của người Việt 1 không gian riêng của cô tấm và quả thị, của chú bé vươn vai thành tráng sĩ, 1 thời gian riêng
của thưở khai thiên lập địa để rồi người đọc lặng đi xúc động trước 1 cách định nghĩa Đất Nước một cách bất
ngờ….Sau trạng ngữ chỉ thời gian "Ngày xửa ngày xưa"..., lời kể của mẹ được chuyển sang cho người đọc tự
liên tưởng, hình dung về bao hình tượng đẹp một thời làm xôn xao tuổi mộng vàng như Thánh Gióng, Sọ Dừa,
Mai An Tiêm... Cả một nền văn hoá, văn học dân gian với bao thần thoại, truyền thuyết phong phú làm sao
có thể gói trọn và trao cho người đọc chiếc chìa khoá để tự mình khám phá cái kho tàng văn hoá phong phú
tổ tiên trao lại. Lần về mảnh vườn cổ tích ấy, những ai có lòng chắc chắn sẽ tự mình chắt chiu được những
giọt mật mà bồi dưỡng tâm hồn thiện chân, tìm đến một lẽ sống đẹp. Rồi chính trong những câu chuyện ấy là
tiếng Việt ngọt ngào để lại cho con cháu, để ta qua bao nhiêu năm tháng thăng trầm vẫn có thứ tiếng riêng.
Và Đất nước có từ ngày đó.

Nguyễn Khoa Điềm xác định cái buổi ban đầu của Đất nước qua một nét sống giản dị nhưng đậm đà
của những người mẹ, người bà Việt Nam hay cây tre thân thuộc của mỗi làng quê:
Đất Nước bắt đầu với miếng trầu bây giờ bà ăn
Đất Nước lớn lên khi mình biết trồng tre mà đánh giặc
Không ai lấy tiêu chuẩn đo lường của nhà khoa học để bắt bẻ thi nhân. Những hình tượng
bình thường quen thuộc trong đời sống của nhân dân Việt Nam, nhưng mãi cho đến khi Nguyễn Khoa Điềm
phát biểu, cái chân lí ngỡ là hiển nhiên đấy, người đọc lắng lại một khoảnh khắc, sau đó nhận ra bao điều thú
vị. Bởi lẽ, thẩm thấu vào các tế bào mỏng manh ấy, là những mối quan hệ tình nghĩa truyền thống đẹp của
con người Việt Nam. Miếng trầu xuất hiện không chỉ trong giao tiếp hàng ngày “miếng trầu là đầu câu chuyện”
mà còn hiện lên trên bàn thờ gia tiên của mỗi gia đình trong những dịp lễ tết – như tấm lòng thành kính của
con cháu gửi đến các bậc tiền nhân, thậm chí trong đám cưới dám hỏi bởi “miếng trầu nên dâu nhà người”.
Để rồi khi họ về già, thong thả nhai miếng trầu, nhớ buổi thanh xuân tình nồng nghĩa đượm, mà đột nhiên nở
nụ cười mãn nguyện chuyện tình xưa. Chẳng phải từ miếng trầu là quá khứ, là hiện tại và là tương lai , tình
bạn, tình yêu lứa đôi, đạo lý uống nước nhớ nguồn chẳng phải là cội nguồn sâu xa nhất của đất nước hay sao?

Nhà thơ lại liên tưởng song hành về sự lớn mạnh của đất nước từ buổi "dân mình biết trồng tre
mà đánh giặc". Đất nước Việt có điều kiện thổ nhưỡng phù hợp tạo điều kiện cho cây tre sinh sôi phát triển
khắp mọi miền của Tổ Quốc, đem lại một màu xanh bát ngát cho quê hương. Nguyễn Duy cũng từng trăn trở
về những phẩm chất kì lạ của cây tre Việt :
Tre xanh xanh tự bao giờ?

Liên hệ đăng kí học: 0983608059 3


Chuyện ngày xưa đã có bờ tre xanh
Cây tre hiền hậu trên mỗi làng quê. Nó như là sự đồng hiện những phẩm chất đôi khi ngỡ là đối lập
trong cốt cách con người Việt Nam: thật thà chất phác, đôn hậu thuỷ chung, yêu chuộng hoà bình như cây tre
mềm mại để hoá thành những vật dụng xinh xắn trong cuộc sống con người. Đến khi cả dân tộc lên đường ra
trận, quyết giành lại độc lập tự do, thì tre cũng đứng thẳng hiên ngang bất khuất cùng chia lửa với dân tộc Việt
, thậm chí "một cây chông cũng tiến công giặc Mỹ ", bởi "nòi tre đâu chịu mọc cong, chưa lên đã nhọn như
chông lạ thường". Thế là từ cây tre, đất nước mình cứ thế lớn lên.

Từ những giá trị vật chất bình dị thân quen, Nguyễn Khoa Điềm gắn dòng suy tưởng đến
con người ngàn đời cư trú, lao động, chiến đấu trên mảnh đất Việt để giữ gìn tôn tạo mảnh đất thân yêu. Đó
không ai khác là những người mẹ, người cha một đời kính trọng thuỷ chung, "thương nhau bằng gừng cay
muối mặn". Tình cảm chân thành ấy không phải là lớp son phấn với "sắc màu lộng lẫy, sáo ngữ ồn ào", mà là
những nét duyên như búi tóc mẹ bới sau đầu gọn gàng ý nhị, đủ để làm cho con tim xao xuyến khi gần nhau,
và khi xa thì không bao giờ nguôi ngoai nhung nhớ, để rồi họ bật lên những câu ca dao nghe như muối xát
tâm can “gừng cay muối mặn xin đừng quên nhau” .
Nguyễn Khoa Điềm lại có một cách nhìn thấu triệt theo thời gian hao phí lao động để kết
tinh một hạt gạo trắng trong. Nó phải trải qua bao nắng sương vất vả gieo cấy, xay giã, giần sàng. Thắm vào
trong hạt gạo bé nhỏ ấy là mồ hôi vị mặn nhọc nhằn của giai cấp nông dân. Ai ơi bưng bát cơm đầy
Dẻo thơm một hạt đắng cay muôn phần.
Nhà thơ đã cụ thể hoá khái niệm đất nước trừu tượng lớn lao cả về chiều "thời gian đằng đẵng", lẫn
"không gian mênh mông" vào trong những hình ảnh nhỏ bé như hạt gạo, nhưng lấp lánh bao tầng ý nghĩa sâu
sắc, có giá trị biểu trưng những nét bản chất và tinh hoa của dân tộc, của Đất Nước Việt Nam. Nhân dân lao
động gắn mình trong môi trường đất đai từ đời này qua đời khác, sẽ định hình nên những nét cốt cách của con
người Việt . Họ yêu quý đất đến mức xem "Tấc đất tấc vàng". Và vì vậy, họ sẵn sàng hiến thân vì non sông
đất nước như.

