You are on page 1of 93

Tài liệu lưu hành nội bộ

ĐỀ CƯƠNG PHÒNG CHỐNG THAM NHŨNG TRONG QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC


Đề cương được soạn thảo dựa trên tài liệu của các nhóm gửi vào
Nguồn tổng hợp: Tập thể lớp QLNN
Câu hỏi nhận định:
1. Người đứng đầu cơ quan, tổ chức luôn có trách nhiệm giải trình khi có yêu cầu.
- Sai. Theo Khoản 1, Điều 15, Luật PCTN 2018 quy định: “Cơ quan, tổ chức, đơn vị, cá nhân
có trách nhiệm giải trình về quyết định, hành vi của mình trong việc thực hiện nhiệm vụ, công
vụ được giao khi có yêu cầu của cơ quan, tổ chức, đơn vị, cá nhân bị tác động trực tiếp bởi
quyết định, hành vi đó. Người thực hiện trách nhiệm giải trình là người đứng đầu cơ quan, tổ
chức, đơn vị hoặc người được phân công, người được ủy quyền hợp pháp để thực hiện trách
nhiệm giải trình.”
2. Đối với quà tặng là dịch vụ tham quan thì sẽ được thủ trưởng cơ quan bán lấy tiền nộp
ngân sách nhà nước.
- Sai. Theo Khoản 3, Điều 27, NĐ 59/2019/NĐ-CP quy định: “Đối với quà tặng là dịch vụ tham
quan thì thủ trưởng cơ quan, tổ chức, đơn vị phải thông báo đến cơ quan, tổ chức, đơn vị cung
cấp dịch vụ về việc không sử dụng dịch vụ đó.”
3. Chỉ những tài sản có giá trị từ 300 triệu đồng trở lên mới là tài sản phải kê khai theo
quy định của luật phòng chống tham nhũng.
- Sai. Theo Khoản 1, Điều 35, Luật PCTN 2018 quy định: “Tài sản, thu nhập phải kê khai bao
gồm:
a) Quyền sử dụng đất, nhà ở, công trình xây dựng và tài sản khác gắn liền với đất, nhà ở, công
trình xây dựng;
b) Kim khí quý, đá quý, tiền, giấy tờ có giá và động sản khác mà mỗi tài sản có giá trị từ
50.000.000 đồng trở lên;
c) Tài sản, tài khoản ở nước ngoài;
d) Tổng thu nhập giữa 02 lần kê khai.”
4. Luật phòng chống tham nhũng có quy định các biện pháp bảo vệ cho người tố cáo, phản
ánh hành vi tham nhũng.
- Sai. Theo Điều 56, Điều 57, Điều 58 của Luật tố cáo 2018 quy định về Biện pháp bảo vệ bí
mật thông tin của người tố cáo; Biện pháp bảo vệ vị trí công tác, việc làm của người tố cáo;
Biện pháp bảo vệ tính mạng, sức khoẻ, tài sản, danh dự, nhân phẩm của người tố cáo.
5. Người đứng đầu cơ quan, tổ chức, đơn vị khi nhận được báo cáo về hành vi tham
nhũng nhưng không xử lý thì có thể bị cách chức.
1
Tài liệu lưu hành nội bộ

- Đúng. Theo Điểm c, Khoản 2, Điều 85, NĐ 59/2019/NĐ-CP quy định: “Cách chức đối với
người đã bị xử lý kỷ luật bằng hình thức cảnh cáo về hành vi đó mà tiếp tục tái phạm; người có
hành vi vi phạm lần đầu nhưng để xảy ra vụ việc tham nhũng rất nghiêm trọng, đặc biệt nghiêm
trọng.”
6. Tội tham ô tài sản và tội nhận hối lộ có khung hình phạt cao nhất là tử hình.
- Đúng.
+ Theo Khoản 4, Điều 353, Bộ Luật hình sự 2015 quy định: “Phạm tội thuộc một trong các
trường hợp sau đây, thì bị phạt tù 20 năm, tù chung thân hoặc tử hình:
a) Chiếm đoạt tài sản trị giá 1.000.000.000 đồng trở lên;
b) Gây thiệt hại về tài sản 5.000.000.000 đồng trở lên.”
+ Theo Khoản 4, Điều 354, Bộ Luật hình sự 2015 quy định: “Phạm tội thuộc một trong các
trường hợp sau đây, thì bị phạt tù 20 năm, tù chung thân hoặc tử hình:
a) Của hối lộ là tiền, tài sản hoặc lợi ích vật chất khác trị giá 1.000.000.000 đồng trở lên;
b) Gây thiệt hại về tài sản 5.000.000.000 đồng trở lên.”
7. Cơ quan, tổ chức, đơn vị, chỉ cần công khai việc sử dụng tài chính công, tài sản công.
- Sai. Theo Điểm b, Khoản 1, Điều 10, Luật PCTN 2018 quy định: “Cơ quan, tổ chức, đơn vị
phải công khai, minh bạch theo quy định của pháp luật về việc bố trí, quản lý, sử dụng tài chính
công, tài sản công hoặc kinh phí huy động từ các nguồn hợp pháp khác.”
8. Cơ quan, tổ chức, đơn vị, cá nhân có thẩm quyền không có trách nhiệm giải trình cho
báo chí.
- Sai. Theo Khoản 2, Điều 15, Luật PCTN 2018 quy định: “Trường hợp báo chí đăng tải thông
tin về vi phạm pháp luật và có yêu cầu trả lời các vấn đề liên quan đến việc thực hiện nhiệm vụ,
công vụ được giao thì cơ quan, tổ chức, đơn vị, cá nhân có thẩm quyền phải giải trình và công
khai nội dung giải trình trên báo chí theo quy định của pháp luật.”
9. Việc thực hiện các biện pháp phòng ngừa tham nhũng là một trong những tiêu chí đánh
giá về công tác phòng chống tham nhũng.
- Đúng. Theo Điểm c, Khoản 1, Điều 17, Luật PCTN 2018 quy định: “Việc thực hiện các biện
pháp phòng ngừa tham nhũng là một trong các tiêu chí đánh giá về công tác phòng, chống tham
nhũng.”
10. Mọi hành vi nhũng nhiễu của công chức đều là hành vi tham nhũng.
- Sai. Theo Điểm k, Khoản 1, Điều 2, Luật PCTN 2018 quy định: “Nhũng nhiễu vì vụ lợi là
hành vi tham nhũng trong khu vực nhà nước do người có chức vụ, quyền hạn trong cơ quan, tổ
chức, đơn vị khu vực nhà nước thực hiện.”
2
Tài liệu lưu hành nội bộ

11. Yêu cầu giải trình phải được thực hiện bằng văn bản.
- Sai. Theo Khoản 1, Điều 10,NĐ/2019/NĐ-CP quy định: “Yêu cầu giải trình được thực hiện
bằng văn bản hoặc trực tiếp tại cơ quan, tổ chức, đơn vị có trách nhiệm giải trình.”
12. Nhận hối lộ một lợi ích phi vật chất thì không chịu trách nhiệm hình sự.
- Sai. Theo Điểm b, Khoản 1, Điều 354, Bộ Luật hình sự 2015 quy định: “Người nào lợi dụng
chức vụ, quyền hạn trực tiếp hoặc qua trung gian nhận hoặc sẽ nhận lợi ích phi vật chất cho
chính bản thân người đó hoặc cho người hoặc tổ chức khác để làm hoặc không làm một việc vì
lợi ích hoặc theo yêu cầu của người đưa hối lộ, thì bị phạt tù từ 02 năm đến 07 năm.”
CHỦ ĐỀ: NGUYÊN NHÂN, ĐIỀU KIỆN VÀ TÁC ĐỘNG CỦA THAM
NHŨNG
1. Khái niệm tham nhũng:
Tham nhũng là hành vi của người có chức vụ, quyền hạn đã lợi dụng chức vụ, quyền hạn đó vì
vụ lợi.
2. Nguyên nhân và điều kiện tham nhũng:
Trong điều kiện phát triển kinh tế thị trường, các quan hệ chính trị - kinh tế tạo ra những tiền đề
khách quan quan trọng làm cho tham nhũng phát triển. Lợi ích là yếu tố chủ quan dẫn đến tham
nhũng. Khi còn điều kiện để lợi ích kết hợp với sự lạm quyền của những người có chức vụ,
quyền hạn thì vẫn còn có khả năng xảy ra tham nhũng. Có nhiều nguyên nhân và điều kiện phát
sinh tham nhũng, trong đó có những nguyên nhân, điều kiện cơ bản sau:
2.1 Nguyên nhân và điều kiện khách quan:
- Mức sống thấp, trình độ quản lý nhà nước, pháp luật hạn chế, đang trải qua quá trình chuyển
đổi cơ chế quản lý kinh tế.
- Mặt trái của cơ chế kinh tế thị trường (cạnh tranh, phân hóa...)
- Do hệ thống chính sách, pháp luật ở nước ta thiếu đồng bộ và nhất quán
- Thể chế, chính sách về quản lý kinh tế - xã hội trên nhiều lĩnh vực vẫn còn bất cập
- Công tác quản lý trên một số lĩnh vực còn chưa chặt chẽ hiệu quả
- Hành lang pháp lý còn khá lỏng lẻo và còn nhiều bất cập chính nội dung này đã gây ra sự
thiếu minh bạch và tạo cơ hội cho các cá nhân thực hiện hành vi tham nhũng
- Công tác kiểm tra giám sát chưa được chặt chẽ thiếu năng lực trách nhiệm; hệ thống quản lý
- Lương của CBCC còn ở mức thấp không có gì đảm bảo rằng họ toàn tâm toàn ý cho công
việc.

3
Tài liệu lưu hành nội bộ

Ví dụ: Bên hành lang Quốc hội sáng ngày 21/10/2022, Đại biểu Trương Trọng Nghĩa
chia sẻ: Chính sách tiền lương cho cán bộ công chức viên chức hiện nay chưa tương xứng, mức
thu nhập còn quá thấp. Trong số hàng triệu cán bộ công chức, có thể một bộ phận nhỏ tiền
lương với họ không có ý nghĩa quá lớn, còn lại đa số cán bộ công chức vẫn đang sống nhờ vào
tiền thu nhập chính thức và có nguyện vọng tập trung vào công vụ, sống được bằng tiền
lương. Thời gian qua dù nhà nước đã tìm cách tăng thêm thu nhập, nhưng mức lương của công
chức, viên chức vẫn thấp hơn mức sống trung bình. Đây là một trong những nguyên nhân trực
tiếp, cơ bản dẫn đến tham nhũng. Cán bộ công chức viên chức lương thấp nhưng lại chịu nhiều
ràng buộc, trước những áp lực này, không ít công chức, viên chức đã xin nghỉ việc.
- Công tác tuyên truyền và giáo dục phẩm chất đạo đức CM trong cán bộ, Đảng viên đã không
được quan tâm đúng mức hoặc việc triển khai thực hiện chưa thực sự nghiêm túc không đem lại
hiệu quả
2.2 Nguyên nhân và điều kiện chủ quan:
- Lòng tham của con người.
- Do lối sống “ăn bám”, ỷ lại, lười lao động thích hưởng thụ của một bộ phận, tầng lớp trong xã
hội.
- Do cuộc sống, áp lực công việc, do môi trường xung quanh; do giáo dục, do cơ chế và do
chính bản thân mà đạo đức con người ngày càng bị suy thoái, tha hóa.
- Sự sơ hở, bất cập, thiếu công khai, thiếu minh bạch, cơ chế “xin - cho” còn tồn tại.
- Hệ thống chính trị chậm được đổi mới, hoạt động của bộ máy nhà nước kém hiểu quả.
- Phẩm chất đạo đức của một bộ phận cán bộ, đảng viên bị suy thoái, công tác quản lý, giáo dục
cán bộ, đảng viên còn kém.
- Chính sách pháp luật chưa đầy đủ, thiếu đồng bộ, thiếu đồng bộ.
- Cải cách hành chính vẫn còn chậm và lúng túng, cơ chế “xin- cho” trong hoạt động công vụ
còn phổ biến, thủ tục hành chính còn phiền hà, nặng nề, bất hợp lý.
- Sự lãnh đạo, chỉ đạo trong công tác phòng, chống tham nhũng trong một số trường hợp còn
chưa chặt chẽ, sâu sát, thường xuyên; xử lý chưa nghiêm đối với những hành vi tham nhũng.
Ví dụ: Vụ thông thầu của Công ty AIC. Ở vụ án này, theo như đại diện Viện KSND Hà Nội
đánh giá trong phần luận tội, "vụ AIC là minh hoạ điển hình của lợi ích nhóm". Những người
này vì động cơ cá nhân, đã nhận hối lộ từ dàn lãnh đạo Công ty AIC, tạo điều kiện cho doanh
nghiệp này trúng 16 gói thầu tại Dự án Bệnh viện Đa khoa Đồng Nai, gây thiệt hại cho Nhà
nước 152 tỉ đồng. Qua đó có thể thấy rằng: Chức năng nhiệm vụ của nhiều cơ quan nhà nước
trong phòng chống tham nhũng chưa rõ ràng, thậm chí chồng chéo, thiếu một cơ chế phối hợp
cụ thể, hữu hiệu. Thiếu các công cụ phát hiện và xử lí tham nhũng kịp thời, hữu hiệu. Việc huy

4
Tài liệu lưu hành nội bộ

động lực lượng đông đảo của nhân dân cũng như sự tham gia của lực lượng báo chí vào cuộc
đấu tranh chống tham nhũng còn chưa được quan tâm đúng mức.
3. Tác động của tham nhũng:
Tham nhũng có thể gây ra rất nhiều hậu quả nghiêm trọng trên tất cả các lĩnh vực của đời sống
xã hội. Có thể khái quát những tác hại chủ yếu của tham nhũng trên các lĩnh vực chính trị, kinh
tế, xã hội ở những điểm chính sau đây:
3.1 Tác hại về chính trị:
– Tham nhũng phá hoại đội ngũ cán bộ, tầm thường hoá hệ thống pháp luật. Các giá trị quản lý
nhà nước xây dựng không mang đến ý nghĩa tương xứng trong nhu cầu của người dân. Đây
cũng là nguyên nhân căn bản nhất dẫn đến thất bại của Đảng và Nhà nước.
– Kỷ cương xã hội không thể giữ vững, các sức mạnh của nhà nước cũng giảm đi trong lòng tin
của nhân dân. Gây mất đoàn kết nội bộ, làm giảm uy tín của Đảng và Nhà nước trước nhân dân.
Từ đó hạn chế sức mạnh, niềm tin mãnh liệt của nhân dân vào lực lượng lãnh đạo. Cũng mang
đến cơ hội để cho kẻ thù phá hoại, xâm lược, lực lượng phản động.
– Làm cho bộ máy trở thành quan liêu, đội ngũ viên chức tốt cũng có thể bị tác động trong nhận
thức và thái độ.
Ví dụ: Một vụ án tham nhũng rất nổi tiếng cách đây vài năm là vụ ăn hối lộ tại trạm kiểm soát
liên hợp Đồng Bành (Lạng Sơn). Trong vụ việc này, trạm trưởng đã lợi dụng chức vụ, quyền
hạn của mình thông đồng, cho các chủ hàng nhập lậu hàng hóa qua biên giới. Họ lợi dụng chức
vụ, quyền hạn để nhận lợi ích riêng, hợp pháp hóa các hành vi theo quy định pháp luật. 
– Tham nhũng là trở lực lớn đối với quá trình đổi mới đất nước, tiến lên chủ nghĩa xã hội. Khi
bộ phận lãnh đạo không đảm bảo đóng góp vai trò, thành quả vào sự nghiệp chung. Cản trở, tác
động lên các tư tưởng mạnh mẽ trong thống nhất xây dựng đất nước.
3.2 Tác hại về kinh tế:
_ Ở nước ta, trong thời gian qua, nạn tham nhũng diễn ra trên tất cả các lĩnh vực của đời sống
xã hội, gây thiệt hại lớn đến tài sản của Nhà nước, tiền của, thời gian, công sức của nhân dân.
Giá trị tài sản bị thiệt hại, bị thất thoát liên quan tới tham nhũng của mỗi vụ lên tới hàng chục,
hàng trăm, thậm chí chục ngàn tỷ đồng. Đó là những con số lớn và đáng lo ngại so với số thu
ngân sách hằng năm của nước ta.
Ví dụ: Tham nhũng làm thất thoát những khoản tiền lớn trong chi tiêu chính sách công như
trong xây dựng: các chi phí cho việc đấu thầu, việc cấp vốn, việc thanh tra, kiểm toán và hàng
loạt các chi phí khác. Từ đó không đảm bảo ý nghĩa, hiệu quả sử dụng triệt để ngân sách nhà
nước.
- Trong điều kiện là một nước đang phát triển, mọi nguồn lực cần phải huy động tối đa cho sự
nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá, đồng thời phải nỗ lực cho việc xoá đói, giảm nghèo và

5
Tài liệu lưu hành nội bộ

thực hiện các chính sách xã hội khác thì việc lãng phí, thất thoát tài sản, tiền của, thời gian,
công sức do tham nhũng cần được coi là một thứ tội ác phải đấu tranh và xử lý mạnh mẽ.
- Với động cơ vụ lợi, một số người đã lợi dụng vị trí của mình trong bộ máy nhà nước hoặc lợi
dụng những quyền hạn nhất định được pháp luật hoặc cơ quan nhà nước có thẩm quyền giao
cho để thực hiện các hành vi nhằm chiếm đoạt tài sản hoặc các lợi ích khác của Nhà nước, của
tập thể hoặc cá nhân. Một số cá nhân, tổ chức thực hiện các hoạt động đầu tư bằng vốn ngân
sách không nhằm mang lại lợi ích cho Nhà nước, cho xã hội mà chỉ nhằm mưu cầu lợi ích cá
nhân.
Ví dụ: Việc tham nhũng, nhất là hành vi tham ô tài sản đã làm cho một số lượng lớn tài sản
công trở thành tài sản tư của một số cán bộ, công chức, viên chức. Trong một số cơ quan, tổ
chức đã hình thành các đường dây tham ô hàng tỷ, thậm chí hàng trăm tỷ đồng của Nhà nước.
-Hậu quả của hành vi tham nhũng không chỉ là việc tài sản, lợi ích của Nhà nước, của tập thể
hoặc của cá nhân bị biến thành tài sản riêng của người thực hiện hành vi tham nhũng, mà nguy
hiểm hơn, hành vi tham nhũng còn gây thiệt hại, gây thất thoát, lãng phí một lượng lớn tài sản
của Nhà nước, của tập thể, của công dân.
Ví dụ: Do tham nhũng mà một số công trình xây dựng như các công trình cầu đường, nhà cửa
kém chất lượng đã gây nguy hiểm cho cuộc sống của người dân, ảnh hưởng nghiêm trọng đến
sự phát triển của nền kinh tế – xã hội. Các chất lượng công trình không đảm bảo về mặt thời
gian, vật chất đã bỏ ra.
- Tham nhũng gây ảnh hưởng lớn đến môi trường kinh doanh. Làm giảm đáng kể năng lực cạnh
tranh của các doanh nghiệp, chậm tốc độ tăng trưởng của nền kinh tế. Các hành vi tham nhũng
gây mất công bằng, bình đẳng để các doanh nghiệp tiếp cận quyền lợi theo pháp luật.
Ví dụ: Do tệ nạn tham nhũng mà nhiều doanh nghiệp tuy không có đủ thực lực và uy tín nhưng
nhờ “hối lộ” mà vẫn giành được những hợp đồng kinh tế lớn. Điều đó không chỉ làm mất lòng
tin của các doanh nghiệp làm ăn chính đáng, cạnh tranh lành mạnh mà còn dẫn đến nhiều hậu
quả xấu khác như: chất lượng công trinh kém, làm suy thoái phẩm chất của một số cán bộ, công
chức, viên chức, làm mất lòng tin của các nhà đầu tư, gây nguy hiểm cho cuộc sống người dân...
- Ở mức độ thấp hơn, việc một số cán bộ, công chức quan liêu, sách nhiễu đối với nhân dân
trong khi thực thi công vụ, lạm dụng quyền hạn trong khi thi hành công vụ khiến cho nhân dân
phải mất rất nhiều thời gian, công sức, tiền bạc để có thể thực hiện được công việc của mình
như xin cấp các loại giấy phép, giấy chứng nhận, hoặc các loại giấy tờ khác. Nếu xét từng
trường hợp một thì giá trị vật chất bị lãng phí có thể không quả lớn, nhưng nếu tổng hợp những
vụ việc diễn ra thường xuyên, liên tục trong cuộc sống hằng ngày thì con số bị thất thoát đã ở
mức độ nghiêm trọng.
Ví dụ: Hành vi sách nhiễu, gây khó khăn, đòi hối lộ của một bộ phận cán bộ, công chức, viên
chức gây thiệt hại đến tài sản của người dân, làm ảnh hưởng đến giải quyết thủ tục hành chính
dẫn đến kéo dài việc giải quyết, gây mất thời gian, làm đình trệ các hoạt động sản xuất, kinh
doanh, tác động sâu sắc đến nhận thức, mất niềm tin của nhân dân khi sử dụng các dịch vụ của
nhà nước.
Liên hệ một số vụ án tham nhũng lớn năm 2022 và hậu quả:

6
Tài liệu lưu hành nội bộ

Vụ biển thủ 3,8 triệu USD


Hôm 24/11/2022 TAND Hà Nội đã công bố bản án với 8 bị cáo liên quan đến hành vi biển thủ
3,8 triệu USD (tương đương 66 tỉ đồng) xảy ra tại Công ty CP dược phẩm Cửu Long, gây thiệt
hại tài sản của Nhà nước.
Vụ nâng khống thiết bị xảy ra tại Bệnh viện Bạch Mai
Đây là vụ án được dư luận, đặc biệt là những bệnh nhân của Bệnh viện Bạch Mai quan tâm. Vụ
án được đưa ra xét xử sơ thẩm hòi tháng 1/2022. Các bị cáo trong vụ án đã thông đồng để nâng
khống giá thiết bị y tế lên tới 300%, khiến người bệnh phải trả phí cao hơn thực tế nhiều lần.
3.3 Tác hại về xã hội:
_ Làm thay đổi, đảo lộn những chuẩn mực đạo đức XH, tha hóa đội ngũ cán bộ, công chức NN
Ví dụ: Khiến cho người dân mất niềm tin vào những cán bộ, công chức, viên chức. Muốn làm
được thì phải được “bôi trơn” không sẽ bị “hành” gây cản trở việc làm các thủ tục HC của
người dân
- Cán bộ, công chức, viên chức không làm vì mục đích phục vụ sự nghiệp cách mạng, phục vụ
nhân dân thay vào đó là vụ lợi cho bản thân
Ví dụ: Có những cán bộ, công chức, viên chức cho rằng do lương thấp nên họ cần phải được
bồi dưỡng bằng cách “làm nhanh” hồ sơ cho người dân…
- Dần dần tác động nhiều lĩnh vực khác rộng hơn như văn hoá, y tế, giáo dục…
Ví dụ: Năm 2020, tham nhũng đại án “Việt Á” về kit test.
Kỳ thi THPT Quốc gia 2018, các giám khảo nâng điểm có thí sinh được nâng lên 29,95 điểm
cho 4 môn trắc nghiệm
- Tham nhũng trợ cấp của Nhà nước đến với người dân

Ví dụ: Bà Đặng Thị Hà ở ấp Kênh 3, xã Vĩnh Thuận (huyện Vĩnh Thuận, tỉnh Kiên Giang), cho
biết 4 ha lúa của gia đình bà đã bị thiệt hại 100%. Thế nhưng, chính quyền địa phương chỉ hỗ
trợ cho bà 1 ha với số tiền 2 triệu đồng thay vì 8 triệu đồng theo quy định.

“Tôi đến gặp cán bộ ấp để khai báo 4 ha lúa bị chết khô nhưng không được ai xuống kiểm tra,
xác minh. Tôi thật sự ngỡ ngàng khi được nhận tiền hỗ trợ chỉ với 2 triệu đồng cho 1 ha. Nhận
tiền xong, lập tức cán bộ xã bắt tôi phải đóng các khoản phí tổng cộng 220.000 đồng nhưng
không giao biên lai thu tiền, không giải thích là thu tiền gì” - bà Hà kể.
KẾT LUẬN:
Từ những phân tích nói trên có thể thấy, hậu quả của tham nhũng là rất nghiêm trọng, xảy ra ở
các lĩnh vực của đời sống xã hội, một mặt gây thất thoát về kinh tế, tác động trực tiếp tới các
mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội, ảnh hưởng xấu đến uy tín, hình ảnh của Đảng, Nhà nước ta;
mặt khác xâm hại trực tiếp hoặc gián tiếp tới các quyền, lợi ích hợp pháp của công dân. Vấn nạn
tham nhũng, nếu không được phát hiện, đấu tranh, xử lý kịp thời thì có thể tiếp tục cản trở việc
7
Tài liệu lưu hành nội bộ

thực hiện và bảo đảm các quyền, lợi ích hợp pháp của công dân, gây ra tiêu cực, bức xúc trong
đời sống xã hội. Đặc biệt, các vụ án tham nhũng cũng chính là cơ hội hết sức thuận lợi để các
thế lực bên ngoài lợi dụng can thiệp vào công việc nội bộ của nước ta thông qua các chiêu bài
“dân chủ”, “nhân quyền”, từng bước gây ra những bất ổn về chính trị - xã hội, âm mưu thực
hiện chiến lược “diễn biến hòa bình” như đã từng thực hiện ở các quốc gia Trung Đông và Bắc
Phi.
Chủ đề: QUAN ĐIỂM CỦA CHỦ TỊCH HỒ CHÍ MINH VỀ PHÒNG
CHỐNG THAM NHŨNG
1. Khái niệm
Tư tưởng Hồ Chí Minh là một hệ thống quan điểm toàn diện và sâu sắc về những vấn đề cơ bản
của cách mạng Việt Nam, là kết quả sự vận dụng và phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin
vào điều kiện cụ thể của nước ta, kế thừa và phát triển các giá trị truyền thống tốt đẹp của dân
tộc, tiếp thu tinh hoa văn hoá nhân loại; là tài sản tinh thần vô cùng to lớn và quý giá của Đảng
và dân tộc ta, mãi mãi soi đường cho sự nghiệp cách mạng của nhân dân ta giành thắng lợi.
Tham nhũng là hành vi của người có chức vụ, quyền hạn đã lợi dụng chức vụ, quyền hạn đó vì
vụ lợi.
2. Một số nhận định của Chủ tịch Hồ Chí Minh về phòng chống tham nhũng
Ngay từ khi mới thành lập Nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, Chủ tịch Hồ Chí Minh với
tư cách là người lãnh đạo Nhà nước đã sớm đề cập đến nhiệm vụ chống các bệnh quan liêu,
tham ô, lãng phí, những bệnh được Người gọi là “bất liêm”.
Thuật ngữ “tham ô”, Chủ tịch Hồ Chí Minh dùng lần đầu vào năm 1952. Cho đến Văn kiện Đại
hội V của Đảng (năm 1982) , trong bài Thực hành tiết kiệm, chống tham ô, lãng phí, chống
bệnh quan liêu" vẫn còn dùng thuật ngữ “tham ô”. Từ Văn kiện Đại hội VI (năm 1986) , bắt đầu
chuyển sang dùng thuật ngữ “tham nhũng” để thay cho thuật ngữ “tham ô”.
Hồ Chí Minh không dùng thuật ngữ “tham nhũng” mà Người nhắc đến các biểu hiện của tham
nhũng với các tên gọi như tham ô, hối lộ, lãng phí, quan liêu, gian lận, ăn cắp của công. Người
chỉ ra bản chất của tham ô là hành vi ăn cắp của công, hay của nhân dân", "lấy của công làm
của tư , là gian lận, tham lam", "là không tôn trọng của công”. Chủ tịch Hồ Chí Minh vạch ra
nguyên nhân của tham ô, lãng phí, quan liêu là do những tàn dư xấu xa của xã hội cũ. Vì những
lẽ đó, Chủ tịch Hồ Chí Minh cho rằng, chống tham ô, lãng phí, quan liêu cũng quan trọng như
đánh giặc ngoài mặt trận, “đây là mặt trận tư tưởng và chính trị” rất quan trọng.
_ Hồ Chí Minh cho rằng tham nhũng là thứ xấu xa nhất của xã hội cũ
+ Nó do lòng tự tư, tự lợi, ích kỷ mà ra, nó do chế độ “người bóc lột người” mà ra. Do vậy,
chúng ta muốn xây dựng một xã hội mới, một xã hội tự do, bình đẳng, một xã hội cần, kiệm,
liêm, chính, thì chúng ta phải tẩy cho sạch hết những thói xấu của xã hội cũ.

8
Tài liệu lưu hành nội bộ

_ Người khẳng định, chủ nghĩa cá nhân là bệnh mẹ đẻ ra tham nhũng. Tham nhũng là
“hành động xấu xa nhất, tội lỗi, đê tiện nhất”
+ Bác Hồ đến phát biểu tại Hội nghị Bồi dưỡng chỉnh huấn do Trung ương triệu tập, nhấn
mạnh: “Muốn giữ gìn sự trong sáng của chủ nghĩa Mác-Lênin thì trước hết tự mình phải trong
sáng. Muốn đánh thắng kẻ thù là chủ nghĩa đế quốc, muốn xây dựng thắng lợi chủ nghĩa xã hội
thì trước hết phải chiến thắng kẻ thù bên trong của mỗi chúng ta là chủ nghĩa cá nhân”. Người
cũng nhắc lại lời cảnh báo của V. I. Lênin: “Không xử bắn lũ ăn của đút lót… đó là một điều
xấu hổ cho những đảng viên cộng sản, cho những người cách mạng… Phải lập tức đề nghị một
đạo luật để trừng trị những vụ hối lộ ăn hối lộ, tặng hối lộ, và những cách hối lộ khác ”4. Không
phải ngẫu nhiên mà người đứng đầu Đảng và Chính phủ lại dám thẳng thắn phê phán gay gắt
như thế đối với những khuyết điểm, sai lầm của cán bộ, đảng viên. Hồ Chí Minh hiểu rất rõ
rằng, đây là những lỗi lầm đặc biệt nghiêm trọng, có hại cho dân, cho nước cần phải ra sức kiên
trì sửa chữa. Đặc biệt, sự phê phán không chỉ bằng văn thư hành chính nội bộ mà còn công khai
lên báo chí công luận, như để tự phê bình, tự kiểm điểm trước nhân dân. Điều đó đủ để quần
chúng thấy rõ quan điểm, thái độ của Đảng ta không chấp nhận sự tồn tại của những hành vi ấy
trong đời sống chính trị của Đảng và toàn dân. Đồng thời, là sự khởi đầu cho việc hình thành
một lối sống văn hóa trong Đảng, một tập quán chính trị tiến bộ và là tiêu chí quan trọng của
một đảng “là đạo đức, là văn minh” - đã là cán bộ, đảng viên phải trong sạch, phải nói không
với tham nhũng.
_ Bác đánh giá tác hại do tham nhũng gây ra cực kỳ to lớn về mọi mặt.
+ Nó không những làm thiệt hại về kinh tế mà còn làm xói mòn lòng tin của nhân dân đối với
Đảng, Nhà nước, với chế độ ; làm rối loạn kỷ cương pháp luật, hư hỏng cán bộ. Vấn đề tham ô,
lãng phí, quan liêu trong bộ máy công quyền, dù là bộ phận nhỏ, đã là một nguy cơ lớn đối với
tiền đồ dân tộc.
_ Chủ tịch Hồ Chí Minh đặc biệt nhấn mạnh tầm quan trọng của công tác tư tưởng, công
tác giáo dục chính trị, tư tưởng cho đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý
+ Bởi lẽ Người cho rằng, trong nhận thức tư tưởng của mỗi cấp ủy, chính quyền, cán bộ lãnh
đạo, quản lý và quần chúng có thông suốt thì mới có thể tiến hành đấu tranh chống quan liêu,
tham nhũng thắng lợi. Muốn chống tham nhũng, trước hết cần “Phải khai hội đủ mặt mọi người
trong cơ quan, đơn vị, trường học… để giải thích rõ ràng, nói đi nói lại, cho mọi người hiểu
tham ô, lãng phí, quan liêu có hại cho dân, cho nước thế nào, vì sao phải chống nạn ấy”. Có thể
thấy rằng, mọi tư tưởng, hành động của cán bộ đều ảnh hưởng đến cuộc sống của nhân dân và
vận mệnh của đất nước. Kết quả của công việc thành công hay thất bại đều phụ thuộc vào người
cán bộ tốt hay kém. Chính vì thế, Người khẳng định: “Cán bộ là cái gốc của mọi công việc”.
Đấu tranh để giành được chính quyền về tay nhân dân là rất khó, nhưng đấu tranh để củng cố
được chính quyền của nhân dân cho thật trong sạch, vững mạnh càng khó hơn. Một đảng lãnh
đạo chính quyền, sao cho không xảy ra tham ô, lãng phí, quan liêu là một việc làm rất khó khăn,
đòi hỏi phải có một đội ngũ những người lãnh đạo có tâm, có tầm, có tài.

9
Tài liệu lưu hành nội bộ

_ Bác Hồ đã xác định vấn đề chống tham ô, lãng phí như một nhiệm vụ cấp bách để làm
trong sạch bộ máy Đảng và Nhà nước.
+ Ngày 26/01/1946, Hồ Chí Minh kí Quốc lệnh quy định những trường hợp thưởng và phạt.
Quốc lệnh quy định 10 trường hợp thưởng và 10 trường hợp phạt. Trong đó điều thứ 8 đã quy
định trộm cắp của công sẽ bị xử tử. Theo Người, tư tưởng, việc làm nào hại đến tính mạng và
tài sản của nhân dân, làm mất uy tín của Đảng và Nhà nước phải được xử nghiêm theo đúng
pháp luật: “Pháp luật phải thẳng tay trừng trị những kẻ bất liêm, bất kỳ kẻ ấy ở địa vị nào, làm
nghề nghiệp gì”. Vấn đề quan trọng và mấu chốt đối với nhiệm vụ chống quan liêu, tham nhũng
chính là phải xử lý cán bộ một cách kiên quyết, công minh, để người có khuyết điểm phải chịu
kỷ luật, người có tội phải xử tội, bất kể họ là ai, ở cấp bậc nào. Tiếp theo đó, ngày 27/11/1946,
Chủ tịch Hồ Chí Minh ký Sắc lệnh số 223 ấn định hình phạt đối với tội đưa và nhận hối lộ, biển
thủ công quỹ, tài sản công cộng.
+ Nhớ lại vụ án Trần Dụ Châu diễn ra năm 1950. Tại Chiến khu Việt Bắc vào ngày 05/9/1950,
một phiên tòa đặc biệt đã diễn ra, gây chấn động dư luận xã hội lúc bấy giờ. Trần Dụ Châu,
nguyên Cục trưởng Cục Quân nhu can tội ăn cắp công quỹ và làm nhiều điều bỉ ổi. Đây được
coi là vụ án điển hình về tham nhũng, cũng được xử làm điểm để răn đe. Trong khi nhân dân,
chiến sĩ còn gặp muôn vàn khổ cực kháng chiến chống giặc, thương binh thì thiếu thuốc men,
bông băng, hầu như hết chiến sỹ đều rách rưới, võ vàng vì đói rét thì Đại tá Trần Dụ Châu đã
thực hiện ăn cắp công quỹ, nhận hối lộ, phá họai công cuộc kháng chiến. Ví dụ, cứ mỗi cái màn
cấp cho bộ đội Châu ăn bớt 2 tấc vải xô, nên cứ ngồi lên là đầu chạm đình màn. Còn áo trấn thủ,
Châu ăn cắp bông lót rồi độn bao tải vào. Trần Dụ Châu còn tổ chức nhiều tiệc linh đình, xa xỉ,
lãng phí… Tại phiên tòa, Trần Dụ Châu đã cúi đầu nhận tội, Tòa án binh tối cao tuyên phạt án
tử hình, đồng thời bị tước quân hàm Đại tá theo công lệnh của Đại tướng Võ Nguyên Giáp.
Trần Dụ Châu đã gửi đơn lên Hồ Chủ tịch xin tha tội chết. Người đã cân nhắc rất kỹ và quyết
định bác đơn xin giảm tội của Trần Dụ Châu và dứt khoát nói: “Một cái ung nhọt, dẫu có đau
cũng phải cắt bỏ, không để nó lây lan, nguy hiểm” và “nếu phải giết đi một con sâu mà cứu
được cả rừng cây thì việc đó là cần thiết, hơn nữa còn là một việc làm nhân đạo”.
=> Như vậy, có thể thấy, tham nhũng gắn liền với nhà nước và các hoạt động của nhà nước.
Cũng chính vì vậy, đấu tranh chống tham nhũng sẽ còn là cuộc đấu tranh thường xuyên, lâu dài,
phức tạp và là nhiệm vụ quan trọng của cả hệ thống chính trị.
3. Các biện pháp phòng chống tham nhũng theo quan điểm Chủ tịch Hồ Chí Minh
Thứ nhất, nâng cao đạo đức cách mạng, quét sạch chủ nghĩa cá nhân
Theo quan điểm của Hồ Chí Minh, làm tốt công tác tư tưởng, nâng cao đạo đức cách mạng là
biện pháp hàng đầu trong đấu tranh phòng, chống tham nhũng.
Hồ Chí Minh căn dặn toàn Đảng, toàn dân phải nâng cao đạo đức cách mạng, kiên quyết quét
sạch chủ nghĩa cá nhân, bồi dưỡng tư tưởng tập thể, tinh thần đoàn kết, tính tổ chức và tính kỷ
luật.

10
Tài liệu lưu hành nội bộ

Xây dựng đạo đức mới trước hết phải được tiến hành bằng việc giáo dục những phẩm chất,
những chuẩn mực đạo đức mới, bằng việc nêu gương người tốt, việc tốt; những tấm gương đạo
đức trong sáng xuất hiện trong cuộc sống và bằng việc khơi dậy ý thức đạo đức lành mạnh, để
mỗi người tự giác với trách nhiệm, nghĩa vụ của mình.
Thứ hai, chú trọng công tác cán bộ, đặc biệt là cán bộ lãnh đạo, quản lý
Muốn chống tham nhũng có hiệu quả cần phải làm tốt công tác cán bộ, từ việc tuyển chọn, đào
tạo, bồi dưỡng đến bố trí, sử dụng... Khi bổ nhiệm cán bộ lãnh đạo, quản lý phải dân chủ, công
khai và đủ các tiêu chuẩn đề ra, trong đó tiêu chuẩn về đạo đức cách mạng là quan trọng nhất.
Cán bộ là cái gốc của mọi công việc, muốn việc thành công hoặc thất bại, đều do cán bộ tốt
hoặc kém. Vì thế, điều kiện tiên quyết để đưa sự nghiệp cách mạng đi tới thắng lợi là phải có
cán bộ tốt. Cán bộ là yếu tố quyết định chất lượng của đường lối, chính sách, đặc biệt là vai trò
gương mẫu, đi đầu trong thực hiện chính sách.
Thứ ba, phải công khai, dân chủ, có khen thưởng, có kỷ luật
Công khai, dân chủ là một trong những biện pháp hữu hiệu để phòng, chống tham nhũng. Chế
độ mà chúng ta lựa chọn và xây dựng là chế độ dân chủ. Thực hiện tốt dân chủ và công khai sẽ
tạo dựng được khối đoàn kết trong cơ quan, đơn vị, đồng thời sẽ tạo môi trường tốt để phòng
ngừa, ngăn chặn, đẩy lùi nạn tham nhũng.
Cùng với cơ chế công khai, dân chủ, Hồ Chí Minh đề cập đến vấn đề khen thưởng, kỷ luật công
minh. Đây cũng là một trong những biện pháp quan trọng trong công tác phòng, chống tham
nhũng. Hồ Chí Minh khẳng định: “Những ai đã lầm đường mà nay biết hối cải thì sẽ được
khoan thứ. Những người đã có công thì sẽ được khen thưởng”, và “Ai có lỗi mà không thật thà
nói ra, sẽ bị kỷ luật. Ai ngăn cản, đe dọa những người kiểm thảo mình, sẽ bị kỷ luật”
Thứ tư, thực hiện tự phê bình và phê bình
Theo quan điểm của Hồ Chí Minh, tự phê bình và phê bình phải được tiến hành thường xuyên,
như việc rửa mặt hàng ngày và tạo thành phong trào rộng rãi chống lại nạn tham ô, lãng phí.
Đồng thời, Người cũng lưu ý trong quá trình tự phê bình và phê bình phải thành thật. Thường là
việc nhận ra khuyết điểm của bản thân mình, của tổ chức mình không dễ dàng, do đó tự phê
bình thường khó hơn việc phê bình. Hồ Chí Minh yêu cầu mọi người không được “giấu bệnh,
sợ thuốc”, nó sẽ giúp cho việc tự phê bình và phê bình có kết quả tốt. Hồ Chí Minh chỉ rõ, khi
tiến hành tự phê bình và phê bình phải trung thực, không “đặt điều”, “không thêm bớt”. Tự phê
bình và phê bình phải kiên quyết, không nể nang, phải dựa vào sự thực, phải đào tận gốc rễ
những khuyết điểm. Không nên thoa vẽ, che giấu. Không nên “ít thít ra nhiều”, càng không nên
nói việc nhỏ bỏ việc lớn, nói việc cũ quên việc mới.
Thứ năm, xây dựng cơ chế chống tham ô, lãng phí
Ngày 26 -1 -1946, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã ban hành Quốc lệnh quy định cụ thể 10 điều
thưởng và 10 điều phạt, cho quân và dân biết rõ những điều nên tránh, những việc nên làm.

