Professional Documents
Culture Documents
So Sánh Giữa Máy Cắt Chân Không Và Máy Cắt SF6
So Sánh Giữa Máy Cắt Chân Không Và Máy Cắt SF6
Các hãng sản xuất và người sử dụng buộc phải tìm kiếm các phương pháp khác nhau
để dập hồ quang. Máy cắt không khí và máy cắt không khí kết hợp lõi từ không khí
đã được phát triển nhưng không thể duy trì trên thị trường do các nhược điểm khác
liên quan đến các máy cắt. Những loại máy cắt mới này rất cồng kềnh. Tiếp tục
nghiên cứu đã được thực hiện và cùng một lúc hai loại máy cắt đã được phát triển
với buồng dập hồ quang bằng SF6 và buồng dập hồ quang bằng chân không.
Hai loại máy cắt mới cuối cùng sẽ thay thế các loại trước kia hoàn toàn trong thời
gian ngắn. Một nỗ lực được thực hiện để so sánh giữa hai loại máy cắt SF6 và chân
không nhắm tìm ra ưu và nhược điểm của mỗi loại.
Bây giờ chúng ta sẽ nghiên cứu chi tiết từng loại riêng biệt trước khi so sánh chúng.
Vật liệu kết hợp đặc tính chống hồ quang tốt với xu hướng giảm sự hàn dính tiếp
điểm khi đóng cắt dòng điện cảm. Việc sử dụng vật liệu đặc biệt này ngắt được dòng
điện giới hạn từ 4 đến 5 lần dòng điện đầy tải (Amps).
Tại dòng điện dưới 10kA, hồ quang cháy trong chân không như một sự phóng điện
khuếch tán. Ở các giá trị lớn hơn của dòng điện, hồ quang sẽ chuyển thành một dạng
co thắt với điểm cực dương. Một điểm hồ quang duy trì ở một chỗ trong thời gian
quá dài có thể làm nóng các tiếp điểm đến mức độ ô xy hóa vùng tiếp xúc của tiếp
điểm không còn được đảm bảo. Để khắc phục vấn đề này, tia hồ quang đầu tiên phải
được dẫn hướng ra khỏi một điểm trên bề mặt. Để đạt được điều này, các tiếp điểm
được định hình các rãnh xoáy theo chiều kim đồng hồ để tạo ra một từ trường xung
quanh trục tiếp điểm. Trường xuyên tâm này làm cho tia hồ quang quay nhanh xung
quanh tiếp điểm tạo ra một sự phân bố đồng đều nhiệt trên bề mặt của nó. Kiểu tiếp
điểm này được gọi là các điện cực từ trường xuyên tâm và chúng được sử dụng
trong phần lớn các máy cắt cho ứng dụng trung áp
Một thiết kế mới đã xuất hiện trong buồng ngắt chân không, trong đó để chuyển hồ
quang từ dạng điểm sang trạng thái khuyếch tán bằng cách dẫn hồ quang theo từ
trường hướng trục. Một từ trường như vậy có thể được cung cấp bằng cách dẫn dòng
hồ quang thông qua một cuộn dây được bố trí phù hợp bên ngoài buồng chân không.
Ngoài ra, từ trường có thể được tạo ra bằng cách thiết kế các rãnh xoáy trên tiếp
điểm. Các tiếp điểm như vậy được gọi là các điện cực từ trường dọc. Nguyên lý này
có lợi thế khi dòng điện ngắn mạch vượt quá 31,5kA.
Máy cắt khí SF6
Trong một máy cắt SF6, dòng điện tiếp tục được duy trì sau khi tiếp điểm tách ra
thông qua trạng thái plasma của hồ quang bị ion hóa trong khí SF6. Cho đến khi tiếp
điểm bị hồ quang đốt cháy, hồ quang sẽ phải chịu một dòng khí liên tục hấp thụ
nhiệt từ nó. Hồ quang được dập tắt khi dòng điện về không. Dòng khí tiếp tục khử
ion cho tiếp điểm và thiết lập một môi trường cách điện cần thiết để ngăn chặn sự
đánh lửa trở lại.
Hướng của dòng khí, cho dù đó là song song hoặc cắt ngang qua hồ quang, nó đều
có ảnh hưởng đến hiệu quả của quá trình dập hồ quang. Nghiên cứu đã chỉ ra rằng
một dòng khí dọc theo trục tạo ra một sự nhiễu loạn gây ra sự xáo trộn mạnh mẽ và
liên tục giữa khí và plasma trong khi dòng điện tiến đến gần bằng không. Dòng khí
ga làm mát cắt ngang hồ quang thường đạt được trong thực tế bằng cách thực hiện
dẫn hồ quang di chuyển trong khí tĩnh. Tuy nhiên, quá trình này có thể dẫn đến sự
mất ổn định hồ quang và sự biến động lớn về khả năng ngắt của máy cắt.
Để đạt được một dòng khí hướng trục vào hồ quang, một sự chênh lệch áp suất phải
được tạo ra dọc theo tia hồ quang. Thế hệ đầu tiên của máy cắt SF6 đã sử dụng
nguyên lý áp suất kép của bộ phận máy cắt không khí. Ở đây, một lượng khí nhất
định được lưu giữ ở áp suất cao và được giải phóng vào buồng dập hồ quang. Hiện
tại khí áp suất cao và máy nén liên quan đã được loại bỏ bằng thiết kế thế hệ thứ hai.
Ở đây chênh lệch áp suất được tạo ra bởi một piston gắn liền với tiếp điểm di động,
dòng khí nén trong một xi lanh nhỏ khi tiếp điểm bắt đầu mở ra. Một bất lợi là hệ
thống phun này đòi hỏi một cơ cấu vận hành tương đối mạnh mẽ.
