You are on page 1of 19

ĐẠI HỌC NGOẠI THƯƠNG HÀ NỘI

KHOA: LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ

TIỂU LUẬN KINH TẾ CHÍNH TRỊ

QUY LUẬT GIÁ TRỊ VÀ BIỂU HIỆN CỦA NÓ TRONG


NỀN KINH TẾ THỊ TRƯỜNG

Sinh viên thực hiện: Nguyễn Thu Huyền


Lớp hành chính: Anh 03
Lớp tín chỉ: TRI115.K61.7
Khối: 01 – Kinh tế quốc tế
Khóa: 61
MSV: 2211410075
Giáo viên hướng dẫn: ThS. Đinh Thị Quỳnh Hà

Hà Nội, 2022

Trang 1
MỤC LỤC

CHƯƠNG I: QUY LUẬT GIÁ TRỊ VÀ VAI TRÒ CỦA QUY LUẬT
GIÁ TRỊ TRONG NỀN KINH TẾ THỊ TRƯỜNG ............................... 5

1.1. Quy luật giá trị ............................................................................. 5

1.1.1. Khái niệm quy luật giá trị ............................................................. 5

1.1.2. Nội dung của quy luật giá trị ........................................................ 5

1.1.3. Hình thức của quy luật giá trị ....................................................... 6

1.2. Tác động của quy luật giá trị trong nền kinh tế hàng hoá. ........ 6

1.2.1. Điều tiết sản xuất và lưu thông hàng hoá ..................................... 6

1.2.2. Kích thích cải tiến kỹ thuật, hợp lý hoá sản xuất nhằm tăng năng
suất lao động. ............................................................................................ 8

1.2.3. Phân hoá những người sản xuất hàng hoá nhỏ, làm nảy sinh quan
hệ kinh tế tư bản chủ nghĩa. ..................................................................... 8

CHƯƠNG II: THỰC TRẠNG VIỆC VẬN DỤNG QUY LUẬT GIÁ
TRỊ VÀO NỀN KINH TẾ NƯỚC TA THỜI GIAN QUA VÀ NHỮNG
GIẢI PHÁP NHẰM VẬN DỤNG TỐT HƠN QUY LUẬT Ở NƯỚC
TA TRONG THỜI GIAN TỚI. ............................................................. 10

2.1. Kinh tế thị trường và sự cần thiết phát triển kinh tế thị trường
ở Việt Nam. ............................................................................................. 10

2.1.1. Khái niệm kinh tế thị trường....................................................... 10

2.1.2. Thực trạng việc vận dụng quy luật giá trị và vai trò của quy luật
giá trị trong nền kinh tế ở nước ta thời gian qua .................................... 10

2.1.3. Thực trạng việc vận dụng quy luật giá trị ở nước ta thời gian
qua…...………………………………………………………....….……..10

2.1.4. Tác động của quy luật giá trị ...................................................... 15

Trang 2
2.2. Những giải pháp nhằm vận dụng tốt hơn quy luật giá trị ở
nước ta trong thời gian tới ..................................................................... 16

2.2.1. Điều tiết khống chế quản lý vĩ mô ............................................... 16

2.2.2. Giảm bất bình đẳng xã hội, giải quyết mâu thuẫn giữa hiệu quả và
công bằng ................................................................................................ 16

2.2.3. Quan tâm, đầu tư hơn nữa vào nền giáo dục ............................. 17

Trang 3
LỜI MỞ ĐẦU

Kinh tế Việt Nam Dân chủ Cộng hòa cho tới năm 1986 đã
chuyển sang kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Đây là
nền kinh tế hỗn hợp, phụ thuộc cao vào xuất khẩu thô và đầu tư trực
tiếp nước ngoài. Xét về mặt kinh tế, Việt Nam là quốc gia thành viên
của Liên Hiệp Quốc, Tổ chức Thương mại Thế giới, Quỹ Tiền tệ
Quốc tế, Nhóm Ngân hàng Thế giới, Ngân hàng Phát triển Châu Á,
Diễn đàn Hợp tác Kinh tế châu Á-Thái Bình Dương, ASEAN,… Kinh
tế Việt Nam dưới sự điều hành của chính phủ còn nhiều vấn đề tồn
tại cần giải quyết, các vấn đề tồn tại gắn liền với gốc rễ của bất ổn
kinh tế vĩ mô đã ăn sâu, bám chặt vào cơ cấu nội tại của nền kinh tế
nước ta, cộng với việc điều hành kém hiệu quả, dẫn đến liên tục gặp
lạm phát cũng như nguy cơ đình đốn nền kinh tế.
Chúng ta đã biết được Quy luật giá trị là quy luật kinh tế cơ bản
của sản xuất hàng hóa, quy định bản chất của sản xuất hàng hóa. Ở
đâu có sản xuất và trao đổi hàng hóa thì ở đó có sự xuất hiện của quy
luật giá trị. Mọi hoạt động của chủ thể kinh tế trong sản xuất và lưu
thông hàng hóa đều chịu sự tác động của quy luật này. Chính vì thế,
chúng ta cần nghiên cứu về quy luật giá trị, tìm hiểu vai trò và tác
động của nó tới nền kinh tế, đặc biệt trong nền kinh tế thị trường hiện
nay, để có thể vận dụng nó khắc phục những nhược điểm của nền kinh
tế và phát triển đất nước. Vì vậy em đã quyết định lựa chọn đề tài “
Quy luật giá trị và biểu hiện của nó trong nền kinh tế thị trường
Việt Nam”.
Em xin cảm ơn sự hướng dẫn và và dạy dỗ tận tình qua các bài
giảng của cô giáo Đinh Thị Quỳnh Hà. Rất mong sự đóng góp ý
kiến của cô để bài tiểu luận được trở nên hoàn thiện hơn.
Em xin chân thành cảm ơn!