11
Tài liệu lưu hành nội bộ

Trong đó điều phạt thứ 8 đã quy định: Trộm cắp của công sẽ bị xử tử. Khi trả lời phỏng vấn của
đại biểu Quốc hội khóa I trong phiên họp ngày 30 -10 -1946, Hồ Chí Minh đã tuyên bố sẽ dùng
pháp luật mà trị những kẻ ăn hối lộ - đã trị, đương trị và sẽ trị cho kỳ hết.
Để đấu tranh có hiệu quả chống tham ô, lãng phí, trong khi đang ráo riết chỉ đạo công cuộc
chuẩn bị kháng chiến chống thực dân Pháp, ngày 23 -11 -1946, Hồ Chí Minh ký Sắc lệnh số 64
- SL về việc thành lập Ban Thanh tra đặc biệt. Sắc lệnh đã ghi rõ Ban Thanh tra đặc biệt có toàn
quyền nhận các đơn khiếu nại của nhân dân; điều tra, hỏi chứng, xem xét các tài liệu giấy tờ của
các Ủy ban nhân dân hoặc các cơ quan của Chính phủ cần thiết cho công việc giám sát; đình
chức, bắt giam bất cứ nhân viên nào trong Ủy ban nhân dân hay Chính phủ đã phạm lỗi trước
khi mang ra Hội đồng Chính phủ hay Tòa án đặc biệt xét xử; tịch biên hoặc niêm phong những
tang vật và dùng mọi cách điều tra để lập một hồ sơ mang một phạm nhân ra Tòa án đặc biệt.
Ban Thanh tra có thể truy tố cả các việc đã xảy ra trước ngày ban bố Sắc lệnh này. Ban Thanh
tra có quyền đề nghị lên Chính phủ những điều cần sửa đổi trong các cơ quan. Sắc lệnh cũng
quy định về thành lập Tòa án đặc biệt để xét xử những nhân viên của các Ủy ban nhân dân hay
các cơ quan của Chính phủ do Ban Thanh tra truy tố. Tòa án đặc biệt có toàn quyền định ấn, có
thể tuyên án tử hình. Những án tuyên lên sẽ thi hành trong 48 giờ.
Đến ngày 18 -12 -1949, Hồ Chí Minh lại ký Sắc lệnh số 138B-SL về tổ chức Thanh tra Chính
phủ quy định rõ thêm chức năng thanh tra cả Ủy ban Kháng chiến - Hành chính và viên chức về
phương diện liêm khiết.
Như vậy, ngay từ những ngày đầu lãnh đạo chính quyền và trong bối cảnh cuộc kháng chiến
chống thực dân Pháp đang diễn ra ác liệt, Hồ Chí Minh đã rất quan tâm xây dựng và phát triển
Nhà nước cách mạng Việt Nam, để phục vụ cuộc đấu tranh chống tham ô, lãng phí, việc thành
lập một tổ chức chuyên trách đặc biệt chống tham ô thể hiện quyết tâm lớn của Người.
Thứ sáu, tăng cường công tác kiểm tra, giám sát
Theo Hồ Chí Minh, mục đích kiểm tra là xem xét các vấn đề phát sinh để phát hiện ưu điểm mà
phát huy, những khuyết điểm mà khắc phục, sửa chữa. Kiểm tra là công việc thường xuyên,
hàng ngày của lãnh đạo. Người coi công tác kiểm tra như “ngọn đèn pha” giúp người lãnh đạo:
“Bao nhiêu tình hình, bao nhiêu ưu điểm và khuyết điểm, bao nhiêu cán bộ chúng ta đều thấy
rõ”.
Về cách thức kiểm tra, Hồ Chí Minh nhấn mạnh hai vấn đề:
Mỗi cá nhân, mỗi tổ chức phải biết tự kiểm tra, tự kiểm soát hành vi, công việc của chính mình
thông qua tự phê bình và phê bình. Cán bộ cấp càng cao, cơ quan lãnh đạo càng cao, càng phải
tự giác và thành khẩn tự phê bình và phải làm gương, nêu gương cho cấp dưới, không để xảy ra
“thượng bất chính, hạ tắc loạn”.
Để phòng, chống tham ô, lãng phí, Chủ tịch Hồ Chí Minh nhắc nhở cán bộ phải “khéo kiểm tra”
và kiểm tra phải “khéo”. Phải kết hợp linh hoạt các phương pháp và hình thức kiểm tra, kiểm tra
từ dưới lên, từ trên xuống dưới; kiểm tra thường xuyên, bất thường, định kỳ; kiểm tra trực tiếp,
12
Tài liệu lưu hành nội bộ

gián tiếp. Trong các hình thức và phương pháp kiểm tra, Hồ Chí Minh đề cao kiểm tra thường
xuyên và kiểm tra trực tiếp. Người thường xuyên nhắc nhở các đồng chí ở các bộ, ban, ngành ở
Trung ương cần phải thường xuyên đi kiểm tra và giải quyết các công việc tại chỗ, phải chống
bệnh giấy tờ, hội họp nhiều.
4. Ý nghĩa tư tưởng Hồ Chí Minh đối với phòng chống tham nhũng trong thời đại ngày
nay
_ Quan điểm Hồ Chí Minh về phòng, chống tham ô là một trong những bộ phận hợp thành quan
trọng của tư tưởng Hồ Chí Minh có ý nghĩa lớn trong đấu tranh giải phóng dân tộc và xây dựng
chế độ mới ở nước ta. Hiện nay, quan điểm Hồ Chí Minh về phòng, chống tham nhũng có vai
trò cực kỳ trong sự nghiệp đổi mới đất nước.
_ Quan điểm Hồ Chí Minh về phòng, chống tham nhũng là tài sản tinh thần vô cùng to lớn và
quý giá” của Đảng và dân tộc ta.
_ Bằng những tư tưởng đúng đắn, sáng tạo, độc đáo, tư tưởng Hồ Chí Minh về phòng, chống
tham nhũng đã, đang và sẽ là kim chỉ nam định hướng cho toàn Đảng và toàn dân tộc trong
công cuộc ngăn chặn, đẩy lùi tham nhũng.
_ Để tiếp tục phát huy những giá trị chân lý của Người, Đảng ta triển khai quyết liệt, đồng bộ,
đồng thời tiếp tục thực hiện Chỉ thị số 05-CT/TW về đẩy mạnh học tập và làm theo tư tưởng,
đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh"
_ Thấm nhuần lời dạy của Người, Đảng tiếp tục đưa ra đường lối chủ trương, Nghị quyết đúng
đắn về đấu tranh phòng, chống tham nhũng trong việc xây dựng nhà nước Việt Nam trong sạch.
Thực tiễn cho thấy, đa số cán bộ, Đảng viên thực hiện tốt việc đấu tranh phòng, chống tham
nhũng. Tuy nhiên, thực tế vẫn còn một số người do nhận thức chưa đúng, lợi dụng địa vị, chức
quyền lấy của công làm của riêng gây tổn hại đến lợi ích nhân dân. Vì vậy, bản thân mỗi cán
bộ, Đảng viên phải ý thức được tác hại của tham nhũng, lãng phí đối với đất nước, nhân dân;
luôn tu dưỡng phẩm chất đạo đức cách mạng cần, kiệm, liêm chính, chí công vô tư.
5. Vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về phòng chống tham nhũng trong thời đại ngày nay
Kế thừa tư tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh, trong các nhiệm kỳ Đại hội Đảng gần đây, Đảng
ta luôn xác định đấu tranh phòng, chống tham nhũng, lãng phí, quan liêu là một nhiệm vụ trọng
tâm trong công tác xây dựng Đảng, nhiệm vụ này là trực tiếp, phải tiến hành thường xuyên của
cả hệ thống chính trị và toàn xã hội, góp phần vào sự ổn định, phát triển đất nước, làm cho dân
giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh.
Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng
Xuất bản sách :”Kiên quyết, kiên trì đấu tranh phòng, chống tham nhũng, tiêu cực, góp phần
xây dựng Đảng và Nhà Nước ta”

13
Tài liệu lưu hành nội bộ

Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng phát biểu tại buổi họp báo sau Đại hội XIII của Đảng ngày
1.2.2021 :“Tôi nói là không dừng, không nghỉ, không kể đó là ai, không có vùng cấm”.
Dựa vào Nhân dân để chống tham nhũng, tiêu cực là một trong những bài học quý được nhiều
đại biểu nêu ra tại Hội nghị toàn quốc tổng kết 10 năm công tác phòng, chống tham nhũng, tiêu
cực giai đoạn 2012-2022. Phát biểu ý kiến tại Hội nghị này, đồng chí Tổng Bí thư Nguyễn Phú
Trọng, Trưởng Ban Chỉ đạo Trung ương về phòng, chống tham nhũng, tiêu cực đã nhấn mạnh
đến việc phát huy vai trò của Nhân dân trong cuộc chiến chống “giặc nội xâm”. Nhắc lại quan
điểm “Dân là gốc” của Chủ tịch Hồ Chí Minh, đồng chí Tổng Bí thư khẳng định: “Cuộc chiến
phòng, chống tham nhũng, tiêu cực của chúng ta phải dựa vào dân, lắng nghe dân, lắng nghe dư
luận để chọn lọc, tiếp thu cái đúng.”
Chủ tịch nước Võ Văn Thưởng khẳng định:
“Thời gian qua và thời gian sắp tới, Đảng sẽ tiếp tục đẩy mạnh công tác phòng chống tham
nhũng, tiêu cực, kiên quyết, kiên trì xử lý nghiêm cán bộ tham nhũng, tiêu cực với tinh thần
không có vùng cấm, không có ngoại lệ bất kể người đó là ai. Chúng ta xử lý tham nhũng lớn
nhưng cũng xử lý cả tham nhũng vặt, xử cấp địa phương và cả cấp Trung ương, xử người
đương chức và cả người về hưu, không có hạ cánh an toàn.
“Nhà dột có chỗ, mía sâu có đốt. Chỗ nào dột, chỗ nào sâu thì xử lý chỗ đó. Vướng vào phạm,
sai phạm, tham nhũng, tiêu cực thì về hưu ngủ cũng không ngon”.
6. KẾT LUẬN
Trong suốt quá trình lãnh đạo cách mạng Việt Nam, Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn đặc biệt quan
tâm vấn đề phòng, chống tham ô, lãng phí. Người coi tệ tham ô, lãng phí, quan liêu là giặc nội
xâm, là kẻ thù của nhân dân, là “tội lỗi đê tiện nhất” trong xã hội. Vì vậy, cần phải nghiêm trị
các hành vi tham nhũng. Vận dụng quan điểm Hồ Chí Minh về phòng, chống tham ô, lãng phí
có ý nghĩa quan trọng đối với cuộc đấu tranh phòng, chống tham nhũng ở nước ta hiện nay. Đất
nước đang đứng trước những thời cơ lớn đồng thời phải đối mặt với những thách thức lớn,
nghiêm trọng, việc tích cực phòng ngừa và kiên quyết chống tham nhũng là quyết tâm của Đảng
và Nhà nước ta nhằm xây dựng một bộ máy quản lý và lãnh đạo trong sạch, vững mạnh, khắc
phục được một trong những nguy cơ lớn đe doạ sự sống còn của chế độ, củng cố niềm tin của
nhân dân đối với Đảng và Nhà nước đảm bảo sự nghiệp đổi mới tiếp tục đi lên và thực hiện
thắng lợi mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh.
Chủ đề: Thực trạng phòng, chống tham nhũng ở Việt Nam hiện nay
1. Tổng quan về tham nhũng:
Sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh đặc biệt coi trọng phòng, chống tham ô, tham nhũng trong
Đảng, Nhà nước. Người cho rằng đó là “những căn bệnh nguy hiểm”, “là giặc nội xâm”, không
chỉ gây thiệt hại về kinh tế, mà còn làm suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống; làm
suy yếu bộ máy của Đảng, Nhà nước; gây mất lòng tin của quần chúng nhân dân.
14
Tài liệu lưu hành nội bộ

Trong những năm qua, tình trạng tham ô, tham nhũng tại Việt Nam diễn ra ngày càng nhiều trên
mọi lĩnh vực của đời sống xã hội và ở tất cả các ngành, các cấp. Tham nhũng, lãng phí đã gây
ảnh hưởng to lớn đến sự phát triển kinh tế - xã hội và làm giảm niền tin của nhân dân với Đảng
và Nhà nước. Tại Báo cáo tổng kết công tác xây dựng Đảng và sửa đổi Điều lệ tại Đại hội XIII
của Đảng đã nêu: “Tham nhũng trên một số lĩnh vực, địa bàn vẫn còn nghiêm trọng, phức tạp,
với biểu hiện ngày càng tinh vi; tình trạng nhũng nhiễu người dân, doanh nghiệp vẫn còn khá
phổ biến, gây bức xúc trong xã hội… Tham nhũng vẫn là một trong những nguy cơ đe dọa sự
tồn vong của Đảng và chế độ”.
* Khái niệm:
Theo khoản 1 Điều 3 Luật Phòng, chống tham nhũng 2018, Tham nhũng là hành vi của người
có chức vụ, quyền hạn đã lợi dụng chức vụ, quyền hạn đó vì vụ lợi.
Trong đó:
- Người có chức vụ, quyền hạn là người do bổ nhiệm, do bầu cử, do tuyển dụng, do hợp đồng
hoặc do một hình thức khác, có hưởng lương hoặc không hưởng lương, được giao thực hiện
nhiệm vụ, công vụ nhất định và có quyền hạn nhất định trong khi thực hiện nhiệm vụ, công vụ
đó, bao gồm:
+ Cán bộ, công chức, viên chức;
+ Sĩ quan, quân nhân chuyên nghiệp, công nhân, viên chức quốc phòng trong cơ quan, đơn vị
thuộc Quân đội nhân dân; sĩ quan, hạ sĩ quan nghiệp vụ, sĩ quan, hạ sĩ quan chuyên môn kỹ
thuật, công nhân công an trong cơ quan, đơn vị thuộc Công an nhân dân;
+ Người đại diện phần vốn nhà nước tại doanh nghiệp;
+ Người giữ chức danh, chức vụ quản lý trong doanh nghiệp, tổ chức;
+ Những người khác được giao thực hiện nhiệm vụ, công vụ và có quyền hạn trong khi thực
hiện nhiệm vụ, công vụ đó.
- Vụ lợi là việc người có chức vụ, quyền hạn đã lợi dụng chức vụ, quyền hạn nhằm đạt được lợi
ích vật chất hoặc lợi ích phi vật chất không chính đáng.
2. Thực trạng công tác phòng, chống tham nhũng ở Việt Nam hiện nay:
Thực tế ở nước ta cho thấy tham nhũng diễn ra trên nhiều lĩnh vực như: lĩnh vực ngân hàng,
lĩnh vực quản lý, sử dụng đất đai, tài nguyên khoáng sản, trong lĩnh vực lâm nghiệp, xuất nhập
khẩu, trong đầu tư, xây dựng cơ bản, trong cổ phần hóa, trong cấp phép, trong các chương trình
định canh, định cư, viện trợ nhân đạo, y tế, giáo dục, trong lĩnh vực tư pháp, cơ quan thông tấn,
báo chí... thậm chí ngay cả trong chính sách chăm lo chế độ cho người có công, mồ mả liệt sỹ
cũng xảy ra tham nhũng. Tham nhũng không được ngăn chặn và đẩy lùi, mà còn phát triển tinh
vi hơn, không chỉ các ngành kinh tế mà còn cả các ngành bảo vệ pháp luật, không chỉ cán bộ
cấp thấp mà còn cả cán bộ cấp cao.
15
Tài liệu lưu hành nội bộ

Ở nước ta theo thống kê, từ năm 2007 đến 2010 các cơ quan tiến hành tố tụng trong cả nước
phát hiện, xử lý các vụ án về tham nhũng với kết quả: Tổng giá trị tài sản bị tham nhũng, thiệt
hại do tham nhũng phát hiện được là 193,5 tỷ đồng, 516,8 ha đất; đã thu hồi 156,4 tỷ đồng và
432,1 ha đất. Mỗi khi người dân, doanh nghiệp đi xin giấy chứng nhận quyền sở hữu nhà, đất,
đi khám bệnh, xin cho con đi học, hoặc chuyển trường, xin vốn đầu tư, dự án xây dựng… đều
phải có “lót tay”, “bôi trơn” thì mọi việc mới nhanh chóng.
Minh chứng:
Trong kháng chiến chống thực dân Pháp, vụ án của Trần Dụ Châu, nguyên Giám đốc Nha Quân
nhu - Bộ Quốc phòng bị xử ngày 5-9-1950 tại thị xã Thái Nguyên, can tội “biển thủ công quỹ,
nhận hối lộ, phá hoại công cuộc kháng chiến”, bị tuyên án tử hình, tịch thu 3/4 tài sản, tịch thu
tang vật hối lộ.
Ngày nay, nhiều vụ tham nhũng lớn, có tổ chức, nhiều người tham gia, có sự cấu kết của nhiều
doanh nghiệp và cán bộ nhà nước thoái hóa, biến chất như: Vụ án Epco - Minh Phụng từ những
năm 80 của thế kỷ trước, với 77 bị can và 2 án tử hình; vụ án tại Tập đoàn Vinashin, với Phạm
Thanh Bình cùng 8 đồng phạm; vụ án tham ô và cố ý làm trái tại Tổng Công ty Hàng hải Việt
Nam (Vinalines), Dương Chí Dũng và Mai Văn Phúc bị tử hình, 8 bị can khác chịu hình phạt từ
4 đến 22 năm tù.
* Mặt đạt được trong công tác phòng chống tham nhũng hiện nay:
Thứ nhất, có những thay đổi to lớn về mặt nhận thức: Trước đây, chúng ta chủ yếu quan tâm
đến tác hại trước mắt, về vật chất (kinh tế, tiền bạc), nay chúng ta quan tâm nhiều hơn, nhìn rõ
hơn tác hại tiềm ẩn, khôn lường của tham nhũng, tiêu cực, làm hư hỏng, mất cán bộ, mất niềm
tin của nhân dân đối với Đảng, Nhà nước, chế độ và cuối cùng là mất chế độ như đã từng xảy ra
trong thực tiễn lịch sử trên thế giới. Trước đây, chống tham nhũng, lãng phí chủ yếu chỉ tập
trung vào các hành vi: tham ô, chiếm đoạt, nhận hối lộ, đưa hối lộ, làm thất thoát tài sản nhà
nước. Nay không chỉ trong khu vực nhà nước mà còn mở rộng ra cả khu vực ngoài nhà nước.
Đặc biệt, không chỉ phòng, chống tham nhũng, lãng phí mà còn gắn phòng, chống tham nhũng
với phòng, chống tiêu cực, trọng tâm là phòng, chống sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo
đức, lối sống của cán bộ, đảng viên.
Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng phát biểu kết luận tại Phiên họp thứ 23 của Ban Chỉ đạo Trung
ương về phòng, chống tham nhũng, tiêu cực, ngày 12/01/2023
Thứ hai, huy động sức mạnh của cả hệ thống chính trị và toàn xã hội trong đấu tranh phòng,
chống tham nhũng, tiêu cực dưới sự lãnh đạo của Đảng: Đề ra mục tiêu tổng quát, định hướng
toàn bộ phương châm, tư tưởng hành động và các nhiệm vụ, giải pháp phòng, chống tham
nhũng, tiêu cực; đó là: “Ngăn chặn, từng bước đẩy lùi tham nhũng, lãng phí; tạo bước chuyển
biến rõ rệt để giữ vững ổn định chính trị, phát triển kinh tế - xã hội; củng cố lòng tin của nhân
dân; xây dựng Đảng, Nhà nước trong sạch, vững mạnh; đội ngũ cán bộ, công chức kỷ cương,
liêm chính”.

16
Tài liệu lưu hành nội bộ

Mới đây, thực hiện Nghị quyết Hội nghị Trung ương 5 khóa XIII, tất cả 63/63 tỉnh, thành phố
trực thuộc Trung ương đã thành lập Ban Chỉ đạo phòng, chống tham nhũng, tiêu cực và nhanh
chóng đi vào hoạt động, đạt được những kết quả bước đầu.
Thứ ba, thực hiện đồng bộ giữa thi hành kỷ luật Đảng với kỷ luật hành chính và xử lý hình sự,
rất nghiêm minh nhưng rất nhân văn: Thực hiện đồng bộ các biện pháp chính trị tư tưởng, tổ
chức hành chính, kinh tế, hình sự; kết hợp chặt chẽ giữa tích cực phòng ngừa với chủ động phát
hiện, xử lý nghiêm minh, kịp thời những hành vi tham nhũng, tiêu cực. Quá trình xử lý được
tiến hành đồng bộ giữa xử lý kỷ luật của Đảng với kỷ luật hành chính của Nhà nước, kỷ luật của
đoàn thể và xử lý hình sự; kỷ luật của Đảng thực hiện trước, tạo tiền đề để xử lý kỷ luật hành
chính, đoàn thể và xử lý hình sự; kỷ luật của Đảng nghiêm hơn xử lý theo pháp luật.
Thứ tư, thực hiện tốt trong việc chủ động phát hiện, xử lý nghiêm minh, không có vùng cấm,
không có ngoại lệ, bất kể người đó là ai để “không dám” tham nhũng, tiêu cực: Công tác kiểm
tra, giám sát của Đảng, thanh tra, kiểm toán của Nhà nước được tăng cường, phát hiện và xử lý
nghiêm minh các sai phạm; siết chặt kỷ luật, kỷ cương trong Đảng và bộ máy nhà nước, góp
phần đắc lực nâng cao hiệu quả công tác phòng, chống tham nhũng, tiêu cực.
Trong 10 năm qua (2012 - 2022), đã xử lý kỷ luật 2.740 tổ chức đảng và hơn 167.700 cán bộ,
đảng viên, trong đó có hơn 190 cán bộ diện Trung ương quản lý (có 4 ủy viên Bộ Chính trị,
nguyên ủy viên Bộ Chính trị; 36 ủy viên Trung ương, nguyên ủy viên Trung ương; hơn 50 sĩ
quan cấp tướng trong lực lượng vũ trang); qua thanh tra, kiểm toán kiến nghị xử lý trách nhiệm
gần 44.700 tập thể, cá nhân, chuyển cơ quan điều tra, xử lý gần 1.200 vụ việc có dấu hiệu tội
phạm.
Thứ năm, công tác phát hiện, xử lý các vụ việc, vụ án tham nhũng được đẩy mạnh, tạo chuyển
biến tương đối rõ; tiến độ điều tra, truy tố, xét xử một số vụ án tham nhũng nghiêm trọng, phức
tạp được đẩy nhanh hơn; Nhiều vụ án lớn được đưa ra xét xử theo quy định của pháp luật, đặc
biệt là việc công khai đưa ra xét xử nghiêm minh các vụ án tham nhũng nghiêm trọng, phức tạp
đã nhận được sự đồng tình, ủng hộ của đông đảo cán bộ, đảng viên và nhân dân, có tác dụng
cảnh tỉnh, răn đe đối với hành vi tham nhũng, củng cố niềm tin của nhân dân với Đảng và Nhà
nước.
VD: Tham nhũng của công ty Việt Á lợi dụng tình hình dịch bệnh COVID-19 "bắt tay" với
giám đốc CDC( trung tâm kiểm soát và phòng ngừa dịch bệnh)một số địa phương nâng khống
giá bộ xét nghiệm COVID-19 để hưởng lợi bất chính số tiền lớn lên tới hàng trăm tỷ đồng.
Thứ sáu, chỉ số nhận thức tham nhũng (CPI) có sự chuyển biến tích cực: Ngày 25/1/2022, Tổ
chức Minh bạch Quốc tế công bố Chỉ số nhận thức tham nhũng(CPI) năm 2021, theo đó Việt
Nam tăng 3 điểm so với 2020.
* Khó khăn, hạn chế: Bên cạnh kết quả đạt được, công tác PCTN ở Việt Nam vẫn còn một
số hạn chế như:

17
Tài liệu lưu hành nội bộ

Một là, một số văn bản, quy định nhằm thực hiện cơ chế, chính sách về PCTN chưa được ban
hành đúng thời gian đã đề ra: Quy định về trách nhiệm giải trình của cán bộ, công chức, viên
chức; quy định về bảo vệ người tố cáo hành vi tham nhũng; đề án về kiểm soát thu nhập của
người có chức vụ, quyền hạn... Một số quy định đã bộc lộ hạn chế, vướng mắc nhưng chậm
được sửa đổi, bổ sung như chuyển đổi vị trí công tác, xử lý trách nhiệm của người đứng đầu khi
để xảy ra tham nhũng...
Hai là, một số nơi, công tác tuyên truyền, giáo dục về PCTN mới tập trung đối với đội ngũ cán
bộ, đảng viên, việc tuyên truyền chưa được sâu rộng đến cấp cơ sở và mọi tầng lớp nhân dân:
Nội dung tuyên truyền, giáo dục về PCTN chưa thật sự hấp dẫn; số báo, đài có chuyên trang,
chuyên mục về PCTN còn ít và chưa duy trì thường xuyên. Nhận thức của một bộ phận cán bộ,
đảng viên, quần chúng về công tác PCTN còn hạn chế, dẫn tới thiếu tự giác trong việc chấp
hành các quy định của pháp luật về PCTN.
Ba là, việc công khai, dân chủ một số mặt hoạt động như cấp phép thăm dò, khai thác khoáng
sản, đầu tư dự án, xây dựng... vẫn còn nhiều hạn chế: Vẫn còn tình trạng lạm dụng các quy định
về bí mật nhà nước để không thực hiện việc công khai, minh bạch. Nhiều chế độ, định mức, tiêu
chuẩn chậm được sửa đổi, bổ sung để phù hợp với thực tiễn, nhất là các quy định về chi tiêu tài
chính. Tình trạng vi phạm về chế độ, định mức, tiêu chuẩn vẫn còn xảy ra ở nhiều nơi.
Bốn là, việc xử lý trách nhiệm người đứng đầu khi để xảy ra tham nhũng vẫn còn gặp nhiều khó
khăn, số người đứng đầu bị xử lý còn ít so với số vụ việc tham nhũng được phát hiện, xử lý:
Còn có sự nhầm lẫn giữa xử lý người đứng đầu khi có sai phạm và xử lý trách nhiệm khi để xảy
ra tham nhũng trong cơ quan, tổ chức, đơn vị do mình quản lý, phụ trách; cán bộ lãnh đạo, quản
lý “chủ động từ chức vì lý do trách nhiệm” theo tinh thần Nghị quyết Trung ương 3 (khóa X)
chưa đi vào cuộc sống.
Năm là, một số bộ, ngành, địa phương chưa thấy hết được ý nghĩa, tầm quan trọng và đòi hỏi
cấp bách của việc tháo gỡ những cản trở, vướng mắc cho cá nhân, tổ chức và doanh nghiệp về
thủ tục hành chính: Chưa tập trung chỉ đạo quyết liệt và ưu tiên các nguồn lực cho công tác này.
Các thủ tục hành chính vẫn còn thiếu tính liên thông và phối hợp trong thực hiện.
Sáu là, công tác phát hiện và xử lý các vụ việc, vụ án tham nhũng còn hạn chế, chưa tương
xứng tình hình tham nhũng hiện nay: Hiệu quả phát hiện tham nhũng qua thanh tra, kiểm tra,
kiểm toán chưa cao. Các vụ việc, vụ án tham nhũng được phát hiện, xử lý chủ yếu ở cấp cơ sở
và chủ yếu là đối tượng trực tiếp thực hiện. Việc xử lý các vụ án tham nhũng thường bị kéo dài,
tội phạm tham nhũng được cho hưởng án treo chiếm tỷ lệ cao, tài sản bị tham nhũng, gây thiệt
hại do tham nhũng được thu hồi và bồi thường còn rất hạn chế.
* Nguyên nhân của khó khăn, hạn chế:
a. Nguyên nhân khách quan:
- Việc xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa chưa triệt để, không theo kịp được trình
độ phát triển của hoạt động thực tiễn.
18
Tài liệu lưu hành nội bộ

- Do hệ thống pháp luật, chính sách ở nước ta thiếu đồng bộ, chưa thỏa đáng và nhất quán;
trong xử lý, chế tài chưa nghiêm minh, pháp luật còn nhiều kẽ hở, cơ chế quản lý còn nhiều yếu
kém.
- Sự quản lý, thanh tra, kiểm tra lỏng lẻo, yếu kém của Nhà nước; xử lý qua loa, chỉ mang tính
“hình thức” như cảnh cáo, phê bình hoặc chủ trương “đại sự hóa tiểu sự, tiểu sự hóa vô sự” vì
người vi phạm thường là cán bộ có quyền lực và địa vị, nên chưa mang tính răn đe.
- Do mặt trái (bản chất) của nền kinh tế thị trường và sự phân cực giữa các giai tầng trong xã
hội ngày càng sâu sắc làm cho các giá trị đạo đức bị đảo lộn. Đồng tiền đang lên ngôi trong nền
kinh tế thị trường hiện nay. Khi đồng tiền được xem là “thước đo của vạn vật” thì các giá trị đạo
đức, nhân phẩm sẽ đứng trước bên bờ vực.
b. Nguyên nhân chủ quan:
- Cơ chế, chính sách, pháp luật chưa hoàn thiện, thiếu đồng bộ; nhiều quy định còn chồng chéo,
mâu thuẫn, sơ hở, dễ bị lợi dụng.
- Bộ máy hành chính còn cồng kềnh; phân công, phân cấp chưa thật rõ ràng, rành mạch; cải
cách hành chính chưa tốt.
- Quy định về trách nhiệm người đứng đầu thiếu cụ thể, chưa khuyến khích họ tích cực, chủ
động trong phát hiện, xử lý tham nhũng xảy ra trong cơ quan, đơn vị, địa phương mình quản lý.
- Nhiều cấp ủy, tổ chức đảng, chính quyền và người đứng đầu nhận thức chưa đầy đủ, sâu sắc
về tính nghiêm trọng, sự nguy hại của tệ tham nhũng; chưa phát huy được hết sức mạnh tổng
hợp của cả hệ thống chính trị, của nhân dân trong công tác đấu tranh phòng, chống tham nhũng.
- Việc quản lý, giáo dục cán bộ, đảng viên, công chức còn yếu. Một số cấp ủy, thủ trưởng cơ
quan, đơn vị vẫn chưa quan tâm thực hiện các giải pháp phòng, chống tham nhũng hoặc có triển
khai nhưng còn hình thức.
- Một số cán bộ lãnh đạo chủ chốt các cấp, các ngành, kể cả cán bộ lãnh đạo cao cấp còn thiếu
gương mẫu trong việc giữ gìn phẩm chất đạo đức, lối sống; chưa đi đầu và nêu gương trong đấu
tranh phòng, chống tham nhũng.
- Vai trò của các cơ quan dân cử, truyền thông và nhân dân trong phòng, chống tham nhũng
chưa được phát huy đầy đủ.
3. Giải pháp phòng, chống tham nhũng ở Việt Nam trong thời gian tới:
- Xây dựng đội ngũ cán bộ, đảng viên thật sự có đức, có tài; người Việt Nam phát triển toàn
diện chân, thiện, mỹ: Đội ngũ cán bộ có đức, có tài là hạt nhân, là động lực để: Khơi dậy khát
vọng phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc; giữ gìn và phát huy giá trị văn hoá, sức mạnh
con người Việt Nam trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Xây dựng con người Việt
Nam luôn tự hào về truyền thống yêu nước, anh hùng của dân tộc trong lao động và trong chiến
đấu. Để xây dựng được đội ngũ cán bộ tận tâm với công việc, còn cần phải đột phá chế độ tiền
19
Tài liệu lưu hành nội bộ

lương. Nhằm đảm bảo cán bộ phải sống và sống tốt bằng lương để họ không cần phải tham
nhũng. Đây chính là điều kiện quan trọng của công chức Xin-ga-po không muốn tham nhũng.
- Đẩy mạnh hoàn thiện cơ chế kiểm soát quyền lực: Kiểm soát quyền lực trong công tác cán bộ
ngày càng quan trọng và cần thiết, nhằm kiên quyết xóa bỏ tệ chạy chức, chạy quyền, chạy quy
hoạch, chạy luân chuyển… theo nguyên tắc mọi quyền lực đều phải được kiểm soát chặt chẽ
bằng cơ chế. Cùng với việc hoàn thiện cơ chế, cần đẩy mạnh công tác cải cách hành chính, xóa
bỏ các thủ tục rườm rà. Xóa bỏ tối đa cơ chế “xin - cho”. Đây là điều kiện nảy sinh tham nhũng.
Hạn chế tối đa việc chỉ định thầu trong các dự án đầu tư xây có nguồn vốn nhà nước
- Tăng cường tính công khai, minh bạch trong mọi hoạt động của Nhà nước và xã hội: Cần tăng
cường hơn nữa tính công khai, minh bạch mà trước hết tập trung vào công tác quản lý nhà nước
ở những lĩnh vực dễ xảy ra tiêu cực, tham nhũng: Tài chính ngân sách, các dự án đầu tư công và
tài sản công.
Về công tác cán bộ: Cần công khai số lượng, tiêu chuẩn cán bộ cần tuyển dụng, đề bạt, bổ
nhiệm, đi học, đi nước ngoài… điều này đã được quy định song vẫn chưa thực sự dân chủ, còn
mang nặng tính hình thức mà cần phải thay đổi. Đặc biệt công khai việc kê khai tài sản của cán
bộ phải được cải tiến, hiệu quả hơn, chịu trách nhiêm về việc kê khai, cần công khai rộng rãi
hơn để cán bộ và nhân dân giám sát.
- Tăng cường hiệu lực, hiệu quả tính pháp chế trong thực thi pháp luật: Hiện nay, nhiều quy
định pháp luật không được thi hành nghiêm túc. Trong báo cáo nhiều kỳ đại hội của Đảng đều
đánh giá: “Sự lãnh đạo, chỉ đạo của Đảng, quản lý, điều hành của Nhà nước trên một số lĩnh
vực… chưa tập trung, kiên quyết, dứt điểm; kỷ luật, kỷ cương không nghiêm. Tổ chức thực
hiện vẫn là khâu yếu”.
- Cần chú trọng công tác tuyên truyền về PCTN gắn với thực hiện Chỉ thị số 05-CT/TW ngày
15/5/2016 của Bộ Chính trị về đẩy mạnh học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ
Chí Minh và Nghị quyết Trung ương 4 (khóa XII) Về tăng cường xây dựng, chỉnh đốn Đảng;
ngăn chặn, đẩy lùi sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, những biểu hiện "tự
diễn biến", "tự chuyển hóa": Gắn công tác PCTN với thực hành tiết kiệm, chống lãng phí, gắn
PCTN với xây dựng và chỉnh đốn Đảng; chấn chỉnh, đấu tranh, loại bỏ tư tưởng lo ngại việc
đẩy mạnh PCTN của một số cán bộ, công chức, nhất là cán bộ lãnh đạo, quản lý các cấp.
- Xây dựng và ban hành bộ quy tắc ứng xử của cán bộ, đảng viên trong công việc và trách
nhiệm giải trình trước cơ quan có trách nhiệm về những vấn đề liên quan theo quyền hạn, chức
trách, nhiệm vụ được giao: Có cơ chế phù hợp khen thưởng, bảo vệ người tố cáo tham nhũng,
lãng phí đúng. Tạo điều kiện, cơ chế đãi ngộ xứng đáng cho đội ngũ chuyên trách làm công tác
PCTN. Nâng cao mức sống cho đội ngũ cán bộ, công chức thực thi chức trách, nhiệm vụ được
giao, từ đó chấp hành tốt "bốn không"(không muốn tham nhũng, không thể tham nhũng, không
dám tham nhũng và không cần tham nhũng) trong PCTN.

20
Tài liệu lưu hành nội bộ

- Tăng cường công tác kiểm tra, giám sát kỷ luật Đảng; quản lý chặt chẽ cán bộ, đảng viên,
công chức; siết chặt kỷ luật, kỷ cương trong Đảng và bộ máy Nhà nước: Nhiệm vụ này phải
được tiến hành thường xuyên, toàn diện, công khai, dân chủ, thận trọng, chặt chẽ. Kiểm tra toàn
diện công tác cán bộ, chú trọng kiểm tra, giám sát cán bộ có biểu hiện tham nhũng, dư luận xã
hội phản ánh, tố cáo; cán bộ lãnh đạo, quản lý các cấp.
- Phát hiện, xử lý kịp thời, nghiêm minh các vụ án liên quan đến tham nhũng nghiêm trọng,
phức tạp, dư luận xã hội quan tâm: Tập trung lực lượng, phối hợp chặt chẽ để giải quyết các vụ
việc phát sinh mới với nguyên tắc: "Tích cực, khẩn trương, làm rõ đến đâu xử lý đến đó",
"Không có vùng cấm", "Không có ngoại lệ". Kiên quyết xử lý nghiêm những người bao che,
dung túng, tiếp tay cho tham nhũng, can thiệp, cản trở việc xử lý hành vi tham nhũng. Ngăn
chặn, xử lý có hiệu quả tình trạng nhũng nhiễu, tiêu cực, gây phiền hà cho người dân, doanh
nghiệp, nhất là "tham nhũng vặt" trong giải quyết công việc.
- Các cơ quan chức năng tập trung nâng cao chất lượng công tác tiếp nhận, xử lý tố giác, tin báo
về tội phạm và kiến nghị khởi tố: Chấp hành nghiêm quy định của pháp luật trong hoạt động
điều tra, truy tố, xét xử, thi hành án, bảo đảm các hành vi phạm tội phải được phát hiện, xử lý
kịp thời. Phối hợp chặt chẽ trong giải quyết các vụ việc, vụ án kinh tế, tham nhũng; nâng cao
hiệu quả thu hồi tài sản tham nhũng bị chiếm đoạt, thất thoát trong các vụ việc, vụ án kinh tế,
tham nhũng. Chú trọng công tác điều tra, mở rộng án, thu hồi tài sản, không để các đối tượng
đối phó, tiêu hủy tài liệu, bỏ trốn, tẩu tán tài sản; không để xảy ra oan, sai, bỏ lọt tội phạm.
Chủ đề: THỰC TRẠNG XUNG ĐỘT LỢI ÍCH TRONG THỰC THI CÔNG
VỤ HIỆN NAY VÀ CƠ CHẾ GIẢI QUYẾT
1. Tổng quan
Tham nhũng
Tham nhũng là hành vi của người có chức vụ, quyền hạn đã lợi dụng chức vụ,
quyền hạn đó vì vụ lợi. (Khoản 1 Điều 3 Luật Phòng, Chống tham nhũng 2018)
Xung đột lợi ích
Xung đột lợi ích là tình huống mà trong đó lợi ích của người có chức vụ, quyền hạn
hoặc của người thân thích của họ tác động hoặc sẽ tác động không đúng đến việc
thực hiện nhiệm vụ, công vụ. (Khoản 8 Điều 3 Luật Phòng, chống tham nhũng năm
2018)
Bản chất của xung đột lợi ích là sự mâu thuẫn giữa lợi ích cá nhân của cá nhân cán
bộ, công chức, viên chức (người thi hành công vụ nói chung) và lợi ích của Nhà
nước (thể hiện qua trách nhiệm và nghĩa vụ công của người thi hành công vụ).

