You are on page 1of 7

Phân tích Vội Vàng

Mở bài:

Nếu như ta tìm thấy trong thơ của Nguyễn Bính là con ong cần mẫn, quay về hút nhụy trong
vườn thơ dân gian để dệt thành những vần thơ xuất sắc, thấp thoáng cảnh quê, thắm đượm tình
yêu lứa đôi trong sáng, chân thành. Hay Tố Hữu với cái tôi chiến sĩ tràn đầy xúc cảm, tâm thế
luôn tích cực, yêu đời thì đến với Xuân Diệu là một khoảng trời tình yêu thiên nhiên, con người
với những khát vọng tận hưởng cuộc đời trời ban. Sự nghiệp văn chương của Xuân Diệu luôn là
những giờ phút sống trọn vẹn với cuộc đời, ông mang một tình yêu nồng nàn, say đắm, nhiệt
thành đối với tuổi trẻ, tình yêu. Vội vàng - thi phẩm thơ độc đáo ngay ở tên gọi, nội dung là một
suối nguồn dạt dào của tình yêu mãnh liệt, đắm say với thiên nhiên đất trời. Khổ thơ/...câu thơ
trong bài đã mang đậm nét hồn ấy.

Giới thiệu tác giả, tác phẩm:

- Tác giả: Trong phong trào Thơ mới, Xuân Diệu không phải là nhà thơ tiên phong đầu
tiên, tuy nhiên khi vừa mới xuất hiện trên diễn đàn thơ ca, với những sáng tác đỉnh cao
mang phong cách riêng độc đáo, ông được mệnh danh là “nhà thơ mới nhất”.
- Tác phẩm “Vội vàng” được in trong tập “Thơ thơ” (1938) đã thể hiện thành công tiếng
lòng yêu đời và khát khao sống mãnh liệt và quan điểm sống tích cực, hiện đại của nhà
thơ Xuân Diệu, đồng thời là sự kết hợp giữa cảm xúc và triết lí, cùng những sáng tạo độc
đáo về nghệ thuật.

Phân tích:

1. 13 câu đầu: Ước muốn táo bạo cùng tâm trạng hân hoan chào đón nhưng rồi
lại vội vàng và cuống quýt trước sự trôi chảy của thời gian.
 Luận điểm 1: Mở đầu bài thơ là một khổ thơ ngụ ngôn thể hiện ước muốn kì lạ của thi sĩ.
Ấy là ước muốn đảo lộn qui luật tự nhiên:
“Tôi muốn tắt nắng đi
Cho màu đừng nhạt mất
Cho màu đừng nhạt mất
Tôi muốn buộc gió lại
Cho hương đừng bay đi”
- Thơ ca của những thi sĩ lãng mạn ngày xưa: thiên đường là chốn bồng lai tiên cảnh, là
nơi gió trăng mây hoa >< Xuân Diệu: cuộc sống gió trần gian mới là nơi đẹp nhất và
căng mọng nhựa sống nhất.
- Thơ ông luôn có một niềm say mê cảnh sắc trần gian, một niềm khát khao giao cảm
với đời, một lòng ham sống mảnh liệt.
- “Nắng”: mùa xuân là ánh sáng rực rỡ, ấm áp và tươi vui.
- “Hương”: ma xuân là nơi tinh hoa của đất trời, của vạn vật kết tinh, hội tụ.
- Nhà thơ muốn tắt nắng, buộc gió để giữ mãi hương sắc của đất trời.
=> Ước muốn đóng băng thời gian, chặn vòng quay của vũ trụ, đảo ngược qui luật tự
nhiên để giữ mãi vẻ đẹp của cuộc đời.
- Điệp từ “tôi muốn” càng thể hiện rõ ước muốn của nhà thơ.
 Luận điểm 2: Mở ra trong “Vội vàng” là một bức tranh thiên nhiên tuyệt đẹp. Xuân Diệu
đưa người đọc vào một chốn non nước tuyệt vời; diễn tả nó bằng một tình cảm, cảm xúc
nồng nàn, mãnh liệt:
“Của ong bướm này đây tuần tháng mật
Này đây hoa của đồng nội xanh rì
Này đây lá của cành tơ phơ phất
Của yến anh này đây khúc tình si
Và này đây ánh sáng chớp hàng mi
Mỗi buổi sớm thần Vui hằng gõ cửa”
- Từ thể thơ 4 chữ => 8 chữ: nhịp thơ như trải tỏ ra, chậm rãi, nhẹ nhàng như nhịp tâm
hồn thi sĩ đang tận hưởng những tinh hoa của đất trời mùa xuân.
- Điệp ngữ “này đây” được lặp đi lặp lại 5 lần: lời mời gọi + thủ pháp liệt kê: vừa diễn
tả sự giàu có, phong phú bất tận của thiên nhiên vừa thể hiện cảm giác hân hoan, vui
sướng của tác giả.
- “Này đây”: sự hiện hữu của hương sắc cuộc đời, của thiên nhiên trần thế, không phải
xa xôi mà gần gũi ngay trước mắt, không phải ở tương lai hay quá khứ mà ngay trong
hiện tại lúc này.
- Điệp từ “của”: mang tính chất kết nối làm cho bức tranh thiên nhiên tươi đẹp nơi
thiên đường trần thế lần lượt hiện ra, lại thêm phần phong phú, giàu có.
- Một loạt biện pháp tu từ nhân hoá, dùng những danh từ thuộc về con người (“tuần
tháng mật”, “khúc tình si”) để miêu tả thiên nhiên + “ong bướm”, “yến anh” được gọi
tên như đôi như lứa => vườn xuân bỗng đầy mộng mơ, lãng mạn, vườn xuân cũng là
vườn yêu, vườn tình, vườn ái ân hạnh phúc.
- Tính từ “xanh rì”, “phơ phất”: giàu sức gợi tả vẽ nên cảnh thiên nhiên mùa xuân non
tơ, tràn đầy sức sống.