Trang 4
NỘI DUNG
CHƯƠNG I: QUY LUẬT GIÁ TRỊ VÀ VAI TRÒ CỦA QUY LUẬT
GIÁ TRỊ TRONG NỀN KINH TẾ THỊ TRƯỜNG

1.1. Quy luật giá trị

1.1.1. Khái niệm quy luật giá trị

Quy luật giá trị là quy luật kinh tế cơ bản nhất của sản xuất và trao đổi
hàng hóa. Chừng nào còn sản xuất và trao đổi hàng hóa thì chừng đó còn quy
luật giá trị.

1.1.2. Nội dung của quy luật giá trị

Trong nền kinh tế hàng hóa, hàng hóa và dịch vụ do các doanh nghiệp,
những người sản xuất hàng hóa tư nhân, riêng lẻ sản xuất ra. Những chủ thể
sản xuất hàng hóa cạnh tranh với nhau. Mỗi người sản xuất hàng hóa đều
nghĩ đến cách chen lấn người khác, đều muốn giữ vững và mở rộng thêm địa
vị của mình trên thị trường. Mỗi người đều tự mình sản xuất, không phụ
thuộc vào người khác, nhưng trên thị trường, những người sản xuất hàng hóa
là bình đẳng với nhau. Sản xuất hàng hóa càng phát triển thì quyền lực của
thị trường đối với người sản xuất hàng hóa càng mạnh. Nó như thế có nghĩa
là trong nền kinh tế hàng hóa có những quy luật kinh tế ràng buộc và chi phối
hoạt động của những người sản xuất hàng hóa.

Quy luật giá trị quy định việc sản xuất và trao đổi hàng hóa phải căn cứ
vào hao phí lao động xã hội cần thiết.

Quy định ấy là khách quan, đảm bảo sự công bằng hợp lý, bình đẳng giữa
những người sản xuất và trao đổi hàng hóa. Quy luật giá trị buộc những người
sản xuất và trao đổi hàng hóa phải tuân theo "mệnh lệnh" của giá cả thị
trường. Thông qua sự vận động của giá cả thị trường sẽ thấy được sự hoạt
động của quy luật giá trị. Giá cả thị trường lên xuống một cách tự phát xoay

Trang 5
quanh giá trị hàng hóa và biểu hiện sự tác động của quy luật giá trị trong điều
kiện sản xuất và trao đổi hàng hóa.

1.1.3. Hình thức của quy luật giá trị

Trong nền sản xuất hàng hóa giản đơn: sản phẩm làm ra, trao đổi với
mục đích là để thoả mãn nhu cầu cá nhân.Vì vậy, lưu thông và buôn bán
không phải là mục đích chính của người sản xuất.

Trong nền sản xuất hàng hóa TBCN: Hàng hóa được làm ra không đơn
thuần để trao đổi mà còn để buôn bán và lưu thông.

Giá trị hàng hóa biểu hiện ra bằng tiền được gọi là giá cả hàng hóa. Trong
nền kinh tế XHCN, tiền tệ cũng dùng làm tiêu chuẩn giá cả.

Tuỳ vào từng giai đoạn mà quy luật giá trị có các hình thức chuyển hóa
khác nhau. Trong giai đoạn CNTB tự do cạnh tranh, quy luật giá trị chuyển
hóa thành quy luật giá cả sản xuất. Trong giai đoạn CNTB độc quyền, quy
luật giá trị chuyển hoá thành quy luật giá cả độc quyền cao.