21
Tài liệu lưu hành nội bộ

Xung đột lợi ích và tham nhũng là hai khái niệm khác nhau, nhưng có mối quan hệ
chặt chẽ với nhau. Khi tình huống xung đột lợi ích xuất hiện, nó có thể khiến chủ
thể thực thi công vụ vì lợi ích của riêng mình mà bỏ qua những nguyên tắc chung.
Từ đó, quyền, lợi ích chính đáng của các chủ thể khác sẽ không được bảo vệ. Hay
nói cách khác, xung đột lợi ích có thể xâm hại đến tính vì lợi ích chung của hoạt
động công vụ, vì nó phá vỡ sự liêm chính, công bằng, vô tư của người thực thi công
vụ. Đây chính là tiền đề làm nảy sinh tham nhũng. Do đó, phòng ngừa xung đột lợi
ích cũng là một phần của chính sách phòng, chống tham nhũng.
2. Thực trạng xung đột lợi ích trong thực thi công vụ hiện nay
Về mặt tích cực
Ở Việt Nam, mặc dù khái niệm xung đột lợi ích trong thực thi công vụ còn khá mới
mẻ, song trên thực tế, pháp luật nước ta, cũng đã từng bước đặt ra những yêu cầu
cho cán bộ, công chức, viên chức phải báo cáo về những hoạt động ngoài công việc
mà người đó đảm nhiệm như các khoản đầu tư bên ngoài, tài sản, quà tặng,…
những thứ có thể gây xung đột lợi ích khi họ thực thi công vụ. (Nghị định số
78/2013/NĐ-CP ngày 17/07/2013 của Chính phủ về minh bạch tài sản, thu nhập;
Quyết định số 64/2007/QĐ-TTg ngày 10/05/2007 của Thủ tướng Chính phủ ban
hành Quy chế về việc tặng quà, nhận quà tặng và nộp lại quà tặng của cơ quan, tổ
chức, đơn vị có sử dụng ngân sách Nhà nước và của cán bộ, công chức, viên
chức;...)
Luật Phòng, chống tham nhũng năm 2018 cũng đã làm rõ khái niệm về xung đột lợi
ích (Khoản 8 Điều 3 Luật Phòng, chống tham nhũng năm 2018); các biện pháp
kiểm soát xung đột lợi ích (quy định tại Điều 23)
Bên cạnh đó, Chính phủ cũng đã ban hành Nghị định số 59/2019/NĐ-CP ngày
01/7/2019 quy định chi tiết một số điều và biện pháp thi hành Luật Phòng, chống
tham nhũng, trong đó, đã cụ thể 09 trường hợp xung đột lợi ích của người có chức
vụ quyền hạn, bao gồm:
+ Nhận tiền, tài sản hoặc lợi ích khác của cơ quan, tổ chức, đơn vị, cá nhân liên
quan đến công việc do mình giải quyết hoặc thuộc phạm vi quản lý của mình;
+ Thành lập, tham gia quản lý, điều hành doanh nghiệp tư nhân, công ty trách
nhiệm hữu hạn, công ty cổ phần, công ty hợp danh, hợp tác xã, trừ trường hợp luật
có quy định khác;

22
Tài liệu lưu hành nội bộ

+ Tư vấn cho doanh nghiệp, tổ chức, cá nhân khác ở trong nước và nước ngoài về
công việc có liên quan đến bí mật nhà nước, bí mật công tác, công việc thuộc thẩm
quyền giải quyết hoặc tham gia giải quyết;
+ Sử dụng những thông tin có được nhờ chức vụ, quyền hạn của mình để vụ lợi
hoặc để phục vụ lợi ích của tổ chức hoặc cá nhân khác;
+ Bố trí vợ hoặc chồng, bố, mẹ, con, anh, chị, em ruột của mình giữ chức vụ quản
lý về tổ chức nhân sự, kế toán, làm thủ quỹ, thủ kho trong cơ quan, tổ chức, đơn vị
hoặc giao dịch, mua bán hàng hóa, dịch vụ, ký kết hợp đồng cho cơ quan, tổ chức,
đơn vị do mình là người đứng đầu hoặc cấp phó của người đứng đầu;
+ Góp vốn vào doanh nghiệp hoạt động trong phạm vi ngành, nghề do mình trực
tiếp thực hiện việc quản lý nhà nước hoặc để vợ hoặc chồng, bố, mẹ, con kinh
doanh trong phạm vi ngành, nghề do mình trực tiếp thực hiện việc quản lý nhà
nước;
+ Ký kết hợp đồng với doanh nghiệp thuộc sở hữu của vợ hoặc chồng, bố, mẹ, con,
anh, chị, em ruột hoặc để doanh nghiệp thuộc sở hữu của vợ hoặc chồng, bố, mẹ,
con, anh, chị, em ruột tham dự các gói thầu của cơ quan, tổ chức, đơn vị mình khi
được giao thực hiện các giao dịch, mua bán hàng hóa, dịch vụ, ký kết hợp đồng cho
cơ quan, tổ chức, đơn vị đó;
+ Có vợ hoặc chồng, bố, mẹ, con, anh, chị, em ruột là người có quyền, lợi ích trực
tiếp liên quan đến việc thực hiện nhiệm vụ, công vụ của mình;
+ Can thiệp hoặc tác động không đúng đến hoạt động của cơ quan, tổ chức, đơn vị,
cá nhân có thẩm quyền vì vụ lợi.
Về mặt tiêu cực:
_ Tình trạng xung đột lợi ích vẫn còn diễn ra ở nhiều nơi.
+ Chẳng hạn, trong tình huống xung đột lợi ích được báo chí đăng tải tháng 8/2020:
Ông Nguyễn Trúc Giang (Trưởng phòng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn
huyện Cái Nước, tỉnh Cà Mau), có vợ làm giám đốc nhưng không khai báo (các tờ
khai lý lịch từ năm 2012 - 2020, ông Giang đều ghi vợ là Dương Ánh Nguyệt, nghề
nghiệp nội trợ). Thời gian từ năm 2009, Công ty trách nhiệm hữu hạn tư vấn Hiệp
Thành (do bà Dương Ánh Nguyệt làm giám đốc) đã ký 26 hợp đồng với Phòng
Nông nghiệp và Phát triển nông thôn huyện Cái Nước. Ở đây yếu tố lợi dụng quyền
hạn để vụ lợi chưa được làm rõ để có thể có kết luận ông Nguyễn Trúc Giang có
23
Tài liệu lưu hành nội bộ

dấu hiệu tham nhũng hay không tuy nhiên có một điều chắc chắn là đã nảy sinh tình
huống xung đột lợi ích hiện hữu.
+ Hay như trường hợp của ông Nguyễn Đức Chung - nguyên Chủ tịch Ủy ban nhân
dân thành phố Hà Nội. Vào tháng 8/2021, ông Chung đã bị truy tố về tội “Lợi dụng
chức vụ, quyền hạn trong khi thi hành công vụ” trong vụ án mua hoá chất Redoxy
3C để xử lý ô nhiễm các hồ ở Hà Nội. Ông Nguyễn Đức Chung được xác định chủ
mưu để công ty của con trai độc quyền bán hoá chất. Theo đánh giá của cơ quan
điều tra: Hành vi của bị can Nguyễn Đức Chung ngoài việc gây thiệt hại cho Ủy
ban nhân dân thành phố Hà Nội để vụ lợi cho công ty gia đình còn ảnh hưởng đến
hoạt động đúng đắn của tổ chức, cá nhân, gây ảnh hưởng nghiêm trọng đến uy tín,
hình ảnh của Ủy ban nhân dân thành phố Hà Nội, của người đứng đầu Thành phố
Hà Nội. Kết luận của cơ quan điều tra đã chỉ ra một tình huống xung đột lợi ích
điển hình nhưng đã không được phát hiện, ngăn chặn, xử lý dẫn đến hậu quả
nghiêm trọng, dẫn đến hành vi tham nhũng.
_ Trong nền kinh tế thị trường phát triển như hiện nay và với sự đa dạng hóa các
thành phần kinh tế thì việc xác định người có chức vụ, quyền hạn xung đột lợi ích
khi có dấu hiệu rõ ràng người đó thuộc hoặc sẽ thuộc một trong 09 trường hợp đã
nêu trong Nghị định không phải là điều đơn giản, bởi lợi ích ngầm được cài cắm
trong các trường hợp này rất tinh vi, rất khó phát hiện.
_ Chúng ta đã có được những quy định về định nghĩa khái niệm, về các biện pháp
nhưng chưa đủ. Thiếu các quy định rõ ràng hơn về kiểm soát cũng như các chế tài
đối với hành vi vi phạm quy định về kiểm soát xung đột lợi ích trong thực thi công
vụ.
_ Công tác kiểm tra, thanh tra, giám sát chưa đạt được hiệu quả như mong muốn,
chưa phát hiện được sai phạm, xử lý chưa nghiêm minh; lãnh đạo chưa gương
mẫu,..
_ Trách nhiệm thực thi các quy định, về kiểm soát xung đột lợi ích trong thực thi
công vụ, được giao cho nhiều cơ quan khác nhau, thiếu một cơ quan đầu mối
chuyên trách, trong khi thực tiễn vô cùng phong phú, đa dạng và không ngừng vận
động, biến đổi.
Nguyên nhân khách quan:
_ Thiếu hệ thống luật, quy định cụ thể và hướng dẫn thi hành về phòng chống, phát
hiện xung đột lợi ích trong thực thi công vụ cũng như các biện pháp chế tài.
24
Tài liệu lưu hành nội bộ

_ Thiếu các công cụ kiểm tra, thanh giám sát hiệu quả, chưa đặt việc kiểm tra, thanh
tra, giám sát về xung đột lợi ích trong hoạt động thực thi công vụ thành một nhiệm
vụ quan trọng trong phòng chống tham nhũng.
_ Chưa có cơ quan đầu mối chuyên trách, chưa quy định về trách nhiệm cụ thể về
phòng chống, ngăn ngừa xung đột lợi ích trong hoạt động công vụ.
Nguyên nhân chủ quan
_ Xuất phát từ những vấn đề lương bổng, về đã ngộ,..chưa tương xứng với áp lực
công việc. Ví dụ như hiện nay, tại các đơn vị y tế cấp cơ sở như trạm y tế phường,
cán bộ y tế phải đảm nhận nhiều công việc, nhiệm vụ, nhưng chế độ lương thưởng
lại không đáp ứng được nhu cầu của họ. Do đó, lợi ích của họ không đảm bảo nên
họ phải tìm cách khác để đảm bảo cho lợi ích của mình.
_ Mặt khác, xung đột lợi ích khi thực thi công vụ nảy sinh ra từ chính lòng tham, sự
ích kỉ của bản thân với mong muốn đạt được nhiều lợi ích hơn nữa dù những lợi ích
mà mình được hưởng đã tương xứng. Điển hình là các vụ án tham nhũng lớn đều do
những cán bộ có chức vụ cao, quyền hạn lớn và có mức đãi ngộ từ nhà nước cao
nhưng vì lòng tham mà thực hiện các hành vi sai trái.
3. Biện pháp
Để giảm bớt, tiến tới ngăn chặn triệt để xung đột lợi ích trong quá trình thực hiện
công vụ của cán bộ, công chức, viên chức trong cả nước thì trong thời gian tới các
cấp, các ngành cần thực hiện hiệu quả và đồng bộ các biện pháp sau:
Đối với nhà nước
_ Chú trọng hoàn thiện, sửa đổi, bổ sung pháp luật về cán bộ, công chức theo hướng
làm rõ và xác định dấu hiệu nhận diện tình huống xung đột lợi ích; xây dựng và
hoàn thiện quy trình, thủ tục, thẩm quyền quản lý, xử lý và mức xử lý, xử phạt vi
phạm pháp luật về xung đột lợi
_ Hoàn thiện cơ chế kiểm soát tài sản, thu nhập; thể chế, chính sách về tặng, nhận
quà, trách nhiệm giải trình; phát hiện kịp thời các giao dịch, biến động tài sản có
dấu hiệu xung đột lợi ích.
_ Đẩy mạnh tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật về kiểm soát xung đột lợi
ích, nhất là trong đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức nhà nước về kiểm soát xung
đột lợi ích; chú trọng phương thức, nội dung tuyên truyền, phổ biến bảo đảm nâng
25
Tài liệu lưu hành nội bộ

cao nhận thức cho cán bộ, công chức, viên chức trong việc kiểm soát xung đột lợi
ích
_ Tăng cường kiểm tra, giám sát, thanh tra hoạt động công vụ theo hướng ngăn
chặn, phát hiện các tình huống xung đột lợi ích trong hoạt động công vụ
_ Xử lý kiên quyết, mạnh mẽ và dứt điểm các vụ việc có vi phạm.
Đối với cán bộ, công chức, viên chức
_ Thực hiện nghĩa vụ giải trình khi được yêu cầu với tinh thần trách nhiệm cao để
đảm bảo tính công khai, minh bạch của quyết định hành chính, hành vi hành chính,
quá trình thực hiện và kết quả thực hiện nhiệm vụ, công vụ được giao
_ Chủ động, tự giác kiểm soát xung đột lợi ích trong quá trình thực thi nhiệm vụ,
công vụ vì họ là người biết rõ nhất và phát hiện nhanh nhất các nguy cơ cũng như
thấy trước các khả năng nẩy sinh xung đột lợi ích khi thực hiện nhiệm vụ, công vụ.
Chủ đề: TÌM HIỂU QUỐC GIA ĐAN MẠCH TRONG CÔNG TÁC PHÒNG
CHỐNG THAM NHŨNG VÀ KINH NGHIỆM CHO VIỆT NAM.
1. Các khái niệm:
-Tham nhũng là hành vi của người có chức vụ, quyền hạn đã lợi dụng chức vụ, quyền hạn đó vì
vụ lợi. (khoản 1 điều 3 Luật PCTN năm 2018)
-Đối tượng tham nhũng: là người có chức vụ, quyền hạn và người này phải lợi dụng chính chức
vụ, quyền hạn này để đạt được một lợi ích nào đó không chính đáng.
-Vụ lợi: là việc người có chức vụ, quyền hạn đã lợi dụng chức vụ, quyền hạn của mình để đạt
được lợi ích vật chất hoặc phi vật chất không chính đáng.
2. Tình hình Đan Mạch:
2.1 Khái quát về Đan Mạch.
- Đan Mạch là quốc gia không có chỗ cho tham nhũng, người dân Đan Mạch được hưởng nhiều
phúc lợi từ một đất nước trong sạch. Họ cũng chính là những người được sống hạnh phúc nhất
toàn cầu. Trong 3 năm liền, Đan Mạch là quốc gia đứng đầu bảng xếp hạng Chỉ số nhận thức
tham nhũng – CPI với số điểm là 88 điểm (2020), 88 điểm (2021), 90 điểm (2022). Đan Mạch
thành công được như vậy là nhờ có hệ thống tư pháp độc lập với hệ thống chính trị để làm phần
việc của mình theo cách đúng đắn.
- Từ năm 1660, quốc vương trị vì lúc bấy giờ của vương quốc Đan Mạch đã ban hành sắc lệnh
nghiêm trị các quan chức phạm tội tham nhũng, nhận hay đưa hối lộ, gian lận, làm giả chứng từ.
Nhờ có sự kiên quyết của nhà vua đã làm giảm được tình trạng tham nhũng trong
26
Tài liệu lưu hành nội bộ

quản lý và sau một thời gian áp dụng thì trở thành khuôn khổ cho cả vương quốc. Cái hay là
người dân Đan Mạch đã biết phát huy truyền thống này. Trẻ em từ khi biết nói đã được người
lớn dạy là không được chạm vào bất cứ thứ gì không phải của mình và tôn trọng pháp luật. Và
đối với công chúng cũng như báo chí Đan Mạch thì sự minh bạch không có ngoại lệ, chính vì
thế việc phòng và chống tham nhũng của vương quốc này luôn có hiệu quả cao và được nhiều
quốc gia khác học tập.
Ví dụ: Như nữ hoàng Margrethe đệ nhị, tuy được đại đa số thần dân tôn kính nhưng báo chí vẫn
“soi” rất kỹ các khoản chi tiêu của bà và các thành viên hoàng gia.
Quan điểm của Đan Mạch về tham nhũng:
Ở Đan Mạch, không tham nhũng là truyền thống lịch sử văn hóa của đất nước. Do đó, quan
điểm của chính phủ Đan Mạch là chú trọng công tác phòng ngừa tham nhũng, trên cơ sở kết
hợp chặt chẽ với kiên quyết trừng trị những cán bộ, công chức tham nhũng (ở Đan Mạch, mức
xử phạt tội tham nhũng cao nhất được quy định trong Bộ luật Hình sự ngang với mức xử tội giết
người); đề cao vai trò của các nghị sĩ, quan chức chính phủ, đảng phái chính trị trong đấu tranh
chống tham nhũng. Bên cạnh đó, Chính phủ còn chủ trương ký kết tham gia Công ước của Liên
hợp quốc về chống tham nhũng, tích cực triển khai các chương trình hỗ trợ và phối hợp với các
quốc gia, các tổ chức quốc tế trong phòng, chống tham nhũng.
Chủ trương.
Đan Mạch không thành lập cơ quan, tổ chức, đơn vị chuyên trách về phòng, chống tham nhũng.
Nhiệm vụ phòng, chống tham nhũng được Chính phủ giao cho các cơ quan, tổ chức như: Tổ
chức Trách nhiệm xã hội toàn cầu (Global CSR); Ủy ban Truy tố tội phạm kinh tế quốc gia;
Hiệp hội Nhà báo Đan Mạch; Văn phòng Thanh tra Quốc hội; Kiểm toán Nhà nước…
2.2 Tình hình tham nhũng trong các lĩnh vực của Đan Mạch

Tư pháp
- Đan Mạch có ngành Tư pháp độc lập với các ngành khác của Chính phủ và luôn được đánh
giá cao về tính công bằng. Các công ty có đủ sự tin cậy vào tính hiệu quả của khung pháp lý để
giải quyết các tranh chấp trong kinh doanh. Các khoản hối lộ hay khoản thanh toán bất thường
để đổi lấy những thuận lợi đều không phổ biến trong xã hội Đan Mạch. Việc thực hiện một hợp
đồng mất 485 ngày, nhanh hơn đáng kể so với các quốc gia có thu nhập cao khác trong khối
OECD. Đan Mạch đã ký Công ước New York năm 1958 và là thành viên của Trung tâm Quốc
tế về Giải quyết tranh chấp đầu tư (ICSID). Trong những năm gần đây, không có tranh chấp lớn
về đầu tư vào Đan Mạch được ghi nhận.
An ninh

27
Tài liệu lưu hành nội bộ

- Cảnh sát Đan Mạch không bị ảnh hưởng bởi tham nhũng, họ nhận được mức độ tin cậy rộng
rãi từ các tổ chức và người dân. Độ tin cậy của các dịch vụ an ninh để bảo vệ các công ty khỏi
tội phạm được đánh giá rất cao. Chính phủ Đan Mạch có cơ chế hiệu quả để điều tra và trừng
phạt việc lạm dụng quyền lực và tham nhũng của cảnh sát. Các cuộc thăm dò ý kiến công khai
cho thấy rằng dịch vụ an ninh được coi là dịch vụ ít có dấu hiệu tham nhũng nhất của Đan
Mạch.
Hải quan
Đan Mạch cũng ít có nguy cơ tham nhũng. Hệ thống hải quan vận hành hiệu quả, thời gian làm
thủ tục hải quan của Đan Mạch được xem là đạt yêu cầu. Thời gian và chi phí cần thiết cho các
thủ tục hải quan của quốc gia này cơ bản không đáng kể.
Các hoạt động quản lý và dịch vụ công
- Đan Mạch có hệ thống pháp lý minh bạch, đạt chuẩn quốc tế. Các thủ tục được sắp xếp hợp lý,
các luật và quy định mới ảnh hưởng đến lĩnh vực kinh doanh chỉ có hiệu lực hai lần một năm
vào ngày 1/1 hoặc ngày 1/7. Phần lớn chính quyền Đan Mạch được phân cấp và việc giải thích
luật có thể khác nhau giữa các thành phố và khu vực.
- Mặc dù, các thủ tục hành chính vẫn bị coi là vấn đề gây khó chịu đối với các tổ chức và cá
nhân, chính phủ quan liêu làm việc không hiệu quả có thể là trở ngại đối với hoạt động kinh
doanh của các doanh nghiệp, tuy nhiên các khoản thanh toán bất thường và hối lộ hầu như
không xảy ra trong hệ thống công, thủ tục cấp giấy phép kinh doanh và các dịch vụ liên quan
khác.
- Thời gian cấp giấy phép kinh doanh cho doanh nghiệp tại Đan Mạch chỉ bằng một nửa thời
gian so với các quốc gia phát triển khác trong khối OECD. Các doanh nghiệp có thể khởi động
công ty trong vòng vài giờ thông qua hệ thống đăng ký rất dễ dàng. Thời gian cấp giấy phép
xây dựng tại Đan Mạch cũng ít hơn đáng kể so với các quốc gia có thu nhập cao khác trong
OECD.
- Nguy cơ tham nhũng trong quản lý đất đai của Đan Mạch cũng rất thấp. Các công ty hoạt
động tại Đan Mạch thể hiện sự tin tưởng cao đối với các quyền sở hữu đất đai và các luật liên
quan để bảo vệ quyền lợi của họ. Các công ty ít có khả năng gặp phải trường hợp quan chức đòi
hối lộ trong khi tương tác với các dịch vụ đất đai ở Đan Mạch. Các công ty và cá nhân không
thuộc EU, không hoạt động tại Đan Mạch trong vòng 5 năm trước đó chỉ có thể mua bất động
sản dưới sự cho phép của Bộ Tư pháp Đan Mạch. Việc đăng ký sở hữu đất đai ở Đan Mạch mất
ít hơn 1/5 thời gian trung bình cần thiết ở các quốc gia khác trong OECD.
Quản lý thuế
- Các công ty báo cáo rằng hối lộ và thanh toán bất thường cực kỳ hiếm khi thực hiện thanh
toán thuế hàng năm. Gần một nửa số công ty được khảo sát coi việc gian lận thuế là hành vi

28
Tài liệu lưu hành nội bộ

tham nhũng phố biến nhất. Một loạt các vụ bê bối liên quan đến quản lý yếu kém trong các cơ
quan thuế của Đan Mạch đã được đưa ra ánh sáng trong những năm trước đây.
Ví dụ các vụ bê bối:
1. 11/2018 cảnh sát Đan Mạch cho biết có 16 người và 3 công ty đã bị buộc tội trốn thuế và tiêu
thụ nhiều hàng ăn cắp có tổng giá trị lên tới 500 triệu kroner Đan Mạch (tương đương 76 triệu
USD), cảnh sát nêu rõ một số đối tượng trong 16 bị cáo nói trên có họ hàng với nhau và chúng
đã chuyển tiền vào một chuỗi các công ty nhằm rửa tiền và trốn thuế.
2. Ngân hàng lớn nhất Đan Mạch - Danske Bank cũng từng liên quan đến bê bối rửa tiền trị giá
hàng trăm tỷ euro khiến Cơ quan Giám sát ngân hàng châu Âu (EBA) phải vào cuộc. Theo số
liệu điều tra của một công ty luật đối với Danske Bank, giai đoạn 2007 - 2015, hơn 1.500 tỷ
kroner (tương đương 200 tỷ euro) đã được giao dịch thông qua chi nhánh Danske Bank tại
Estonia. Trong số các tài khoản bị điều tra, có khoảng 6.200 tài khoản có dấu hiệu khả nghi và
đều đã "lọt" vào tầm ngắm của giới chức. Chính ngân hàng này cũng không thể chắc chắn
lượng tiền phi pháp được giao dịch tại chi nhánh ở Estonia. Vụ việc đã khiến Giám đốc điều
hành của ngân hàng phải từ chức
Cách giải quyết các vụ tham nhũng, rửa tiền trên
Hình phạt đối với tội hối lộ theo Bộ luật Hình sự Đan Mạch có thể bao gồm phạt tiền và phạt tù
lên đến 6 năm tù. Chính phủ Đan Mạch thi hành luật chống tham nhũng hiệu quả. Sau khi bị
OECD chỉ trích các khoản thanh toán tạo thuận lợi, Giám đốc cơ quan công tố của Đan Mạch
đã chỉ thị cho tất cả công tố viên coi các khoản này là cấu thành tội phạm hối lộ. Đạo luật về các
biện pháp ngăn ngừa rửa tiền và tài trợ khủng bố đòi hỏi các tổ chức tài chính phải báo cáo các
giao dịch đáng ngờ cho công tố viên liên quan đến tội phạm kinh tế.
2.3 Lý do Đan Mạch là quốc gia không có tham nhũng (6 lý do)
- Ở Đan Mạch hối lộ và các hành vi tham nhũng khác không là trở ngại đối với kinh doanh. Bộ
luật Hình sự Đan Mạch ngăn cấm hối lộ (cả chủ động và thụ động) và hầu hết các hình thức vi
phạm tham nhũng khác có trong các công ước chống tham nhũng quốc tế. Không có sự phân
biệt giữa hối lộ và các hình thức tặng quà vì mục đích lợi ích.
- Đan Mạch có ngành Tư pháp độc lập với các ngành khác của Chính phủ và luôn được đánh
giá cao về tính công bằng. Không có cơ hội cho hối lộ xuất hiện trong các lĩnh vực như kinh
doanh... Trong lĩnh vực giáo dục và y tế được miễn phí cho toàn dân, tỷ lệ tội phạm thấp, mạng
lưới an sinh xã hội đảm bảo, dân số có trình độ tương đồng và cuộc sống tương đối sung túc.
- Dịch vụ an ninh ở Đan Mạch rất đáng tin cậy, coi sự an toàn của người dân là trên hết và
không có dấu hiệu tham nhũng. Chính phủ Đan Mạch có cơ chế hiệu quả để điều tra và trừng
phạt việc lạm dụng quyền lực và tham nhũng của cảnh sát.
- Bên cạnh đó, Đan Mạch có hệ thống pháp lý, quy định và kế toán minh bạch, phù hợp với tiêu
chuẩn quốc tế. Các thủ tục được sắp xếp hợp lý, các luật và quy định luôn được thay đổi phù
29
Tài liệu lưu hành nội bộ

hợp với hoạt động kinh tế của đất nước. Các hoạt động lien quan đến dịch vụ công không xuất
hiện tình trạng rườm rà, bất hợp lý, luôn tạo điều kiện cho cá nhân, doanh nghiệp, tổ chức thực
hiện các thủ tục nhanh, gọn, lẹ nhất. Và trong hoạt động phòng, chống tham nhũng của đất nước
này coi tính công khai, minh bạch là điều quan trọng nhất.
- Đội ngũ quan chức ở Đan Mạch được đào tạo theo nguyên tắc liêm chính, ngay thẳng nói
không với tham nhũng. Hệ thống pháp luật chặt chẽ, có những hình phạt nặng cho hành vi tham
nhũng. Kể cả chất lượng quản lý dịch vụ công cũng dễ dàng vượt mặt các nước có thu nhập cao
khác trong OECD.
- Hiến pháp của Đan Mạch đảm bảo tư do ngôn luận. Các phương tiện truyền thông của Đan
Mạch đóng vai trò trung tâm trong việc phát hiện những vụ bê bối chính trị. Các trường hợp
nghi ngờ gian lận thường được các cơ quan truyền thông phát hiện và sau đó các cơ quan công
quyền có liên quan vào cuộc.
2.4 Các công tác phòng, chống tham nhũng chủ yếu của Nhà nước Đan Mạch: 5 công tác
a. Nâng cao trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp, phát huy vai trò của báo chí.
- Tổ chức Trách nhiệm xã hội toàn cầu của Đan Mạch (Global CSR) thực hiện nhiệm vụ nâng
cao trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp trong phòng, chống tham nhũng. Các doanh nghiệp
phải bảo đảm quyền con người, bảo vệ môi trường và phòng ngừa tham nhũng, góp phần phát
triển kinh tế bền vững. Trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp, thể hiện ở việc xây dựng, thực
hiện quy tắc ứng xử nhân viên của doanh nghiệp, tập huấn nâng cao nhận thức về các giải pháp
phòng ngừa tham nhũng; cam kết không đưa hối lộ, nếu có thì sẽ bị áp dụng các hình phạt từ
đuổi việc đến đi tù. Các giám đốc của doanh nghiệp có nhân viên tham nhũng thì giám đốc đó
sẽ bị xử lý nghiêm khắc. Tham gia vào việc nâng cao trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp có
vai trò quan trọng của các công ty Luật.
- Bên cạnh đó, ở Đan Mạch, báo chí có vai trò rất quan trọng trong đấu tranh chống tham
nhũng. Báo chí Đan Mạch có quyền theo dõi, giám sát cả 3 nhánh quyền lực là lập pháp, hành
pháp và tư pháp. Báo chí bảo vệ dân chủ, nhân quyền và môi trường sinh thái, phát hiện các
hành vi sai phạm, tham nhũng của các quan chức, tạo áp lực rất lớn đối với các chính trị gia.
Hiệp hội Nhà báo Đan Mạch động viên, khuyến khích các nhà báo đấu tranh chống tham
nhũng. Hàng năm có giải thưởng cho các nhà báo có thành tích chống tham nhũng. Tại các cuộc
trao giải thưởng này, có sự tham gia của Thủ tướng Chính phủ.
b. Tăng cường vai trò của Thanh tra Quốc hội và Kiểm toán nhà nước trong phòng ngừa, phát
hiện và xử lý tham nhũng.
- Thông qua chức năng giám sát, Thanh tra Quốc hội có vai trò, tác động rất lớn đến việc hạn
chế lạm dụng quyền lực, nâng cao trách nhiệm của công chức. Thanh tra Quốc hội là cơ quan
hoạt động độc lập, không chịu bất kỳ sự chi phối nào, có nhiệm vụ theo dõi, giám sát hoạt động
của cơ quan hành pháp, góp phần bảo đảm hoạt động của cơ quan hành pháp minh bạch, có

30
Tài liệu lưu hành nội bộ

hiệu quả; hạn chế lạm dụng quyền của các cơ quan nhà nước; bảo vệ quyền lợi hợp pháp của
người dân. Nhiệm vụ của cơ quan này gắn chặt với công tác phòng, chống tham nhũng, đồng
thời thực hiện việc gắn kết đồng bộ giữa phòng ngừa và xử lý tham nhũng.
- Kiểm toán Đan Mạch là cơ quan trực thuộc Quốc hội, có 6 Tổng Kiểm toán quốc gia do Quốc
hội chỉ định, theo nhiệm kỳ Quốc hội. Hoạt động của kiểm toán nhà nước nhằm bảo đảm
nguyên tắc quản lý nhà nước tốt, minh bạch, tuân thủ pháp luật, việc chi tiêu ngân sách phải đạt
được các mục tiêu Quốc hội đặt ra. Mặt khác, hoạt động của Kiểm toán nhà nước còn góp phần
đánh giá việc sử dụng ngân sách nhà nước có đúng mục tiêu, đối tượng, định mức chi tiêu hoạt
động không trên cơ sở đó để phát hiện và loại trừ tham nhũng.
c. Cải cách tổ chức và thủ tục thuế.
- Ở Đan Mạch, mỗi công dân có một mã số thuế riêng, cơ quan thuế luôn kiểm tra mã số thuế,
đối chiếu thu nhập với mức nộp thuế và đời sống sinh hoạt hàng ngày và các khoản mua sắm
phát sinh. Mỗi năm, Tổng cục thuế đặt ra 7 - 10 tiêu chí để kiểm tra ngẫu nhiên về thuế với
30.000 người, từ đó tính xác xuất lĩnh vực dễ sai phạm về thuế, khoanh vùng, kiểm soát kỹ,
nhất là nhóm người có sai phạm ở nước ngoài. Công dân khi mua một tài sản lớn như xe ô tô,
đất, nhà… đều được rà soát mức thu nhập. Chính việc kiểm soát thu nhập qua thuế là một trong
những biện pháp rất quan trọng để phòng ngừa và phát hiện tham nhũng.
d. Tăng cường hợp tác quốc tế về phòng, chống tham nhũng.
- Công tác này do Bộ Ngoại giao đảm nhận và được thực hiện trên những nguyên tắc cơ bản
như: chống tham nhũng là một phần của việc quản trị theo nghĩa rộng; đánh giá về tham nhũng
và các công cụ hỗ trợ việc đánh giá; chống tham nhũng là công việc cụ thể và là công việc liên
ngành; cam kết và hỗ trợ quốc tế các thành viên tham gia Công ước Chống tham nhũng của
Liên hợp quốc…
3. Các biện pháp phòng chống tham nhũng của Đan Mạch mà Việt Nam có thể học hỏi:
Đan Mạch đã được ghi nhận là một trong những quốc gia ít tham nhũng nhất trên thế giới và đã
áp dụng nhiều chủ trương hiệu quả để phòng chống tham nhũng. Việt Nam có thể học hỏi một
số điểm sau đây từ chủ trương phòng chống tham nhũng của Đan Mạch:
• Luật pháp và hệ thống pháp lý: Đan Mạch đã thiết lập một hệ thống pháp lý chặt chẽ và hiệu
quả để đối phó với tham nhũng. Luật pháp về phòng chống tham nhũng rõ ràng, công bằng và
có hiệu lực, đồng thời có quy định về trách nhiệm và trừng phạt các hành vi tham nhũng.
• Tăng cường kiểm soát và giám sát: Đan Mạch đã thành lập các cơ quan độc lập để giám sát và
kiểm soát các hoạt động chính phủ. Các cơ quan này có quyền lực độc lập và được trang bị đủ
tài nguyên để thực hiện nhiệm vụ của mình. Hai cơ quan đó là:

+ Bộ Tư pháp Đan Mạch (Danish Ministry of Justice)


31
Tài liệu lưu hành nội bộ

+ Cơ quan chống tham nhũng Đan Mạch (Danish Agency for Anti-Corruption)
• Đánh giá công bằng và độc lập: Đan Mạch đã đặt sự đánh giá công bằng và độc lập lên hàng
đầu trong việc xử lý các vụ án tham nhũng. Việt Nam có thể học cách tạo ra một hệ thống tư
pháp và cơ quan điều tra độc lập, không bị ảnh hưởng chính trị, để đảm bảo rằng các vụ án tham
nhũng được xử lý một cách công bằng và minh bạch.
• Đảm bảo tính minh bạch và tiếp cận thông tin: Đan Mạch thúc đẩy tính minh bạch trong các
hoạt động chính phủ và đảm bảo rằng thông tin về ngân sách và các quyết định quan trọng khác
được công khai và dễ tiếp cận.
• Tích cực trong việc tạo dựng một văn hóa chống tham nhũng: Đan Mạch đã tạo ra một văn
hóa chống tham nhũng thông qua việc tăng cường giáo dục và tạo ra ý thức công cộng về tác
hại của tham nhũng. Việt Nam có thể học cách đẩy mạnh giáo dục và tạo ra ý thức công cộng
về tham nhũng, từ cấp cơ sở đến cấp cao nhất, để xây dựng một xã hội không tham nhũng.
• Xây dựng một nền công nghiệp công bằng và minh bạch: Đan Mạch đã thúc đẩy sự phát triển
của một nền kinh tế công bằng và minh bạch, tạo điều kiện thuận lợi cho doanh nghiệp và đảm
bảo rằng các quy trình kinh doanh và đấu thầu công cộng được tiến hành một cách công bằng
và minh bạch.
• Hợp tác quốc tế: Đan Mạch đã thúc đẩy hợp tác với các quốc gia khác trong việc chống tham
nhũng. Chính phủ Đan Mạch ký kết tham gia Công ước của Liên hợp quốc về chống tham
nhũng, tích cực triển khai các chương trình hỗ trợ và phối hợp với các quốc gia, các tổ chức
quốc tế trong phòng, chống tham nhũng. Việt Nam có thể học cách tăng cường hợp tác với các
tổ chức quốc tế và các quốc gia khác, chia sẻ kinh nghiệm, nhận được hỗ trợ kỹ thuật và tài
chính, và học hỏi từ những thành công của các quốc gia khác trong việc chống tham nhũng.
• Khuyến khích sự cộng tác và báo cáo: Đan Mạch khuyến khích mọi người dân và tổ chức báo
cáo hành vi tham nhũng và sự vi phạm luật pháp. Họ đã tạo ra các cơ chế bảo vệ và đảm bảo
rằng người báo cáo không bị truy cứu hình sự hay bất kỳ hành động trừng phạt nào khác.
• Xây dựng đạo đức và giá trị trong xã hội: Đan Mạch đã đặt sự tôn trọng đạo đức và giá trị xã
hội lên hàng đầu. Qua việc xây dựng một nền văn hóa công bằng, minh bạch và chống tham
nhũng, họ đã giúp tạo ra một xã hội không chỉ chống tham nhũng mà còn tôn trọng đạo đức và
truyền thống.
• Thực thi công bằng và nghiêm minh: Đan Mạch đã đảm bảo thực thi công bằng và nghiêm
minh các quy định pháp luật liên quan đến phòng chống tham nhũng. Các trường hợp vi phạm
tham nhũng được điều tra và truy tố một cách nghiêm minh, không phân biệt đối tượng.
4. Một số ví dụ điển hình Việt Nam đã vận dụng tốt:
- Luật chống tham nhũng: Việt Nam đã ban hành Luật chống tham nhũng vào năm 2005 và đã
sửa đổi và bổ sung nhiều lần. Luật này đặt ra các quy định về trách nhiệm, trừng phạt và biện
pháp phòng chống tham nhũng.
32
Tài liệu lưu hành nội bộ

- Thành lập cơ quan chống tham nhũng: Việt Nam đã thành lập Ủy ban Quốc gia phòng chống
tham nhũng và các cơ quan tương đương tại các cấp độ địa phương. Các cơ quan này có trách
nhiệm giám sát, điều tra và truy cứu trách nhiệm đối với các hành vi tham nhũng.
- Tăng cường xử lý các vụ án tham nhũng: Việt Nam đã tăng cường xử lý các vụ án tham nhũng
một cách nghiêm minh và công bằng. Nhiều quan chức cao cấp và cán bộ công chức liên quan
đến tham nhũng đã bị xử lý trước pháp luật.
- Tăng cường kiểm soát và giám sát: Việt Nam đã tăng cường kiểm soát và giám sát các hoạt
động công khai, cung cấp thông tin và quản lý tài sản công, nhằm ngăn chặn và phát hiện các
hành vi tham nhũng.
- Hợp tác quốc tế: Việt Nam đã tham gia và hợp tác với các tổ chức quốc tế, như Liên Hiệp
Quốc và OECD, trong việc phòng chống tham nhũng. Điều này bao gồm việc chia sẻ kinh
nghiệm, nhận được hỗ trợ kỹ thuật và tài chính từ cộng đồng quốc tế.
Ví dụ: Ngày 9/12/2020, Đại sứ Đan Mạch tại Việt Nam và Tổ chức Hướng tới minh bạch đã ký
thỏa thuận hợp tác nhằm nâng cao vai trò của thanh niên trong phòng, chống tham nhũng và
thúc đẩy văn hoá liêm chính ở Việt Nam.
4. KẾT LUẬN
Từ những kinh nghiệm phòng, chống tham nhũng của Đan Mạch và thực tiễn tại Việt Nam;
hiện nay Đảng, Nhà nước ta đang chỉ đạo thực hiện gấp rút 4 giải pháp cơ bản sau:
a. Xây dựng đội ngũ cán bộ, đảng viên thật sự có đức, có tài; người Việt Nam phát triển toàn
diện chân, thiện, mỹ
- Bác Hồ từng khẳng định: “Cán bộ là cái gốc của mọi công việc”, “Muốn việc thành công hay
thất bại đều do cán bộ tốt hay kém”.
• Đội ngũ cán bộ của Đảng là nhân tố quyết định làm nên những thành tựu to lớn, có ý nghĩa
lịch sử trong công cuộc xây dựng và bảo vệ đất nước. Song vẫn còn tình trạng suy thoái về tư
tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, chủ nghĩa cá nhân, lợi ích nhóm, bệnh lãng phí, vô cảm, bệnh
thành tích ở một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên. Vì vậy, xây dựng đội ngũ cán bộ, đảng
viên thật sự có đức, có tài là nhiệm vụ quan trọng hàng đầu của cả hệ thống chính trị, cả trước
mắt và lâu dài, phải được tiến hành thường xuyên, thận trọng, khoa học và hiệu quả.
• Không chỉ là công tác giáo dục chính trị tư tưởng, mà chúng ta phải phát hiện, lựa chọn, đào
tạo và sử dụng những người có đủ tiêu chuẩn đức và tài từ trong các nhà trường và xã hội để
xây dựng thành đội cán bộ có đức - tài, có tâm - tầm.
- Bác Hồ đã chỉ rõ, cốt lõi của đạo đức cách mạng là: “Cần, kiệm, liêm, chính”.
• Thiếu một trong bốn đức tính đó thì không thành người. Người có Đức là: Tuyệt đối trung
thành với lợi ích của Đảng, của quốc gia - dân tộc và nhân dân; có tinh thần yêu nước nồng nàn,
33
Tài liệu lưu hành nội bộ

sâu sắc; luôn đặt lợi ích của Đảng, quốc gia - dân tộc, nhân dân lên trên lợi ích cá nhân; sẵn
sàng hy sinh vì sự nghiệp cách mạng, không tham vọng quyền lực, không tham nhũng, lãng phí,
vụ lợi. Người có Tài là người: Có quan điểm khách quan, toàn diện, tư duy đổi mới và tầm nhìn
chiến lược; phương pháp làm việc khoa học; nhạy bén chính trị; năng lực cụ thể hoá và tổng kết
thực tiễn. Đức luôn là cái gốc, đức và tài gắn kết với nhau để tạo thành nhân cách con người
cách mạng.
b. Đẩy mạnh hoàn thiện cơ chế kiểm soát quyền lực
- Kiểm soát quyền lực là nhiệm vụ quan trọng của nhà nước pháp quyền. Vấn đề cơ bản của
kiểm soát quyền lực nhà nước là làm cho bộ máy Nhà nước vừa có khả năng kiểm soát xã hội,
vừa buộc Nhà nước phải tự kiểm soát chính mình. Đảng, Nhà nước đã có nhiều văn bản pháp
luật để kiểm soát quyền lực. Tuy nhiên, vẫn chưa bao quát hết mọi lĩnh vực và vẫn còn kẽ hở
trong văn bản pháp luật.
• Quản lý tài chính ngân sách, tài sản công, đất đai, xây dựng, hải quan, thuế, quản lý cán bộ…
Để mọi quyền lực đều được kiểm soát bằng cơ chế, như Tổng Bí thư thường nói: “Phải nhốt
quyền lực trong lồng cơ chế”. Cần tách hoàn toàn các bộ, ngành, sở, khỏi các đơn vị kinh
doanh.
• Các bộ, ngành là cơ quan quản lý nhà nước, có nhiệm vụ tham mưu cho Đảng, Nhà nước về
các chủ trương, chính sách, quy hoạch ngành và kiểm tra việc thực hiện các chủ trương đó. Các
doanh nghiệp thực hiện kinh doanh theo pháp luật: Các luật về đất đai, môi trường, doanh
nghiệp, ngân sách, tài chính kế toán, thuế, vệ sinh thực phẩm…
- Xóa bỏ tối đa cơ chế “xin - cho”. Đây là điều kiện nảy sinh tham nhũng. Hạn chế tối đa việc
chỉ định thầu trong các dự án đầu tư xây có nguồn vốn nhà nước. Tăng cường ứng dụng khoa
học - công nghệ vào mọi lĩnh vực điều hành Nhà nước, quản trị doanh nghiệp, quản lý cán bộ.
- Thực hiện tối đa chính phủ điện tử, chính phủ số. Ứng dụng tối đa công nghệ số vào các kỳ thi
tuyển dụng, bổ nhiệm, chuyển ngạch cán bộ của các cơ quan đảng, nhà nước, các tổ chức chính
trị - xã hội. Đẩy mạnh sử dụng thẻ ngân hàng, hạn chế tối đa việc sử dụng tiền mặt trong giao
dịch xã hội, nhằm kiểm soát dòng tiền lưu thông vừa hạn chế tham nhũng vừa chống rửa tiền
Ví dụ: Vừa qua Ngành Giao thông vận tải ứng dụng công nghệ trong thi bằng lái xe, khai báo
thuế, hải quan bằng tờ khai điện tử đã hạn chế nhiều tiêu cực, tham nhũng.
c. Tăng cường tính công khai, minh bạch trong mọi hoạt động của Nhà nước và xã hội
- Công khai, minh bạch là yếu tố quan trọng của một nền quản trị quốc gia hiệu quả và bảo đảm
dân chủ của Nhà nước pháp quyền. Là một trong bốn giải pháp quan trọng nhằm hạn chế tiêu
cực tham nhũng. Đảng, Nhà nước ta đã có nhiều nghị quyết, chính sách nhằm tăng cường tính
công khai, minh bạch. Song, vẫn còn nhiều kẽ hở, mang nặng tính hình thức.
- Về công tác cán bộ: Cần công khai số lượng, tiêu chuẩn cán bộ cần tuyển dụng, đề bạt, bổ
nhiệm, đi học, đi nước ngoài… điều này đã được quy định song vẫn chưa thực sự dân chủ, còn
34
Tài liệu lưu hành nội bộ

mang nặng tính hình thức mà cần phải thay đổi, đặc biệt công khai việc kê khai tài sản của cán
bộ phải được cải tiến, hiệu quả hơn, chịu trách nhiêm về việc kê khai, cần công khai rộng rãi
hơn để cán bộ và nhân dân giám sát. Sau 5 năm phải được tổ chức kiểm tra, khắc phục tình
trạng kê khai chỉ có thủ trưởng cơ quan và cơ quan tổ chức cán bộ biết rồi cất tủ.
- Mở rộng các hình thức, quy mô công khai: Nhiều hoạt động còn mang tính hình thức như việc
công khai trong quy hoạch sử dụng đất, nhiều người dân trong vùng quy hoạch cũng không hề
biết, hoặc ngược lại quy hoạch chưa được công khai đã bị lộ lọt, nhiều người dân tranh thủ xây
nhà tạm, trồng cây để được đền bù …
d. Tăng cường hiệu lực, hiệu quả tính pháp chế trong thực thi pháp luật.
- Hiện nay nhiều quy phạm pháp luật không được thi hành nghiêm túc. “ Sự lãnh đạo, chỉ đạo
của Đảng, quản lý, điều hành của nhà nước trên một số lĩnh vực chưa thật sự tập trung, kiên
quyết, dứt điểm; kỷ luật, kỷ cương không nghiêm. Tổ chức thực hiện vẫn là khâu yếu”
- Dẫn chứng:
• Luật đất đai quy định rõ thẩm quyền cấp đất, chuyển đổi mục đích sử dụng đất… Nhưng hiện
nay hầu hết các tỉnh, thành phố đều ó tình trạng chia lô, nền xây nhà trái phép.
• Nhiều cán bộ được bổ nhiệm thần tốc, cả họ làm quan, bổ nhiệm cán bộ không đủ tiêu chuẩn,
phẩm chất, năng lực..
Chủ đề:“HOẠT ĐỘNG CHUYỂN ĐỔI SỐ, CHÍNH PHỦ ĐIỆN TỬ Ở VIỆT
NAM HIỆN NAY VÀ TÁC ĐỘNG CỦA NÓ ĐẾN CÔNG TÁC PHÒNG
CHỐNG THAM NHŨNG”
I. Tổng quan
1. Khái niệm
1.1 Khái niệm tham nhũng
Tham nhũng là hành vi của người có chức vụ, quyền hạn đã lợi dụng chức vụ, quyền hạn đó vì
vụ lợi. ( Khoản 1 điều 3 Luật phòng chống tham nhũng 2018 )
Người có chức vụ, quyền hạn là người do bổ nhiệm, do bầu cử, do tuyển dụng, do hợp đồng
hoặc do một hình thức khác, có hưởng lương hoặc không hưởng lương, được giao thực hiện
nhiệm vụ, công vụ nhất định và có quyền hạn nhất định trong khi thực hiện nhiệm vụ, công vụ
đó (khoản 2 điều 3 Luật phòng chống tham nhũng 2018)
Vụ lợi là việc người có chức vụ, quyền hạn đã lợi dụng chức vụ, quyền hạn nhằm đạt được lợi
ích vật chất hoặc lợi ích phi vật chất không chính đáng (khoản 7 điều 3 Luật phòng chống tham
nhũng).
Tham nhũng “Làm giảm lòng tin của quần chúng đối với sự lãnh đạo của Đảng và sự điều hành
của các cơ quan nhà nước” (Đại hội VI); “đe dọa sự ổn định và phát triển của đất nước” (Đại
35
Tài liệu lưu hành nội bộ

hội XI); “là thách thức nghiêm trọng đối với vai trò lãnh đạo của Đảng và hiệu lực quản lý của
Nhà nước” (Đại hội XIII). Đặc biệt từ Hội nghị giữa nhiệm kỳ Đại hội VII (tháng 01/1994),
tham nhũng được Đảng ta nhận diện là một trong bốn nguy cơ đối với Đảng và các mạng Việt
Nam, đến Đại hội IX đã trở thành “một nguy cơ lớn đe dọa sự sống còn của chế độ ta” và đến
nay “vẫn là một trong những nguy cơ đe dọa sự tồn vong của Đảng và chế độ” (Đại hội XIII)
1.2 Phòng chống tham nhũng
Theo công ước của Liên hợp quốc về chống tham nhũng năm 2003 : “Tham nhũng là sự lợi
dụng quyền lực của nhà nước để trục lợi riêng”.
Luật Phòng, chống tham nhũng năm 2018: “Tham nhũng là hành vi của người có chức vụ,
quyền hạn đã lợi dụng, chức vụ, quyền hạn đó vì vụ lợi”.
Như vậy nói nôm na dễ hiểu như Chủ tịch Hồ Chí Minh đã dạy thì tham nhũng là hành vi “ăn
cắp của công làm của tư”.
Nguyên nhân cơ bản, trực tiếp của tham nhũng là do suy thoái về tư tưởng, chính trị, đạo đức,
lối sống. Nếu chỉ phòng, chống tham nhũng về tiền bạc, tài sản thôi thì chưa đủ, mà nguy hại
hơn là sự suy thoái về tư tưởng, chính trị, đạo đức, lối sống. Đây là cái gốc của tham nhũng; vì
tiền bạc, tài sản có thể thu hồi được, nhưng nếu suy thoái về đạo đức, tư tưởng là mất tất cả.
Vì vậy, phòng, chống tiêu cực, mà trọng tâm là phòng, chống sự suy thoái về tư tưởng chính trị,
đạo đức, lối sống trong cán bộ, đảng viên, công chức, viên chức, tức là trị tận gốc của tham
nhũng.
1.3 Khái niệm chuyển đổi số
Chuyển đổi số là quá trình thay đổi tổng thể và toàn diện của cá nhân, tổ chức về cách sống,
cách làm việc và phương thức sản xuất dựa trên các công nghệ số. (Cẩm nang chuyển đổi số-Bộ
Thông tin và Truyền thông). Chuyển đổi số cơ quan nhà nước là hoạt động phát triển chính phủ
số của các cơ quan trung ương và tương ứng với đó là hoạt động phát triển chính quyền số, đô
thị thông minh của các cơ quan chính quyền các cấp ở địa phương.
Thủ tướng Phạm Minh Chính : “Chuyển đổi số là quá trình chuyển đổi cả về tư duy, nhận thức
và hành động; từ quy mô quốc gia hòa nhập với thế giới; chuyển từ thủ công truyền thống sang
môi trường số; phải đổi mới căn bản, toàn diện, nâng cao hiệu lực, hiệu quả hoạt động quản lý,
quản trị, điều hành; đổi mới hoạt động sản xuất, kinh doanh của doanh nghiệp, phương thức
sống, làm việc của người dân.”
1.4 Chính phủ số, chính phủ điện tử
Chính phủ số: Là quá trình Chính phủ chuyển đổi số, thay đổi mô hình hoạt động và quy trình
làm việc. Đồng thời, Chính phủ cũng đổi mới phương thức cung cấp dịch vụ, tăng tốc cung cấp
các dịch vụ công thông qua công nghệ hiện đại. (Cẩm nang chuyển đổi số-Bộ Thông tin và
Truyền thông)

