You are on page 1of 32

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

TRƯỜNG ĐẠI HỌC THƯƠNG MẠI


---▌█▐---

BÀI THẢO LUẬN


THỊ TRƯỜNG CHỨNG KHOÁN
ĐỀ TÀI 6:
CÔNG TÁC THANH TRA, GIÁM SÁT VÀ XỬ LÝ VI PHẠM TRÊN THỊ TRƯỜNG
CHỨNG KHOÁN VIỆT NAM TRONG GIAI ĐOẠN HIỆN NAY

GVBM: NGUYỄN ANH THƯ

                                                          NHÓM 6: 


                                                          Nguyễn Thảo My (Nhóm trưởng)
                                                          Đào Ngọc Li (Thư kí)
                                                           Nguyễn Thanh Hải
                                                           Nguyễn Quỳnh Hương
                                                          Nguyễn Việt Hải
                                                          Trần Diễm Quỳnh

Hà Nội, 2020

1
MỤC LỤC

BẢNG ĐÁNH GIÁ KẾT QUẢ THỰC HIỆN CÔNG VIỆC NHÓM 6…………………..….4

LỜI MỞ ĐẦU……………………………………………………………………………..…..…5
1. Tính cấp thiết của đề tài………………………………………………………………….…….5
2. Mục đích thảo luận……………………………………………………………………….….....5
3. Nhiệm vụ thảo luận……………………………..………………………………………….…..5
4. Đối tượng và phạm vi thảo luận………...……………………………………………...………5
5. Phương pháp thảo luận……..………………………………………….……………………....6
6. Đóng góp của thảo luận…………………………………………………………………….….6
7. Kết cấu của thảo luận…………………………………………………………………………..6

CHƯƠNG 1: TỔNG QUAN VỀ THỊ TRƯỜNG CHỨNG KHOÁN VÀ HOẠT ĐỘNG


THANH TRA, GIÁM SÁT VÀ XỬ LÝ VI PHẠM TRÊN THỊ TRƯỜNG CHỨNG
KHOÁN………………………………………………………………………………………….7
I. Thị trường chứng khoán……………….…………………………………………………….…7
1. Chứng khoán…………………………………………………………………………………...7
2. Thị trường chứng khoán……………………………………………………………………..…8
3. Các nguyên tắc hoạt động của thị trường chứng khoán………………………………………10
4. Các tác động của thị trường chứng khoán đối với nền kinh tế……………………………….11
II. Hệ thống thanh tra, giám sát và xử lý vi phạm trên thị trường chứng khoán tại Việt
Nam…………….…………………………………………………………………….……….…12
1. Những vấn đề chung về hệ thống thanh tra, giám sát thị trường chứng khoán tại Việt
Nam……………………………………………………………………………………….…..…12
2. Công tác thanh tra, giám sát thị trường chứng khoán.……………………………….….……13
3. Các hành vi vi phạm và Các hình thức xử lý vi phạm pháp luật trong lĩnh vực chứng khoán và
thị trường chứng khoán.…………………………………………………………….……….…..14

2
CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG CÔNG TÁC THANH TRA, GIÁM SÁT VÀ XỬ LÝ VI
PHẠM TRÊN THỊ TRƯỜNG CHỨNG KHOÁN VIỆT NAM TRONG GIAI ĐOẠN HIỆN
NAY…………..……………………………………………...………………………………….18
1. Thực trạng hoạt động giám sát thị trường chứng khoán Việt Nam………………………..…18
2. Thực trạng hoạt động thanh tra thị trường chứng khoán Việt Nam…………………..……....20
3. Thực trạng hoạt động xử lí vi phạm thị trường chứng khoán Việt Nam…………………..…22
4. Thành tựu và hạn chế của thanh tra giám sát, thị trường và xử lí vi phạm trên thị trường chứng
khoán……………….……………………………………………………………………………23
4.1. Thành tựu của thanh tra giám sát, thị trường và xử lí vi phạm trên thị trường chứng
khoán………………………………………………………………………………………….....23
4.2. Hạn chế của thanh tra giám sát, thị trường và xử lí vi phạm trên thị trường chứng
khoán…………………………………………………………………………….........................25

CHƯƠNG 3: GIẢI PHÁP VỀ HẠN CHẾ NHẰM GÓP PHẦN NÂNG CAO HIỆU QUẢ
HOẠT ĐỘNG THANH TRA, GIÁM SÁT VÀ XỬ LÝ VI PHẠM TRÊN THỊ TRƯỜNG
CHỨNG KHOÁN VIỆT NAM…………………………………………………………..……28
1. Đối với cơ quan quản lý Nhà nước trong hoạt động thanh tra, giám sát và xử lí vi phạm trên
chứng khoán và thị trường chứng khoán………………………………………………………..28
1.1 Trong hoạt động thanh tra chứng khoán và thị trường chứng khoán………………………28
1.2 Trong hoạt động giám sát chứng khoán và thị trường chứng khoán………...…………..…30
1.3 Trong hoạt động xử lí vi phạm chứng khoán và thị trường chứng khoán……………….….31
2. Đối với người làm công tác thanh tra, giám sát chứng khoán và thị trường chứng
khoán………………………………………………………………………………………….…31
3. Đối với các bộ phận của thị trường chứng khoán………………………………………….…32

3
BẢNG ĐÁNH GIÁ KẾT QUẢ THỰC HIỆN CÔNG VIỆC NHÓM 6

Stt Họ và tên Công việc Nhận xét Đánh giá


Chương I
1 Nguyễn Thanh Hải Hoàn thành tốt 9,5
Thuyết trình

2 Nguyễn Quỳnh Hương Chương I Hoàn thành tốt 9

Chương II
3 Nguyễn Việt Hải Hoàn thành tốt 9,5
Thuyết trình
Chương II
4 Trần Diễm Quỳnh Hoàn thành tốt 9,5
Làm powerpoint
Lời mở đầu
Chương III
5 Nguyễn Thảo My Hoàn thành tốt 10
Tổng hợp word
Chỉnh sửa word
Chương III
6 Đào Ngọc Li Hoàn thành tốt 9,5
Chỉnh sửa word

4
LỜI MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của đề tài


Thanh tra, giám sát và xử lí vi phạm là nội dung không thể thiếu của quản lý nhà nước, là giai
đoạn cuối cùng trong chu trình quản lý có vai trò kiểm định, đánh giá hiệu của của quản lý nhà
nước. Thanh tra, giám sát làm cho chu trình quản lý nhà nước được khép kín, các hoạt động ban
hành và tổ chức thực hiện quyết định quản lý được gắn bó chặt chẽ hơn, từ việc xem xét đánh
giá, kiểm chứng việc thực hiện để xuất các biện pháp hoàn thiện chủ trương, chính sách đến việc
nâng cao hiệu quả quản lý của Nhà nước. Đó là quy trình, quy luật tất yếu trong bất cứ hoạt
động quản lý của Nhà nước nào. Để thực hiện đổi mới kinh tế và cải cách nền hành chính quốc
gia thì vai trò của công tác thanh tra, giám sát và xử lí vi phạm ngày càng cần thiết và quan trọng
để quản lý nền kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa.
Có thể nói, thanh tra, giám sát ngày càng thể hiện vai trò quan trọng đối với sự phát triển của thị
trường chứng khoán. Xuất phát từ tình hình trên, nhóm em chọn đề tài “Thanh tra, giám sát và
xử lí vi phạm trên Thị trường chứng khoán Việt Nam” để làm đề tài thảo luận. Bởi, để đảm bảo
được tính hiệu quả, công bằng, lành mạnh trong hoạt động của thị trường, bảo vệ quyền và lợi
ích chính đáng của các nhà đầu tư, hài hòa lợi ích của tất cả những người tham gia thị trường,
tận dụng và duy trì được các nguồn vốn để phát triển kinh tế, để thị trường có thể phát huy một
cách triệt để vai trò tích cực và hạn chế tới mức thấp nhất các tác động tiêu cực có thể xảy ra thì
thanh tra, giám sát thị trường là hoạt động cần thiết khách quan.
2. Mục đích thảo luận 
Trên cơ sở thảo luận một số vấn đề lý luận về hoạt động thanh tra, giám sát và xử lí vi phạm trên
thị trường chứng khoán, thực trạng hoạt động thanh tra, giám sát thị trường chứng khoán Việt
Nam giai đoạn hiện nay, từ đó thảo luận đề xuất một số giải pháp nhằm đổi mới nâng cao chất
lượng hoạt động thanh tra, giám sát và xử lí vi phạm trên thị trường chứng khoán trong giai đoạn
hiện nay.
3. Nhiệm vụ thảo luận 
- Thảo luận một số vấn đề lý luận, nội dung cơ bản về thị trường chứng khoán. Hoạt động thanh
tra, giám sát và xử lí vi phạm trên thị trường chứng khoán.
- Phân tích, đánh giá thực trạng thanh tra, giám sát và xử lí vi phạm trên thị trường chứng khoán
Việt Nam.
- Thảo luận, đề xuất một số giải pháp nhằm đổi mới, nâng cao hiệu quả hoạt động thanh tra,
giám sát và xử lí vi phạm trên thị trường chứng khoán trong giai đoạn hiện nay.
4. Đối tượng và phạm vi thảo luận 
- Đối tượng thảo luận là vấn để lý luận và thực tiễn về thanh tra, giám sát và xử lí vi phạm trên
thị trường chứng khoán Việt Nam.

5
- Phạm vi thảo luận: Thảo luận tập trung nghiên cứu quản lý nhà nước về thị trường chứng
khoán trên lĩnh vực thanh tra, giám sát và xử lí vi phạm trên thị trường chứng khoán của Ủy ban
chứng khoán Nhà nước giai đoạn hiện nay, qua đó đánh giá kết quả thực hiện thanh tra, giám sát
và xử lí vi phạm trên thị trường và đề xuất một số giải pháp để nâng cao chất lượng thanh tra,
giám sát và xử lí vi phạm trên TTCK Việt Nam. 
5. Phương pháp thảo luận
Thảo luận có sử dụng các phương pháp nghiên cứu như: Thu thập thông tin, phân tích số liệu, so
sánh, tổng hợp...
6. Đóng góp của thảo luận
Thảo luận có thể làm tài liệu tham khảo phục vụ cho việc thực hiện thanh tra, giám sát và xử lí
vi phạm trên TTCK cụ thể trong từng giai đoạn khác nhau trong quá trình phát triển thị trường
chứng khoán và những ai quan tâm tới vấn đề này.
7. Kết cấu của thảo luận
Ngoài phần mở đầu, kết luận, nội dung thảo luận được kết cấu thành 3 chương:
Chương 1: Tổng quan về Thị trường chứng khoán và hoạt động thanh tra, giám sát và xử lí vi
phạm trên thị trường chứng khoán.
Chương 2: Thực trạng công tác thanh tra, giám sát và xử lí vi phạm trên thị trường chứng khoán
Việt Nam trong giai đoạn hiện nay.
Chương 3: Giải pháp về hạn chế nhằm góp phần nâng cao hiệu quả thanh tra, giám sát và xử lí
vi phạm trên thị trường chứng khoán Việt Nam.
 

6
CHƯƠNG 1: 
TỔNG QUAN VỀ THỊ TRƯỜNG CHỨNG KHOÁN VÀ HOẠT ĐỘNG THANH TRA,
GIÁM SÁT VÀ XỬ LÝ VI PHẠM TRÊN THỊ TRƯỜNG CHỨNG KHOÁN

I. Thị trường chứng khoán


1. Chứng khoán
- Có nhiều khái niệm khác nhau về chứng khoán:
+ Chứng khoán là mọi sản phẩm tài chính có thể chuyển nhượng được.
+ Chứng khoán được hiểu là tờ giấy làm bằng chứng, chứng nhận cho người cầm giữ nó có
những quyền nhất định đối với một loại tài sản nào đó;
+ Chứng khoán là chứng chỉ hay bút toán ghi sổ, xác nhận các quyền và lợi ích hợp pháp của
người sở hữu chứng khoán đối với tài sản hoặc vốn của tổ chức phát hành.....
- Đặc điểm chứng khoán:
+ Tính sinh lời: là khả năng đem lại thu nhập cho người sở hữu chúng.
+ Tính rủi ro: là khả năng xảy ra những sự cố không lường trước, và khi nó xảy ra làm thu nhập
thực tế khác thu nhập dự kiến.
+ Tính thanh khoản (còn được gọi là tính hoán tệ, tính lỏng, tính lưu thông): là khả năng chuyển
đổi chứng khoán thành tiền của người nắm giữ chứng khoán.
- Phân loại chứng khoán:
- Cổ phiếu: là chứng chỉ hoặc bút toán ghi sổ chứng nhận quyền sở hữu của một cổ đông đối với
tài sản và thu nhập của một công ty cổ phần. Cổ đông được hưởng quyền với tư cách là người sở
hữu một phần vốn của công ty theo mức độ tương ứng với số lượng cổ phiếu nắm giữ. Do vậy,
cổ phiếu còn được gọi là chứng khoán vốn.
- Trái phiếu: là chứng chỉ hoặc bút toán ghi sổ, chứng nhận người sở hữu trái phiếu (trái chủ) đã
cho người phát hành trái phiếu vay một số tiền nhất định, theo các điều kiện nào đó mà hai bên
đã thỏa thuận. Thực chất phát hành trái phiếu là một hình thức vay nợ, người vay phát hành một
chứng chỉ (hoặc ghi sổ) trong đó xác định số tiền vay, thời hạn vay, lãi suất vay và phương thức
trả nợ.
- Chứng chỉ quỹ đầu tư: Quỹ đầu tư là quỹ hình thành từ vốn góp của nhà đầu tư với mục đích
kiếm lợi nhuận từ việc đầu tư vào chứng khoán và các loại tài sản đầu tư khác, kể cả bất động
sản, trong đó nhà đầu tư không có quyền kiểm soát hàng ngày đối với việc ra quyết định đầu tư
của quỹ. Chứng chỉ quỹ đầu tư là loại chứng khoán xác nhận quyền sở hữu của nhà đầu tư đối
với một phần vốn góp của quỹ đại chúng (là quỹ đầu tư chứng khoán thực hiện chào bán chứng
chỉ quỹ ra công chứng)

