You are on page 1of 187

Kho tài li u mi n phí c a Ket-noi.

com blog giáo d c, công ngh

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI


TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
======================

LÊ THỊ PHƢỢNG

VĂN HOÁ ẨM THỰC CỦA NGƢỜI VIỆT

QUA CA DAO TỤC NGỮ TRUYỀN THỐNG

LUẬN VĂN THẠC SĨ


Chuyên ngành: Văn học dân gian

Hà Nội - 2014
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
======================

LÊ THỊ PHƢỢNG

VĂN HOÁ ẨM THỰC CỦA NGƢỜI VIỆT

QUA CA DAO TỤC NGỮ TRUYỀN THỐNG

Luận văn Thạc sĩ chuyên ngành Văn học dân gian

Mã số: 60 22 01 25

Ngƣời hƣớng dẫn khoa học: TS. Nguyễn Việt Hƣơng

Hà Nội - 2014
LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan Luận văn tốt nghiệp với đề tài Văn hoá ẩm thực
của người Việt qua ca dao tục ngữ truyền thống là công trình nghiên cứu
thực sự của cá nhân tôi được sự hướng dẫn khoa học của TS Nguyễn Việt
Hương. Những vấn đề trình bày trong Luận văn chưa từng được công bố
dưới bất cứ hình thức nào trước khi trình, bảo vệ Luận văn.
Một lần nữa, tôi xin khẳng định về sự trung thực của lời cam đoan trên.

Hà Nội, ngày 15 tháng 12 năm 2014

Lê Thị Phƣợng
LỜI CẢM ƠN

Luận văn này là kết quả quá trình học tập, nghiên cứu suốt hai năm
trong chương trình đào tạo Thạc sỹ, dưới sự truyền dạy, hướng dẫn nhiệt tình,
nghiêm túc và khoa học của tập thể thầy cô là các Giáo sư, Phó giáo sư, Tiến
sỹ của Trường Đại học Khoa học xã hội và Nhân văn, Hà Nội. Vì thế, trước
tiên, tôi xin kính gửi đến các thầy, cô lời cảm ơn chân thành về những tri thức
và tình cảm mà thầy cô đã dành cho tôi trong thời gian qua.
Đặc biệt, tôi xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc đến Tiến sỹ Nguyễn Việt
Hương đã tận tình chỉ bảo, hướng dẫn tôi hoàn thành luận văn. Nhân đây, tôi
cũng xin gửi lời cảm ơn đến gia đình, bạn bè, đồng nghiệp – những người đã
động viên, giúp đỡ, tạo điều kiện cho tôi, trong quá trình tiếp cận tư liệu để
hoàn thành luận văn.

Hà Nội, ngày 15 tháng 12 năm 2014

Lê Thị Phƣợng
MỤC LỤC
PHẦN MỞ ĐẦU ................................................................................................................. 4
PHẦN NỘI DUNG ............................................................................................................. 8
Chƣơng 1: TỔNG QUAN VỀ ĐỀ TÀI........................................................................... 8
1.1. Giới thuyết các khái niệm ......................................................................... 8
1.1.1. Khái niệm tục ngữ, ca dao..................................................................... 8
1.1.2. Ranh giới tục ngữ, ca dao, thành ngữ ................................................. 11
1.1.3. Tục ngữ ca dao truyền thống ............................................................... 14
1.1.4. Khái niệm văn hóa ẩm thực ................................................................. 15
1.2. Lịch sử vấn đề nghiên cứu ...................................................................... 17
1.2.1. Các công trình sưu tầm về văn hóa ẩm thực ....................................... 17
1.2.2. Các công trình nghiên cứu về văn hóa ẩm thực .................................. 21
1.2.3. Các công trình nghiên cứu về văn hóa ẩm thực qua ca dao tục ngữ .......... 24
Tiểu kết ............................................................................................................................... 28
CHƢƠNG 2: CÁC VẤN ĐỀ VỀ VĂN HÓA ẨM THỰC NGƢỜI VIỆT QUA CA
DAO TỤC NGỮ TRUYỀN THỐNG ........................................................................... 29
2.1. Các sản vật, đặc sản địa phƣơng trong ca dao, tục ngữ truyền thống........... 29
2.1.1 Các sản vật, đặc sản địa phương trong ca dao truyền thống. ............. 30
2.1.2. Các sản vật, đặc sản địa phương trong tục ngữ truyền thống ............ 38
2. 2. Kinh nghiệm ăn uống trong ca dao, tục ngữ truyền thống ................. 46
2.2.1. Kinh nghiệm ăn uống trong ca dao truyền thống................................ 46
2.2.2. Kinh nghiệm ăn uống trong tục ngữ truyền thống .............................. 49
2.3 Phong tục tập quán ăn uống của ngƣời Việt qua ca dao, tục ngữ truyền
thống ................................................................................................................. 61
2.3.1. Phong tục tập quán ăn uống của người Việt qua ca dao truyền thống ...... 61
2.3.2. Phong tục tập quán ăn uống của người Việt qua tục ngữ truyền thống .... 63
2.4. Quan niệm, triết lý của ngƣời Việt qua ca dao, tục ngữ truyền thống
về ẩm thực ........................................................................................................ 66
2.4.1 Quan niệm, triết lý của người Việt qua ca dao truyền thống về ẩm thực ..... 66
2.4.2 Quan niệm, triết lý của người Việt qua tục ngữ truyền thống về ẩm thực ..... 73

1
2.5. So sánh sự phản ánh các vấn đề về văn hóa ẩm thực của ngƣời Việt
trong ca dao, tục ngữ truyền thống. .............................................................. 79
2.5.1 Những điểm tương đồng ....................................................................... 79
2.5.2 Những điểm khác biệt ........................................................................... 80
Tiểu kết ............................................................................................................................... 82
Chƣơng 3: PHƢƠNG THỨC PHẢN ÁNH ẨM THỰC QUA CA DAO
TỤC NGỮ ............................................................................................... 83
3.1. Thể thơ, nhịp điệu và vần........................................................................ 83
3.2. Ngôn ngữ ................................................................................................... 90
3.3. Hình ảnh ................................................................................................... 93
3.4. Kết cấu ...................................................................................................... 95
Tiểu kết ............................................................................................................................. 100
KẾT LUẬN...................................................................................................................... 101
TÀI LIỆU THAM KHẢO ............................................................................................ 103
PHỤ LỤC

Kho tài li u mi n phí c a Ket-noi.com blog giáo d c, công ngh

2
DANH MỤC BẢNG THỐNG KÊ

Bảng 1: Số lượng các loại sản vật được phản ánh qua ca dao ............................. 31
Bảng 2: Tần suất các loại sản vật được phản ánh trong ca dao ........................... 32
Bảng 3: Số lượng sản vật của ba miền phản ánh trong ca dao............................. 34
Bảng 4: Số lượng các loại sản vật được phản ánh trong tục ngữ ......................... 39
Bảng 5: Tần suất các loại sản vật được phản ánh trong tục ngữ .......................... 39
Bảng 6: Số lượng ca dao, tục ngữ phản ánh kinh nghiệm ăn uống ...................... 46
Bảng 7: Số lượng tục ngữ phản ánh các kinh nghiệm ăn uống ............................ 50
Bảng 8: Số lượng ca dao tục ngữ phản ánh phong tục tập quán ăn uống ............ 61
Bảng 9: Số lượng ca dao, tục ngữ phản ánh quan điểm ăn uống ......................... 67
Bảng 10: Khảo sát số lượng ca dao, tục ngữ người Việt phản ánh về văn hóa ẩm thực81
Bảng 11: Số lượng ca dao phản ánh ẩm thực bằng lục bát và lục bát biến thể........... 84

3
PHẦN MỞ ĐẦU

1. Lý do chọn đề tài
Từ xa xưa, ăn uống được xem là nhu cầu tự nhiên và chính đáng, là điều
kiện tất yếu của sự sống mọi sinh vật. Từ khi loài người tách khỏi loài vật, xã hội
biến đổi và phát triển không ngừng, nhu cầu ăn uống cũng không ngừng phát
triển. Ăn uống không chỉ là một hoạt động mang tính sinh học thuần tuý nhằm
duy trì sự sống mà còn mang tính văn hóa rõ nét. Việc ăn không chỉ hành động
ăn, uống không chỉ biểu tả tác động uống. Chúng nói lên mọi sinh hoạt của người
Việt, mọi phán đoán giá trị đạo đức, cũng như tâm tình của họ. Và như vậy, tập
quán ăn uống - một khái niệm thuộc phạm trù văn hóa, phản ánh thói quen trong
các hoạt động liên quan đến ăn uống dần hình thành nên phong cách ăn uống.
Phong cách này đã trải qua một quá trình lịch sử lâu đời trong mỗi tộc người nên
nó khá định hình và như thế một nền văn hoá ẩm thực đã dần dần hình thành và
phát triển, góp phần tạo nên bản sắc của mỗi dân tộc.
Văn hóa ẩm thực là một trong những thước đo thể hiện trình độ văn minh,
trình độ văn hóa của mỗi vùng miền, quốc gia, dân tộc. Món ăn thức uống của
mỗi dân tộc là một sáng tạo văn hoá độc đáo của dân tộc đó. Món ăn chứa đựng
sự sinh động và đa dạng về đặc điểm văn hoá, phong tục tập quán, ý thức tín
ngưỡng của dân tộc, của từng tầng lớp xã hội, từng vùng, từng miền dân cư khác
nhau. Ở nước ta, với sự chi phối của điều kiện môi trường tự nhiên, khí hậu của
nền văn minh nông nghiệp lúa nước… đã tạo nên bản sắc độc đáo của văn hoá
ẩm thực Việt Nam. Tìm hiểu văn hóa ẩm thực truyền thống là khám phá tính
cách, lối sống, phong tục tập quán có từ ngàn đời của dân tộc, từ đó chúng ta có
thể hiểu sâu sắc hơn bản sắc văn hóa của dân tộc.
Văn hóa ẩm thực có vai trò quan trọng trong đời sống con người nói chung
và đối với người Việt nói riêng. Chính vì vậy, từ rất sớm trong lịch sử đã có
nhiều người quan tâm sưu tầm, giới thiệu và nghiên cứu về ẩm thực trên nhiều
khía cạnh khác nhau như lịch sử, nhân học, khảo cổ học… Những tri thức về ăn
uống cũng sớm được ghi chép lại trong các sách cổ như Lĩnh Nam chích quái

4
của Trần Thế Pháp (thế kỷ IV), sang thế kỷ XV có các công trình như Đại Việt
sử ký toàn thư của Ngô Sĩ Liên, Dư địa chí của Nguyễn Trãi. Đến đầu thế kỷ
XVIII có tên Vũ Trung tùy bút của Phạm Đình Hổ.
Văn hóa ẩm thực còn được tiếp cận dưới nhiều góc độ khác nhau như một
số nhà nghiên cứu đã nghiên cứu về dinh dưỡng, truyền thống và phong cách ăn
uống của người Việt, một số khác lại đi sâu về lịch sử ăn uống và tập quán ăn
uống hay đặc sản của một số vùng miền. Ngoài ra, còn có các công trình nghiên
cứu chung về văn hóa của các dân tộc dưới góc độ dân tộc học và nhân học trong
đó có đề cập đến lĩnh vực ẩm thực của các dân tộc.
Đặc biệt hơn khi một số nhà văn viết về thú ăn uống như một thú chơi, một
nét nghệ thuật. Đó là các tác giả Thạch Lam với Hà Nội ba sáu phố phường, Vũ
Bằng với Thương nhớ mười hai, Miếng ngon Hà Nội…
Bên cạnh hàng loạt các công trình được ghi chép, sưu tầm, nghiên cứu trên
nhiều khía cạnh khác nhau về ẩm thực, trong kho tàng văn học dân gian vấn đề này
cũng đặc biệt được chú ý. Ẩm thực cũng là mảng nội dung không thể thiếu trong
toàn bộ ca dao, tục ngữ chiếm một số lượng không nhỏ.
Đã có không ít các nhà nghiên cứu về văn hóa, văn học dân gian bỏ nhiều
công sưu tầm nghiên cứu về ẩm thực qua ca dao, tục ngữ. về lĩnh vực này, nhiều
công trình, bài viết rất có giá trị trong đó cũng có công trình ít nhiều đề cập đến
ẩm thực qua ca dao, tục ngữ.
Tuy nhiên, đến nay vẫn chưa có công trình nào nghiên cứu đầy đủ về vấn đề
văn hóa ẩm thực qua ca dao tục ngữ trong sự so sánh giữa hai thể loại đó. Vì thế,
chúng tôi lựa chọn đề tài Văn hóa ẩm thực người Việt qua ca dao, tục ngữ truyền
thống. Chúng tôi mong muốn sẽ có một cách nhìn cụ thể hơn, sâu sắc hơn khi tìm
hiểu về hai thể loại phản ánh chung một vấn đề đồng thời cũng cho thấy những
nét đặc trưng trong mỗi thể loại.
2. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
2.1. Đối tượng nghiên cứu
Luận văn có tên gọi Văn hóa ẩm thực của người Việt qua ca dao, tục ngữ
truyền thống nên đối tượng nghiên cứu của chúng tôi là văn hóa ẩm thực của

5
người Việt, chúng tôi sẽ tìm hiểu văn hóa ẩm thực của người Việt được thể hiện
qua ca dao, tục ngữ. Sở dĩ, chúng tôi chọn văn hóa ẩm thực của người Việt là bởi
Việt Nam có 54 dân tộc khác nhau, người Việt (người Kinh) chiếm tới 86% số
dân trên đất nước ta, người Việt sinh sống trải khắp 3 miền với những phong tục,
tập quán khác nhau. Đặc biệt, người Việt có kho tàng Văn học dân gian trong đó
có ca dao, tục ngữ vô cùng phong phú.
2.2. Phạm vi nghiên cứu
Với đề tài này chúng tôi giới hạn phạm vi nghiên cứu là ca dao tục ngữ
truyền thống của người Việt. Trong gian đoạn hiện nay đã xuất hiện nhiều tục
ngữ, ca dao hiện đại, tuy nhiên ca dao tục ngữ truyền thống có tính ổn định, bản
thân nội tại của nó bảo lưu các yếu tố cổ truyền, nơi thể hiện rõ nhất những tri
thức về văn hóa ẩm thực của người Việt.
Đến nay cũng có nhiều công trình nghiên cứu, sưu tầm và đề cập đến ca dao
tục ngữ cổ truyền của người Việt, mặc dù rất phong phú nhưng từng công trình
riêng lẻ chưa phản ánh đầy đủ, cụ thể cho nên chúng tôi chọn hai công trình là bộ
Kho tàng ca dao người Việt, (xuất bản năm 1995, tái bản có sửa chữa) và Kho
tàng tục ngữ người Việt (bổ sung năm 2001) do Nguyễn Xuân Kính, Phan Đăng
Nhật chủ biên. Cuốn Kho tàng ca dao người Việt có số lượng là 12. 487 lời ca
dao, dân ca được lấy từ 49 tập sách uy tín. Cuốn Kho tàng tục ngữ người Việt
bao gồm 16.098 câu (tổng hợp từ 52 đầu sách với 63 tập). Đây được xem là lần
đầu tiên có một công trình giới thiệu tục ngữ với số câu nhiều nhất, có ghi xuất
xứ và các dị bản trong trường hợp câu có nhiều bản đồng thời là công trình chú
giải được nhiều câu tục ngữ nhất. Ngoài hệ thống ca dao, tục ngữ được sắp xếp
theo trật tự chữ cái của tiếng đầu, công trình cũng đã phân ra bảng tra cứu ca dao,
tục ngữ theo chủ đề rất thuận tiện, đây được xem là hai công trình tổng hợp khá
đầy đủ từ nhiều nguồn khác nhau, cho thấy sự phong phú của kho tàng, ca dao,
tục ngữ nói chung.
3. Phƣơng pháp nghiên cứu
Với số lượng tư liệu lớn nên phương pháp đầu tiên chúng tôi sử dụng trong
luận văn là thống kê để tìm ra những câu có liên quan đến ẩm thực sau đó chúng

6
tôi tiến hành phân loại để xem vấn đề nào của ẩm thực được phản ánh trong ca
dao và tục ngữ.
Trên cơ sở đó, chúng tôi thực hiện phân tích, tổng hợp để đưa ra nhận xét,
đánh giá về những vấn đề ẩm thực được phản ánh qua ca dao, tục ngữ. Đặc biệt,
chúng tôi sử dụng cả phương pháp so sánh để thấy rõ được sự giống và khác
nhau trong việc phản ánh ẩm thực qua hai thể loại của văn học dân gian.
4. Mục đích và đóng góp của đề tài
4.1. Mục đích nghiên cứu
Tìm hiểu về văn hóa ẩm thực dân gian Việt Nam qua ca dao, tục ngữ nhằm
so sánh để làm nổi bật đặc trưng của hai thể loại khi cùng phản ánh về vấn đề ẩm
thực. Từ đó, khái quát những nét nổi bật trong văn hóa ẩm thực của người Việt
như phong tục tập quán, quan niệm, triết lý trong ăn uống và khẳng định giá trị
lớn lao của văn hóa ẩm thực – một di sản truyền thống mà cha ông để lại.
4.2. Đóng góp của đề tài
Trong phạm vi tư liệu khảo sát của đề tài Văn hóa ẩm thực của người Việt
qua ca dao, tục ngữ truyền thống chúng tôi đã thống kê một cách hệ thống các
câu ca dao, tục ngữ phản ánh về văn hóa ẩm thực.
Tiếp theo, chúng tôi giới thiệu toàn bộ tri thức về văn hóa ẩm thực được
phản ánh qua ca dao, tục ngữ bao gồm các khía cạnh (sản vật, đặc sản, kinh
nghiệm ẩm thực, phong tục tập quán đến quan niệm triết lý của người Việt.
Cuối cùng, chúng tôi tìm ra sự giống và khác nhau trong việc phản ánh ẩm
thực của ca dao, tục ngữ, từ đó làm nổi bật đặc trưng thể loại giữa ca dao tục ngữ.
5. Cấu trúc luận văn
Ngoài phần Mở đầu và Kết luận, luận văn gồm 3 chương:
Chương 1: Tổng quan về đề tài
Chương 2: Các vấn đề về văn hóa ẩm thực người Việt qua ca dao tục ngữ
truyền thống
Chương 3: Phương thức phản ánh ẩm thực người Việt qua ca dao tục ngữ
truyền thống