=> Bức tranh xuân không chỉ có cảnh vật đẹp tươi mà còn tràn đầy ánh sáng và niềm vui,
hình ảnh “ánh sáng chớp hàng mi” và “thần vui” vô cùng gợi cảm. Với Xuân Diệu mỗi
ngày được sống, được chiêm ngưỡng ánh dương, được tận hưởng sắc hương của vạn vật
là một ngày hân hoan vui sướng.

 Luận điểm 3: Tất cả đã khiến tác giả phải thốt lên:


“Tháng giêng ngon như một cặp môi gần”
- Câu thơ sử dụng nghệ thuật ẩn chuyển đổi cảm giác, hay chính là phép giao thoa mà
thơ Mới tiếp thu được từ thơ ca tượng trưng Pháp.
- Đây là câu thơ mới mẻ nhất, hiện đại nhất => khái quát được sự hấp dẫn của mùa
xuân bằng sự so sánh vô cùng độc đáo => Nhà thơ cảm thụ thiên nhiên bằng tình lứa
đôi, bằng thể xác và tâm hồn.
- Sự hấp dẫn của thiên nhiên hiện ra trong vẻ đẹp của người tình với “cặp môi gần”
căng tràn tươi trẻ, mê đắm và quyến rũ.
- Từ “ngon” được thốt lên đầy khát khao, và đam mê, là sự cảm nhận sâu nhất bằng
mọi giác quan.
- Phép so sánh như đã đưa cặp môi của người thiếu nữ trở thành trung tâm của vũ trụ,
con người trở thành chuẩn mực cho cái đẹp, là thước đo vẻ đẹp của tạo hóa.
- “Tháng giêng” là một khái niệm thời gian vốn vô hình, nhưng trong phép so sánh vừa
táo bạo vừa mang sắc thái biểu cảm ấy đã trở nên trẻ trung hữu hình qua vẻ đẹp cặp
môi gần của người thiếu nữ.
=> Nhà thơ đã thể hiện quan niệm của mình một cách thật sâu sắc:
+ Thơ ca Trung đại: các thi nhân lấy thiên nhiên để làm chuẩn mực cho cái đẹp của
con người
+ Xuân Diệu: con người mới là chuẩn mực cho mọi cái đẹp tồn tại trên cuộc đời này,
và thiên đường không phải là những chốn thiên thai xa xôi, huyễn hoặc nào đó, mà
chính là nơi đây, chính mặt đất trần thế mới là thiên đường của tình yêu, của cái đẹp
và của tuổi trẻ.
 Luận điểm 4: Đang ở đỉnh điểm của hạnh phúc, tâm hồn của nhà thơ bỗng trỗi dậy
nỗi lo âu trước cái mong manh, chóng vánh của cuộc đời:
“Tôi sung sướng nhưng vội vàng một nửa
Tôi không chờ nắng hạ mới hoài xuân.”
- “Tôi sung sướng”: chàng thi sĩ trẻ đang ngất ngây mê đắm vô cùng trong niềm tận
hưởng mật ngọt tình yêu nơi thiên đường trần thế, đang thỏa thuê với bữa tiệc lớn của
trần gian và reo lên “tôi sung sướng”.
- “Vội vàng một nửa”: lúc thi nhân ngừng lặng với cảm giác “vội vàng một nửa”.
- Thi nhân chợt nhận ra qui luật khắc nghiệt của dòng chảy thời gian “tất cả sẽ qua đi,
tất cả sẽ lụi tàn”.
- Hai tâm trạng trái ngược, nhưng dồn nén trong một câu thơ.
=> Hai câu thơ được xem như hai cái bản lề khép mở tâm trạng vừa vồ vập đắm say