36
Tài liệu lưu hành nội bộ

Chính phủ số là chính phủ điện tử, thêm “bốn Có”,


Có toàn bộ hoạt động an toàn trên môi trường số.
Có khả năng cung cấp dịch vụ mới nhanh chóng.
Có khả năng sử dụng nguồn lực tối ưu
Có khả năng kiến tạo phát triển, dẫn dắt chuyển đổi số quốc gia, giải quyết hiệu quả những vấn
đề lớn trong phát triển và quản lý kinh tế - xã hội.
Chính phủ điện tử được hiểu là “Sự hoạt động liên thông của cả hệ thống các cơ quan trong bộ
máy hành chính nhà nước có ứng dụng một cách có hiệu quả những thành tựu của khoa học,
công nghệ thông tin điện tử để bảo đảm việc chấp hành và điều hành của các cơ quan hành
chính nhà nước trong mọi lĩnh vực của đời sống xã hội và cung ứng đầy đủ, khẩn trương các
thông tin cho tất cả mọi tổ chức, cá nhân thông qua các phương tiện thông tin điện tử” (Trong
cuốn sách Một số thuật ngữ hành chính do Viện nghiên cứu hành chính thuộc Học viện Hành
chính quốc qua biên soạn).
Chính phủ điện tử là việc Chính phủ ứng dụng công nghệ thông tin vào các quy trình hoạt động.
Từ đó, Chính phủ có thể cải thiện hiệu lực và hiệu quả hoạt động. Đồng thời, với sự hỗ trợ của
công nghệ mới, Chính phủ có thể phục vụ tốt cho người dân và doanh nghiệp hơn. Nói cách
khác, Chính phủ điện tử là quá trình tin học hoá các hoạt động của Chính phủ.
Chính phủ điện tử là chính phủ ứng dụng công nghệ thông tin và truyền thông để tạo ra phong
cách quản lý mới của chính phủ, bao gồm việc thay đổi phương thức làm việc bên trong Chính
phủ (điện tử hóa); phương thức xây dựng, ban hành chính sách, pháp luật và quyết định quản lý
nhằm tạo ra môi trường tương tác mới giữa chính phủ với các cá nhân, tổ chức trong xã hội;
giữa các cơ quan trong chính phủ với nhau; giữa chính phủ với chính phủ khác.
Chính phủ điện tử, hiểu một cách đơn giản, là “bốn Không”,
Họp không gặp mặt.
Xử lý văn bản không giấy.
Giải quyết thủ tục hành chính không tiếp xúc.
Thanh toán không dùng tiền mặt.
2. Chính phủ số, chính phủ điện tử
2.1 Đặc điểm
a) Hoạt động trên cơ sở sử dụng công nghệ thông tin
Công nghệ thông tin, mạng Internet, các trang thiết bị công nghệ thông tin là điều kiện cần thiết
để xây dựng và vận hành thành công chính phủ điện tử. Từ đó chính phủ điện tử sẽ được vận
hành trên cơ sở của công nghệ thông tin, …
37
Tài liệu lưu hành nội bộ

b) Làm việc liên tục


Trên cơ sở ứng dụng công nghệ thông tin và truyền thông. Chính phủ điện tử cải thiện hoạt
động cung cấp dịch vụ công của chính phủ tới công dân, doanh nghiệp, các cơ quan nhà nước
khác, Việc tương tác giữa chính phủ, cơ quan nhà nước, chính quyền địa phương với cơ quan,
tổ chức, cá nhân khác được diễn ra liên tục 24h trong ngày và 7 ngày trong tuần.
c) Hoạt động của chính phủ diễn ra trong môi trường mạng
Chính phủ điện tử là chính phủ hoạt động chủ yếu trên môi trường internet
Các hoạt động bao gồm :
+ Thu thập thông tin, dữ liệu phục vụ hoạt động quản lý, điều hành xã hội
+ Xây dựng, ban hành chính sách pháp luật, quyết định quản lý
+ Tương tác với chính phủ khác
+ ….
2.2 Mục tiêu
Tăng cường ứng dụng công nghệ thông tin, chuyển đổi số và ứng dụng các tiến bộ khoa học,
công nghệ thúc đẩy hoàn thành xây dựng và phát triển Chính phủ điện tử, Chính phủ số, góp
phần đổi mới phương thức làm việc, nâng cao năng suất, hiệu quả hoạt động của cơ quan hành
chính nhà nước các cấp có đủ năng lực vận hành nền kinh tế số, xã hội số đáp ứng yêu cầu phát
triển kinh tế - xã hội, quốc phòng, an ninh và hội nhập quốc tế; nâng cao chất lượng cung cấp
dịch vụ công cho người dân, tổ chức.
( Khoản 6 Điều 1 Phần III Nghị quyết 76/NQ-CP Ban hành chương trình tổng thể cải cách hành
chính nhà nước giai đoạn 2021 -2030 )
a) Mục tiêu chung
Nâng cao hiệu quả quản lý, điều hành của chính phủ trong bối cảnh phát triển mới. xây dựng và
vận hành chính phủ điện tử mang lại thuận lợi cho công dân, doanh nghiệp và các chủ thể khác
trong xã hội, tăng cường công khai, minh bạch, giảm chi tiêu của chính phủ.
b) Mục tiêu cụ thể
- Nâng cao năng lực quản lý, điều hành của chính phủ và chính quyền các cấp.
- Cải thiện phương thức cung cấp các dịch vụ công.
- Giảm chi phí, công bằng, minh bạch và phòng chống tham nhũng.
Thông qua chính phủ điện tử, các hoạt động của chính phủ sẽ trở nên công khai, minh bạch nên
đảm bảo mục tiêu phòng chống tham nhũng tiêu cực trong các hoạt động công vụ của chính
phủ.
38
Tài liệu lưu hành nội bộ

- Hỗ trợ đồng hành cùng các tổ chức, cá nhân trong xã hội.


2.3 Vai trò
Thứ nhất, tạo môi trường pháp lý minh bạch cho quá trình phát triển kinh tế số.
Thứ hai, hỗ trợ đẩy nhanh quá trình xây dựng hạ tầng công nghệ thông tin, nền tảng của cho
phát triển nền kinh tế số.
Thứ ba, đổi mới, nâng cao hiệu quả đào tạo nguồn nhân lực số, chuẩn bị sẵn sàng nền kinh tế
số.
Thứ 4, đẩy nhanh việc số hoá các thủ tục hành chính, cung cấp các dịch vụ công, đẩy mạnh cải
cách hành chính, tạo môi trường số giữa Chính phủ với các doanh nghiệp và người dân.
Thứ 5, xây dựng chính phủ điện tử, hướng tới chính phủ số góp phần quan trọng vào công cuộc
phòng chống tham nhũng. (Vai trò trọng tâm)
2.4 Nội dung
a) Ban hành văn bản quy phạm pháp luật về chính phủ điện tử
Đây là một nội dung quan trọng và là một trong những yếu tố quyết định hiệu quả trong việc
xây dựng chính phủ điện tử, tạo môi trường pháp lý để chính phủ điện tử được xây dựng và
triển khai hoạt động có hiệu quả.
Việc ban hành văn bản quy phạm pháp luật cần phải được tiến hành đồng bộ, thống nhất giữa
các cơ quan nhà nước có thẩm quyền nhằm bảm đảo tính hợp hiến, hợp pháp, tính thực tiễn của
văn bản quy phạm pháp luật .
1. Ban hành văn bản về hướng dẫn về chính phủ điện tử (người dân, doanh nghiệp,...)
2. Ban hành văn bản chỉ thị về chính phủ điện tử (Bộ, ngành, cơ quan nhà nước,...về việc thiết
lập hay giải quyết một vấn đề chính phủ điện tử).
b) Ứng dụng công nghệ thông tin, hệ thống phần mềm quản lý văn bản điều hành
Việc xây dựng chính phủ điện tử là việc ứng dụng CNTT vào hoạt động của các cơ quan chính
phủ, các cơ quan quản lý hành chính nhà nước. việc ứng dụng CNTT cần phải được thực hiện
một cách đồng bộ xuyên suốt từ trung ương đến địa phương.
Thực tế cho thấy khi ứng dụng CNTT đã mang lại hiệu quả thiết thực trong việc giải quyết thủ
tục hành chính và các vấn đề có liên quan. Nâng cao hiệu suất làm việc.
c) Xây dựng các cơ sở dữ liệu quốc gia.
Cơ sở dữ liệu quốc gia là tập hợp thông tin của một hoặc một số lĩnh vực kinh tế - xã hội được
xây dựng, cập nhật và duy trì đáp ứng nhu cầu truy cập và sử dụng thông tin của các ngành kinh
tế phục vụ lợi ích công cộng.

39
Tài liệu lưu hành nội bộ

Việc xây dựng cơ sở dữ liệu quốc gia là một trong những nội dung quan trọng trong xây dựng
Chính phủ điện tử.
Theo quy định tại Khoản 5 Điều 11 Nghị định 47/2020/NĐ-CP ngày 9/42020 của chính phủ về
“quản lý kết nối và chia sẻ dữ liệu số của cơ quan nhà nước” thì dữ liệu về dân cư, đất đai,
doanh nghiệp là dữ liệu cơ bản làm nền tảng phát triển chính phủ điện tử. Ngoài ba cơ sở dữ
liệu trên hiện nay chính phủ đã và đang xây dựng, triển khai thêm các cơ sở dữ liệu về bảo
hiểm, về văn bản pháp luật, về thủ tục hành chính.
Các cơ sở dữ liệu quốc gia được xây dựng và đưa vào vận hành góp phần làm đơn giản hóa thủ
tục hành chính, giảm giấy tờ cho công dân, tiết kiệm thời gian và tiền bạc trong quá trình thực
hiện thủ tục hành chính.
d) Quá trình tin học hóa quản lý hành chính nhà nước
Là quá trình ứng dụng công nghệ thông tin trong quản lý hành chính nhà nước.
Việc ứng dụng công nghệ thông tin trong quản lý hành chính nhà nước góp phần thúc đẩy quá
trình cải cách hành chính, xây dựng nền hành chính điện tử. Giúp cho việc xử lý thông tin diễn
ra nhanh chóng, chính xác đầy đủ, phục vụ tốt nhất cho người dân, tổ chức, doanh nghiệp.
Quá trình tin học hóa quản lý hành chính nhà nước cần được tiến hành một cách đồng bộ, xuyên
suốt trong hệ thống từ trung ương đến địa phương. Nhằm đạt được mục tiêu của cải cách hành
chính là mang lại hiệu quả cao, nâng cao chất lượng trong cách thức hoạt động, điều hành bộ
máy hành chính nhà nước.
e) Triển khai các dịch vụ hành chính công qua web trực tuyến
Dịch vụ công trực tuyến: Là dịch vụ hành chính công và các dịch vụ khác của cơ quan nhà nước
cung cấp cho các cơ quan, tổ chức, cá nhân, trên môi trường mạng.
Cung cấp dịch vụ công trực tuyến là khâu quan trọng, then chốt trong quá trình cải cách hành
chính và triển khai Chính phủ điện tử, là nội dung quan trọng trong cải cách thủ tục hành chính,
góp phần nâng cao chất lượng cung ứng dịch vụ công của cơ quan nhà nước. Đây là nhiệm vụ
ưu tiên hàng đầu để phát triển chính phủ điện tử hướng tới chính phủ số.
Nếu trước đây muốn đăng kí thủ tục hành chính phải đến cơ quan hành chính nhà nước để nhận
phiếu, chờ hướng dẫn, chờ tiếp nhận hồ sơ. Thì bây giờ, miễn là thiết bị của bạn có kết nối
internet. Bạn chỉ cần gừi hồ sơ quan cổng dịch vụ công trực tuyến hồ sơ của bạn sẽ được giải
quyết 24/24, đồng thời bạn có thể theo dõi, giám sát được tình trạng giải quyết hồ sơ của mình.
II. Hoạt động chuyển đổi số, chính phủ điện tử ở Việt Nam hiện nay (thực trạng)
1. Ủy ban Quốc gia về chuyển đổi số
Thể hiện sự chú trọng của chính phủ đối với vấn đề chuyển đổi số.

40
Tài liệu lưu hành nội bộ

Trước kia có tên là Ủy ban Quốc gia về Chính phủ điện tử, được thành lập theo trong Quyết
định số 1072/QĐ/TTg ngày 28/8/2018 nhằm thực hiện mục tiêu đẩy mạnh ứng dụng, phát triển
công nghệ thông tin theo Nghị quyết số 36/NQ/TW ban hành ngày 30/01/2023 của Bộ Chính trị
về phát triển và ứng dụng công nghệ sinh học phục vụ phát triển bền vững đất nước trong tình
hình mới .
Hoạt động của Ủy ban Quốc gia về chuyển đổi số cụ thể là là chỉ đạo, điều phối các bộ, ngành,
địa phương tiếp tục đẩy mạnh chuyển đổi số theo hướng mang lại kết quả thực chất, bền vững,
ưu tiên nguồn lực để đạt được các chỉ tiêu quan trọng thuộc các Chương trình, Chiến lược quốc
gia về phát triển Chính phủ số, kinh tế số và xã hội số.
Các chỉ tiêu cụ thể trong chuyển đổi số (Căn cứ Quyết định số: 17/QĐ-UBQGCĐS về Ban hành
Kế hoạch hoạt động của Ủy ban Quốc gia về chuyển đổi số năm 2023)
1.1 Dữ liệu số:
Là dữ liệu dưới dạng ký hiệu, chữ viết, chữ số, hình ảnh, âm thanh hoặc dạng tương tự được
biểu diễn bằng tín hiệu số. Dữ liệu số mang thông tin số và được chia sẻ dưới dạng thông điệp
dữ liệu. Căn cứ Khoản 1, Điều 3 Nghị định Số: 47/2020/NĐ-CP về quản lý kết nối và chia sẽ dữ
liệu giữa các cơ quan nhà nước , dữ liệu được hiểu là dữ liệu số.
1.2 Chính phủ số
Là quá trình Chính phủ chuyển đổi số, thay đổi mô hình hoạt động và quy trình làm việc. Đồng
thời, Chính phủ cũng đổi mới phương thức cung cấp dịch vụ, tăng tốc cung cấp các dịch vụ
công thông qua công nghệ hiện đại.
1.3 Kinh tế số
Là các hoạt động kinh tế có sử dụng thông tin số, tri thức số như là yếu tố sản xuất chính; sử
dụng mạng Internet, mạng thông tin làm không gian hoạt động; và sử dụng công nghệ thông tin
và truyền thông, tức là điện tử, viễn thông và công nghệ thông tin để tăng năng suất lao động và
để tối ưu nền kinh tế. Được quy định tại thông tư số: 13/2021/TT-BKHĐTvề quy định hệ thống
chỉ tiêu kinh tế số.
1.4 Xã hội số
Là xã hội của con người trong môi trường số. Ở đó, nhiều dịch vụ và nền tảng số giúp cuộc
sống con người thuận tiện, dễ dàng, việc làm nhiều hơn, năng suất cao hơn, xã hội an toàn và
nhân văn hơn, giúp cân bằng kinh tế với cuộc sống. Theo đó, xã hội số là trạng thái biến đổi và
phát triển mới về chất của xã hội dựa trên nền tảng căn bản và quan trọng nhất là công nghệ - kỹ
thuật số, truyền thông số như internet, AI, Big Data, Mobile Technology,… giúp kết nối sự
tương tác mọi thành viên trong xã hội với nhau, với mọi vật (kết nối vạn vật - IoT) trên các lĩnh
vực của đời sống xã hội như kinh tế, chính trị, văn hóa,... trên thế giới số, tạo ra cuộc sống thay
đổi tích cực về chất, thúc đẩy phát triển xã hội bền vững, nhân văn và hiện đại. (Sách: Hỏi đáp
về chuyển đổi số 2020, Bộ TT&TT).
41
Tài liệu lưu hành nội bộ

1.5 An toàn, an ninh mạng


Là trọng tâm của quá trình chuyển đổi số, là trụ cột quan trọng tạo lập niềm tin số và sự phát
triển thịnh vượng trong kỷ nguyên số. An toàn, an ninh mạng là nhiệm vụ trọng yếu, thường
xuyên, lâu dài nhằm khởi tạo và duy trì môi trường mạng an toàn, lành mạnh, tin cậy cho các cơ
quan, tổ chức, doanh nghiệp và mỗi người dân. Đầu tư cho an toàn, an ninh mạng là đầu tư cho
phát triển bền vững và tạo ra giá trị.(căn cứ quyết định số 964/QĐ-TTg về phê duyệt chiến lược
an toàn, an ninh mạng quốc gia, chủ động ứng phó với các thách thức từ không gian mạng đến
năm 2025, tầm nhìn 2030).
2. Hoạt động chuyển đổi số
Năm 2019, khảo sát của Hiệp hội Phần mềm và Dịch vụ CNTT Việt Nam (Vinasa) cho thấy
40,6% đơn vị tham gia khẳng định đã sẵn sàng nguồn lực và 23,6% đang triển khai các hoạt
động chuyển đổi số. Tuy nhiên khi đó, cũng có tới 30,7% nói đã tìm hiểu nhưng chưa biết cần
phải làm gì, 38% băn khoăn chuyển đổi số nên bắt đầu từ đâu, hay chưa hiểu tin học hóa khác
với chuyển đổi số ra sao.
Tháng 6/2020, Thủ tướng phê duyệt "Chương trình Chuyển đổi số quốc gia đến năm 2025, định
hướng đến năm 2030". Kể từ đó, hàng loạt chính sách mới được ban hành và 2020 được xem là
năm khởi đầu trên con đường chuyển đổi số quốc gia.
Một trong những dấu ấn quan trọng
Đề án “Phát triển ứng dụng dữ liệu về dân cư, định danh và xác thực điện tử, phục vụ chuyển
đổi số quốc gia giai đoạn 2022 - 2025, tầm nhìn đến năm 2030” trong quyết định số 06/QĐ-TTg
ngày 6 tháng 1 năm 2022. Với mục tiêu Ứng dụng Cơ sở dữ liệu quốc gia về dân cư, hệ thống
định danh và xác thực điện tử, thẻ Căn cước công dân gắn chip điện tử trong công cuộc chuyển
đổi số quốc gia một cách linh hoạt, sáng tạo phù hợp Chương trình Chuyển đổi số quốc gia đến
năm 2025, định hướng đến năm 2030 để phục vụ 5 nhóm tiện ích như sau:
(1) Phục vụ giải quyết thủ tục hành chính và cung cấp dịch vụ công trực tuyến;
(2) Phục vụ phát triển kinh tế, xã hội;
(3) Phục vụ công dân số;
(4) Hoàn thiện hệ sinh thái phục vụ kết nối, khai thác, bổ sung làm giàu dữ liệu dân cư;
(5) Phục vụ chỉ đạo, điều hành của lãnh đạo các cấp.
Sau 1 năm thực hiện Đề án 06, hiện đã hoàn thành đưa 21/25 dịch vụ công thiết yếu liên quan
đến người dân thực hiện trên môi trường điện tử (2 dịch vụ liên thông đang thử nghiệm và sẽ
nhân rộng toàn quốc). Riêng Bộ Công an đã đưa 224/224 dịch vụ công trên môi trường điện tử,
trong đó có nhiều nội dung thiết yếu tưởng chừng không thể thực hiện được như: Cấp hộ chiếu
phổ thông, thủ tục đăng ký xe...

42
Tài liệu lưu hành nội bộ

Chuyển đổi số cho đến hiện nay được áp dụng vào nhiều lĩnh vực ví dụ:
Chuyển đổi số trong báo chí theo Quyết định số 348/QĐ-TTg của Thủ tướng chính phủ ngày
6/4/2023 về Phê duyệt chuyển đổi số trong báo chí đến năm 2025, định hướng đến năm 2023.
Mục tiêu xây dựng các cơ quan báo chí theo hướng chuyên nghiệp, nhân văn, hiện đại; làm tốt
sứ mệnh thông tin tuyên truyền phục vụ sự nghiệp cách mạng của Đảng, sự nghiệp đổi mới của
đất nước.
Chuyển đổi số trong xây dựng nông thôn mới, hướng tới nông thôn mới thôn minh giai đoạn
2021-2025 theo Quyết định số 924/QĐ-TTg ngày 2 tháng 8 năm 2022 về phê duyệt chuyển đổi
số trong xây dựng nông thôn mới, hướng tới nông thôn mới thông minh giai đoạn 2021-2025.
Với mục đích nâng cao chất lượng đời sống người dân, thu hẹp dần khoảng cách về chất lượng
dịch vụ giữa nông thôn - thành thị, từng bước hướng tới nông thôn mới thông minh.
Chuyển đổi số trong an sinh xã hội không dùng tiền mặt theo Chỉ thị số 21/CT-TTg ngày 25
tháng 11 năm 2022 về thúc đẩy chuyển đổi số trong an sinh xã hội không dùng tiền mặt. Nhằm
giải quyết vấn đề đồng bộ danh sách, nhu cầu ứng dụng CNTT tạo điều kiện để người dân tiếp
cận các dịch vụ xã hội một cách thuận lợi, đặc biệt là chi trả không dùng tiền mặt.
Trong lĩnh vực thanh toán điện tử, sau hơn một năm triển khai thí điểm, tính đến hết tháng 8,
tổng số người đăng ký và sử dụng tài khoản Mobile Money đạt gần 2,2 triệu người. Trong đó,
số lượng người dùng tại các khu vực nông thôn, vùng sâu, vùng xa... đạt hơn 1,5 triệu người,
chiếm gần 70%, theo thông tin từ Bộ TT&TT.
3. Hoạt động xây dựng chính phủ điện tử
Theo đánh giá của Liên hợp quốc, Việt Nam đã có sự tăng hạng về chính phủ điện tử liên tục
trong 06 năm qua (từ vị trí thứ 99 năm 2014 lên vị trí thứ 86 trong năm 2020). Cụ thể, Liên hợp
quốc đánh giá chỉ số về chính phủ điện tử theo bốn mức: rất cao (trên 0,75 điểm); cao (từ 0,5
đến 0,75 điểm); trung bình (từ 0,25 đến 0,5 điểm), thấp (dưới 0,25 điểm). Năm 2020, chỉ số
dịch vụ công trực tuyến của Việt Nam là 0,6529 điểm; chỉ số về cơ sở hạ tầng viễn thông là
0,6694 điểm (đều ở mức cao theo chỉ số đánh giá của Liên hợp quốc) .
Vị trí của Việt Nam trong Bảng xếp hạng Chỉ số phát triển Chính phủ điện tử của Liên Hợp
Quốc vẫn ở mức trung bình, theo báo cáo mới nhất của Liên Hợp Quốc, đang xếp thứ 86 trong
tổng số 193 quốc gia và lãnh thổ được đánh giá. Trong đó, chỉ số thành phần về hạ tầng viễn
thông tăng mạnh 31 bậc, chỉ số thành phần về nhân lực được cải thiện 3 bậc. Trong khu vực
ASEAN, Việt Nam chỉ được xếp hạng khiêm tốn ở vị trí thứ 6. Kết quả triển khai nhiều nhiệm
vụ về Chính phủ điện tử còn rất chậm và nhiều nơi thực hiện mang tính hình thức.
Việc xây dựng triển khai các cơ sở dữ liệu quốc gia, hạ tầng công nghệ thông tin làm nền tảng
phục vụ phát triển Chính phủ điện tử rất chậm so với tiến độ cần có; các hệ thống thông tin dữ
liệu còn cục bộ, chưa có kết nối, chia sẻ dữ liệu giữa các hệ thống thông tin; chất lượng dữ liệu
và thông tin chưa được cập nhật kịp thời, chính xác; nhiều hệ thống thông tin đã triển khai chưa
bảo đảm an toàn, an ninh thông tin, mức độ tin cậy của quốc gia trong giao dịch điện tử thấp.
43
Tài liệu lưu hành nội bộ

Việc cung cấp dịch vụ công trực tuyến còn chạy theo số lượng trong khi tỷ lệ hồ sơ thực hiện
dịch vụ công trực tuyến còn rất thấp; việc giải quyết thủ tục hành chính và xử lý hồ sơ công
việc còn mang nặng tính thủ công, giấy tờ. Còn những rào cản trong cơ chế đầu tư ứng dụng
công nghệ thông tin gây khó khăn cho các doanh nghiệp trong triển khai các dự án. Điều này
dẫn đến tình trạng nhiều lãnh đạo Chính phủ, bộ, ngành, địa phương còn chưa có đầy đủ thông
tin dữ liệu số của các đối tượng mình quản lý.
Để chúng ta có một cái nhìn tổng quát hơn về Chính phủ điện tử và chính phủ số:

III. Tác động của chuyển đổi số, chính phủ điện tử đến công tác phòng chống tham nhũng
1. Tích cực
Thứ nhất, giảm chi phí và tăng hiệu quả công việc cũng như chất lượng cung cấp dịch vụ trong
các cơ quan hành chính nhà nước.
Đề án 06/2020 về “Phát triển ứng dụng dữ liệu về dân cư, định danh và xác thực điện tử, phục
vụ chuyển đổi số quốc gia giai đoạn 2022 - 2025, tầm nhìn đến năm 2030” mang lại những kết
quả khả quan, thay đổi phương thức quản lý công dân; khắc phục tình trạng thiếu thống nhất và
nâng cao chất lượng, hiệu quả trong quản lý thông tin công dân; tiết kiệm thời gian, công sức
người dân, doanh nghiệp.
Tính đến ngày 23/02/2023, đã thu nhận 21,9 triệu hồ sơ cấp định danh điện tử, trong đó phê
duyệt 20,2 triệu hồ sơ (đạt 92,2% so với tổng số hồ sơ được thu nhận; tăng 3.279.222 hồ sơ so
với cuối tháng 12/2022; có 4,5 triệu tài khoản kích hoạt (chiếm 22,66% tổng tài khoản phê
duyệt; tăng 2 triệu tài khoản so với cuối tháng 12/2022), tiếp tục phát triển các tiện ích trên
VNeID theo tinh thần chỉ đạo của Thủ tướng Chính phủ (đã có 128.855 lượt khai báo thông tin
lưu trú từ 29.110 công dân; có 803 tin phản ánh về an ninh, trật tự từ 501 công dân qua VNeID).
Đối với việc cấp thẻ Căn cước công dân, có 78,6 triệu thẻ Căn cước công dân gắn chip điện tử
được cấp cho công dân (tăng 2 triệu thẻ so với cuối tháng 12/2022). Ngoài ra, đã triển khai, kết
nối, chia sẻ với 13 đơn vị bộ, ngành, 01 doanh nghiệp nhà nước, 03 doanh nghiệp viễn thông và
60 địa phương (tăng 01 doanh nghiệp và 29 địa phương so với tháng 12/2022).
Thứ hai, tạo ra một chính phủ có trách nhiệm, thực hiện công việc một cách minh bạch, chống
tình trạng tham nhũng, quan liêu và tăng trách nhiệm giải trình.
Một trong những lợi ích lớn nhất của chuyển đổi số đó là tính minh bạch, bởi vì khi đấy thì
thông tin được lưu trữ một cách đầy đủ trong từng bước một. Việc triển khai công tác chuyển
đổi số và các hoạt động cập nhật trên hệ thống website cũng như trên các app giúp cho việc

44
Tài liệu lưu hành nội bộ

phục vụ người dân một cách rất nhanh, cũng như đưa ra các số liệu gần như là theo thời gian
thực cho các cơ quan.
Tính giảm thiểu vào sự phụ thuộc của con người và thực hiện chức năng của chính phủ tự động.
Thay vì thường xuyên phải thực hiện các thủ tục hành chính với cơ quan phải gặp trực tiếp như
dịch vụ công ở mức độ 1, 2 thì “cơ sở dữ liệu quốc gia tạo nền tảng phát triển Chính phủ điện tử
bao gồm các cơ sở dữ liệu quốc gia về Dân cư, Đất đai, Đăng ký doanh nghiệp, Tài chính, Bảo
hiểm được hoàn thành và kết nối, chia sẻ trên toàn quốc; từng bước mở dữ liệu của các cơ quan
nhà nước để cung cấp dịch vụ công kịp thời, một lần khai báo, trọn vòng đời phục vụ người dân
và phát triển kinh tế - xã hội”(Quyết định số 749/QĐ-TTg về Phê duyệt "Chương trình Chuyển
đổi số quốc gia đến năm 2025, định hướng đến năm 2030"
Thứ ba, nâng cao năng lực của chính phủ, tạo mạng lưới liên kết giữa cơ quan công quyền với
nhân dân (tăng cường quyền lực của nhân dân trong thực hiện quyền giám sát ).
Mỗi bộ, ngành, địa phương có một nền tảng tích hợp, chia sẻ dữ liệu của mình để tích hợp, chia
sẻ dữ liệu giữa các hệ thống thông tin, cơ sở dữ liệu trong nội bộ, đồng thời là đầu mối kết nối
với các bộ, ngành, địa phương khác thông qua nền tảng tích hợp, chia sẻ dữ liệu quốc gia . Việc
mở dữ liệu của các cơ quan nhà nước được thực hiện qua Cổng dữ liệu Quốc gia data.gov.vn.
Liên kết đối với các cơ quan nhà nước là phối hợp cả ba khâu ban hành, tổ chức, kiểm tra việc
thực hiện chính sách. Việc ứng dụng chuyển đổi số giúp chia sẻ dữ liệu giữa các cơ quan nhà
nước để đáp ứng khả năng cung cấp dịch vụ số cho người dân theo nguyên tắc người dân chỉ
cần cung cấp thông tin một lần cho các cơ quan nhà nước.
Thứ tư, nâng cao chất lượng ra quyết định và thúc đẩy việc sử dụng công nghệ thông tin trong
các lĩnh vực từ đó cải thiện chất lượng phục vụ cho người dân, nâng cao năng suất, chất lượng
giải quyết công việc của các cơ quan chính phủ.
Ví dụ ứng dụng chuyển đổi số trong lĩnh vực giao thông đường bộ: hệ thống dữ liệu về giao
thông được kết nối với mạng lưới camera giám sát và cảm biến giao thông để theo dõi tình hình
giao thông, phân tích dữ liệu và dự báo tình trạng ùn tắc hay tai nạn giao thông. Điều này giúp
chính phủ có cái nhìn tổng quan về tình trạng giao thông và phát triển các biện pháp giảm ùn tắc
và tăng an toàn. Phân tích dữ liệu giao thông thu thập được để đề xuất các cải tiến về hạ tầng
giao thông, bao gồm việc điều chỉnh đường đi, xây dựng thêm đường hoặc cải thiện kết nối giao
thông. Điều này giúp chính phủ ra quyết định về đầu tư và phát triển hạ tầng giao thông dựa
trên dữ liệu và phân tích chính xác.
Thứ năm, củng cố hệ thống pháp luật và thực thi pháp luật nhằm phát hiện kịp thời những hành
vi sai phạm về tham nhũng trong các cơ quan công quyền, từ đó có những chế tài xử lý phù hợp
để không bỏ sót một sai phạm của một cá nhân nào.
Thứ sáu, chính phủ điện tử tạo ra các phương thức dịch vụ công mới, theo đó tất cả các tổ chức
công đều cung cấp các dịch vụ hiện đại, tích hợp và thông suốt cho người dân. Trong quá trình

45
Tài liệu lưu hành nội bộ

chuyển hướng sang các dịch vụ bên ngoài, tính minh bạch ngày càng được chú trọng như một
động lực cơ bản cho chính phủ điện tử.
Kết quả chống tham nhũng, tiêu cực đã được quốc tế đánh giá cao. Tổ chức Minh bạch quốc tế
công bố Chỉ số nhận thức tham nhũng năm 2021, trong đó, Việt Nam được đánh giá đạt 39/100
điểm, đứng thứ 87 trong số 180 quốc gia, vùng lãnh thổ (tăng 3 điểm, 17 bậc so với năm 2020).
2. Tiêu cực
Thứ nhất, thông qua chuyển đổi số các hành vi tham nhũng, tiêu cực diễn ra tinh vi hơn, khó
lường hơn. Bằng cách ứng dụng công nghệ thông tin, mạng internet các hành vi tham nhũng
ngày càng trở nên tinh vi hơn, các đối tượng sử dụng công nghệ thông tin để thực hiện hành vi
vụ lợi ( nhắn tín, gọi điện, chuyển khoản ), rửa tiền ( tiền ảo, chứng khoán, bất động sản ) gây
khó khăn cho công tác kiểm soát, kê biên tài sản của người có chức vụ quyền hạn.
Ví dụ trong vụ án Nhật cường . Cựu chủ tịch UBND TP Hà Nội đã lợi dụng chức vụ quyền hạn
của mình để thực hiện hành vi vụ lợi . bằng cách Thông qua giới thiệu, ông Chung đã làm quen
với bị can Phạm Quang Dũng (cán bộ Cục Cảnh sát điều tra tội phạm về tham nhũng, kinh tế,
buôn lậu - Bộ Công an).
Ngày 16/6/2019, ông Chung đặt vấn đề và được Dũng đồng ý "thu thập, cung cấp thông tin, tài
liệu về tình hình, tiến độ và kết quả điều tra".
Ông Chung nhiều lần nhận tài liệu mật và tài liệu vụ án Nhật Cường
Kết quả điều tra xác định, từ tháng 7/2019 đến tháng 6/2020, bị can Dũng đã nhiều lần thu thập,
chiếm đoạt được nhiều tài liệu có liên quan đến vụ án "Công ty Nhật Cường". Trong đó, có 5
lần chiếm đoạt 9 tài liệu thuộc danh mục bí mật nhà nước độ "Mật". bị can Dũng hai lần dùng
điện thoại chụp trộm và photocopy 4 tài liệu ở cơ quan. Sau khi thu thập được tài liệu, bị can
Dũng đã nhiều lần cung cấp thông tin, tài liệu cho ông Chung thông qua ba phương thức: Sử
dụng ứng dụng phần mềm Viber trên điện thoại di động để trao đổi, cung cấp thông tin; chuyển
trực tiếp file ảnh chụp tài liệu qua Viber và thông qua người trung gian để cung cấp tài liệu bản
giấy.
Kết quả điều tra cũng xác định dịp Tết Nguyên đán 2019, bị can Nguyễn Đức Chung thông qua
lái xe Nguyễn Hoàng Trung đưa cho Phạm Quang Dũng phong bì có 10.000 USD tại đường
Giải Phóng.
Thứ hai, việc ứng dụng Chính phủ điện tử vẫn còn chung chung, nằm rải rác, chưa đồng bộ, dẫn
đến tình trạng nhiều lãnh đạo Chính phủ, bộ, ngành, địa phương không có đầy đủ thông tin về
dữ liệu số của đối tượng, đây cũng chính là một trong những nguyên nhân ảnh hưởng đến hiệu
quả phòng, chống tham nhũng.
Ví dụ, trong đại dịch covid 19, khi tình hình dịch bệnh tăng mạnh, cùng với đó là sự ra đời của
các app phòng chống covid 19, tuy nhiên không có sự đồng bộ, chia sẻ dữ liệu của các cơ quan
với nhau, vì thế dẫn đến tình trạng mỗi bộ phát hành một loại app riêng ví dụ ứng dụng N-
46
Tài liệu lưu hành nội bộ

COVID , Ứng dụng PC-Covid,. Hay trong việc sử dụng ứng dụng cấp thẻ xanh cho tài xế chạy
xe, bộ GTVT ra một app riêng, bộ Công An ra một app riêng. Qua đó cho thấy cơ sở dữ liệu
giữa các bộ không đồng bộ, thiếu sự chia sẻ dữ liệu giữa các bộ với nhau.
Thứ ba, việc chuyển đổi số, xây dựng chính phủ điện tử cần một nguồn ngân sách lớn, tuy nhiên
việc thiếu cơ chế , chính sách quản lý, giám sát trong quá trình xây dựng chính phủ điện tử tạo
lỗ hổng cho các đối tượng tham nhũng có cơ hội vụ lợi thông qua các hoạt động đầu tư, xây
dựng cơ hở hạ tầng viễn thông. Chỉ định thầu, đấu thầu mua sắm các trang thiết bị phục vụ cho
hoạt động chuyển đổi số.
Ví dụ ; Ông Nguyễn Đức Chung ( cựu chủ tịch ủy ban nhân dân thành phố Hà Nội) đã lợi dụng
chức vụ quyền hạn can thiệp trái phép vào hoạt động đấu thầu gói thầu số hóa doanh nghiệp do
sở kế hoạch và đầu tư Hà Nội làm chủ gói thầu để giúp liên doanh Nhật Cường – Đông Kinh
trúng thầu. Gây thiệt hại cho nhà nước hơn 26 tỉ đồng.
IV. Giải pháp nâng cao hoạt động chuyển đổi số, chính phủ điện tử đến công tác phòng
chống tham nhũng
Để toàn xã hội tham gia phòng, chống tham nhũng cần xây dựng cơ sở dữ liệu phòng, chống
tham nhũng theo công nghệ điện toán đám mây
Xây dựng phần mềm phòng, chống tham nhũng chạy trên kho ứng dụng Android, iOS… để mọi
người dân đều có thể tải phần mềm về điện thoại và tác nghiệp trực tuyến với cơ quan phòng,
chống tham nhũng. Người dân hoàn toàn có thể phản ánh, kiến nghị, tố cáo tham nhũng trực
tuyến mọi lúc, mọi nơi thông qua điện thoại thông minh của mình; cung cấp thông tin trực
tuyến về hành vi tham nhũng, về kê khai tài sản không trung thực, tài sản biến động tăng
khủng…. cho các cơ quan phòng, chống tham nhũng, các cơ quan kiểm soát tài sản thu nhập
nhanh chóng, kịp thời.
Các nỗ lực phòng ngừa được thực hiện thông qua việc đơn giản hóa các quy tắc, thủ tục và hệ
thống. Việc sử dụng máy tính như một phương tiện công nghệ thông tin và các giao dịch trực
tuyến có thể làm giảm nguy cơ tham nhũng, lạm quyền và tạo điều kiện việc tiêu chuẩn hóa các
dịch vụ công
Nâng cao năng lực: Các ứng dụng chính phủ điện tử đòi hỏi cơ sở hạ tầng viễn thông phải được
tăng cường, nguồn nhân lực, sự hợp tác và phối hợp giữa các thể chế vững chắc hơn và một nền
quản trị nhà nước tốt.
Đảm bảo sự hiện diện của các cơ quan giám sát của chính phủ là không thể thiếu để thực hiện
chính phủ điện tử một cách nhất quán. Chính phủ điện tử nhằm tạo ra sự cạnh tranh lành mạnh
nhằm cải thiện các dịch vụ công và giảm thiểu tham nhũng bằng cách thực hiện các hành động
quyết liệt để tiếp nhận, giải quyết, xử lý các khiếu nại của người dân đối với các dịch vụ kém và
các hành vi tham nhũng. Thông tin được đưa ra là một hình thức minh bạch hóa các quy định và
việc áp dụng các chính sách nhằm nâng cao trách nhiệm giải trình bằng cách nâng cao nhận