1.2. Tác động của quy luật giá trị trong nền kinh tế hàng hóa.

Như đã biết quy luật giá trị là quy luật kinh tế quan trọng nhất của sản
xuất và lưu thông hàng hóa. Trong nền kinh tế hàng hóa, quy luật giá trị có
những tác động sau đây:

1.2.1. Điều tiết sản xuất và lưu thông hàng hóa

Trong nền sản xuất hàng hóa dựa trên chế độ tư hữu thường xảy ra tình
hình: người sản xuất bỏ ngành này, đổ xô vào ngành khác; tư liệu sản xuất
và sức lao động xã hội được chuyển từ ngành này sang ngành khác, quy mô
sản xuất của ngành này thu hẹp lại thì ngành kia lại mở rộng ra với tốc độ
nhanh chóng. Chính quy luật giá trị đã gây ra những hiện tượng đó, đã điều
tiết việc sản xuất trong xã hội. Muốn hiểu rõ vấn đề này, cần xem xét những
trường hợp thường xảy ra trên thị trường hàng hóa:
Trang 6
- Giá cả nhất trí với giá trị;

- Giá cả cao hơn giá trị;

- Giá cả thấp hơn giá trị.

Trường hợp thứ nhất nói lên cung và cầu trên thị trường nhất trí với nhau,
sản xuất vừa khớp với nhu cầu của xã hội. Do dựa trên chế độ tư hữu, sản
xuất hàng hóa tiến hành một cách tự phát, vô chính phủ, nên trường hợp này
hết sức hiếm và ngẫu nhiên.

Trường hợp thứ hai nói lên cung ít hơn cầu, sản xuất không thoả mãn
được nhu cầu của xã hội nên hàng hóa bán chạy và lãi cao. Do đó, những
người sản xuất loại hàng hóa đó sẽ mở rộng sản xuất; nhiều người trước kia
sản xuất loại hàng hóa khác cũng chuyển sang sản xuất loại này. Tình hình
đó làm cho tư liệu sản xuất và sức lao động được chuyển vào ngành này
nhiều hơn các ngành khác.

Trường hợp thứ ba chỉ rõ cung cao hơn cầu, sản phẩm làm ra quá nhiều
so với nhu cầu xã hội, hàng hóa bán không chạy và bị lỗ vốn. Tình hình đó
buộc một số người sản xuất ở ngành này phải rút bớt vốn chuyển sang ngành
khác, làm cho tư liệu sản xuất và sức lao động giảm đi ở ngành này.

Như vậy là theo "mệnh lệnh" của giá cả thị trường lúc lên, lúc xuống
xoay quanh giá trị mà có sự di chuyển tư liệu sản xuất và sức lao động từ
ngành này sang ngành khác, do đó quy mô sản xuất của ngành đó mở rộng.
Việc điều tiết tư liệu sản xuất và sức lao động trong từng lúc có xu hướng
phù hợp với yêu cầu của xã hội, tạo nên những tỷ lệ cân đối nhất định giữa
các ngành sản xuất. Đó là biểu hiện vai trò điều tiết sản xuất của quy luật giá
trị. Nhưng sản xuất trong điều kiện chế độ tư hữu, cạnh tranh, vô chính phủ
nên những tỷ lệ cân đối hình thành một cách tự phát đó chỉ là hiện tượng tạm
thời và thường xuyên bị phá vỡ, gây ra những lãng phí to lớn về của cải xã
hội.

Trang 7
Quy luật giá trị không chỉ điều tiết sản xuất mà điều tiết cả lưu thông
hàng hóa. Giá cả của hàng hóa hình thành một cách tự phát theo quan hệ
cung cầu. Cung và cầu có ảnh hưởng đến giá cả, nhưng giá cả cũng có tác
dụng khơi thêm luồng hàng, thu hút luồng hàng từ nơi giá thấp đến nơi giá
cao. Vì thế, lưu thông hàng hoá cũng do quy luật giá trị điều tiết thông qua
sự lên xuống của giá cả xoay quanh giá trị.

1.2.2. Kích thích cải tiến kỹ thuật, hợp lý hóa sản xuất nhằm tăng năng
suất lao động.

Các hàng hóa được sản xuất trong những điều kiện khác nhau nên có giá
trị cá biệt khác nhau, nhưng trên thị trường đều phải trao đổi theo giá trị xã
hội. Người sản xuất nào có giá trị cá biệt của hàng hóa thấp hơn giá trị xã hội
thì có lợi; trái lại, người có giá trị cá biệt cao hơn giá trị xã hội sẽ ở thế bất
lợi, có thể bị phá sản. Để tránh bị phá sản và giành ưu thế trong cạnh tranh,
mỗi người sản xuất hàng hóa đều tìm cách giảm giá trị cá biệt hàng hóa của
mình xuống dưới mức giá trị xã hội bằng cách cải tiến kỹ thuật, hợp lý hóa
sản xuất để tăng năng suất lao động. Lúc đầu, chỉ có kỹ thuật của một số cá
nhân được cải tiến, về sau do cạnh tranh nên kỹ thuật của toàn xã hội được
cải tiến. Như thế là quy luật giá trị đã thúc đẩy lực lượng sản xuất và sản xuất
phát triển.