C. Nhận xét về độc đáo trong cách cảm nhận Đất nước của nhân dân:
Nét độc đáo trong tư tưởng Đất nước của nhân dân chính là việc tác giả tập trung vào Văn hoá – tổng
hòa của những yếu tố vật chất và tinh thần được nhân dân ta gìn giữ qua năm tháng – Văn hóa chính là bản
sắc, tâm hồn của một dân tộc. Nhắc đến Việt Nam không chỉ nhắc tới thời gian 4000 năm anh hùng dựng nước
và giữ nước, chúng ta còn vô cùng tự hào về một bề dày văn hóa vừa thơ mộng vừa đậm đà, vừa đặc sắc vừa
nhân văn. Biết bao kẻ đã dã tâm xâm lược nước ta, nhưng với một gốc rễ văn hóa sâu sắc xuất phát từ nhân
dân, không một thế lực nào có thể “đồng hóa”, “nô lệ” được dân tộc ta. Nói cách khác, mạch ngầm duy trì sự
tồn tại, phát triển của một tính cách, một suy nghĩ, một dân tộc, chính là văn hóa. Đoạn thơ có 9 câu ngắn gọn,

Liên hệ đăng kí học: 0983608059 4


nhưng cả một nền văn hoá Việt đã hiện lên, mà nơi thể hiện sâu đậm nhất tâm hồn nhân dân chính là văn hoá
dân gian, lấp lánh những chất liệu văn hóa dân gian. Văn hoá dân gian thấm thía vào hệ thống từ vựng, cấu
trúc hình tượng rải khắp bài thơ khiến nhân dân hiện diện khắp nơi, trở thành chủ nhân, thành linh hồn Đất
Nước. Đó là nền văn hóa gốc nông nghiệp cần có “đất và nước”, gắn với nền văn minh lúa nước, với hình
tượng miếng trầu cây tre, búi tóc hạt gạo . Đó là nền văn hóa luôn gắn bó chặt chẽ với thiên nhiên, giản dị mà
thân thuộc, trọng hòa bình, tình cảm hơn là chiến tranh, bạo lực.
Cũng chính chất liệu văn hoá còn ùa vào cả phương diện nghệ thuật. Mỗi sợi dọc sợi ngang dệt nên
hình tượng thơ NKĐ đều óng ánh sắc màu đặc biệt của văn hóa dân gian_đó lại là 1 sức hút nữ của “Đất
Nước”. Vốn văn hoá dân gian phong phú đã hỗ trợ đắc lực cho NKĐ đưa vào đoạn thơ ở mức độ đậm đặc
những yếu tố của truyện cổ tích, truyền thuyết, huyền thoại, ca dao, dân ca, phong tục tập quán,……….tạo
nên 1 khí quyển dân gian độc đáo đầy quyến rũ. Thơ cổ thường dùng thường dùng những hình ảnh ước lệ cao
xa, tạo 1 khoảng cánh thiêng để diễn tả niềm ngưỡng vọng vô biên của con người đối với giang sơn Tổ quốc.
Hệ thống ngôn từ mới mẻ của NKĐ lại mang nỗ lực xoá nhoà khoảng cách để bình dị hoá đất nước, để đất
nước hoà thân vào cổ tích, ca dao, dân ca, vào đời sống hằng ngày. Nhà thơ đã có công đưa đất nước từ trời
cao thượng đế, từ ngai vàng vua chúa xuống miếng trầu của bà, búi tóc của mẹ, xuống cái kèo cột trong nhà
ta ở, xuống hạt gạo 1 nắng 2 sương ta ăn mỗi ngày. Đất Nước ở trên ta mà ở quanh ta, ở trong ta, Đất Nước là
mỗi người, mỗi người là Đất Nước. Thế nên ta hãy:
Ôi Tổ Quốc ta yêu như máu thịt
Như mẹ cha ta như vợ như chồng
Ôi Tổ Quốc nếu cần ta chết
Cho mỗi ngôi nhà ngọn núi con sông
( Sao chiến thắng )
KẾT BÀI:
Điểm đáng chú ý th là tư tưởng Đất Nước của Nhân dân được biểu hiện trong hình thức thơ chính luận
- trữ tình vừa chặt chẽ vừa phóng túng của đoạn trích. Nói đến chất chính luận là nói đến tư duy logic, những
lý lẽ, dẫn chứng, đưa ra thuyết phục người đọc, ở đây, nhà thơ đã dùng sự chặt chẽ của lập luận, phân tích một
cách toàn diện đất nước trên cả 3 phương diện: địa lý, lịch sử và văn hoá. Nói đến chất trữ tình là nói đến cảm
xúc mãnh liệt, những hình ảnh gợi cảm hấp dẫn. Với thể thơ trữ tình chính luận, những lý lẽ không thể hiện
một cách khô khan mà bằng hình ảnh đầy sức gợi cảm, bằng những cảm xúc dạt dào.

