Professional Documents
Culture Documents
Bản tóm 3 William James
Bản tóm 3 William James
William James (1842 – 1910) : (Đặc tính) Hành vi của đức tin
Hai tác phẩm quan trọng bàn đến tôn giáo, tâm lý và triết học:
• The Varieties of Religious Experience: A Study in Human Nature (1902)
• The Will to Believe (1956)
Trước hết, James đặt ưu tiên kinh nghiệm lên trên triết thuyết, coi kinh nghiệm như xương sống
của đời sống tôn giáo. Vì lý do đó, ông chọn nhiều chứng từ đến từ những người sử dụng ngôn
ngữ đức tin bình thường, thay vì những nhân chứng có học vấn uyên thâm để nói về kinh nghiệm
đức tin của họ. Sau đó, ông còn cho rằng ông xác tín rằng ông muốn „cho người nghe hay người
đọc xác tín rằng tất cả những dạng thức diễn tả đặc thù của tôn giáo (các loại công thức tín điều
và lý thuyết thần học) đều là những điều vô nghĩa, nhưng cuộc sống (hành trình) của tôn giáo
ấy xét như là một tổng thể đóng một trong những chức năng quan trọng nhất của đời sống nhân
lọại (Thư của WJ II, 127). Nhưng chính triết học của James trong Varieties cũng bị phê bình là
một dạng „giản thể luận“ vì đưa nó vào tâm lý và sinh học (nhân danh đời sống).
Để làm được việc đó, ông lại phân loại các loại giả thuyết và gọi là giả thuyết sinh động (live
choice) và giả thuyết chết (dead choice). Để minh hoạ cho một giả thuyết sống động, ông lấy
hình ảnh của một dây điện có dòng điện chạy qua và tạo ra một từ trường mà nơi đó ta có thể
sản sinh ra một dòng điện hữu dụng.
Mọi giả thiết thì đều không tự cho mình là sống động hay chết, cho bằng nó nằm nơi người suy
nghĩ thôi. Đặc tính sống động của chúng hệ ở việc người suy tư có sẳn sàng để „dấn thân“ vào
các giả thiết ấy hay không thôi.1 Và ở đây ta có vai trò của ý chí. Ta có thể xem qua một số lập
luận của ông về vấn đề „the will to believe“:
"Our passional nature not only lawfully may, but must, decide an option between
propositions, whenever it is a genuine option that cannot by its nature be decided on
intellectual grounds; for to say under such circumstances, "Do not decide, but leave the
question open," is itself a passional decision—just like deciding yes or not—and is attended
with the same risk of losing truth."
James cho rằng vào thời của ông, các sinh viên “cấp tiến” của Harvard không tin vào niềm tin
tôn giáo, vì chúng không thể chứng minh được bằng lý tính. Ông có một quan điểm khác, cho
rằng đức tin là một vấn đề của cảm xúc, nên không cần lượt qua lý tính.
Một “genuine choice” (một quyết định đúng đắn) phải thoả 3 điều kiện:
▪ Dựa trên một giả thuyết sống động (live)
▪ Có hiệu lực ràng buộc (forced)
▪ Có tầm vóc (momentous)
Luận đề chính:
When we have a genuine option that cannot be decided solely on intellectual grounds, our
passional nature must be allowed to rule.
Để có một tôn giáo sống động, cần một tâm trí lành mạnh (vui vẻ, hài hước) – một tín hữu quân
bình. Nó ngược lại với linh hồn bệnh hoạn (u sầu thảm não)- một cái tôi bị giằng xé.
Trong kinh nghiệm tôn giáo có nhiều dạng loại: hoán cải, thánh thiện, thần bí, v.v.
Nhiệm vụ của triết học tôn giáo là xây dựng một “cảm thức lành mạnh cho đức tin” (over-beliefs)
Ông không đánh giá cao những luận điểm về sự hiện hữu của Thiên Chúa, nhưng coi nó là một
di sản tốt. Ông coi những di sản luân lý phát sinh từ những tín điều ấy (chứ không phải từ nền
tảng siêu hình học) có giá trị (hữu dụng) cho cung cách hành xử, chọn lựa sống của con người.
1 Ceasar có một câu tương tự như vậy: fere libenter homines id quod volunt credunt (niềm tin của người
ta nghiêng về cái mình muốn).