1.2.3. Phân hóa những người sản xuất hàng hóa nhỏ, làm nảy sinh
quan hệ kinh tế tư bản chủ nghĩa.

Trên thị trường, các hàng hóa có giá trị cá biệt khác nhau đều phải trao
đổi theo giá trị xã hội. Do đó, trong quá trình sản xuất và trao đổi hàng hóa
không tránh khỏi tình trạng một số người sản xuất phát tài, làm giàu, còn số
người khác bị phá sản.

Trong nền sản xuất hàng hóa giản đơn, sự tác động của quy luật giá trị
dẫn đến kết quả là một số ít người mở rộng dần kinh doanh, thuê nhân công

Trang 8
và trở thành nhà tư bản, còn một số lớn người khác bị phá sản dần, trở thành
những người lao động làm thuê. Thế là sự hoạt động của quy luật giá trị dẫn
tới hệ phân hóa những người sản xuất hàng hóa, làm cho quan hệ tư bản chủ
nghĩa phát sinh. Lênin nói "… nền tiểu sản xuất thì từng ngày, từng giờ, luôn
luôn đẻ ra chủ nghĩa tư bản và giai cấp tư sản, một cách tự phát và trên quy
mô rộng lớn".

Trong nền sản xuất hàng hóa tư bản chủ nghĩa, quy luật giá trị cũng tác
động hoàn toàn tự phát "sau lưng" người sản xuất, hoàn toàn ngoài ý muốn
của nhà tư bản. Chỉ trong nền kinh tế xã hội chủ nghĩa, do chế độ công hữu
về tư liệu sản xuất chiếm địa vị thống trị, con người mới có thể nhận thức và
vận dụng quy luật giá trị một cách có ý thức để phục vụ lợi ích của mình.

Nghiên cứu quy luật giá trị không chỉ để hiểu biết sự vận động của sản
xuất hàng hóa, trên cơ sở đó nghiên cứu một số vấn đề khác trong xã hội tư
bản chủ nghĩa, mà còn có ý nghĩa quan trọng đối với thực tiễn xây dựng chủ
nghĩa xã hội. Các đảng cộng sản và nhà nước xã hội chủ nghĩa coi trọng việc
vận dụng quy luật giá trị trong việc quy định chính sách giá cả, kế hoạch hóa
nền kinh tế quốc dân, thực hiện hạch toán kinh tế v.v..

Trang 9
CHƯƠNG II: THỰC TRẠNG VIỆC VẬN DỤNG QUY LUẬT GIÁ
TRỊ VÀO NỀN KINH TẾ NƯỚC TA THỜI GIAN QUA VÀ NHỮNG
GIẢI PHÁP NHẰM VẬN DỤNG TỐT HƠN QUY LUẬT Ở NƯỚC
TA TRONG THỜI GIAN TỚI.

2.1 . Kinh tế thị trường và sự cần thiết phát triển kinh tế thị trường ở
Việt Nam.

2.1.1. Khái niệm kinh tế thị trường

Kinh tế thị trường là nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần, vận động
theo cơ chế thị trường.

2.1.2. Thực trạng việc vận dụng quy luật giá trị và vai trò của quy luật
giá trị trong nền kinh tế ở nước ta thời gian qua

Nước ta đang thực hiện chuyển đổi nền kinh tế từ nền kinh tế kế hoạch
hóa tập trung sang nền kinh tế hàng hóa. Mô hình kinh tế của nước ta được
xác định là: Nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần định hướng XHCN.

2.1.3. Thực trạng việc vận dụng quy luật giá trị ở nước ta thời gian qua

Trước khi đổi mới, cơ chế kinh tế nước ta hoạt động theo cơ chế tập trung
bao cấp. Nhà nước lãnh đạo nền kinh tế một cách có kết hoạch mang nhiều
yếu tố chủ quan. Điều này đã phủ nhận tính khách quan của quy luật giá trị
làm triệt tiêu những nhân tố tích cực, năng động của xã hội. Nền kinh tế rơi
vào tình trạng kém phát triển.

Sau khi đổi mới, quy luật giá trị được nhà nước vận dụng vào kế hoạch
hóa mang tính định hướng. Nhà nước phải dựa trên tình hình định hướng giá
cả thị trường để tính toán vận dụng quy luật giá trị vào việc xây dựng kế
hoạch. Do giá cả hàng hóa là hình thức biểu hiện riêng của giá trị, nhưng nó
còn chịu sự tác động của các quy luật kinh tế khác như quy luật cung cầu.
Tình hình kinh tế nước ta trong thời gian qua:
Trang 10
a) Tăng trưởng kinh tế và đóng góp vào tăng trưởng GDP

Nhìn lại 10 năm thực hiện Chiến lược phát triển kinh tế-xã hội giai đoạn
2011-2020 cho thấy, tốc độ tăng trưởng kinh tế được duy trì ở mức độ khá
cao. Tính chung cả thời kỳ Chiến lược 2011-2020, tăng trưởng GDP dự kiến
đạt khoảng 5,9%/năm, thuộc nhóm các nước tăng trưởng cao trong khu vực
và trên thế giới.