47
Tài liệu lưu hành nội bộ

thức cho các nhà hoạch định chính sách và đội ngũ công chức để tránh các hành động dẫn đến
tham nhũng.
Chủ đề: PHÂN TÍCH HOẠT ĐỘNG KÊ KHAI TÀI SẢN, THU NHẬP Ở
VIỆT NAM HIỆN NAY
I. Tổng quan về kê khai tài sản thu nhập.
Việc thực hiện kê khai tài sản, thu nhập là một vấn đề không chỉ có ở Việt Nam mà được thực
hiện ở nhiều quốc gia trên thế giới. Pháp luật của nhiều nước quy định công chức, nhất là công
chức giữ vai trò lãnh đạo, quản lý phải thực hiện việc kê khai tài sản, thu nhập. Thời điểm kê
khai tài sản, thu nhập ở mỗi nước khác nhau như: trước khi tuyển dụng, đề bạt, bầu cử; sau khi
tuyển dụng, đề bạt, bầu cử; kê khai hàng năm và công bố công khai kết quả kê khai cho người
dân biết. Ở Việt Nam, việc kê khai tài sản, thu nhập lần đầu tiên được luật hóa trong Pháp lệnh
chống tham nhũng năm 1998 do Ủy ban thường vụ Quốc hội khóa X ban hành. Điều 14 trong
Pháp lệnh quy định: “Người có chức vụ, quyền hạn phải kê khai nhà, đất và các loại tài sản
khác có giá trị lớn của mình. Người kê khai phải kê khai chính xác, trung thực và chịu trách
nhiệm trước pháp luật về nội dung kê khai”. Sau khi có Pháp lệnh, Chính phủ đã ban hành Nghị
định số 64/1998/NĐ-CP hướng dẫn thi hành Pháp lệnh, trong đó có nội dung về kê khai tài sản
(các văn bản ở thời điểm này chưa đề cập đến vấn đề kê khai thu nhập mà chỉ quy định kê khai
tài sản).
Nhìn chung, kê khai tài sản ở các văn bản pháp luật này còn đơn giản, chung chung, chưa đầy
đủ, nhiều hạn chế. Sau này Quốc hội, Chính phủ và các ngành chức năng đã xây dựng, bổ sung
nhiều văn bản pháp luật liên quan đến việc kê khai tài sản, thu nhập chẳng hạn như Luật Phòng
chống tham nhũng 2005 và mới nhất là Luật Phòng chống tham nhũng 2018, Nghị định
130/2020/NĐ-CP về kiểm soát tài sản thu nhập.
1 Một số văn bản pháp luật tham khảo về kê khai tài sản thu nhập
• Luật Phòng, chống Tham nhũng 2018;
• Văn bản hợp nhất số 11/VBHN-VPQH ngày ngày 15 tháng 7 năm 2020 do Quốc hội ban hành
về Luật phòng, chống tham nhũng;
• Nghị định 59/2019/NĐCP về việc hướng dẫn và biện pháp thi hành Luật PCTN 2018;
• Nghị định số 134/2021/NĐ-CP của Chính phủ: Sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số
59/2019/NĐ-CP ngày 01 tháng 7 năm 2019 của Chính phủ;
• Nghị định số 130/2020/NĐ-CP về kiểm soát tài sản, thu nhập của người có chức vụ, quyền
hạn trong cơ quan, tổ chức, đơn vị.
• Thông tư số 08/2013/TT-TTCP, ngày 31 tháng 10 năm 2013 của Thanh tra Chính phủ hướng
dẫn thi hành các quy định về minh bạch tài sản, thu nhập có 09 đối tượng phải kê khai;
2 Khái niệm về kê khai tài sản
48
Tài liệu lưu hành nội bộ

Khoản 2, 3, 4, 5 Điều 3 Nghị định số 130/2020/NĐ-CP quy định rõ:


Kê khai tài sản, thu nhập là việc ghi rõ ràng, đầy đủ, chính xác các loại tài sản, thu nhập, biến
động tài sản, thu nhập phải kê khai, nguồn gốc của tài sản, thu nhập tăng thêm theo Mẫu bản kê
khai tài sản, thu nhập ban hành kèm theo Nghị định số 130/2020/NĐ-CP.
Việc thực hiện kê khai tài sản, thu nhập là để cơ quan, tổ chức, đơn vị biết tài sản, thu nhập của
người có nghĩa vụ kê khai, nhằm để công khai, minh bạch tài sản, thu nhập của người đó, đồng
thời để phục vụ cho công tác cán bộ góp phần phòng ngừa và ngăn chặn hành vi tham nhũng,
tiêu cực. Người có nghĩa vụ kê khai tự kê khai các thông tin theo quy định và chịu trách nhiệm
về tính chính xác, trung thực, đầy đủ đối với nội dung kê khai.
II. NỘI DUNG VỀ KÊ KHAI TÀI SẢN THEO LUẬT PHÒNG, CHỐNG THAM
NHŨNG
1 Những quy định theo văn bản QPPL
Điều 33. Nghĩa vụ kê khai tài sản, thu nhập
1. Người có nghĩa vụ kê khai phải kê khai tài sản, thu nhập và biến động về tài sản, thu nhập
của mình, của vợ hoặc chồng, con chưa thành niên theo quy định của Luật này.
2. Người có nghĩa vụ kê khai phải kê khai trung thực về tài sản, thu nhập, giải trình trung thực
về nguồn gốc của tài sản, thu nhập tăng thêm theo trình tự, thủ tục quy định tại Luật này và chịu
trách nhiệm trước pháp luật về việc kê khai tài sản, thu nhập.
Điều 34. Người có nghĩa vụ kê khai tài sản, thu nhập
1. Cán bộ, công chức.
2. Sĩ quan Công an nhân dân; sĩ quan Quân đội nhân dân, quân nhân chuyên nghiệp.
3. Người giữ chức vụ từ Phó trưởng phòng và tương đương trở lên công tác tại đơn vị sự nghiệp
công lập, doanh nghiệp do Nhà nước nắm giữ 100% vốn điều lệ, người được cử làm đại diện
phần vốn nhà nước tại doanh nghiệp.
4. Người ứng cử đại biểu Quốc hội, người ứng cử đại biểu Hội đồng nhân dân.
Điều 35: Tài sản, thu nhập phải kê khai
1. Tài sản, thu nhập phải kê khai bao gồm:
a) Quyền sử dụng đất, nhà ở, công trình xây dựng và tài sản khác gắn liền với đất, nhà ở, công
trình xây dựng;
b) Kim khí quý, đá quý, tiền, giấy tờ có giá và động sản khác mà mỗi tài sản có giá trị từ
50.000.000 đồng trở lên;
c) Tài sản, tài khoản ở nước ngoài;

49
Tài liệu lưu hành nội bộ

d) Tổng thu nhập giữa 02 lần kê khai.


Điều 36. Phương thức và thời điểm kê khai tài sản, thu nhập
1. Kê khai lần đầu được thực hiện đối với những trường hợp sau đây:
a) Người đang giữ vị trí công tác quy định tại các khoản 1, 2 và 3 Điều 34 của Luật này tại thời
điểm Luật này có hiệu lực thi hành. Việc kê khai phải hoàn thành trước ngày 31 tháng 12 năm
2019;
b) Người lần đầu giữ vị trí công tác quy định tại các khoản 1, 2 và 3 Điều 34 của Luật này. Việc
kê khai phải hoàn thành chậm nhất là 10 ngày kể từ ngày được tiếp nhận, tuyển dụng, bố trí vào
vị trí công tác.
2. Kê khai bổ sung được thực hiện khi người có nghĩa vụ kê khai có biến động về tài sản, thu
nhập trong năm có giá trị từ 300.000.000 đồng trở lên. Việc kê khai phải hoàn thành trước ngày
31 tháng 12 của năm có biến động về tài sản, thu nhập, trừ trường hợp đã kê khai theo quy định
tại khoản 3 Điều này.
3. Kê khai hằng năm được thực hiện đối với những trường hợp sau đây:
a) Người giữ chức vụ từ Giám đốc sở và tương đương trở lên. Việc kê khai phải hoàn thành
trước ngày 31 tháng 12;
b) Trừ Người giữ chức vụ từ Giám đốc sở và tương đương trở lên làm công tác tổ chức cán bộ,
quản lý tài chính công, tài sản công, đầu tư công hoặc trực tiếp tiếp xúc và giải quyết công việc
của cơ quan, tổ chức, đơn vị, cá nhân khác theo quy định của Chính phủ. Việc kê khai phải
hoàn thành trước ngày 31 tháng 12. Được quy định tại Điều 10, Nghị định 130/2020/NĐ-CP
1. Các ngạch công chức và chức danh sau đây:
a) Chấp hành viên;
b) Điều tra viên;
c) Kế toán viên;
d) Kiểm lâm viên;
đ) Kiểm sát viên;
e) Kiểm soát viên ngân hàng;
g) Kiểm soát viên thị trường;
h) Kiểm toán viên;
i) Kiểm tra viên của Đảng;
k) Kiểm tra viên hải quan;

50
Tài liệu lưu hành nội bộ

l) Kiểm tra viên thuế;


m) Thanh tra viên;
n) Thẩm phán.
2. Những người giữ chức vụ lãnh đạo, quản lý từ Phó trưởng phòng và tương đương trở lên
công tác trong một số lĩnh vực được xác định trong danh mục tại Phụ lục III theo Nghị định
130/2020 là 105 người ví dụ như Thẩm định nhân sự để trình cấp có thẩm quyền bổ nhiệm, điều
động, luân chuyển, đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức; Tổ chức tuyển dụng, thi nâng ngạch
công chức, thăng hạng viên chức…..
3. Người đại diện phần vốn nhà nước tại doanh nghiệp.
4. Kê khai phục vụ công tác cán bộ được thực hiện đối với những trường hợp sau đây:
a) Người có nghĩa vụ kê khai quy định tại các khoản 1, 2 và 3 Điều 34 của Luật này khi dự kiến
bầu, phê chuẩn, bổ nhiệm, bổ nhiệm lại, cử giữ chức vụ khác. Việc kê khai phải hoàn thành
chậm nhất là 10 ngày trước ngày dự kiến bầu, phê chuẩn, bổ nhiệm, bổ nhiệm lại, cử giữ chức
vụ khác;
b) Người có nghĩa vụ kê khai quy định tại khoản 4 Điều 34 của Luật này. Thời điểm kê khai
được thực hiện theo quy định của pháp luật về bầu cử.
Điều 37. Tổ chức việc kê khai tài sản, thu nhập
1. Cơ quan, tổ chức, đơn vị quản lý, sử dụng người có nghĩa vụ kê khai tổ chức việc kê khai tài
sản, thu nhập như sau:
a) Lập danh sách người có nghĩa vụ kê khai và gửi cho Cơ quan kiểm soát tài sản, thu nhập có
thẩm quyền;
b) Hướng dẫn việc kê khai tài sản, thu nhập cho người có nghĩa vụ kê khai;
c) Lập sổ theo dõi kê khai, giao, nhận bản kê khai.
2. Người có nghĩa vụ kê khai có trách nhiệm kê khai theo mẫu và gửi bản kê khai cho cơ quan,
tổ chức, đơn vị quản lý, sử dụng người có nghĩa vụ kê khai.
Điều 38. Tiếp nhận, quản lý, bàn giao bản kê khai tài sản, thu nhập
1. Cơ quan, tổ chức, đơn vị quản lý, sử dụng người có nghĩa vụ kê khai có trách nhiệm tiếp
nhận, quản lý bản kê khai.
2. Trường hợp bản kê khai không đúng theo mẫu hoặc không đầy đủ về nội dung thì cơ quan, tổ
chức, đơn vị yêu cầu kê khai bổ sung hoặc kê khai lại. Thời hạn kê khai bổ sung hoặc kê khai
lại là 07 ngày kể từ ngày nhận được yêu cầu, trừ trường hợp có lý do chính đáng.

51
Tài liệu lưu hành nội bộ

3. Trong thời hạn 20 ngày kể từ ngày nhận được bản kê khai, cơ quan, tổ chức, đơn vị quản lý,
sử dụng người có nghĩa vụ kê khai rà soát, kiểm tra bản kê khai và bàn giao 01 bản kê khai cho
Cơ quan kiểm soát tài sản, thu nhập có thẩm quyền.
Điều 39. Công khai bản kê khai tài sản, thu nhập
1. Bản kê khai của người có nghĩa vụ kê khai phải được công khai tại cơ quan, tổ chức, đơn vị
nơi người đó thường xuyên làm việc.
2. Bản kê khai của người dự kiến được bổ nhiệm giữ chức vụ lãnh đạo, quản lý tại cơ quan, tổ
chức, đơn vị phải được công khai tại cuộc họp lấy phiếu tín nhiệm.
3. Bản kê khai của người ứng cử đại biểu Quốc hội, người ứng cử đại biểu Hội đồng nhân dân
phải được công khai theo quy định của pháp luật về bầu cử.
4. Bản kê khai của người dự kiến bầu, phê chuẩn tại Quốc hội, Hội đồng nhân dân phải được
công khai với đại biểu Quốc hội, đại biểu Hội đồng nhân dân trước khi bầu, phê chuẩn. Thời
điểm, hình thức công khai được thực hiện theo quy định của Ủy ban Thường vụ Quốc hội.
5. Bản kê khai của người dự kiến bầu giữ chức vụ lãnh đạo, quản lý tại doanh nghiệp do Nhà
nước nắm giữ 100% vốn điều lệ được công khai tại cuộc họp lấy phiếu tín nhiệm khi tiến hành
bổ nhiệm hoặc tại cuộc họp của Hội đồng thành viên khi tiến hành bầu các chức vụ lãnh đạo,
quản lý.
6. Chính phủ quy định chi tiết về thời điểm, hình thức và việc tổ chức công khai bản kê khai
quy định tại các khoản 1,2 và 5 Điều này.
Điều 40. Theo dõi biến động tài sản, thu nhập
Cơ quan kiểm soát tài sản, thu nhập theo dõi biến động về tài sản, thu nhập của người có nghĩa
vụ kê khai thông qua phân tích, đánh giá thông tin từ bản kê khai hoặc từ các nguồn thông tin
khác.
Trường hợp phát hiện tài sản, thu nhập có biến động từ 300.000.000 đồng trở lên so với tài sản,
thu nhập đã kê khai lần liền trước đó mà người có nghĩa vụ kê khai không kê khai thì Cơ quan
kiểm soát tài sản, thu nhập có quyền yêu cầu người đó cung cấp, bổ sung thông tin có liên quan;
trường hợp tài sản, thu nhập có biến động tăng thì phải giải trình về nguồn gốc của tài sản, thu
nhập tăng thêm.
2 Trình tự các bước kê khai tài sản, thu nhập
Bước 1: Lập danh sách người có nghĩa vụ kê khai và hướng dẫn việc kê khai
+ Cơ quan, tổ chức, đơn vị sử dụng người có nghĩa vụ kê khai tài sản, thu nhập (gọi tắt là người
có nghĩa vụ kê khai) lập danh sách người có nghĩa vụ kê khai được quy định tại Điều 34 Luật
Phòng chống tham nhũng 2018 (PCTN) và Điều 10 Nghị định 130/2020/NĐ-CP.

52
Tài liệu lưu hành nội bộ

+ Cơ quan, tổ chức gửi mẫu Bản kê khai tài sản, thu nhập theo mẫu quy định tại Nghị định
130/2020/NĐ-CP (sau đây gọi là Bản kê khai), hướng dẫn và yêu cầu người có nghĩa vụ kê khai
thực hiện việc kê khai tài sản, thu nhập
Bước 2: Thực hiện việc kê khai Người có nghĩa vụ kê khai có trách nhiệm kê khai theo mẫu (02
bản kê khai) và gửi về cơ quan, tổ chức nơi mình làm việc. Tài sản, thu nhập phải kê khai (quy
định tại Điều 35 Luật PCTN 2018) bao gồm:
*Trường hợp bản kê khai không đúng theo mẫu hoặc không đầy đủ về nội dung thì cơ quan, tổ
chức, đơn vị yêu cầu kê khai bổ sung hoặc kê khai lại. Thời hạn kê khai bổ sung hoặc kê khai
lại là 07 ngày kể từ ngày nhận được yêu cầu, trừ trường hợp có lý do chính đáng.
Bước 3: Tiếp nhận, quản lý, bàn giao bản kê khai.
Trong thời hạn 20 ngày kể từ ngày nhận được bản kê khai, cơ quan, tổ chức, đơn vị quản lý, sử
dụng người có nghĩa vụ kê khai rà soát, kiểm tra bản kê khai và bàn giao 01 bản kê khai cho Cơ
quan kiểm soát tài sản, thu nhập có thẩm quyền quy định tại Điều 30 Luật PCTN 2018.
Bước 4: Công khai bản kê khai
Căn cứ theo Điều 39, Luật Phòng chống tham nhũng 2018
III. Đánh giá mặt đạt được và hạn chế của hoạt động kê khai tài sản, thu nhập
1 Mặt đạt được
Thực hiện Luật Phòng, chống tham nhũng, Nghị định số 130/2020/NĐ-CP ngày 30/10/2020 của
Chính phủ về kiểm soát tài sản, thu nhập của người có chức vụ, quyền hạn trong cơ quan, tổ
chức, đơn vị, trong kỳ đã có 542.337 người thực hiện kê khai tài sản, thu nhập. Trên cơ sở Quy
chế phối hợp giữa các Cơ quan kiểm soát tài sản, thu nhập được ban hành tại Quyết định số 56-
QĐ/TW ngày 08/02/2022 của Bộ Chính trị, Thủ tướng Chính phủ đã phê duyệt định hướng xác
minh tài sản, thu nhập năm 2022( ). Thanh tra Chính phủ đã có hướng dẫn và các bộ, ngành, địa
phương đã khẩn trương triển khai việc xác minh tài sản, thu nhập theo kế hoạch hằng năm đối
với người có nghĩa vụ kê khai tài sản, thu nhập được lựa chọn ngẫu nhiên.
Đến nay có 7.662 người được xác minh tài sản, thu nhập; 4.934 số cơ quan, tổ chức, đơn vị đã
được kiểm tra việc thực hiện các quy định về kê khai, công khai bản kê khai tài sản, thu nhập.
Qua việc xác minh tài sản, thu nhập, có 74 người kê khai chưa đúng quy định, đã chấn chỉnh,
kiểm điểm, xử lý theo quy định. Quá trình kiểm tra, xác minh cũng đã phát hiện một số vi phạm
như tình trạng sai sót trong kê khai tài sản, thu nhập như sử dụng biểu mẫu chưa đúng quy định,
nhiều trường hợp người kê khai còn chủ quan, không nghiên cứu kỹ văn bản hướng dẫn, đồng
thời cơ quan quản lý cán bộ chưa sâu sát trong việc hướng dẫn, kiểm tra, rà soát dẫn đến kê khai
không đúng quy định.
Việc kê khai tài sản, thu nhập ở các cơ quan, tổ chức, đơn vị trên địa bàn cả nước đã được tiến
hành khá thường xuyên, đều đặn hàng năm; (tuy lúc đầu còn có) những hạn chế và lúng túng

53
Tài liệu lưu hành nội bộ

trong triển khai thực hiện, kê khai không đúng trình tự, thủ tục (Nhưng)đã được các cơ quan, tổ
chức, đơn vị bước đầu khắc phục; việc chấp hành về thời hạn kê khai, báo cáo kết quả kê khai
đã có những chuyển biến tích cực; việc kê khai tài sản, thu nhập, trả lương qua tài khoản đã
được triển khai rộng rãi, có tác động, tạo sự chuyển biến về ý thức, hành động của đội ngũ cán
bộ, công chức, viên chức; tính tự giác và trách nhiệm của các đối tượng trong diện phải kê khai
tài sản, thu nhập đã có dấu hiệu được nâng lên; việc kê khai tài sản, thu nhập đã có những tác
dụng ở góc độ giúp công tác quản lý cán bộ, công chức, viên chức chặt chẽ hơn… Thanh tra,
kiểm tra được tiến hành một cách thường xuyên nhằm phát hiện và xử lí nhiều vụ sai phạm (ví
dụ vụ án Nguyễn Hoàng Sa nguyên PGĐ sở y tế Cà Mau bị kỷ luật cảnh cáo, vụ án ông Nguyễn
Đức Chung nguyên Chủ tịch UBND TP Hà Nội kê khai không đúng sự thật hàng tỷ đồng bị
phạt tù), số lượng văn bản được ban hành chi tiết hơn nhằm hướng dẫn cụ thể về việc kê khai,
nhằm tránh sự lấp liếm, lách Luật
2 Mặt hạn chế
Bên cạnh những mặt đạt được thì việc kê khai tài sản, thu nhập vẫn chưa đạt mục đích và đáp
ứng sự kỳ vọng của nhân dân. Những cụm từ được nhắc đến nhiều là: “hình thức”, “đối phó”,
“kê nhưng không khai”, “Lãng phí và tốn kém”.v.v... đã phần nào phản ánh những bất cập, hạn
chế, yếu kém trong việc tổ chức kê khai tài sản, thu nhập trong thời gian qua. Cụ thể là:
- Việc tổ chức kê khai tài sản, thu nhập được tiến hành trong thời gian qua vẫn nặng về có kê
khai nhưng không công khai. Số cơ quan, đơn vị công khai các bản kê khai còn ít và chưa làm
theo đúng quy định. Do đó, cán bộ, công chức, viên chức cơ quan, đơn vị và nhân dân hầu như
không nắm được số liệu kê khai tài sản, thu nhập của các đối tượng có nghĩa vụ kê khai. Điều
này dẫn đến khó khăn trong việc so sánh, đánh giá đúng những tài sản mà người có nghĩa vụ kê
khai đang sở hữu. Do đó, việc kê khai đúng hay không, hợp lý hay không hợp lý khó định danh
được chính xác.
- Việc kê khai tài sản, thu nhập còn bỏ ngỏ khâu kiểm tra, xác minh, đánh giá, kết luận. Người
có nghĩa vụ kê khai đã “tự giác” kê khai theo bản mẫu quy định. Tuy nhiên, nội dung kê khai
hầu như không được bộ phận chức năng kiểm tra, xác minh, đánh giá và kết luận. Vì thế, người
có nghĩa vụ kê khai luôn tâm niệm “đến hẹn lại lên” với việc kê khai tài sản, thu nhập hàng
năm.
- Kê khai mang tính đại khái, không trung thực, thậm chí “phóng đại” nguồn tài sản, thu nhập.
- Người đứng đầu cơ quan, đơn vị, tổ chức không quan tâm triệt để đến việc kê khai tài sản, thu
nhập; thường chỉ triển khai khi có nhắc nhở, đôn đốc hoặc chỉ đạo theo kiểu “đến hẹn lại lên”.
Quá trình triển khai được giao cho bộ phận chức năng thực hiện (thường là bộ phận làm công
tác tổ chức trong cơ quan, đơn vị). Bộ phận phụ trách việc này hầu hết đều làm qua loa, không
hướng dẫn và cũng không thực hiện kiểm tra để kiểm soát nội dung khai. Sau khi tiếp nhận các
bản khai chỉ được rà soát dưới hình thức đếm số lượng người kê khai đủ hay thiếu, người kê
khai đã ký hay chưa ký, rồi đưa vào tủ hồ sơ lưu và báo cáo công việc đã hoàn thành. Người

54
Tài liệu lưu hành nội bộ

đứng đầu đơn vị cũng dựa trên báo cáo đó để phản ánh với cấp trên hoặc đánh giá trước hội
nghị cơ quan, đơn vị.
-Đối tượng có nghĩa vụ kê khai phải sử dụng 2 đến 3 bản giấy để kê khai trong mỗi lần kê khai
gây tốn kém, lãng phí (theo quy định hiện nay, đối tượng có nghĩa vụ kê khai lên đến hàng triệu
người). Không những thế, số lượng các trang trong bản kê khai quá nhiều gây khó khăn cho
việc niêm yết công khai.
- Do lỗ hỏng từ Pháp luật. Đây là vấn đề nan giải gây khó khăn nhất trong công tác PCTN. Ví
dụ như:
+ Theo quy định, ngoài việc kê khai tài sản thuộc quyền sở hữu cá nhân thì người có nghĩa vụ
kê khai tài sản phải kê khai tài sản, mọi biến động về tài sản thuộc sở hữu của vợ hoặc chồng và
con chưa thành niên. Theo đó, người có nghĩa vụ kê khai tài sản chuyển tài sản của mình cho
con đã thành niên (chưa kể chuyển cho các đối tượng khác), nhất là trong trường hợp người con
này không thuộc diện kê khai tài sản thì cũng không thể đánh giá, giám sát một cách chính xác
tài sản, thu nhập của người có nghĩa vụ kê khai. Mặt khác, trong các quy định của pháp luật mới
chỉ nhấn mạnh đến việc phải xác minh tài sản, thu nhập trong các trường hợp “có vấn đề” theo
quy định. Vì thế, các bản kê khai hầu như không có xác minh, đánh giá, kết luận.
+ Điều 35 Luật Phòng, chống tham nhũng năm 2018 quy định, người có nghĩa vụ kê khai phải
kê khai tổng thu nhập giữa 02 lần kê khai. Tuy nhiên, theo quy định về phương thức kê khai, có
thể có trường hợp cán bộ sau khi kê khai lần đầu thì nhiều năm sau, thậm chí là hàng chục năm
sau mới phát sinh việc kê khai tài sản lần thứ 2. Ví dụ điển hình, một người là công chức ngạch
chuyên viên sẽ phải kê khai lần đầu khi được bổ nhiệm vào ngạch, nhưng sau đó không thuộc
diện phải kê khai hàng năm, kê khai bổ sung sẽ không phải kê khai tài sản, thu nhập; nếu như
nhiều năm sau người đó được làm quy trình bổ nhiệm phó trưởng phòng thì sẽ phải kê khai tài
sản, thu nhập phục vụ công tác cán bộ và khi đó, việc kê khai tổng thu nhập giữa 2 lần kê khai
sẽ có một khoảng trống thời gian. Điều này không bảo đảm cho việc theo dõi chính xác thu
nhập của người có nghĩa vụ kê khai tài sản, thu nhập.
3 Nguyên nhân
+ Do ảnh hưởng của dịch bệnh covid-19 nên nhiều bộ, ngành, địa phương không tổ chức được
các hội nghị tập trung để quán triệt, hướng dẫn cụ thể và lưu ý về những điểm mới trong việc
thực hiện kê khai tài sản, thu nhập nên phần nào ảnh hưởng đến kết quả thực hiện.
+ Tổ chức tiến hành kê khai nhưng thiếu các biện pháp bảo đảm thực hiện hiệu quả việc kê
khai. Việc hoạch định chính sách trong một nền công vụ trông chờ vào sự tự giác của cán bộ,
công chức, viên chức mà chưa tính đến nền công vụ phải có kiểm soát mang tính cưỡng chế. Có
nghĩa là, đã thực hiện tổ chức kê khai thì bắt buộc phải thực hiện các biện pháp giám sát, kiểm
tra, xác minh và đưa ra kết luận về bản kê khai.
+ Nhiều người đứng đầu cơ quan, tổ chức, đơn vị chưa quan tâm đúng mức và chưa có trách
nhiệm đến cùng với việc kê khai tài sản, thu nhập ở cơ quan, tổ chức, đơn vị được giao phụ
55
Tài liệu lưu hành nội bộ

trách. Do đó, đơn vị chức năng tổ chức tiến hành việc kê khai một cách chiếu lệ, đối phó; những
người có nghĩa vụ phải kê khai không quan tâm nội dung phải kê khai như thế nào cho đúng,
cho trúng yêu cầu.
+ Ý thức chấp hành về kê khai tài sản, thu nhập trong một bộ phận cán bộ, công chức, viên
chức chưa cao, chủ yếu vẫn dựa trên tinh thần tự giác. Do nhiều lý do nên không ít người đã tìm
kẽ hở của pháp luật cũng như cách thức tổ chức việc kê khai tài sản, thu nhập để kê khai đối
phó hoặc không trung thực.
+ Công tác kiểm tra, thanh tra, giám sát tổ chức kê khai tài sản, thu nhập dù tăng nhưng còn bỏ
trống. Thực tế nhiều cơ quan, tổ chức, đơn vị có tiến hành tổ chức việc kê khai tài sản, thu nhập
nhưng không tổ chức bộ phận thanh tra, giám sát việc thực hiện. Bên cạnh đó, cấp trên cũng
không có sự kiểm tra, giám sát thường xuyên.
+ Công tác tuyên truyền, giáo dục, phổ biến, hướng dẫn các quy định pháp luật về vấn đề kê
khai tài sản, thu nhập còn bị xem nhẹ và chưa được quan tâm nhiều. Đặc biệt là bộ phận Công
chức cấp xã tại những vùng nông thôn chưa qua đào tạo
4 Giải pháp
1. Tiếp tục nghiên cứu, rà soát, hoàn thiện các quy định của pháp luật để khắc phục những hạn
chế, bất cập, tạo hành lang pháp lý trong triển khai, thực hiện kê khai và kiểm soát việc kê khai
tài sản. Chú trọng đánh giá, tổng kết toàn diện và cụ thể các chủ trương, giải pháp về minh bạch
tài sản, thu nhập đã được triển khai và thực tiễn thực hiện thời gian qua.
2. Tăng cường quán triệt, nâng cao nhận thức, trách nhiệm của cơ quan, tổ chức, cán bộ, đảng
viên, công chức, viên chức về mục đích, yêu cầu, ý nghĩa của việc kê khai và kiểm soát việc kê
khai tài sản để phát huy tính tự giác, trung thực và ý thức trách nhiệm của từng cán bộ, đảng
viên, công chức, viên chức trong việc kê khai, giám sát việc kê khai tài sản.
3. Kê khai phải triệt để, công khai. Không để tình trạng kê khai xong cất vào hộc tủ, ngăn kéo.
Vấn đề là chọn hình thức công khai hợp lý mà vẫn bảo đảm tính khách quan, hiệu quả (niêm yết
bản kê khai hoặc công bố trong cuộc họp). Muốn vậy, kê khai phải có kiểm tra, tổng hợp và xác
nhận. Việc đánh giá tính trung thực của bản kê khai phải được tiến hành qua xác minh thực tế.
Thực hiện tốt việc công khai sẽ góp phần yêu cầu người kê khai phải trung thực và nghiêm túc
hơn trong nội dung kê khai của mình.
4. Đẩy mạnh việc quán triệt, nâng cao nhận thức, trách nhiệm của người đứng đầu cơ quan, tổ
chức, đơn vị và của người dân về thực hiện quy định minh bạch tài sản, thu nhập. Cần có chế tài
ràng buộc trách nhiệm đối với người đứng đầu, nếu việc kê khai tài sản, thu nhập mang tính
hình thức, đối phó, người đứng đầu phải chịu kỷ luật. Các đối tượng thuộc diện kê khai cần tự
giác và có trách nhiệm hơn trong việc kê khai cũng như giám sát các đối tượng khác.
5. Việc kiểm tra, xác minh để kết luận bản kê khai trung thực hay không trung thực là việc cần
phải làm. Dù cho không phải năm nào cũng điều tra, xác minh với mọi đối tượng có trách

56
Tài liệu lưu hành nội bộ

nhiệm phải kê khai (vì không thể đủ nguồn lực và thời gian). Do đó, bên cạnh các trường hợp
cần xác minh theo quy định của pháp luật, cần tiến hành xác minh ngẫu nhiên một số trường
hợp. Việc này có tác dụng nhắc nhở mọi đối tượng phải có trách nhiệm kê khai đúng, đủ, trung
thực, hạn chế việc kê khai chiếu lệ, đối phó, gian dối.
Đẩy mạnh hoạt động thanh tra, kiểm tra, giám sát việc thực hiện quy định của Đảng, Nhà nước
để uốn nắn, xử lý kịp thời vi phạm quy định về kê khai, kiểm soát việc kê khai tài sản. Phát huy
vai trò giám sát của các tổ chức chính trị- xã hội, của cộng đồng cư dân trong việc kê khai và
kiểm soát việc kê khai tài sản.
6. Kiên quyết thực hiện việc xử lý tài sản, thu nhập được kê khai không trung thực khi bị phát
hiện. Theo quy định, người kê khai tài sản, thu nhập không trung thực, sau khi xác minh, điều
tra có kết luận thì sẽ bị xử lý kỷ luật theo các mức độ khác nhau. Tuy nhiên, số tài sản không
giải trình được cũng phải được xử lý một cách kiên quyết, nghiêm túc. Công ước của Liên hợp
quốc về chống tham nhũng mà Việt Nam đã tham gia ghi rõ: tài sản không giải trình được, bất
minh là phải tịch thu. Cần quy định và quyết tâm thực hiện việc tịch thu những tài sản thu nhập
bất minh.
7. Các cơ quan, tổ chức, đơn vị, nhất là các cơ quan kiểm soát tài sản, thu nhập cần tiếp tục
quán triệt, tuyên truyền, phổ biến các quy định của pháp luật về kiểm soát tài sản, thu nhập,
tăng cường các hoạt động tập huấn, hướng dẫn, tổ chức bồi dưỡng nghiệp vụ để tổ chức thực
hiện có hiệu quả. Cần tổ chức hội nghị trực tuyến toàn quốc để hướng dẫn, quán triệt trực tiếp
các quy định có liên quan và việc tổ chức thực hiện cho các cơ quan kiểm soát tài sản, thu nhập,
trên cơ sở tiếp thu các ý kiến, vấn đề còn chưa rõ hoặc có vướng mắc ở cơ sở để xây dựng, ban
hành văn bản hướng dẫn tạm thời giúp các cơ quan, tổ chức, đơn vị có thể sớm triển khai thực
hiện, bảo đảm thống nhất và đúng quy định.
Chủ đề: PHÂN TÍCH CÁC QUY ĐỊNH VỀ THU HỒI TÀI SẢN THAM
NHŨNG VÀ THỰC TRẠNG VỀ VẤN ĐỀ NÀY
I. Tổng quan về thu hồi tài sản tham nhũng.
1.1 Khái niệm:
- Tham nhũng:
Theo khoản 1 Điều 3 Luật Phòng, chống tham nhũng 2018: Tham nhũng là hành vi của người
có chức vụ, quyền hạn đã lợi dụng chức vụ, quyền hạn đó vì vụ lợi.
Trong đó:
- Người có chức vụ, quyền hạn là người do bổ nhiệm, do bầu cử, do tuyển dụng, do hợp đồng
hoặc do một hình thức khác, có hưởng lương hoặc không hưởng lương, được giao thực hiện
nhiệm vụ, công vụ nhất định và có quyền hạn nhất định trong khi thực hiện nhiệm vụ, công vụ
đó, bao gồm:

57
Tài liệu lưu hành nội bộ

+ Cán bộ, công chức, viên chức;


+ Sĩ quan, quân nhân chuyên nghiệp, công nhân, viên chức quốc phòng trong cơ quan, đơn vị
thuộc Quân đội nhân dân; sĩ quan, hạ sĩ quan nghiệp vụ, sĩ quan, hạ sĩ quan chuyên môn kỹ
thuật, công nhân công an trong cơ quan, đơn vị thuộc Công an nhân dân;
+ Người đại diện phần vốn nhà nước tại doanh nghiệp;
+ Người giữ chức danh, chức vụ quản lý trong doanh nghiệp, tổ chức;
+ Những người khác được giao thực hiện nhiệm vụ, công vụ và có quyền hạn trong khi thực
hiện nhiệm vụ, công vụ đó.
- Vụ lợi là việc người có chức vụ, quyền hạn đã lợi dụng chức vụ, quyền hạn nhằm đạt được lợi
ích vật chất hoặc lợi ích phi vật chất không chính đáng.
- Tài sản tham nhũng: Tài sản tham nhũng là tài sản có được từ tham nhũng, tài sản có nguồn
gốc từ tham nhũng. (Khoản 3 Điều 3 Luật Phòng chống tham nhũng 2018).
- Thu hồi tài sản tham nhũng: Thu hồi tài sản tham nhũng được hiểu là quá trình trong đó tài sản
có nguồn gốc từ hành vi tham nhũng được truy nguyên, thu hồi và trả lại cho chủ sở hữu hợp
pháp, người quản lý hợp pháp hoặc tịch thu theo quy định của pháp luật.
- Pháp luật về thu hồi tài sản tham nhũng:
Pháp luật về thu hồi tài sản tham nhũng là hệ thống các quy phạm pháp luật có mối liên hệ chặt
chẽ, thống nhất, do các cơ quan, tổ chức, người có thẩm quyền ban hành nhằm xác định và tịch
thu những tài sản do tham nhũng mà có để sung công quỹ hoặc trả lại cho chủ sở hữu, người
quản lý hợp pháp của tài sản theo một trình tự, thủ tục pháp lý nhất định, qua đó góp phần
phòng, chống tham nhũng, bảo vệ lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức,
cá nhân.
1.2 Đặc điểm của pháp luật về thu hồi tài sản tham nhũng.
- Chủ thể của các quan hệ pháp luật về THTSTN thường bao gồm nhiều cơ quan nhà nước khác
nhau, tương ứng với các bước cần thực hiện trong quá trình THTSTN: hoạt động thanh tra (cơ
quan thanh tra), hoạt động điều tra (cơ quan điều tra), truy tố (cơ quan điều tra, truy tố), hoạt
động xét xử (tòa án) và thi hành án (cơ quan thi hành án), cơ quan ngoại giao (thường là Bộ
Ngoại giao hoặc Bộ Tư pháp trong trường hợp THTSTN ở nước ngoài).
- Pháp luật về THTSTN chủ yếu hàm chứa trong Luật PCTN nhưng đồng thời cũng được hàm
chứa trong nhiều văn bản quy phạm pháp luật chuyên ngành khác nhau về hình sự, hành chính
và đối ngoại...
- Pháp luật về THTSTN có thể được quy định đồng thời trong nhiều ngành luật, trong đó quan
trọng nhất là hình sự, dân sự và hành chính.