vẻ đẹp của cuộc sống tình yêu vừa là linh cảm bất an, băn khoăn âu sầu của nhà thơ vì
thời gian qua mau, tuổi trẻ một đi không trở lại, quả thật Xuân Diệu là nhà thơ của
những cảm quan tinh tế về thời gian.
2. 16 câu giữa: quan niệm mới mẻ về thời gian, tuổi trẻ và tình yêu
 Luận điểm 1: quan niệm về thời gian, mùa xuân, tuổi trẻ:
Xuân đương tới, nghĩa là xuân đương qua,
Xuân còn non,nghĩa là xuân sẽ già.
- Nhịp ngắt lẻ 3/5: sự vờ lẽ => thời gian chảy trôi dần.
- Lặp “xuân”: kết cấu đan chéo: xuân ko chỉ của đất trời mà còn là tuổi xuân, tuổi trẻ
của con người.
- Điệp ngữ “nghĩa là” biến câu thơ thành câu giải thích + các từ đối lập “tới-qua”,
“non-già” => nhấn mạnh các trạng thái khác nhau của thời gian: tg vận động ko
ngừng và mọi thứ cũng ko ngừng đổi thay.
- Trong văn học trung đại :
+ Thời gian là 1 vòng tuần hoàn cảu quy luật “ sinh, lão, bệnh, tử”
+ Là 1 mùa “ xuân qua, hè tới, thu sang, đông tàn”.
=> Tất cả sẽ thay nhau đắp đổi.
- Trong thơ mới:
+ Con người ý thức rõ hơn về sự hữu hạn của cuộc đời.
+ Thời gian ko còn là 1 vòng tuần hoàn mà là 1 đường thẳng tuyến tính.
+ Tg của tự nhiên thì vô thủy, vô chung nhưng của kiếp người thì lại ngắn ngủi hữu
hạn
=> Thơ mới thể hiện tâm trạng tiếc nuối, bất lực trước cuộc đời.
- Thi nhân hoảng hốt trước dòng chảy của thời gian:
+ Người ta: tiếc khi nó qua đi
+ XD: tiếc khi nó đang đến, đang hiện hữu
- Sự tàn phai, mất mát luôn song hành cùng sự tồn tại.
 Luận điểm 2: Lấy tg của cuộc đời làm thước đo thời gian của vũ trụ:
Mà xuân hết, nghĩa là tôi cũng mất
Lòng tôi rộng, nhưng lượng trời cứ chật,
Không cho dài thời trẻ của nhân gian,
Nói làm chi rằng xuân vẫn tuần hoàn,
Nếu tuổi trẻ chẳng hai lần thắm lại.
Còn trời đất, nhưng chẳng còn tôi mãi,
Nên bâng khuâng tôi tiếc cả đất trời;
- Câu 1: + tg của đất trời kết thúc => tôi mất
+ Cặp từ đồng nghĩa “hết-mất”: tiếng thở dài cùng đất trời.
- Tuổi trẻ qua đi, tình yêu ko còn thì tác giả tồn tại vô nghĩa.
- Nt đối lập: “rộng-chật”, “xuân tuần hoàn-tuổi trẻ chẳng 2 lần”, “còn trời đất- chẳng
còn tôi” => tâm trạng thi nhân: tiếc nuối trước thời gian, cuộc đời.
- “Lòng tôi-lượng trời”: 2 thế cực tương phản: hữu hạn-vô hạn. Theo cái nhìn của XD:
+ Thứ vô hạn => nhỏ bé-“lượng trời cứ chật”
+ Thứ hữu hạn của đời người => mở rộng đến vô cùng-“lòng tôi rộng”
- Sự hạn hữu của đời người với thời gian được tiếp tục thể hiện rõ ở câu thơ:
“Còn trời đất nhưng chẳng còn tôi mãi”