7
Kho tài li u mi n phí c a Ket-noi.com blog giáo d c, công ngh

PHẦN NỘI DUNG


Chƣơng 1: TỔNG QUAN VỀ ĐỀ TÀI
1.1. Giới thuyết các khái niệm
1.1.1. Khái niệm tục ngữ, ca dao
Trong kho tàng văn học dân gian Việt Nam, ca dao, tục ngữ được xem là
nơi kết tinh vốn sống và những kinh nghiệm quý báu của nhân dân. Mọi lời ăn,
nếp ở, mọi phép tắc cần ứng xử ở đời… đều đọng lại trong những câu ca dao, tục
ngữ. Từ trước đến nay có nhiều định nghĩa về ca dao tục ngữ, chúng tôi muốn
điểm qua một số ý kiến của các nhà nghiên cứu về hai thể loại này.
1.1.1.1. Khái niệm tục ngữ
Là một trong những thể loại văn học ra đời từ rất sớm, gắn liền với lời ăn
tiếng nói hàng ngày của nhân dân, có nội dung sâu sắc, cô đọng, hình thức ngắn
gọn nên từ sớm tục ngữ được nhân dân từ truyền miệng qua các thế hệ. Đến nay
đã có nhiều nhà nghiên cứu văn học kể cả các nhà ngôn ngữ học như Nguyễn
Văn Mệnh, Nguyễn Đức Dân, Hoàng Văn Hành, Nguyễn Thái Hòa...đã đưa ra
những định nghĩa làm sáng tỏ về thể thể loại văn học dân gian đặc sắc này. Tuy
nhiên, trong luận văn chúng tôi chỉ đưa ra định nghĩa của một số nhà nghiên cứu
văn học dân gian.
Hầu hết, các công trình nghiên cứu, các giáo trình giảng dạy về bộ môn văn
học dân gian đều đưa ra những định nghĩa về tục ngữ. Cuốn giáo trình Văn học
dân gian Việt Nam do tác giả Đinh Gia Khánh (chủ biên) cho rằng “Tục ngữ là
những câu nói ngắn gọn, có ý nghĩa hàm súc do nhân dân lao động sáng tạo nên
và lưu truyền qua nhiều thế kỷ” [29;tr.244]. Theo các tác giả, một câu tục ngữ
thường có hai nghĩa là nghĩa đen và nghĩa bóng, “Tục ngữ cung cấp cho ngôn
ngữ cửa miệng cũng như ngôn ngữ văn học một hình thức biểu hiện súc tích,
giàu hình ảnh, có tác dụng truyền cảm và thuyết phục mạnh mẽ, nói lên những tư
tưởng thâm trầm, những khái quát rộng rãi”. “Lối nói bằng tục ngữ thường là một
lối nói ẩn dụ, có từ khi con người chưa biết dùng rộng rãi những khái niệm trừu
tượng và thường dùng những tỉ dụ cụ thể”. [29;tr.245]

8
Tục ngữ, ca dao, dân ca Việt Nam của Vũ Ngọc Phan được đánh giá là
công trình khá công phu với diện tư liệu bao quát kéo dài về mặt thời gian (từ
những câu rất cổ đến ca dao kháng chiến chống Pháp); rộng về mặt không gian
(từ miền xuôi đến miền núi, từ đồng bằng Bắc Bộ đến Nam Bộ). Theo tác giả
“Tục ngữ là một câu tự nó diễn trọn vẹn một ý, một nhận xét, một kinh nghiệm,
một luân lí, một công lý, có khi là một sự phê phán” [48; tr.39].
Trong khi Từ điển thuật ngữ văn học của các tác giả Lê Bá Hán, Trần Đình
Sử, Nguyễn Khắc Phi định nghĩa “Tục ngữ là một thể loại văn học dân gian mà
chức năng chủ yếu là đúc kết kinh nghiệm, tri thức dưới hình thức những câu nói
ngắn gọn, súc tích, giàu vần điệu, hình ảnh, dễ nhớ, dễ truyền” [14;tr.37] thì nhà
nghiên cứu văn học dân gian Hoàng Tiến Tựu lại coi tục ngữ là “thành phần trọn
vẹn của ý thức và tư duy, còn thành ngữ chỉ là bán sản phẩm, như những tấm bê
tông đúc sẵn trong ngôn ngữ mỗi dân tộc” [61; tr.110]
Khái niệm tục ngữ tiếp tục được tác giả Hoàng Phê giải thích trong cuốn Từ
điển Tiếng Việt, đó là “những câu nói tóm tắt kinh nghiệm của người đời và
thường được kể ra trong các cuộc giao tế xã hội” [50;tr.1097]. Trong khi đó, ở
cuốn Từ điển văn học Việt Nam của nhà nghiên cứu Lại Nguyên Ân, “tục” chỉ
thói quen có từ lâu đời, còn “ngữ” là lời nói. Như vậy, theo tác giả tục ngữ là
những câu nói ngắn gọn, giàu ý nghĩa được dùng trong lời nói hàng ngày, lưu
truyền từ đời này sang đời khác, trở thành một kết cấu bền vững [3;tr.564].
Trong cuốn Tục ngữ ca dao dân ca Hà Nội, do Nguyễn Thúy Loan (chủ
biên) tục ngữ được coi là: “những câu nói thường là ngắn gọn có thể có vần hoặc
không có vần nhưng thường có nhịp điệu, có hình thức bền vững, được dùng
trong lời nói hàng ngày, có chức năng chủ yếu là đúc kết kinh nghiệm, tri thức
dân gian” [41;tr.31].
Giáo sư Lê Chí Quế, trong cuốn Giáo trình Văn học dân gian Việt Nam,
xem tục ngữ là một dạng văn học đặc biệt: Văn học đúc kết kinh nghiệm. Quan
niệm của ông cũng gần với quan niệm của Hoàng Văn Hành khi cho rằng tục ngữ
là một đơn vị thông báo có tính nghệ thuật. Theo giáo sư, “một câu tục ngữ đơn
giản nhất cũng có tính chất nghệ thuật. Tuy nhiên, hình tượng nghệ thuật ở đây

9
còn thô sơ và có tính độc đáo của nó là nặng về lý trí…Nó phản ánh những kinh
nghiệm, tri thức của nhân dân được đúc kết qua nhiều thế hệ và nó được diễn đạt
bằng những câu ngắn gọn, hàm súc, dễ nhớ, có vần nhịp nhất định”. [51; tr.195].
Xét về mặt ngôn ngữ, nhà nghiên cứu văn học dân gian Nguyễn Xuân Kính
cho rằng tục ngữ là những dòng thông báo, là những câu đơn hoặc những câu
ghép, là một hay nhiều phán đoán [27; tr.70].
Rất nhiều các nhà nghiên cứu văn học dân gian đưa ra các định nghĩa về tục
ngữ trong các công trình nghiên cứu của họ cũng như trong các giáo trình. Tựu
chung lại, theo chúng tôi tục ngữ là những câu nói có hình thức ngắn gọn, súc
tích, cô đọng giàu vần điệu, hình ảnh, dễ nhớ, dễ truyền…có chức năng chủ yếu
là đúc kết kinh nghiệm, tri thức trong thiên nhiên, xã hội đời sống con người.
1.1.1.2. Khái niệm ca dao.
Gắn với đời sống tình cảm của con người, ca dao nghiêng về tính trữ tình, thể
hiện những cung bậc cảm xúc trong đời sống con người. Đến nay đã có nhiều công
trình nghiên cứu công phu, đưa ra những định nghĩa, đánh giá về thể loại này.
Theo nhà nghiên cứu văn hóa dân gian Vũ Ngọc Phan trong Tục ngữ, ca
dao, dân ca Việt Nam, “Ca dao là một loại thơ dân gian có thể ngâm được như
các loại thơ khác và có thể xây dựng thành các điệu dân ca” [48.tr.39]. Nhiều nhà
nghiên cứu khác lại cho rằng, trong sinh hoạt văn hóa, ca dao là những lời thơ
dân gian được dùng để hát, để ngâm. Trong các sách sưu tầm, so với thuật ngữ ca
dao thì thuật ngữ dân ca xuất hiện muộn hơn, phải đến những năm 50, thuật ngữ
này mới chính thức được sử dụng với sự xuất hiện của cuốn sách Tục ngữ và dân
ca Việt Nam do Vũ Ngọc Phan biên soạn, in lần đầu năm 1956. Hiện nay nhiều
nhà nghiên cứu quan niệm về dân ca và ca dao như sau: Dân ca bao gồm phần lời
(câu hoặc lời), phần giai điệu (giọng hoặc làn điệu), phương thức diễn xướng và
cả môi trường, khung cảnh ca hát. Trong khi đó, ca dao được hình thành từ dân
ca. Nói đến ca dao, người ta thường nghĩ đến lời ca còn khi nói đến dân ca, người
ta nghĩ đến cả làn điệu và những thể thức hát nhất định. Tuy nhiên, không có
nghĩa là toàn bộ hệ thống những câu hát của một loại dân ca nào đó cứ bớt tiếng
đệm, tiếng láy, tiếng đưa hơi…thì sẽ đều là ca dao. Thực tế, ca dao là những sáng

10
tác văn chương được phổ biến rộng rãi, được lưu truyền qua nhiều thế hệ, mang
những đặc điểm nhất định và bền vững về phong cách. Ca dao trở thành một
thuật ngữ để chỉ một tứ thơ dân gian. [49;tr.79].
Theo nhà nghiên cứu Vũ Ngọc Phan, ca dao vốn là một thuật ngữ Hán
Việt, trong Kinh thi, phần Ngụy phong bài Viên hữu đào có câu: “Tâm chi ưu hĩ,
ngã ca thả dao” (Lòng ta buồn, ta ca và dao). Theo ông, thời trước, người ta còn
gọi ca dao là phong dao vì có những bài ca dao phản ánh phong tục của mỗi địa
phương, mỗi thời đại. Ca dao hiện nay có câu bốn chữ, năm chữ, sáu tám hay hai
bẩy, sáu tám đều có thể ngâm được nguyên câu, không cần tiếng đệm như người
ta ngâm thơ. Dùng một bài ca dao để hát thì bài ca dao sẽ biến thành dân ca, vì
hát yêu cầu phải có khúc điệu và như vậy phải có thêm tiếng đệm [49;tr.34].
Dựa trên cơ sở phạm vi sử dụng và bình diện hoạt động lời nói, nhà nghiên
cứu văn học dân gian Nguyễn Xuân Kính cho rằng tục ngữ và ca dao khác nhau
ở chỗ: “tục ngữ thiên về lý trí, tục ngữ cung cấp cho người nghe những triết lý
dân gian, tri thức dân gian, ca dao thiên về tình cảm, có nội dung trữ tình dân
gian” [27;tr.72]. Ông cho biết, trong sinh hoạt văn hóa, ca dao là những lời thơ
dân gian được dùng để hát, để ngâm, trong khi đó tục ngữ được dùng trong khi
nói. Trong hoạt động nói, mỗi câu tục ngữ là một câu nói đặc biệt được dùng xen
vào giữa những câu nói bình thường khác.
Như vậy, ca dao là thơ dân gian, có nội dung trữ tình và trào phúng. Người
ta có thể hát, ngâm, đọc và thậm chí có thể xem bằng mắt sau khi ca dao đã được
ghi chép lại. Mặc dù đã có sự phận biệt khá rành mạch giữa ca dao, tục ngữ
nhưng trong thực tế ranh giới giữa tục ngữ, thành ngữ và ca dao nhiều khi rất khó
xác định.
1.1.2. Ranh giới tục ngữ, ca dao, thành ngữ
Xác định ranh giới giữa ca dao, tục ngữ và thành ngữ lâu nay là một vấn đề
gây nhiều tranh luận, đã có nhiều ý kiến bàn về vấn đề này để tìm ra tiêu chí
phân biệt giữa chúng.
Trong cuốn Thi pháp ca dao, tác giả Nguyễn Xuân Kính cho rằng thành ngữ
là những đơn vị có sẵn mang chức năng định danh, dùng để gọi tên sự vật hoặc

11
để chỉ tính chất, hành động. Xét trên phương diện này, thành ngữ là những đơn vị
tương đương như từ, khi nói phải thêm vào thành ngữ những thành phần khác thì
mới thành câu [27; tr.69]. Ông cho biết “Xét về mặt ngôn ngữ học, tục ngữ là
những đơn vị thông báo, là những câu đơn hoặc những câu ghép, là một hay
nhiều phán đoán”. Tuy nhiên, “một số câu tục ngữ chỉ có 4 tiếng nhưng đã có nội
dung thông báo trọn vẹn như câu Người chửa cửa mả khuyên người phụ nữ có
mang nên giữ gìn kẻo có khi nguy hiểm (cửa mả)” [27; tr.70].
Nhà nghiên cứu Nguyễn Xuân Kính cũng cho rằng “có những câu tục ngữ
kết cấu không đầy đủ tạo nên những phán đoán ngầm như câu “Bún giá cá ruốc”.
Xét về hình thức, câu tục ngữ này mới cho chúng ta biết đối tượng của các phán
đoán trên nhưng khi nghe xong, người ta vẫn hiểu món quà gồm 4 thứ là bún, giá
sống, cá và ruốc là món quà ngon, ăn hợp khẩu vị” [27; tr.70].
Phân biệt tục ngữ với ca dao, nhà nghiên cứu Vũ Ngọc Phan cho rằng tục
ngữ là một câu tự nó diễn trọn vẹn một ý, một nhận xét, một kinh nghiệm, một
luân lý, một công lý, có khi là một sự phê phán. Còn thành ngữ là một phần câu
sẵn có, nó là một bộ phận của câu mà nhiều người đã quen dùng, nhưng tự riêng
nó không diễn được một ý trọn vẹn. Về hình thức ngữ pháp, mỗi thành ngữ chỉ là
một nhóm từ, chưa phải một câu hoàn chỉnh, còn tục ngữ dù ngắn đến đâu cũng
là một câu hoàn chỉnh [48; tr.31].
Nói cách khác, tục ngữ là một thể loại sáng tác như các thể loại ca dao, dân
ca, còn thành ngữ là một cụm từ ngắn gọn được dùng trong câu nói thông thường
tương đương với từ. Ví dụ như các cụm từ “Áo rách, quần manh”, “Ăn trắng,
mặc trơn”, “Ăn trên ngồi trốc”, “Dốt đặc cán mai”… là thành ngữ; còn “Chó cắn
áo rách”, “Bệnh quỷ thuốc tiên”, “Người chửa, cửa mả”… là tục ngữ.
Nhà nghiên cứu Vũ Ngọc Phan cho rằng hầu hết thành ngữ, tục ngữ là do
nhân dân sáng tác, cũng có một số ít câu ở những thi phẩm đã được phổ biến sâu
rộng trong dân gian. Có người gọi tục ngữ là ngạn ngữ, nghĩa là lời nói đã lưu
hành từ xưa còn ông cho rằng tục ngữ là một thể loại sáng tác ngang hàng với ca
dao, dân ca [48; tr.39], trong khi ca dao là một loại thơ dân gian có thể ngâm
được như các loại thơ khác và có thể xây dựng thành các điệu dân ca” [48; tr.42].

