You are on page 1of 5

Chuyện người con gái Nam Xương

Nguyễn Dữ
I. Tác giả:

- Nguyễn Dữ

II. Tác phẩm:

1. Xuất xứ: “Chuyện người con gái Nam Xương” là truyện thứ 16 trong số 20 truyện nằm trong
tác phẩm nổi tiếng nhất của Nguyễn Dữ “Truyền kỳ mạn lục”. Truyện có nguồn gốc từ một
truyện cổ dân gian trong kho tàng cổ tích Việt Nam “Vợ chàng Trương”.

2. Thể loại: Truyện truyền kỳ mạn lục (ghi chép tản mạn những truyện kỳ lạ vẫn được lưu
truyền). Viết bằng chữ Hán.

3. Chủ đề: Qua câu chuyện về cuộc đời và cái chết thương tâm của Vũ Nương, “Chuyện người
con gái Nam Xương” thể hiện niềm thương cảm đối với số phận oan nghiệt, đồng thời ca ngợi
vẻ đẹp truyền thống của những phụ nữ Việt Nam dưới chế độ phong kiến.

III. NHỮNG PHẨM CHẤT TỐT ĐẸP CỦA NHÂN VẬT VŨ NƯƠNG

Tác giả Nguyễn Dữ đã đặt nhân vật Vũ Nương vào từng hoàn cảnh khác nhau để bộc lộ đời sống
và tính cách của nhân vật

Ngay từ những dòng chữ đầu tiên, Vũ Nương được giới thiệu “tính đã thùy mị, nết na, lại thêm
tư dung tốt đẹp”. Chàng Trương chính bởi vì mến dung hạnh đó nên mới xin mẹ đem trăm lạng
vàng cưới nàng về.

1. Khi mới lấy chồng


- Vũ Nương luôn khéo léo cư xử đúng mực, “giữ gìn khuôn phép” dù chồng có tính đa nghi,
phòng ngừa quá sức. Nàng “không từng để lúc nào vợ chồng phải đến thất hòa”.
=> Là người phụ nữ có tư dung tốt đẹp, có cách cư xử đúng mực và giữ gìn gia đình.

2. Khi tiễn chồng đi lính:

- Hành động: rót chén rượu đầy, dặn dò chồng những lời tình nghĩa đằm thắm.

- Lời nói: “Chàng đi chuyến này, thiếp chẳng dám...thế là đủ rồi”

-> Nàng không mong vinh hiển, chỉ mong chồng bình an.

- “Chỉ e việc quân khó liệu,..mẹ hiền lo lắng”


-> Nàng cũng cảm thông cho những nỗi gian lao, vất vả mà chồng sẽ phải chịu đựng.

- “Nhìn trăng soi thành cũ,..bay bổng”

-> Nàng bộc lộ nỗi nhớ nhung, trông chờ khắc khoải của mình khi xa chồng.
=> Vũ Nương là một người phụ nữ dịu dàng, hết mực yêu thương chồng.

3. Khi xa chồng:

- Các hình ảnh ước lệ của thiên nhiên: “..mỗi khi thấy bướm lượn đầy vườn, mây che kín núi, thì
nỗi buồn góc bể chân trời không thể nào ngăn được”

-> Nỗi buồn nhớ chồng vò võ, da diết, kéo dài qua năm tháng.

- Cách nàng đối xử với mẹ chồng:

+ Khi mẹ chồng ốm: “hết sức thuốc thang lễ bái thần phật”, “lấy lời ngọt ngào khôn khéo khuyên
lơn”.

+ Khi mẹ chồng mất: “hết lời thương xót, phàm việc ma chay tế lễ, lo liệu như đối với cha mẹ đẻ
mình”.

+ Lời trăng trối cuối cùng của mẹ chồng chính là lời đánh giá khách quan nhất cho những công
lao của Vũ Nương với gia đình: “...xanh kia quyết chẳng phụ con, cũng như con đã chẳng phụ
mẹ”.