Liên hệ đăng kí học: 0983608059 5


ĐỀ: NHỮNG SUY NGẪM CỦA NHÀ THƠ VỀ LỊCH SỬ VĂN HÓA TRONG MỐI QUAN
HỆ VỚI CUỘC SỐNG CỦA NHÂN DÂN.
Dàn ý
I. MB.
- Giới thiệu tác giả và tác phẩm
- Tư tưởng Đất nước của nhân dân
- Đề bài
II. TB.
1. Vị trí, cảm xúc chủ đạo :
+ Vị trí : câu 67-90
+ Cảm xúc chủ đạo : đi tìm vị trí và vai trò của nhân dân trong 4000 năm lịch sử
2.“ Em ơi em … Họ đã làm ra Đất Nước ’’: Những phát hiện mới mẻ và độc đáo về công lao đóng góp
của nhân dân trên bình diện lịch sử “ Em ơi em … Họ đã làm ra Đất Nước ’’
+ Họ là những con người vô danh “ cần cù làm lụng’’, đánh giặc ’’, “ nuôi con ’’,.. làm nên dáng hình
đất nước.
=> Sự bền bỉ, gan góc, hi sinh thầm lặng của nhân dân
3. Đoạn thơ còn lại : “ Họ giữ và truyền ..trên tram dáng song xuôi ’’: Những phát hiện mới mẻ và độc
đáo về công lao đóng góp của nhân dân trên bình diện văn hóa
+ Họ lưu truyền văn hóa , lịch sử từ đời này sang đời khác: Giữ và truyền hạt lúa, truyền hòn than,
truyền giọng nói,…
4.Đúc kết nên tư tưởng : Đất nước của nhân dân
+ Khẳng định lại công lao của nhân dân.
+ Qua ca dao thần thoại, nhân dân đem đến những bài học, đạo lí làm người.
5. Những nét mới mẻ trong tư tưởng đất nước của nhân dân:
- Gắn với những yếu tố văn hoá
- sử dụng chất liệu văn hoá dân gian
III.Kết bài

1.MB
“Đất nước tôi thon thả giọt đàn bầu”, “quê hương là chùm khế ngọt” …“Đất Nước” là hình tượng trữ
tình lớn, là cảm xúc nghệ thuật cao cả và mê say của nhiều thế hệ thơ Việt Nam, trong đó có Nguyễn Khoa
Điềm. Ông thuộc thế hệ thơ trẻ chống Mỹ, nổi bật ở ông là chất thơ trữ tình chính luận vừa chặt chẽ vừa phóng

Liên hệ đăng kí học: 0983608059 6


túng, vừa lắng đọng cảm xúc vừa giàu suy tư trăn trở. Viết về chương Đất Nước -1971 trích trong trường ca
“ Mặt đường khát vọng ’’, ông đã có nhận thức sâu xa về tư tưởng “Đất Nước của Nhân dân”. Đặc biệt qua
những suy ngẫm về lịch sự văn hóa trong mối quan hệ với cuộc sống nhân dân.
2. Hoàn cảnh ra đời, cảm hứng chủ đạo
.Trường ca “Mặt đường khát vọng” được Nguyễn Khoa Điềm hoàn thành ở chiến khu Trị Thiên năm
1971với tư tưởng “Đất nước Nhân dân”. Tư tưởng này không chỉ có ý nghĩa thôi thúc thế hệ trẻ trong đô thị
miền Nam tham gia vào cuộc đấu tranh giải phóng đất nước lúc bấy giờ mà còn có ý nghĩa nhận thức lâu dài
với con người VN vốn yêu tha thiết Tổ quốc mình. Tư tưởng “đất nước của nhân dân” là việc trả lại cho đất
nước người chủ nhân đích thực đó là nhân dân, nhân dân không chỉ là người đã tạo ra đất nước mà còn gìn
giữ bảo vệ đất nước trong suốt tiến trình lịch sử.
3.Thân bài
A. Vị trí đoạn thơ, nội dung chủ đạo
Ở phần thơ trước, tác giả đã có những lí giải vô cùng mới mẻ và độc đáo về không gian và thời gian
của Đất Nước và từ đó khẳng định : trong mỗi người đều có một phần Đất Nước, Đất Nước là máu xương của
chúng ta. Còn ở phần thơ này , Nguyễn Khoa Điềm đã đi tìm vị trí và vai trò của nhân dân trong 4000 năm
lịch sử. Đó chính là câu trả lời cho những băn khoăn , trăn trở : Ai là người đã tạo ra đất nước? Đất nước có
từ đâu ? Vai trò của nhân dân là gì? Thông thường các nhà tư tưởng, nhà thơ lại xác định đất nước gắn với các
triều đại, những người anh hung:
Triệu Đinh Lý Trần bao đời gây nền độc lập
Cùng Hán, Đường, Tống, Nguyên mỗi bên xưng đế một phương
Nguyễn Khoa Điềm dường như có cách lý giải khác, lần trở về quá khứ, thủa những Việt đầu tiên đặt
chân lên mảnh đất Việt, xây dựng đất nước bằng chính cuộc đời mình: yêu thương, đoàn kết, thuỷ chung, cần
cù chăm chỉ, những phẩm chất đã làm nên tính cách con người Việt Nam – Đất Nước. Nói cách khác, nhà thơ
cho chúng ta thấy một chân lý giản dị: Đất nước được khai sinh bởi Nhân dân.
B. Cảm nhận cụ thể:
“ Thời gian đằng đẵng ’’ còn vươn dài suốt 4000 năm để dẫn tới những phát hiện mới về lịch sử văn
hóa. Trước hết là phát hiện về lịch sử. Người xưa thường tổng kết lịch sử bằng vai trò của các cá nhân anh
hùng, các bậc đế vương, các triều đại. Tất cả đều gắn với những chiến công , gắn với những những mốc son
chói lọi trong lịch sử dân tộc khiến mỗi chúng ta đều không khỏi tự hào, ngưỡng mộ.
Khi Nguyễn Trãi làm thơ và đánh giặc
Khi Nguyễn Du viết Kiều đất nước hóa thành văn
Khi Quang Trung cưỡi voi vào cửa bắc
Hưng Đạo diệt quân nguyên trên sóng Bạch Đằng