Giai đoạn 2011-2015, tốc độ tăng trưởng tổng sản phẩm trong nước
(GDP) đạt bình quân 5,9%/năm. Giai đoạn 2016-2019, tăng trưởng đạt
6,8%/năm.

Đặc biệt, từ đầu năm 2020, năm cuối của thời kỳ Chiến lược, đại dịch
Covid-19 bùng phát, ảnh hưởng nặng nề và lan rộng trên khắp toàn cầu, dẫn
đến tình trạng suy thoái kinh tế thế giới nghiêm trọng chưa từng có trong
nhiều thập kỷ, tốc độ tăng trưởng ước đạt trên 2%, bình quân giai đoạn 2016-
2020 đạt khoảng 5,9%/năm.

Cơ cấu GDP theo ngành kinh tế đã có chuyển dịch tích cực theo hướng
giảm tỷ trọng khu vực nông - lâm - ngư nghiệp và tăng tỷ trọng của khu vực
công nghiệp - xây dựng và dịch vụ. Tuy nhiên, chuyển dịch cơ cấu lao động
nhanh hơn so với sự dịch chuyển GDP nên sự dịch chuyển cơ cấu ngành kinh
tế chưa hiệu quả, chưa theo hướng hiện đại, sản xuất vẫn còn mang tính gia
công và phụ thuộc vào khu vực nước ngoài. Năm 2000, khu vực nông - lâm
- ngư nghiệp trong GDP chiếm 14,85%. Và khu vực công nghiệp xây dựng
là 33,72% và khu vực dịch vụ là 41,63% từ mức 36,9% và 42,4% tương ứng
của năm 2011.

b) Xuất khẩu, nhập khẩu hàng hoá

Năm 2021, dù ảnh hưởng nặng nề của dịch bệnh Covid-19, song hoạt
động xuất nhập khẩu của cả nước vẫn khá sôi động. Kim ngạch xuất khẩu
hàng hoá năm 2021 đạt 668,5 tỷ USD, tăng 22,6% so với năm 2020, cao hơn

Trang 11
nhiều so với mức tăng 6,5% của năm 2020, trong đó xuất khẩu tăng 19%,
nhập khẩu tăng 26,5%.

Về hoạt động xuất khẩu, tính chung năm 2021, kim ngạch xuất khẩu hàng
hóa ước đạt 336,25 tỷ USD, tăng 19% so với năm trước. Trong đó, khu vực
kinh tế trong nước đạt 88,71 tỷ USD, tăng 13,4%, chiếm 26,4% tổng kim
ngạch xuất khẩu; khu vực có vốn đầu tư nước ngoài (kể cả dầu thô) đạt
247,54 tỷ USD, tăng 21,1%, chiếm 73,6%.

Về hoạt động nhập khẩu, tính chung năm 2021, kim ngạch nhập khẩu
hàng hóa ước đạt 332,25 tỷ USD, tăng 26,5% so với năm trước, trong đó khu
vực kinh tế trong nước đạt 114,07 tỷ USD, tăng 21,8%; khu vực có vốn đầu
tư nước ngoài đạt 218,18 tỷ USD, tăng 29,1%. Trong tổng kim ngạch nhập
khẩu, nhóm hàng tư liệu sản xuất chiếm 93,5%, trong khi nhóm hàng vật
phẩm tiêu dùng chỉ chiếm 6,5%.

c) Lạm phát

Cùng với tốc độ tăng trưởng kinh tế tương đối cao, Việt Nam đã khá
thành công trong việc kiềm chế và kiểm soát lạm phát. Tính chung cả năm
2021, chỉ số giá tiêu dùng tăng 1,84% so với năm trước, mức tăng thấp nhất
kể từ năm 2016. Tốc độ tăng CPI bình quân cách năm 2016-2021 so với năm
trước lần lượt là: Tăng 2,66%, tăng 3,53%, tăng 3,54%, tăng 2,79%, tăng
3,23%, tăng 1,84%.

Kinh tế Việt Nam giai đoạn 2016 - 2020 luôn giữ được ổn định; lạm phát
bình quân tăng 3,15%/năm, thấp hơn mục tiêu 4% của Quốc hội đề ra. Nhưng
để đưa nền kinh tế trở lại mức tăng của những năm trước đại dịch và thực
hiện định hướng phát triển kinh tế - xã hội giai đoạn 2021 - 2025 với tốc độ
tăng GDP bình quân 5 năm từ 6,5 - 7%, đòi hỏi chúng ta phải thực hiện chính
sách tài khóa và tiền tệ linh hoạt, mở rộng; chấp nhận lạm phát vượt mục tiêu
4% của Quốc hội, nhưng vẫn nằm trong ngưỡng lạm phát cho phép.