-> Nàng còn là một người con dâu hiếu thảo, tận tình chăm sóc mẹ chồng già yếu ốm đau.

- Cách nàng đối xử với con:

+ Hết lòng nuôi dạy, chăm sóc, bù đắp cho đứa con trai nhỏ thiếu vắng tình cha.

+ Chỉ vào bóng mình trên vách mà nói đó là cha Đản để dỗ con.

-> Nàng rất mực yêu thương con, sẵn sàng vừa làm cha lại vừa làm mẹ để tâm hồn con được đủ
đầy.
=> Nàng đã làm tròn bổn phận của một người phụ nữ: một người vợ thủy chung, một người mẹ
hiền và một người con dâu hiếu thảo.
4. Khi bị chồng nghi oan:

- Lời thoại 1: “Thiếp vốn con kẻ khó...nghi oan cho thiếp”

+ Nàng nhắc đến thân phận của mình để có tình nghĩa vợ chồng: “Thiếp vốn con kẻ khó, được
nương tựa nhà giàu”.

+ Nàng khẳng định tấm lòng thủy chung: “Cách biệt ba năm giữ gìn một tiết”.
+ Cầu xin chồng đừng nghi oan: “Dám xin bày tỏ để cởi mối nghi ngờ. Mong chàng đừng một
mực nghi oan cho thiếp”.

-> Nàng hết lòng tha thiết, nhún nhường, hàn gắn hạnh phúc gia đình có nguy cơ tan vỡ.

- Lời thoại 2: “Thiếp sở dĩ nương tựa vào chàng…núi Vọng Phu kia nữa”

+ Hạnh phúc gia đình “nghi gia nghi thất” - niềm khao khát cả đời nàng đã tan vỡ.

+ Đến nỗi đau của “cố nhân” nàng cũng không có được: “đâu còn có thể lên lại núi Vọng Phu kia
nữa".

-> Nàng nói lên nỗi đau đớn, thất vọng vì bị đối xử bất công.

- Lời thoại 3 và hành động trẫm mình của nàng: “Đoạn rồi nàng tắm gội chạy sạch…xuống sông
mà chết”.

+ Lời độc thoại như một lời nguyền, lời than xin thần sông chứng giám nỗi oan khuất và chứng
minh phẩm hạnh cao đẹp của nàng.

+ Hành động quyết liệt cuối cùng để bảo toàn danh dự: “tắm gội chạy sạch, ra bến Hoàng Giang
ngửa mặt lên trời mà than, gieo mình xuống sông chết”.

=> Trọng danh dự, sống tình nghĩa. Đối với người con gái đức hạnh và giàu đức hi sinh ấy, phẩm
giá còn cao hơn cả sự sống.

IV. NGUYÊN NHÂN DẪN TỚI BI KỊCH CỦA VŨ NƯƠNG

- Nguyên nhân trực tiếp: do lời nói ngây thơ của bé Đản. Đêm đêm, ngồi buồn dưới ngọn đèn
khuya, Vũ Nương thường “trỏ bóng mình mà bảo là cha Đản”. Vậy nên Đản mới ngộ nhận đó là
cha mình, khi người cha thật chở về thì không chịu nhận và còn vô tình đưa ra những thông tin
khiến mẹ bị oan.
- Nguyên nhân gián tiếp:

+ Do người chồng đa nghi, hay ghen

+ Do cách cư xử hồ đồ, thái độ phũ phàng, thô bạo của Trương Sinh

+ Do cuộc hôn nhân không bình đẳng

+ Do lễ giáo hà khắc

+ Do chiến tranh phong kiến phi nghĩa 

V. Ý NGHĨA CHI TIẾT CÁI BÓNG


- Chi tiết cái bóng là một chi tiết nhỏ nhưng có ý nghĩa rất quan trọng trong tác phẩm:

+ Đối với sự phát triển của câu chuyện; đây vừa là chi tiết thắt nút, vừa là chi tiết mở nút của câu
chuyện:

+ Nó thắt nút vì khiến Trương Sinh nghi ngờ vợ mình, mà đánh đuổi vợ đi, đưa mâu thuẫn của
câu chuyện lên đỉnh điểm.