Liên hệ đăng kí học: 0983608059 7


Nguyễn Khoa Điềm không phủ nhận điều đó nhưng ông lại tổng kết lịch sử bằng vai trò của vô vàn
những con người bình dị vô danh :
Nhưng em biết không
Có biết bao người con gái con trai
Trong 4000 lớp người giống ta lứa tuổi
Họ đã sống và chết
Giản dị và bình tâm
Không ai nhớ mặt đặt tên
Nhưng chính họ đã làm ra Đất Nước.
Những con người không tên vùi mình vào cát, vào cỏ , không đền đài, không bia tượng , nhưng núi
sông này làm nên từ máu xương của họ, từ mồ hôi nước mắt của họ. Họ đã “cần cù làm lụng ’’, “ đánh giặc
’’, “ nuôi con ’’, “giặc đến nhà đàn bà cũng đánh” - làm nên dáng hình đất nước. Ta có thể gặp họ trong những
“nhân dân bốn cõi một nhà, dựng cần trúc ngọn cờ phấp phới” (Bình Ngô đại cáo), trong “chẳng đợi ai đòi ai
bắt, phen này xin ra sức đoạn kình” (Văn tế nghĩa sĩ Cần Guộc) hay những người dân nghĩa tình “hắt hiu lau
xám đậm đà lòng son” (Việt Bắc), cũng có thể là một người lái đò trên sông Đà của Nguyễn Tuân hay một bà
mẹ Tơm của Tố Hữu. Có biết bao áng thơ hay ngợi ca nhân dân:
Và cứ thế nhân dân thường ít nói
Như mẹ tôi lặng lẽ suốt đời
Và cứ thế nhân dân cao vời vợi
Hơn cả những vì sao cô độc trên trời
Nhưng có lẽ chưa tác phẩm nào lại tổng kết vai trò vĩ đại của nhân dân một cách sâu sắc và toàn diện
(trên cả chiều dài của thời gian lịch sử, chiều rộng của không gian địa lý) như chương Đất Nước của Nguyễn
Khoa Điềm, từ “thời gian đằng đẵng” đến “không gian mênh mông”, từ cuộc sống sinh hoạt hàng ngày (đến
trường, tắm, hò hẹn) hay sinh hoạt chung của cộng đồng (đoàn tụ), đến những danh lam thắng cảnh, từ thủa
khai thiên lập địa đến chiều dài 4000 năm rất đỗi tự hào. Chính vì thế ta có thể khẳng định: Trong đoạn thơ
Nguyễn Khoa Điềm đã cố gắng thể hiện hình ảnh Đất nước gần gũi, giản dị. Đó là cách để đi vào lòng người,
cũng là cách nhà thơ đi con đường riêng của mình không lặp lại người khác.

Một nét mới mẻ đáng quý của Nguyễn Khoa Điềm là ông đã di chuyển cách nhìn nhân dân từ vai trò
lịch sử sang vai trò văn hóa bằng lối diễn đạt đầy hình tượng:
Họ giữ và truyền cho ta hạt lúa ta trồng
Họ truyền lửa cho mỗi nhà từ hòn than qua con cúi
Họ truyền giọng điệu mình cho con tập nói

Liên hệ đăng kí học: 0983608059 8


Họ gánh theo tên xã, tên làng trong mỗi chuyến di dân
Họ đắp đập be bờ cho người sau trông cây hái trái.
Một hệ thống đại từ được lặp lại : Năm chữ “ họ’’liên tiếp đặt đầu năm câu thơ thể hiện thái độ tôn
xưng nhân dân – người sáng tạo ra mọi giá trị vật chất và tinh thần cho đất nước; cùng với đó là một hệ thống
động từ dày đặc “ giữ, truyền, chuyền, gánh, đắp , be …’’ – những công việc tưởng chừng giản dị, mộc mạc
mà rất thiêng liêng, khiêm nhường khi đặt cạnh “ làm thơ’’, “ đánh giặc’’, “ viết Kiều’’, “ chống quân
Nguyên’’.
Khi Nguyễn Trãi làm thơ và đánh giặc
Khi Nguyễn Du viết Kiều đất nước hóa thành văn
Khi Quang Trung cưỡi voi vào cửa bắc
Hưng Đạo diệt quân nguyên trên sóng Bạch Đằng
Nhưng nên nhớ rằng, những người anh hùng chỉ có vai trò trong một thời điểm lịch sử nhất định, còn
“Họ” – “nhân dân” đã gánh vác “đất nước trên đôi vài mình” trong suốt 4000 năm. Mặt khác, những hoạt
động ấy lại đang lưu truyền văn hóa, lịch sử từ đời này qua đời khác giống như một cuộc chặng tiếp sức lịch
sử không mệt mỏi của nhân dân qua các thời đại để lưu truyền mãi ngọn lửa văn hóa. Họ đã : giữ và truyền
hạt lúa, truyền lửa, hòn than, truyền giọng điệu , gánh tên làng tên xã, đắp đập be bờ, chống ngoại xâm, nội
thù, dạy văn hóa, cách ứng xử. Những điều đó nhìn thoáng qua tưởng chừng rất nhỏ bé nhưng không thể thiếu
trong cuộc sống của mỗi người. Đó là hạt gạo ta ăn hàng ngày, là ngọn lửa trong mỗi bếp nhà, giọng điệu
chúng ta nói, cái tên chúng ta gọi, là tư tưởng yêu nước chống giặc ngoại xâm, cách ứng xử, tình yêu giữa mọi
người . Vậy là nhân dân vừa gieo trồng vừa gặt hái, vừa là viện bảo tàng nhiều giá trị vật chất, tinh thần cho
ngàn đời .