7
- Chứng khoán phái sinh: là những chứng khoán được hình thành trên cơ sở các chứng khoán
gốc ( cổ phiếu, trái phiếu) nhằm mục đích khác nhau như: bảo vệ quyền lợi của những người sở
hữu chứng khoán gốc, phân tán rủi ro, bảo vệ hoặc tạo lợi nhuận.
2. Thị trường chứng khoán ( TTCK)
- Khái niệm: Thị trường chứng khoán là thị trường diễn ra các hoạt động phát hành, giao dịch
mua bán chứng khoán. Việc mua bán này được tiến hành ở thị trường sơ cấp, khi người mua
mua được chứng khoán lần đầu từ những người phát hành chứng khoán và ở thị trường thứ cấp
khi có sự mua đi bán lại các chứng khoán đã được phát hành từ thị trường sơ cấp.
- Đặc điểm:
+ Thứ nhất, hàng hóa của TTCK là các loại chứng khoán. Đó là những công cụ chuyển tải giá trị
như cổ phiếu, trái phiếu, chứng chỉ quỹ đầu tư, chứng khoán phái sinh.
+ Thứ hai, TTCK được đặc trưng bởi hình thức chuyển giao tài chính trực tiếp, những người có
khả năng cung ứng vốn có thể điều chuyển vốn trực tiếp cho người cần vốn mà không cần thông
qua các trung gian tài chính ( ngân hàng, công ty tài chính,...) với tư cách là một chủ thể riêng
biệt, độc lập thực hiện huy động vốn để phân phối vốn nhằm đạt được những lợi ích riêng.
+ Thứ ba, hoạt động mua bán trên TTCK chủ yếu được thực hiện qua người môi giới.
+ Thứ tư, TTCK gần với thị trường cạnh tranh hoàn hảo.
+ Thứ năm, TTCK về cơ bản là thị trường liên tục, sau khi các chứng khoán được phát hành trên
thị trường sơ cấp nó có thể được mua đi bán lại nhiều lần trên thị trường thứ cấp.
- Phân loại thị trường chứng khoán:
a) Theo hình thức tổ chức và cơ chế hoạt động:
+ TTCK chính thức: là thị trường mà sự ra đời và hoạt động được thừa nhận, bảo hộ vè mặt
pháp lý. Các hoạt động giao dịch của thị trường này nằm dưới sự kiểm soát và chịu sự ảnh
hưởng bởi cơ chế điều tiết gián tiếp của Nhà nước.
b) Căn cứ vào quá trình luân chuyển chứng khoán
+ Thị trường sơ cấp: còn gọi là thị trường phát hành, là thị trường mua bán lần đầu những chứng
khoán mới phát hành, kéo theo sự tăng thêm quy mô vốn đầu tư. Thị trường sơ cấp là thị trường
tạo vốn cho đơn vị phát hành.
+ Thị trường thứ cấp: còn gọi là thị trường lưu thông, là thị trường mua đi bán lại các chứng
khoán đã được phát hành qua thị trường sơ cấp.
c) Theo đối tượng giao dịch.
+ Thị trường cổ phiếu: là nơi giao dịch mua bán, trao đổi các giấy tờ xác nhận cổ phần đóng góp
của cổ đông. Cổ đông là chủ sở hữu của công ty và phải chịu trách nhiệm trong phần đóng góp
của mình. Cổ phiếu sẽ cho phép họ có quyền yêu cầu đối với lợi nhuận sau thuế của công ty

8
cũng như đối với tài sản của công ty, khi tài sản này được đem bán. Cổ phiếu có thời gian đáo
hạn là không xác định.
+ Thị trường trái phiếu: là thị trường mà hàng hoá được mua bán tại đó là các trái phiếu. Trái
phiếu là công cụ nợ, mà thực chất của việc phát hành các công cụ này là nhà phát hành đứng ra
đi vay theo phương thức có hoàn trả cả gốc lẫn lãi. Người cho vay sẽ không chịu bất cứ trách
nhiệm nào về kết quả hoạt động sử dụng vốn của người vay và trong mọi trường hợp, nhà phát
hành phải có trách nhiệm hoàn trả cho trái chủ theo các cam kết đã được xác định trong hợp
đồng vay. Trái phiếu thường có thời hạn xác định, có thể là trung hạn hay dài hạn.
+ Thị trường chứng khoán phái sinh: là nơi các chứng khoán phái sinh được mua và bán. Tiêu
biểu cho các công cụ này là hợp đồng tương lai (Future Contracts), hợp đồng quyền chọn
(Options). Thị trường này ngày càng trở nên quan trọng đối với các nhà quản lý tài chính. Nó
cung cấp các công cụ phòng vệ hữu hiệu, đồng thời cũng là công cụ đầu cơ lý tưởng cho các nhà
đầu tư.
- Các chủ thể tham gia thị trường chứng khoán.
+ Tổ chức phát hành chứng khoán: là các tổ chức cần vốn và thực hiện huy động vốn thông qua
TTCK. Tổ chức phát hành chứng khoán thông thường gồm:
+ Chính phủ và các cấp chính quyền địa phương: phát hành trái phiếu chính phủ và trái phiếu
địa phương

+ Doanh nghiệp: phát hành cổ phiếu và trái phiếu doanh nghiệp + Công ty quản lý quỹ đầu tư
phát hành chứng chỉ quỹ đầu tư

- Nhà đầu tư chứng khoán: là những người bỏ tiền đầu tư vào chứng khoán nhằm mục đích thu
lợi nhuận. Nhà đầu tư chứng khoán gồm:
+ Nhà đầu tư cá nhân: là những người có tiền tạm thời nhàn rỗi, thay vì gửi ngân hàng lấy lãi
suất, đầu tư vào vàng, đất đai thì tham gia mua bán chứng khoán trên TTCK để tìm kiếm lợi
nhuận.

+ Nhà đầu tư tổ chức: là các tổ chức thường xuyên mua bán chứng khoán với số lượng lớn. Một
số nhà đầu tư là các công ty đầu tư và các quỹ tín thác đầu tư, ty tài chính, các ngân hàng thương
mại... quỹ tín thác đầu tư, các công ty bảo hiểm, các quỹ hưu trí và quỹ bảo hiểm xã hội khác,
các công ty tài chính, các ngân hàng thương mại...

- Người kinh doanh chứng khoán: tham gia kinh doanh chứng khoán có thể bao gồm nhiều tổ
chức như: Công ty chứng khoán, công ty quản lý quỹ đầu tư và cá nhân hành nghề độc lập.
+ Công ty chứng khoán: là tổ chức có tư cách pháp nhân kinh doanh trong lĩnh vực chứng
khoán, thực hiện một hoặc toàn bộ các hoạt động: môi giới, tự doanh, bảo lãnh phát hành, tư vấn
đầu tư chứng khoán với mục đích tìm kiếm lợi nhuận.

9
+ Công ty quản lý quỹ đầu tư: là tổ chức có tư cách pháp nhân, hoạt động cung cấp dịch vụ quản
lý quỹ đầu tư chứng khoán, quản lý danh mục đầu tư chứng khoán

- Người cung cấp các dịch vụ hỗ trợ kinh doanh chứng khoán (tổ chức phụ trợ): để đảm bảo cho
TTCK có thể vận hành một cách bình thường, bên cạnh các chủ thể nêu trên cần có các tổ chức
cung cấp các dịch vụ hỗ trợ kinh doanh chứng khoán như: tổ chức lưu ký chứng khoán và thanh
toán bù trừ, tổ chức đánh giá hệ số tín nhiệm, tổ chức tài trợ chứng khoán, tổ chức kiểm toán,
công nghệ thông tin TTCK...
3. Các nguyên tắc hoạt động của thị trường chứng khoán
- Nguyên tắc trung gian: Thị trường chứng khoán hoạt động không phải do những người muốn
mua hay bán muốn bán chứng khoán thực hiện, mà do những người môi giới trung gian thực
hiện. Đây là nguyên tắc căn bản cho hoạt động và tổ chức của thị trường chứng khoán với vai
trò của công ty chứng khoán, các nhà môi giới làm cầu nối giữa cung và cầu hàng hóa.
- Nguyên tắc cạnh tranh: Theo nguyên tắc này, giá cả trên thị trường phản ánh quan hệ cung cầu
về chứng khoán thể hiện tương quan cạnh tranh giữa các công ty.
- Nguyên tắc công khai: Người đầu tư không thể kiểm tra trực tiếp được các chứng khoán như
các hàng hóa thông thường mà phải dựa vào các thông tin liên quan. Vì vậy bên tổ chức phát
hành phải có nghĩa vụ cung cấp đầy đủ, trung thực và kịp thời những thông tin liên quan tới tổ
chức phát hành, đợt phát hành.
- Việc xác định giá của chứng khoán được xác định theo nguyên tắc cạnh tranh với những
nguyên tắc sau:
+ Đấu giá trực tiếp: Là hình thức đấu giá theo phương thức các nhà môi giới đại diện cho khách
hàng của mình đưa ra các lệnh mua bán với giá sẽ được đấu giá tại quầy giao dịch.
+ Đấu giá gián tiếp: là hình thức các nhà môi giới không trực tiếp gặp nhau. Các công ty chứng
khoán thường xuyên công bố giá cao nhất sẵn sàng mua vào và giá thấp nhất bán ra cho mỗi loại
chứng khoán mà công ty đang kinh doanh, thông tin này được chuyển đến công ty chứng khoán
thành viên có liên quan của sở giao dịch chứng khoán thông qua hệ thống computer nội mạng
giữa các công ty chứng khoán với nhau.
+ Khớp lệnh tự động: Là hình thức khớp lệnh qua hệ thống máy tính nối mạng giữa máy chủ của
sở giao dịch với hệ thống của các thành viên, các lệnh này được chuyển đến máy chủ trong một
thời gian nhất định, máy chủ sẽ tự động khớp lệnh và thông báo kết quả cho các công ty chứng
khoán thành viên.
- Có 2 hình thức khớp lệnh tự động: Khớp lệnh tục, khớp lệnh định kỳ
+ Khớp lệnh liên tục: Các lệnh mua và bán của khách hàng được liên tục đưa vào hệ thống,
những lệnh mua và ban khớp nhau về giá sẽ được thực hiện ngay.

10
+ Khớp lệnh định kỳ: Các lệnh mua và bán của khách hàng được đưa vào hệ thống tích lũy trong
một thời, đến một thời điểm nhất định sẽ chốt một mức giá mà tại mức giá chất này khối lượng
mua bán là nhiều nhất.

4. Các tác động của thị trường chứng khoán đối với nền kinh tế
- Mặt tích cực:
+ Thị trường chứng khoán là kênh tạo vốn cho nền kinh tế quốc dân: Trong nền kinh tế thị
trường, TTCK được xem như một trung tâm thu gom mọi nguồn vốn tiết kiệm lớn nhỏ của từng
hộ dân cư, các nguồn vốn tạm thời nhàn rỗi trong các doanh nghiệp, các tổ chức tài chính và từ
nước ngoài... tạo thành một nguồn vốn khổng lồ tài trợ cho nền kinh tế mà các phương thức
khác không làm được.
+ Thị trường chứng khoán thúc đẩy các doanh nghiệp sử dụng vốn linh hoạt hơn, có hiệu quả
hơn: Thông qua TTCK các doanh nghiệp có thể sử dụng vốn tiền tệ tạm thời nhàn rỗi để đầu tư
chứng khoán như là một tài sản kinh doanh và ngược lại các chứng khoán đó sẽ được chuyển
thành tiền khi cần thiết.
+ Thị trường chứng khoán cung cấp nơi đầu tư cho công chúng, khuyến kích dân chúng tiết
kiệm và sử dụng nguồn vốn tiết kiệm vào công cuộc đầu tư, từ đó tạo thói quen và xã hội hóa
việc đầu tư: TTCK đưa đến cho công chúng những công cụ đầu tư mới, đa dạng, phong phú, phù
hợp với từng đối tượng có suy nghĩ và tâm lý riêng. TTCK là nơi cung cấp các cơ hội đầu tư có
lựa chọn cho công chúng, từ đó nâng cao tiết kiệm quốc gia, tạo điều kiện về vốn cho sự nghiệp
phát triển kinh tế.
+ Thị trường chứng khoán là công cụ đánh giá doanh nghiệp, dự đoán tương lai: Sự hình thành
thị giá chứng khoán của một doanh nghiệp trên TTCK cũng đồng nghĩa với việc đánh giá thực
trạng hoạt động của doanh nghiệp đó trong hiện tại và dự đoán tương lai. Thị giá cổ phiếu cao
hay thấp biểu hiện trạng thái kinh tế của doanh nghiệp. Thông qua sự biến động về giá cả chứng
khoán và các chỉ số của TTCK, có thể đánh giá được tình trạng sức khỏe” của một doanh nghiệp
cũng như của toàn bộ nền kinh tế trong hiện tại và và tương lai.
- Mặt tiêu cực:
+ Bên cạnh những tác động tích cực, do đặc điểm của các giao dịch chứng khoán mà rất dễ nảy
sinh những tiêu cực, những hành vi vi phạm các nguyên tắc, các quy chế trong hoạt động mua
bán, đó là “thao túng thị trường” và “giao dịch nội gián” làm ảnh hưởng đến mục tiêu “công
bằng, hiệu quả và phát triển ổn định” của thị trường.
+ Thao túng thị trường: là những hành vi cố ý gây tác động đến thị trưởng bằng cách vận dụng
quy luật cung - cầu hoặc các hành vi nhân tạo khác, nhằm tác động đến giá cả chứng khoán để
đạt được mục tiêu có lợi cho riêng mình. Các hình thức thao túng thị trường như: đầu cơ chứng
khoán, cá lớn nuốt cá bé, loan truyền tin đồn không chính xác, cố ý gây sai lệch hay sự hiểu lầm
về hoạt động giao dịch của một loại chứng khoán, thực hiện giao dịch được sắp đặt trước...