12
GS Chu Xuân Diên trong cuốn Tục ngữ Việt Nam đã đưa ra tiêu chí phân
biệt mới. Ông cho rằng thành ngữ là khái niệm và tục ngữ là những phán đoán
[12; tr. 72]. Theo ông, “những tri thức ấy khi ta rút lại thành những khái niệm thì
ta có thành ngữ, còn khi được trình bày, được diễn đạt thành những phán đoán thì
ta có tục ngữ” [12; tr.75]. Ông cũng cho biết: “Sự khác nhau giữa thành ngữ và
tục ngữ về cơ bản là sự khác nhau giữa một hiện tượng ngôn ngữ với một hiện
tượng ý thức xã hội. Do đó, thành ngữ chủ yếu là đối tượng nghiên cứu của khoa
học ngôn ngữ. Đối với tục ngữ, tuy có nhiều mặt đáng được khoa học ngôn ngữ
chú ý đến song về cơ bản cần được nghiên cứu như một hiện tượng ý thức xã hội,
một hiện tượng văn hóa tinh thần của nhân dân lao động trong đó biểu thị khá rõ
ràng về thế giới quan và nhân sinh quan của nhân dân lao động trong một thời kỳ
lịch sử nhất định [12; tr.78 ].
Trong tục ngữ người Việt còn có một số câu có thể lục bát. Tuy nhiên,
những câu này cũng có khi được gọi là ca dao vì ca dao thường được sáng tác
theo thể lục bát.
Tranh quyền cướp nước gì đây
Coi nhau như bát nước đầy thì hơn
… Gánh cực mà đổ lên non
Còng lưng mà chạy, cực còn theo sau
Nhiễu điều phủ lấy giá gương
Người trong một nước phải thương nhau cùng.
Ngoài một vài trường hợp khó xác định ranh giới vì chúng mang tính chất
của cả hai thể loại, ca dao và tục ngữ chủ yếu khác nhau ở chỗ: tục ngữ thiên về lí
trí, là những triết lý dân gian, tri thức dân gian, ca dao thiên về tình cảm, có nội dung
trữ tình dân gian. Trong môi trường sinh hoạt văn hóa thực hành, ca dao là những lời
thơ dân gian được dùng để hát, để ngâm.
Đến nay, ca dao - một hình thức của thơ dân gian được phổ biến rộng rãi,
được lưu truyền qua nhiều thế hệ, mang những đặc điểm nhất định và bền vững
về phong cách. Ca dao trở thành một thuật ngữ để chỉ một tứ thơ dân gian. Đối
với ca dao, nguời ta không chỉ hát mà còn ngâm, đọc còn tục ngữ được dùng

13
Kho tài li u mi n phí c a Ket-noi.com blog giáo d c, công ngh

trong khi nói. Trong hoạt động nói năng, mỗi câu tục ngữ là một câu nói đặc biệt
dùng xen vào giữa những câu nói bình thường khác.
Như vậy, qua việc phân tích cụ thể các định nghĩa về ca dao, tục ngữ, thành
ngữ của các nhà nghiên cứu, dễ dàng thấy ranh giới giữa ca dao, tục ngữ và các
thể loại khác đã từng bước được xác định một cách rạch ròi hơn. Tuy nhiên, đối
với thành ngữ và tục ngữ nhiều khi còn khó phân biệt vì cả hai đều là hiện tượng
ngôn ngữ và được sử dụng trong lời nói hàng ngày. Hơn nữa, chúng đều là sản
phẩm của sự nhận thức, đúc kết các kinh nghiệm, tri thức về tự nhiên, xã hội của
nhân dân qua hàng ngàn năm. Ngoài ra, ranh giới giữa tục ngữ và ca dao cũng rất
khó phân biệt, nhất là với những câu 14 chữ. Chính vì thế, trong từng hoàn cảnh
vận dụng cụ thể, tục ngữ và thành ngữ, tục ngữ và ca dao đôi khi giống nhau, nên
có thể nhận thấy một số hiện tượng là trung gian giữa tục ngữ và thành ngữ, giữa
tục ngữ và ca dao. Tuy nhiên, chúng ta vẫn có thể đưa ra một số tiêu chí chung
đề phân biệt tục ngữ, thành ngữ và ca dao. Trước hết về chức năng, tục ngữ gần
với đơn vị lời nói nhưng không giống như lời nói thông thường, tục ngữ có tính
khái quát cao. Đó là những câu tương đối cố định về thành phần và cấu trúc, bền
vững về ngữ nghĩa. Tục ngữ được dùng đề diễn tả một phán đoán, tương đương
với câu. Trong khi đó, thành ngữ chỉ dùng để diễn tả một khái niệm, tương
đương với từ. Một câu tục ngữ có thể diễn tả một hay nhiều phán đoán, có phán
đoán do đó đã hình thành các khái niệm. Điều này đã giải thích lý do vì sao thành
ngữ có thể là bộ phận cấu thành tục ngữ. Trong khi ca dao thiên về tình cảm, có
nội dung trữ tình dân gian. Trong sinh hoạt văn hóa, ca dao là những lời thơ dân
gian được dùng để hát, để ngâm.
Như vậy, việc đề ra tiêu chí phân biệt, tục ngữ là một công việc vô cùng
quan trọng giúp các nhà nghiên cứu tìm ra bản chất đặc thù của chúng. Mặt khác,
khi ranh giới tục ngữ được định rõ, việc phân loại tục ngữ, thành ngữ và ca dao
sẽ thuận lợi và khoa học hơn. Tuy vậy, thực tế việc phân biệt các thể loại này
cũng chỉ mang tính tương đối.
1.1.3. Tục ngữ, ca dao truyền thống
Hiện nay đã xuất hiện một bộ phận ca dao tục ngữ hiện đại gắn với cuộc
sống đang có nhiều thay đổi. Bộ phận này tồn tại song song với ca dao truyền

14
thống. Có nhiều quan niệm khác nhau về ca dao tục ngữ truyền thống trong đó có
một số nhà nghiên cứu cho rằng ca dao, tục ngữ truyền thống là có trước năm
1945. Đó là những lời ca, tiếng hát, những triết lý sống, kinh nghiệm được dân
gian lưu truyền và ghi chép lại tới ngày nay.
Nhà nghiên cứu Nguyễn Xuân Kính trong “Kho tàng tục ngữ người Việt
cũng đã lựa chọn những câu tục ngữ ra đời trước Cách mạng Tháng Tám làm cho
công trình sưu tầm của mình. Ông cho biết công việc này vừa phức tạp lại vừa
đơn giản. Bởi “Những câu tục ngữ được ghi trong các sách xuất bản trước năm
1945 thì được người biên soạn ghi là tục ngữ cổ. Cũng có thể có trường hợp
nhầm lẫn hoặc thếu chính xác. Để xét đoán một trường hợp cụ thể, cần dựa vào
nhiều yếu tố, nhiều tri thức của các nhà khoa học về ngôn ngữ, về văn hóa, về
lịch sử”. [25;tr.24]
Chúng tôi cũng đồng ý và coi ca dao tục ngữ truyền thống là những sáng tác
có trước thời điểm 1945. Ca dao tục ngữ truyền thống bảo lưu những giá trị văn
hóa lâu đời mang tính ổn định của cha ông ta từ hàng trăm năm trước. Với kho
tàng ca dao tục ngữ truyền thống dễ dàng nhận thấy sự phong phú đa dạng trong
việc phản ánh về các vấn đề ẩm thực.
1.1.4. Khái niệm văn hóa ẩm thực
Văn hóa, theo định nghĩa của UNESCO với ý nghĩa rộng nhất của từ này:
đó là một phức thể - tổng thể các đặc trưng, diện mạo và tinh thần, vật chất, tri
thức và tình cảm… khắc họa nên bản sắc của một cộng đồng gia đình, làng, vùng
miền, quốc gia, xã hội…Văn hóa không chỉ bao gồm nghệ thuật, văn chương mà
cả những lối sống, những quyền cơ bản của con người, những hệ thống giá trị,
những quyền tín ngưỡng [62; tr.24]
Theo GS.Trần Quốc Vượng, văn hóa được hiểu theo nghĩa rộng là lối sống,
cách sống, thế ứng xử, trong đó, văn hóa ăn uống có ý nghĩa quan trọng hàng
đầu, bởi ăn uống vốn là một nhu cầu bản năng của con người từ thời nguyên thủy
đến nay cùng với các nhu cầu thiết yếu khác như mặc, ở, đi lại. Để thích nghi với
môi trường, người ta ăn để sống. Vì vậy, ăn uống hay nói cách khác ẩm thực
chính là nhu cầu thiết yếu của cuộc sống,

15
Tuy nhiên, ăn uống không chỉ có mục đích để tồn tại mà ăn uống còn liên
quan mật thiết tới lối sống của con người, nó biến thành đạo sống, đạo ứng xử
của con người với con người trong xã hội, của con người với môi trường tự
nhiên. Cố giáo sư Đào Duy Anh – nhà học giả uyên bác về văn hóa Việt Nam đã
định nghĩa ngắn gọn, dễ hiểu về văn hóa: “Văn hóa là Sinh hoạt”. Và “sinh hoạt
ăn uống” cũng là “sinh hoạt văn hóa”. Theo GS.TS Ngô Đức Thịnh, sinh hoạt ăn
uống được chia làm 3 loại.
- Ăn uống thường ngày
- Ăn uống lễ nghi (ăn giỗ, ăn cưới), ăn uống nhân dịp hội hè, đình đám)…
- Ăn uống chữa bệnh (uống thuốc, bị bệnh này thì “kiêng kỵ” ăn uống
những cái này…).
Ngay từ xa xưa, trong dân gian đã truyền dạy kinh nghiệm của những đứa
trẻ từ thuở chập chững những kinh nghiệm sống cần thiết và quan trọng trong đó
không thể không kể đến việc học ăn. Vì thế mà trong câu tục ngữ: “Học ăn, học
nói, học gói, học mở” chúng ta thấy “Học ăn” được đưa lên hàng đầu. Có thể
xem việc ăn uống gắn liền với bản sắc văn hóa cộng đồng, đồng thời ăn uống
cũng phản ánh thế ứng xử xã hội của con người.
Phong cách ăn uống cũng như thế ứng xử ẩm thực khác nhau tùy theo môi
trường sinh thái tự nhiên và môi trường sinh thái nhân văn, tùy theo tộc người,
tùy theo vùng, miền, tùy theo giai tầng xã hội, hay không gian, thời gian, môi
trường sống của con người. Chẳng hạn ở xứ nóng - ẩm như Việt Nam có Lúa –
Gạo – Chè – Vối để ăn cơm, uống nước chè xanh, nước vối – Văn hóa lúa nước –
Bát nước chè xanh, nước nụ vối, thuốc lào là bản sắc của Việt Nam và các nước
Đông Nam Á khác, hay ở từng vùng miền, ẩm thực cũng có điểm riêng biệt: Châu
thổ Bắc Bộ với tương cà là gia bản; Miền Trung ăn cay, ăn mặn với mắm là vượt
trội; Miền Nam có cá lóc nướng trui, cua rùa rang muối…Như thế, có thể hiểu văn
hóa ẩm thực là lối ăn uống, cách ăn uống, hay cách ứng xử về ẩm thực tùy theo môi
trường sống.
Với người Việt Nam, từ xa xưa, ăn uống luôn gắn liền với nếp sống văn hóa
của con người. Chẳng thế mà đã có không ít lời ca dao ghi nhận nếp sống văn

16
hóa thể hiện qua việc ăn uống như Lời chào cao hơn mâm cỗ hay Ăn cỗ đi trước,
lội nước theo sau… Cũng trong ngôn ngữ dân gian, người ta có thể tìm thấy
nhiều điều nói về “ăn” theo cả nghĩa đen và nghĩa bóng: cách ăn, nơi ăn, không
gian ăn, thời gian ăn và triết lý ăn uống, chẳng hạn như Ăn cây nào rào cây ấy,
Ăn quả nhớ kẻ trồng cây…
Ăn uống, một mặt, duy trì sự sống của con người, mặt khác cũng cần nói tới
vai trò vô cùng quan trọng của thức ăn trong việc tạo dựng bản sắc, thực hành tôn
giáo và quá trình xã hội của con người. Nghiên cứu văn hóa ẩm thực là tìm hiểu
tới nghi lễ ăn uống, phong tục, tập quán, quan điểm và cách nấu nướng, thái độ
văn hóa trong ăn uống. Điều đó càng chứng tỏ đời sống văn hóa ẩm thực vô cùng
đa sắc, đa thanh trong tổng thể văn hóa nói chung ở nước ta.
Cho đến nay, các công trình nghiên cứu về văn hóa ẩm thực trên nhiều
khía cạnh, nhiều phương diện khác nhau đã được công bố. Tuy nhiên, việc
nghiên cứu một cách hệ thống và đầy đủ về ẩm thực Việt qua ca dao, tục ngữ là
một điều cần thiết, về một khía cạnh nào đó là một cách góp phần tôn vinh ẩm
thực Việt, tôn vinh những giá trị văn hóa mang đậm đà bản sắc dân tộc.
1.2. Lịch sử vấn đề nghiên cứu
Văn hóa ẩm thực được nghiên cứu, tìm hiểu trên nhiều khía cạnh khác nhau,
từ lịch sử, nhân học văn hóa, dân tộc học… Sau này, còn có những áng văn thơ
viết về ẩm thực với chất hồi cố hay hoài niệm đã để lại ấn tượng sâu sắc trong
lòng bạn đọc. Trong kho tàng ca dao tục ngữ của văn học dân gian, văn hóa ẩm
thực là một nội dung quan trọng và không thể thiếu. Đến nay đã có nhiều cuốn
sách, công trình viết về ẩm thực, trước hết phải kể đến các công trình sưu tầm về
ẩm thực.
1.2.1. Các công trình sưu tầm về văn hóa ẩm thực
Mỗi vùng miền trên đất nước ta lại có những đặc sản, phong tục tập quán
riêng góp phần tạo nên những nét độc đáo trong đời sống văn hóa ẩm thực. Sự
hấp dẫn và phong phú của văn hóa ẩm thực là động lực thôi thúc để nhiều nhà
nghiên cứu tập hợp lại nguồn tư liệu khổng lồ đó.

17
Trong công trình nghiên cứu, sưu tầm của các nhà lịch sử, nhà nghiên cứu
văn hóa từ các thế kỷ trước đã có đề cập tới các món ăn Việt Nam dưới góc độ
khảo tả.
Cuốn đầu tiên ghi lại tập tục ăn uống là Lĩnh nam chích quái của Trần Thế
Pháp. Ở cuốn sách này, một vài tập tục như tục ăn trầu, tục gói bánh chưng bánh
dầy, tục dâng đồ lễ…đã được đề cập đến. Ngoài ra, cuốn sách cũng nói tới một
số lương thực, thực phẩm của người Việt thời Hồng Bàng khi con người vừa
kiếm ăn bằng săn bắn, hái lượm ở rừng núi, đánh bắt cá, tôm ở sông suối nhưng
cũng vừa làm ruộng ở châu thổ.
Tiếp theo, phải kể đến các cuốn Đại Việt sử ký toàn thƣ của Ngô Sĩ Liên
vào thế kỷ XV. Cuốn sách có những ghi chép tản mạn về ẩm thực như trà đình
(nơi uống trà) ở Thăng Long, tục uống trà bằng mũi của một dân tộc ở vùng cao
Tây Bắc. Cũng ở thế kỷ XV, Dƣ địa chí của Nguyễn Trãi ghi lại một số đặc sản
của một vài địa phương quanh Hà Nội: đặc sản làng Hoàng Mai, rượu sen, rượu
cúc ở Bình Trọng… Sang đến thế kỷ XVIII, Phạm Đình Hổ trong Vũ trung tùy
bút đã có những bút ký về tục uống chè của người Việt.
Sau này có nhiều công trình sưu tầm về tục ngữ, ca dao, trong đó có những
tri thức dân gian về ẩm thực, trong số đó có cuốn Tục ngữ Việt Nam của nhóm
tác giả Chu Xuân Diên, Lương Văn Đang, Phương Tri. Trong công trình này,
phần tục ngữ về văn hóa ẩm thực được các tác giả đặt với nhan đề Ăn uống. Hút
xách. Nấu nướng [12; 211] và phân chia tách bạch những câu tục ngữ nói về văn
hóa ẩm thực từ kinh nghiệm, cách chế biến, phong tục tập quán và quan niệm ăn
uống của cha ông ta từ xa xưa.
Trong khi đó, ở công trình Tục ngữ, ca dao, dân ca Việt Nam của Vũ Ngọc
Phan, tác giả đã chú trọng về chất lượng hơn là về số lượng trong việc lựa chọn
những câu, những bài ca dao, tục ngữ. Trong số những câu tục ngữ có nhiều câu
đề cập đến vấn đề ẩm thực, kinh nghiệm ăn uống cũng như mượn những câu tục
ngữ về ăn uống để nói tới phong cách, quan điểm sống.
Khéo ăn thì no, khéo co thì ấm
No nên bụt, đói ra ma

18
Hay
Cơm treo, mèo nhịn đói
Ăn lấy đặc mặc lấy bền
Cách lựa chọn đồ ăn:
Gà dài cựa thịt rắn, gà cựa ngắn thì mềm.
Mùa hè cá sông, mùa đông cá bể
Tuy nhiên, tác giả lại không phân chia rõ ràng mục ẩm thực mà xen lẫn
trong các phần như Về vũ trụ, con người và xã hội, Đất nước và con người qua
tục ngữ, ca dao… Vì thế, độc giả cũng sẽ khó đoán biết hết được phần nào liên
quan đến văn hóa ẩm thực.
Là một cuốn sách tập hợp tương đối có hệ thống về nền văn hóa ẩm thực và
các món ăn Việt Nam, Văn hóa ẩm thực và các món ăn Việt Nam do tác giả
Xuân Huy sưu tầm và giới thiệu đã tổng hợp các bài viết của nhiều tác giả xưa và
nay có liên quan đến lối ăn uống, triết lý ẩm thực. Ngoài ra, cuốn sách cũng giới
thiệu cụ thể nhiều món ăn Việt Nam truyền thống và hiện đại trên khắp các miền
Nam, Trung, Bắc như một cách minh họa vừa cụ thể vừa toàn diện cho cả nền
văn hóa ẩm thực Việt Nam.
Cuốn sách khá dày dặn được tác giả chia làm 9 phần, trong chương đầu là
tổng hợp các bài viết về văn hóa ẩm thực của các tác giả có tên tuổi như Toan
Ánh với bài viết Ăn uống, tác giả Đào Duy Anh với Phong tục ăn uống của
người Việt, Trần Văn Khê với bài Bàn về nghệ thuật nấu bếp và ăn uống của
người Việt… Những bài viết về phong tục tập quán, những thức ăn chính, chuyện
uống, thức ăn chay và các giai thoại cũng được tác chọn lọc giới thiệu. Các
phong tục có từ xa xưa thi Thi cỗ và thưởng tiền (Toan Ánh), Cỗ và mâm cỗ
Việt Nam (Lý Khắc Cung), Tết và văn hóa ẩm thực (Đỗ Quang Hưng)…
Điều đặc biệt là cuốn sách đã chọn lọc giới thiệu các món ăn đặc trưng của
3 vùng miền Bắc, Trung, Nam của các nhà văn, nhà báo tổng hợp từ các nguồn
khác nhau. Ở đất Bắc có Miếng ngon Hà Nội của Vũ Bằng, Quà Hà Nội của
Thạch Lam, Bún riêu cua Hà Nội của Đàm Hải Vân…; Phong vị miền Trung có
Bún Huế của Trần Đức Anh Sơn, Mắm Huế của Hoàng Dạ Lê, Sò huyết Ô