Mạch cảm xúc, suy ngẫm cứ dồn tụ dần để rồi cuối cùng bật lên tư tưởng:
Để Đất Nước này là Đất Nước Nhân dân
Đất Nước của Nhân dân, Đất Nước của ca dao thần thoại
Nhà thơ đã khẳng định chủ nhân đích thực của Đất Nước bằng một nguyên nhân giản dị mà sâu sắc:
Đất Nước này do nhân dân dựng xây và gìn giữ, kiến tạo và bảo vệ bởi tình yêu và nỗi đau, bằng nước mắt,
mồ hôi, xương máu của vô vàn những con người thầm lặng, đói nghèo nhưng nghĩa tình trung hậu, của những
số phận bất hạnh khổ đau mà dũng cảm kiên cường. Qua đó, Nguyễn Khoa Điềm bỗng làm sáng lên vẻ đẹp
của tâm hồn và tính cách con người Việt Nam: yêu say đắm mà thủy chung nghĩa tình, song với kẻ thù thì đấu
tranh quyết liệt . Điều thú vị nhất là những nét đẹp ấy lại thấm đẫm trong thi liệu văn hóa dân gian khiến cảm
hứng thi ca như cơn lũ tràn qua bờ đâp ngôn từ:
Dạy anh biết “yêu em từ thuở trong nôi”
Biết quý công cầm vàng những ngày lặn lội

Liên hệ đăng kí học: 0983608059 9


Biết trồng tre đợi ngày thành gậy
Đi trả thù mà không sợ dài lâu.

C. Những nét mới mẻ trong tư tưởng đất nước của nhân dân:
Nhắc đến Việt Nam không chỉ nhắc tới thời gian 4000 năm anh hùng dựng nước và giữ nước, ta còn
vô cùng tự hào về một bề dày văn hóa vừa thơ mộng vừa đậm đà, vừa đặc sắc vừa nhân văn. Văn hoá dân gian
thấm thía vào hệ thống từ vựng, cấu trúc hình tượng rải khắp bài thơ khiến nhân dân hiện diện khắp nơi, trở
thành chủ nhân, thành linh hồn Đất Nước.Đó là nền văn hóa gốc nông nghiệp cần có “ đất và nước ’’, gắn với
nền văn minh lúa nước, đó là nền văn hóa luôn gắn bó chặt chẽ với thiên nhiên, giản dị mà thân thuộc, trọng
hòa bình, tình cảm hơn là chiến tranh, bạo lực.
Cũng chính chất liệu văn hoá còn ùa vào cả phương diện nghệ thuật. Mỗi sợi dọc sợi ngang dệt nên
hình tượng thơ NKĐ đều óng ánh sắc màu đặc biệt của văn hóa dân gian_. Thơ cổ thường dùng những hình
ảnh ước lệ cao xa, tạo 1 khoảng cánh thiêng để diễn tả niềm ngưỡng vọng vô biên của con người đối với giang
sơn Tổ quốc. Hệ thống ngôn từ mới mẻ của NKĐ lại mang nỗ lực xoá nhoà khoảng cách để bình dị hoá đất
nước, để đất nước hoà thân vào ca dao, dân ca, vào đời sống hằng ngày. Đất Nước vì thế mà là mỗi người,
mỗi người là Đất Nước. Thế nên ta hãy:
Ôi Tổ Quốc ta yêu như máu thịt
Như mẹ cha ta như vợ như chồng
Ôi Tổ Quốc nếu cần ta chết
Cho mỗi ngôi nhà ngọn núi con sông

Điểm đáng chú ý thứ hai là tư tưởng Đất Nước của Nhân dân được biểu hiện trong hình thức thơ chính
luận - trữ tình vừa chặt chẽ vừa phóng túng. Nói đến chất chính luận là nói đến tư duy logic, những lý lẽ, dẫn
chứng, đưa ra thuyết phục người đọc, ở đây, nhà thơ đã dùng sự chặt chẽ của lập luận, phân tích một cách
toàn diện đất nước trên cả 3 phương diện: địa lý, lịch sử và văn hoá. Nói đến chất trữ tình là nói đến cảm xúc
mãnh liệt, những hình ảnh gợi cảm hấp dẫn. Với thể thơ trữ tình chính luận, những lý lẽ không thể hiện một
cách khô khan mà bằng hình ảnh đầy sức gợi cảm, bằng những cảm xúc dạt dào.
4.KB
Trải qua hơn nửa thế kỉ với bao thăng trầm của lịch sử, bao nhiêu biến đổi của lòng người, có nhiều
tác phẩm trong đó không còn gía trị như xưa, mà trở nên lạc hậu với thời cuộc , vô tình bị trôi vào dĩ vãng.
Nhưng có những tác phẩm cho đến ngày hôm nay vẫn còn nguyên giá trị của nó, vẫn được độc giả tìm đến
với sự ngưỡng mộ , trân trọng. Và “Đất nước” chính là tác phẩm như thế. Đặc biệt qua những suy ngẫm về
lịch sử văn hóa khiến “Đất nước” trở nên tuyệt đẹp và thiêng liêng hơn bao giờ hết.

Liên hệ đăng kí học: 0983608059 10


Đề: Những cảm nhận mới mẻ, những phát hiện độc đáo về không gian địa lí của Đất Nước
trong mối quan hệ với Nhân Dân.
* DÀN Ý:
1. Không gian danh thắng của Đất Nước:
a) Vị trí, cảm xúc chủ đạo:
- Câu 55• câu 66
- Nhân dân “ chắt chiu nên sông núi, quặn đẻ ra giang sơn”
b) 8 câu thơ đầu : “Những người vợ nhớ chồng…… Ông Trang, Bà Đen, Bà Điểm”
- Những địa danh vừa quen lại vừa lạ:
+ Quen bởi: là những danh lam thắng cảnh quen thuộc, gần gửi của đất nước ta
+Lạ bởi: nó được “GÓP”: “góp cho”, “góp nên”, “góp tên”, “góp mình”… bởi những con người bình
dị, chủ nhân của những chứ “góp” ấy chính là Nhân Dân.
* Câu 1+2:
“ Những người vợ nhớ chồng còn góp cho Đất Nước những núi Vọng Phu
Cặp vợ chồng yêu nhau góp nên hòn Trống Mái”
- Sự thủy chung • truyền thống của người phụ nữ VN
- Đức hi sinh • cái bé nhỏ hòa vào cái to lớn
- Tình nghĩa – tình thương:
Liên hệ : “Cha mẹ thương nhau bằng gừng cay muối mặn”
• Tình cảm gia đình – tình cảm thiêng liêng – nền tảng cho đất nước bền vững.
* Câu 3+4+6:
“Gót ngựa của Thánh Gióng đi qua còn trăm ao đầm để lại
Chín mươi chín con voi góp mình dựng Đất tổ Hùng Vương
Người học trò nghèo giúp cho Đất Nước mình núi Bút non Nghiên.”
• Truyền thống con người Việt:
- Truyền thống yêu nươc, đánh giặc
- Truyền thống “uống nước nhớ nguồn”, “ăn quả nhớ kẻ trồng cây”
- Truyền thống hiếu học
* Câu 5+7+8:
“Những con rồng nằm im góp dòng sông xanh thẳm
Con cóc, con gà quê hương cùng góp cho Hạ Long thành thắng cảnh
Những người dân nào đã góp tên Ông Đốc, Ông Trang, Bà Đen, Bà Điểm.”
- Thể hiện lòng biết ơn của con người với sự hào phóng của thiên nhiên