11
+ Giao dịch nội gián: là những trường hợp người trong nội bộ tổ chức phát hành, hoặc những
người do trong quá trình thực hiện nhiệm vụ nào đó mà có được những thông tin chưa công bố
ra công chúng đã sử dụng hoặc trao đổi cho người khác sử dụng những thông tin này để đầu tư,
tham gia giao dịch có lợi cho mình. Mua bán nội gián được xem là một hành vi phi đạo đức về
mặt thương mại và đi lại nguyên tắc “ mọi nhà đầu tư phải có cơ hội như nhau”.

II. Hệ thống thanh tra, giám sát và xử lý vi phạm trên thị trường chứng khoán tại Việt
Nam
1. Những vấn đề chung về hệ thống thanh tra, giám sát thị trường chứng khoán tại Việt
Nam
- Thanh Tra: Bao hàm trong đó nghĩa kiểm soát nhằm xem xét và phts hiện, ngăn chặn những gì
trái với quy định. Thanh tra còn được hiểu là sự xem xét, kiểm soát, kiểm tra thường xuyên,
định kỳ nhằm rút ra những nhận xét, kết luận cần thiết để kiến nghị với các cơ quan nhà nước
nhằm khắc phục những nhược điểm, phát huy ưu điểm, góp phần nâng cao hiệu quả quản lý nhà
nước. Hoạt động thanh tra do cơ quan Thanh tra nhà nước thực hiện.
- Giám sát: Là khái niệm dùng để chỉ hoạt động của các cơ quan quyền lực nhà nước, các cơ
quan tư pháp, các tổ chức xã hội và mọi công dân nhằm đảm bảo sự tuân thủ nghiêm chính pháp
luật trong quản lý nhà nước và quản lý xã hội. Hoạt động giám sát chủ yếu được thực hiện ngoài
quan hệ trực thuộc theo chiều dọc; hoạt động này được tiến hành bởi Quốc hội. HDND các cấp,
các cơ quan tư pháp và toàn thể nhân dân thông qua hoạt động thực hiện chức năng, thẩm quyền
do pháp luật quy định.
* Điểm khác biệt giữa thanh tra, giám sát đó là:
- Về chủ thể: Chủ thể thanh tra có phạm vi hẹp hơn và mang tính chuyên trách chủ yếu được
thực hiện bởi các cơ quan thanh tra và cơ quan được giao thực hiện chức năng thanh tra. Chủ thể
giám sát rộng hơn nữa gồm hệ thống cơ quan quyền lực, tổ chức Đảng, tổ chức chính trị xã hội
và toàn thể nhân dân.
- Về hoạt động: Hoạt động của thanh tra được tiến hành theo trình tự, thủ tục chặt chẽ do pháp
luật quy định và mang tính nghiệp vụ cao. Hoạt động giám sát được thực hiện thường xuyên liên
tục bằng rất nhiều hình thức khác nhau.

Quản lý nhà nước đối với thị trường chứng khoán.

- Quản lý nhà nước về chứng khoán và thị trường chứng khoán là hoạt động quản lý ở tầm vĩ mô
của cơ quan nhà nước đối với loại hàng hóa đặc biệt là chứng khoán và thị trường giao dịch của
nó- thị trường chứng khoán, nhằm mục đích phát huy hiệu quả, vai trò tích cực của loại hình thị
trường này. Cơ quan quản lý nhà nước về chứng khoán và thị trường chứng khoán hay còn gọi
với tên gọi khác là chủ thể quản lý chứng khoán và thị trường chứng khoán. 

- Hoạt động quản lý gồm :

12
+Thứ nhất là ban hành các văn bản quy phạm pháp luật về chứng khoán và thị trường chứng
khoán; hoạch định chính sách, kế hoạch, chiến lược phát triển thị trường chứng khoán.

+ Thứ hai, cấp, gia hạn, đình chỉ, thu hồi các loại giấy phép liên quan đến việc phát hành, niêm
yết, kinh doanh và dịch vụ chứng khoán và thu lệ phí cấp giấy phép theo quy định của pháp luật.

+ Thứ ba, tổ chức và quản lý thị trường giao dịch chứng khoán có tổ chức và các tổ chức trung
gian, tổ chức, phụ trợ hoạt động trên thị trường chứng khoán. 

+ Thứ tư, thanh tra, giám sát và xử lý các vi phạm pháp luật về chứng khoán và thị trường chứng
khoán. 

+ Thứ năm, đào tạo nghiệp vụ, tuyên truyền phổ biến kiến thức về chứng khoán, thị trường
chứng khoán.

+Thứ sáu, hợp tác quốc tế về chứng khoán và thị trường chứng khoán.

2. Công tác thanh tra, giám sát thị trường chứng khoán
- Thứ nhất, thanh tra, giám sát việc phát hành chứng khoán trên thị trường sơ cấp tập trung các
vấn đề sau:
+ Người phát hành chứng khoán: bao gồm các điều kiện, tiêu chuẩn để có thể cấp phép hành
nghề

+ Các thủ tục phát hành chứng khoán + Thông tin trong bản cáo bạch + Quy định về công bố
thông tin trước và sau khi phát hành

+ Các quy định về bảo vệ nhà đầu tư nhằm ngăn chặn hành vi lừa đảo, bảo vệ quyền lợi cổ
đông, chống hoạt động thâu tóm, sáp nhập...

- Thứ hai, thanh tra, giám sát tuân thủ tập trung vào các vấn đề:
+ Đối với Trung tâm giao dịch chứng khoán: thanh tra, giám sát việc chấp hành quy định về
thành lập, tổ chức hoạt động của các trung tâm và SGDCK, các quy định về xác định giá, về hệ
thống giao dịch, về thành viên và điều kiện trở thành thành viên của trung tâm và SGDCK.

+ Đối với tổ chức kinh doanh chứng khoán: thanh tra, giám sát việc chấp hành các quy định về
chế độ, điều kiện cấp phép kinh doanh, các quy định an toàn trong hoạt động kinh doanh, các
quy định về chế độ báo cáo thông tin và về ban giám đốc, chức năng nhiệm vụ của tổ chức kinh
doanh chứng khoán

+ Đối với việc niêm yết và giao dịch chứng khoán tại trung tâm và SGDCK: thanh tra, giám sát
việc chấp hành các quy định về tiêu chuẩn, điều kiện các loại chứng khoán được niêm yết và
giao dịch trên thị

13
+ SGDCK: thanh tra, giám sát việc chấp hành các quy định về tiêu chuẩn, điều kiện các loại
chứng khoán được niêm yết và giao dịch trên thị truong.

+ Đối với các quy định về hệ thống đăng ký, thanh toán bù trừ, lưu giữ chứng khoán: thanh tra,
giám sát việc chấp hành các quy định về đăng ký, thanh toán bù trừ, lưu giữ chứng khoán niêm
yết, giao dịch trên thị trường

- Thứ ba, thanh tra, giám sát giao dịch chứng khoán tập trung vào các vấn đề chính:

+ Giám sát theo dõi từng hoạt động giao dịch mua, bán từng loại chứng khoán, mức độ biến
động tăng, giảm giá cả, khối lượng giao dịch để phát hiện các giao dịch không bình thường (bất
thường, nghi ngờ).

+ Tổ chức thanh tra nhằm phát hiện, xử lý các trường hợp giao dịch nội gián, hoặc thao túng thị
trường, thao túng giá cả.

+ Tổ chức thanh tra nhằm phát hiện, xử lý các trường hợp giao dịch nội gián, hoặc thao túng thị
trường, thao túng giá cả.

+ Kiểm soát tình trạng sở hữu của các nhà đầu tư trong và ngoài nước.

+ Thanh tra, giám sát các tin đồn có thể ảnh hưởng đến giá cả thị trưởng.

3. Các hành vi vi phạm và Các hình thức xử lý vi phạm pháp luật trong lĩnh vực chứng
khoán và thị trường chứng khoán.

* Các hành vi vi phạm đối với thị trường chứng khoán:


+  Vi phạm trong lĩnh vực chào bán chứng khoán 
– Nhóm 1: Vi phạm quy định về hồ sơ đăng kí chào bán ra công chúng. Các hành vi vi phạm
thuộc nhóm này bao gồm các nhận hồ sơ đăng kí chào bán chứng khoán ra công chúng có thông
tin sai lệch hoặc không sửa đổi, bổ sung hồ sơ khi phát hiện thông tin không chính xác hoặc bỏ
sót nội dung quan trọng theo quy định phải có trong hồ sơ; xác nhận hồ sơ đăng ký chào bán
chứng khoán ra công chúng có thông tin cố ý làm sai sự thật hoặc che giấu sự thật; lập, xác nhận
hồ sơ đăng kí chào bán chứng khoán ra công chúng có sự giả mạo”…
– Nhóm 2: các vi phạm trong quá trình thực hiện hoạt động chào bán chứng khoán. Các vi phạm
trong nhóm này đa dạng, phức tạp. Do đó, việc nhận diện các hành vi này cũng rất khó khăn đối
với các cơ quan chức năng. Cụ thể các hành vi vi phạm như sau: không thực hiện công bố bản
thông báo phát hành theo quy định; thông báo phát hành trên các phương tiện thông tin đại
chúng không đúng nội dung và thời gian theo quy định; sử dụng thông tin ngoài Bản cáo bạch
để thăm dò thị trường trước khi được phép thực hiện chào bán chứng khoán ra công chúng; thực
hiện thăm dò thị trường trên các phương tiện thông tin đại chúng, phân phối chứng khoán không

14
đúng nội dung của đăng kí chào bán về loại chứng khoán, khối lượng, thời hạn đăng kí mua
chứng khoán, thời hạn phân phối theo quy định…? Chủ thể thực hiện hành vi này là các tổ chức
chào bán, tổ chức tư vấn chào bán, tổ chức bảo lãnh chào bán. 
+  Vi phạm trong lĩnh vực niêm yết chứng khoán 
Các hành vi vi phạm trong lĩnh vực niêm yết chứng khoán bao gồm: xác nhận những thông tin
sai lệch trong hồ sơ niêm yết chứng khoán, khi phát hiện ra những thông tin sai lệch cũng không
sửa đổi hồ sơ, bỏ sót những nội dung quan trọng theo quy định phải có trong hồ sơ, xác nhận
những hồ sơ giả mạo để niêm yết chứng khoán, xác nhận hồ sơ niêm yết có thông tin cố ý làm
sai sự thật hoặc che giấu sự thật…Chủ thể thực hiện hành vi này là các tổ chức niêm yết, tổ chức
tư vấn niêm yết, các tổ chức, cá nhân xác nhận hồ sơ đăng kí niêm yết. Các hành vi vi phạm về
niêm yết chứng khoán sẽ bị xử lý theo các quy định tại Mục 3 chương II, Nghị định của Chính
phủ số 85/2010/NĐ-CP ngày 02/8/2010. 
+  Vi phạm quy định về tổ chức thị trường giao dịch chứng khoán 
Pháp luật Việt Nam hiện hành quy định về các hành vi vi phạm pháp luật về tổ chức thị trường
giao dịch chứng khoán bao gồm các nhóm hành vi như sau: 
– Vi phạm quy định về tổ chức thị trường giao dịch chứng khoán 
– Vi phạm quy định về quản lý hồ sơ niêm yết chứng khoán. Cụ thể là, không phát hiện và xử lý
kịp thời những tổ chức niêm yết không duy trì đầy đủ các điều kiện niêm yết theo quy định pháp
luật, không cảnh báo những thông tin được công bố gây ảnh hưởng đến giá chứng khoán trên thị
trường, chấp thuận hoặc hủy bỏ niêm yết không đúng quy định… 
– Vi phạm quy định về quản lý thành viên của sở giao dịch chứng khoán: không phát hiện
những thành viên không thực hiện đầy đủ các điều kiện thành viên hoặc chấp thuận hay huỷ bỏ
tư cách thành viên của công ti chứng khoán không đúng quy định. 
– Vi phạm quy định về giám sát và công bố thông tin của sở giao dịch chứng khoán 
– Vi phạm các quy định về đăng ký giao dịch chứng khoán.
+ Vi phạm quy định về kinh doanh chứng khoán 
- Theo quy định của pháp luật hiện hành, các hành vi vi phạm trong hoạt động kinh doanh chứng
khoán bao gồm: hoạt động kinh doanh chứng khoán, cung cấp dịch vụ chứng khoán khi chưa
được cấp giấy phép hoặc chưa được chấp thuận; cho mượn, cho thuê hoặc chuyển nhượng giấy
phép; hoạt động không đúng nội dung quy định trong giấy phép; tẩy xóa, sửa chữa giấy phép;
lập, xác nhận hồ sơ đề nghị cấp, bổ sung giấy phép thành lập và hoạt động có thông tin sai lệch;
không thực hiện đúng quy định về quản lý tài sản tiền, chứng khoán của khách hàng, không duy
trì bảo đảm mức vốn khả dụng theo quy định; đầu tư hoặc tham gia góp vốn vượt quá mức quy
định; làm trái lệnh người đầu tư; không thực hiện chế độ bảo mật thông tin của khách hàng;
không thực hiện những quy định liên quan đến quản lý tài sản của chủ thể kinh doanh chứng