58
Tài liệu lưu hành nội bộ

- Các quy phạm pháp luật về THTSTN điều chỉnh đồng thời các mối quan hệ giữa các cơ quan
nhà nước có thẩm quyền trong THTS (cơ quan điều tra, truy tố, xét xử và thi hành án) và các
quan hệ giữa nhà nước với công dân (khi trả lại tài sản tham nhũng cho công dân là chủ sở hữu
hợp pháp của tài sản). Nhà nước đóng vai trò là chủ thể duy nhất được chủ động thực hiện
quyền cưỡng chế nhà nước để tiến hành THTSTN.
- Trong bối cảnh hành vi tẩy rửa, tẩu tán TSTN ngày càng tinh vi, phức tạp và khó phát hiện,
pháp luật về THTSTN cần mang tính dự báo để đáp ứng kịp thời với sự phát triển mạnh mẽ của
công nghệ thông tin và các kỹ thuật chuyển tiền, tài sản xuyên biên giới ngày càng phát triển;
đặc biệt chú ý hoàn thiện cơ chế hợp tác quốc tế trong tương trợ tư pháp giữa các quốc gia để
kịp thời phát hiện và THTSTN.
1.3 Xử lý tài sản tham nhũng.
Theo Điều 93 Luật Phòng chống tham nhũng về Xử lý tài sản tham nhũng:
1. Tài sản tham nhũng phải được thu hồi, trả lại cho chủ sở hữu, người quản lý hợp pháp hoặc
tịch thu theo quy định của pháp luật.
2. Thiệt hại do hành vi tham nhũng gây ra phải được khắc phục; người có hành vi tham nhũng
gây thiệt hại phải bồi thường theo quy định của pháp luật.
Trong đó Theo Điều 45 Bộ Luật Hình sự 2017:
- Tịch thu tài sản là tước một phần hoặc toàn bộ tài sản thuộc sở hữu của người bị kết án để nộp
vào ngân sách nhà nước.
- Tịch thu tài sản chỉ được áp dụng đối với người bị kết án về tội phạm nghiêm trọng, tội phạm
rất nghiêm trọng hoặc tội phạm đặc biệt nghiêm trọng xâm phạm an ninh quốc gia, tội phạm về
ma túy, tham nhũng hoặc tội phạm khác do Bộ luật này quy định.
- Khi tịch thu toàn bộ tài sản vẫn để cho người bị kết án và gia đình họ có điều kiện sống.
Cụ thể:
Điều 47 Bộ luật Hình sự năm 2017 quy định về Tịch thu vật, tiền trực tiếp liên quan đến tội
phạm.
1. Việc tịch thu sung vào ngân sách nhà nước hoặc tịch thu tiêu hủy được áp dụng đối với:
a) Công cụ, phương tiện dùng vào việc phạm tội;
b) Vật hoặc tiền do phạm tội hoặc do mua bán, đổi chác những thứ ấy mà có; khoản thu lợi bất
chính từ việc phạm tội;
c) Vật thuộc loại Nhà nước cấm tàng trữ, cấm lưu hành.
2. Đối với vật, tiền bị người phạm tội chiếm đoạt hoặc sử dụng trái phép, thì không tịch thu mà
trả lại cho chủ sở hữu hoặc người quản lý hợp pháp.
59
Tài liệu lưu hành nội bộ

3. Vật, tiền là tài sản của người khác, nếu người này có lỗi trong việc để cho người phạm tội sử
dụng vào việc thực hiện tội phạm, thì có thể bị tịch thu.
Điều 48 Bộ luật Hình sự 2017 quy định về Trả lại tài sản, sửa chữa hoặc bồi thường thiệt hại;
buộc công khai xin lỗi.
1. Người phạm tội phải trả lại tài sản đã chiếm đoạt cho chủ sở hữu hoặc người quản lý hợp
pháp, phải sửa chữa hoặc bồi thường thiệt hại vật chất đã được xác định do hành vi phạm tội
gây ra.
2. Trong trường hợp phạm tội gây thiệt hại về tinh thần, Tòa án buộc người phạm tội phải bồi
thường về vật chất, công khai xin lỗi người bị hại.
1.4 Các phương thức thu hồi tài sản tham nhũng.
Thực tế, khi thực hiện thu hồi tài sản tham nhũng, Nhà nước tiến hành thu hồi tài sản thông qua
các phương thức cơ bản sau đây:
a) Thu hồi tài sản trên bản án hình sự:
Theo phương thức thu hồi tài sản trên bản án hình sự này, sau khi có phán quyết của Tòa án đối
với bị cáo phạm tội. Việc thu hồi tài sản do phạm tội mà có được thực hiện bằng việc ban hành
và thực hiện quyết định thu hồi tài sản.
b) Tịch thu không dựa trên bản án hình sự:
Tịch thu không dựa trên bản án hình sự sẽ không cần thông qua xét xử và bản án hình sự, mà
chỉ tiến hành quy trình tịch thu. Nhằm mục đích chính đó là để có thể nâng cao hiệu quả thu hồi
tài sản do phạm tội mà có, khắc phục những hạn chế của biện pháp thu hồi dựa trên truy tố hình
sự , một số quốc gia chọn biện pháp thu hồi tài sản do phạm tội mà có mà không cần dựa trên
bản án hình sự hay gọi là thu hồi dân sự.
c) Thu hồi tài sản thông qua phán quyết hành chính:
Thực tế, thu hồi tài sản thông qua quyết định hành chính sẽ không liên quan đến bất cứ quyết
định buộc tội, thủ tục tố tụng tại tòa án hoặc thậm chí quyết định tư pháp, mà Nhà nước đưa ra
một cơ chế phi tư pháp để thu hồi tài sản. Biện pháp thu hồi tài sản thông qua quyết định hành
chính này được tiến hành trên cơ sở thẩm quyền được trao cho các cơ quan nhà nước hoặc theo
các thủ tục được quy định trong các văn bản pháp luật và thường được sử dụng để giải quyết
các trường hợp thu hồi tài sản không mang tính chất tranh chấp.
Ví dụ: Luật thanh tra năm 2010 quy định người ra quyết định thanh tra có thẩm quyền:
“Quyết định thu hồi tiền, tài sản bị chiếm đoạt, sử dụng trái phép hoặc bị thất thoát do hành vi
vi phạm pháp luật của đối tượng thanh tra gây ra” (điểm k khoản 1 Điều 48 và điểm i khoản 1
Điều 55).
Đồng thời, khi kết luận thanh tra phải:
60
Tài liệu lưu hành nội bộ

“Xác định rõ tính chất, mức độ vi phạm, nguyên nhân, trách nhiệm của cơ quan, tổ chức, cá
nhân có hành vi vi phạm pháp luật; Biện pháp xử lý theo thẩm quyền và kiến nghị biện pháp xử
lý” (Khoản 2 Điều 50 Luật Thanh tra).
Luật Kiểm toán nhà nước đã quy định nhiệm vụ của Kiểm toán nhà nước khi phát hiện vi phạm
pháp luật thì cơ quan kiểm toán:
“Chuyển hồ sơ cho cơ quan điều tra, Viện kiểm sát nhân dân và cơ quan khác của Nhà nước có
thẩm quyền xem xét, xử lý những vụ việc có dấu hiệu của tội phạm, vi phạm pháp luật của cơ
quan, tổ chức, cá nhân đã được phát hiện thông qua hoạt động kiểm toán” (khoản 12 Điều 10).
d) Thu hồi tài sản thông qua kiện dân sự:
Theo phương thức thu hồi tài sản thông qua kiện dân sự này, cơ quan nhà nước tìm cách thu hồi
lại các tài sản do phạm tội mà có, tài sản tham nhũng có thể lựa chọn việc khởi kiện tại các tòa
án dân sự trong nước hoặc ở nước ngoài. Các cơ quan này có thể khởi kiện đòi bồi thường dựa
trên cơ sở hành vi sai trái, vi phạm hợp đồng, giàu lên bất chính, và những vấn đề khác. Kiện
dân sự này là một dạng hành vi dân sự giữa hai cá nhân tại các tòa án, nguyên đơn khởi kiện về
những thiệt hại bởi hành vi của bị đơn để yêu cầu được bồi thường tương xứng.
II PHÂN TÍCH CÁC QUY ĐỊNH VỀ THU HỒI TÀI SẢN THAM NHŨNG.
2.1 Nội dung các quy định về thu hồi tài sản tham nhũng
Cách tiếp cận phổ biến trên thế giới hiện nay liên quan đến nội dung của pháp luật về THTSTN
đó là chia pháp luật về THTSTN thành hai vấn đề lớn:
- Thứ nhất, những quy phạm pháp luật trực tiếp nhằm thu hồi tài sản tham nhũng sau khi tài sản
tham nhũng đã được hình thành. Theo đó, hiện pháp luật của nhiều quốc gia trên thế giới quy
định THTSTN thông qua một số biện pháp lý, trong đó phổ biến nhất và cũng là biện pháp
truyền thống, đó là THTSTN theo thủ tục hình sự. Đây là tổng hợp các quy định pháp luật điều
chỉnh hoạt động của các cơ quan, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền trong quá trình phát, điều tra,
truy tố, xét xử, thi hành án để THTSTN. Ngoài ra, các quốc gia còn quy định về THTSTN theo
thủ tục tố tụng dân sự, THTSTN không dựa trên kết án và THTSTN thông qua quyết định hành
chính.
- Thứ hai, đó là những quy phạm pháp luật nhằm kiểm soát, phát hiện tài sản tham nhũng. Nội
dung này chủ yếu bao gồm những quy định pháp luật nhằm giám sát, xác định nguồn hình thành
tài sản, thu nhập thông qua hệ thống công khai, kê khai tài sản, thu nhập (kiểm soát đầu vào) và
việc chi tiêu, tiêu dùng của cán bộ, công chức nói riêng và xã hội nói chung (kiểm soát đầu ra).
Đây là những quy phạm pháp luật mang tính bổ trợ, tạo điều kiện cho công tác thu hồi tài sản
tham nhũng.
Trong đề tài này chúng ta sẽ nghiên cứu chủ yếu là phần các quy định pháp luật trực tiếp về thu
hồi tài sản tham nhũng, trong đó bao gồm: các quy định pháp luật về THTSTN trong nước và
THTSTN có yếu tố nước ngoài.
61
Tài liệu lưu hành nội bộ

2.1.1 Các quy định pháp luật về THTSTN trong nước


a. Thu hồi tài sản tham nhũng theo thủ tục tố tụng hình sự.
Đây là biện pháp trong đó việc thu hồi chỉ được tiến hành sau khi có bản án kết tội đã có hiệu
lực pháp luật. Đây là cách thức truyền thống hiện được nhiều quốc gia áp dụng, chú trọng mục
đích trừng trị, giáo dục, cải tạo người có hành vi phạm tội, qua đó nâng cao ý thức chấp hành
pháp luật, phòng ngừa, hạn chế mầm mống tội phạm. Ngoài ra, trong các vụ án hình sự, với
việc sử dụng sức mạnh cưỡng chế của nhà nước (quyền khám xét, quyền yêu cầu cung cấp hồ
sơ, tài liệu có liên quan sau khi có sự đồng ý của tòa án hoặc cơ quan công tố,...) việc thu thập
chứng cứ phục vụ quá trình điều tra và xét xử sẽ thuận lợi hơn so với các vụ kiện dân sự. Đối
với những vụ tham nhũng có yếu tố nước ngoài, thông qua các hiệp định tương trợ tư pháp, các
quốc gia có thể yêu cầu quốc gia khác giúp đỡ để thu nhập chứng cứ hoặc dẫn độ tội phạm.
Những chủ thể là những người thực thi pháp luật sẽ phải thu thập chứng cứ, tìm kiếm và bảo vệ
tài sản, thực hiện truy tố đối với cá nhân hoặc pháp nhân và có được phán quyết của toà án. Sau
khi có phán quyết, toà án có thể ban hành lệnh tịch thu tài sản. Trong trường hợp tài sản do
phạm tội mà có đã được tẩu tán sang quốc gia khác, phương thức thu hồi tài sản sẽ dựa trên truy
tố hình sự sẽ được thực hiện thông qua cơ chế hợp tác quốc tế giữa các quốc gia. Mục đích của
việc truy tố và tịch thu hình sự thực chất đó chính là sự công nhận của xã hội về bản chất tội
phạm hình sự của tham nhũng và trách nhiệm của người vi phạm. Thêm vào đó, các hình thức
phạt tù, phạt tiền và tịch thu tài sản góp phần răn đe, ngăn ngừa các vi phạm tương tự sau này.
Tuy nhiên, biện pháp này cũng có những hạn chế nhất định, ví dụ như:
_ Khó đáp ứng các tiêu chuẩn về bằng chứng để buộc tội cũng như chi phí và nguồn lực cần
thiết phục vụ quá trình điều tra, truy tố, xét xử.
_ Năng lực điều tra và các nghiệp vụ chuyên môn khác hạn chế.
_ Không thể truy tố hình sự khi người phạm tội đã chết, bỏ trốn, được hưởng quyền miễn truy
cứu trách nhiệm hình sự, người có ảnh hướng chính trị hoặc được tuyên trắng án do không thể
cung cấp bằng chứng được tòa án chấp nhận.
_ Tài sản thuộc các bên thứ ba không thể được thu hồi bằng con đường hình sự ngay cả khi bị
cáo đã sử dụng chúng để phạm tội. Chỉ những tài sản bắt nguồn hoặc được sử dụng để phạm tội
mới có thể bị tịch thu.
b. Thu hồi tài sản tham nhũng theo thủ tục tố tụng dân sự.
Đây là biện pháp THTSTN mà trong đó nạn nhân của tham nhũng (có thể là thể nhân, pháp
nhân hoặc nhà nước), thông qua một vụ kiện dân sự tại tòa án (trong nước hoặc nước ngoài) để
xác lập quyền sở hữu đối với tài sản được cho là do tội phạm mà có (đòi lại tài sản) và/hoặc
kiện đòi bồi thường thiệt hại, đền bù. Trong khi bản chất của trách nhiệm hình sự là sự trừng
phạt hướng tới cá nhân người vi phạm pháp luật thì bản chất của trách nhiệm dân sự là tập trung
khắc phục thiệt hại hay hậu quả của hành vi phạm pháp, là biện pháp buộc người có hành vi vi
62
Tài liệu lưu hành nội bộ

phạm pháp luật phải bồi thường cho người bị tổn hại nếu có thiệt hại thực tế. Ưu điểm nổi trội
của biện pháp THTSTN theo thủ tục dân sự đó là việc giảm tải nghĩa vụ chứng minh cho các cơ
quan chức năng, nghĩa vụ chứng minh trong trường hợp này thuộc về đương sự.
Pháp luật tố tụng hình sự của các nước trên thế giới phần lớn quy định rằng, nếu bị can, bị cáo
chết thì cơ quan tiến hành tố tụng sẽ đình chỉ điều tra bị can đối với người chết, đình chỉ giải
quyết vụ án và lúc đó mọi vấn đề liên quan đến người chết đều khép lại. Trường hợp bị can, bị
cáo đã chạy trốn ra nước ngoài cũng dẫn đến hậu quả tương tự. Dựa vào chế định của pháp luật
dân sự về quyền khởi kiện vì lợi ích chung và việc thực hiện nghĩa vụ tài sản do người chết để
lại, cơ quan, tổ chức bị thiệt hại do hành vi tham nhũng có thể khởi kiện những người thừa kế di
sản của kẻ tham nhũng để buộc họ phải nộp lại TSTN trong giới hạn di sản của người đã chết để
lại. Theo đó, nguyên đơn sẽ được cơ quan tố tụng chỉ định là người nhân dân Nhà nước đứng ra
khởi kiện những người thừa kế di sản của người đã chết yêu cầu thu hồi hoặc bồi thường tài sản
mà người đã chết có được do tham nhũng. Trong vụ kiện, nguyên đơn có thể dựa vào kết luận
về hành vi tham nhũng và tài sản liên quan của cơ quan tố tụng làm căn cứ cho yêu cầu của
mình. Phía bị đơn, những người thừa kế của người đã chết phải chứng minh được nguồn gốc, tài
sản người chết để lại là hợp pháp, nếu không những tài sản đó đương nhiên bị tòa suy đoán là
tài sản bất minh và tuyên phải thu hồi.
Khác với thủ tục tố tụng hình sự với việc cá thể hóa trách nhiệm hình sự, THTSTN theo thủ tục
dân sự cho phép các chủ sở hữu tài sản ngay tình được khởi kiện các bên thứ ba để yêu cầu bồi
thường thiệt hại.
Ví dụ: Theo thỏa thuận ngầm, một ngân hàng đã tiếp tay cho tội phạm tham nhũng rửa tiền để
đổi lại lãi suất từ 1-3% của tài khoản đó được dùng để rửa tiền. Nếu xử lý theo thủ tục hình sự,
cơ quan tiến hành tố tụng chí có thể tịch thu được giá trị tài sản do phạm tội mà có là phần trăm
lãi suất đã được thỏa thuận, nhưng nếu xử lý theo thủ tục dân sự, một số quốc gia cho phép khởi
kiện ngân hàng để bồi thường cho toàn bộ thiệt hại do hành vi rửa tiền gây ra. THTSTN theo
thủ tục dân sự có thể được tiến hành trước, đồng thời với thủ tục hình sự hoặc sau khi các thủ
tục hình sự đã kết thúc. Nhiều quốc gia lựa chọn áp dụng đồng thời hai biện pháp thu hồi này.
Ưu điểm nổi bật của biện pháp THTSTN theo thủ tục dân sự đó là yêu cầu về tiêu chuẩn về
chứng cứ tại các phiên tòa dân sự thấp hơn so với tố tụng hình sự, qua đó tạo thuận lợi cho việc
THTSTN. Nói cách khác, biện pháp THTSTN theo thủ tục dân sự giúp khắc phục được một
trong những khó khăn lớn nhất trong các vụ án tham nhũng và THTSTN là việc phải chứng
minh tội phạm và nguồn gốc bất hợp pháp của tài sản được cho là do tham nhũng mà có. Trong
bối cảnh đa số các quốc gia trên thế giới hiện nay chưa quy định trách nhiệm hình sự của pháp
nhân thì việc khởi kiện dân sự là một phương án hiệu quả để THTSTN. Ngoài ra, ưu điểm của
biện pháp này còn thể hiện ở chỗ, việc khởi kiện dân sự có thể được mở rộng tới các bên thứ ba,
mà có thể là bất kỳ ai đã hỗ trợ cho bị đơn chính, các thành viên gia đình, cộng sự thân thiết,
các bên trung gian, các định chế tài chính, luật sư, kế toán,... và trong khởi kiện dân sự, các
quan chức hoặc cựu quan chức và tài sản của họ không được hưởng quyền miễn trừ.

63
Tài liệu lưu hành nội bộ

Hạn chế của khởi kiện dân sự để THTSTN là không thể tận dụng các công cụ điều tra hình sự
và các biện pháp mang tính cưỡng chế của quyền lực nhà nước. Hơn nữa, chỉ có thể yêu cầu
thực hiện nghĩa vụ bồi thường khi chứng minh được thiệt hại thực tế - điều mà phụ thuộc rất lớn
vào hiệu quả giám định tư pháp ở mỗi quốc gia.
c. Thu hồi tài sản tham nhũng không dựa trên kết án.
Đây là biện pháp mà trong đó các cơ quan chức năng tiến hành THTSTN của người bị tình nghi
phạm tội mà không cần phải có phiên tòa hình sự để đưa ra phán quyết buộc tội. Tùy theo hệ
thống pháp luật quốc gia, căn cứ để THTSTN có thể dựa trên dấu hiệu làm giàu bất chính hoặc
nguyên tắc không ai được hưởng lợi từ tài sản được lấy được một cách bất hợp pháp trong khi
người sở hữu tài sản không thể chứng minh được nguồn gốc của tài sản...Khi đó, nghĩa vụ
chứng minh nguồn sốc hợp pháp của tài sản thuộc về người đang giữ tài sản. Với biện pháp này,
cơ quan chức năng chỉ cần chứng minh rằng tài sản có liên quan đến một hành vi bất hợp pháp
dựa trên tiêu chuẩn bằng chứng “xác suất đáng tin” - một tiêu chuẩn thấp hơn so với tiêu chuẩn
của bằng chứng hình sự. Mặc dù đây là một biện pháp rất nhanh chóng và hiệu quả nhưng gây
tranh cãi lớn vì nếu không áp dụng thận trọng sẽ dẫn đến nguy cơ vi phạm một số quyền cơ bản
của con người như quyền được xét xử công bằng, quyền suy đoán vô tội, quyền bí mật đời tư.
d. Thu hồi tài sản tham nhũng thông qua các quyết định hành chính.
Biện pháp này thường được áp dụng trong các trường hợp THTSTN không có tranh chấp hoặc
đối với khoản tiền mặt không lớn.
VD: Luật Hành chính Đức (German Administrative Offence Act) quy định trừng phạt hành vi
hối lộ bằng việc ấn định các khoản tiền phạt lớn. Cụ thể, ngay cả khi chưa thể truy cứu trách
nhiệm hình sự của pháp nhân, các doanh nghiệp có thể phải chịu hình phạt lên tới 01 triệu Euro
do hành vi tham nhũng thực hiện bởi người đại diện hoặc nhân viên của họ. Việc thực thi hình
phạt tiền không loại trừ khả năng thu hồi những lợi ích kinh tế mà doanh nghiệp có được nhờ
hành vi hối lộ. Trong vụ của tập đoàn Siemens Telecom, tập đoàn này đã phải nộp khoản tiền
phạt lớn theo quy định của pháp luật hành chính do hành vi đưa hối lộ tại nhiều quốc gia để
giành được các hợp đồng với chính phủ.
2.1.2 Pháp luật về thu hồi tài sản tham nhũng ở nước ngoài.
Điều 91 Luật PCTN năm 2018 quy định:
Trên cơ sở điều ước quốc tế mà Việt Nam là thành viên, các cơ quan có thẩm quyền của Việt
Nam hợp tác với các cơ quan có thẩm quyền của nước ngoài trong kê biên tài sản, phong tỏa tài
khoản, tịch thu hoặc thu hồi tài sản tham nhũng và trả lại tài sản đó cho chủ sở hữu, người quản
lý hợp pháp.
Luật cũng giao cho Viện kiểm sát nhân dân tối cao là cơ quan trung ương về hợp tác quốc tế thu
hồi tài sản tham nhũng trong tố tụng hình sự; tiếp nhận, xử lý yêu cầu tương trợ tư pháp hình sự
của nước ngoài về thu hồi tài sản tham nhũng và đề nghị nước ngoài thực hiện yêu cầu tương

64
Tài liệu lưu hành nội bộ

trợ tư pháp hình sự về thu hồi tài sản tham nhũng của Việt Nam; còn Thanh tra Chính phủ, Bộ
Tư pháp, Bộ Ngoại giao và cơ quan nhà nước khác có liên quan, trong phạm vi nhiệm vụ,
quyền hạn của mình, có trách nhiệm phối hợp với Viện kiểm sát nhân dân tối cao trong hợp tác
quốc tế về thu hồi tài sản tham nhũng.
Luật Tương trợ tư pháp năm 2007: quy định về nguyên tắc, thẩm quyền, trình tự, thủ tục thực
hiện tương trợ tư pháp về dân sự, hình sự; và trách nhiệm của các cơ quan nhà nước Việt Nam
trong tương trợ tư pháp. Đây là căn cứ pháp lý để các cơ quan có thẩm quyền thực hiện các hoạt
động tương trợ tư pháp giữa Việt Nam với các nước, trong đó có các hoạt động liên quan đến
việc thu hồi tài sản tham nhũng ở nước ngoài.
Bên cạnh Luật PCTN, vấn đề thu hồi tài sản tham nhũng còn được quy định trong một số văn
bản pháp luật khác như:
- Bộ luât Hình sự (BLHS) năm 2015 đã được sửa đổi, bổ sung một số điều năm 2017 quy định
về thu hồi tài sản nói chung, thu hồi tài sản tham nhũng nói riêng, được thể hiện trong các quy
định về áp dụng hình phạt tiền, tịch thu tài sản và các biện pháp tư pháp đối với các tội phạm,
trong đó có tội phạm tham nhũng.
- Bộ luật Tố tụng hình sự (TTHS) năm 2015 không bao hàm quy định riêng về thu hồi tài sản
tham nhũng. Việc thu hồi tài sản tham nhũng có thể được thực hiện như đối với các trường hợp
thu hồi tài sản khác. Đối với bị can, bị cáo phạm các tội mà BLHS quy định có thể tịch thu tài
sản hoặc phạt tiền cũng như đối với người phải chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại theo quy
định của pháp luật thì Bộ luật TTHS quy định cho phép các cơ quan tiến hành tố tụng thực hiện
việc kê biên tài sản. Đây là những biện pháp nhằm bảo đảm cho việc thi hành các quyết định
của Tòa án về phạt tiền, tịch thu tài sản, buộc bồi thường thiệt hại trong các vụ án hình sự nói
chung (trong đó có các vụ án tham nhũng) được thuận lợi.
- Bộ luật Dân sự (BLDS) năm 2015 không bao hàm các quy định trực tiếp về thu hồi tài sản
tham nhũng. Tuy nhiên, Bộ luật này quy định về quyền của chủ sở hữu đối với tài sản; xác định
quyền của chủ sở hữu trong việc đòi lại các tài sản bị chiếm đoạt bất hợp pháp; đòi bồi thường
thiệt hại về tài sản do hành vi xâm phạm gây ra; nghĩa vụ hoàn trả tài sản do chiếm hữu, sử
dụng, được lợi về tài sản không có căn cứ pháp luật. Như vậy, trong các trường hợp tài sản bị
chiếm đoạt bất hợp pháp; bị thiệt hại do hành vi xâm phạm trái pháp luật gây ra (trong đó có
hành vi tham nhũng); bị chiếm hữu, sử dụng, được lợi không có căn cứ pháp luật (trong đó có
những tài sản có nguồn gốc từ tham nhũng), thì chủ sở hữu có quyền đề nghị cơ quan có thẩm
quyền áp dụng các quy định của BLDS để đòi lại các tài sản đó và đòi bồi thường thiệt hại về
tài sản do hành vi xâm phạm gây ra.
- Cũng như BLDS năm 2015, Bộ luật Tố tụng dân sự (TTDS) năm 2015 không bao hàm quy
định riêng về thu hồi tài sản tham nhũng, mà quy định về trình tự, thủ tục, thẩm quyền, trách
nhiệm của các cơ quan chức năng trong việc phát hiện, xử lý các tài sản trong các vụ án dân sự;
các biện pháp khẩn cấp tạm thời trong tố tụng dân sự…Những quy định này có thể được áp
dụng cho việc thu hồi tài sản (trong đó có tài sản tham nhũng) trong các vụ án dân sự.
65
Tài liệu lưu hành nội bộ

- Luật Thi hành án dân sự năm 2008 đã được sửa đổi, bổ sung một số điều năm 2014 cũng
không có quy định riêng cho việc thu hồi tài sản tham nhũng. Tuy nhiên, việc thu hồi tài sản
tham nhũng trong thi hành án dân sự có thể được thực hiện như các trường hợp thi hành án thu
hồi tiền, tài sản khác. Trong vấn đề này, Luật Thi hành án dân sự có các quy định liên quan đến
việc thi hành bản án, quyết định của Tòa án về dân sự, hình phạt tiền, tịch thu tài sản, truy thu
tiền, tài sản thu lợi bất chính, xử lý vật chứng, tài sản, án phí và quyết định dân sự trong bản án,
quyết định về vụ án hình sự.
- Luật Phòng, chống rửa tiền năm 2012 quy định về các biện pháp phòng ngừa, phát hiện, ngăn
chặn, xử lý tổ chức, cá nhân có hành vi hợp pháp hóa nguồn gốc của tài sản do phạm tội mà có
và hợp tác quốc tế về phòng, chống rửa tiền. Trong trường hợp các đối tượng tham nhũng có
hành vi hợp pháp hóa nguồn gốc, dịch chuyển các tài sản do phạm tội mà có thì có thể áp dụng
các quy định của Luật Phòng, chống rửa tiền để thu hồi tài sản đó.
- Luật Các tổ chức tín dụng năm 2010 đã được sửa đổi, bổ sung một số điều năm 2017 quy định
về trách nhiệm của các tổ chức tín dụng trong việc phòng, chống rửa tiền; hợp tác với các cơ
quan chức năng trong công tác điều tra về hoạt động rửa tiền. Đây là những quy định có tác
dụng phòng ngừa và phát hiện việc chuyển tài sản tham nhũng; giúp cho việc phát hiện, thu giữ
tài sản tham nhũng được thuận lợi.
- Luật Kiểm toán Nhà nước năm 2015 đã được sửa đổi, bổ sung một số điều năm 2019 quy định
mục đích kiểm toán là: Phục vụ việc kiểm tra, giám sát của Nhà nước trong quản lý, sử dụng
ngân sách, tiền và tài sản nhà nước; góp phần thực hành tiết kiệm, chống tham nhũng, thất
thoát, lãng phí, phát hiện và ngăn chặn hành vi vi phạm pháp luật; nâng cao hiệu quả sử dụng
ngân sách, tiền và tài sản nhà nước.
- Luật Thanh tra năm 2010 quy định về thẩm quyền của Trưởng đoàn thanh tra hành chính,
thanh tra chuyên ngành và người ra quyết định thanh tra hành chính, thanh tra chuyên ngành
trong việc yêu cầu tạm giữ tiền, đồ vật, phong tỏa tài khoản để phục vụ cho việc thanh tra cũng
như ngăn chặn hành vi tẩu tán tài sản của đối tượng thanh tra. Luật này cũng quy định thẩm
quyền của người ra quyết định thanh tra trong việc quyết định thu hồi tiền, tài sản bị chiếm
đoạt, sử dụng trái phép hoặc bị thất thoát do hành vi vi phạm pháp luật của đối tượng thanh tra
gây ra. Những quy định này cũng được áp dụng với tài sản tham nhũng.
III Thực trạng về các quy định thu hồi tài sản tham nhũng.
Trong các năm gần dây, những vụ án tham nhũng có tính chất phức tạp, nghiêm trọng, được
đông đảo dư luận xã hội quan tâm đã được phát hiện, điều tra, làm rõ, xử lý nghiêm minh theo
quy định pháp luật. Trên cơ sở nhận thức sâu sắc về tác hại của tham nhũng, Đảng và Nhà nước
đã thông qua nhiều văn kiện xác định rõ chủ trương, chính sách, giải pháp đấu tranh phòng,
chống tham nhũng đã được Đảng và Nhà nước ta quan tâm từ cách đây hơn 20 năm, tại Quyêt
định số 240/HÐBT ngày 26/6/1990 của Hội đồng Bộ trưởng về đầu tranh chống tham những và
Chi thị số 416/CT ngày 3/12/1990 của Chủ tịch Hội đồng Bộ trường về việc tăng cường công
tác thanh tra, điều tra, xử lý các việc tham nhũng và buôn lậu. Vấn để này sau đó tiệp tục được
66
Tài liệu lưu hành nội bộ

tái quy định trong Pháp lệnh chống tham nhũng 1998, Luật PCTN năm 2005 (và những lấn sửa
đổi, bổ sung sau đó vào năm 2010, 2012, 2018) và hiện tại là Luật PCTN 2020 tạo cơ sở pháp
lý nền tảng cho công tác đấu tranh phòng chống tham nhũng. Trên trường quốc tế, Việt Nam đã
đã tích cực tham gia các hợp tác quốc tế về đấu tranh chống tham nhũng, trong đó gồm “ Công
ước Liên hợp quốc về phòng chống tham nhũng”. Ngoài ra, các quy định về việc thu hồi tài sản
tham nhũng còn được quy định gián tiếp ở nhiều văn bản khác như: Bộ luật Dân sự, Luật Thanh
tra, Luật các tổ chức tín dụng, Luật phòng, chống rửa tiền, Luật Kiểm toán Nhà nước. Ở khía
cạnh pháp luật về tố tụng, Thu hồi tài sản tham nhũng được để cập gián tiếp trong Bộ luật Tố
tụng Hình sự, Luật Thi hành án dân sự và Luật Tương trợ tư pháp. Nhờ đó mang lại cho những
điểm sáng, tạo nền tảng cơ bản trong công tác phòng chống tham nhũng ở nước ta hiện nay.
Nếu trước năm 2013, tỷ lệ thu hồi tài sản tham nhũng trung bình chỉ đạt khoảng 10% trên tổng
số phải thu hồi, thì đến giai đoạn 2013-2020 kết quả bình quân đã đạt hơn 26%. Đặc biệt là năm
2019 và năm 2020, khi có sự chỉ đạo của đồng chí Tổng Bí thư, Chủ tịch nước, Trưởng Ban Chỉ
đạo Trung ương về PCTN, Ban Chỉ đạo đã thành lập 05 Đoàn kiểm tra tại nhiều địa phương,
bộ, ngành để kiểm tra, đánh giá đầy đủ, toàn diện kết quả thu hồi tài sản, từ đó chỉ ra những tồn
tại, hạn chế, khó khăn và chỉ đạo khắc phục, kết quả thu hồi tài sản trong các vụ án kinh tế,
tham nhũng do Ban Chỉ đạo Trung ương theo dõi, chỉ đạo năm 2020 thu hồi bằng 61% tổng số
đã thu hồi được trước đây. Tính cả giai đoạn 10 năm (2012-2022) đã thu hồi 61.000 tỷ đồng, đạt
34,7%, trong đó riêng trong các vụ án thuộc diện Ban Chỉ đạo Trung ương về phòng, chống
tham nhũng, tiêu cực theo dõi có gần 50.000 tỷ đồng được thu hồi, cũng chỉ đạt 41,3%.
Một số vụ việc điển hình đã thu hồi được số tiền lớn trong thời gian qua như:
+ Vụ án Ngân hàng Xây dựng Việt Nam (còn gọi là Đại án Phạm Công Danh) là vụ Phạm Công
Danh chủ tịch Hội đồng quản trị Ngân hàng thương mại cổ phần Xây dựng Việt Nam (VNCB),
chủ tịch tập đoàn Thiên Thanh, bị cáo buộc chỉ đạo cấp dưới rút tiền trái phép của Ngân hàng
Xây dựng dùng để trả nợ nhận chuyển nhượng VNCB, trả nợ thay cho tập đoàn Thiên Thanh và
trả tiền hoa hồng cho những người huy động vốn, dẫn đến mất khả năng thu hồi, gây thất thoát
9.000 tỷ đồng.
Ngày 24.1.2017, Tòa phúc thẩm không chấp nhận kháng cáo, giữ nguyên toàn bộ bản án sơ
thẩm ngày ngày 9 tháng 9 năm 2016 của TAND Thành phố Hồ Chí Minh. Theo đó, bị cáo
Phạm Công Danh lãnh án 20 năm tù về tội vi phạm quy định về cho vay trong hoạt động của
các tổ chức tín dụng; 18 năm tù cố ý làm trái quy định của Nhà nước về quản lý kinh tế gây hậu
quả nghiêm trọng. Tổng hợp hình phạt đối với bị cáo Danh là 30 năm tù.
Thi hành án: Số tiền phải thi hành án là gần 12.000 tỉ đồng. Tính đến nay, Cục thi hành án dân
sự Thành phố Hồ Chí Minh đã thu hồi được trên 5.405 tỷ đồng
+ Vụ Hứa Thị Phấn: Bà Phấn là người phải thi hành bản án 30 năm tù và bồi thường hơn 18.000
tỉ đồng liên quan đến lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản cùng các sai phạm xảy ra tại Ngân
hàng Đại Tín (TrustBank). Từ năm 2018 đến 2020, bà Phấn nhiều lần bị TAND TP Hà Nội,

67
Tài liệu lưu hành nội bộ

TAND TP HCM và TAND Cấp cao tại TP HCM đưa ra xét xử trong nhiều vụ án liên quan đến
sai phạm trong thời gian điều hành Trustbank.
Tại đại án Phạm Công Danh, bà Phấn bị xác định lợi dụng việc sở hữu lượng lớn cổ phần (gần
85%) Trustbank để thao túng mọi hoạt động nhà băng, chỉ đạo các thành viên HĐQT, nhân viên
là người dưới quyền hoặc trong gia đình thực hiện nhiều hành vi sai phạm chiếm đoạt và gây
thiệt hại hàng chục nghìn tỷ đồng cho nhà băng. Đến cuối năm ngoái (12/2022), cơ quan thi
hành án cho đến nay đã thu hồi được hơn 12.000 tỷ đồng.

+ Đáng chú ý, năm 2021, VKSND tối cao đã tham dự phiên điều trần trực tuyến của Tòa án
Singapore thực hiện yêu cầu tương trợ tư pháp về thu hồi tài sản trong vụ án Phan Sào Nam.
Là một trong những “ông trùm” cầm đầu đường dây đánh bạc ngàn tỷ Rikvip/Tip.Club, Phan
Sào Nam đã hưởng lợi được hơn 1.475 tỷ đồng. Đây cũng là số tiền mà Phan Sào Nam phải
phải nộp khắc phục theo bản án tòa tuyên.
Trong vụ án đường dây đánh bạc của Phan Sào Nam, Công an tỉnh Phú Thọ phát hiện đối tượng
này đã chuyển hàng triệu USD tiền đánh bạc sang Singapore, gửi tại Ngân hàng Bank of
Singapore số tiền 3,5 triệu USD. Để thu hồi số tiền phi pháp này, lực lượng chức năng tỉnh Phú
Thọ đã phải yêu cầu tương trợ tư pháp với Singapore.
Vụ án Phan Sào Nam đến nay là vụ đầu tiên việc thu hồi tài sản do phạm tội mà có thông qua
tương trợ tư pháp được thực hiện một cách toàn bộ và có kết quả. Và cũng phải mất 3 năm mới
thực hiện xong. Thế nhưng số tiền thu về mới chỉ đạt trên 6% tổng số cần thu hồi trong các vụ
án mà Việt Nam có đề nghị tương trợ tư pháp. Kết quả, đã thu hồi được hơn 2,6 triệu USD (gần
2.000 tỷ đồng). Điều đó đã cho thấy rõ những khó khăn trong công tác này
+ Đặc biệt, trong vụ án AVG, cơ quan chức năng đã thu hồi được 100% số tiền thất thoát (hơn
8.000 tỷ đồng).
Vụ án "vi phạm quy định về quản lý và sử dụng vốn đầu tư công gây hậu quả nghiêm trọng,
nhận hối lộ, đưa hối lộ" xảy ra tại Tổng công ty Viễn thông MobiFone và các đơn vị liên quan
được khởi tố vào tháng 7/2018. Sau 13 tháng điều tra, nhà chức trách xác định, ông Son là chủ
mưu, chỉ đạo quyết liệt nhân viên dưới quyền làm trái quy định pháp luật để MobiFone mua
bằng được 95% cổ phần của AVG, khiến Nhà nước thiệt hại gần 6.500 tỷ đồng.
Tòa tuyên phạt ông Nguyễn Bắc Son bản án Chung thân về tội Vi phạm các quy định về quản lý
và sử dụng vốn đầu tư công gây hậu quả nghiêm trọng và tội Nhận hối lộ. Từ vụ Tổng Công ty
Viễn thông MobiFone (MobiFone) mua 95% cổ phần của Công ty Cổ phần nghe nhìn Toàn Cầu
(AVG) cho thấy, một trong những bài học được rút ra, đây là vụ án điển hình về khắc phục hậu
quả, từ giai đoạn thanh tra, kiểm tra đã thu hồi hơn 8.000 tỷ đồng, số tiền đưa hối lộ và nhận hối
lộ đã được Nhà nước thu hồi.

68
Tài liệu lưu hành nội bộ

+ Mới đây nhất, liên quan đến Vụ Việt Á, Cơ quan Cảnh sát điều tra đã kịp thời phong tỏa,
ngăn chặn, kê biên thu hồi tài sản của các bị can, đối tượng có liên quan trên địa bàn TP.Hồ Chí
Minh, Hà Nội và các địa phương khác với số tiền hơn 1.600 tỉ đồng.
Liên quan đến vụ nâng khống giá kit xét nghiệm của Công ty Việt Á, tính đến thời điểm tháng
3/2022, cơ quan điều tra đã tiến hành phong toả, kê biên, thu hồi tài sản bị can và các đối tượng
liên quan vụ án với số tiền hơn 1.600 tỉ đồng.
==> Như vậy, mục đích cao nhất trong các vụ án kinh tế tham nhũng không chỉ là phạt tù các
đối tượng mà điều quan trọng nhất là thu hồi được tài sản bị chiếm đoạt, khắc phục hậu quả
thiệt hại về kinh tế. Cùng với việc chứng minh tội phạm, các cơ quan tiến hành tố tụng đã tích
cực chủ động áp dụng các biện pháp truy tìm, kê biên tài sản, phong tỏa tài khoản, hạn chế để
các đối tượng có liên quan tẩu tán, che giấu, hợp pháp hóa tài sản tham nhũng; khuyến khích
người phạm tội giao nộp tài sản để được hưởng chính sách khoan hồng của pháp luật.
+ Tại Hội nghị toàn quốc tổng kết 10 năm công tác đấu tranh phòng, chống tham nhũng, tiêu
cực diễn ra mới đây ngày 30/6/2022, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng khẳng định: Chưa bao giờ
công tác đấu tranh phòng, chống tham nhũng, tiêu cực lại được thực hiện một cách mạnh mẽ,
đồng bộ, quyết liệt, bài bản và hiệu quả như thời gian gần đây. Trong đó, công tác thu hồi tài
sản tham nhũng cũng có nhiều chuyển biến tích cực; việc kê biên, thu giữ tài sản trong nhiều vụ
án tham nhũng, kinh tế nghiêm trọng đạt khá cao; tỉ lệ thu hồi tài sản tham nhũng trong các vụ
án hình sự về tham nhũng, kinh tế tăng lên rõ rệt. Qua đó, để lại dấu ấn nổi bật, tạo sự đồng
thuận cao trong xã hội và củng cố, tăng cường niềm tin của cán bộ, đảng viên và nhân dân đối
với Đảng, Nhà nước.
Từ thực tiễn công tác thu hồi tài sản tham nhũng thời gian qua, có thể thấy sự quan tâm, quyết
tâm rất cao của Bộ Chính trị, Ban Bí thư, Ban Chỉ đạo Trung ương về PCTN mà trực tiếp,
thường xuyên là đồng chí Tổng Bí thư - Trưởng Ban Chỉ đạo đối với công tác này; sự nhất
quán, quyết liệt trong nhận thức và hành động từ Ban chỉ đạo phòng chống tham nhũng Trung
ương, Chính phủ, các bộ, ngành đến các địa phương, nhất là sự nỗ lực rất cao của các cơ quan,
đơn vị có chức năng phòng, chống tham nhũng và các cơ quan tiến hành tố tụng Trung ương và
địa phương… đã tạo ra bước chuyển lớn trong nhận thức về tầm quan trọng của nhiệm vụ thu
hồi tài sản ngày càng rõ. Từ chuyển biến về nhận thức đã tạo ra những cú huých quan trọng
trong hành động, đến kết quả như ngày hôm nay.
Những biện pháp quyết liệt được Đảng, Nhà nước thực hiện thời gian qua mặc dù đã tạo nên
những chuyển biến rõ rệt, đáng ghi nhận trong công tác thu hồi tài sản tham nhũng song cũng
cần phải thẳng thắn thừa nhận việc phát hiện, xử lý tham nhũng vẫn còn hạn chế; công tác thu
hồi tài sản bị chiếm đoạt, thất thoát trong các vụ án hình sự về tham nhũng, kinh tế vẫn còn
thấp, chưa mang tính bền vững, chưa đạt yêu cầu đề ra.
Nhìn lại con số cả giai đoạn 10 năm (2012-2022) mới chỉ thu hồi 61.000 tỷ đồng, đạt 34,7%,
như vậy còn khoảng hơn 120 nghìn tỷ đồng chưa được thu hồi; trong đó riêng trong các vụ án
thuộc diện Ban Chỉ đạo Trung ương về phòng, chống tham nhũng, tiêu cực theo dõi còn gần
69
Tài liệu lưu hành nội bộ

70.000 tỷ đồng cần được thu hồi. Đây cũng là một trong những thách thức, rào cản mà Việt
Nam cũng như nhiều nước trên thế giới đang phải đối mặt khi giải quyết vấn nạn tham nhũng.
Kết quả đạt được.
Công tác thu hồi tài sản bị chiếm đoạt, thất thoát trong các vụ án tham nhũng, kinh tế trong năm
2022 tiếp tục có những chuyển biến tích cực. Báo cáo của Ban chỉ đạo Trung ương về phòng,
chống tham nhũng, tiêu cực cho thấy, các cơ quan tố tụng đã tạm giữ, kê biên tài sản, phong tỏa
tài khoản, ngăn chặn giao dịch tài sản có giá trị trên 160.000 tỷ đồng và nhiều tài sản có giá trị
khác; các cơ quan thi hành án dân sự đã thu hồi được gần 16.000 tỷ đồng, tăng hơn 290% về
tiền so với năm 2021.
- Để phát hiện tài sản tham nhũng, kiểm soát tài sản và thu nhập của cán bộ, công chức ở Việt
Nam hiện nay chủ yếu được thực hiện thông qua các quy định về kiểm soát tài sản, thu nhập
của CBCC tại Luật Phòng, chống tham nhũng 2020, Chính phủ ban hành Nghị định số
130/2020/NĐ-CP về kiểm soát tài sản, thu nhập của người có chức vụ, quyền hạn trong cơ
quan, tổ chức, đơn vị. Các quy định về kê khai tài sản.
- Việc kiểm soát, phát hiện nguy cơ hình thành tài sản tham nhũng còn được thể hiện thông qua
các quy định về tặng quà và nhận quà tặng trong hoạt động công vụ tại Điều 22 Luật Phòng
chống tham nhũng, tại Điều2 4, 25, 27, 28 của Nghị định số 59/2019/NĐ-CP Quy định chi tiết
một số điều và biện pháp thi hành luật phòng, chống tham nhũng. Quy định cụ thể về việc tặng
quà, nhận quà; việc báo cáo, nộp lại và xử lý quà tặng; trách nhiệm thực hiện của cán bộ, công
chức, viên chức và thủ trưởng cơ quan, đơn vị; việc xử lý vi phạm của cơ quan, đơn vị, cá nhân
vi phạm.
+ Nhà nước đề ra các quy định về quản lý thuế thu nhập cá nhân. Thông qua khoản thuế thu
nhập cá nhân nộp vào ngân sách nhà nước, các cơ quan chức năng có thể xác định những giao
dịch hoặc chi tiêu vượt quá thu nhập hợp pháp, từ đó gián tiếp kiểm soát được tài sản, thu nhập
của công dân. Tại luật thuế thi nhập các nhân, nghị định số 65/2013/nđ-cp Quy định chi tiết
một số điều của luật thuế thu nhập cá nhân và luật sửa đổi, bổ sung một số điều của luật thuế
thu nhập cá nhân từ đó đã cụ thể hóa việc thực hiện Luật thuế TNCN thông qua các quy định
liên quan đến người nộp thế, các khoản thu nhập chịu thuế, giảm thuế, kỳ tính thuế....
+ Để đảm bảo tính minh bạch trong các giao dịch tài chính của công dân, qua đó gián tiếp kiểm
soát và phòng ngừa sự hình thành tài sản tham nhũng, tại Điều 29 Luật PCTN quy định về việc
thanh toán không dùng tiền mặt.
==> Những văn bản chỉ đạo (nói trên) thể hiện quyết tâm chính trị; quá trình hoàn thiện thể chế
pháp luật về thu hồi tài sản tham nhũng ở nước ta những năm qua.
Những hạn chế, bất cập.
Mặc dù đạt được những kết quả tích cực nêu trên, song công tác thu hồi tài sản bị chiếm đoạt,
thất thoát trong các vụ án hình sự về tham nhũng, kinh tế vẫn còn nhiều hạn chế, vướng mắc.