Liên hệ đăng kí học: 0983608059 11


- Biết ơn những con người đã mở rộng bờ cõi, khai sinh ra đất nước.
c) 4 câu thơ sau:
“Và ở đâu trên khắp ruộng đồng gò bãi
Chẳng mang một dáng hình, một ao ước, một lối sống ông cha
Ôi Đất Nước sau bốn ngàn năm đi đâu ta cũng thấy
Những cuộc đời đã hóa núi sông ta…”
• Chủ nhân đích thực của đất nước chính là Nhân Dân
- Đất nước được nhìn ở thể toàn vẹn, thống nhất, không thể tách rời
• Chúng ta cần có trách nhiệm bảo vệ, giư gìn đất nước.
2. Cái nhìn mới mẻ, độc đáo của phương thức tư duy hiện đại:
- Điệp từ “góp”: “góp cho”, “góp nên”, “góp tên”… và chủ thể của sự đóng góp ấy là “người vợ nhớ
chồng”, “cặp vợ chồng yêu nhau”, “người học trò nghèo”…, tất cả đều vô danh, đó chính là Nhân Dân.
- Những danh lam thắng ảnh được nhìn nhận như một phần tâm hồn, máu thịt của Nhân Dân.
- Tư tưởng Đât Nước của Nhân Dân được thể hiện ở bình diện không gian, chính Nhân Dân đã làm
nên Đất Nước muôn đời.
3. Những nét mới mẻ trong tư tưởng đất nước của nhân dân:
- Gắn với những yếu tố văn hoá
- sử dụng chất liệu văn hoá dân gian

BÀI LÀM:
I. Mở bài
“Đất nước tôi thon thả giọt đàn bầu”, “quê hương là chùm khế ngọt” …“Đất Nước” là hình tượng trữ
tình lớn, là cảm xúc nghệ thuật cao cả và mê say của nhiều thế hệ thơ Việt Nam, trong đó có Nguyễn Khoa
Điềm. Nguyễn Khoa Điềm thuộc thế hệ thơ trẻ chống Mỹ, nổi bật ở ông là chất thơ trữ tình chính luận vừa
chặt chẽ vừa phóng túng, vừa lắng đọng cảm xúc vừa giàu suy tư trăn trở. Viết về Đất nước, ông đã có nhận
thức sâu xa “Đất Nước của Nhân dân” đặc biệt là những cảm nhận mới mẻ, những phát hiện độc đáo về không
gian địa lí của Đất Nước trong mối quan hệ với Nhân Dân.
II. Thân bài
1. Hoàn cảnh sáng tác, cảm xúc chủ đạo
Trường ca “Mặt đường khát vọng” được NKĐ hoàn thành ở chiến khu Trị Thiên năm 1971. Tư tưởng
“đất nước của nhân dân” là việc trả lại cho đất nước người chủ nhân đích thực đó là nhân dân, nhân dân không
chỉ là người đã tạo ra đất nước mà còn gìn giữ bảo vệ đất nước trong suốt tiến trình lịch sử. Tư tưởng này
không chỉ có ý nghĩa thôi thúc thế hệ trẻ trong đô thị miền Nam tham gia vào cuộc đấu tranh giải phóng đất
nước lúc bấy giờ mà còn có ý nghĩa nhận thức lâu dài với con người VN vốn yêu tha thiết Tổ quốc mình.

Liên hệ đăng kí học: 0983608059 12


2. Phân tích cụ thể
Nếu như ở phần thơ trước, NKĐ đã có những lý giải vô cùng mới mẻ và độc đáo về thời gian nguồn
cội và không gian tồn tại đất nước, từ đó khẳng định: trong mỗi người đều có một phần đất nước, đất nước là
máu xương của chúng ta, của bà mẹ nhân dân thì ở phần thơ này, (từ câu 55 đến câu 66) tiếp tục là những
khám phá về không gian của đất nước nhưng là không gian của danh lam thắng cảnh với nội dung chủ đạo:
Nhân dân đã “chắt chiu nên sông núi, quặn đẻ ra giang sơn”.

Từ xưa đến nay, những tên núi, tên sông đã in bóng trong thơ ca của dân tộc: “Bạch Đằng giang phú”,
“Nam quốc sơn hà”, “ Qua đèo Ngang”… và mỗi khi nhắc tới những tên núi, tên sông này chúng ta không
khỏi tự hào về những vẻ đẹp thiên nhiên kì thú, mĩ lệ; tự hào về những địa linh nhân kiệt, về chủ quyền dân
tộc, về những chiến công lừng lẫy,… Và trong thơ NKĐ cũng chật ních những địa danh nhưng những địa
danh ấy lại vừa quen, vừa lạ. Quen là bởi đây là những danh lam thắng cảnh quen thuộc, gần gũi của đất nước
nhưng nó được “góp”: “góp cho”, “góp nên”, “góp tên”, “góp mình”… bởi những con người bình dị, là cuộc
sống và tâm hồn của họ, chủ nhân của những chữ “góp” ấy chính là nhân dân - những con người bình thường,
giản dị nhất.