Trong trường hợp máy cắt SF6, các bộ dập hồ quang đã đạt đến giới hạn số lần hoạt
động có thể được sửa chữa và khôi phục lại trạng thái ‘như mới’. Tuy nhiên, kinh
nghiệm thực tế đã chỉ ra rằng trong điều kiện dịch vụ bình thường, buồng dập hồ
quang SF6 không bao giờ đòi hỏi phải phục vụ suốt dòng đời của nó. Vì lý do này,
một số nhà sản xuất không còn cung cấp phụ kiện cho người sử dụng để sửa chữa lại
buồng dập hồ quang, nhưng họ đã áp dụng thiết kế “không cần bảo trì” như đối với
máy cắt chân không.
Cơ chế vận hành của tất cả các loại máy cắt yêu cầu phải được bảo trì, một số
thường xuyên hơn các máy khác phụ thuộc chủ yếu vào lượng năng lượng họ cung
cấp. Đối với máy cắt chân không khoảng thời gian bảo trì là từ 10.000 đến 20.000
lần hoạt động. Đối với các thiết kế SF6, giá trị dao động từ 5.000 đến 20.000 lần.
Độ tin cậy
Độ tin cậy của một thiết bị được xác định bởi thời gian trung bình của sự cố (MTF),
nghĩa là khoảng thời gian trung bình giữa các lần cắt sự cố. Ngày nay, SF6 và máy
cắt chân không đã sử dụng các cơ chế vận hành giống nhau, do đó về mặt này chúng
có thể được coi là giống hệt nhau.
Tuy nhiên, liên quan đến buồng dập hồ quang của chúng, hai máy cắt thể hiện sự
khác biệt đáng kể. Số cơ cấu chuyển động nhiều hơn của máy cắt SF6 so với máy
cắt chân không. Tuy nhiên, so sánh độ tin cậy của hai công nghệ trên cơ sở phân tích
số lượng các thành phần cấu tạo hoàn toàn khác nhau về thiết kế, vật liệu và chức
năng thì độ tin cậy phụ thuộc vào quá nhiều yếu tố, ví dụ như kích thước, thiết kế,
vật liệu cơ bản, phương pháp sản xuất, kiểm tra và các quy trình kiểm soát chất
lượng. Hơn nữa, dữ liệu thực tế cho thấy rằng cả hai công nghệ đều có mức độ tin
cậy cao trong điều kiện bình thường và bất thường.
Ngày nay, tất cả các máy cắt của các nhà sản xuất có uy tín đều được thiết kế và thử
nghiệm theo tiêu chuẩn quốc gia và quốc tế (IEC56). Điều này đảm bảo rằng các
máy cắt sẽ chắc chắn có khả năng cắt tất cả các dòng sự cố đến mức đánh giá cao
nhất của chúng. Hơn nữa, cả hai loại máy cắt đều có khả năng ngắt dòng với các
thành phần DC cao, các dòng Dc này có thể phát sinh khi mạch ngắn xảy ra gần với
máy phát. Các kiểm tra tương ứng đã thực sự cho thấy các máy cắt riêng lẻ của cả
hai loại SF6 và chân không, trên thực tế có khả năng cắt dòng sự cố khi dòng điện
gần về 0, tức là có một thành phần DC lớn hơn 100%.
Đối với điện áp phục hồi xuất hiện sau khi cắt dòng sự cố, máy cắt chân không có
thể chịu đựng được điện áp phục hồi giá trị RRV (Rise of recovery voltage) lên đến
5kV. SF6 bị giới hạn trong khoảng từ 1 đến 2kV. Trong các ứng dụng riêng lẻ, ví
dụ: trong quá trình lắp đặt với các cuộn giới hạn dòng hoặc hoặc cuộn kháng… thì
máy cắt SF6 có thể cần phải thực hiện các bước để giảm tỷ lệ tăng điện áp phục hồi
tạm thời.
Bảng 2. So sánh máy cắt SF6 và chân không liên quan đến các khía cạnh hoạt động.
Tiêu chí Máy cắt khí SF6 Máy cắt chân không
Số lần cắt ngắn mạch 10-50 dòng ngắn mạch 30-100 dòng ngắn mạch
Số lần đóng cắt đầy tải 5000-10000 10000-20000
Số lần vận hành cơ khí 5000-20000 chu trình 10000-30000 chu trình
Số lần vận hành trước khi bảo trì 5000-20000 chu trình 10000-30000 chu trình
Thời gian sử dụng 5-10 năm 5-10 năm
Chi phí bảo trì Chi phí nhân công cao, Chi phí Chi phí nhân công thấp,
nguyên liệu thấp Chi phí nguyên liệu cao
Độ tin cậy Cao Cao
Độ bền điện môi giữa khoảng cách Cao Rất cao
tiếp điểm
Bảng 3. So sánh máy cắt SF6 và chân không liên quan đến ứng dụng đóng cắt.
Tiêu chí Máy cắt khí SF6 Máy cắt chân không
Cắt dòng ngắn mạch với thành phần Thích hợp Thích hợp
DC cao
Cắt dòng ngắn mạch với điện áp phục Phù hợp với điều kiện nhất định Rất thích hợp
hồi RRV cao (RRV> 1-2 kV / mS)
Đóng cắt cho máy biến áp Thích hợp Thích hợp
Đóng cắt cho cuộn kháng Thích hợp Thích hợp, các bước thực
hiện khi dòng điện < 600A
Đóng cắt cho tụ điện Thích hợp Thích hợp
Đóng cắt cho tụ điện đối xứng Thích hợp Thích hợp
Đóng cắt lò hồ quang Thích hợp cho hoạt động hạn chế Thích hợp, cần thực hiện các
bước để hạn chế quá áp