15
khoán với tài sản của khách hàng, của những quỹ tiền tệ hoặc nguồn vốn mà chủ thể đó thay mặt
khách hàng quản lý đầu tư…
- Đối với người hành nghề chứng khoán, bị coi là vi phạm khi thực hiện các hành vi sau: làm
việc tại nhiều chủ thể kinh doanh chứng khoán hoặc đồng thời làm việc cho một tổ chức đại
chúng, tổ chức niêm yết, mở tài khoản giao dịch tại công ty chứng khoán khác, cho mượn hoặc
cho thuê chứng chỉ hành nghề chứng khoán; tẩy xoá chứng chỉ hành nghề chứng khoán…” 
+  Vi phạm quy định về giao dịch chứng khoán 
Các hành vi vi phạm hành chính xảy ra trong hoạt động này có thể là cá nhân, tổ chức mà pháp
luật quy định cấm tham gia vào giao dịch cổ phiếu nhưng trực tiếp hoặc gián tiếp nắm giữ hoặc
mua bán cổ phiếu bằng cách đổi tên hoặc mượn danh nghĩa người khác để giao dịch chứng
khoán; trực tiếp hay gián tiếp tham gia vào các hoạt động gian lận, lừa đảo, tạo dựng thông tin
sai sự thật hoặc bỏ sót các thông tin cần thiết gây hiểu lầm nghiệm trong làm ảnh hưởng đến
hoạt động phát hành, niêm yết, giao dịch, kinh doanh, đầu tư chứng khoán và các dịch vụ chứng
khoán; trực tiếp hay gián tiếp tham gia vào việc công bố thông tin sai lệch nhằm lôi kéo, xúi
giục việc mua, bán chứng khoán hoặc không công bố kịp thời, đầy đủ thông tin về các sự kiện
xảy ra có ảnh hưởng đến giá chứng khoán trên thị trường; thực hiện hành vi giao dịch nội bộ;
thực hiện các hành vi thao túng giá chứng khoán; thực hiện các hành vi vi phạm chế độ chào
mua công khai đối với những chủ thể đang nắm giữ số cổ phần có quyền biểu quyết đến giới hạn
luật định…
- Ngoài các vi phạm kể trên, các hành vi vi phạm pháp luật trong lĩnh vực chứng khoán và thị
trường chứng khoán còn thuộc các nhóm vi phạm pháp luật khác như: vi phạm quy định về đăng
ký, lưu ký, bù trừ và thanh toán chứng khoán, ngân hàng giám sát, ngân hàng lưu ký; vi phạm
quy định về công bố thông tin và báo cáo; vi phạm quy định về kiểm toán tổ chức phát hành, tổ
chức niêm yết và tổ chức kinh doanh chứng khoán; vi phạm quy định về thanh tra, kiểm tra của
cơ quan nhà nước có thẩm quyền. 
* Các hình thức xử lý vi phạm pháp luật trong lĩnh vực chứng khoán và thị trường chứng khoán 
-   Xử lí hành chính: 
+ Hình thức cảnh cáo được áp dụng đối với tổ chức, cá nhân khi có đủ hai điều kiện sau: Một là
hành vi vi phạm mà tổ chức, cá nhân thực hiện được văn bản pháp luật về xử phạt hành chính
trong lĩnh vực chứng khoán và thị trường chứng khoán quy định là có thể áp dụng hình thức xử
phạt cảnh cáo; Hai là việc áp dụng hình thức xử phạt cảnh cáo đối với tổ chức, cá nhân vi phạm
hành chính về chứng khoán chỉ được thực hiện khi đó là vi phạm nhỏ, lần đầu và có tình tiết
giảm nhẹ. 
+ Ngoài các hình thức xử phạt chính, tùy theo tính chất và mức độ vi phạm, cá nhân, tổ chức vi
phạm hành chính trong lĩnh vực chứng khoán và thị trường chứng khoán còn có thể bị áp dụng
một hoặc các hình thức xử phạt bổ sung sau: 
Tịch thu toàn bộ khoản thu trái pháp luật do thực hiện hành vi vi phạm hành chính.

16
Đình chỉ hoặc hủy bỏ đợt chào bán chứng khoán ra công chúng.
Đình chỉ hoạt động, thu hồi giấy phép, giấy chứng nhận trong lĩnh vực chứng khoán, chứng chỉ
hành nghề chứng khoán. 
-> Những hình thức xử phạt bổ sung trên không được áp dụng một cách độc lập mà phải áp
dụng kèm theo hình thức xử phạt chính. 
-  Xử lí vi phạm hình sự
+ Xử lí vi phạm hình sự trong lĩnh vực chứng khoán và thị trường chứng khoán. Khác với quy
định của luật hình sự nhiều nước trên thế giới, Bộ luật hình sự Việt Nam chỉ áp dụng với các cá
nhân có hành vi nguy hiểm cho xã hội gây thiệt hại đến lợi ích của cá nhân, tổ chức và Nhà
nước. Luật hình sự Việt Nam không áp dụng đối với tổ chức vi phạm.
+ Ở Việt Nam, Bộ luật hình sự được coi là văn bản quy phạm pháp luật duy nhất quy định về xử
lý hình sự và được áp dụng để xử lí bất cứ vi phạm nào nếu gây nguy hiểm cho xã hội. Bộ luật
này cũng được áp dụng để xử lí mọi loại tội phạm hình sự trong các lĩnh vực khác nhau. Việc
quy định xử lí hình sự các tội phạm về chứng khoán không nằm ngoài thông lệ này. Cụ thể là
một hành vi vi phạm trong lĩnh vực chứng khoán chỉ có thể bị xử lý hình sự nếu hành vi đó được
quy định trong Bộ luật hình sự. 
-  Xử lý vi phạm dân sự
+ Các quan hệ xã hội phát sinh trên thị trường chứng khoán có nguồn gốc từ quan hệ pháp luật
dân sự, cụ thể là quan hệ của các chủ thể trong việc giao kết các hợp đồng mua bán, chuyển
nhượng chứng khoán, các hợp đồng bảo lãnh phát hành, tư vấn phát hành, hợp đồng mở tài
khoản kí kết giữa công ty chứng khoán với khách hàng, hợp đồng mở tài khoản giữa thành viên
lưu kí là ngân hàng và khách hàng… Các mối quan hệ có nguồn gốc từ quan hệ pháp luật dân
sự, xét trong lĩnh vực chứng khoán rất phong phú, đa dạng và phức tạp. 
+ Để đảm bảo thực hiện nghĩa vụ hợp đồng, pháp luật dân sự đã quy định rất nhiều biện pháp
cầm cố tài sản, thế chấp tài sản, bảo lãnh, đặt cọc, ký cược, kí quỹ, phạt vi phạm… Hiện nay,
một số biện pháp đã được áp dụng trong hoạt động chứng khoán như: cầm cố chứng khoán để
cho vay tiền của các ngân hàng thương mại, kí quỹ trong giao dịch chứng khoán. 
+ Các vi phạm pháp luật dân sự trong lĩnh vực chứng khoán và thị trường chứng khoán chủ yếu
liên quan đến việc thực hiện nghĩa vụ hợp đồng. Khi bên có nghĩa vụ mà không thực hiện hoặc
thực hiện không đúng nghĩa vụ thì phải chịu trách nhiệm dân sự đối với bên có quyền. Trách
nhiệm dân sự là hình thức cưỡng chế của Nhà nước và do tòa án áp dụng đối với người có hành
vi vi phạm pháp luật. Hậu quả bất lợi mà người vi phạm nghĩa vụ phải gánh chịu là việc bắt
buộc phải tiếp tục thực hiện nghĩa vụ hoặc phải bồi thường thiệt hại nhằm thoả mãn quyền lợi
chính đáng của người bị vi phạm, khắc phục những hậu quả vật chất cho người bị vi phạm. 
 

17
CHƯƠNG 2: 
THỰC TRẠNG CÔNG TÁC THANH, GIÁM SÁT VÀ XỬ LÝ VI PHẠM TRÊN THỊ
TRƯỜNG CHỨNG KHOÁN VIỆT NAM TRONG GIAI ĐOẠN HIỆN NAY

1. Thực trạng hoạt động giám sát thị trường chứng khoán Việt Nam 
Tại Việt Nam, kể từ khi Luật Chứng khoán 2006; Luật Chứng khoán sửa đổi, bổ sung năm 2010
và Luật Chứng khoán 2019 được ban hành đến nay, công tác giám sát các hoạt động diễn ra trên
TTCK nói chung, giám sát giao dịch nói riêng không ngừng củng cố, hoàn thiện. 
Theo đó, thời điểm trước 1/1/2021 – thời điểm Luật Chứng khoán 2019 có hiệu lực thi hành,
công tác giám sát giao dịch chứng khoán trên TTCK được tổ chức thành giám sát hai cấp. Sàn
giao dịch chứng là đơn vị giám sát cấp 1, thực hiện giám sát tuân thủ trong thực hiện nghĩa vụ
báo cáo, công bố thông tin của tổ chức niêm yết, tổ chức đăng ký giao dịch, nghĩa vụ của thành
viên giao dịch, một số đối tượng nhà đầu tư có nghĩa vụ công bố thông tin khi giao dịch; giám
sát tuyến đầu đối với giao dịch có dấu hiệu bất thường của nhà đầu tư. 
UBCKNN là đơn vị giám sát cấp 2, thực hiện giám sát việc tuân thủ pháp luật của các tổ chức,
cá nhân tham gia TTCK, giám sát tuân thủ đối với hoạt động nghiệp vụ của Sàn giao dịch chứng
khoán, Trung tâm Lưu ký Chứng khoán; giám sát giao dịch bất thường như thao túng, nội
gián... 
Trên cơ sở kết quả giám sát thường xuyên theo hai cấp, UBCKNN xem xét xử lý vi phạm pháp
luật chứng khoán trong trường hợp có đủ cơ sở để xử phạt ngay hoặc tiến hành thanh tra, kiểm
tra trong trường hợp cần thiết để làm rõ vi phạm.
Kể từ thời điểm 1/1/2021, Luật chứng khoán 2019 chính thức có hiệu lực, công tác giám sát
TTCK tiếp tục được củng cố và hoàn thiện. Theo đó, khung pháp lý về giám sát giao dịch và
giám sát tuân thủ có những thay đổi đáng kể, đó là quy định về vai trò, trách nhiệm giám sát của
cơ quan quản lý, giám sát thị trường - UBCKNN, Sở Giao dịch Chứng khoán, Tổng công ty Lưu
ký và bù trừ chứng khoán, công ty chứng khoán, ngân hàng giám sát; các quy định đảm bảo cho
cơ quan quản lý, các chủ thể giám sát có đủ thẩm quyền để giám sát, thu thập thông tin, xác
minh, làm rõ những dấu hiệu nghi vấn trong hoạt động chứng khoán của tổ chức, cá nhân; Quy
định các cơ chế phối hợp giữa cơ quan quản lý giám sát TTCK với cơ quan thuế, cơ quan đăng
ký kinh doanh trong giám sát doanh nghiệp tham gia TTCK; Quy định về phối hợp giám sát vi
phạm chứng khoán mang tính xuyên biên giới liên quan đến TTCK Việt Nam giữa UBCKNN và
cơ quan quản lý TTCK các nước…

18
Hoạt động giám sát giao dịch chứng khoán được thực hiện theo 03 cấp. Theo đó, công ty chứng
khoán có vai trò là cấp giám sát thứ nhất; Sở Giao dịch Chứng khoán, Tổng công ty Lưu ký và
bù trừ chứng khoán có vai trò là cấp giám sát thứ 2, UBCKNN là cấp giám sát thứ 3. 
Các cấp giám sát được phân quyền rõ ràng đảm bảo thống nhất, minh bạch theo hệ thống tiêu
chí phân tích báo cáo giám sát giao dịch; Xây dựng hệ thống giám sát kết nối trực tiếp với hệ
thống giao dịch của các SGDCK, đồng thời xây dựng bộ tiêu chí cảnh báo sớm để có thể chủ
động hơn trong công tác giám sát, phù hợp với thực tế phát triển của TTCK. Quy định chi tiết về
hoạt động giám sát được thể hiện tại Thông tư số 95/2020/TT-BTC ngày 16/11/2020 của Bộ Tài
chính hướng dẫn giám sát giao dịch chứng khoán trên TTCK, có hiệu lực thi hành từ ngày
01/01/2021.
Ngoài ra, công tác giám sát giao dịch chứng khoán trên TTCK còn có sự hỗ trợ của hệ thống
giám sát giao dịch chứng khoán (MSS) trong việc tìm kiếm các thông tin liên quan đến nhà đầu
tư trên thị trường, thu thập các báo cáo, dữ liệu giao dịch chứng khoán trên thị trường...
Hàng loạt những giao dịch có dấu hiệu “bất thường”, nhiều mã cổ phiếu “Nhóm Louis” vào tầm
ngắm của Uỷ ban Chứng khoán.
Trong quá trình giám sát, thanh tra, UBCKNN đã phối hợp với các cơ quan chức năng phát hiện
nhiều vụ việc; đồng thời xử lý nghiêm các cá nhân, tổ chức có hành vi hành vi thao túng, nội
gián và các vi phạm pháp luật khác như tạo dựng, lan truyền, cung cấp thông tin giả mạo, sai sự
thật liên quan đến hoạt động chứng khoán trên không gian mạng. 
Năm 2020, UBCKNN ra quyết định xử phạt đối với 380 tổ chức, cá nhân với tổng số tiền phạt
và buộc nộp lại số lợi bất hợp pháp là 22,2 tỷ đồng; có 02 vụ án liên quan đến thao túng TTCK
đã được xét xử. 06 tháng đầu năm 2021, UBCKNN đã cũng xử phạt hành chính đối với 156 cá
nhân và 34 tổ chức với tổng số tiền phạt là 5,66 tỷ đồng.