Chọn từ những chất liệu tiêu biểu của văn hóa dân gian, NKĐ giúp người đọc cảm nhận xúc động và
thấm thía những nỗi đau trong cuộc đời, thân phận, những vẻ đẹp tâm hồn, tính cách người Việt:
“Những người vợ nhớ chồng còn góp cho Đất Nước những núi Vọng Phu
Cặp vợ chồng yêu nhau góp nên hòn Trống Mái”
Sự tích hòn Vọng Phu không chỉ gợi ra nỗi xót xa cho cảnh li tán, sự đợi chờ mòn mỏi trong chiến
tranh mà còn ca ngợi tình nghĩa thủy chung của “những người vợ nhớ chồng”, trong bài thơ “Sóng” của Xuân
Quỳnh, nữ sĩ cũng từng viết:
“Nơi nào em cũng nghĩ
Hướng về anh - một phương”
Đối với những người phụ nữ Việt Nam, sự thủy chung có lẽ đã trở thành nét đẹp truyền thống in sâu
trong con người của họ và cùng với đó là đức hi sinh, họ đã hi sinh cái hạnh phúc nhỏ bé của mình để hòa vào
công cuộc xây dựng đất nước to lớn đặc biệt đối với một dân tộc như dân tộc mình, một đất nước như đất
nước ta, năm năm tháng tháng có biết bao cuộc chiến đấu, có bao nhiêu người đàn ông ra trận thì có bấy nhiều
nhười phụ nữ ở nhà chờ đợi mòn mỏi, có bấy nhiêu người vợ nhớ chồng. Cách gọi tên “hòn Trống Mái” của
nhân dân qua cái nhìn của nhà thơ hiện đại đã trở thành biểu tượng cho vẻ đẹp phồn thực của cuộc đời, cho
sự sắt son vĩnh hằng của tình yêu đôi lứa, tượng trưng cho tình cảm gia đình bền vững – là tình cảm vô cùng
thiêng liêng, là nền tảng vững chắc cho công cuộc xây dựng đất nước. Truyền thuyết “Thánh Gióng” – những
câu chuyện gắn liền với huyền thoại, Thánh Gióng ba tuổi vươi vai thành trang sĩ và rồi biết bao nhiêu Thánh

Liên hệ đăng kí học: 0983608059 13


Gióng trong đời thường đã tiếp nối Thánh Gióng trong thần thoại, tiếp nối tinh thần yêu nước của dân tộc ta;
những quả đồi thấp bao quanh núi Hi Cương, nơi có đền thờ các vua Hùng qua cách nhìn của Nhân dân đã trở
thành chứng tích của đàn voi chín mươi chín con quây quần thuần phục, trở thành biểu tượng của lòng dân
đồng thuận hướng về một quốc gia thống nhất, biểu tượng của truyền thống “uống nước nhớ nguồn”, “ăn quả
nhớ kẻ trồng cây”; tên gọi “núi Bút non Nghiên” gợi hình ảnh của một đất nước với nghìn năm văn hiến, với
truyền thống hiếu học lâu đời,hình ảnh của một
“Đất nước lưng đeo gươm, tay mềm mại bút hoa”
Nhà thơ đã nhìn ngắm Đất Nước mình qua các danh thắng trải dài từ Bắc chí Nam. Tất cả các địa
danh được nhắc đến đều gắn liền với một huyền thoại, huyền tích và sự thật về nhân dân trong lịch sử:
“Những con rồng nằm im góp dòng sông xanh thẳm
Con cóc, con gà quê hương cùng góp cho Hạ Long thành thắng cảnh
Những người dân nào đã góp tên Ông Đốc, Ông Trang, Bà Đen, Bà Điểm”
Những hình ảnh liên tưởng vô cùng độc đáo: “những con rồng” là những dòng sông, “con cóc, con
gà” giúp Hạ Long thành danh thắng, “những người dân nào” đã làm nên Nam Bộ. Nguyễn Khoa Điềm đã đưa
đến cho người đọc những phát hiện mới mẻ, từ đó thể hiện lòng biết ơn của con người với sự hào phóng của
thiên nhiên khi: sông Hồng đỏ nặng phù sa, sông Mã bờm ngựa phi cát trắng, sông Cửu Long ăm ắp đầy cá
tôm…; biết ơn những con người đã mở rộng bờ cõi, khai sinh ra đất nước, họ giương buồm ra khơi, khám phá
những miền đất lạ và đặt tên cho chúng theo những gì gần gũi với mình, họ bắt sấu, đào kênh, đoạn kình, bộ
hổ; góp phần tạo nên mảnh đất tia chớp hình chữ S toàn diện.

Ở đây cảnh vật thiên nhiên qua cách nhìn của NKĐ, hiện lên như một phần tâm hồn, máu thịt của nhân
dân . Chính nhân dân đã tạo dựng nên đất nước, đã đặt tên, đã ghi dấu vết cuộc đời mình lên mỗi ngọn núi ,
dòng sông . Từ những hình ảnh, những cảnh vật, những hiện tượng cụ thể, nhà thơ qui nạp thành một khái
quát sâu sắc :
“Và ở đâu trên khắp ruộng đồng gò bãi
Chẳng mang một dáng hình, một ao ước, một lối sống ông cha
Ôi ! Đất nước sau bốn nghìn năm đi đâu ta cũng thấy
Những cuộc đời đã hóa núi sông ta.”
Ông khẳng định chủ nhân đích thực của Đất nước chính là nhân dân và ở đây Đất nước được nhìn ở
thể toàn vẹn, thống nhất không thể tách rời, không thể chia cắt vì vậy, mỗi chúng ta cần có trách nhiệm bảo
vệ, giữ gìn đất nước, đó là cuộc sống của chúng ta.