+ Trời đất cứ thế xoay vần, vòng tuần hoàn lặp lại nhưng “tôi” thì ko còn nữa.
- Thi nhân tiếc nuối và bất lực nên:
“ Bâng khuâng tôi tiếc cả đất trời”
- Xuân Diệu tiếc cho mình, tiếc cho tuổi trẻ nhưng điều ông tiếc nhất chính “cả đất trời”:
ông ko thể tận hưởng hết mọi hương sắc của cuộc đời: bữa tiệc thiên nhiên, thiên đường
nơi mặt đất,...
 Ông yêu đời, yêu tha thiết cuộc sống nên mới viết được như thế.
 Luận điểm 3: Cái nhìn vạn vật mang màu sắc u buồn, chi li đầy mất mát:
Mùi tháng năm đều rớm vị chia phôi
Khắp núi sông vẫn than thầm tiễn biệt
Con gió xinh thì thào trong lá biếc
Phải chăng hờn vì nỗi phải bay đi?
Chim rộn ràng bỗng đứt tiếng reo thi
Phải chăng sợ độ phai tàm sắp sửa.
- Thời gian được tác giả cảm nhận bằng khứu giác, vị giác: mùi tháng năm, vị chia phôi
=> cách kết hợp từ rất độc đáo, mag nét riêng của XD
- “Rớm”: rưng rưng, uất ức, nghẹn ngào, tiếc nuối, hụt hẫng
 Qua con mắt tác giả thời gian cũng đang tiếc nuối nghẹn ngào khi phải chia li.
- Hình ảnh chim, gió: ko vui tươi, rộn ràng.
+ Gió đùa trong lá không phải là những âm thanh vui tươi, sống động của thiên nhiên mà
vì hờn tủi trước sự trôi chảy của thời gian.
+ Chim hót những bản nhạc chào xuân rộn ràng bỗng ngừng bặt, chẳng có mối nguy
hiểm nào cả, mà vì chúng sợ độ tàn phai, héo úa.
- Điệp cấu trúc + CHTT “phải chăng”: nổi bật tâm trạng TN vạn vật: mọi thứ như đang
tiễn biệt cính mình, đang chảy trôi theo quy luật tự nhiên ko thể nào thay đổi.
 Luận điểm 4: Tiếng thở dài bất lực:
Chẳng bao giờ, ôi! Chẳng bao giờ nữa…
- Điệp “chẳng bao giờ”: tâm trạng bàng hoàng tiếc nuối và bất lực của thi nhân: Bởi cuộc
sống con người vốn ngắn ngủi nhưng hương sắc cuộc đời lại mênh mông và trước dòng
chảy của thời gian con người ko thể xoay vần.
3. Đoạn cuối: lời giục giã sống vội vàng, sông hết mình của thi nhân:
- Khái quát: Đối diện với dòng thời gian vô tận và sự tàn phai của vạn vật, nhận thấy sự
hữu hạn của đời người của tuổi trẻ nhưng XD ko bi quan, tuyệt vọng, trái lại thì ông đã tì
thấy cho mình 1 lối đi riêng kì diệu để chiến thắng thời gian đó là hãy sống vội vàng,
sống hết mình, đặc biệt là những năm tháng tuổi trẻ:
“Mau đi thôi! Mùa chưa ngả chiều hôm,
Ta muốn ôm
Cả sự sống mới bắt đầu mơn mởn;
Ta muốn riết mây đưa và gió lượn,
Ta muốn say cánh bướm với tình yêu,
Ta muốn thâu trong một cái hôn nhiều
Và non nước, và cây, và cỏ rạng,
Cho chếnh choáng mùi thơm, cho đã đầy ánh sáng
Cho no nê thanh sắc của thời tươi;
- Hỡi xuân hồng, ta muốn cắn vào ngươi!”