19
Kho tài li u mi n phí c a Ket-noi.com blog giáo d c, công ngh

Loan của Huỳnh Thạch Thảo… Độc giả còn được thưởng thức hương vị miền
Nam qua các bài viết Món lạ miền nam của Vũ Bằng, Cá bông kho tiêu của
Song Lê…
Các tác giả cho thấy sự phân biệt giữa món ăn ba miền thực ra chỉ có tính
tương đối, vì như món phở hay bánh cuốn vốn gốc từ miền Bắc nhưng đã trở
thành món ăn phổ biến chung của người Việt Nam, không phân biệt địa phương.
Sự giao lưu mạnh mẽ và bổ sung lẫn nhau trong cách chế biến của món ăn ba
miền một lần nữa lại chứng tỏ tính cách hợp nhất trong ẩm thực của người Việt
Nam. Trong phần cuối của cuốn sách, tác giả cũng đã xây dựng mục lục là những
câu thành ngữ, tục ngữ, ca dao có nhắc tới việc ăn uống và món ăn dân gian ba
miền. Cuốn sách là công trình tham khảo bổ ích cho những người thích nấu
nướng, đặc biệt là tài liệu quý đối với những ai muốn tìm hiểu về văn hóa ẩm
thực của dân tộc.
Tiếp theo phải kể đến cuốn Từ điển văn hóa ẩm thực Việt Nam của ba tác giả
Huỳnh Thị Dung, Nguyễn Thu Hà và Nguyễn Thị Huế. Đây được xem là một công
trình khá dày dặn và công phu khi viết về ẩm thực Việt.
Cuốn sách gồm 2 phần, phần 1 là một số lệ tục văn hóa ẩm thực Việt Nam
và phần 2 là bách khoa ẩm thực với các món ăn của ba miền. Trong phần này,
các tác giả không quên giới thiệu những công thức cổ truyền cho các mâm cúng
ông bà ngày lễ, ngày tết khi ăn hỏi hay cưới xin. Ngoài ra, cuốn sách còn có phần
mô tả các cuộc thi nấu ăn theo lệ xưa của dân tộc như thi luộc gà, thi nấu nước,
thi nấu cơm, thi gói bánh chưng. Cuốn sách là một công trình sưu tập, khảo tả
không chỉ mang tính dân tộc mà còn là một tài liệu quý về phong tục, tập quán
của một số nơi trên đất nước ta. Hơn nữa, đây cũng có thể coi như một bách khoa
ẩm thực để các bà, các chị chế biến các món ăn cho gia đình thưởng thức.
Bên cạnh đó còn phải kể đến cuốn Từ điển món ăn Việt Nam của nhóm tác
giả Nguyễn Loan, Nguyễn Hoàn và Việt Hùng xuất bản năm 1996. Phần I của
cuốn sách, các tác giả đã miêu tả 1600 món ăn phổ biến và đặc sản của các vùng
ở Việt Nam, các món ăn trong những ngày tế lễ, hội hè, đình đám, những món ăn
kiêng và món ăn chay với tất cả các sắc thái địa phương của nó. Các tác giả cũng

20
đã giải thích các món ăn có nguồn gốc từ nước ngoài và từ các dân tộc ít người
trong nước. Ở mỗi món ăn, nhóm tác giả đã cố gắng chỉ rõ thành phần các món
ăn, các gia vị kèm theo. Trong Phần II, cuốn sách giới thiệu cách chế biến 400
món ăn phổ biến ở các miền. Ngoài ra còn có danh mục 1600 món ăn xếp theo
nguyên liệu chế biến (theo vần ABC) của tên gọi các món ăn. Đây được xem là
một tư liệu quý giúp cho việc tìm hiểu đặc điểm đời sống xã hội, phong tục tập
quán, ý thức lễ nghi tín ngưỡng của người Việt thông qua các món ăn, đồng thời
giúp cho các dân tộc khác hiểu hơn về xã hội, về phong tục của người Việt Nam,
mở rộng giao lưu văn hoá quốc tế.
Như vậy, việc sưu tầm về văn hóa ẩm thực đã được tiến hành từ rất sớm.
Những món ăn mang hương vị đặc trưng của các vùng miền, cách thức chế biến và
thưởng thức đều được các tác giả sưu tầm và giới thiệu một cách hoàn chỉnh. Đây là
những tài liệu quý và bổ ích khi tìm hiểu về văn hóa ẩm thực Việt Nam. Sự phong
phú trong đời sống ẩm thực góp phần làm cho đời sống văn hóa nói chung của
người Việt thêm đa dạng, qua ăn uống người ta dễ dàng hiểu được tính cách, lối
sống, đặc điểm của mỗi cá nhân rộng hơn là một địa phương, vùng miền.
1.2.2. Các công trình nghiên cứu về văn hóa ẩm thực
Tìm hiểu về văn hóa ẩm thực Việt Nam, từ xa xưa những tri thức đó ngoài
được sưu tầm thì cũng được nghiên cứu, phân tích trong hệ thống các sách lịch
sử, văn hóa như Lĩnh nam chích quái của Trần Thế Pháp, Đại Việt sử ký toàn
thư của Ngô Sĩ Liên, Vũ trung tùy bút của Phạm Đình Hổ
Đến đầu thế kỷ XX, một số sách viết về phong tục có đề cập nhiều đến vấn đề
ăn uống của người Việt như Việt Nam phong tục của Phan Kế Bính, Việt Nam văn
hoá sử cương của Đào Duy Anh (1938), Nếp cũ con người Việt Nam của Toan
Ánh, Đất lề quê thói của Nhất Thanh Vũ Văn Khiếu v.v.... Ẩm thực được coi là một
bộ phận không thể thiếu trong nền văn hoá dân tộc. Đặc biệt, trong một số tác phẩm,
ẩm thực đã được đặt vào vị trí xứng đáng của nó như các cuốn: Mùa xuân và
phong tục Việt Nam của nhóm tác giả Trần Quốc Vượng, Lê Văn Hảo, Dương Tất
Từ; Lễ hội cổ truyền của Viện Văn hoá dân gian Việt Nam....

21
Ngoài ra, còn phải kể tới một số công trình nghiên cứu chung về văn hóa
của các dân tộc dưới góc độ dân tộc học và nhân học có đề cập phần nào đến lĩnh
vực ẩm thực của các dân tộc, trong đó chủ yếu giới thiệu về tập quán ăn uống
như: Các dân tộc Tày-Nùng ở Việt Nam của Viện dân tộc học (1992); Phong
tục tập quán dân tộc tày ở Việt Nam của Hoàng Quyết và Tuấn Dũng (1994);
Một số vấn đề về văn hóa ăn uống trong xã hội cổ truyền người Việt của
Nguyễn Hải Kế (Đề tài NCKH cơ bản, Hà Nội, 2004) v.v... .
Cuốn Văn hóa ẩm thực Việt Nam của tác giả Vũ Ngọc Khánh cũng có chủ
đề xuyên suốt khi đề cập đến tầm quan trọng của lối ăn, cách ăn. Theo tác giả
“Có lẽ trong kho tàng ngôn ngữ thế giới và cả ngôn ngữ Việt Nam, không có từ
nào như từ ăn, khi nó được ghép với vô số những từ tố thông dụng trong tiếng
nói con người: ăn làm, ăn chơi, ăn giỏi, ăn nhập... Ăn được ghép vào với những
từ khác, để bao trùm được mọi mặt sinh họat, mọi nghề nghiệp, tính cách của con
người” [36;tr.12]. Tác giả cho rằng, khái niệm “ăn” của người Việt Nam đã được
mở rộng khi xem cái ăn là một vấn đề văn hóa lớn, bao trùm.
Trong phần một của cuốn sách, tác giả trình bày những đặc điểm của văn
hóa Việt Nam, đó là quan niệm ăn uống của người Việt, nghệ thuật ẩm thực của
người Việt qua đồ ăn thức uống, cỗ bàn, cách thức, ứng xử trong ăn uống và ý
thức về tài năng và chất lượng. Phần 2 của cuốn sách, tác giả khảo sát trên một số
bình diện từ lễ tục đến lễ vật. Đó là các nghi thức dâng cúng thần linh, việc cưới
xin, sinh đẻ, tang ma...Tiếp đó, là những hội thi tài gắn với đời sống ẩm thực của
cư dân xưa như hội Tắt đèn, Đốt đuốc, Đội xôi ở làng Ném, Võ Giàng, Hà Bắc
cũ, Hội Thi thổi cơm ở xã Định Tường, Thanh Hóa...Những câu phương ngôn,
thành ngữ về đặc sản từng vùng miền cũng được tác giả liệt kê cùng danh mục
các món ăn Việt Nam. Có thể xem đây là một trong những công trình khá đầy đủ
khi nghiên cứu về văn hóa ẩm thực.
Bên cạnh đó còn phải kể cuốn Bước đầu tìm hiểu văn hóa ẩm thực Việt
Nam của Phan Văn Hoàn (Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội, 2006). Đây là một
công trình nghiên cứu tương đối toàn diện và hệ thống về ẩm thực Việt Nam.
Trong cuốn sách này, tác giả đã nêu lên những đặc điểm chung khái quát về tự

22
nhiên và xã hội Việt Nam trong mối quan hệ với truyền thống văn hoá ăn uống
của dân tộc, giới thiệu sự phong phú và đa dạng của các món ăn, phân tích mối
quan hệ giữa ăn uống với cuộc sống con người Việt Nam đồng thời đề cập tới
vấn đề giao lưu văn hoá trong ăn uống. Với nội dung như trên, công trình này đã
bao quát được toàn bộ những vấn đề của ẩm thực Việt Nam nói chung.
Ngoài các cuốn sách trên còn phải kể đến cuốn Khám phá ẩm thực truyền
thống Việt Nam của tác giả Ngô Đức Thịnh trình bày về những đặc điểm chung
trong văn hóa ẩm thực Việt Nam và đi sâu vào ẩm thực của người Việt và truyền
thống ẩm thực của các dân tộc thiểu số.
Viết về ẩm thực, nhiều tác giả còn đi sâu giới thiệu về đặc sản và văn hóa
ẩm thực của từng vùng như cuốn Quà Hà Nội và Ẩm thực dân gian Hà Nội của
Nguyễn Thị Bảy; Văn hoá ẩm thực Kinh Bắc của Trần Quốc Thịnh (Tài liệu của
Hội Văn nghệ dân gian, 1999); Văn hoá ẩm thực xứ Nghệ của Ninh Viết Giao
(Hội văn nghệ dân gian Nghệ An, Vinh 2000); Văn hoá ẩm thực dân gian
làng Đồng Vang, Phú Xuyên, Hà Tây của Nguyễn Huy Hồng (Hội Văn nghệ
dân gian)…
Viết về ẩm thực, đặc biệt còn có một số nhà văn, dưới ngòi bút tinh tế của
họ, ẩm thực không chỉ là những món ăn thông thường mà còn trở thành một thú
chơi, một nét nghệ thuật đặc sắc. Đó là Hà Nội ba sáu phố phường của Thạch
Lam. Tác giả đã liệt kê khá nhiều món ngon của Hà Nội, mô tả kỹ lưỡng quà Hà
Nội một cách tinh tế như phở, cốm bún chả, xôi...; Trong Thương nhớ mười hai,
Vũ Bằng đã diễn tả nỗi niềm của một người xa Hà Nội qua nỗi nhớ da diết với
ẩm thực của nơi kinh kỳ. Các đặc sản của Hà Nội cũng như của miền Nam đã
được ông thể hiện bằng một bút pháp giàu chất thơ qua những bút ký trong
Miếng ngon Hà Nội và Món lạ miền Nam. Nguyễn Tuân đã đi tìm vẻ đẹp của
quá khứ, trong đó có những bài viết đầy chất thơ về ẩm thực tinh tế của người
Việt qua Vang bóng một thời (1940), Tuỳ bút (1941, 1943, 1955). Nhà văn Băng
Sơn cũng có hàng loạt tùy bút viết về thú ẩm thực của người Việt nói chung và
người Hà Nội nói riêng như Thú ăn chơi người Hà Nội (1993); tác giả Ngô
Minh đã có một công trình khảo sát lý thú về Ăn chơi xứ Huế v.v... .

23
Với nhiều sản vật ngon trên khắp cả ba miền cùng nếp ăn, nếp uống theo
phong tục riêng, văn hóa ẩm thực người Việt luôn chứa đựng nhiều điều thú vị,
hấp dẫn. Có lẽ vì vậy, nghiên cứu về ẩm thực chắc chắn không chỉ dừng lại ở một
vài công trình, trong một thời điểm nhất định. Theo thời gian, ẩm thực sẽ được nhìn
nhận, tìm hiểu dưới nhiều góc độ khác nhau thể hiện cái nhìn đa chiều về đời sống
văn hóa Việt Nam trong đó văn hóa ẩm thực đóng một vai trò không nhỏ.
1.2.3. Các công trình nghiên cứu về văn hóa ẩm thực qua ca dao tục ngữ
Càng về thời gian sau này có nhiều công trình nghiên cứu về ẩm thực qua
tục ngữ, ca dao. Trước tiên phải kể đến cuốn Văn hóa ẩm thực trong tục ngữ ca
dao Việt Nam của tác giả Nguyễn Nghĩa Dân, Cuốn sách được chia làm 3 phần
rõ rệt.
Với phần 1, tác giả tìm hiểu các khái niệm như “văn hóa”, “văn hóa ẩm
thực”. Sau đó, tìm hiểu văn hóa ẩm thực trong tục ngữ, ca dao dưới 4 góc nhìn
khác nhau. Trước tiên, tác giả xét đến góc nhìn địa chí với công thức “Cơm - Rau
- Cá”. Theo tác giả, những sản phẩm từ nông nghiệp gắn liền với điều kiện thiên
nhiên của nước ta, nó là điều kiện tất yếu để nhân dân sinh sống, phát triển, sau
đó nó được phản ánh vào tục ngữ ca dao. Đồng tình với công thức “Cơm - Rau -
Cá” mà cố Gs. Trần Quốc Vượng đã tổng kết về lương thực, thực phẩm thường
ngày của nhân dân ta, Nguyễn Nghĩa Dân cho rằng đó là công thức về sinh hoạt
vật chất cần thiết số một, giúp nhân dân ta tồn tại và duy trì giống nòi từ mấy
nghìn năm nay. Công thức ấy được quyện chặt với nhau và được nâng lên ngang
với tình cảm “Chi cho bằng cơm với cá, chi cho bằng mạ với con!”. Rau cũng
được đánh giá như vị thuốc “đói ăn rau, đau uống thuốc”… Ông cũng cho rằng,
mối liên hệ dinh dưỡng giữa “Cơm - Rau - Cá” đã có chiều dài thời gian từ hàng
nghìn năm qua và chiều rộng không gian từ Bắc đến Nam, từ vùng cao đến đồng
bằng ven biển [11;tr.29].
Dưới góc nhìn kỹ thuật chế biến thức ăn và phong tục tập quán ăn uống, ở
mỗi miền trên đất nước ta lại có những món ăn đặc trưng. Theo đó cách chế biến
cũng khác nhau, có những món ăn rất cầu kỳ, có những món đơn giản nhưng nó
phải đủ chất dinh dưỡng, hợp khẩu vị lại vừa đẹp mắt. Tìm hiểu văn hóa ẩm thực

24
trong tục ngữ ca dao Việt Nam, dưới góc nhìn về phong cách ăn uống, nếp sống
giao tiếp, tác giả cho rằng qua ăn uống đã “giáo dục cho dân ta cách ăn uống như
thế nào cho đẹp, văn minh, tạo nên nếp sống văn hóa ẩm thực”. Cũng từ nếp sống
văn hóa ẩm thực mà liên hệ đến tinh thần đạo lý, xử thế của cả dân tộc. Ngoài ra,
tác giả cho rằng, dân ta nhận thức rõ “Dân dĩ thực vi tiên” hoặc “Có thực mới
vực được đạo” nhưng mặt khác trong quan hệ văn hóa, đạo lý xử thế, nếp sống
thì ăn uống chỉ là phương tiện để duy trì sự sống [11; tr.47].
Trong phần thứ hai của cuốn sách, tác giả có sưu tầm, tuyển chọn một số
tục ngữ ca dao về văn hóa ẩm thực có chú giải và bình luận nhỏ để định hướng
tính chất văn hóa của câu tục ngữ, ca dao đó. Ở phần cuối tác giả tổng kết và rút
ra một vài đặc điểm của văn hóa ẩm thực trong tục ngữ ca dao Việt Nam.
Ngoài ra, còn phải kể đến cuốn Thành ngữ học Tiếng Việt của Hoàng Văn
Hoành. Là công trình chuyên sâu về thành ngữ nhưng thử nghiệm của tác giả khi
dành một mục nhỏ để nghiên cứu về chủ đề văn hóa ẩm thực của người Việt đã
bổ sung vào kho tàng ca dao, tục ngữ, thành ngữ viết về ẩm thực. Từ những quan
niệm về việc ăn uống như coi ăn là một thú chơi, để thưởng thức chứ không phải
để thỏa mãn nhu cầu về vật chất:
Ăn lấy thơm lấy tho, chứ ai ăn lấy no, lấy béo
Ăn lấy bị, chứ ai lấy bị mà mang…
Đến những câu chuyện xung quanh việc ăn, việc uống, cách đi chợ, cách
chế biến món ăn và thậm chí là những thói hư tật xấu…đều được tác giả liệt kê
với những ví dụ chính xác. Theo tác giả “Ăn là chuyện thường mà cần yếu cho
sự sống biết mấy! Ta cứ tưởng ăn là dễ. Vâng, dễ thì dễ thật nhưng ứng xử sao
cho đúng, cho có văn hóa, cho phù hợp với bản sắc của dân tộc mình thì lại khó,
mà phức tạp và tinh tế làm vậy! Các cụ dạy chí phải: phải học, học ăn, học nói,
học gói, học mở! Học cả đời cũng chẳng hết được những điều cần biết đề làm
người đâu được những điều cần biết để làm người”. [17; tr.181].
Mới đây, công trình Văn hóa ẩm thực qua tục ngữ người Việt của hai tác
giả Nguyễn Thị Bảy và Phạm Lan Anh đã làm dày thêm kho nghiên cứu văn hóa
ẩm thực qua ca dao, tục ngữ. Theo các tác giả, văn hóa ẩm thực là một thói quen