Đoạn thơ bắt đầu từ những huyền thoại của văn hóa dân gian nhưng lại bay bổng trên thế giới ấy nhờ
cái nhìn mới mẻ, độc đáo của phương thức tư duy hiện đại. Những người làm ra Đất nước, được thể hiện qua

Liên hệ đăng kí học: 0983608059 14


điệp từ “góp”, tất cả đều vô danh, đó chính là Nhân dân, qua năm tháng, lặng lẽ, bền bỉ, kiên cường đã tạo
dựng nên Đất nước, đã đặt tên, in dấu trên dáng hình của quê hương xứ sở. Nếu tác giả dân gian xưa dùng
thần thoại truyền thuyết để lý giải hình hài sông núi, qua đó gửi gắm những ước mơ, xót thương thân phân,
ngợi ca những phẩm chất tốt đẹp của Nhân dân thì NKĐ tuy vẫn đặt hình hài Đất nước trong thế giới huyền
ảo của văn hóa dân gian nhưng nhà thơ hiện đại không dừng lại ở việc lí giải núi sông mà những danh thắng
đó còn được nhìn nhận như một phần tâm hồn, máu thịt của Nhân dân. Với cách cảm nhận ấy, mỗi ngọn núi,
dòng sông, “ruộng đồng”, “gò bãi”, mỗi danh thắng trên khắp mọi miền Đất nước đều không còn vô tri, đều
như có linh hồn, như mang tâm trạng, đều gợi “một dáng hình”, “một ước ao”, “một lối sống cha ông”. Cách
nhìn vừa mới mẻ, vừa mang đậm sắc thái dân gian đã giúp nhà thơ khẳng định và ca ngợi công lao của Nhân
dân đối với Đất nước.
“Ôi Đất Nước sau bốn ngàn năm đi đâu ta cũng thấy
Những cuộc đời đã hóa núi sông ta…”
Nếu “bốn nghìn năm” là dòng thời gian đằng đẵng của lịch sử dựng nước và giữ nước thì cụm từ “đi
đâu ta cũng thấy” lại gợi hình ảnh về những không gian mênh mông của Đất Nước; lặng lẽ, bền bỉ cùng dòng
thời gian ấy, trung hậu, kiên cường trong không gian ấy là vời vợi “những cuộc đời” của Nhân dân. Động từ
“hóa” không chỉ gợi ra những đóng góp lớn lao bởi mồ hôi, xương máu của Nhân dân mà còn khẳng định,
ngợi ca sức mạnhkì diệu, sự hóa thân kì diệu của những con người vô danh, thầm lặng “một nắng hai sương”
trong thời bình, kiên cường “trồng tre mà đánh giặc” trong thời chiến, nhân hậu nghĩa tình trong ứng xử của
cuộc sống hàng ngày… để làm nên “núi sông ta
3. Những nét mới mẻ trong tư tưởng đất nước của nhân dân:
Nhắc đến Việt Nam không chỉ nhắc tới thời gian 4000 năm anh hùng dựng nước và giữ nước, ta còn
vô cùng tự hào về một bề dày văn hóa vừa thơ mộng vừa đậm đà, vừa đặc sắc vừa nhân văn. Văn hoá dân gian
thấm thía vào hệ thống từ vựng, cấu trúc hình tượng rải khắp bài thơ khiến nhân dân hiện diện khắp nơi, trở
thành chủ nhân, thành linh hồn Đất Nước.Đó là nền văn hóa gốc nông nghiệp cần có “ đất và nước ’’, gắn với
nền văn minh lúa nước, đó là nền văn hóa luôn gắn bó chặt chẽ với thiên nhiên, giản dị mà thân thuộc, trọng
hòa bình, tình cảm hơn là chiến tranh, bạo lực.
Cũng chính chất liệu văn hoá còn ùa vào cả phương diện nghệ thuật. Mỗi sợi dọc sợi ngang dệt nên
hình tượng thơ NKĐ đều óng ánh sắc màu đặc biệt của văn hóa dân gian_. Thơ cổ thường dùng những hình
ảnh ước lệ cao xa, tạo 1 khoảng cánh thiêng để diễn tả niềm ngưỡng vọng vô biên của con người đối với giang
sơn Tổ quốc. Hệ thống ngôn từ mới mẻ của NKĐ lại mang nỗ lực xoá nhoà khoảng cách để bình dị hoá đất
nước, để đất nước hoà thân vào ca dao, dân ca, vào đời sống hằng ngày. Đất Nước vì thế mà là mỗi người,
mỗi người là Đất Nước. Thế nên ta hãy:
Ôi Tổ Quốc ta yêu như máu thịt
Như mẹ cha ta như vợ như chồng

Liên hệ đăng kí học: 0983608059 15


Ôi Tổ Quốc nếu cần ta chết
Cho mỗi ngôi nhà ngọn núi con sông

Điểm đáng chú ý thứ hai là tư tưởng Đất Nước của Nhân dân được biểu hiện trong hình thức thơ chính
luận - trữ tình vừa chặt chẽ vừa phóng túng. Nói đến chất chính luận là nói đến tư duy logic, những lý lẽ, dẫn
chứng, đưa ra thuyết phục người đọc, ở đây, nhà thơ đã dùng sự chặt chẽ của lập luận, phân tích một cách
toàn diện đất nước trên cả 3 phương diện: địa lý, lịch sử và văn hoá. Nói đến chất trữ tình là nói đến cảm xúc
mãnh liệt, những hình ảnh gợi cảm hấp dẫn. Với thể thơ trữ tình chính luận, những lý lẽ không thể hiện một
cách khô khan mà bằng hình ảnh đầy sức gợi cảm, bằng những cảm xúc dạt dào.
III. Kết bài
Trải qua hơn nửa thế kỉ với bao thăng trầm của lịch sử, bao nhiêu biến đổi của lòng người, có nhiều
tác phẩm trong đó không còn gía trị như xưa, mà trở nên lạc hậu với thời cuộc , vô tình bị trôi vào dĩ vãng.
Nhưng có những tác phẩm cho đến ngày hôm nay vẫn còn nguyên giá trị của nó, vẫn được độc giả tìm đến
với sự ngưỡng mộ , trân trọng. Và “Đất nước” chính là tác phẩm như thế, đặc biệt qua những phát hiện đôc
đáo về không gian danh thắng khiến “Đất nước” càng trở nên tuyệt đẹp và thiêng liêng hơn bao giờ hết.

Liên hệ đăng kí học: 0983608059 16

You might also like