70
Tài liệu lưu hành nội bộ

Tỷ lệ thu hồi tài sản trong đa số các vụ án tham nhũng có tăng nhưng còn thấp so với số phải
thu hồi. Số tiền, tài sản bị thất thoát do tham nhũng rất lớn nhưng tài sản để đảm bảo thi hành án
thì nhỏ, chưa có các biện pháp, quy định cụ thể để truy tìm tài sản của người phải thi hành án bị
che giấu nguồn gốc. Các cơ quan tiến hành tố tụng vẫn chưa chú trọng áp dụng kịp thời các biện
pháp cưỡng chế, kê biên tài sản, phong tỏa tài khoản trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử, thi
hành án, thậm chí, trong một số vụ án, vụ việc vẫn còn để xảy ra tình trạng có đối tượng bỏ
trốn, tẩu tán tài sản ra nước ngoài. Hợp tác quốc tế trong thu hồi tài sản tham nhũng còn khó
khăn, vướng mắc, cụ thể như sau:
- Thứ nhất, Về việc sau khi khởi tố, đang trong giai đoạn điều tra thì người thực hiện hành vi
phạm tội về tham nhũng chết thì đến nay chưa có quy định về việc thu hồi tài sản của người
phạm tội nhưng chưa bị kết án bằng một bản án.
Theo quy định tại khoản 7, Điều 157 và Điều 248 Bộ luật Tố tụng hình sự thì người thực hiện
hành vi nguy hiểm cho xã hội đã chết thì các cơ quan tiến hành tố tụng phải ra Quyết định đình
chỉ điều tra vụ án, Quyết định đình chỉ điều tra bị can (nếu đã khởi tố) quá đó chấm dứt toàn bộ
hoạt động tố tụng đối với vụ án.
Tuy nhiên, trong một số vụ án tham nhũng, kinh tế sau khi khởi tố, điều tra, truy tố các cơ quan
tiến hành tố tụng chưa thu hồi được tài sản mà người thực hiện hành vi phạm tội chết thì việc
thu hồi tài sản sẽ thực hiện theo quy định nào?
Hiện tại ở Việt Nam mới có hình thức thu hồi tài sản tham nhũng, kinh tế từ bản án; không thể
thu hồi tài sản khi không có bản án của Tòa án.
- Thứ hai, liên quan đến vấn đề xác định nguồn gốc tài sản để thực hiện việc tịch thu, thu hồi
tiền, tài sản cho Nhà nước, hệ thống pháp luật hiện hành quy định nghĩa vụ chứng minh nguồn
gốc tiền, tài sản thuộc về cơ quan có thẩm quyền (cơ quan tiến hành tố tụng, cơ quan thanh tra).
Quy định này của hệ thống pháp luật dẫn đến thực tế là hầu hết các vụ án hình sự về tham
nhũng, kinh tế người phạm tội luôn tìm thủ đoạn chuyển các tài sản liên quan đến tội phạm
thành tài sản khó hoặc không thể xác định được nguồn gốc do phạm tội mà có và do đó, việc
thu hồi tiền, tài sản rất khó thực hiện được.
- Thứ ba, trường hợp qua hoạt động kiểm soát tài sản, thu nhập mà phát hiện tài sản, thu nhập
đó có dấu hiệu từ hành vi tham nhũng, Luật phòng, chống tham nhũng năm 2018 quy định cơ
quan có thẩm quyền sẽ chuyển vụ việc cho cơ quan chức năng hoặc và yêu cầu cơ quan chức
năng hoặc cá nhân có thẩm quyền áp dụng biện pháp cần thiết theo quy định của pháp luật
nhằm ngăn chặn việc tẩu tán, hủy hoại, chuyển dịch tài sản. Luật phòng, chống tham nhũng
năm 2018 chưa quy định các biện pháp ngăn chặn khi phát hiện tài sản có dấu hiệu tham nhũng
qua việc kiểm soát tiền, tài sản của người có chức vụ, quyền hạn trong cơ quan, tổ chức, đơn vị
và như vậy, cơ quan kiểm soát tài sản, thu nhập của cán bộ, công chức không có thẩm quyền áp
dụng biện pháp ngăn chặn cần thiết để ngăn ngừa việc tẩu tán, chuyển dịch hoặc hủy hoại tài
sản.

71
Tài liệu lưu hành nội bộ

- Thứ tư, thực tiễn các tội phạm tham nhũng, kinh tế thường do người có chức vụ, quyền hạn,
có trình độ học vấn và chuyên môn nhất định, am hiểu pháp luật, quản lý kinh tế, có khả năng
nhận biết những kẽ hở pháp luật, thậm chí có thể can thiệp để cố tình tạo nên những kẽ hở đó;
có điều kiện tạo dựng được nhiều mối quan hệ có khả năng che chắn, bảo vệ cho hành vi sai
phạm; có sự chuẩn bị chu đáo khi phạm tội, khi thực hiện xong sẽ chủ động xóa hết mọi dấu
vết, tiêu hủy giấy tờ, hóa đơn, sổ sách, tẩu tán tài sản do phạm tội mà có. Quá trình thực hiện tội
phạm thường là quy trình khép kín, diễn ra lâu năm, có liên quan đến nhiều người và có sự liên
kết, thống nhất về mặt lợi ích, có tổ chức chặt chẽ, dẫn đến việc tìm chứng cứ, chứng minh tội
phạm và xác minh các tài sản liên quan đến tội phạm gặp rất nhiều khó khăn. Mặt khác, với nền
kinh tế và thói quen sử dụng tiền mặt dẫn đến việc khó kiểm soát tài sản, thu nhập cũng như các
giao dịch tiền mặt, tạo điều kiện cho các tổ chức, cá nhân dễ dàng che giấu nguồn gốc bất minh
của tài sản và gây khó khăn cho các cơ quan có thẩm quyền trong việc lần theo dòng tiền,
chứng minh mối liên hệ giữa tài sản và hành vi vi phạm. Bên cạnh đó, việc giải quyết các vụ án
hình sự trong một số lĩnh vực đặc thù, nhất là trong lĩnh vực xây dựng cơ bản, tài chính - ngân
hàng, mua sắm công đòi hỏi rất nhiều kết quả giám định tài sản, cần những chuyên gia có trình
độ, năng lực mới giải quyết được vụ án. Tuy nhiên, quy trình, quy chuẩn giám định ở một số
lĩnh vực này hiện nay chưa đáp ứng được yêu cầu; còn nhiều vướng mắc, chậm trễ trong công
tác giám định.
- Thứ năm, đối với tài sản là các dự án bất động sản chưa hoàn thành về pháp lý, tài sản là cổ
phần, cổ phiếu... gây khó khăn rất nhiều cho hoạt động thu hồi tài sản. Đồng thời, có một số
trường hợp như tài sản ngay tình, khi chưa vi phạm nhưng khi đối tượng xảy ra hành vi vi phạm
rất khó cho cho các cơ quan chức năng có thể thu hồi được. Bên cạnh đó, công tác thu hồi tài
sản tham nhũng áp dụng các biện pháp kê biên, phong tỏa để ngăn chặn việc tẩu tán tài sản
trong các vụ án tham nhũng trong quá trình xử lý vụ án hình sự, các cơ quan tiến hành tố tụng
mới tập trung vào chứng minh hành vi phạm tội để bảo đảm không oan sai, không bỏ lọt tội
phạm nhưng chưa chú trọng, kịp thời áp dụng các biện pháp ngăn chặn việc tẩu tán tài sản.
- Thứ sáu, hiện nay nước ta chưa có quy định cụ thể về tiền ảo. Trong một số vụ án tham nhũng,
kinh tế, đối tượng thực hiện hành vi phạm tội thường không chuyển trực tiếp tiền ra nước ngoài
thông qua tài khoản ngân hàng vì rất dễ bị phát hiện, với sự bùng nổ công nghệ thông tin như
hiện nay các đối tượng thực hiện hành vi phạm tội tham nhũng, kinh tế có xu hướng sử dụng số
tiền chiếm đoạt được để mua tiền ảo (như đồng bitcoin …) rồi mới chuyển ra nước ngoài do vậy
rất khó để kiểm soát. Mặc khác do không có quy định cụ thể nên việc tạm giữ, thu giữ đồng tiền
ảo do các đối tượng thực hiện hành vi tham nhũng, kinh tế sử dụng số tiền chiếm đoạt được
mua đồng tiền ảo còn gặp rất nhiều khó khăn.
Nguyên nhân của những khó khăn, hạn chế của các quy định về thu hồi tài sản tham
nhũng.
Nguyên nhân khách quan.

72
Tài liệu lưu hành nội bộ

- Thứ nhất, tác động của mặt trái nền kinh tế thị trường và quá trình toàn cầu hóa, hội nhập quốc
tế.
+ Trong bối cảnh chuyến đối. Ở các quốc gia đang chuyến đối từ nến kinh tế tập trung, quan
liêu, bao cấp sang nền kinh tể vận hành theo quy luật thị trường như Việt Nam bên cạnh những
kết quả đạt được, mặt trái của nền kinh tế thị trường ngày càng bộc lộ rõ như: Ảnh hưởng tiêu
cực đến đạo đức, văn hóa, xã hội; phân hóa giàu nghèo; cạnh tranh không lành mạnh; ô nhiễm
môi trường và phát sinh tội phạm, tệ nạn xã hội... trong đó có vấn nạn tham ô, tham nhũng. Các
quy luật kinh tế, cạnh tranh, đặc biệt là quy luật giá trị không chỉ tác động đến kinh tế mà còn
tác động đến tư tưởng, tình cảm, kích thích sự quan tâm của con người đến lợi ích vật chất. Do
đó, một số người quá đề cao các yếu tố vật chất đã hình thành, phát triển lối sống thực dụng, bỏ
qua những giá trị, chuẩn mực đạo đức, nhân cách con người, văn hóa xã hội. Một số người vì
những mục tiêu cá nhân, để làm giàu, kiếm tiền đã dùng mọi thủ đoạn, trong đó có tham ô, hối
lộ, lợi dụng, lạm dụng chức vụ, quyền hạn được giao để chiếm đoạt tài sản của Nhà nước.
+ Đặc biệt, trong giai đoạn hiện nay, dưới sự tác động của quá trình toàn cầu hóa và hội nhập
quốc tế, sự phát triển nhanh chóng của khoa học, công nghệ đã tạo ra môi trường, điều kiện
thuận lợi để các đối tượng lợi dụng thực hiện hành vi tham nhũng, che dấu, chuyển hóa, tẩu tán
tài sản tham nhũng như: Lợi dụng cơ chế, chính sách ứng dụng khoa học, công nghệ, thu hút
đầu tư; chuyển tài sản ra nước ngoài, mua tiền kỹ thuật số, tiền điện tử; mua quốc tịch nước
ngoài... gây khó khăn cho công tác điều tra, phát hiện, thu thập, thu hồi các tài sản trong các vụ
án tham nhũng.
+ Có rất nhiều yếu tố tạo điều kiện cho tham nhũng nảy sinh và cản trở những nỗ lực kiểm soát
tham nhũng bằng pháp luật. Trong bồi cảnh thiếu vắng các thiết chế để giám sát việc lạm dụng
quyến lực trong quá trình chuyển đổi, việc lạm dụng những kẽ hở của chính sách tư hữu hoá
trong quá trình cổ phần hoá để trục lợi, thậm chí biến doanh nghiệp nhà nước thành công ty gia
đình ... đã tạo điêu kiện cho một nhóm người, trong đó có các CBCC trở nên giàu có và quay
lưng lại với lợi ích cộng đông.
- Thứ hai, Hệ thống pháp luật về thu hồi tài sản tham nhũng đã được Quốc hội, Chính phủ và
các Bộ, ngành quan tâm đầu tư, hoàn thiện về cơ bản, nhưng một số quy định vẫn thiếu đồng bộ
và nhất quán, quy định của pháp luật Việt Nam về thu hồi tài sản tham nhũng chưa hoàn thiện,
chưa phù hợp với pháp luật quốc, còn mang tính nguyên tắc, thiếu các quy định chi tiết, cụ thể
về thẩm quyền, trách nhiệm, trình tự, thủ tục thu hồi tài sản tham nhũng như: quy định về xử lý
tài sản và đất nông nghiệp hết hạn sử dụng khi cơ quan THADS xử lý tài sản; quy định về xử lý
tài sản kê biên là cổ phần, cổ phiếu, tài sản hình thành trong tương lai, tài sản là các dự án bất
động sản chưa hoàn thành về mặt pháp lý...đây là nguyên nhân chủ yếu dẫn đến công tác thi
hành án bị chậm tiến độ vì phải xin ý kiến của rất nhiều các bộ, ngành để thống nhất hướng xử
lý.
- Thứ ba, Từ tháng 7 năm 2021 đến nay, dịch bệnh Covid 19 diễn biến phức tạp, đặc biệt là 3
địa bàn có số việc, tiền phải thu hồi chủ yếu là Thành phố Hồ Chí Minh, Đà Nẵng, Hà Nội có

73
Tài liệu lưu hành nội bộ

thời gian giãn cách xã hội dài dẫn đến nhiều thủ tục thi hành án như xác minh, đo vẽ hiện trạng,
thẩm định giá, bán đấu giá, giao tài sản đấu giá thành, bàn giao tài sản sung công... bị chậm tiến
độ so với dự kiến do phải thực hiện các quy định về phòng, chống dịch bệnh, giãn cách xã hội ở
địa phương.
- Thứ tư, Một số bản án Tòa án tuyên với số tiền thu hồi đặc biệt lớn, nhưng tài sản để đảm bảo
thi hành án rất ít. Tình trạng pháp lý của nhiều tài sản kê biên không rõ ràng, phức tạp về pháp
lý; có sự chênh lệch giữa biên bản kê biên và khối lượng thực tế; một số trường hợp Tòa án
chậm chuyển giao hoặc chuyển giao thiếu tài liệu, hồ sơ pháp lý của tài sản kê biên; chậm giải
thích, đính chính bản án theo đề nghị của cơ quan THADS... Đây là những nguyên nhân quan
trọng làm cho kết quả thu hồi còn thấp trên tổng số vụ việc có điều kiện thi hành, đồng thời làm
chậm tiến độ thu hồi tài sản.
- Thứ năm, Khối lượng việc và tiền phải thi hành án nói chung và vụ việc về tham nhũng, kinh
tế nói riêng ngày càng tăng tạo áp lực rất lớn cho hoạt động THADS trong khi biên chế của toàn
hệ thống THADS bị cắt giảm theo chủ trương chung của đảng và nhà nước.
- Thứ sáu, hợp tác quốc tế trong thu hồi tài sản tham nhũng bị tẩu tán ra nước ngoài còn khó
khăn, vướng mắc. Việc thu hồi tài sản tham nhũng ở nước ngoài gặp nhiều khó khăn do sự khác
biệt về chế độ chính trị, pháp luật và cơ chế phân công trách nhiệm phòng, chống tội phạm ở
mỗi nước.
+ Cơ sở pháp lý cho việc hợp tác quốc tế cũng chưa đầy đủ, một số quy định chỉ mang tính
nguyên tắc, thiếu các điều khoản cụ thể điều chỉnh hoạt động tương trợ tư pháp. Việt Nam đã ký
19 hiệp định song phương về tương trợ tư pháp hình sự, 1 hiệp định khu vực ASEAN và là
thành viên của Công ước Liên hợp quốc về chống tham nhũng (UNCAC), nhưng việc hoàn
thiện cơ sở pháp lý để thực hiện nhiệm vụ này chưa đáp ứng yêu cầu đặt ra. Luật Tương trợ tư
pháp của Việt Nam thiếu quy định chi tiết về thẩm quyền, trình tự, thủ tục phối hợp yêu cầu của
cơ quan có thẩm quyền nước ngoài thực hiện tương trợ tư pháp thu hồi tài sản trong tố tụng
hình sự, nhất là quy định liên quan đến phong tỏa, kê biên, thu giữ, tịch thu tài sản và xử lý tài
sản do phạm tội mà có.
- Thứ bảy, Người phạm tội tham nhũng có sự chuẩn bị kỹ, đối phó ngay từ khi thực hiện các
hành vi phạm tội; chủ động xóa dấu vết, tiêu hủy giấy tờ, chứng từ, che giấu, tẩu tán tài sản (kể
cả tẩu tán ra nước ngoài), bất hợp tác với cơ quan THADS. Sau khi xử lý hết tài sản kê biên, do
đa số người phải thi hành án phải chấp hành hình phạt tù dài hạn nên không có thu nhập để thi
hành án.
Nguyên nhân chủ quan
- Thứ nhất, quyết tâm chính trị chưa thực sự mạnh mẽ. Đội với vấn đề phức tạp như THTSTN,
quyết tâm chính trị là yếu tố có ý nghĩa quyết định. Quyết tâm đó phải mạnh mẽ để có thể vượt
qua những cám dỗ lớn của các nhóm lợi ích trong xã hội.

74
Tài liệu lưu hành nội bộ

+ Thực tế cho thấy trong một thời gian dài, quyết tâm chính trị trong THTSTN ở Việt Nam
chưa thực sự mạnh mẽ, thể hiện là thiếu những chủ trương, chính sách cụ thể về vấn đề này.
+ Tuy nhiên, trong thời gian gần đây, quyết tâm chính trị trong Phòng chống tham nhũng nói
chung, THTSTN nói riêng ở Việt Nam đã được tăng cường đáng kể, thể hiện qua một loạt chủ
trương, đường lối mới của Đảng, ví dụ như Quyêt định số 99-QĐ/TW của Ban Bi thư ngày
03/10/2017 về “ Hướng dẫn khung đễ các cấp uỷ, tổ chức đang trực thuộc Trung ương tiệp tục
phát huy vai trò của nhân dân trong đấu tranh ngăn chặn, đẩy lùi sự suy thoái, "tự diễn biến" "tự
chuyển hoá" trong nội bộ đưa ra quy định mang tính đột phá: bản kê khai tài sản, thu nhập của
cán bộ lãnh đạo, quản lý và người phải kê khai theo quy định cần được công khai trên các
phương tiện truyền thông đại chúng; cổng thông tin điện tử.
- Thứ hai, các lực lượng có chức năng đấu tranh chống tham nhũng chưa thực sự quyết liệt
trong việc thu hồi tài sản tham nhũng, chưa làm hết trách nhiệm, còn nể nang, né tránh, ngại va
chạm
+ Các cơ quan có chức năng phòng, chống tham nhũng thường tập trung vào việc chứng minh
hành vi vi phạm nhưng lại chưa quan tâm đến việc kê biên tài sản, phong tỏa tài khoản. Không
ít trường hợp, tài sản đã bị tẩu tán trước khi bản án có hiệu lực pháp luật. Khi nhận được bản án
thì cơ quan thi hành án không thể thực hiện được vì không còn tài sản để thi hành án.
+ Nhiều vụ tham nhũng, cơ quan điều tra chưa thực hiện hết yêu cầu của Viện Kiểm sát khi trả
hồ sơ. Viện Kiểm sát phải trả yêu cầu điều tra bổ sung nhiều lần làm cho vụ án kéo dài. Việc
thực hiện giám định trong lĩnh vực tài chính, ngân hàng, xây dựng... thường rất chậm, kéo dài,
không đáp ứng yêu cầu về thời gian theo yêu cầu của các cơ quan tiến hành tố tụng, nên ảnh
hưởng đến tiến độ giải quyết vụ án. Vấn đề minh bạch và kiểm soát tài sản, thu nhập của xã hội
nói chung và của những người có chức vụ, quyền hạn nói riêng còn nhiều bất cập và hạn chế, vì
tài sản rất dễ rơi vào trạng thái không rạch ròi, của chồng cho vợ, bố cho con, anh cho em... dẫn
đến tài sản ngoài thống kê và kiểm soát của cơ quan chức năng rất lớn. Việc xử lý tội phạm
tham nhũng chưa đúng mức và kiên quyết, còn nhiều vụ cho hưởng án treo... Dẫn đến việc đấu
tranh chống tham nhũng và thu hồi tài sản tham nhũng thông qua công tác chống rửa tiền còn
diễn ra rất nhiều.
- Thứ ba, người đứng đầu cơ quan, tổ chức, đơn vị chưa nhận thức thật đầy đủ và sâu sắc tính
chất nghiêm trọng của tình hình tham nhũng ở địa phương, cơ quan, đơn vị, lĩnh vực mình quản
lý; chưa thực sự gương mẫu, quyết liệt, nói chưa đi đôi với làm; thiếu bản lĩnh, dĩ hòa vi quý, nể
nang, né tránh, thậm chí còn bao che cho người vi phạm. Một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng
viên, công chức, viên chức, trong đó có cả cán bộ lãnh đạo, quản lý, cán bộ cấp cao, thiếu tu
dưỡng, rèn luyện, sa vào chủ nghĩa cá nhân, thậm chí suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức,
lối sống.
- Thứ tư, nhận thức không đầy đủ về tầm quan trọng của vấn đề thu hồi tài sản tham nhũng, dẫn
đến sự thiếu vắng một khuôn khổ pháp lý toàn diện và hiệu quả cho vấn để này. Nhà nước ta
nhận thức khá muộn về những tác động tiêu cực về mặt kinh tế của tham nhũng và đặc biệt là
75
Tài liệu lưu hành nội bộ

tác dụng của biện pháp THTSTN trong phòng chống tham nhũng. Từ thực tiễn có thể thấy, lĩnh
vực hoạt động của các tội phạm về tham nhũng thường là những lĩnh vực, ngành kinh tế trọng
điêm của đât nước (quản lý sử dụng đất đai, bối thường giải phóng mặt bằng, khai tác khoáng
sản, giao thông, tài chính, ngân hàng, thương mại, tài chính công...), vì vậy những thiệt hại về
kinh tế gây ra thường rất nặng nề và nghiêm trọng. Tuy nhiên ở VN từng phổ biến quan điểm
cho rằng, tham nhũng là hiện tượng tất yếu của các quốc gia đang chuyển đổi và tệ nạn này sẽ
tự mất đi khi đất nước có nền chính trị ổn định và kinh tế phát triển. Từ nhận thức này đã cản
trở việc áp dụng các biện pháp pháp lý về THTSTN.
- Thứ năm, do tâm lý truyền thống.
+ Cũng như nhiều quốc gia phương Đông khác, ở Việt Nam, trong suy nghĩ của người dân, tài
sản, thu nhập vốn được coi là vấn để riêng tư, tế nhị nên ngay cả khi chi giữa những người dân
với nhau cũng vẫn có tâm lý e ngại khi đề cập đến. Ở khía cạnh rộng hơn, người dân ít nghĩ đến
hoặc thường có tâm lý không tự tin khi muốn tìm hiêu thông tin hoặc yêu cầu CBCC phải giải
trình về TSTN của họ. Những yếu tổ này gây trở ngại tới việc tố giác tài sản than nhũng từ
người dân.
+ Ngoài ra, mối quan hệ gia đình truyền thống ở Việt Nam vẫn còn khá bền chặt. Nhiều gia
đình ở Việt Nam hiện vẫn còn có sự gắn kết khăng khít giữa nhiều thể hệ, dẫn đển quan hệ sở
hữu chung về tài sản khá phổ biến. Việc này dẫn đến tài sản dễ rơi vào trạng thái không rạch
ròi, của chồng cho vợ, bố mẹ cho con, tài sản ngoài thống kê và kiếm soát của cơ quan chức
năng là rất lớn. Trong bổi cảnh đó, Cộng thêm với việc Nhà nước chưa thể kiểm soát được tài
sản, thu nhập của toàn xã hội, dẫn đến những đối tượng tham nhũng rất dễ tấu tán tài sản tham
nhũng, vì vậy việc hoàn thiên pháp luật về THTSTN gặp nhiều khó khăn.
Giải pháp thu hồi tài sản tham nhũng của nước ta hiện nay:
Để nâng cao hiệu quả, tạo chuyển biến mạnh mẽ trong công tác thu hồi tài sản bị thất thoát,
chiếm đoạt trong các vụ án hình sự về tham nhũng, kinh tế, tích cực góp phần vào công tác đấu
tranh phòng, chống tham nhũng theo Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng, Ban Bí thư yêu cầu các
cấp uỷ, tổ chức đảng thực hiện tốt một số nhiệm vụ, giải pháp sau đây:
- Một là, nâng cao nhận thức, trách nhiệm của cấp uỷ, tổ chức đảng, người đứng đầu các cấp đối
với công tác thu hồi tài sản bị thất thoát, chiếm đoạt trong các vụ án hình sự về tham nhũng,
kinh tế; xác định đây là nhiệm vụ quan trọng, xuyên suốt trong quá trình thực hiện công tác
phòng, chống tham nhũng. Tiếp tục đổi mới, đẩy mạnh công tác tuyên truyền, quán triệt, tổ
chức thực hiện có hiệu quả công tác thu hồi tài sản tham nhũng. Người đứng đầu cấp uỷ, tổ
chức đảng, địa phương, cơ quan, đơn vị phải trực tiếp lãnh đạo, chỉ đạo và chịu trách nhiệm về
công tác thu hồi tài sản tham nhũng tại cơ quan, đơn vị, địa phương mình.
- Hai là, Thống nhất quyết tâm và hành động đồng bộ trong thu hồi tài sản tham nhũng: Quán
triệt quan điểm của Đảng, xác định nhiệm vụ thu hồi tài sản bị chiếm đoạt, thất thoát trong các
vụ án kinh tế, tham nhũng quan trọng ngang bằng với nhiệm vụ phát hiện, điều tra, truy tố, xét

76
Tài liệu lưu hành nội bộ

xử người phạm tội, các cơ quan, ban, ngành ở Trung ương và địa phương vào cuộc quyết liệt để
tăng cường phát hiện, xử lý nhiều vụ án, vụ việc về tham nhũng, kinh tế lớn và truy tìm, kê
biên, xử lý tài sản. Các giải pháp có tính chiến lược, lâu dài vừa cụ thể, bảo đảm khắc phục hạn
chế, đồng thời tạo đột phá, tạo bước chuyển mạnh mẽ trong thu hồi tài sản tham nhũng.
+ Cụ thể hóa chủ trương của Đảng: nhiều quy định mới về thu hồi tài sản tham nhũng đã được
thể chế hóa theo chủ trương, đường lối của Đảng, tạo cơ sở pháp lý quan trọng. Trong đó, “chú
trọng tới các chế tài phạt tiền nhằm tăng khả năng thu hồi tài sản tham nhũng” được nêu tại
Nghị quyết Trung ương 3, khóa X đã được thể hiện rõ qua lần sửa đổi, bổ sung Bộ luật Hình sự
năm 2015.
+ Hoàn thiện cơ chế, chính sách, pháp luật: Cụ thể hóa chủ trương của Đảng về công tác này,
Đảng đoàn Quốc hội, Ban cán sự đảng Chính phủ đã tập trung lãnh đạo Chính phủ chỉ đạo các
bộ, ngành và cơ quan chức năng nghiên cứu, đề xuất sửa đổi, bổ sung, hoàn thiện pháp luật về
thi hành án dân sự; pháp luật về hình sự, dân sự, tố tụng hình sự, tố tụng dân sự, phá sản, giá,
giám định, định giá; pháp luật liên quan đến tín dụng, ngân hàng, xử lý nợ xấu, đăng ký tài sản,
đấu giá tài sản công.., bảo đảm thống nhất, đồng bộ, tránh chồng chéo để nâng cao hiệu quả
công tác phòng, chống tham nhũng, điều tra, truy tố, xét xử, thi hành án nói chung, thu hồi tài
sản trong các vụ án tham nhũng, kinh tế nói riêng.
- Ba là, rà soát, sửa đổi, bổ sung, xây dựng, hoàn thiện cơ chế, chính sách, pháp luật về thu hồi
tài sản bị thất thoát, chiếm đoạt trong các vụ án hình sự về tham nhũng, kinh tế, nhất là các quy
định về trình tự, thủ tục thu hồi tài sản bị thất thoát, chiếm đoạt; về cơ chế thu hồi tài sản bị thất
thoát, chiếm đoạt không qua thủ tục kết tội; cơ chế xử lý tài sản bị kê biên, phong toả; sớm khắc
phục những bất cập, vướng mắc trong kê biên tài sản, phong toả tài khoản, thẩm định giá, bán
đấu giá tài sản, thành lập, giải thể, phá sản doanh nghiệp. Nghiên cứu rà soát, sửa đổi, bổ sung
pháp luật về thanh tra, kiểm toán, tố tụng hình sự, thi hành án dân sự và các quy định pháp luật
liên quan theo hướng bổ sung cho thanh tra viên, kiểm toán viên thẩm quyền áp dụng các biện
pháp ngăn chặn việc tẩu tán tài sản khi phát hiện có dấu hiệu tội phạm tham nhũng, kinh tế; xác
định rõ trách nhiệm của từng chủ thể trong việc truy nguyên, truy tìm, kê biên tài sản, phong toả
tài khoản ngay từ giai đoạn thanh tra, kiểm toán, điều tra, truy tố, xét xử. Hoàn thiện cơ chế
tương trợ tư pháp về hình sự để thực hiện tốt công tác phát hiện, xử lý tài sản do phạm tội mà có
ở nước ngoài. Khẩn trương hoàn thiện cơ sở dữ liệu quốc gia về đất đai; quy định của pháp luật
về thanh toán không dùng tiền mặt; nghiên cứu, xây dựng cơ sở dữ liệu trong các lĩnh vực bất
động sản, ngân hàng, chuyển nhượng vốn góp, cổ phần để kiểm soát tài sản chặt chẽ, hạn chế
việc tẩu tán, che giấu, hợp thức hoá tài sản do phạm tội mà có, tạo thuận lợi cho công tác thu
hồi tài sản tham nhũng.
- Bốn là, nâng cao trách nhiệm và hiệu quả phối hợp giữa các cơ quan chức năng trong công tác
thu hồi tài sản bị thất thoát, chiếm đoạt trong các vụ án hình sự về tham nhũng, kinh tế; xác định
rõ vai trò, trách nhiệm của cơ quan kiểm tra, thanh tra, kiểm toán, cơ quan tiến hành tố tụng, cơ
quan thi hành án dân sự, ban chỉ đạo thi hành án dân sự các cấp; kịp thời áp dụng các biện pháp
thu giữ, tạm giữ, kê biên tài sản, đất đai, phong toả tài khoản ngay trong quá trình kiểm tra,
77
Tài liệu lưu hành nội bộ

thanh tra, kiểm toán, điều tra, truy tố, xét xử. Toà án các cấp thực hiện nghiêm quy định của
pháp luật về chuyển giao bản án, tài liệu liên quan đến tài sản bị kê biên, phong toả; kịp thời
đính chính, giải thích bản án và các kiến nghị của cơ quan Thi hành án dân sự có thẩm quyền.
Cơ quan Thi hành án dân sự kịp thời xử lý theo pháp luật tài sản đã kê biên, phong toả, tạm giữ
trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử, đồng thời tích cực xác minh, truy tìm và xử lý tài sản
trong giai đoạn thi hành án. Kiện toàn, nâng cao chất lượng hoạt động của Ban Chỉ đạo Thi
hành án dân sự các cấp trong công tác thu hồi tài sản bị thất thoát, chiếm đoạt, nhất là chỉ đạo
tháo gỡ những khó khăn, vướng mắc trong công tác thi hành án dân sự, thu hồi tài sản tham
nhũng; chỉ đạo các cơ quan chức năng phối hợp chặt chẽ với các tổ chức tín dụng, cơ quan quản
lý tài sản, đất đai và các cơ quan liên quan cung cấp đầy đủ, chính xác thông tin về tài khoản, tài
sản, đất đai theo yêu cầu của cơ quan có thẩm quyền, kịp thời áp dụng các biện pháp tạm giữ,
kê biên, phong toả, xử lý tài sản bị thất thoát, chiếm đoạt trong quá trình tố tụng và thi hành án
dân sự.
- Năm là, tăng cường kiểm tra, giám sát, thanh tra, kiểm sát công tác thu hồi tài sản bị thất thoát,
chiếm đoạt trong các vụ án hình sự về tham nhũng, kinh tế; kịp thời phát hiện, khắc phục những
tồn tại, hạn chế, tháo gỡ khó khăn, vướng mắc, xử lý nghiêm những sai phạm, tiêu cực trong
công tác thu hồi tài sản.
Cùng với đó, Quốc hội, Hội đồng nhân dân, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các đoàn thể tăng
cường giám sát công tác thu hồi tài sản bị thất thoát, chiếm đoạt trong các vụ án hình sự về
tham nhũng, kinh tế; có cơ chế phát huy hiệu quả vai trò giám sát của nhân dân, khuyến khích
người dân phản ánh, tố giác tài sản bất minh và sai phạm trong công tác thu hồi tài sản tham
nhũng.
- Sáu là, tiếp tục củng cố, kiện toàn tổ chức bộ máy, đội ngũ cán bộ, công chức các cơ quan điều
tra, truy tố, xét xử và thi hành án dân sự, bảo đảm đủ số lượng, vững về chuyên môn nghiệp vụ,
có phẩm chất đạo đức, bản lĩnh chính trị vững vàng, thực sự liêm, chính, hoạt động hiệu lực,
hiệu quả, đáp ứng yêu cầu của công tác phòng, chống tham nhũng và thu hồi tài sản tham nhũng
trong giai đoạn hiện nay.
- Bảy là, tăng cường hợp tác quốc tế trong thu hồi tài sản tham nhũng; chủ động phối hợp với
các tổ chức quốc tế và các cơ quan có thẩm quyền ở nước ngoài để xác minh, truy tìm và xử lý
tài sản do phạm tội mà có đang ở nước ngoài. Đẩy mạnh tham gia, ký kết các hiệp định tương
trợ tư pháp hình sự giữa Việt Nam với các nước, tạo cơ sở pháp lý, cơ chế phối hợp trong
phòng, chống tham nhũng có yếu tố nước ngoài.
Kết Luận
Tham nhũng là một hiện tượng xã hội có tính lịch sử, gắn liến với sự ra đời và tồn tại của Nhà
nước. Nó hiện hữu ở tất cả các quốc gia, không phân biệt chế độ chính trị, giàu nghèo, phát
triển hay đang phát triển hoặc kém phát triển. Tham nhũng là hệ quả của quyền lực bị lạm dụng,
bị tha hóa. Tham nhũng nảy sinh, tồn tại và hoành hành do sự biến chất của những người có
chức quyền, hơn cả là những người được giao thực hiện những công vụ bình thường đã làm
78
Tài liệu lưu hành nội bộ

biến dạng quyền hạn và công vụ được giao phó. Tham nhũng gây ra nhiều tác hại nghiêm trọng
về kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội, làm mất lòng tin của Nhân dân đối với Đảng, Nhà nước, là
một nguy cơ lớn đe dọa sự tồn vong của chế độ ta. Chính vì thế, PCTN là nhiệm vụ của mọi
quốc gia, mọi cấp, mọi ngành, và mọi người dân. Để nâng cao hiệu quả thực hiện pháp luật về
PCTN ở Việt Nam trong những năm tới, chúng ta cần tăng cường các hoạt động PCTN theo
hướng: đẩy mạnh cải cách hành chính, nhất là TTHC theo hướng công khai, minh bạch, dễ tiếp
cận để giảm thiểu cơ hội tham nhũng; nâng cao vai trò lãnh đạo, sức chiến đấu của tổ chức
Đảng trong thực hiện công tác PCTN; tạo điều kiện thuận lợi cho công dân và các tổ chức xã
hội tham gia PCTN; chú trọng nội dung phòng, chống tham nhũng trong công tác quản lý công
chức Nhà nước; nâng cao chất lượng, hiệu quả điều tra, truy tố, xét xử các vụ án tham nhũng;
ban hành và thực hiện tốt các cơ chế, chính sách quản lý Nhà nước trên các lĩnh vực có nhiều cơ
hội tham nhũng. Từ những định hướng trên, Việt Nam ta phải thực hiện đồng bộ cả những giải
pháp phòng ngừa hữu hiệu nạn tham nhũng lẫn tích cực đấu tranh chống tham nhũng. Mọi giải
pháp trên đây sẽ chỉ là hình thức nếu thiếu sự quyết tâm chính trị của Tỉnh ủy, chính quyền địa
phương; sự gương mẫu và quyết liệt chỉ đạo của người đứng đầu các cấp, các ngành đối với
công tác PCTN. Do vậy, muốn đạt được mục tiêu ngăn chặn, xóa bỏ nạn tham nhũng, chúng ta
cần phải nghiêm túc thực hiện đồng bộ các giải pháp nêu trên.
Chủ đề: PHÂN TÍCH CÁC QUY ĐỊNH VỀ XÁC MINH TÀI SẢN, THU
NHẬP VÀ THỰC TRẠNG VỀ VẤN ĐỀ NÀY.
I. Tổng quan:
1. Khái niệm về kiểm soát tài sản, thu nhập của người có chức vụ, quyền hạn trong cơ
quan, tổ chức, đơn vị:
Căn cứ Khoản 5, Điều 3, Nghị định 130/2020/NĐ-CP về kiểm soát tài sản, thu nhập của người
có chức vụ, quyền hạn trong cơ quan, tổ chức, đơn vị:
Xác minh tài sản, thu nhập là việc kiểm tra, làm rõ nội dung kê khai và xem xét, đánh giá, kết
luận của Cơ quan kiểm soát tài sản, thu nhập theo trình tự, thủ tục quy định tại Luật Phòng,
chống tham nhũng và Nghị định này về tính trung thực, đầy đủ, rõ ràng của bản kê khai và tính
trung thực trong việc giải trình về nguồn gốc của tài sản, thu nhập tăng thêm.
2. Căn cứ xác minh tài sản, thu nhập:
Căn cứ Khoản 1, Điều 41, Luật Phòng chóng tham nhũng, Cơ quan kiểm soát tài sản, thu nhập
xác minh tài sản, thu nhập khi có một trong các căn cứ sau đây:
a) Có dấu hiệu rõ ràng về việc kê khai tài sản, thu nhập không trung thực;
b) Có biến động tăng về tài sản, thu nhập từ 300.000.000 đồng trở lên so với tài sản, thu nhập đã
kê khai lần liền trước đó mà người có nghĩa vụ kê khai giải trình không hợp lý về nguồn gốc;
c) Có tố cáo về việc kê khai tài sản, thu nhập không trung thực và đủ điều kiện thụ lý theo quy
định của Luật Tố cáo;
79
Tài liệu lưu hành nội bộ

d) Thuộc trường hợp xác minh theo kế hoạch xác minh tài sản, thu nhập hằng năm đối với
người có nghĩa vụ kê khai;
e) Có yêu cầu hoặc kiến nghị của cơ quan, tổ chức, đơn vị, cá nhân có thẩm quyền theo quy
định tại Điều 42 của Luật này.
3. Thẩm quyền yêu cầu, kiến nghị xác minh tài sản, thu nhập:
Được quy định tại Điều 42 của Luật Phòng chống tham nhũng:
1. Khi có một trong các căn cứ quy định tại các điểm a, b và c khoản 1 Điều 41 của Luật này
hoặc khi xét thấy cần có thêm thông tin để phục vụ cho công tác cán bộ, cơ quan, tổ chức, cá
nhân sau đây có quyền yêu cầu hoặc kiến nghị Cơ quan kiểm soát tài sản, thu nhập ra quyết
định xác minh tài sản, thu nhập
a) Ủy ban Thường vụ Quốc hội yêu cầu xác minh đối với người dự kiến được Quốc hội, Ủy ban
Thường vụ Quốc hội bầu, phê chuẩn hoặc bổ nhiệm, người dự kiến được bổ nhiệm Phó Tổng
Kiểm toán nhà nước;
b) Chủ tịch nước yêu cầu xác minh đối với người dự kiến được bổ nhiệm Phó Thủ tướng, Bộ
trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang Bộ, Phó Chánh án Tòa án nhân dân tối cao, Thẩm phán Tòa
án nhân dân tối cao, Phó Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Kiểm sát viên Viện kiểm
sát nhân dân tối cao;
c) Thủ tướng Chính phủ yêu cầu xác minh đối với người dự kiến được bổ nhiệm Thứ trưởng và
chức vụ tương đương thuộc Bộ, cơ quan ngang Bộ, người đứng đầu, cấp phó của người đứng
đầu cơ quan thuộc Chính phủ, người dự kiến được bầu hoặc đề nghị phê chuẩn chức vụ Chủ
tịch, Phó Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp tỉnh;
d) Chánh án Tòa án nhân dân tối cao yêu cầu xác minh đối với người dự kiến được bổ nhiệm
Chánh án, Phó Chánh án Tòa án nhân dân các cấp, Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao
yêu cầu xác minh đối với người dự kiến được bổ nhiệm Viện trưởng, Phó Viện trưởng Viện
kiểm sát nhân dân các cấp, trừ trường hợp quy định tại điểm b khoản này;
đ) Thường trực Hội đồng nhân dân yêu cầu xác minh đối với người dự kiến được Hội đồng
nhân dân, Thường trực Hội đồng nhân dân bầu hoặc phê chuẩn;
e) Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp tỉnh, Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp huyện yêu cầu xác minh
đối với người dự kiến được bầu hoặc đề nghị phê chuẩn chức vụ Chủ tịch, Phó Chủ tịch Ủy ban
nhân dân cấp dưới trực tiếp;
g) Hội đồng bầu cử quốc gia, Ủy ban bầu cử hoặc Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam yêu cầu
xác minh đối với người ứng cử đại biểu Quốc hội, người ứng cử đại biểu Hội đồng nhân dân;
h) Cơ quan thường vụ của tổ chức chính trị, tổ chức chính trị-xã hội yêu cầu xác minh đối với
người dự kiến được bầu tại đại hội của tổ chức chính trị, tổ chức chính trị-xã hội;

80
Tài liệu lưu hành nội bộ

i) Người đứng đầu cơ quan, tổ chức, đơn vị hoặc người có thẩm quyền quản lý cán bộ đối với
người có nghĩa vụ kê khai yêu cầu hoặc kiến nghị xác minh đối với người có nghĩa vụ kê khai
thuộc thẩm quyền quản lý, sử dụng trực tiếp của mình, trừ trường hợp quy định tại các điểm a,
b, c, d, đ, e, g và h khoản này.
2. Cơ quan thanh tra, Kiểm toán nhà nước, Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát nhân dân, Tòa án
nhân dân và cơ quan, tổ chức có thẩm quyền khác có quyền yêu cầu Cơ quan kiểm soát tài sản,
thu nhập xác minh tài sản, thu nhập nếu trong quá trình kiểm tra, thanh tra, kiểm toán, điều tra,
truy tố, xét xử, thi hành án xét thấy cần làm rõ về tài sản, thu nhập có liên quan đến hành vi vi
phạm pháp luật.
4. Nội dung xác minh tài sản, thu nhập:
Căn cứ Điều 43, Luật Phòng chống tham nhũng:
1. Tính trung thực, đầy đủ, rõ ràng của bản kê khai.
2. Tính trung thực trong việc giải trình về nguồn gốc của tài sản, thu nhập tăng thêm.
Xác minh về tính trung thực, đầy đủ, rõ ràng nội dung bản kê khai tài sản, thu nhập của người
có nghĩa vụ kê khai. Đồng thời, xác minh thực tế tài sản, thu nhập của người có nghĩa vụ kê
khai; xác minh tính trung thực trong việc giải trình về nguồn gốc của tài sản, thu nhập tăng
thêm (nếu có) nhằm đánh giá tính chính xác, trung thực, rõ ràng nội dung kê khai tài sản, thu
nhập của người có nghĩa vụ kê khai, Cùng với đó, xác minh tài sản, thu nhập nhằm ngăn ngừa,
phát hiện, xử lý hành vi tham nhũng (nếu có) đối với người có nghĩa vụ kê khai.
5. Hồ sơ xác minh:
Căn cứ theo quy định tại Mục 1 Phần II thủ tục hành chính được thay thế thuộc phạm vi quản lý
nhà nước của Thanh tra Chính phủ ban hành kèm theo Quyết định 70/QĐ-TTCP năm 2021 quy
định về thành phần và số lượng hồ sơ xác minh tài sản, thu nhập cụ thể như sau:
1. Quyết định xác minh; biên bản làm việc; giải trình của người được xác minh;
2. Báo cáo kết quả xác minh;
3. Kết luận xác minh tài sản, thu nhập;
4. Các tài liệu khác có liên quan đến việc xác minh.
6. Hình thức xác minh:
Căn cứ Khoản 3, Điều 15, Nghị định 30/2020/NĐ-CP:
Trong thời hạn 10 ngày kể từ ngày kế hoạch xác minh được ban hành.
Cơ quan kiểm soát tài sản, thu nhập tổ chức lựa chọn ngẫu nhiên người được xác minh. Việc lụa
chọn được thực hiện công khai bằng hình thức bốc thăm hoặc sử dụng phần mềm máy tính.