Trang 12
d) Đầu tư và tiết kiệm

Tổng vốn đầu tư toàn xã hội giai đoạn 2016-2020 đạt khoảng 9,2 triệu tỉ
đồng, tăng liên tục từ 1.485,1 tỷ đồng năm 2016 lên 2164,5 tỷ đồng năm
2020 và 2.130,3 tỷ đồng ước tính 9 tháng năm 2022 (giá hiện hành). Tổng
đầu tư xã hội so với GDP cũng tăng nhanh, từ 33% năm 2016 lên 34,4% năm
2020, là mức cao nhất trong cả giai đoạn. Vốn đầu tư toàn xã hội theo hiện
hành năm 2021 tăng 3,2% so với năm 2020. Tuy đây là mức tăng thấp nhất
trong những năm qua nhưng là kết quả khả quan trong bối cảnh đại dịch
COVID-19 diễn biến phức tạp trong nước và trên thế giới.

Trong cơ cấu vốn đầu tư, vốn của tư nhân và vốn đầu tư nước ngoài ngày
càng chiếm tỉ trọng lớn. Năm 2016, vốn khu vực nhà nước chiếm 37,6% tổng
vốn và tăng 7,2%; vốn khu vực ngoài Nhà nước chiếm 39% và tăng 9,7%;
vốn khu vực có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài chiếm 23,4% và tăng 9,4%.
Sang đến năm 2020, vốn khu vực nhà nước chiếm 24,7% tổng vốn và giảm
2,9% so với năm 2020; khu vực ngoài nhà nước chiếm 59,5% và tăng 7,2%;
khu vực có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài chiếm 15,8% và giảm 1,1%.

Tỷ lệ tiết kiệm so với GDP của Việt Nam giai đoạn 2011-2015 là 29,88%;
năm 2016 đạt 29,58%; năm 2017 đạt 29,12%; 2018 đạt 29,20%; 2019 đạt
29,40%; năm 2020 đạt 29,11%. Bình quân giai đoạn 2016-2020, tỷ lệ tiết
kiệm so với GDP đạt 29,27%, thấp hơn giai đoạn 2011-2015.

Năm 2021, do ảnh hưởng từ dịch bệnh nặng nề, tiền gửi ngân hàng của
nhóm khách hàng doanh nghiệp, tổ chức lần đầu tiên nhiều hơn nhóm khách
hàng cá nhân. Đại dịch Covid-19 đã bào mòn trầm trọng cuộc sống của người
dân nên số tiền còn dư ra của họ rất ít.

Tuy nhiên, từ đầu năm 2022, hệ thống ngân hàng tiếp nhận them 103.000
tỷ đồng từ nguồn dân cư (tương đương tăng 1,95% so với năm 2021), lãi suất
huy động có kỳ hạn liên tục tăng nên thu hút không ít người dân.

Trang 13
e) Dân số, lao động, việc làm và thu nhập

Một trong những tác động quan trọng nhất của chuyển đối nói chung và
của tăng trưởng kinh tế nói riêng là cải thiện chỉ số GDP bình quân đầu
người. Theo giá hiện hành, GDP bình quân đầu người của Việt Nam đã tăng
từ 2.215 USD năm 2016 lên tới 3.964,02 USD năm 2021. Ước tính con số
này còn có thể tăng lên 3.869,75 USD năm 2022.

Thu nhập của nhóm dân cư tăng đã làm thay đổi cơ cấu chi tiêu theo
hướng tích cực. Tỉ lệ chi tiêu dành cho ăn uống tăng từ mức 576,5 nghìn
đồng/người/tháng năm 2016 lên tới 1,35 triệu đồng/người năm 2020.

So sánh mức thu nhập giữa thành thị nông thôn và các vùng có sự chênh
lệch đáng kể. TNBQ 1 người 1 tháng chung cả nước năm 2020 theo giá hiện
hành đạt khoảng 4,2 triệu đồng, giảm khoảng 1% so với năm 2019. Bình
quân mỗi năm trong thời kỳ 2016-2020, TNBQ đầu người 1 tháng chung cả
nước tăng bình quân 8,2%. TNBQ 1 người 1 tháng năm 2020 ở khu vực
thành thị đạt 5,6 triệu đồng, cao gấp gần 1,6 lần khu vực nông thôn (3,5 triệu
đồng). Nhóm hộ giàu nhất có TNBQ 1 người 1 tháng năm 2020 đạt 9,1 triệu
đồng cao gấp hơn 8 lần so với nhóm hộ nghèo nhất, với mức thu nhập đạt
1,1 triệu đồng. Vùng có TNBQ đầu người cao nhất là vùng Đông Nam Bộ
(6,0 triệu đồng/người/tháng), cao gấp 2,2 lần vùng có TNBQ đầu người thấp
nhất là vùng Trung du và miền núi phía Bắc (2,7 triệu đồng/người/tháng).