19
Ủy ban Chứng khoán Nhà nước cho biết, những tháng cuối năm sẽ tăng cường kiểm tra, giám
sát để bảo đảm cho thị trường chứng khoán phát triển bền vững, công khai, minh bạch, tập trung
giám sát đối với hoạt động huy động vốn và việc sử dụng vốn huy động đúng mục đích, tăng
cường kiểm tra chất lượng báo cáo tài chính..., thanh tra và xử lý kịp thời, nghiêm các hành vi vi
phạm pháp luật trên thị trường.
Đặc biệt, theo Ủy ban Chứng khoán, sẽ đẩy mạnh giám sát thị trường chứng khoán, kịp thời phát
hiện các giao dịch có dấu hiệu bất thường.
Đối với giám sát công ty đại chúng, tiếp tục tăng cường giám sát chặt chẽ về công bố thông tin,
đặc biệt là thông tin tài chính, báo cáo tài chính kiểm toán, cũng như chấn chỉnh, tăng cường
chất lượng kiểm toán của các tổ chức cung cấp dịch vụ kiểm toán.
Bên cạnh đó, Ủy ban Chứng khoán tiếp tục tái cấu trúc thị trường chứng khoán, quản lý các tổ
chức kinh doanh chứng khoán, tập trung giám sát, kiểm tra việc cho vay giao dịch ký quỹ là
đúng pháp luật, an toàn cho công ty chứng khoán và an toàn bền vững cho dòng tiền trên thị
trường; hoàn thiện khung pháp lý, hệ thống chính sách cho phát triển thị trường, đảm bảo hoạt
động thị trường công khai, minh bạch, giữ vững kỷ cương, kỷ luật thị trường.
Trong những tháng vừa qua, thị trường chứng khoán Việt Nam chịu những tác động, khiến thị
trường có những giai đoạn giảm sâu.
Chỉ tính riêng quý 2/2022, thị trường đã trải qua những nhịp điều chỉnh giảm mạnh. Đóng cửa
thị trường ngày 30/6, chỉ số VN-Index đạt mức 1.197,6 điểm, giảm 20,1% và chỉ số HNX-Index
đạt mức 277,68 điểm, giảm 41,4% so với cuối năm 2021.
Thanh khoản thị trường có xu hướng giảm khiến giá trị giao dịch bình quân quý 2/2022 đạt
20.491 tỷ đồng/phiên, giảm 34,27% so với bình quân quý I/2022.
Tuy nhiên, theo Ủy ban Chứng khoán nhà nước, tính chung từ đầu năm đến nay, giá trị giao dịch
bình quân của thị trường cổ phiếu đạt 25.440 tỷ đồng, chỉ giảm 4,4% so với bình quân năm
trước.
"Chúng ta vẫn giữ được thanh khoản thị trường ở mức tốt, đồng thời số lượng tài khoản mở mới
kỷ lục cùng việc các nhà đầu tư nước ngoài mua ròng cổ phiếu cho thấy thị trường chứng khoán
vẫn nhận được những sự quan tâm từ các nhà đầu tư trong và ngoài nước," Ủy ban Chứng khoán
nhà nước cho biết thêm.
2. Thực trạng hoạt động thanh tra thị trường chứng khoán Việt Nam 
Thanh tra Uỷ ban Chứng khoán có vai trò quan trọng trong công tác xây dựng văn bản, phối hợp
giám sát, tiến hành thanh kiểm tra, phát hiện và xử lý các vi phạm pháp luật, góp phần đảm bảo
các nguyên tắc hoạt động của thị trường, tăng cường hiệu quả, hiệu lực quản lý nhà nước đối với
TTCK.
- Chỉ tính riêng trong các năm 2010-2015, Thanh tra UBCKNN đã chủ trì triển khai 52 đoàn
thanh tra và 29 đoàn kiểm tra; phối hợp với các đơn vị chuyên môn trong UBCKNN thực hiện

20
hơn 200 đoàn kiểm tra công ty đại chúng, công ty chứng khoán, công ty quản lý quỹ, văn phòng
đại diện công ty quản lý quỹ và nhiều đoàn kiểm tra giao dịch thao túng, giao dịch nội bộ; phối
hợp với các đơn vị của UBCKNN giải quyết hàng trăm đơn thư tố cáo, phản ánh, kiến nghị.
Trên cơ sở kết quả phối hợp giám sát, thanh tra, kiểm tra, xác minh tố cáo, trong giai đoạn 2010-
2015, Thanh tra đã tham mưu cho Lãnh đạo UBCKNN ban hành hơn 900 quyết định xử phạt vi
phạm hành chính với tổng số tiền xử phạt gần 60 tỷ đồng.
Trong năm 2020 và 9 tháng đầu năm 2021, do tình hình dịch Covid-19 diễn biến phức tạp, Uỷ
ban Chứng khoán Nhà nước đã chủ động giãn hoạt động thanh kiểm tra định kỳ nhưng tăng
cường thực hiện giám sát hoạt động, việc tuân thủ pháp luật của các tổ chức, cá nhân trên thị
trường chứng khoán, vẫn triển khai đoàn đột xuất khi phát hiện dấu hiệu vi phạm pháp luật.
- Uỷ ban Chứng khoán Nhà nước đã triển khai tổng cộng 18 đoàn thanh kiểm tra định kỳ, 13
đoàn kiểm tra đột xuất. Trên cơ sở giám sát, thanh kiểm tra, trong giai đoạn 2020- tháng 9/2021,
Uỷ ban Chứng khoán Nhà nước đã xử phạt tổng cộng 659 tổ chức cá nhân vi phạm hành chính
với tổng số tiền phạt hơn 34 tỷ đồng trong đó xử phạt 11 cá nhân, tổ chức có hành vi thao túng,
phối hợp chặt chẽ với cơ quan công an trong xác minh, điều tra các vụ việc thao túng, vụ việc
hình sự.
- Trong quý II/2022, UBCKNN tiếp tục rà soát để xử lý, tiến hành tái cấu trúc các công ty chứng
khoán (CTCK). Cụ thể, có 01 CTCK đang trong tình trạng cảnh báo, 01 CTCK đang trong tình
trạng kiểm soát, 02 CTCK đang trong tình trạng kiểm soát đặc biệt, 02 CTCK đang trong tình
trạng giải thể; bên cạnh đó, đình chỉ hoạt động đối với 01 CTCK, chấm dứt hoạt động đối với 01
CTCK, thu hồi giấy phép của 13 CTCK và mở thủ tục thu hồi Giấy phép 06 CTCK. 
- Trong 6 tháng đầu năm 2022, Về giám sát kiểm soát chất lượng kiểm toán: UBCKNN đã đình
chỉ tư cách 02 công ty kiểm toán được chấp thuận thực hiện kiểm toán cho các đơn vị có lợi ích
công chúng thuộc lĩnh vực chứng khoán và các kiểm toán viên có vi phạm.
Cũng trong thời gian này, UBCKNN đã triển khai 10 đoàn thanh kiểm tra, bao gồm 02 đoàn
thanh kiểm tra định kỳ và 08 đoàn kiểm tra đột xuất. UBCKNN tiếp tục phối hợp cơ quan chức
năng trong việc xử lý hình sự những vụ việc liên quan đến thao túng giá cổ phiếu; ban hành 182
quyết định xử phạt với tổng số tiền phạt 15,84 tỷ đồng, trong đó một số vụ việc xử phạt áp dụng
hình thức xử phạt bổ sung, biện pháp khắc phục hậu quả...
Đối với hiện tượng một số cổ phiếu biến động mạnh trên thị trường chứng khoán dù doanh
nghiệp có kết quả kinh doanh kém trong thời gian gần đây, Uỷ ban Chứng khoán Nhà nước đang
tổ chức giám sát chặt chẽ, kiểm tra các giao dịch có dấu hiệu bất thường, xử lý nghiêm vi phạm
theo quy định pháp luật.
Thanh tra UBCKNN phối hợp với cơ quan điều tra trong xác minh, điều tra, làm rõ đối với các
vụ việc mang tính hình sự liên quan đến thao túng giá chứng khoán, chiếm đoạt tiền trong tài
khoản nhà đầu tư. Thanh tra chứng khoán đã chủ động tổ chức thu thập thông tin trên thị trường
chứng khoán để nắm bắt, phát hiện dấu hiệu vi phạm, tiến hành thanh tra, kiểm tra làm rõ vi
phạm, kịp thời kiến nghị xử lý nghiêm những vụ việc vi phạm nổi cộm trên thị trường, góp phần
ổn định tâm lý nhà đầu tư, răn đe phòng ngừa vi phạm.

21
Ngày 16/5/2022, Bộ Tài chính cho biết, từ nay đến cuối năm sẽ thanh tra các tổ chức kinh doanh
chứng khoán, công ty kiểm toán, tập trung vào các báo cáo tài chính (kiểm toán) có nhiều sai
sót.
Báo cáo về tình hình thị trường chứng khoán, theo Bộ Tài chính, tính đến hết tháng 4, chỉ số
VN-Index đạt 1.366,8 điểm, giảm 8,4% so với cuối tháng trước và giảm 8,8% so với cuối năm
2021. 
Mức vốn hóa thị trường cổ phiếu 3 sàn HOSE, HNX và UPCoM đạt 7,166 triệu tỉ đồng, giảm
7,7% so với cuối năm 2021, tương đương 85,3% GDP.
Về quy mô giao dịch, trong tháng 4, giá trị giao dịch bình quân đạt 26.299 tỉ đồng/phiên, giảm
19% so với tháng trước. Tính chung từ đầu năm tới nay, giá trị giao dịch bình quân đạt 29.924 tỉ
đồng/phiên, tăng 12,5% so với bình quân năm trước.
Từ nay cho đến cuối năm 2022,  Bộ Tài chính cho biết sẽ khẩn trương thực hiện và rà soát
vướng mắc, bất cập quy định pháp luật chứng khoán, các nghị định hướng dẫn luật Chứng
khoán 2019. Thực hiện kế hoạch thanh tra, kiểm tra đối với các công ty đại chúng, tổ chức kinh
doanh chứng khoán, công ty kiểm toán được chấp thuận trên cơ sở kế hoạch đã được điều chỉnh;
xử lý nghiêm vi phạm trên cơ sở kết quả giám sát. 
“Thực hiện giám sát chặt chẽ các giao dịch chứng khoán có dấu hiệu bất thường; kịp thời phối
hợp với các Sở Giao dịch chứng khoán có đánh giá, phân tích, tiến hành kiểm tra giao dịch đối
với các giao dịch có dấu hiệu vi phạm quy định; thực hiện giám sát hoạt động các công ty đại
chúng. Thực hiện kế hoạch thanh tra, kiểm tra các doanh nghiệp kiểm toán đối với các doanh
nghiệp niêm yết, công ty đại chúng, chú ý đối với các doanh nghiệp có khách hàng có báo cáo
tài chính sai lệch hoặc có nhiều sai sót”, Bộ Tài chính cho biết.
Bên cạnh đó, Bộ này cũng khẳng định sẽ đẩy mạnh kiểm tra, giám sát việc phát hành trái phiếu
doanh nghiệp, đặc biệt là phát hành không có tài sản bảo đảm; tiếp tục triển khai Đề án tái cấu
trúc thị trường chứng khoán theo đúng lộ trình và quy định pháp luật...
Ngoài ra, Bộ sẽ báo cáo Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ về nghị định sửa đổi Nghị định số
95/2018/NĐ-CP của Chính phủ quy định về phát hành, đăng ký, lưu ký, niêm yết và giao dịch
công cụ nợ của Chính phủ trên thị trường chứng khoán; Nghị định sửa đổi Nghị định số
153/2020/NĐ-CP của Chính phủ quy định về chào bán, giao dịch trái phiếu doanh nghiệp riêng
lẻ tại thị trường trong nước và chào bán trái phiếu doanh nghiệp ra thị trường quốc tế; Nghị định
về phát hành công cụ nợ của Chính phủ; Nghị định về chào bán và giao dịch trái phiếu doanh
nghiệp…
3. Thực trạng hoạt động xử lí vi phạm thị trường chứng khoán Việt Nam
TTCK tại Việt nam được xây dựng và phát triển trong bối cảnh các yếu tố thị trường còn sơ
khai, tính chất hoạt động chứng khoán phức tạp, nhạy cảm trong khi hiểu biết của thành viên thị
trường và nhà đầu tư nhỏ lẻ còn nhiều hạn chế, ý thức tuân thủ pháp luật chung hay pháp luật