25
có tính di truyền văn hóa lâu dài, tương đối chậm biến đổi, dù cho các yếu tố
kinh tế xã hội có những thay đổi nhất định. Cuốn sách được chia làm 3 chương.
Chương 1, tác giả trình bày đặc sản ẩm thực các địa phương. Trong phần này, hai
tác giả nêu khái niệm về tục ngữ và tổng quan đặc sản ẩm thực của tỉnh thành
phố. Theo các tác giả, nước ta có những đặc điểm tự nhiên sinh thái phong phú từ
đồng bằng đến trung du, miền núi, cùng với những ưu đãi của thiên nhiên là cơ
sở hình thành nên sự đa dạng trong văn hóa ẩm thực người Việt. Các tác giả đã
tạm chia sản vật ẩm thực thành 5 loại để tiện việc thống kê, đối sánh:
- Về thóc gạo và các sản phẩm chế biến từ thóc gạo, khoai, sắn.
- Hoa quả các loại
- Rau – dưa - tương – cà
- Các loại thủy sản và động vật nuôi
- Đồ nhậu, đồ uống, đồ hút
Trong đó, mỗi loại lại được chia thành các tiểu loại cụ thể hơn như sản vật
thóc gạo bao gồm lúa, gạo, khoai, ngô, sắn, đỗ… và các sản phẩm chế biến từ
thóc gạo tương đối đa dạng như các loại bánh (bánh đúc, bánh tẻ…), xôi, bún,
chè, cháo… [5; tr.16]. Tương ứng với 5 loại trên, các tác giả đã tiến hành thống
kê, tìm hiểu theo địa bàn hành chính cấp tỉnh. Trong đó, thủ đô Hà Nội có số
lượng câu tục ngữ gắn với văn hóa ẩm thực và sản vật địa phương là phong phú
hơn cả.
Trong chương 2, các tác giả đưa ra những bí quyết chọn lựa và chế biến
lương thực, thực phẩm như cách chọn lương thực, thực phẩm theo thời gian,
chọn theo bộ phận vật phẩm.
Những quan niệm, kiêng kỵ trong ăn uống được các tác giả thể hiện chi tiết
trong chương cuối của cuốn sách với tên gọi Văn hóa ẩm thực. Nhu cầu ăn uống
của con người là để nạp năng lượng cho cơ thể, để có thể sống và phát triển để
lao động, sản xuất. Bên cạnh mục đích để sống, để tồn tại, ăn uống còn có ý
nghĩa văn hóa, phản ánh trình độ văn hóa của con người, đó là ăn uống như thế
nào cho lịch sự, nhã nhặn, đúng lúc, đúng nơi, đúng vị trí [5; tr.140]. Việc ăn,
việc uống tưởng chừng thường ngày mà cũng đòi hỏi những kinh nghiệm truyền

26
đời để giúp con người vừa có sức khỏe, vừa có khả năng phòng bệnh và chữa
bệnh một cách có hiệu quả. Vì thế, nhìn nhận tầm quan trọng của ăn uống không
chỉ ở nét nghĩa đen – nét nghĩa sinh học mà còn nhìn nhận việc ăn uống ở nét
nghĩa bóng – nét nghĩa văn hóa tinh thần.
Viết về ẩm thực Việt, PGS.TS Nguyễn Hải Kế còn có công trình Một số
vấn đề về ăn, uống trong xã hội cổ truyền người Việt. Trong đề tài khoa học
này, tác giả chủ yếu bàn về chuyện ăn uống của người Việt. Tìm hiểu về văn hóa
ẩm thực của người Việt cổ truyền, cùng với việc bổ sung, kiếm chứng những
nhận xét, giả thiết khao học của các tác giả đi trước, PGS. TS Nguyễn Hải Kế
còn tìm hiểu nhận thức về việc ăn uống của người Việt xưa để từ đó xác lập quan
điểm về ăn uống của người Việt.
Tác giả cũng đã thống kê, phân tích, tổng hợp từ “ăn”, “uống” trong ca dao,
tục ngữ. Ngoài ra, tác giả còn xây dựng các bảng số liệu thống kê về số lượng các
sản vật. Công trình được xem là tài liệu rất hữu ích khi tìm hiểu về văn hóa cổ
truyền của nước ta.
Ngoài ra, cần kể đến các bài viết nghiên cứu đăng trên các báo, tạp chí như
Tìm hiểu văn hóa ứng xử của người Việt qua ca dao, tục ngữ của tác giả
Nguyễn Văn Thông. Bài viết đã chỉ ra sự phong phú không chỉ trong thực đơn,
cơ cấu thành phần bữa ăn mà còn phân tích sự đa dạng trong lối ăn, cách ăn uống
của người Việt ở mỗi vùng, miền. Điều này đã tạo nên bản sắc văn hóa ẩm thực độc
đáo qua những câu ca dao, tục ngữ cổ truyền của người Việt như Cơm tẻ mẹ ruột,
Cơm không rau như đau không thuốc…
Tác giả Trần Đình Ngọc với bài viết Từ “Ăn” trong thành ngữ, tục ngữ và
ca dao Việt Nam đã tổng hợp và giải thích các câu có liên quan đến từ “ăn”.
Chẳng hạn để khuyên người ta không nên quá coi trọng miếng ăn, tục ngữ có câu
Ăn để sống, không phải sống để ăn. Tuy nhiên, một số khác lại cho rằng ăn uống
là một trong bốn cái khoái của con người Sống để ăn, không phải ăn để sống.
Ngoài ra, tác giả còn giải thích cụ thể ý nghĩa của các câu ca dao, tục ngữ: Kẻ ăn
ốc, người đổ vỏ. Thấy người ta ăn khoai cũng vác mai đi đào có nghĩa là người ta
làm thì thành công đến lượt mình thì thất bại. Câu ca dao Đói thì ăn ráy, ăn

27
khoai/ Chớ thấy lúa trổ tháng hai mà mừng cho thấy một kinh nghiệm dân gian
lúa trổ sớm cũng có khi chưa phải là điềm được mùa.
Ngoài ra còn có bài viết “Ăn” trong văn hóa Việt của tác giả Lê Phước An.
Ở đây, tác giả lạm bàn về chữ ăn theo cả lớp nghĩa đen, nghĩa thực và nghĩa bóng
khi từ “ăn” được ghép với các danh từ, động từ khác. Tác giả cũng giải thích ý
nghĩa của hàng loạt từ “ăn” kết hợp cùng với các từ khác.

Tiểu kết
Như vậy, có thể thấy việc nghiên cứu về văn hóa ẩm thực qua ca dao, tục
ngữ đã sớm được quan tâm. Bởi văn hóa ẩm thực là một phần tất yếu trong đời
sống thường ngày, không những là một nét văn hóa vật chất mà còn là tiếng nói
của tâm hồn Việt khi những món ăn đều được sáng tạo, được làm nên bởi những
con người Việt Nam giản dị, chân thành và cũng rất tài hoa. Nó không những để
đáp ứng nhu cầu sống mà còn thể hiện lối sống của con người. Với cách thể hiện
cô đọng, súc tích dễ nhớ, dễ hiểu của ca dao, tục ngữ truyền thống, các vấn đề
văn hóa ẩm thực của người Việt được phản ánh một cách sinh động từ đặc sản
của các vùng miền, kinh nghiệm lựa chọn, chế biến lương thực, thực phẩm đến
quan niệm, phong tục tập quán của người dân trong ăn uống… Đây là nguồn tư
liệu vô cùng quý giá và bổ ích cho những ai muốn người hiểu về ẩm thực người
Việt đồng thời cho thấy đời sống ẩm thực người Việt vô cùng đa dạng góp phần
tôn thêm vẻ đẹp trong văn hóa ẩm thực Việt Nam.

28
CHƢƠNG 2: CÁC VẤN ĐỀ VỀ VĂN HÓA ẨM THỰC NGƢỜI VIỆT
QUA CA DAO TỤC NGỮ TRUYỀN THỐNG
Ca dao, tục ngữ là hai thể loại văn học dân gian có nhiều thế mạnh trong
việc phản ánh đời sống vật chất, đời sống xã hội của con người. Nếu như ca dao
là thơ dân gian có nội dung trữ tình dân gian, thiên về tình cảm thì tục ngữ lại là
những câu nói ngắn gọn đúc kết những kinh nghiệm, triết lý, tri thức dân gian.
Việt Nam nằm trong khu vực khí hậu nhiệt đới gió mùa với địa hình nhiều ao hồ
sông ngòi. Đây là yếu tố tự nhiên chi phối đồng thời góp phần làm phong phú
nền ẩm thực Việt Nam. Trong ca dao, tục ngữ, mảng đề tài ăn uống khá đa dạng
và hấp dẫn. Thống kê trong cuốn Kho tàng ca dao người Việt có tới 336 bài ca
dao phản ánh những vấn đề về ẩm thực của người Việt và trong cuốn Kho tàng
tục ngữ người Việt chúng tôi cũng khảo sát được 1627 câu tục ngữ đề cập đến
vấn đề này. Ca dao, tục ngữ phản ánh ẩm thực không chỉ bao gồm những tri thức
dân gian về ăn uống nói chung mà còn là những quan niệm dân gian về ăn uống,
những triết lý nhân sinh, những sản vật địa phương, phương cách xử thế cùng
những kinh nghiệm, tập quán ăn uống trong đời sống…Tìm hiểu ca dao, tục ngữ
truyền thống phản ánh ẩm thực chính là cách chúng ta tìm về lối sống, lối ứng xử
của người Việt nói chung. Trong số các vấn đề ẩm thực được ca dao, tục ngữ đề
cập, trước tiên chúng tôi muốn nói tới các đặc sản địa phương khi cùng được hai
thể loại này phán ánh với số lượng và tần suất lớn.
2.1. Các sản vật, đặc sản địa phƣơng trong ca dao, tục ngữ truyền thống
Từ lâu, ca dao tục ngữ Việt Nam được xem là kho kinh nghiệm quý báu của
nhân dân ta, đúc kết mọi tri thức dân gian về lao động sản xuất, kinh nghiệm tự
nhiên, phong tục tập quán, văn hóa ứng xử, tình cảm gia đình, tình yêu nam nữ…
trong đó, văn hóa ẩm thực Việt thể hiện nếp sống, phong tục tập quán, tâm hồn
của người Việt đã được ca dao, tục ngữ thể hiện một cách sinh động và phong
phú. Bộ phận văn hóa dân gian này đã khái quát một nền ẩm thực vô cùng đa
dạng của người Việt từ kinh nghiệm lựa chọn và chế biến lương thực, thực phẩm
đến phong tục, quan niệm ứng xử trong ăn uống.

29
Theo nhà nghiên cứu văn học dân gian Nguyễn Xuân Kính, đại đa số ca dao
được sáng tác theo thể lục bát, một bài ca dao ít nhất phải có độ dài hai dòng
thơ là một cặp lục bát.
Ví dụ như câu:
Muốn ăn bông súng mắm kho
Thì vô Đồng Tháp ăn no đã thèm.
Tuy vậy, dù dài hay ngắn chúng tôi gọi đó là bài ca dao như các nhà nghiên
cứu trước đây cũng đã làm [27;tr.220]. Trong khi đó, tục ngữ đúc kết các kinh
nghiệm trong đời sống nhân dân dưới hình thức là những câu nói ngắn gọn,
thường câu ngắn nhất có từ 3 tiếng trở lên, ví dụ: May hơn khôn; Ăn vóc học hay;
Có thực mới vực được đạo; Ăn cây nào rào cây ấy…Bằng việc phân biệt này,
chúng tôi có thể chọn lọc được những câu tục ngữ, những bài ca dao khi phản
ánh cùng chủ đề.
2.1.1 Các sản vật, đặc sản địa phương trong ca dao truyền thống.
Ẩm thực Việt Nam được đánh giá là đa dạng và phong phú. Bởi lẽ, ở mỗi
vùng miền trên đất nước ta lại có những đặc sản, món ăn khác nhau tạo nên đặc
trưng ẩm thực riêng cho mỗi địa phương. Ca dao, tục ngữ phản ánh toàn bộ các
vấn đề trong đời sống, trong đó ẩm thực là một khía cạnh quan trọng và không
thể thiếu. Đặc biệt, ẩm thực được thể hiện qua ca dao mang đậm tính trữ tình.
Qua những vần thơ lục bát, thường xuất hiện các sản vật gắn bó mật thiết với đời
sống thường nhật của người dân.
Khảo sát trong bộ Kho tàng ca dao người Việt chúng tôi thống kê được 131
bài ca dao phản ánh về đặc sản của các vùng miền, địa phương. Dựa trên đặc
điểm của các loại sản vật, chúng tôi tạm chia thành 6 nhóm lương thực, thực
phẩm với gần 30 loại đặc sản đã được ca dao phản ánh như cá, tôm, cua, các loại
rau, củ, quả, gạo…Tất cả đều được thể hiện cụ thể qua bảng thống kê sau:

30
Bảng 1: Số lƣợng các loại sản vật đƣợc phản ánh qua ca dao

STT Nhóm các sản vật Số lƣợng sản vật đƣợc Tỷ lệ (%)
ca dao phản ánh
1 Thủy sản và các sản phẩm 12/131 9,16
chế biến từ thủy sản
2 Các loại rau, củ, quả 40/131 30,5
3 Thóc, lúa, gạo, hoa màu và 30/131 22,9
các loại bánh trái
4 Các loại thịt và sản phẩm 13/131 9,9
chế biến từ thịt
5 Đồ uống, đồ hút 4/131 3,05

Việc phân loại số lượng ca dao trên chỉ có ý nghĩa tương đối vì nội dung
về ẩm thực có thể kết hợp với các nội dung khác, đôi khi một sản vật được nói tới
nhiều lần nên việc thống kê sẽ không khỏi thiếu sót.
Trong bảng thống kê trên, chúng tôi đã chia ra 5 nhóm sản vật được phản
ánh trong ca dao, nhóm sản vật được ca dao kể tên nhiều nhất là các loại rau, củ
quả với tổng số 40 loại. Tiếp sau đến nhóm thóc, lúa, gạo, hoa màu và các loại
bánh trái với 30 loại. Trong khi đó các loại thịt và sản vật chế biến từ thịt gồm có
13 loại, thủy sản và các sản phẩm chế biến từ thủy sản cũng được ca dao phản
ánh với 12 loại và cuối cùng đồ uống, đồ hút chỉ có 4 loại.
Điều này có thể lý giải bằng điều kiện tự nhiên và đặc điểm nền văn hóa
của Việt Nam. Nước ta nằm trong cái nôi của nền văn minh nông nghiệp lúa
nước, từ sớm người nông dân Việt Nam đã biết thâm canh canh tác. Với lượng
mưa hàng năm cao, hệ thống sông ngòi dày đặc đã mang một lượng phù sa lớn và
màu mỡ cho hai vùng đồng bằng Sông Hồng và Sông Cửu Long. Đây là yếu tố
thuận lợi giúp cho việc phát triển nông nghiệp cũng như các cây hoa màu, cây ăn
quả khác.

31
- Đồng Nai gạo trắng nước trong
Ai đi đến đó thời không muốn về
- Đồng Tháp Mười cò bay thẳng canh
Nước Tháp Mười lấp lánh cá tôm.
Bên cạnh đó, diện tích ao, hồ, sông, suối lớn và dày đặc cùng đường bờ
biển dài nên hầu như ở địa phương nào trên khắp ba miền cũng có thể nuôi, trồng
và đánh bắt các sản vật thủy sản. Từ các loại lương thực, thực phẩm, thủy sản
này người ta có thể chế biến thành các thực phẩm khác nhau như mắm tép, nước
mắm…Đây cũng là đặc sản của nhiều tỉnh thành..
- Ai về Tân Phước, Rạch Già
Gửi con cá lóc hái cà nấu canh
- Anh về qua cửa Đề Gi
Nghe mùi chả cá chân đi không đành
Ngoài ra, các loại rau củ quả cũng được ca dao phản ánh một cách sinh
động. Ngược lại, các loại thịt và sản phẩm được chế biến từ thịt chỉ chiếm 13 loại
bởi có thể do điều kiện kinh tế của người dân lúc bấy giờ đa phần nuôi các con
vật lấy sức kéo, trông nhà như trâu, bò, chó…trong khi các loại thịt như vịt, gà
thường có trong những dịp lễ, giỗ, tết. Trong số các sản vật thống kê được, chúng
tôi nhận thấy số lượng các sản vật xuất hiện không đều nhau, một số sản vật xuất
hiện với tần suất cao còn một số khác thấp hơn, điều này được thể hiện rõ hơn
qua bản thống kê sau:
Bảng 2: Tần suất các loại sản vật đƣợc phản ánh trong ca dao
STT Tên các loại sản vật Tần suất các sản vật đƣợc
phản ánh
1 Cá 42
2 Tôm 14
3 Cua 4
4 Các loại thịt và chế biến từ thịt 19
5 Các loại bánh 22
6 Thóc lúa gạo 28

32
7 Chè 7
8 Cam 6
9 Bưởi 4
10 Xoài 4
11 Dừa 7
12 Nhãn 2
13 Nem 4
14 Rượu 4
15 Rau húng, rau thơm 3
16 Các loại thuốc hút 4
17 Ổi 2

Theo con số chúng tôi thống kê được, cá là loại thực phẩm xuất hiện nhiều
nhất trong các bài ca dao với 42 lần. Xuất hiện khá nhiều sau cá là thóc lúa gạo
với tần suất 28 lần, ví dụ như:
- Lúa vàng Thạch Phú, khoai mì Thạch Phong
Đức Thọ gạo trắng nước trong
Ai về Đức Thọ thong dong con người,
- Muốn ăn cơm trắng cá chim
Thì về thụt bễ, đi rèn với anh.
Như vậy, cá và gạo là hai sản vật được ca dao phản ánh với số lượng nhiều
nhất bởi văn minh Việt Nam là nền văn minh nông nghiệp chủ yếu dựa vào việc
trồng lúa. Người dân chủ yếu sống bằng nghề nông, thóc lúa được xem là lương
thực chính duy trì cuộc sống cho người dân, sau thóc lúa là ngô, khoai, sắn….Do
có diện tích sông ngòi dày đặc, gắn với môi trường sông nước nên cá đã sớm trở
thành thức ăn phổ biến trong cơ cấu bữa ăn của người Việt. Đặc biệt, người dân rất
ít ăn thịt động vật mà chủ yếu nuôi gia súc nhằm kéo xe, lấy phân, phục vụ sản xuất
hay giữ nhà. Vì thế, thức ăn chính của người dân là các loại thực vật do trồng trọt và
thủy sản.