Năm 2020, dân số Việt Nam là hơn 96,2 triệu người, đứng thứ 15 trên
thế giới và đứng thứ 3 trong khu vực Đông nam Á (sau Indonesia và
Philipines). Trong suốt những năm qua, chính phủ đã thực hiện thành công
chương trình kế hoạch hoá gia đình, nhờ vậy tỉ lệ tăng dân số tự nhiên đã
giảm liên tục, từ 2,984% năm 2016 xuống còn 2,44% năm 2021.

Tổng số lao động làm việc trong ngành kinh tế tăng từ 47,7 triệu người
năm 2016 lên khoảng 50,8 triệu người vào năm 2021. Tuy nhiên, tính chung

Trang 14
cả năm 2021, diễn biến phức tạp và kéo dài của đợt dịch Covid-19 lần thứ tư
đã khiến tình hình lao động việc làm năm 2021 gặp nhiều khó khăn hơn so
với năm 2020, lực lượng lao động, số người có việc làm giảm; tỷ lệ thiếu
việc làm và thất nghiệp tăng so với năm trước.

Tỷ lệ thất nghiệp ở khu vực thành thị trong những năm gần đây có xu
hướng tăng lên, từ 3,18% năm 2016 lên 4,42% năm 2021. Mặc dù Chính phủ
đã có các chính sách chủ động thích ứng linh hoạt trong phòng chống Covid-
19, vừa thực hiện phục hồi, phát triển kinh tế xã hội nhưng tính chung cả
năm 2021 thị trường lao động vẫn còn gặp nhiều khó khăn, với tỷ lệ thất
nghiệp năm nay cao hơn năm trước, trong đó khu vực thành thị vượt mốc
4%.

2.1.4. Tác động của quy luật giá trị

Quy luật giá trị, cùng với sự tác động của cung, cầu quyết định giá cả có
ý nghĩa quan trọng trong nền kinh tế thị trường. Nó điều tiết sản xuất và lưu
thông hàng hoá, thúc đẩy sự tiến bộ kỹ thuật. Như vậy nó đã góp phần giúp
nền kinh tế phát triển mạnh.

Quy luật giá trị tạo ra một môi trường cạnh tranh khốc liệt. Nếu không
có cạnh tranh thì không có kinh tế thị trường nên nó dần hoàn thiện cơ chế
thị trường đang được xây dựng ở nước ta.

Tuy nhiên quy luật giá trị có tác dụng phân hoá những người sản xuất
nhỏ, phân hoá giàu nghèo, dẫn dến bất công bằng trong xã hội. Từ đó hình
thành nên mâu thuẫn giữa hiệu quả và công bằng trong nền kinh tế thị trường
định hướng XHCN ở nước ta.

Trang 15
2.2. Những giải pháp nhằm vận dụng tốt hơn quy luật giá trị ở nước
ta trong thời gian tới

2.2.1. Điều tiết khống chế quản lý vĩ mô

Điều tiết khống chế quản lý vĩ mô đồng thời có sự giám sát của xã hội,
nhằm khắc phục nhược điểm và mặt tiêu cực của thị trường. Muốn thế nhà
nước cần có những giải pháp như: Hoạch định chính sách ngành nghề dài
hạn cho nền kinh tế quốc dân. Thực hiện quản lý, giám sát và bảo vệ trật tự
thị trường. Hoạch định chính sách thu nhập, điều tiết phân phối thu nhập,
v.v..

2.2.2. Giảm bất bình đẳng xã hội, giải quyết mâu thuẫn giữa hiệu quả
và công bằng

Về mặt khách quan bộ phận dân cư cần được hỗ trợ của các chính sách
xã hội được chia thành hai phần. Phần dân cư chịu sự thiệt thòi tự nhiên so
với phần còn lại do họ bị khiếm khuyết mặt nào đó trong năng lực cá nhân
và do đó thường xuyên có thu nhập thấp. Đó chủ yếu là người tàn tật, thương
binh, gia đình chính sách, các dân tộc thiểu số có trình độ văn hoá thấp. Phần
còn lại bao gồm những cá nhân gặp khó khăn về thu nhập không thường
xuyên do biến động của kinh tế, chính trị, chiến tranh và thiên tai. Bộ phận
này luôn thay đổi theo tình hình phát triển kinh tế của đất nước.

Nhìn chung gánh nặng phúc lợi xã hội của nước ta khá lớn do hậu quả
chiến tranh kéo dài do điều kiện kinh tế xã hội quá thấp và do tốc độ tăng
dân số quá nhanh trong khi đất đai, tài nguyên của nước ta không giàu có
lắm. Chính phủ không thể không gánh vác vấn đề này. Để giải quyết nó chính
phủ cần xây dựng phát huy các chính sách như: tạo ra cơ hội có việc làm, mở
các trường dạy nghề, giúp đỡ gia đình neo đơn khó khăn. Đóng thuế thu nhập
cá nhân, gây dựng quỹ phúc lợi xã hội.