22
chứng khoán là chưa cao. Đi cùng với mô thị trường gia tăng, các hoạt động chứng khoán ngày
càng đa dạng, các vi phạm pháp luật trên thị trường cũng diễn ra ngày càng tinh vi và phức tạp. 
Theo khảo sát của Bộ tài chính, tính riêng trong 09 năm vừa qua (2013-2021), các vi phạm, tội
phạm xảy ra trong lĩnh vực chứng khoán chiến tỷ lệ thấp (khoảng 6%) so với các lĩnh vực khác,
tập trung chủ yếu ở một số hành vi như: vi phạm quy định công bố thông tin, hành vi thao túng
thị trường chứng khoán hoặc hành vi giao dịch có dấu hiệu nội gian. Cụ thể, những hành vi này
đã ảnh hưởng trực tiếp đến các hoạt động giao dịch trên thị trường, làm ảnh hưởng đến nhà đầu
tư với hành vi “lái” giá cổ phiếu như không báo cáo trước thời điểm tiến hành giao dịch; hành vi
tạo dựng, công bố những thông tin sai lệch, làm giả tài liệu trong hồ sơ chào bán, niêm yết trên
thị trường chứng khoán Việt Nam… Những vi phạm này diễn ra rất phổ biến làm ảnh hưởng đến
tính minh bạch của thị trường và tiềm ẩn rất nhiều nguy cơ liên quan đến tội phạm trong lĩnh
vực này. Cụ thể: 
- Hành vi vi phạm về thao túng giá chứng khoán:  dấu hiệu thao túng giá có thể là đặt lệnh và
thực hiện giao dịch ngược hướng với thị trường gây ảnh hưởng giả đến giá chứng khoán; tạo
khoảng biến động giá lớn nhưng lại không có thông tin cơ bản để đánh giá giá trị cơ bản của cổ
phiếu; dẫn đến vấn đề mất cân bằng khối lượng đặt lệnh của nhà đầu tư, thường chỉ khớp giá và
khối lượng trong nhóm thao túng. 
- Hành vi giao dịch có dấu hiệu nội gián khi không báo cáo trước thời điểm tiến hành giao dịch:
các giao dịch có dấu hiệu nội gián thường dựa trên việc cố tình lợi dụng lợi thế về việc tiếp cận
được thông tin tốt hoặc xấu về hoạt động và tình hình tài chính của công ty. Nguồn thông tin này
có thể xuất phát từ các viên chức cấp cao trong tổ chức phát hành như: chủ tịch HĐQT, tổng
giám đốc/ giám đốc, phó tổng giám đốc/ phó giám đốc, kế toán trưởng… Các giao dịch này
ngày càng tinh vi, khó chứng minh được hành vi vi phạm. 
- Hành vi tạo dựng hoặc công bố thông tin sai lệch, làm giả tài liệu trong hồ sơ chào bán, niêm
yết trên thị trường chứng khoán: Hành vi tạp dựng thông tin sai sự thật, làm gỉa hồ sơ thường rất
tinh vi, phức tạp, có sự kết hợp nhiều thao tác và có tính thông đồng. Việc công ty có tiền sử vi
phạm một số gian lận thì rất có thể thực hiện càng các loại gian lận khác nữa. 
4. Thành tựu và hạn chế của thanh tra, giám sát và xử lí vi phạm trên thị trường chứng
khoán
4.1. Thành tựu của thanh tra giám sát, thị trường và xử lí vi phạm trên thị trường chứng
khoán
Hoạt động quản lý và giám sát TTCK lấy việc bảo đảm ổn định, an toàn của thị trường và quyền
lợi của công chúng đầu tư làm trọng tâm. Theo đó, thiết lập cơ chế giám sát TTCK bài bản,
chuyên nghiệp theo thông lệ quốc tế. Công tác thanh tra và xử lý vi phạm trong lĩnh vực chứng
khoán và TTCK ngày càng được tăng cường. Việc tổ chức thanh tra chuyên ngành Chứng khoán
tại UBCKNN đã được chấp thuận nhằm đảm bảo thực thi các chức năng quản lý, giám sát, thanh
tra và cưỡng chế thực thi theo các tiêu chuẩn của IOSCO và mục tiêu, giải pháp tại Chiến lược
phát triển TTCK giai đoạn 2011 - 2020.

23
- Tăng trưởng mạnh về quy mô, góp phần phát triển hệ thống tài chính quốc gia theo hướng cân
bằng và bền vững hơn, trở thành kênh huy động vốn quan trọng cho nền kinh tế.
+ Cấu trúc và thể chế thị trường ngày càng hoàn thiện. Điều này thể hiện rõ nét qua ba khía cạnh
chính. Một là, hệ thống văn bản pháp luật được phát triển một cách đồng bộ, phù hợp với bối
cảnh thực tiễn cũng như kinh nghiệm và thông lệ quốc tế, từ đó giúp cho TTCK phát triển ổn
định, vững chắc. Tiêu biểu nhất là Luật Chứng khoán năm 2019 được Quốc hội ban hành đã dần
tiệm cận chuẩn mực, thông lệ quốc tế, phù hợp với điều kiện phát triển của TTCK Việt Nam,
khắc phục được những hạn chế bất cập của Luật Chứng khoán năm 2006 và sửa đổi năm 2010.
+ Đối với cấu trúc thị trường, trong giai đoạn từ năm 2000 đến nay, hàng loạt thị trường mới đã
được bổ sung giúp TTCK Việt Nam ngày càng hoàn chỉnh.
+ Năng lực quản lý và giám sát được bài bản hóa cũng là một trong những thành công nổi bật
của TTCK trong hơn 20 năm qua. Mô hình quản lý, giám sát đã từng bước được hoàn thiện, có
sự phân cấp rõ ràng. Hoạt động thanh tra, giám sát và cưỡng chế thực thi ngày càng hiệu quả,
góp phần giữ vững ổn định, kỷ cương pháp luật của thị trường, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp
của nhà đầu tư.
- TTCK đóng góp quan trọng vào tiến trình cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước (DNNN), nâng
cao tính minh bạch và năng lực quản trị công ty.
Thông qua cơ chế đấu giá minh bạch, hiện đại và gắn cổ phần hóa với đăng ký giao dịch, niêm
yết; TTCK đã góp phần quan trọng vào những kết quả cổ phần hóa và thoái vốn DNNN thời
gian qua. Không những vậy, TTCK còn giúp tăng cường tính minh bạch, hiệu quả hoạt động của
các doanh nghiệp niêm yết, doanh nghiệp có chứng khoán giao dịch và bảo vệ lợi ích nhà đầu
tư.
- Loại hình định chế, sản phẩm - dịch vụ ngày càng đa dạng, hướng theo các chuẩn mực và
thông lệ quốc tế.
+ Hiện nay, thành viên tham gia TTCK ngày càng đa dạng với 83 công ty chứng khoán (CTCK)
có giấy phép hoạt động, trong đó 74 công ty là thành viên của các Sở GDCK và 45 công ty quản
lý quỹ đang hoạt động sau quá trình tái cấu trúc. Tiếp đó là việc hình thành các quỹ đầu tư
chứng khoán với 31 quỹ hiện nay, tiến tới là quỹ tín thác đầu tư.
Trong xu thế phát triển, hàng loạt sản phẩm, dịch vụ với nhiều ưu điểm, bắt nhịp với xu hướng
phát triển của toàn cầu lần lượt ra đời.
- TTCK Việt Nam tham gia mạnh mẽ vào quá trình hội nhập quốc tế. Hòa mình vào xu hướng
hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng của nền kinh tế Việt Nam, TTCK đã phát triển một cách
mạnh mẽ, góp phần đẩy mạnh hơn nữa quá trình hội nhập quốc tế của Việt Nam. Mức độ tín
nhiệm của thị trường vốn Việt Nam được nâng cao, góp phần gia tăng khả năng thu hút các
nguồn vốn đầu tư, giúp giảm chi phí huy động vốn trên thị trường quốc tế. TTCK Việt Nam
cũng đã thực hiện nhiều giải pháp nhằm nâng hạng từ thị trường cận biên lên thị trường mới nổi
trên bảng xếp hạng MSCI và FTSE Rusell đến năm 2023, nếu quyết tâm và kiên trì thực hiện.

24
- Quy chế phối hợp quản lý, giám sát chặt chẽ với Ngân hàng Nhà nước, Bộ Công an, các Bộ,
ngành liên quan đã được ban hành và triển khai thực hiện phát huy hiệu quả quản lý nhà nước
trên thị trường tài chính. Chế tài xử phạt cũng đã được nâng lên nhằm tăng tính răn đe đối với
các hành vi vi phạm trên thị trường. Bên cạnh đó, đội ngũ cán bộ quản lý, giám sát, thanh tra có
đủ trình độ, năng lực cùng với việc hoàn thiện các dự án công nghệ thông tin đã hỗ trợ và nâng
cao hiệu quả cho công tác thanh tra, giám sát TTCK.
- Hệ thống công nghệ thông tin (CNTT) và cơ sở dữ liệu ngày càng được chú trọng đầu tư, góp
phần phát triển TTCK một cách minh bạch và hiện đại.
4.2. Hạn chế của thanh tra giám sát, thị trường và xử lí vi phạm trên thị trường chứng khoán

- Hạn chế trong phát hiện và xử lý vi phạm:

+ Phạm vi, đối tượng thanh tra, kiểm tra ngày càng rộng; khối lượng công việc ngày càng lớn.
Các vi phạm trên thị trường ngày càng tinh vi, phức tạp, khó phát hiện và xử lý: việc chứng
minh hành vi vi phạm gặp khó khăn, nhất là trong việc xác định mối quan hệ giữa các đối tượng
nghi vấn.

+ Ở nước ta Thanh tra UBCK chỉ có quyền thanh tra, kiểm tra trên cơ sở những chứng cứ cụ thể
và mời đối tượng nghi vấn sai phạm lên làm việc, mà không có quyền điều tra vụ việc như thanh
tra chứng khoán ở các nước khác. UBCKNN Việt Nam không có khả năng thu thập thông tin về
tài khoản và giao dịch ngân hàng; không có quyền tiếp cận điện thoại, thư tín điện tử. Do vậy,
thời gian qua, UBCKNN gặp nhiều khó khăn trong công tác xác minh, xử lý các vụ việc giao
dịch nội gián và thao túng thị trường, nhất là khi các hành vi giao dịch thao túng, nội gián của
nhà đầu tư ngày càng phức tạp, tinh vi.. + Nhà đầu tư vi phạm sẽ phải đối mặt với mức xử phạt
cao, thu hồi khoản lời bất chính cũng như bị xử lý hình sự nên thái độ của đối tượng vi phạm
ngày càng quyết liệt và có nhiều hình thức không hợp tác với UBCKNN như không đến làm
việc theo yêu cầu, không thừa nhận hành vi vi phạm hoặc không ký vào biên bản làm việc và
biên bản hành chính... làm cho việc kiểm tra các hành vi giao dịch nghi vấn gặp nhiều khó khăn.

-  Đầu tư cho cơ sở hạ tầng kỹ thuật, công nghệ thông tin còn nhỏ so với yêu cầu hoàn thiện
quản lý nhà nước đối với thị trường chứng khoán:

+ Hệ thống MSS phục vụ công tác giám sát, phân tích và lưu trữ dữ - liệu mặc dù đã được chú
trọng tăng cường nhưng vẫn đang trong quá trình nâng cấp và hoàn thiện; hệ thống chưa có phần
mềm phân tích và các công cụ phân tích dữ liệu giao dịch chứng khoán phục vụ việc cảnh báo,
đánh giá hành vi vi phạm

- Việc đầu tư, phát triển hạ tầng CNTT còn mang tính chất thụ động, chưa tập trung, chưa có
tính tổng thể và bài bản. Nguyên nhân chủ yếu là do những tồn tại sau:

+ Việc đầu tư trang bị về phần cứng còn mang tính chất nhỏ lẻ và gắn liền với mỗi dự án hệ
thống riêng lẻ, chưa có tính tập trung, chưa có quy mô mang tính tổng thể, chưa có sự tính toán
lâu dài trong việc mở rộng và nâng cấp về sau. Vấn đề bố trí vốn, kinh phí triển khai cũng chưa

25
thực sự linh hoạt do cân đối nguồn kinh phí để triển khai những hệ thống ứng dụng với mức
quan trọng khác nhau.

+ Hạ tầng CNTT hiện chưa được tập trung, mức độ phân bố rời rạc, khả năng quản trị bị động.
Nguyên nhân chính là UBCKNN chưa có trung tâm dữ liệu hoàn chỉnh của riêng mình, tất cả hệ
thống quan trọng đều thuê địa điểm đặt tại đơn vị cung cấp dịch vụ hosting.

+ Vấn đề an toàn bảo mật của UBCKNN tuy đã được đầu tư, trang bị nhiều nhưng mức độ còn
hạn chế, các thiết bị thực sự cấp thiết, tối quan trọng mới được ưu tiên đầu tư và đều ở chế độ
đơn. Điều này là rất nguy hiểm cho hệ thống hạ tầng CNTT, đặc biệt trong lĩnh vực tài chính -
chứng khoán.