33
Ngoài ra, các loại lương thực thực phẩm khác như tôm, thịt, các loại trái cây
như cam, bưởi, xoài..; các loại thức uống như rượu; các loại rau ăn, rau thơm
cũng được ca dao phản ánh.
Mỗi vùng miền trên đất nước ta lại có những món ăn khác nhau, mang ý
nghĩa riêng biệt tạo nên bản sắc văn hóa của từng địa phương, vùng miền, đồng
thời nó cũng phản ánh truyền thống và đặc trưng của cư dân sinh sống ở từng khu
vực. Các đặc sản ẩm thực của các vùng miền cũng được phản ánh sinh động qua
các bài ca dao. Trong bảng thống kê sau sẽ cho thấy rõ hơn tỷ lệ sản vật của ba
miền được phản ánh trong ca dao.
Bảng 3: Số lƣợng sản vật của ba miền phản ánh trong ca dao
STT Miền Bắc Miền Trung Miền Nam Các sản vật không
rõ nguồn gốc
Số lượng 26/131 35/131 31/131 39/131
ca dao

Tỷ lệ % 19,8 26,7 23,7 29,8

Theo số lượng thống kê từ 131 bài ca dao có nói đến các sản vật, chúng tôi
thấy rằng số lượng sản vật của cả ba miền được phản ánh cũng khác nhau. Tuy
nhiên, con số này chỉ có ý nghĩa tương đối vì trong phần tư liệu có những bài chú
thích rất cụ thể về sản vật của từng địa phương nhưng cũng có nhiều bài không
chú thích rõ ràng nên chúng tôi xếp vào cột Các sản vật không rõ nguồn gốc,
chiếm tổng số 39/131 câu. Nhìn trên bảng thống kê, chúng ta thấy sản vật của
miền Trung được nhắc đến nhiều nhất với 35/131 câu, tiếp sau là miền Nam là
31/131 câu và cuối cùng là miền Bắc với 26/131. Với số liệu này, chúng ta không
thể khẳng định được đặc sản miền Nam, miền Bắc không phong phú bằng miền
Trung. Chúng tôi nghĩ rằng có thể còn có những câu ca dao miền Bắc, miền
Trung chưa được sưu tầm. Mặc khác cũng có thể những sản vật này không xuất
hiện ở ca dao nhưng có thể xuất hiện ở tục ngữ.
Trong số 131 bài ca dao phản ánh về các đặc sản vùng miền thì số lượng
sản vật của miền Trung được nhắc đến nhiều nhất (35 bài), trong đó các sản vật
của Thanh Hóa là được nói đến nhiều như vải, cau, dừa, cơm….

34
Ai về nhớ vải Định Hòa
Nhớ cau Hổ Bái, nhớ cà Đan Nê
Nhớ dừa Quảng Hán, Lựu Khê
Nhớ cơm chợ Bản, thịt dê Quán Lào
Nếu như Thanh Hóa được ca dao đề cập nhiều đến vải, cà, dừa…thì mảnh
đất Hà Tĩnh lại được biết đến với những đặc sản hấp dẫn như như lụa chợ Hạ,
chè Hương Sơn. Trong khi đó, Bình Định nổi tiếng với món cá lá nướng, cá kình
nấu chua. Đặc biệt ở mảnh đất này còn có món bánh ít lá gai đã làm say lòng bao
cô gái khi muốn về làm dâu xứ này.
Muốn ăn bánh ít lá gai
Lấy chồng Bình Định sợ dài đường đi.
Mảnh đất duyên hải Nam Trung Bộ - Khánh Hòa lại nổi tiếng với các loại
sản vật của biển khơi như các loại sơn hào, hải vị, tôm, cá….
Đi đâu cũng nhớ Khánh Hòa
Nhớ biển Nha Trang gió mát, nhớ Ninh Hòa nhiều nem
Hay
Yến Sào Hòn Nội
Vịt lộn Ninh Hòa
Tôm hùm Bình Ba
Nai khô Diên Khánh
Cá tràu Võ Cạnh
Sò huyết Thủy Triều
Không chỉ có thức ăn ngon, mảnh đất miền Trung còn nổi tiếng với nhiều
loại rượu ngon và hơn hết là tình cảm nồng thắm của con người dành cho con
người.
Đất Quảng Nam chưa mưa đã thấm
Rượu hồng đào chưa uống đã say
Bạn về nằm nghỉ gác tay
Thư xem ai ơn trượng, nghĩa dày bằng ta

35
Số lượng sản vật được phản ánh nhiều thứ hai là các tỉnh miền Nam với
31 bài, chiếm 23,7%. Đến với xứ miệt vườn Nam Bộ, các anh Hai, chị Hai nồng
hậu, mến khách ta bắt gặp những câu ca dao chân tình, tha thiết khi viết về ẩm
thực ở vùng đất này.
Muốn ăn bông súng mắm kho
Thì vô Đồng Tháp ăn no đã thèm.
Hay
Bến Tre nước ngọt lắm dừa
Ruộng vườn màu mỡ, biển thừa cá tôm
Sầu riêng, măng cụt Cái Mơn
Nghêu sò Công Lợi, thuốc ngon Mỏ Cày
Xoài chua, cam ngọt Ba Lai
Bắp thì Chợ Giữa, giồng khoai Mĩ Hòa
Bến Tre không chỉ được biết đến với đặc sản nổi tiếng là những trái dừa
thơm ngon mà nơi đây còn được biết đến nhiều hơn với những món ăn mang đặc
trưng của xứ dừa như Bánh tráng Mĩ Lồng. Bánh phồng Sơn Đốc.
Trong khi đó, nhắc đến sông nước miệt vườn miền Tây, không thể không
nhắc tới những loài cá sông thơm ngon tạo thành đặc trưng của vùng đất này.
Trong đó có món cá lóc đặc sản của huyện Gò Công Đông, tỉnh Tiền Giang:
Ai về Tân Phước, Rạch Già
Gửi con cá lóc hái cà nấu canh
Miệt vườn Nam Bộ phì nhiêu không chỉ nhiều tôm cá, hoa trái mà nơi đây
còn nổi tiếng là vựa lúa lớn của cả nước với những cánh đồng lúa thẳng cánh cò
bay, những hạt trắng ngần thơm ngon.…Những đặc sản này cùng với tấm lòng
nhiệt thành, hiếu khách của người Nam Bộ đã khiến cho bất cứ ai một lần ghé
thăm cũng đều lưu luyến.
Đồng Nai gạo trắng nước trong
Ai đi đến đó thời không muốn về
Biên Hòa có bưởi Thanh Trà
Thủ Đức nem nướng, Điện Bà Tây Ninh

36
Biên Hòa bưởi chẳng đắng the
Ăn vào ngọt lịm như chè đậu xanh
Dù chỉ có 26/131 bài ca dao nhắc tới các sản vật đặc trưng của miền Bắc
thế nhưng các sản vật của nơi đây vẫn vô cùng phong phú. Trước tiên phải kể
đến những sản vật thơm ngon của vùng đất Kinh Kỳ, nổi bật trong đời sống văn
hóa ẩm thực miền Bắc.
Thanh Trì có bánh cuốn ngon
Có gò Ngũ Nhạc có con sông Hồng
Thanh Trì cảnh đẹp người đông
Có cây sáo trúc bên đồng lúa xanh
Tới Hà Nội sẽ chẳng ai có thể quên được một lần thưởng thức hương vị thơm
ngon của món bánh cuốn Thanh Trì. Theo tích dân gian, Thanh Trì là một làng vào
loại cổ nhất của Thăng Long – Hà Nội. Từ thời Hùng Vương thứ 18, người dân đã tụ
họp về đây để khai khẩn đất đai và được An Quốc, con trai vua Hùng dạy cày cấy.
Nghề làm bánh cuốn cũng được hình thành từ đây. Bánh cuốn Thanh Trì do được làm
từ loại gạo tẻ thơm ngon cùng những bí kíp gia truyền nên đến nay đặc sản này không
chỉ nổi tiếng ở thủ đô mà có nhiều nơi khác cũng biết đến.
Không chỉ có món bánh cuốn thơm ngon mà nơi đây còn được biết nhiều
đến các sản vật khác như cam Canh, ổi Quảng Bá, rau húng làng Láng hay món
cá rô Đầm Sét.
Ai qua phố Nhổn, phố Lai
Dừng chân ăn miếng chả đài thơm ngon
Ngọt thay cái quả cam tròn
Vừa thơm vừa mát hãy còn ở Canh.

Ổi Quảng Bá, cá Hồ Tây


Hàng Đào tơ lụa làm say lòng người

Vải Quang, húng Láng, ngổ Đầm


Cá rô đầm Sét, sâm cầm Hồ Tây

37
Như vậy, với 131 bài ca dao phản ánh về đặc sản của các vùng miền, trong
có trên 99 loại sản vật được nhắc tới, đặc biệt một số loại như cá, gạo xuất hiện
với tần suất cao đã cho thấy đời sống văn hóa ẩm thực vô cùng phong phú của
người Việt. Đó là nền văn hóa ẩm thực gắn liền với tự nhiên, với văn hóa nông
nghiệp. Mỗi vùng miền lại có những món ăn, thức uống mang đậm nét đặc trưng
của mảnh đất và con người nơi đó, góp vào bức tranh văn hóa ẩm thực chung của đất
nước. Bộ phận ca dao phản ánh ẩm thực đã khái quát những đặc sản nổi bật của các
vùng miền trên cả nước. Đây được xem là một nội dung quan trọng khi tìm hiểu về
văn hóa ẩm thực Việt Nam nói chung và mỗi vùng miền trên cả nước nói riêng.
2.1.2. Các sản vật, đặc sản địa phương trong tục ngữ truyền thống
Tục ngữ là nơi lưu giữ kho tàng tri thức dân gian của nhân dân, được đúc
rút từ những kinh nghiệm chung về các hiện tượng tự nhiên, các quan hệ xã hội.
Đây cũng là nơi bộc lộ lối sống, lối nghĩ và lối nói của dân tộc.
Văn hóa ẩm thực là một phần không thể thiếu trong đời sống văn hóa Việt
Nam, là tiếng nói của tâm hồn Việt. Mỗi món ăn đều được sáng tạo, được làm
nên bởi những con người Việt giản dị, chân thành, mộc mạc nhưng cũng rất tài
hoa. Thói quen ăn uống, đặc sản của từng địa phương vùng miền cùng những
phong tục tập quán từ sớm đã được phản ánh sinh động trong tục ngữ. Đặc biệt,
trong đó có hệ thống các sản vật, đặc sản ở các địa phương đã được phản ánh qua
tục ngữ với số lượng lớn.
Trên khắp ba miền đất nước, địa phương nào, vùng miền nào cũng có những
loại đặc sản đặc trưng, mang đậm đà hương vị quê hương, dân tộc. Từ thực tế đời
sống lao động của những cư dân nông nghiệp, những câu tục ngữ ra đời đã phản
ánh một cách đầy đủ những đặc trưng của một đất nước nông nghiệp với đời
sống ẩm thực phong phú. Khảo sát trong cuốn Kho tàng tục ngữ người Việt do
Nguyễn Xuân Kính chủ biên, chúng tôi đã thống kê được 1627 câu tục ngữ phản
ánh về ẩm thực, trong đó có 224 câu đề cập đến các loại sản vật. So với 131 câu
ca dao có đề cập tới các đặc sản, tục ngữ chiếm số lượng nhiều hơn hẳn. Chúng
tôi cũng phân loại thành các nhóm sản vật, được thể hiện cụ thể qua bảng thống
kê sau:

38
Bảng 4: Số lƣợng các loại sản vật đƣợc phản ánh trong tục ngữ
Tên các nhóm sản vật Số lƣợng sản vật Tỷ lệ phần
trăm (%)
Lương thực, hoa màu và các 42/224 18,8
loại bánh trái
Rau, củ, quả 32/224 17,4
Các loại đồ uống và đồ hút: 5/224 2,23
Các loại sản vật khác 9/224 4,017
Thủy sản và các sản phẩm làm 9/224 4,017
từ thủy sản
Thịt và các sản phẩm từ thịt 12/224 9,4

Theo kết quả từ bảng thống kê, chúng tôi đã tổng hợp được 224 câu tục ngữ
có đề cập tới các loại sản vật, đặc sản của các vùng miền trên cả nước. Chiếm số
lượng nhiều nhất là nhóm lương thực, hoa màu và các loại bánh trái với 42 loại;
nhóm thứ hai là rau, củ, quả với 39 loại, trong khi đó đồ uống và các loại đồ hút
chỉ có 5 loại. Ngoài ra, nhóm các sản vật khác chiếm số lượng là 9; nhóm thịt và
các sản phẩm từ thịt có 12 loại và nhóm cá, tôm, cua có 9 loại. Tuy nhiên, đây
chỉ là số lượng các loại sản vật mà tục ngữ đề cập tới, chưa kể mỗi sản vật này
còn được phản ánh với tần suất khác nhau. Cũng giống như ca dao, tục ngữ đã
tập trung đề cập đến các sản vật mà nước ta có thế mạnh như lương thực, hoa
màu, rau, củ, qua và các loại tôm, cá…Tần suất phản ánh của các sản vật này
được thể hiện rõ hơn trong bảng thống kê sau:
Bảng 5: Tần suất các loại sản vật đƣợc phản ánh trong tục ngữ
STT Các loại sản vật Tần suất sản vật đƣợc
phản ánh
1 Cá 44
2 Cua 15
3 Tôm 4
4 Lúa, Thóc, Gạo 37

39
5 Bánh đúc 8
6 Bánh Giầy 8
Khoai 20
7 Bún 11
8 Tương 16
9 Bánh lá (bánh tẻ) 4
10 Rượu 16
11 Chè 18
12 Cam 11
13 Dưa 11
14 Ổi 7
15 Xoài 3
16 Hành 5
17 Cốm 3
18 Nem 6
19 Cỗ 5
20 Chè 3
21 Cà 7
22 Dứa 4
23 Bí bầu 4
24 Măng 3

+ Lƣơng thực, hoa màu và các loại bánh trái


Trong số 42 loại sản vật của nhóm lương thực hoa màu, thóc lúa được tục
ngữ phản ánh tới 37 lần. Đây được xem là sản vật của nhiều tỉnh thành trên cả
nước như thóc gạo làng Đồng có ở Lương Tài, Bắc Ninh, thóc Lại Yên có ở Hoài
Đức, Hà Tây, Lúa Phú Xuyên có ở Ba Vì – Hà Nội. Các loại gạo thơm ngon có
thể kể đến như gạo làng Chùa, gạo Vô Hốt. Ở các địa phương như Hoa Lư -
Ninh Bình có gạo Đa Giá, gạo ré Đồng Môi có tiếng ở Yên Phong, Bắc Ninh. Ở
Bắc Giang có cơm Đại Hóa, cơm đồng Quá, Phú Thọ có cơm Lời, cơm đồng Á,

40
cơm làng Áo, ở Hà Nam có cơm Văn Xá, mảnh đất Đông Nam Bộ - Đồng Nai
cũng nổi tiếng với Cơm Nai Rịa.
Thóc gạo xuất hiện trong tục ngữ với tần suất cao hơn hẳn so với các loại
sản vật khác với lý do dễ hiểu nước ta là một nước nông nghiệp với sản phẩm
chính là thóc gạo nên ngay từ rất sớm loại lương thực này đã gắn bó mật thiết với
đời sống người dân, là nguồn nuôi sống con người. Những kinh nghiệm trong
việc canh tác, sản xuất và chế biến các sản phẩm từ nông nghiệp đã được nhân
dân đúc kết lại tới nay vẫn còn nguyên giá trị. Ngoài ra, nước ta còn có có điều
kiện tự nhiên thuận lợi với hệ thống sông ngòi dày đặc, hàng năm bồi đắp một
lượng phù sa lớn cho các đồng bằng ven sông. Nhờ lợi thế này nên ở nhiều địa
phương đã có những giống cây lương thực cho hiệu quả kinh tế và năng suất cao.
Thóc, gạo đã trở thành đặc sản của các miền quê, gắn với từng địa danh cụ thể.
Không chỉ là những thực phẩm trong đời sống thường ngày cơm, gạo còn trở
thành thứ vũ khí mạnh mẽ giúp nhân dân ta chiến đấu và chiến thắng kẻ thù:
Cơm nắm thợ Săn, phá tan quân Bún Thượng.
Bên cạnh các loại gạo tẻ, gạo nếp cũng là một sản vật ở nhiều địa phương
như Nếp Màng Màng ở Phú Yên, Nếp Đồng Trầu… Ngoài được dùng để nấu
cơm nếp, thổi xôi, làm bánh trôi, bánh chay, làm oản trong những ngày rằm,
ngày giỗ kỵ, gạo nếp còn được dùng làm nguyên liệu để nấu bánh chưng, làm
bánh dày trong những dịp lễ, Tết. Tuy nhiên, nổi tiếng nhất vẫn là cốm làng
Vòng (Dịch Vọng, Hà Nội) được làm từ nếp non. Từ lâu, cốm được xem là
đặc sản nổi tiếng của Hà Nội. Đặc sản này đã đi vào những áng văn đậm chất
trữ tình của các nhà văn như Thạch Lam, Vũ Bằng, Băng Sơn…khi viết về ẩm
thực Hà Nội.
Từ nguyên liệu gạo tẻ, gạo nếp nhân dân ta đã chế biến ra nhiều thứ quà,
bún, bánh…tạo nên nét đẹp độc đáo trong văn hóa truyền thống của dân tộc.
Theo thống kê trong Kho tàng tục ngữ người Việt, có 21 loại bánh trái được đề
cập tới, trong đó bánh đúc xuất hiện nhiều nhất với 8 lần, bánh giầy 8 lần, bún 11
lần, bánh tẻ 4 lần. Tuy nhiên, trong thực tế số bánh trái này có thể nhiều hơn nữa,
các loại bánh ngon có thể kể tới như Bánh đúc làng Kẻ (Từ Liêm, Hà Nội), Bánh