+ Nó mở nút vì giúp Trương Sinh nhận ra lỗi lầm của mình đã nghi oan cho vợ.

=> Chiếc bóng đã tạo sự bất ngờ, nhấn mạnh vào bi kịch và tăng thêm tính kì ảo cho câu chuyện.

- Chi tiết cái bóng còn góp phần làm nổi bật phẩm chất, tính cách nhân vật:

+ Với nhân vật Vũ nương, ta thấy rõ tình yêu chồng, thương con. Chi tiết này đã hoàn thiện thêm
vẻ đẹp của nhân vật.

+ Với nhân vật Trương Sinh, chi tiết đã thể hiện rõ tính đa nghi, hay ghen, gia trưởng, độc đoán
và tàn nhẫn của nhân vật.

=> Chi tiết cái bóng đã tố cáo xã hội phong kiến nhiều bất công ngang trái và bày tỏ tấm lòng
nhân đạo, xót thương cho người phụ nữ của tác giả Nguyễn Dữ. Qua đó thể hiện ước mơ của
nhân dân ta về lẽ công bằng ở đời.

VI. Ý NGHĨA CỦA CÁC CHI TIẾT KÌ ẢO

* Các chi tiết kỳ ảo trong câu chuyện:

- Phan Lang nằm mộng rồi thả rùa.

- Phan Lang gặp nạn, lạc vào động rùa, gặp Linh Phi, được cứu giúp; gặp lại Vũ Nương, được sứ
giả của Linh Phi rẽ đường nước đưa về dương thế.

- Vũ Nương hiện về trong lễ giải oan trên bến Hoàng Giang giữa lung linh, huyền ảo rồi lại biến
đi mất.

* Cách đưa các chi tiết kỳ ảo:

- Các yếu tố này được đưa vào xen kẽ với những yếu tố thực về địa danh, về thời điểm lịch sử,
những chi tiết thực về trang phục của các mỹ nhân, về tình cảnh nhà Vũ Nương không người
chăm sóc sau khi nàng mất… Cách thức này làm cho thế giới kỳ ảo lung linh, mơ hồ trở nên gần
với cuộc đời thực, làm tăng độ tin cậy, khiến người đọc không cảm thấy ngỡ ngàng.

* Ý nghĩa của các chi tiết kỳ ảo:

- Làm nên đặc trưng của thể loại truyện truyền kì, làm tăng sức hấp dẫn của câu chuyện.
- Thể hiện sự sáng tạo của ngòi bút Nguyễn Dữ
- Làm hoàn chỉnh thêm nét đẹp vốn có của nhân vật Vũ Nương: nặng tình, nặng nghĩa,
quan tâm đến chồng con, khao khát được phục hồi danh dự.
- Thể hiện ước mơ, lẽ công bằng ở cõi đời của nhân dân ta.
- Tạo nên một kết thúc phần nào có hậu cho câu chuyện
- Các chi tiết kì ảo đồng thời cũng không làm mất đi tính bi kịch cho câu chuyện. Tác giả
đưa người đọc vào giấc chiêm bao rồi lại kéo chúng ta sực tỉnh. Sương khói giải oan tan
đi, chỉ còn một sự thật cay đắng: nỗi oan của người phụ nữ không một đàn tràng nào giải
nổi, sự ân hận muộn màng không thể cứu vãn của người chồng. Đó là giấc mơ mà cũng là
lời cảnh tỉnh của tác giả, là bài học thấm thía về giữ gìn hạnh phúc gia đình.

You might also like