- “Mau đi thôi! Mùa chưa ngả chiều hôm”: thúc giục mọi người sống tích cực:
+ Thời gian chảy trôi nhưng hiện tại “mùa chưa ngả chiều hôm”: cuộc sống vẫn đang tiếp
diễn, thiên đường quyến rũ vẫn luôn hiện hữu quanh ta.
+ Mau đi thôi: hãy trân trọng từng giây từng phút cuộc đời. Đó là 1 lẽ sống tích cực
- Ba chữ “Ta muốn ôm” như phơi bày ra hết sự ham hố và cuồng nhiệt của Xuân Diệu với
cuộc sống trần thế.
- Trước đó nhà thơ xưng “tôi” với ước muốn táo bạo “tắt nắng, buộc gió” nhưng ở đoạn
thơ cuối này cái tôi => cái ta chung để tận hưởng hết những hương sắc của cuộc đời.
- NT liệt kê: tái hiện 1 lần nữa thiên đường nơi mặt đất:
+ Sự sống mơn mởn đang căng tràn
+ Cỏ cây hoa lá mùa xuân đang đua nhau khoe sắc, tỏa hương
+ Sự sống đang ở đọ xuân sắc, xuân thì
 Tất cả đang hiện hữu khiến thi nhân muốn ôm tất cả.
- Đt mạnh, mức độ tăng tiến: ôm, riết, say + nhịp thơ gấp gáp, dồn dập => Khao khát mãnh
liệt: riết chặt vào lòng, say sưa tận hưởng, thâu mình vào tất cả hương sắc nhụy mật của
đời, tận hưởng cuộc sống bằng mọi giác quan.
- Điệp ngữ “Ta muốn” như ý nghĩa của nó đã nói lên được cái ham muốn khát thèm đến
hăm hở, cuồng nhiệt của nhà thơ.
- Xuân Diệu muốn tận hưởng cuộc sống cho đến “no nê”, “chếnh choáng”, “đã đầy”.
- Điệp từ “cho” với nhịp độ tăng tiến nhấn mạnh các cấp độ khát vọng hưởng thụ đạt đến
độ thỏa thuê, sung mãn, trọn vẹn.
 Tâm thế của 1 con người lúc nào cũng muốn hòa mình vào thiên nhiên, tận hưởng thỏa
thê mật ngọt, tình yêu sự sống.
- Câu thơ khép lại thật táo bạo:
- Hỡi xuân hồng, ta muốn cắn vào ngươi!”
- Ôm, riết, say, thâu, hôn chưa đủ no nê, đã đầy, chếnh choáng => muốn cắn vào xuân
hồng.
- Muốn tận hưởng mùa xuân đang độ chín bằng cả tâm hồn, cả trái tim cùng mọi giác quan
mới thỏa niềm khao khát.
- XD dùng yếu tố phi thực tế “cắn vào xuân hồng” để biểu đạt niềm yêu đời đến cuồng
nhiệt của mình
- Câu thơ cuối là 1 trong nhiều câu thơ độc đáo, táo bạo của thơ hiện đại, những vẫn thơ rất
mới và rất tây của XD, thật đúng với nhận định: “Nhà thơ mới nhất trong các nhà thơ
mới”( Hoài Thanh ).
Nghệ thuật:
- Cách liên tưởng, so sánh mới lạ với hình thức thơ đọc đáo.
- Thủ pháp ẩn dụ chuyển đổi cảm giác => thi sĩ cảm nhận mùa xuân – cái đẹp của thiên
nhiên bằng tất cả các giác quan
- 1 loạt hình ảnh nhân hóa, biện pháp điệp từ, ngữ, cấu trúc, đông từ mạnh => nhip điệu hối
hả, gấp gáp, phù hợp như lời thúc giục, giục giac
- Sự kết hợp mạch luận lí và mạch cảm xúc.

You might also like