Trang 16
Hiện nay việc giải quyết chế độ cho người thất nghiệp ở Việt Nam còn
khá tự phát và lộn xộn tuỳ thuộc chủ yếu vào năng lực tài chính của doanh
nghiệp, vào chế độ lương và việc làm của nhà nước trong từng thời kỳ, vào
chính sách đào tạo của nhà nước cũng như nhiều yếu tố khác. Chính vì chưa
có đường hướng rõ ràng về vấn đề này, nên công tác xử lý lao động dôi dư
ở các doanh nghiệp cổ phần hoá gặp không ít khó khăn. Về lâu dài, nhà nước
cần phải có chính sách rõ ràng, nhằm vừa tạo điều kiện vận hành kinh tế một
cách có hiệu quả, vừa ổn định xã hội.

Tóm lại, kinh tế thị trường tất yếu dẫn đến phân hoá giàu nghèo. Song sự
phân hoá đó không đáng sợ đến mức phải gạt bỏ kinh tế thị trường trong chủ
nghĩa xã hội. Ngày nay nhân loại đã tìm ra cơ chế khắc phục và kiểm soát sự
phân hoá giàu nghèo của kinh tế thị trường. Trung tâm của cơ chế đó là các
giải pháp thực thi công bằng trong thu nhập của nhà nước cùng với các phong
trào xã hội dưới ảnh hưởng của các tổ chức khác nhau. Thành công và hiệu
quả của cơ chế thực thi công bằng phụ thuộc vào đường lối, chủ trương, thực
lực kinh tế và tài năng của giới lãnh đạo xã hội.

2.2.3. Quan tâm, đầu tư hơn nữa vào nền giáo dục

Giáo dục để nâng cao trình độ, kiến thức cho toàn dân nói chung, cho lực
lượng lao động nói riêng. Khi đó, người sản xuất sẽ dễ dàng hơn trong việc
giảm giá trị cá biệt của hàng hoá so với giá trị xã hội, có khả năng giành ưu
thế trong cạnh tranh. Giáo dục tạo điều kiện cho năng lực lao động của toàn
xã hội tăng vọt. Muốn thế cần phải đưa ra một số giải pháp như: Tạo ra 1 sự
tiếp cận công bằng hơn đến dịch vụ giáo dục, nâng cao chất lượng và tính
thiết thực của dịch vụ giáo dục, nâng cao hiệu quả trong chi tiêu cho giáo
dục, đồng thời ngăn chặn nạn "chảy máu chất xám".

Trang 17
KẾT LUẬN

Trên cơ sở phân tích quy luật giá trị và vai trò của nó trong nền kinh
tế thị trường định hướng XHCN ở Việt Nam trong giai đoạn hiện nay. Chúng
ta có thể thấy được vai trò và phạm vi ảnh hưởng của quy luật giá trị đối với
nền kinh tế của Việt Nam. Qua đây chúng ta cũng có thể thấy việc vận dụng
chúng vào các quy luật kinh tế, đặc biệt là quy luật giá trị vào việc xây dựng
các kế hoạch của nhà nước là rất quan trọng. Đề án cũng đã đưa ra được một
số giải pháp nhằm vận dụng tốt hơn quy luật giá trị vào nền kinh tế Việt Nam
trong giai đoạn tới.

Trang 18
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. “ Báo cáo đánh giá kết quả thực hiện nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã
hội 5 năm 2016 - 2020 và phương hướng, nhiệm vụ phát triển kinh tế
- xã hội 5 năm 2021- 2025 ” (Báo Điện tử Đảng cộng sản Việt Nam).
2. C. Mác Tư bản quyển III tập 2, NXB Sự thật Hà Nội – 1978.
3. C. Mác Tư bản quyển thứ nhất tập III, NXB Sự thật Hà Nội.
4. Các phương pháp tài chính về liên quan đến xoá đói giảm nghèo - Tạp
chí kinh tế và phát triển.
5. Giáo trình Kinh tế chính trị Mác - Lênin - NXB Giáo dục.
6. Giáo trình Kinh tế chính trị Mác - Lênin về phương thức sản xuất tư
bản chủ nghĩa - NXB Chính trị quốc gia.
7. “ Hoạt động xuất nhập khẩu năm 2021 - Những kết quả tích cực ” (
Tạp chí Con số sự kiện ).

8. Số liệu nguồn báo cáo phát triển kinh tế, con người của Tổng cục thống
kê.
9. Số liệu về lạm phát, chỉ số giá tiêu dùng của Báo Điện tử Chính phủ.
10. Tạp chí Lý luận chính trị.
11. Thời sự : “Kết quả thực hiện chiến lược phát triển Kinh tế - xã hội
2011 – 2020” ( Báo Công an Nhân dân ).
12. Thông cáo báo chí về kết quả khảo sát mức sống dân cư của Tổng
cục thống kê.
13. Thông cáo báo chí tình hình lao động việc làm của Tổng cục thống
kê.

Trang 19

You might also like