- Hạn chế, khó khăn về nguồn nhân lực và chất lượng đội ngũ cán bộ làm công tác CNTT:

+ Thiếu hụt nguồn nhân lực thực hiện công tác xây dựng và pháp triển ứng dụng CNTT trong
ngành Chứng khoán. Đặc biệt là kỹ năng quản lý các dự án lớn theo mô hình tập trung còn rất
khiêm tốn và sự hiểu biết về nghiệp vụ chứng khoán còn hạn chế. Ngoài ra, các cán bộ hoạt
động ở chế độ kiêm nhiệm, mỗi người được phân công quản trị, xử lý cùng lúc nhiều hệ thống
chồng chéo, nhiều công cụ quản trị còn thiếu khiến việc quản trị vất vả và chưa thực sự đem lại
hiệu quả cao.

+ Cơ chế tuyển dụng tuy đã có nhiều thay đổi, nhưng vẫn chưa thực sự phù hợp với điều kiện
thực tiễn nên chưa thu hút được đủ về số lượng đội ngũ tin học vào làm việc. Việc đào tạo, phát
triển nhân lực về CNTT hiện tại vẫn còn bị động, chưa tương xứng với yêu cầu công việc nên
chất lượng của đội ngũ tin học chưa đạt yêu cầu.

-  Nhân lực làm thanh tra, giám sát còn mỏng, trình độ còn hạn chế

+ Số lượng và chất lượng cán bộ làm công tác thanh tra, giám sát còn mỏng và yếu. Tính trung
bình, mỗi cán bộ làm công tác giám sát, quản lý phải phụ trách khoảng 50 công ty niêm yết, 10-
20 công ty chứng khoán, số lượng nhà đầu tư có liên quan phụ thuộc vào các vụ việc. Số lượng
cán bộ của UBCK mới chỉ đủ cho công tác giám sát giao dịch định kì. Chất lượng cán bộ thanh
tra, giám sát cũng là một hạn chế, khi mà công việc này đòi hỏi người cán bộ phải có kiến thức
hiểu biết về TTCK, thị trường tài chính, những kiến thức về kế toán, luật, tin học và các kỹ năng
phân tích, xử lý số liệu, sự nhạy cảm trong phát hiện vấn đề.

- Thẩm quyền của Ủy ban chứng khoán Nhà nước trong công tác thanh tra, giám sát còn hạn
chế:

+ Thực tiễn áp dụng Luật Chứng khoán của Bộ Tài chính cho thấy, quy định về thẩm quyền của
UBCK trong thanh tra, kiểm tra, xác minh vi phạm trên thị trường chứng khoán chưa đầy đủ,
đồng thời chưa gắn việc quy định thẩm quyền của UBCK với quy định thẩm quyền của các cơ
quan liên quan như: ngân hàng, công an, cơ quan thuế… trong phối hợp thực hiện, dẫn đến chưa
bảo đảm thực hiện tốt chức năng quản lý, giám sát, cưỡng chế thực thi. Quá trình phát triển và
hoạt động của TTCK luôn tiềm ẩn rủi ro xuất phát từ các hành vi mang tính lạm dụng, trục lợi.
26
Thế nhưng, với thẩm quyền như hiện nay, khi phát hiện vụ việc có dấu hiệu thao túng giá chứng
khoán, hoặc giao dịch có sử dụng thông tin nội bộ, UBCK chỉ có thể thực hiện các quyền khi
tiến hành thanh tra gồm: yêu cầu đối tượng nghi vấn cung cấp thông tin, tài liệu, mời đối tượng
đến làm việc, giải trình (không đến thì không có cách gì bắt buộc). 

- Quy định pháp luật chưa rõ ràng, còn mang tính định tính: Tại Bộ luật hình sự 1999, sửa đổi
năm 2009 quy định “yếu tố cấu thành tội phạm” của hành vi “thao túng giá chứng khoán” còn
mang tính định tính nên việc xử lý hình sự các vụ việc thao túng còn gặp nhiều khó khăn. Bộ
luật Hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017 đã quy định rõ hơn về một trong những yếu
tố cấu thành tội phạm của 04 tội danh trong lĩnh vực chứng khoán là yếu tố gây thiệt hại cho nhà
đầu tư. Tuy nhiên hiện chưa có quy định pháp lý và văn bản hướng dẫn nào làm cơ sở hoặc tham
chiếu cho việc tính toán khoản thiệt hại cho nhà đầu tư trong xác định dấu hiệu hình sự, hành
chính của hành vi vi phạm, gây khó cho cơ quan chức năng khi xử lý, thực hiện giám định tư
pháp các vụ việc về thao túng, nội gián hay các hành vi vi phạm khác. 
- Đối tượng, chủ thể của vi phạm pháp luật trong lĩnh vực chứng khoán là đối tượng có học thức,
hiểu biết, am hiểu sâu rộng và thậm chí là chuyện gia về lĩnh vực tài chính, chứng khoán, công
nghệ thông tin và có quan hệ xã hội sâu rộng nên phương thức thủ đoạn phạm tội thường rất tinh
vi, lợi dụng những kẽ hở trong công tác quản lý, kiểm tra, giám sát thị trường chứng khoán để
thực hiện hành vi vi phạm. Đây được coi là một loại tội phạm ẩn, diễn ra trong một thời gian
dài, khi phát hiện thì đã gây thiệt hại lớn cho ngân sách đồng thời gây nhiều khó khăn trong quá
trình phát hiện, điều tra, xử lý vụ việc của các cơ quan chức năng. 
- Công tác xác định hậu quả, thiệt hại trong các vụ án liên quan đến lĩnh vực chứng khoán còn
gặp nhiều khó khăn, do số lượng tài khoản chứng khoán giao dịch lớn, rất khó xác định được sự
liên hệ giữa các tài khoản.
- Nhận thức về vi phạm pháp luật nói chung và tội phạm nói riêng trong lĩnh vực chứng khoán
còn rất mới mẻ, bản thân những nhà đầu tư nhỏ lẻ hoặc từ chính cơ quan chức năng tham gia
giải quyết vụ việc xảy ra trong lĩnh vực này còn thiếu kinh nghiệm, gây hạn chế trong công tác
phối hợp điều tra. 

27
CHƯƠNG 3: 
GIẢI PHÁP VỀ HẠN CHẾ NHẰM GÓP PHẦN NÂNG CAO HIỆU QUẢ HOẠT ĐỘNG
THANH TRA, GIÁM SÁT THỊ TRƯỜNG CHỨNG KHOÁN VIỆT NAM

1. Đối với cơ quan quản lý Nhà nước trong hoạt động thanh tra, giám sát và xử lí vi phạm
trên chứng khoán và thị trường chứng khoán
1.1 Trong hoạt động thanh tra chứng khoán và thị trường chứng khoán
Một là, tiếp tục hoàn chỉnh khung pháp lý cho lĩnh vực chứng khoán và TTCK. Trong thời gian
tới, TTCK không ngừng phát triển với quy mô, tính chất phức tạp ngày càng tăng, một số sản
phẩm mới, như: chứng khoán phái sinh, các sản phẩm quỹ mới (ETF, quỹ hưu trí, quỹ bất động
sản...) sẽ ra đời, vận hành, đòi hỏi cơ quan quản lý phải tích cực chủ động để ban hành các văn
bản pháp luật để điều chỉnh, giám sát các nội dung này.
Hai là, xây dựng cơ chế phối hợp và chia sẻ thông tin giữa UBCKNN với các bộ, ngành liên
quan, với các SGDCK, Trung tâm Lưu ký Chứng khoán, các công ty chứng khoán, nhà đầu tư,
các ngân hàng giám sát trong triển khai công tác giám sát giao dịch. Dù đã có cơ chế phối hợp
hoạt động trong công tác giám sát giữa UBCKNN, SGDCK và Trung tâm Lưu ký Chứng khoán
(Quyết định số 689), nhưng sự phối hợp này chưa bao hàm đủ. Bởi, trên TTCK, vẫn còn các tổ
chức trung gian, như: công ty chứng khoán và ngân hàng, cũng đóng vai trò khá quan trọng
trong công tác giám sát. Họ là các đơn vị nắm rõ nhất các thông tin và trực tiếp quản lý khách
hàng của mình và là nơi đầu tiên phát sinh giao dịch.
Ba là, hiện đại hóa, điện tử hóa hạ tầng công nghệ và đào tạo nhân lực cho công tác giám sát và
thanh tra xử lý vi phạm. Hiện tại, UBCKNN đã bước đầu triển khai một số hệ thống hỗ trợ cho
công tác giám sát, như: MSS (giám sát giao dịch), IDS (công bố thông thông tin). Tuy nhiên,
cần tiếp tục hoàn thiện hệ thống công nghệ giám sát, kết nối dữ liệu với các SGDCK và Trung
tâm Lưu ký Chứng khoán để tăng cường quản lý tổ chức kinh doanh chứng khoán, tổ chức phát
hành... Từ đó, xây dựng hoàn chỉnh hệ thống cơ sở dữ liệu phục vụ cho công tác giám sát, thay
thế cho công tác giám sát thu công.
Hiện nay, đội ngũ cán bộ tin học thực hiện công tác quản lý nhà nước về CNTT của ngành
Chứng khoán còn thiếu nên khó đáp ứng được yêu cầu phát triển CNTT của UBCKNN. Vì vậy,
cần tập trung nâng cao về số lượng và chất lượng đội ngũ cán bộ làm công tác quản lý nhà nước
về CNTT của UBCKNN; Xây dựng chính sách khác biệt về việc đào tạo toàn diện về kiến thức
CNTT chuyên sâu cho đội ngũ cán bộ hoạt động CNTT trong lĩnh vực chứng khoán, để bảo đảm
có đội ngũ cán bộ tin học có đủ trình độ nắm bắt, đánh giá và triển khai các công nghệ tiên tiến
hơn.
Song song với việc phát triển ứng dụng CNTT là việc nâng cao năng lực cán bộ giám sát các
cấp. Yêu cầu của công tác giám sát giao dịch đòi hỏi cán bộ giám sát phải có các kỹ năng
chuyên môn về phân tích, xử lý dữ liệu; kỹ năng tiếp xúc với các đối tượng giám sát thuộc nhiều
thành phần khác nhau; cũng như khả năng vận hành hệ thống công nghệ phục vụ cho công tác
giám sát.
28
Bốn là, tăng cường, bổ sung quyền cho cơ quan quản lý giám sát hoạt động của TTCK trong
công tác giám sát, kiểm tra và xử lý vi phạm. Mặc dù một số hành vi vi phạm đã được lượng hóa
và có chế tài xử lý hình sự để đảm bảo tính răn đe (Tội cố ý công bố thông tin sai lệch hoặcche
giấu sự thật trong hoạt động chứng khoán; Tội sử dụng thông tin nội bộ để mua bán chứng
khoán; Tội thao túng giá chứng khoán), song với nhiều vi phạm, UBCKNN lại không đủ thầm
quyền để tham gia xử lý. Để giải quyết những khó khăn, vướng mắc trong công tác phát hiện,
đấu tranh, xử lý các hành vi thao túng, giao dịch nội gián, UBCKNN đã đánh giá hệ thống pháp
lý về tố tụng hình sự, tình hình vi phạm, tội phạm, các yêu cầu đặt ra đối với công tác đấu tranh,
xử lý, phòng ngừa các hành vi thao túng, giao dịch nội gián, yêu cầu về hội nhập, thực hiện cam
kết quốc tế cũng như học tập kinh nghiệm các nước trên thế giới để đề xuất Bộ Tài chính kiến
nghị các cơ quan chủ trì soạn thảo Bộ luật tố tụng hình sự (sửa đổi) và dự án Luật tổ chức cơ
quan điều tra hình sự, đề xuất bổ sung thêm chủ thể cơ quan được tiến hành một số hoạt động
điều tra ban đầu, cân nhắc xem xét đến khả năng trao cho UBCKNN thẩm quyền cao hơn trong
thẩm vấn hoặc điều tra các vi phạm, hoặc tạo ra một cơ chế phối họp chặt chẽ giữa UBCKNN,
công an và tòa án để giải quyết, xử lý vi phạm.
Năm là: Hệ thống giám sát TTCK được xây dựng với mục tiêu xây dựng cơ sở dữ liệu để thu
thập báo cáo về lệnh giao dịch từ các SGDCK và TTLKCK. Hệ thống cho phép cán bộ của
UBCKNN thực hiện các phân tích khác nhau dựa trên những dữ liệu của thị trường để hỗ trợ và
phục vụ cho công tác quản lý và giám sát TTCK. Tuy nhiên, MSS chỉ là công cụ hỗ trợ, nên để
nâng cao năng lực giám sát, con người phải đóng vai trò quan trọng. Vì vậy, để sử dụng hiệu
quả MSS cho hoạt động giám sát thị trường, UBCKNN cần:
- Đào tạo đội ngũ cán bộ, công chức sử dụng và khai thác tốt dữ liệu từ Hệ thống MSS, nâng cao
năng lực chuyên sâu của cán bộ nghiệp vụ để có thể phân tích, giám sát giao dịch trên TTCK,
phát hiện kịp thời và xử lý các vụ việc theo đúng quy định pháp luật một cách hiệu quả.
- Cùng với các đơn vị liên quan phối hợp chặt chẽ và sử dụng Hệ thống MSS theo đúng quy
định, kịp thời phát hiện những bất cập của MSS và đưa ra phương án xử lý phù hợp; làm tốt
công tác bảo mật dữ liệu.
- Tiếp tục nghiên cứu, xây dựng các báo cáo đầu ra của Hệ thống MSS để đáp ứng tốt hơn công
tác giám sát giao dịch theo yêu cầu thực tế của TTCK.
- Sử dụng, bố trí nhân lực thực hiện công tác thanh tra, giám sát có hiệu quả; chăm lo đào tạo,
bồi dưỡng và có chế độ đãi ngộ hợp lý đối với đội ngũ thực hiện thanh tra,giám sát.
Sáu là: Tăng cường hợp tác quốc tế trong thanh tra, giám sát thị trường chứng khoán
Trong bối cảnh hội nhập kinh tế - tài chính ngày càng sâu rộng, hoạt động phối hợp, hợp tác
giữa các quốc gia nhằm giám sát, quản lý tài chính càng có ý nghĩa quan trọng, đã trở thành
thông lệ quốc tế và phù hợp điều kiện hội nhập sâu rộng của các nước nói chung và Việt Nam
nói riêng. Các hoạt động này nhằm tăng cường năng lực quản lý, giám sát của cơ quan quản lý
nhà nước, bảo đảm sự phát triển ổn định và lành mạnh của thị trường. Ngoài ra, việc gia tăng
dòng vốn nước ngoài vào Việt Nam cũng đặt ra yêu cầu về tăng cường năng lực của cơ quan
quản lý trong việc giám sát dòng vốn ra vào, tránh nguy cơ bong bóng hoặc rút vốn ồ ạt, để nền
kinh tế có thể hấp thụ lượng vốn một cách có hiệu quả.