41
đúc Đại Đồng (Thạch Thất – Hà Tây), Bánh đúc Chợ Go (Đông Sơn, Thanh
Hóa), Bánh giầy Quán Gánh, bánh rán Cầu Khâu (Hà Nội), Bánh cuốn Thanh
Trì (Hà Nội), Bánh gai Cam Xá, Bánh tráng Mĩ Lồng (Giồng Trôm, Bến Tre),
Bún Lôi Hà (Duy Tiên, Hà Nam), bánh giầy làng Kẻ, bánh tẻ Kẻ So, Bánh lá
Bạch Cừ… Như vậy, ở mỗi địa phương, vùng miền đều có những loại đặc sản
mang đặc trưng riêng của vùng miền ấy, góp phần tạo nên nét độc đáo mà đa
dạng trong văn hóa dân tộc nói chung.
Ngoài thóc gạo, các loại hoa màu như ngô, khoai, sắn…cũng xuất hiện khá
nhiều trong tục ngữ. Từ xa xưa đây là các loại hoa màu được nhân dân quý trọng:
Được mùa chớ phụ ngô, khoai/Đến năm thất bát lấy ai bạn cùng. Đặc biệt, các
loại khoai được phản ánh trong tục ngữ với tần suất 20 lần bởi vì đời sống nhân
dân vốn dựa chủ yếu vào nghề trồng lúa nước. Với một nền sản xuất nhỏ, phụ
thuộc vào thiên nhiên, được mùa là may mắn, cuộc sống no đủ nhưng nếu có
thiên tai, giặc giã hoành hành, cuộc sống chỉ dựa vào trồng lúa thiếu thóc gạo nên rất
dễ đói. Do vậy, khi đói người nông dân phải tìm tới các loại ngô, khoai, sắn…và các
loại hoa màu này trở thành vật cứu đói của con người trong lúc khó khăn.
Một số vùng nổi tiếng với loại đặc sản này và được phản ánh trong tục ngữ như
Khoai lang làng Triều Khúc (Hà Nội), Khoai đồng Lá của Bắc Ninh. Bắc Giang là địa
phương có nhiều loại khoai ngon như Khoai Đông Đông, Khoai lang làng Đọ, Khoai
sọ làng Non; Khoai Đông Mả và khoai lang Đa Hội ở Hiệp Hòa. Ở miền Trung, nếu
như Thanh Hóa có Khoai ao Làng Xá thì Quảng Nam có Khoai lang Trà Kiệu thơm
ngon hấp dẫn không kém.
+ Rau củ quả
Tục ngữ về ẩm thực đã phán ánh tới 39 các loại rau, củ, quả, mặc dù số
lượng phản ánh về nhóm sản vật này thấp hơn so với ca dao (40 loại) nhưng tần
suất một số loại sản vật lại cao hơn hẳn trong đó cam, dưa được nhắc 11 lần, ổi 7
lần, xoài 3 lần…
Các loại quả như chuối cam, quýt, nhãn, dừa, đều có ở khắp 3 miền Bắc,
Trung Nam. Điểm nổi bật là hầu hết các đặc sản ngon được nhắc đến đều gắn
liền với các địa danh như Bưởi Đoan Hùng, dừa Bến Tre, Cam Canh, hồng Diễn,

42
cam xã Đoài, xoài Bình Định...Nhờ vậy, các địa danh được nhân dân nhớ đến
nhờ gắn liền với những đặc sản:
Cam Canh, hồng Diễn, cốm Vòng
Cam Lai Thành, chanh Thượng Kiệm
Cam Đa Lộc, thuốc Lỗ Đưng
Cam Xã Đoài, xoài Bình Định
Cam Phương Độ, đỗ Chản Thương, tương Vân Cầu
Mùa nào thức đấy là đặc điểm chung của văn hóa ẩm thực ở cả 3 miền trên
đất nước ta. Thường thường nhắc đến mỗi sản vật, người ta dễ dàng hình dung về
mảnh đất, văn hóa và phong tục của con người nơi đấy như dứa Sàn, mật Chũ ở
Bắc Giang, dừa làng Nghĩa, mía làng Tào, ổi làng Định Công, mít làng Nghè, cà
làng Láng… Những thức quả thơm ngon, bổ dưỡng đã làm sinh động nguồn
nguyên liệu ẩm thực của nước ta.
Dưa La, cà Láng, cải Báng, tương Bần.
Dừa làng Nghĩa, mía làng Tào
Dứa Sàn mật Chũ
Ổi Định Công, nhãn lồng Thanh Liệt
Mít làng Nghè, chè Mai Siu
Những đặc sản hoa trái này không chỉ phục vụ đời sống hàng ngày, chúng
còn được coi là những vật phẩm để tiến Vua: Chuối Đại Hoàng, gạo Mễ Trì,
nhãn lồng Hưng Yên…
Ngoài hoa quả, các loại rau, dưa, tương, cà cũng đã được tục ngữ đề cập tới,
nhiều nhất là các loại rau cải, rau muống, rau cần, rau lang, rau rền, rau bợ….Một
số địa phương có các loại rau ngon như ở Bắc Ninh có Rau muống Hiên ngang
thân to, sắc trắng, ngọn mập, ăn giòn và ngọt như ngó sen; ở Gia Bình - Bắc Ninh
có Rau muống làng Lái, Tân Yên – Bắc Giang có Rau muống Đầu Cầu. Đặc biệt,
ở Yên Dũng, Bắc Giang rau muống còn được đem để tiến vua với đặc sản Rau
muống Chũng Xuồng. Bên cạnh đó còn có nhiều loại rau ngon, sản vật của các
làng quê khác như Rau cần Kẻ Chúc ở Việt Yên, Bắc Giang, Tiên Du – Bắc Ninh

43
được biết nhiều tới Rau giền làng Rền, ở Con Cuông – Nghệ An lại có đặc sản
Măng Kẻ Hếch ….
Bên cạnh các loại rau ăn, các loại rau thơm cũng được tục ngữ đề cập tới, ở
Hà Nội trước đây có làng nức tiếng gần xa bởi các loại rau thơm như rau húng,
hành…Đây được xem như loại rau đặc trưng của mảnh đất này…
Hành làng Láng, bánh rán kẻ Thầy
Dưa La, húng Láng, nem Báng, tương Bần,
nước mắm Vạn Vân, cá rô đầm Sét.
Tương Ngô Cầu, bầu Ngô Xá
Đối với người Việt, rau thơm là một trong những thành phần quan trọng
của bữa ăn, không những để trang trí món ăn, tạo mùi thơm hấp dẫn mà còn kích
thích dịch vị, tạo cảm giác muốn ăn, tạo mùi thơm hấp dẫn. Đây được coi là một
trong những chuẩn mực trong ăn uống của người Việt: coi trọng sự cân bằng,
tính thống nhất trong ăn uống và đặc biệt coi ăn uống như một cách dưỡng sinh
trị bệnh.
Các loại rau xanh như bầu, bí, dưa cũng được tục ngữ nhắc đến nhiều như
Dưa chùa Rí, bí ông Đe ở Ý Yên - Nam Định, Dưa La ở Hà Đông – Hà Nội, Bí
bầu Ngô Xá…Đặc biệt, cà được xem là món ăn dân dã và không thể thiếu trong
bữa cơm thường ngày của người Việt. Cà thường được ăn cùng với rau muống
chấm tương. Thịt cá là hương hoa, tương cà là gia bản được xem như phương
châm sống dân dã của người Việt. “Cà là món ăn dường như đã gắn bó với mỗi
người con Việt Nam từ thuở ấu thơ. Món cà ghém còn để lại nỗi nhớ cồn cào cho
những người con xa quê bởi cái vị mặn mòi, giòn tan của nó”. [56; tr.130].
Được làm từ các nguyên liệu gạo, đậu tương, tương được xem là món nước
chấm dân dã trong các bữa cơm quê đã có từ lâu đời ở nước ta. Tương dùng để
chấm với rau muống luộc, chấm cà, củ cải luộc, bê tái hay bánh đúc lạc, tương
cũng được dùng để nấu canh hoặc kho cá. Trong tục ngữ phản ánh về ẩm thực,
loại nước chấm dân dã này được nhắc tới 16 lần và có mặt ở nhiều địa phương
như tương Cự Đà, tương làng Búng, tương Nhật Tảo, tương Vân Cầu, nhút
Thanh Chương, tương Nam Đàn…Tuy nhiên, nổi tiếng nhất phải kể đến tương

44
zchợ Bè, hay Thịt chó làng Nghe…Đặc biệt, món Thịt sơn son, dưa cuộn tròn
được xem là hai món ăn ngon của người Hà Nội xưa.
Nếu như thịt lợn thường để gói giò, làm nem rán, đem kho mặn hay làm
ruốc, rán mỡ…thì thịt trâu, thịt bò lại được xào với rau cần, gói giò hoặc ăn tái.
Từ các món thịt người dân đã chế biến ra được nhiều món ăn mang tính chất
thưởng thức, “ăn chơi” làm nên đặc trưng của mỗi tỉnh thành, trong đó món nem
được nhắc tới 6 lần, giò 2 lần như giò Châu Xuyên, giò Trèm, nem Vẽ, chuối Xù ở
Hà Nội, Nem chả Hòa Vang ở Đà Nẵng, Nem xứ Huế ở Huế, hay Gỏi cua làng
Sải, Trưa gỏi cá cháy, tối canh cá chày…
Bên cạnh các món ăn ngon, các loại nước uống cũng được nhân dân tổng
kết qua các câu tục ngữ, trong đó, rượu được nhắc tới nhiều với 16 lần. Rượu
thường được dùng trong bữa cơm thường ngày, trong đám cưới, đám hỏi, giỗ tết,
liên hoan hoặc quà biếu. Nhiều làng quê từ xưa nổi tiếng với nghề nấu rượu và
rượu trở thành đặc sản ẩm thực của chính địa phương đó như Rượu Bồ Trang,
Rượu Đông Cường, Rượu Đông Lâu, Rượu hũ làng Ngâu, Rượu Kiên Lao, Rượu
làng Hương….Trong đó nổi tiếng nhất phải kể đến Rượu làng Mơ hay còn gọi là
Rượu Kẻ Mơ ở Hà Nội và Rượu Vạn Vân ở Yên Phong – Bắc Ninh.
Từ lâu, chè được coi là một thức uống phổ biến trong đời sống hàng ngày
của người dân Việt Nam, chè cũng được dùng để tiếp khách và trong các buổi lễ,
hội. Người Việt mời nhau uống chè không đơn thuần để giải khát mà còn tâm sự
thể hiện sự giao kết tri kỷ. Trong tục ngữ phản ánh về ẩm thực, nhiều loại chè
ngon là đặc sản của các làng quê cũng được nhắc tới: Chè Quán Tiên, Chè Yên
Thái, Chè Quán Dạo, Chè Trại Lạo…hay Chè vối cầu Tiên…
Ngoài các thức uống, các đồ hút cũng được tục ngữ ghi chép lại như Thuốc
lào Khai Lai; Thuốc lào một nạm, chè tẩu một hơi…
Như vậy, một số lượng lớn sản vật của ba miền đã được phản ánh trong ca
dao, tục ngữ đã cho thấy một nền ẩm thực Việt Nam đa dạng, phong phú và
nhiều màu sắc. Tuy nhiên, giữa ca dao và tục ngữ người Việt khi cùng phản ánh
về các đặc sản địa phương lại có sự khác nhau rõ rệt. Nếu như ca dao có 131 bài
thì tục ngữ lại chiếm con số 224 câu phản ánh về đặc sản ẩm thực. Phản ánh về
các sản vật, thường trong một bài ca dao có thể đề cập đến từ 1 – 2 sản vật còn

45
một câu tục ngữ có thể liệt kê nhiều sản vật. Nếu như tục ngữ liệt kê, thể hiện
trực tiếp sản vật đó thì ca dao nhấn mạnh đến một đặc điểm của sản vật, món ăn
và lồng trong đó là sự mô tả, gợi nhiều liên tưởng, thông qua đó thể hiện tình
cảm quê hương. Về cách thức thể hiện, trong khi tục ngữ là những câu nói ngắn
gọn, cô đọng, gói gọn thông tin thì ca dao lại mang tính trữ tình có nhịp điệu và
được thể hiện chủ yếu ở các cặp lục bát sáu, tám và các cặp lục bát biến thể. Do
vậy, có thể thấy đặc trưng của hai thể loại này đã chi phối việc phản ánh ẩm thực
trong ca dao, tục ngữ nói chung và việc thể hiện các đặc sản nói riêng.
2. 2. Kinh nghiệm ăn uống trong ca dao, tục ngữ truyền thống
Ẩm thực Việt Nam dường như là một kho tàng với hàng nghìn cánh cửa,
mỗi cánh cửa mở ra là một hương vị, một công thức mới. Sự hấp dẫn của các
món ăn đã làm say đắm lòng người. Mỗi món ăn mang hương vị riêng đòi hỏi
những kinh nghiệm chế biến, cách thức ăn cũng khác nhau. Kho tàng ca dao, tục
ngữ truyền thống ngoài phản ánh các đặc sản còn có một số lượng lớn đúc kết
kinh nghiệm quý báu của nhân dân trong việc ăn uống và chế biến ẩm thực.
Những kinh nghiệm này cho đến nay vẫn còn nguyên ý nghĩa và được nhân dân
mỗi thời kỳ áp dụng vào trong cuộc sống thường ngày.
2.2.1. Kinh nghiệm ăn uống trong ca dao truyền thống
Văn hóa ẩm thực Việt Nam có một khối lượng tri thức phong phú về kinh
nghiệm ăn uống bao gồm kinh nghiệm lựa chọn và chế biến lương thực, thực
phẩm, kinh nghiệm nấu ăn, kinh nghiệm ăn và kinh nghiệm ứng xử thông qua ăn
uống. Những kinh nghiệm này giúp cho việc ăn đạt tới trình độ hoàn hảo cũng là
lúc người ăn có thể cảm nhận được hết hương vị, độ ngon của món ăn. Trong kho
tàng ca dao về ẩm thực người Việt cũng có nhiều bài phản ánh về vấn đề này.
Bảng 6: Số lƣợng ca dao, tục ngữ phản ánh kinh nghiệm ăn uống
STT Ca dao Tục ngữ
Số lượng ca dao tục 49/336 643/1627
ngữ phản ánh kinh
nghiệm ăn uống
Tỷ lệ % 14,5 39,5

46
Nói về kinh nghiệm trong việc ăn uống, ca dao xưa với 49 bài đã đúc kết
những kinh nghiệm quý trong lựa chọn và chế biến thực phẩm chẳng hạn như
việc kết hợp giữa các món ăn của người miền Tây Nam Bộ:
Kèo nèo mà lại làm chua
Ăn với cá rán, chẳng thua món nào
“Kèo nèo” còn được gọi là “cù nèo” là một loại rau cọng xộp có nhiều ở
miệt vườn sông nước Nam Bộ. Theo kinh nghiệm của người xưa thì kèo nèo làm
chua ăn với cá rán (cá chiên) là hợp khẩu vị và ngon nhất. Ngoài ra, phải kể đến
cách ăn khoai lang kết hợp với nước don, don là một loài hến, nấu canh ăn rất
ngọt của người làng Trá, huyện Tĩnh Gia, Thanh Hóa, nhờ có kinh nghiệm này
mà Những người làng Trá béo tròn như cu.
Ngoài kinh nghiệm ăn thế nào cho ngon trong ca dao còn thấy xuất hiện
những địa phương có món ngon như vùng miệt vườn Đồng Tháp có bông súng
chấm mắm kho. Đây được xem là món ăn dân dã, đượm tình quê hương. Bông
súng là loài rau thường mọc những nơi vùng trũng, đọng nước bùn. Người ta
thường chèo ghe đi nhổ bông súng và cuộn tròn 10 cọng thành một khoang, đem
bán ở chợ. Bông súng tuy bình dị nhưng trở thành món ăn khoái khẩu, thường
nhật của người vùng quê. Nó cũng trở thành món ăn đặc trưng của nơi đây mà
mỗi người có dịp ghé qua đều không quên thưởng thức.
Mượn cách ví von hài hước “Muốn ăn…thì về…”, các tác giả dân gian còn liệt
kê hàng loạt những món ăn ngon của các địa phương như ở Tĩnh Gia, Thanh Hóa có
món Bún sốt lòng tươi, ở Hoằng Hóa, Thanh Hóa có món cá bông kho gừng thơm
ngon. Ngoài ra, còn có các món ăn khác: Cơm tám canh cần, Cơm trắng cá chim,
Cơm trắng cá kho, Cơm trắng cá thu, Cơm trắng canh cần, Cơm trắng chả giò, Dưa
hấu, dưa hồng, Mật rú vô Trèn, Măng trúc, măng giang, Cơm trắng nước trong,
Đậu phụ tương tàu…
-Muốn ăn cơm trắng cá chim
Thì về thụt bễ, đi rèn với anh
-Muốn ăn cơm trắng cá kho
Trốn cha trốn mẹ xuống đò cùng anh