81
Tài liệu lưu hành nội bộ

Cơ quan kiểm soát tài sản, thu nhập mời đại diện Ủy ban kiểm tra Đảng và Ủy ban Mặt trận Tổ
quốc Việt Nam cùng cấp dự và chứng kiến việc lựa chọn ngẫu nhiên người được xác minh.
Số lượng người được lựa chọn để xác minh ngẫu nhiên phải bảo đảm tối thiểu 10% số người có
nghĩa vụ kê khai hàng năm tại mỗi cơ quan, tổ chức, đơn vị được xác minh, trong đó có ít nhất
01 người là người đứng đầu hoặc cấp phó của người đứng đầu cơ quan, tổ chức, đơn vị.
7. Trình tự xác minh tài sản, thu nhập:
Căn cứ theo Điều 44 Luật Phòng chống tham nhũng và theo Quyết định 70/QĐ-TTCP năm
2021:
Thực hiện theo trình tự 6 bước:
Bước 1. Ra quyết định xác minh tài sản, thu nhập và thành lập Tổ xác minh tài sản, thu nhập:
+ Người đứng đầu Cơ quan kiểm soát tài sản, thu nhập ra quyết định xác minh tài sản, thu nhập
trong thời hạn 05 ngày làm việc kể từ ngày có căn cứ xác minh quy định tại điểm đ khoản 1
Điều 41 của Luật PCTN hoặc 15 ngày kể từ ngày có căn cứ xác minh quy định tại các điểm a,
b, c và d khoản 1 Điều 41 của Luật PCTN.
+ Quyết định xác minh tài sản, thu nhập bao gồm các nội dung sau đây:Căn cứ ban hành quyết
định xác minh; Họ, tên, chức vụ, nơi công tác của người được xác minh tài sản, thu nhập; Họ,
tên, chức vụ, nơi công tác của Tổ trưởng và thành viên Tổ xác minh tài sản, thu nhập; Nội dung
xác minh;Thời hạn xác minh; Nhiệm vụ, quyền hạn của Tổ trưởng và thành viên Tổ xác minh
tài sản, thu nhập; Các cơ quan, tổ chức, đơn vị, cá nhân phối hợp (nếu có).
+ Quyết định xác minh tài sản, thu nhập phải được gửi cho Tổ trưởng và thành viên Tổ xác
minh tài sản, thu nhập, người được xác minh và cơ quan, tổ chức, đơn vị, cá nhân có liên quan
trong
Bước 2. Yêu cầu người được xác minh giải trình về tài sản, thu nhập của mình.
+ Yêu cầu người được xác minh giải trình về tính trung thực, đầy đủ, rõ
ràng của bản kê khai, nguồn gốc của tài sản, thu nhập tăng thêm so với tài sản, thu nhập đã kê
khai lần liền trước đó.
Bước 3. Tiến hành xác minh tài sản, thu nhập.
+ Yêu cầu cơ quan, tổ chức, đơn vị, cá nhân cung cấp thông tin, tài liệu có liên quan đến nội
dung xác minh theo quy định tại Khoản 3 Điều 31 của Luật Phòng chống tham nhũng;
+ Kiến nghị cơ quan, tổ chức, đơn vị có thẩm quyền hoặc cơ quan, tổ chức, đơn vị, cá nhân
đang quản lý tài sản, thu nhập áp dụng biện pháp cần thiết theo quy định của pháp luật để ngăn
chặn việc tẩu tán, hủy hoại, chuyển dịch tài sản, thu nhập hoặc hành vi khác cản trở hoạt động
xác minh tài sản, thu nhập;

82
Tài liệu lưu hành nội bộ

+ Đề nghị cơ quan, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền định giá, thẩm định giá, giám định tài sản,
thu nhập phục vụ cho việc xác minh.
+ Giữ bí mật thông tin, tài liệu thu thập được trong quá trình xác minh.
Bước 4. Báo cáo kết quả xác minh tài sản, thu nhập.
+ Trong thời hạn 45 ngày kể từ ngày ra quyết định xác minh, Tổ trưởng Tổ xác minh tài sản,
thu nhập phải báo cáo kết quả xác minh tài sản, thu nhập bằng văn bản cho người ra quyết định
xác minh; trường hợp phức tạp thì thời hạn có thể kéo dài nhưng không quá 90 ngày.
+ Báo cáo kết quả xác minh tài sản, thu nhập bao gồm các nội dung sau đây:
a) Nội dung được xác minh, hoạt động xác minh đã được tiến hành và kết
quả xác minh;
b) Đánh giá về tính trung thực, đầy đủ, rõ ràng của bản kê khai; tính trung thực trong việc giải
trình về nguồn gốc của tài sản, thu nhập tăng thêm;
c) Kiến nghị xử lý vi phạm quy định của pháp luật về kiểm soát tài sản, thu nhập.
Bước 5. Kết luận xác minh tài sản, thu nhập.
+ Trong thời hạn 10 ngày kể từ ngày nhận được Báo cáo kết quả xác minh tài sản, thu nhập,
người ra quyết định xác minh phải ban hành Kết luận xác minh tài sản, thu nhập; trường hợp
phức tạp thì thời hạn có thể kéo dài nhưng không quá 20 ngày.
+ Kết luận xác minh tài sản, thu nhập bao gồm các nội dung sau đây:Tính trung thực, đầy đủ, rõ
ràng của việc kê khai tài sản, thu nhập; tính trung thực trong việc giải trình về nguồn gốc của tài
sản, thu nhập tăng thêm;kiến nghị người có thẩm quyền xử lý vi phạm quy định của pháp luật
về kiểm soát tài sản, thu nhập.
+ Người ban hành Kết luận xác minh tài sản, thu nhập phải chịu trách nhiệm về tính khách
quan, trung thực của Kết luận xác minh.
+ Kết luận xác minh tài sản, thu nhập phải được gửi cho người được xác minh và cơ quan, tổ
chức, đơn vị, cá nhân yêu cầu, kiến nghị xác minh quy định tại Điều 42 của Luật PCTN.
Bước 6. Gửi và công khai Kết luận xác minh tài sản, thu nhập.
+ Trong thời hạn 05 ngày làm việc kể từ ngày ban hành Kết luận xác minh tài sản, thu nhập,
người ra quyết định xác minh tài sản, thu nhập có trách nhiệm công khai Kết luận xác minh.
+ Việc công khai Kết luận xác minh tài sản, thu nhập được thực hiện như việc công khai bản kê
khai quy định tại Điều 39 của Luật PCTN.
8. Quyết định xác minh tài sản, thu nhập
Điều 45, Luật Phòng chống tham nhũng có quy định:
83
Tài liệu lưu hành nội bộ

1. Người đứng đầu Cơ quan kiểm soát tài sản, thu nhập ra quyết định xác minh tài sản, thu nhập
trong thời hạn 05 ngày làm việc kể từ ngày có căn cứ xác minh quy định tại điểm đ khoản 1
Điều 41 của Luật này hoặc 15 ngày kể từ ngày có căn cứ xác minh quy định tại các điểm a, b, c
và d khoản 1 Điều 41 của Luật này.
2. Quyết định xác minh tài sản, thu nhập bao gồm các nội dung sau đây:
a) Căn cứ ban hành quyết định xác minh;
b) Họ, tên, chức vụ, nơi công tác của người được xác minh tài sản, thu nhập;
c) Họ, tên, chức vụ, nơi công tác của Tổ trưởng và thành viên Tổ xác minh tài sản, thu nhập;
d) Nội dung xác minh; đ) Thời hạn xác minh;
e) Nhiệm vụ, quyền hạn của Tổ trưởng và thành viên Tổ xác minh tài sản, thu nhập;
g) Các cơ quan, tổ chức, đơn vị, cá nhân phối hợp (nếu có).
3. Quyết định xác minh tài sản, thu nhập phải được gửi cho Tổ trưởng và thành viên Tổ xác
minh tài sản, thu nhập, người được xác minh và cơ quan, tổ chức, đơn vị, cá nhân có liên quan
trong thời hạn 03 ngày làm việc kể từ ngày ra quyết định xác minh.
9. Tổ xác minh tài sản, thu nhập:
Điều 46, Luật Phòng chống tham nhũng:
1. Tổ xác minh tài sản, thu nhập gồm có Tổ trưởng và các thành viên. Trường hợp nội dung xác
minh có tình tiết phức tạp, liên quan đến nhiều cơ quan, tổ chức, đơn vị thì người đứng đầu Cơ
quan kiểm soát tài sản, thu nhập có thể yêu cầu cơ quan, tổ chức, đơn vị có liên quan cử người
tham gia Tổ xác minh tài sản, thu nhập.
Không bố trí người tham gia Tổ xác minh tài sản, thu nhập là vợ hoặc chồng, bố, mẹ, con, anh,
chị, em ruột của người được xác minh hoặc người khác mà có căn cứ cho rằng người đó có thể
không vô tư, khách quan trong việc xác minh tài sản, thu nhập.
2. Tổ trưởng Tổ xác minh tài sản, thu nhập có nhiệm vụ, quyền hạn sau đây:
a) Yêu cầu người được xác minh giải trình về tính trung thực, đầy đủ, rõ ràng của bản kê khai,
nguồn gốc của tài sản, thu nhập tăng thêm so với tài sản, thu nhập đã kê khai lần liền trước đó;
b) Yêu cầu cơ quan, tổ chức, đơn vị, cá nhân cung cấp thông tin, tài liệu có liên quan đến nội
dung xác minh theo quy định tại khoản 3 Điều 31 của Luật này;
c) Kiến nghị cơ quan, tổ chức, đơn vị có thẩm quyền hoặc cơ quan, tổ chức, đơn vị, cá nhân
đang quản lý tài sản, thu nhập áp dụng biện pháp cần thiết theo quy định của pháp luật để ngăn
chặn việc tẩu tán, hủy hoại, chuyển dịch tài sản, thu nhập hoặc hành vi khác cản trở hoạt động
xác minh tài sản, thu nhập;

84
Tài liệu lưu hành nội bộ

d) Đề nghị cơ quan, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền định giá, thẩm định giá, giám định tài sản,
thu nhập phục vụ cho việc xác minh;
đ) Báo cáo kết quả xác minh tài sản, thu nhập bằng văn bản với người ra quyết định xác minh
và chịu trách nhiệm trước pháp luật, trước người ra quyết định xác minh về nội dung báo cáo;
e) Giữ bí mật thông tin, tài liệu thu thập được trong quá trình xác minh.
3. Thành viên Tổ xác minh tài sản, thu nhập có nhiệm vụ, quyền hạn sau
đây:
a) Thu thập thông tin, tài liệu, xác minh tại chỗ đối với tài sản, thu nhập và
thực hiện nhiệm vụ khác theo sự phân công của Tổ trưởng;
b) Kiến nghị Tổ trưởng áp dụng biện pháp quy định tại khoản 2 Điều này để bảo đảm thực hiện
nhiệm vụ được giao;
c) Báo cáo kết quả thực hiện nhiệm vụ được giao với Tổ trưởng và chịu trách nhiệm trước pháp
luật, trước Tổ trưởng về nội dung báo cáo;
d) Giữ bí mật thông tin, tài liệu thu thập được trong quá trình xác minh.
10. Quyền và nghĩa vụ của người được xác minh tài sản, thu nhập:
Căn cứ Điều 47, Điều 48, Điều 49, Điều 50 Luật Phòng chống tham nhũng: Điều 47 quy định
1. Giải trình về tính trung thực, đầy đủ, rõ ràng của bản kê khai, nguồn gốc của tài sản, thu nhập
tăng thêm.
2. Cung cấp thông tin liên quan đến nội dung xác minh khi có yêu cầu của Tổ xác minh tài sản,
thu nhập và chịu trách nhiệm về tính chính xác của thông tin đã cung cấp.
3. Thực hiện đầy đủ, kịp thời yêu cầu của Tổ xác minh tài sản, thu nhập, cơ quan, tổ chức, cá
nhân có thẩm quyền trong quá trình xác minh tài sản, thu nhập.
4. Chấp hành quyết định xử lý của cơ quan, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền về kiểm soát tài
sản, thu nhập.
5. Khiếu nại quyết định, hành vi của cơ quan, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền trong xác minh
tài sản, thu nhập khi có căn cứ cho rằng quyết định, hành vi đó là trái pháp luật, xâm phạm
quyền, lợi ích hợp pháp của mình.
6. Tố cáo hành vi vi phạm pháp luật của cơ quan, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền trong xác
minh tài sản, thu nhập.
7. Được phục hồi danh dự, khôi phục quyền và lợi ích hợp pháp bị xâm phạm, được bồi thường
thiệt hại do hành vi vi phạm pháp luật của người xác minh tài sản, thu nhập gây ra theo quy
định của pháp luật.
85
Tài liệu lưu hành nội bộ

Điều 48. Báo cáo kết quả xác minh tài sản, thu nhập
1. Trong thời hạn 45 ngày kể từ ngày ra quyết định xác minh, Tổ trưởng Tổ xác minh tài sản,
thu nhập phải báo cáo kết quả xác minh tài sản, thu nhập bằng văn bản cho người ra quyết định
xác minh; trường hợp phức tạp thì thời hạn có thể kéo dài nhưng không quá 90 ngày.
2. Báo cáo kết quả xác minh tài sản, thu nhập bao gồm các nội dung sau đây:
a) Nội dung được xác minh, hoạt động xác minh đã được tiến hành và kết quả xác minh;
b) Đánh giá về tính trung thực, đầy đủ, rõ ràng của bản kê khai; tính trung thực trong việc giải
trình về nguồn gốc của tài sản, thu nhập tăng thêm;
c) Kiến nghị xử lý vi phạm quy định của pháp luật về kiểm soát tài sản, thu nhập.
Điều 49. Kết luận xác minh tài sản, thu nhập
1. Trong thời hạn 10 ngày kể từ ngày nhận được Báo cáo kết quả xác minh tài sản, thu nhập,
người ra quyết định xác minh phải ban hành Kết luận xác minh tài sản, thu nhập; trường hợp
phức tạp thì thời hạn có thể kéo dài nhưng không quá 20 ngày.
2. Kết luận xác minh tài sản, thu nhập bao gồm các nội dung sau đây:
a) Tính trung thực, đầy đủ, rõ ràng của việc kê khai tài sản, thu nhập;
b) Tính trung thực trong việc giải trình về nguồn gốc của tài sản, thu nhập tăng thêm;
c) Kiến nghị người có thẩm quyền xử lý vi phạm quy định của pháp luật về kiểm soát tài sản,
thu nhập.
3. Người ban hành Kết luận xác minh tài sản, thu nhập phải chịu trách nhiệm về tính khách
quan, trung thực của Kết luận xác minh.
4. Kết luận xác minh tài sản, thu nhập phải được gửi cho người được xác minh và cơ quan, tổ
chức, đơn vị, cá nhân yêu cầu, kiến nghị xác minh quy định tại Điều 42 của Luật này.
5. Người được xác minh có quyền khiếu nại Kết luận xác minh tài sản, thu nhập theo quy định
của pháp luật về khiếu nại.
Điều 50. Công khai Kết luận xác minh tài sản, thu nhập
1.Trong thời hạn 05 ngày làm việc kể từ ngày ban hành Kết luận xác minh tài sản, thu nhập,
người ra quyết định xác minh tài sản, thu nhập có trách nhiệm công khai Kết luận xác minh.
2. Việc công khai Kết luận xác minh tài sản, thu nhập được thực hiện như việc công khai bản kê
khai quy định tại Điều 39 của Luật này.
11. Đối với hành vi kê khai tài sản, thu nhập không trung thực, giải trình nguồn gốc của
tài sản, thu nhập tăng thêm không trung thực:
Căn cứ Điều 51, Luật Phòng chống tham nhũng:
86
Tài liệu lưu hành nội bộ

1. Người ứng cử đại biểu Quốc hội, người ứng cử đại biểu Hội đồng nhân dân mà kê khai tài
sản, thu nhập không trung thực, giải trình nguồn gốc của tài sản, thu nhập tăng thêm không
trung thực thì bị xóa tên khỏi danh sách những người ứng cử.
2. Người được dự kiến bổ nhiệm, bổ nhiệm lại, phê chuẩn, cử giữ chức vụ mà kê khai tài sản,
thu nhập không trung thực, giải trình nguồn gốc của tài sản, thu nhập tăng thêm không trung
thực thì không được bổ nhiệm, bổ nhiệm lại, phê chuẩn, cử vào chức vụ đã dự kiến.
3. Người có nghĩa vụ kê khai không thuộc trường hợp quy định tại khoản 1 và khoản 2 Điều
này mà kê khai tài sản, thu nhập không trung thực, giải trình nguồn gốc của tài sản, thu nhập
tăng thêm không trung thực thì tùy theo tính chất, mức độ vi phạm, bị xử lý kỷ luật bằng một
trong các hình thức cảnh cáo, hạ bậc lương, giáng chức, cách chức, buộc thôi việc hoặc bãi
nhiệm; nếu được quy hoạch vào các chức danh lãnh đạo, quản lý thì còn bị đưa ra khỏi danh
sách quy hoạch; trường hợp xin thôi làm nhiệm vụ, từ chức, miễn nhiệm thì có thể xem xét
không kỷ luật.
4. Quyết định kỷ luật được công khai tại cơ quan, tổ chức, đơn vị nơi người bị xử lý kỷ luật làm
việc.
Công khai quyết định xử lý vi phạm, Căn cứ Khoản 1, Đ23, NĐ 30/2020/NĐ-CP có quy định:
1. Quyết định kỷ luật đối với người có hành vi vi phạm quy định về kiểm soát tài sản, thu nhập
được niêm yết công khai tại cơ quan, tổ chức, đơn vị nơi người bị xử lý kỷ luật thường xuyên
làm việc trong thời gian 15 ngày.
Ngoài việc niêm yết công khai, người có thẩm quyền xử lý kỷ luật có thể lựa chọn thực hiện
thêm hình thức thông báo tại Hội nghị cán bộ, công chức, viên chức, người lao động của cơ
quan, tổ chức, đơn vị hoặc đăng tải trên trang thông tin điện tử của cơ quan, tổ chức, đơn vị.
II. Thực trạng hiện nay:
1. Những mặt đạt được:
Các quy định pháp luật đã tạo hành lang pháp lý cho hoạt động kê khai, kiểm soát, xác
minh tài sản, thu nhập của người có chức vụ, quyền hạn.
Hàng năm, việc kê khai, xác minh tài sản, thu nhập của người có chức vụ, quyền hạn được tiến
hành ở các cấp, các ngành trong hệ thống chính trị diễn ra theo đúng trình tự, thủ tục. Những
năm gần đây, việc thực hiện chi trả lương và các khoản phụ cấp cho cán bộ, công chức, viên
chức nói chung và người có chức vụ, quyền hạn nói riêng đã được thực hiện qua tài khoản ngân
hàng. Nhờ có các biện pháp tuyên truyền thực hiện quy định của Đảng và pháp luật của Nhà
nước về kê khai, xác minh tài sản, thu nhập, ý thức của những người trong diện phải kê khai tài
sản, thu nhập được nâng cao. Công tác kê khai tài sản, xác minh thu nhập của người có chức vụ,
quyền hạn đã góp phần nâng cao trách nhiệm giải trình và minh bạch của hệ thống công vụ.

87
Tài liệu lưu hành nội bộ

Kê khai và xác minh tài sản, thu nhập được xác định là một trong những giải pháp quan
trọng trong công tác phòng ngừa tham nhũng.
Trong thời gian qua việc kê khai xác minh tài sản, thu nhập ở Việt Nam đang ngày càng được
hoàn thiện về hành lang pháp lý, đạt được những kết quả bước đầu trong thực tế triển khai.
Công tác phòng, chống tham nhũng nói chung và việc kê khai, công khai, kiểm soát tài sản,
thu nhập luôn được Đảng ủy, Ban Giám đốc lãnh đạo, chỉ đạo;
Xác định đây là giải pháp quan trọng trong công tác phòng, chống tham nhũng; coi việc chỉ đạo
và tổ chức thực hiện công tác kê khai và kiểm soát việc kê khai tài sản, thu nhập là một trong
những tiêu chí quan trọng để đánh giá chất lượng hoàn thành nhiệm vụ của tập thể, cá nhân
hàng năm ở cơ quan.
Qua thực hiện xác minh năm 2022,
Ngành chức năng cho rằng, công tác kê khai tài sản, thu nhập cá nhân đối với những người có
trách nhiệm kê khai tại các cơ quan, đơn vị, địa phương đã được thực hiện nghiêm túc, đảm bảo
thời gian, niêm yết công khai tại các đơn vị.
Không chỉ phát hiện những tồn tại, thiếu sót trong các bản kê khai của đối tượng kê khai,
mà qua công tác xác minh cũng cho thấy khó khăn, vướng mắc của các thành viên tổ xác
minh như:
Việc xác minh, thu thập thông tin từ các đơn vị liên quan như văn phòng đăng ký quyền sử
dụng đất, các tổ chức tín dụng, cơ quan quản lý đăng ký phương tiện giao thông… còn có nhầm
lẫn, thiếu sót do hệ thống cơ sở dữ liệu của các ngành chưa hoàn thiện; số liệu xác minh chỉ
trong phạm vi của tỉnh, đối với những tài sản nằm ngoài địa bàn tỉnh thì chưa thể xác minh. Mặt
khác, do chưa có hướng dẫn cụ thể về nội dung, cách thức xác minh nên Chánh Thanh tra tỉnh
không có cơ sở để chỉ đạo xác minh và kết luận đối với các tài sản, thu nhập gắn liền với đất;
vàng, kim cương, các loại đá quý; tiền mặt, tiền cho vay, tiền gửi trong và ngoài nước; cổ phiếu,
trái phiếu, các giấy tờ có giá trị khác; các tài sản, tài khoản ở nước
2. Những hạn chế:
Nghị định 130/2020/NĐ-CP quy định việc người cần xác minh được lựa chọn ngẫu nhiên và
công khai bằng hình thức bốc thăm hoặc sử dụng phần mềm máy tính. Tuy nhiên, điều này
không đảm bảo tính công bằng. tất cả cán bộ, công chức có nghĩa vụ thì phải kê khai tài sản và
cần được kiểm soát thường xuyên chứ không phải trông chờ vào “lá thăm may rủi”. Hơn nữa,
việc bốc thăm vô hình trung sẽ tạo ra sự bất bình đẳng ngay trong đội ngũ cán bộ, công chức.
Có khi cán bộ chủ chốt không phải xác minh tài sản, trong khi một cán bộ, công chức dưới
quyền mới được tuyển dụng lại vào diện phải xác minh.
Quy định pháp luật liên quan đến việc xác minh và kiểm soát việc xác minh tài sản, thu nhập
của cán bộ, công chức nói chung và người có chức vụ, quyền hạn chưa đồng bộ, đầy đủ. Như là
quy định về công khai, minh bạch còn chưa mang tính bao quát, thiếu các biện pháp bảo đảm
88
Tài liệu lưu hành nội bộ

thực hiện, đặc biệt là trình tự, thủ tục giải quyết các yêu cầu về cung cấp thông tin. Các quy
định về minh bạch tài sản, thu nhập chưa đủ mạnh để kiểm soát tài sản, thu nhập; còn vướng
mắc về trình tự, thủ tục giải trình, xác minh tài sản, thu nhập; chưa có quy định về việc xử lý tài
sản, thu nhập không được giải trình một cách hợp lý.
Hiện nay còn một số tình trang như: cá nhân có nghĩa vụ kê khai chưa nghiên cứu đầy đủ văn
bản, kê khai thiếu thông tin, chưa đầy đủ chính xác về tài sản, thu nhập, nhất là liên quan đến
quyền sử dụng đất, nhà ở, các tài sản có giá trị, các khoản tiền gửi tại ngân hàng; việc góp vốn
kinh doanh; tổng thu nhập giữa 2 lần kê khai; biến động về tài sản, thu nhập và giải trình nguồn
gốc tài sản, thu nhập tăng thêm…
Bản thân người trong diện kê khai còn lúng túng khi phải tự định giá một số tài sản trước đây
không phải kê khai, xong theo quy định mới phải kê khai. Theo hướng dẫn tại Nghị định số
130/2020/NĐ-CP tài sản, thu nhập phải kê khai có mục các khoản tiền mặt, tiền cho vay, tiền
trả trước, tiền gửi cá nhân, tổ chức trong nước, tổ chức nước ngoài tại Việt Nam mà tổng giá trị
quy đổi từ 50 triệu đồng trở lên gây khó khăn trong việc xác định;
Nội dung các mẫu kê khai không thống nhất, các quy định về nội dung các mẫu kê khai không
thống nhất (lần đầu, hàng năm); việc xác định giá trị từng loại tài sản, thời điểm phát sinh tài
sản có nhiều cách hiểu khác nhau dẫn đến việc kê khai cũng khác nhau; khi công khai bản kê
khai tài sản khó xác định chính xác giá trị, chất lượng tài sản của người có nghĩa vụ phải kê
khai.
Vẫn còn tình trạng việc kê khai tài sản, thu nhập còn mang nặng tính hình thức: Việc kê khai tài
sản, nhà ở hàng năm của cán bộ, công chức vẫn còn mang tính hình thức; thu nhập bằng tiền
chưa được quan tâm đúng mức nên hầu như chưa được đặt ra. Cán bộ, công chức kê khai và
nộp cho cơ quan quản lý, cơ quan quản lý cán bộ, công chức chỉ làm nhiệm vụ lưu hồ sơ mà
chưa có cơ chế giải trình, kiểm tra, xác minh để đảm bảo việc kê khai tài sản minh bạch, trung
thực.
Chưa thể kiểm soát thu nhập: Chúng ta đã có cơ chế kiểm soát thu nhập trong Luật thuế thu
nhập cá nhân đối với người có thu nhập cao và quy định kê khai tài sản. Do điều kiện thanh
toán ở nước ta chủ yếu bằng tiền mặt nên để hạn chế việc trốn thuế của các cá nhân, phương
pháp khấu trừ tại nguồn (thông qua sổ sách), tự kê khai, nộp thuế được thực hiện khá phổ biến.
Tuy nhiên, hiện tượng trốn thuế, không tự giác kê khai nộp thuế vẫn thường xuyên xảy ra. Do
đó, trên thực tế việc kiểm soát mới chỉ là kiểm soát thu thuế, không thể xem là kiểm soát thu
nhập theo đúng nghĩa của nó.
Trách nhiệm của người đứng đầu, nhiều cơ quan, tổ chức, đơn vị (đơn vị) thiếu chủ động tổ
chức kê khai, hầu hết chỉ triển khai khi có nhắc nhở, đôn đốc của cấp trên; việc lập danh sách
xác định người có nghĩa vụ kê khai chưa được quan tâm, có đơn vị danh sách kê khai không
được phê duyệt. Bộ phận phụ trách công tác tổ chức, cán bộ chưa nắm được quy trình, quy định
tổ chức kê khai do đó thiếu sự hướng dẫn và yêu cầu đối với người khai; sai sót trong tiếp nhận,
xử lý, lưu giữ bản khai. Hầu hết các đơn vị đều không mở sổ theo dõi việc giao, nhận Bản kê
89
Tài liệu lưu hành nội bộ

khai; nhiều người khai chưa đúng mẫu, người khai không ký trên các tờ trong bản kê khai; bản
khai không được lưu cùng hồ sơ của Người có nghĩa vụ kê khai tại đơn vị mình.
3. Nguyên nhân:
3.1. Nguyên nhân khách quan:
Hệ thống pháp luật còn chồng chéo, trùng lắp, chưa có quy định cụ thể về xác minh, kê khai,
kiểm soát tài sản, thu nhập.
Về việc xác minh, kê khai, kiểm soát tài sản, thu nhập của người có chức vụ, quyền hạn còn
thực hiện độc lập, thiếu sự gắn kết phối hợp với các biện pháp khác, như thực hiện trách nhiệm
giải trình của người có chức vụ, quyền hạn đối với tài sản, thu nhập của mình.
Các quy định về nội dung xác minh tài sản, thu nhập dễ tiếp cận nhưng chưa được hướng dẫn
chi tiết và chưa thống nhất đối với một số cá nhân được lựa chọn xác minh ngẫu nhiên.
Việc thực hiện thanh toán bằng tiền mặt trong đời sống xã hội ở nước ta còn khá phổ biến, do
vậy khó kiểm soát các giao dịch có sử dụng tiền mặt. Điều này gây khó khăn cho việc kê khai,
kiểm soát tài sản, thu nhập của người có chức vụ, quyền hạn.
Ví dụ: Tại Báo cáo Tổng kết 10 năm thực hiện Luật PCTN nhận định: “Việc thanh toán bằng
tiền mặt vẫn còn phổ biến, gây khó khăn cho việc phát hiện các hành vi trốn thuế, rửa tiền, tham
nhũng... Tuy nhiên, hành lang pháp lý trong lĩnh vực thanh toán không dùng tiền mặt chưa hoàn
thiện, cơ sở hạ tầng về công nghệ chưa đáp ứng được yêu cầu”.
3.2. Nguyên nhân chủ quan:
Ý thức của một số bộ phận người có chức vụ, quyền hạn trong việc kê khai tài sản, thu nhập
chưa cao, chưa tự giác.
Trách nhiệm của người đứng đầu ở một số cơ quan, tổ chức, đơn vị chưa được phát huy, chưa
thực sự được đề cao. Người đứng đầu chưa thực sự quan tâm, quyết liệt trong công tác lãnh đạo,
chỉ đạo, chưa thực sự gương mẫu trong thực hiện việc kê khai, công khai bản kê khai tài sản,
thu nhập.
Về việc còn tồn tại một số cá nhân trong cơ quan, đơn vị thực hiện kê khai không trung thực,
không kê khai tài sản, thu nhập biến động mà chưa được giải trình một cách hợp lý.
Vẫn còn tồn tại một số cá nhân chưa đảm bảo thực hiện xác minh, kê khai tài sản, thu nhập
không trung thực, minh bạch, còn xảy ra tình trạng trốn thuế trong kê khai nộp thuế thu nhập cá
nhân cho Nhà nước.
Hoạt động thanh tra, kiểm tra, giám sát việc thực hiện xác minh, kê khai tài sản, thu nhập của
người có chức vụ, quyền hạn chưa được tiến hành thường xuyên. Một số vụ việc có phát hiện
những dấu hiệu không trung thực của người kê khai nhưng chưa được cơ quan có thẩm quyền
xử ký kịp thời, nghiêm minh.

90
Tài liệu lưu hành nội bộ

Công tác tuyên truyền, phổ biến, hướng dẫn thực hiện các quy định pháp luật về xác minh, kê
khai tài sản, thu nhập của người có chức vụ, quyền hạn ở một số cơ quan, đơn vị chưa được
quan tâm, chưa hiệu quả, bị xem nhẹ hay thực hiện việc kê khai tài sản, thu nhập đối với người
có chức vụ, quyền hạn còn hình thức chưa rõ ràng, nghiêm túc.
4. Giải pháp:
Để nâng cao hiệu quả xác minh tài sản thu nhập của người có chức vụ, quyền hạn cần thiết
ban hành văn bản hướng dẫn cụ thể, chi tiết hơn về thời gian, cách thức xác minh TSTN đối
với các đối tượng được xác minh, theo hướng:
Cần thiết xem xét, phân tích kỹ nguồn gốc hình thành tài sản trong bản kê khai TSTN lần đầu.
Chú trọng phần biến động tài sản và giải trình lý do biến động.
Xem xét, đối chiếu với bản kê khai TSTN của vợ/chồng người được xác minh (nếu nằm trong
đối tượng phải kê khai TSTN) để đánh giá một cách khách quan, đầy đủ, chính xác và đảm bảo
tính trung thực hay không. Kiểm soát TSTN của cán bộ, công chức một cách toàn diện hơn, vì
theo quy định con trên 18 tuổi thì bố mẹ không phải kê khai tài sản, điều này dễ dẫn đến việc
“lách luật”, bố mẹ tham nhũng chuyển tài sản cho con đã thành niên đứng tên sở hữu.
Phối hợp chặt chẽ giữa các cơ quan, tổ chức trong việc xác minh tài sản, thu nhập
Cần có sự phối hợp chặt chẽ giữa các cơ quan, tổ chức trong việc xác minh TSTN. Hiện nay,
việc xác minh TSTN chỉ mới dừng ngang mức độ để cho các đối tượng được xác minh tự giác
kê khai, cung cấp các bằng chứng để chứng minh TSTN hiện có và cam đoan tự chịu trách
nhiệm về kê khai của mình chứ chưa tiến hành xác minh tại các cơ quan, tổ chức có liên quan,
như: Văn phòng Đăng ký quyền sử dụng đất, các ngân hàng thương mại, cơ quan thuế, cơ quan
công an… để chứng minh các cá nhân đã khai hết tài sản của mình hay chưa. Trong thời gian
tới, cần có sự phối, kết hợp giữa các cơ quan, tổ chức và cá nhân có liên quan để nâng cao hơn
nữa hiệu quả công tác xác minh TSTN.
Tiếp cận của công chúng đối với kê khai, minh bạch TS, TN.
Việc thông tin công khai TS,TN cho phép hệ thống công khai TS,TN tranh thủ sự tham gia của
tổ chức xã hội dân sự trong giám sát tờ khai, tăng cường cưỡng chế, từ đó nâng cao uy tín của
cơ chế. Trong một số trường hợp, cơ quan quản lý công khai TS,TN có thể trông cậy vào sự sẵn
sàng và năng lực của các tổ chức phi Chính phủ, giới truyền thông, hay cả hai, để tiến hành các
hoạt động kiểm tra mức sống mà nguồn lực và năng lực của cơ quan không cho phép.
Xác minh nội dung kê khai để giám sát những thay đổi đáng ngờ về tài sản và bảo đảm rằng
mức thu nhập, tài sản được kê khai phù hợp với thu nhập hợp pháp của công chức, cũng
như không có dấu hiệu nào cho thấy tồn tại các xung đột lợi ích tiềm tàng hay thực tế.

91
Tài liệu lưu hành nội bộ

Kiểm tra từng tờ khai về tính nhất quán nội tại trong nội dung. đối chiếu các tờ khai để theo dõi
thay đổi theo từng thời điểm. Kiểm tra chéo nội dung kê khai với các nguồn, cơ sở dữ liệu bên
ngoài (thông tin đất đai, xe cộ, thuế, ngân hàng, v.v...)
Phân tích nội dung kê khai để phát hiện các điểm không phù hợp có thể có (hay mâu thuẫn giữa
lợi ích cá nhân và nhiệm vụ công)
Tiến hành kiểm tra mức sống (nhằm xác minh xem mức sống có phù hợp với thu nhập đã kê
khai hay không).
Cần có cơ chế, chính sách đồng bộ nhằm nâng cao chất lượng dịch vụ thanh toán qua tài
khoản, mở rộng diện sử dụng tài khoản trong thanh toán.
Tài khoản trong thanh toán đóng vai trò rất quan trọng trong việc kiểm soát thu nhập, tài sản đối
với cán bộ, công chức. Ở nước ta các văn bản quy định hạn chế sử dụng tiền mặt, thanh toán
không dùng tiền mặt, chi trả lương qua tài khoản đã được ban hành nhưng thực tế triển khai còn
gặp nhiều khó khăn một phần do hệ thống văn bản chưa đồng bộ, thiếu những quy định pháp lý
cụ thể, chế tài trong việc bắt buộc phải sử dụng tài khoản trong thanh toán, quy định về hạn
mức thanh toán tiền mặt cũng không được nhiều người ủng hộ, hệ thống pháp lý về bảo vệ
người tiêu dùng trực tuyến hầu như chưa có. Vì vậy, thời gian tới cần phải hoàn thiện một cách
đồng bộ hệ thống các quy định này.
Kiểm soát chặt chẽ các khoản tiền, tài sản, thu nhập mà cán bộ, công chức và người thân
đầu tư ra nước ngoài, mua sắm ở nước ngoài.
Thực tế nhiều vụ tham nhũng đã bị phát hiện thì kẻ phạm tội đã đầu tư ra nước ngoài số tiền rất
lớn, nhất là mua bất động sản, gửi tiền ở các ngân hàng nước ngoài thông qua những người thân
của họ. Thường là cho con cái ra nước ngoài du học, sau đó mua nhà cửa cho đứng tên và dần
dần chuyển tài sản trong nước ra nước ngoài một cách hợp pháp thông qua mua bán, đầu tư.
Việc tội phạm tham nhũng, kinh tế với đối tượng là cán bộ, công chức sử dụng chiêu bài đầu tư
ra nước ngoài đã được nhận diện, đề cập nhưng thực tế chưa có chế tài nghiêm khắc, cụ thể,
nhất là đối với các khoản tiền đầu tư ra nước ngoài do người thân đứng tên. Việc các khoản đầu
tư ra nước ngoài của cán bộ, công chức nhưng do người thân đứng tên, nếu bị phát hiện tham
nhũng rất khó thu hồi. Bởi khi đó phát sinh mối quan hệ liên quốc gia, quốc tế, trong khi nhiều
nước lại coi trọng bảo mật thông tin tài sản cá nhân, bảo vệ quyền của chủ thể đứng tên hợp
pháp của tài sản đó...Thiết nghĩ, các cơ quan có thẩm quyền sớm ban hành quy định về việc
kiểm soát các khoản đầu tư ra nước ngoài của cán bộ, công chức và người thân của họ. Theo đó,
mọi khoản đầu tư của những người này đều phải được khai báo rõ ràng với cơ quan có thẩm
quyền để theo dõi, kiểm soát, nhất là về nguồn gốc tài sản. Tăng cường phối hợp, ký kết tương
trợ tư pháp với các nước trong việc kiểm soát tài sản, thu nhập của cán bộ, công chức, nhất là
các khoản đầu tư, mua sắm tài sản lớn của họ ở nước ngoài
III. Kết luận:

92
Tài liệu lưu hành nội bộ

Có thể nói, nếu như kiểm soát tài sản, thu nhập trong cơ quan, tổ chức, đơn vị là một chế định
mới quan trọng của Luật Phòng, chống tham nhũng năm 2018 thì xác minh tài sản, thu nhập
được coi là khâu thiết yếu của quá trình kiểm soát tài sản, thu nhập. Việc xác minh tài sản, thu
nhập nhằm ngăn ngừa, phát hiện, xử lý hành vi tham nhũng (nếu có) đối với người có nghĩa vụ
kê khai; đồng thời góp phần thực hiện nghiêm túc các chủ trương của Đảng, chính sách pháp
luật của Nhà nước về phòng, chống tham nhũng, tiêu cực; nâng cao hiệu quả, hiệu lực của Luật
Phòng, chống tham nhũng năm 2018 và Nghị định 130.
Thời gian gần đây, rất nhiều địa phương đã triển khai kế hoạch xác minh tài sản, thu nhập hàng
năm theo quy định của Luật Phòng, chống tham nhũng năm 2018 và Nghị định 130. Điều này
nhận được sự quan tâm rất lớn của dư luận xã hội, hầu hết đều bày tỏ sự đồng tình với cách làm
thể hiện sự công bằng, minh bạch, cũng như thể hiện sự kiểm tra, giám sát của tổ chức thông
qua kiểm soát tài sản, thu nhập. Thực hiện kiểm soát tài sản, thu nhập hiệu quả là giải pháp
quan trọng trong phòng, chống tham nhũng, phù hợp với chủ trương mà Nghị quyết Đại hội
XIII của Đảng đã xác định. Do đó, tin tưởng rằng nếu những quy định của Luật Phòng, chống
tham nhũng và Nghị định 130 được các bộ, ngành, địa phương tổ chức thực hiện một cách
nghiêm túc sẽ góp phần phòng, chống tham nhũng hiệu quả trong giai đoạn hiện nay.

93

You might also like