29
1.2 Trong hoạt động giám sát chứng khoán và thị trường chứng khoán
Chiến lược phát triển TTCK giai đoạn 2011-2020 được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt xác
định một số mục tiêu trọng tâm: Phát triển TTCK ổn định, vững chắc, cấu trúc hoàn chỉnh,
nhiều cấp độ, tăng quy mô và chất lượng hoạt động, đa dạng hóa sản phẩm, nghiệp vụ, đảm bảo
thị trường hoạt động hiệu quả và trở thành kênh huy động vốn trung và dài hạn quan trọng của
nền kinh tế; bảo đảm tính công khai, minh bạch, các tiêu chuẩn và thông lệ quản trị công ty, tăng
cường năng lực quản lý, giám sát và cưỡng chế thực thi, bảo vệ lợi ích của nhà đầu tư và lòng
tin của thị trường; tăng cường năng lực quản lý, giám sát và cưỡng chế thực thi của cơ quan
quản lý nhà nước trên cơ sở cho phép UBCK có đủ quyền lực để thực thi tốt các chức năng quản
lý, giám sát, thanh tra và cưỡng chế thực thi... Để thực hiện Chiến lược phát triển TTCK, công
tác thanh tra của UBCK cần đặt trọng tâm vào một số việc chính. 
- Thứ nhất, tiếp tục triển khai công tác xây dựng và hoàn thiện khung pháp lý về thanh tra, xử lý
vi phạm, giải quyết khiếu tố, kiện toàn tổ chức bộ máy; tham gia phối hợp với các đơn vị của
UBCK trong xây dựng khung pháp lý cho TTCK. Đề xuất các cơ quan hữu quan xem xét tăng
cường thẩm quyền cho cơ quan quản lý trong đấu tranh phòng ngừa, phát hiện, xử lý vi phạm
trên TTCK, nhất là vi phạm thao túng, nội gián. Thanh tra UBCKNN cần tích cực tham gia cùng
với các đơn vị thuộc UBCKNN trong việc đánh giá kết quả thực thi để hoàn thiện cơ chế chính
sách, hỗ trợ công tác tái cấu trúc thị trường. 
- Thứ hai, xây dựng kế hoạch thanh tra, kiểm tra tổ chức kinh doanh chứng khoán trên cơ sở
đánh giá các tiêu chí về rủi ro, tính tuân thủ, quy mô, yêu cầu quản lý; thanh kiểm tra chọn mẫu
mang tính đại diện cao và trọng tâm, trọng điểm đối với tổ chức niêm yết, công ty đại chúng, tổ
chức phát hành, phù hợp với ưu tiên chính sách trong từng giai đoạn. Đẩy mạnh phối hợp với
các đơn vị của UBCK, hai sở GDCK, Trung tâm Lưu ký chứng khoán trong giám sát, thanh
kiểm tra theo chuyên đề, đột xuất để phát hiện, xử lý kịp thời những vấn đề nổi cộm trên thị
trường. Với quy mô TTCK ngày càng phát triển, dự báo các vi phạm trên TTCK sẽ gia tăng, ảnh
hưởng đến quyền, lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân trên TTCK cũng như tới sự ổn định,
tính minh bạch, công bằng trên TTCK. Do vậy, Thanh tra cần tiếp tục tăng cường phối hợp với
các cơ quan chức năng trong đấu tranh, phòng chống, phát hiện và xử lý kịp thời các vi phạm,
tội phạm lạm dụng, thao túng thị trường. Trên cơ sở ưu tiên chính sách từng giai đoạn,
UBCKNN sẽ xây dựng và triển khai kế hoạch thanh tra, kiểm tra trọng tâm trọng điểm đối với
tổ chức niêm yết, CTDC, tổ chức kinh doanh chứng khoán, thanh kiểm tra theo chuyên đề, đột
xuất để phát hiện, xử lý kịp thời những vấn đề nổi cộm trên thị trường. 
Thứ ba, cần xây dựng đội ngũ cán bộ thanh tra theo hướng chuyên nghiệp, nắm chắc chuyên
môn nghiệp vụ, hiểu biết pháp luật, đáp ứng yêu cầu công tác, tạo điều kiện đào tạo, nâng cao
trình độ trong và ngoài nước, có ngoại ngữ và kỹ năng giao tiếp tốt để làm việc trong môi trường
có tính hội nhập quốc tế ngày càng cao. Việc không ngừng nâng cao năng lực, nguồn lực sẽ giúp
Thanh tra UBCKNN thực thi tốt chức năng, nhiệm vụ được giao trong đánh giá thực thi chính
sách, đảm bảo thực thi pháp luật, đảm bảo tính công khai, công bằng, minh bạch và hoạt động
ổn định của TTCK, bảo vệ quyền lợi của nhà đầu tư, nâng cao tính tuân thủ pháp luật của tổ

30
chức, cá nhân tham gia thị trường, giữ vững và củng cố niềm tin của thị trường, thực thi các định
hướng, chiến lược, chính sách, pháp luật về TTCK.
- Thứ tư, chú trọng phối hợp tổ chức các hoạt động tuyên truyền, phổ biến pháp luật cho các tổ
chức, cá nhân tham gia thị trường. Qua công tác này, Thanh tra đánh giá, tìm hiểu những khó
khăn, thuận lợi của tổ chức, cá nhân trong việc thực hiện các quy định của pháp luật, đánh giá
các nguyên nhân vi phạm, các vướng mắc, tồn tại để để xuất giải pháp hoàn thiện khung pháp
lý, cơ chế, chính sách, đưa ra các biện pháp tăng cường quản lý, giám sát để thực thi tốt các
chức năng quản lý, giám sát,thanh tra và cưỡng chế thực thi của cơ quan quản lý TTCK. Chất
lượng thông tin tuyên truyền cần luôn được đổi mới, với nhiều hình thức truyền thông đa dạng,
góp phần đảm bảo thị trường phát triển ổn định, an toàn, lành mạnh, công khai, minh bạch, hạn
chế các hành vi lạm dụng thị trường.
1.3 Trong hoạt động xử lí vi phạm chứng khoán và thị trường chứng khoán
Trong thời gian tới, để nâng cao chất lượng công tác phòng, chống tội phạm và vi phạm pháp
luật trên thị trường chứng khoán cần thực hiện một số giải pháp sau đây:
Thứ nhất, xây dựng, ban hành nghị quyết hướng dẫn áp dụng thi hành các tội trong lĩnh vực
chứng khoán được quy định tại Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017 (từ Điều
209 đến Điều 212). Cụ thể: xây dựng, ban hành văn bản hướng dẫn, làm rõ khái niệm cố ý công
bố thông tin sai lệch”, thế nào là “che giấu thông tin” trong hoạt động chào bán, niêm yết, giao
dịch, hoạt động kinh doanh chứng khoán… tại Điều 209 Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ
sung 2017; ban hành văn bản hướng dẫn chi tiết cách thức xác định số tiền “thu lợi bất chính”
hoặc số tiền “gây thiệt hại cho nhà đầu tư” cho từng tội danh từ Điều 209 đến Điều 212 Bộ luật
hình sự năm 2015.
Thứ hai, lực lượng chức năng cần phối hợp chặt chẽ với Ủy ban chứng khoán Nhà nước, các
ngân hàng trong xác minh, điều tra các vụ việc có dấu hiệu vi phạm thao túng thị trường chứng
khoán, vi phạm sử dụng thông tin nội bộ để mua bán chứng khoán hoặc các vi phạm khác trên
thị trương chứng khoán; truy xuất các thông tin giao dịch tại tài khoản ngân hàng của các nhà
đầu tư. Đồng thời, chủ động phối hợp với Ủy ban chứng khoán Nhà nước trong các đợt thanh
tra, kiểm tra định kỳ hoặc đột xuất nhằm kịp thời phát hiện vi phạm pháp luật và tội phạm trên
thị trường chứng khoán.
Thứ ba, phối hợp với Ủy ban chứng khoán nhà nước, các cơ quan truyền thông nhằm đẩy mạnh
công tác tuyên truyền, phổ biến kiến thức đầu tư và pháp luật về chứng khoán cho các nhà đầu
tư cá nhân nhằm nhận diện được các cổ phiếu có dấu hiệu bị thao túng giá, từ đó tránh được
thiệt hại.
2. Đối với người làm công tác thanh tra, giám sát và xử lí vi phạm chứng khoán và thị
trường chứng khoán
Đặc điểm công tác thanh tra, xử lý vi phạm và giải quyết khiếu tố có tính nhạy cảm, phức tạp.
Các hành vi vi phạm trên TTCK trong đó có các hành vi thao túng, nội gián ngày càng tinh vi,
phức tạp, các đối tượng sử dụng nhiều phương thức, thủ đoạn, có sự cấu kết, thông đồng để thực
31
hiện hành vi. Các vụ việc khiếu tố, tranh chấp thường liên quan trực tiếp đến quyền và lợi ích
của doanh nghiệp, nhà đầu tư nên khi xử lý người làm thanh tra, giám sát cần phải khách quan,
công tâm, thượng tôn pháp luật để đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp của các bên theo quy định
pháp luật. 
Bên cạnh đó, người cán bộ thanh tra, giám sát cần luôn tự ý thức nỗ lực trau dồi các tố chất cần
có của người làm nghề, bản lĩnh, nhanh nhạy, linh hoạt, phải thực sự năng lực, sáng suốt, đến
tận nơi, xem tận chỗ và đi đến ngọn nguồn sự việc. Với đặc thù công việc, người cán bộ thanh
tra, giám sát thường xuyên đối mặt với áp lực công việc. Do vậy, nắm chắc nghiệp vụ, các quy
định pháp luật đồng thời cùng trao đổi, chia sẻ trong công việc, có sự chỉ đạo tập trung, thống
nhất sẽ giúp cho cán bộ thanh tra hoàn thành tốt công việc được giao.
3. Đối với các bộ phận của thị trường chứng khoán
- Đối với các công ty chứng khoán: Cần nghiêm túc thực hiện chế độ báo cáo, công bố thông tin;
tuân thủ quy định hiện hành về tổ chức và hoạt động công ty chứng khoán, quản lý người hành
nghề kinh doanh chứng khoán; thực hiện nghiêm quy định về giao dịch chứng khoán, thanh toán
chứng khoán. 
+ Rà soát lại toàn bộ hồ sơ giao dịch của khách hàng, đảm bảo lưu giữ đầy đủ, chính xác. Thực
hiện thông báo trạng thái tài khoản (số dư đầu kỳ, phát sinh trong kỳ, dư cuối kỳ của tài khoản
tiền và chứng khoán) cho khách hàng theo quy định. 
+ Tăng cường công tác quản trị điều hành, quản lý rủi ro, kiểm soát nội bộ, đảm bảo hoạt động
an toàn theo quy định hiện hành. 
- Đối với các công ty niêm yết: Cần nghiêm túc thực hiện chế độ công bố thông tin trên TTCK
theo quy định hiện hành; cần thiết lập bộ phận tiếp nhận, xử lý, giải đáp thắc mắc, kiến nghị,
khiếu nại của cổ đông.
- Đối với hai Sở Giao dịch chứng khoán: Cần tăng cường công tác giám sát giao dịch, giám sát
thành viên, giám sát việc công bố thông tin, giám sát tin đồn. Chủ động, kịp thời báo cáo UBCK
các tin đồn, hiện tượng, sự việc có dấu hiệu vi phạm để xem xét, xử lý. 
- Đối với Trung tâm lưu ký: Cần tăng cường công tác giám sát hoạt động đăng ký, lưu ký, bù trừ
và thanh toán chứng khoán của các thành viên lưu ký; báo cáo những trường hợp vi phạm quy
định để UBCK xem xét, xử lý vi phạm.

32

You might also like