47
-Muốn ăn cơm trắng cá thu
Lấy chồng xóm Bể, làm du Gấm Mè.
Ngoài ra, còn phải kể đến các kinh nghiệm trong việc lựa chọn thực phẩm
sao cho tươi ngon, đúng nơi xuất xứ chẳng hạn như cách nhận biết giống măng
cụt ở Bến Tre:
Bánh tráng Mĩ Lồng, bánh phồng Sơn Đốc, măng cụt Hàm
Luông.
Vỏ ngoài nâu, trong trắng tợ bông gòn
Để có được những món ăn ngon, kinh nghiệm lựa chọn thực phẩm, cách chế
biến và bảo quản đóng vai trò vô cùng quan trọng với loài cá rô chỉ có cá rô câu
mới béo, ngậy và kinh nghiệm nấu món rau đắng ăn tại lục tỉnh (6 tỉnh ở miền
Nam) chỉ ngon khi nấu với cá trê. Có lẽ món ăn này cũng chính là lý do vì sao
nhiều người đặt chân đến vùng đất này lại lưu luyến không muốn rời xa.
Rau đắng nấu với cá trê
Ai đến lục tỉnh thì mê không về
Dân gian xưa có nhiều câu tục ngữ, ca dao nói về cách đoán định thời tiết,
thời gian để phục vụ cho sản xuất nông nghiệp từ việc gieo cấy, trồng, chăm sóc
cũng như thu hoạch sao cho đạt hiệu quả. Trong ăn uống việc lựa chọn sản vật
theo mùa cũng có ý nghĩa rất quan trọng vì nó sẽ cho kết quả tối ưu khi sử dụng
sản phẩm đúng thời điểm. Theo kinh nghiệm dân gian xưa, cách để nhận biết các
loại trái cây đến thời kỳ thu hoạch là căn cứ vào thời điểm trong năm hoặc dựa
vào màu sắc của trái cây. Chẳng hạn như sang tháng 7, dấu hiệu dễ nhận biết là
trái thị bắt đầu chuyển sang màu đỏ, mít cũng chớm có mùi thơm. Đến tháng 9,
quýt có màu đỏ, tháng 2 là mùa của quả ngái.
Tháng bảy ông thị đỏ ra
Ông mít chơm chởm, ông da rụng rời
Ông mít đóng cọc mà phơi
Ông da rụng rời, đỏ cả chân tay.
Tháng chín thì quýt đỏ trôn
Tháng hai ngái mọc cò con tìm về

48
Dân gian xưa cũng đã đúc kết được nhiều kinh nghiệm nhằm giúp thực
phẩm ngon hơn, chín hơn như cách đóng cọc vào trái mít sau đó phơi ra nắng,
giúp mít nhanh chín mà vẫn giữ được độ thơm ngon: Ông mít đóng cọc mà phơi.
Ngoài ra, việc lựa chọn thực phẩm dựa trên đặc điểm của sản vật cũng là một
kinh nghiệm quý như kinh nghiệm chọn thịt Mua thịt thì chọn miếng mông.
Người Việt đề cao việc kết hợp hài hòa khéo léo giữa các nguyên liệu khi
chế biến, đặc biệt là việc nêm gia vị vào các món ăn, nó không chỉ giúp món ăn
thêm thơm ngon hấp dẫn mà còn đảm bảo sự thống nhất, tính cân bằng và quan
điểm dưỡng sinh trị bệnh:
Ví dầu con cá nấu canh
Bỏ tiêu cho ngọt, bỏ hành cho thơm
Dân gian xưa cũng đã có những câu ca bàn đến sự kết hợp giữa các loại gia
vị trong chế biến thực phẩm:
Con gà cục tác lá chanh
Con lợn ủn ỉn mua hành cho tôi
Con cho khóc đứng khóc ngồi
Mẹ ơi, mẹ hỡi mua tôi đồng giềng
Tuy nhiên so với tục ngữ, số lượng ca dao phản ánh về kinh nghiệm ăn
uống chiếm số lượng khá khiêm tốn bởi ca dao mang tính trữ tình, mỗi bài ca dao
thường lồng ghép sự mô tả, tình cảm của tác giả để nói đến sự vật, sự việc được
nhắc tới. Ca dao cũng dành thời lượng để nhấn mạnh đối tượng được nhắc tới
trong khi đó tục ngữ là những câu ngắn gọn, thường phản án sự vật, sự việc một
cách cô đọng và súc tích. Mỗi thể loại lại có những đặc trưng riêng góp phần thể
hiện sự phong phú trong đời sống văn hóa ẩm thực người Việt.
Như vậy, những câu ca dao nói về kinh nghiệm ăn uống mặc dù chiếm số lượng
không nhiều nhưng đã phần nào đúc kết được những kinh nghiệm quý báu trong đời
sống hàng ngày của nhân dân khi lựa chọn, sơ chế và chế biến thực phẩm.
2.2.2. Kinh nghiệm ăn uống trong tục ngữ truyền thống
Kho tàng tục ngữ phong phú được xem là tấm gương phản ánh hiện thực
khách quan của mỗi dân tộc với lối sống, điều kiện và các phong tục tập quán

49
riêng. Hình ảnh về thiên nhiên, cuộc sống, về truyền thống dân tộc, quan hệ xã
hội được thể hiện theo nhiều cách thức khác nhau. Tục ngữ cũng là kho tàng tổng
hợp những kinh nghiệm lao động sản xuất, đời sống sinh hoạt, kể từ việc chọn
giống cây trồng, đánh bắt thủy hải sản, nuôi trồng các loại gia súc, gia
cầm….trong số đó có một phần quan trọng là kinh nghiệm ăn uống. Cách
thức lựa chọn thực phẩm, cách chế biến, kinh nghiệm, thói quen và những
lời khuyên trong ăn uống đều được tục ngữ phản ánh một cách chi tiết. Theo
thống kê của chúng tôi trong cuốn Kho tàng tục ngữ người Việt có tới 643
câu tục ngữ nói về kinh nghiệm nói chung.
Trong đó các kinh nghiệm về chọn lựa lương thực, thực phẩm có 134/ 643
câu chiếm 20,8%, kinh nghiệm chế biến món ăn chiếm 83 trên tổng số 643 câu,
phản ánh trực tiếp kinh nghiệm ăn uống có 154/643 câu, đặc biệt kinh nghiệm
ứng xử trong ăn uống chiếm số lượng cao nhất với 272 câu và 43,3%. Dưới đây
là bản về số liệu tục ngữ nói về kinh nghiệm ăn uống:
Bảng 7: Số lƣợng tục ngữ phản ánh các kinh nghiệm ăn uống
STT Cách chọn Cách thức chế Cách thức Kinh nghiệm ứng
lựa thực biến, nấu ăn ăn uống xử trong ăn uống
phẩm
Số lượng 134/643 83/643 154/643 272/643
tục ngữ
Tỷ lệ % 20,8 12,9 24 43,3
So với 39 bài ca dao khi cùng phản ánh về vấn đề này, rõ ràng tục
ngữ chiếm số lượng nhiều hơn hẳn. Trong đó, các vấn đề phản ánh về
kinh nghiệm ẩm thực cũng chi tiết và cụ thể hơn. Tìm hiều về tục ngữ
phản ánh kinh nghiệm ẩm thực trước tiên cần đề cập đến cách thức lựa
chọn thực phẩm.
+ Kinh nghiệm chọn lựa thực phẩm
Từ xưa đến nay, việc lựa chọn thực phẩm ngon, chất lượng có vị trí vô cùng
quan trọng trong mỗi bữa ăn hàng ngày. Các loại thực phẩm kể từ rau, củ, quả,
thịt, cá…đều có những đặc điểm riêng và cách thức lựa chọn khác nhau. Theo đó

50
dân gian đã đúc kết những câu tục ngữ về kinh nghiệm chọn lựa những bộ phận,
những phần ngon của các loại lương thực thực phẩm. Số liệu trong bảng thống kê
trên cho thấy đã có tới 134 câu tục ngữ phản ánh về vấn đề này.
Đầu tiên, theo kinh nghiệm dân gian có thể dựa theo đặc điểm bề ngoài của
các loại thực phẩm để chọn lựa đồ ngon. Ví như để chọn cá tươi ngon thì dựa vào
xem mang cá: Cá tươi xem mang. Nếu cá tươi, mang cá sẽ có màu đỏ bởi mang
là bộ phận trao đổi khí của loài cá. Khe mang cá tập trung rất nhiều mao mạch
nằm dưới niêm mạc mỏng, tạo ra nhiều màu sắc đỏ hồng tươi tắn, với những con
cá đã bị ươn mang sẽ có màu tím tái kèm theo nhiều nhớt. Cách chọn cá tươi
ngon rất quan trọng giúp cho việc thưởng thức hương vị món ăn được trọn vẹn.
Ngoài ra, còn có nhiều cách lựa chọn cá khác cụ thể hơn như:
Đầu cá trôi, môi cá mè
Nhất đầu cá chép, nhì mép cá trê
Nhất ngon là đầu cá gáy (chép), nhất thơm là cháy cơm nếp.
Một kinh nghiệm nữa trong ăn cá là Ngư cốt kê bì có nghĩa là xương cá to
thì ngon vì có phần tủy xương rất ngọt. Có thể sử dụng xương cá đó giã nhỏ lấy
nước nấu cháo, nấu canh hoặc cũng có thể rán giòn. Trong tổng số các loại cá kể
trên, phần đầu cá luôn được ca ngợi, trong đó, ngon nhất là mép, môi, hàm dưới
vì thường béo lại không ngậy còn những bộ phận khác như lườn, xương cá, có
khi cả vảy cá cũng được dân gian coi như một loại đồ ăn có nhiều chất Vảy cá
hơn lá rau.
Ngoài cách thức lựa chọn các loại thủy sản, tục ngữ cũng có nhiều câu chỉ
ra kinh nghiệm chọn vật phẩm từ động vật nuôi trong nhà như gà, lợn, trâu, bò…
Đối với thịt lợn thì cách để chọn được miếng thịt ngon đòi hỏi người nội
trợ phải khá tinh tường. Trước hết là nhận diện tướng mạo của con vật như lợn
chân bé, xương nhỏ, thịt nhiều thì được xem là lợn ngon. Một kinh nghiệm khác
trong lựa chọn thịt lợn là Thịt tươi thì phải xem gan. Gan thuộc phủ tạng động
vật, thường chứa nhiều nước, đây cũng là bộ phận lọc chất độc cho bộ máy tiêu
hóa nên gan dễ bị vi khuẩn xâm nhập và hoạt động. Gan của các con vật khỏe
mạnh thường có màu hồng tươi, hoặc hồng sậm, bề mặt gan láng bóng còn gan

51
của các con vật yếu, có bệnh tật thường thâm, nhợt nhạt, có các vết bầm hoặc
chấm trắng… Như vậy, nếu trên con vật có gan sáng hồng, thịt tươi đỏ thì có thể
yên tâm đó là nguồn thực phẩm tươi ngon, bổ dưỡng. [5;tr.93]
Cũng có khi việc lựa chọn thịt lợn dựa trên bộ phận của con vật đó Mua thịt
thì chọn miếng mông hay Thịt thăn cơm ré, Ruột heo còn hơn phèo lợn
Riêng với thịt bò, dân gian cũng có kinh nghiệm để lựa chọn loại thực phẩm
này: Bò non ít mỡ. Miếng thịt bò ngon là miếng thịt của con bò non, thịt bò già
thường dai, thậm chí còn bị mỡ. Ngoài ra, còn có thể chọn theo đặc điểm bộ phận
của con vật như bắp bò thường chắc thịt, thơm ngon: Lợn giò bò bắp. Đối với gà,
theo dân gian xưa cách lựa chọn gà ngon, chắc thịt, thường là loại gà choai, gà
giò nuôi được khoảng ba tháng tuổi:
Gà ba tháng vừa ngon, ngựa ba năm cưỡi được
Gà lọt giậu, chó sáu bát
Gà nhảy ổ, cải trổ ngồng non, gái một con, cơm vừa chín tới
Đặc biệt, còn có loại gà ngon hơn là gà nhảy ổ, gà mái chuẩn bị đẻ do đây
là gia đoạn sung mãn nhất của gà khi có nhiều dinh dưỡng và vi chất….Vì thế,
thịt gà lúc này rất ngon, mềm, bổ dưỡng cũng giống khi cải trổ ngồng non, cải
sắp ra hoa là thời điểm rau cải chứa nhiều chất dinh dưỡng nên ăn đúng vào thời
trân này thực phẩm sẽ ngon và giàu chất dinh dưỡng hơn.
Đối với các loại rau, củ, quả việc lựa chọn lại dựa trên quan sát các bộ phận,
hình thức bên ngoài của loại thực phẩm đó.
Mua bầu xem cuống, mua muống xem lá
Rau chọn lá, cá chọn vây
Rau xem lá, cà xem cuống
Đây có lẽ là cách lựa chọn thực phẩm thông dụng nhất mà người nội trợ có
thể dễ dàng tìm được loại thực phẩm chất lượng và tươi ngon. Rau là thực phẩm
không thể thiếu trong bữa ăn hàng ngày của mỗi gia đình. Lá rau thường xanh,
chứa chấp diệp lục để cây quang hợp, nhờ vậy cây mới phát triển xanh tốt còn
với các loại cây ăn lá và ăn cuống thì bộ phận của lá, thân cây có vai trò vô cùng
quan trọng. Cây hay rau tươi ngon thường có màu xanh. Cây bị bệnh khi có các

52
dấu hiệu bất thường như lá xoăn lại, đổi màu, hay có các chấm vàng, nâu, đỏ….
Lựa chọn rau cải ngồng, ngoài kinh nghiệm Rau xem lá cần lựa chọn rau non vì
sẽ cho vị ngọt, vị thanh của rau: Cơm chín tới, cải ngồng non
Đối với các loại rau củ như bầu bí, việc lựa chọn thường dựa trên kinh
nghiệm Bí già, bầu non hay Ai ưa dưa khú bầu già. Bí thường dùng để dành ăn
lâu vì vậy thường phải chọn quả bí già, cuống nhỏ, da bí trông đanh có màu thẫm
xanh. Loại bí già thường có cùi dày, ngọt. Ngược lại với bí cách chọn bầu thường
là quả non mới ngon, ngọt. Quả bầu non thường còn lông tơ, vỏ quả mềm, cầm
quả bầu cảm thấy nặng tay, cuống quả to, phần hạt bầu non…Với mướp cách
chọn cũng tương tự như bầu nên chọn mướp non, vỏ mỏng.
Cách lựa chọn sản vật còn có thể dựa vào phần ngon của sản vật ấy:
Ăn dứa đằng đít, ăn mít đằng đầu
Theo kinh nghiệm dân gian, quả mít đằng cuống có nhiều lõi và xơ, múi bé
và ít múi hơn phần đầu còn với loại dứa, phần đầu quả dứa thường nhạt do tiếp
giáp với phần chồi, thường chín chậm hơn nên không ngọt và ngon như phần
cuống quả. Vì thế, không nên ăn phần cuống mít và phần đầu dứa.
Tục ngữ không chỉ đúc kết kinh nghiệm trong lựa chọn từng bộ phận ngon
của sản vật sao cho đạt tiêu chuẩn mà còn đề cập nhiều đến cách chọn dựa theo
hình thức của sản vật ấy.
Mít tròn, dưa vẹo, thị méo trôn
Dưa chín thì cuống rụng.
Dưa gang đỏ đít, dưa cà đỏ trôn.
Đây được xem là cách chọn khéo kéo của dân gian được đúc kết qua
những câu tục ngữ giàu ý nghĩa, thể hiện tư duy của người làm nông nghiệp,
biết thưởng thức đồ ăn ngon nhưng đồng thời cũng biết cách phát triển, bảo
vệ, duy trì vật nuôi.
Bên cạnh đó, tục ngữ cũng đưa ra những kinh nghiệm ăn uống vừa tiết kiệm
lại vừa ngon như Đắt cá hơn rẻ thịt; Nhiều tiền ăn thịt, ít tiền ăn nây. Thịt vốn
đắt hơn cá, nên ăn cá vẫn dôi hơn và đỡ tốn tiền hơn so với ăn thịt.

53
Ngoài việc lựa chọn thực phẩm theo cách nhận biết bề ngoài của sản phẩm,
dân gian còn có cách lựa chọn theo thời gian bởi dựa vào quy luật bốn mùa sinh
trưởng: Xuân sinh, Hạ trưởng, Thu liễm, Đông tàng có thể thấy thường khoảng
thời gian sau Hè, sang Thu là lúc cây trái cho quả, hạt với chất lượng cao. Ví như
khi nói về cây mía, dân gian có kinh nghiệm: Hanh heo đường trèo lên ngọn.
Theo lý giải thường phần ngọn mía rất nhạt, mía chỉ làm đường từ phần gốc lên
tới giữa thân cây. Tuy nhiên vào trời Thu, lúc gió heo may mang hơi lạnh và khô
thổi tới cây mía sẽ ngọt từ gốc lên đến ngọn lúc này người nông dân nên thu
hoạch ngay vì chất lượng mía cao, cho mật làm đường đạt. Thời điểm gió heo
may đã hết mà mía chưa được thu hoạch cây sẽ xốp, ruột ít nước và nhạt
dần.[5;70]
Cuối Thu và chớm Đông thường là thời điểm có nhiều thực phẩm chất
lượng, thơm ngon, tốt nhất trong năm:
Tháng Chín ăn rươi, tháng Mười ăn ruốc
Cá đối tháng Bảy, cá gáy tháng Mười
Ếch tháng Mười, người tháng Giêng
Hay Măng tháng Ba chưa la đã chạy
Măng tháng Bẩy ai bẻ gãy thì ăn
Măng tháng Mười, mười người mười bẻ.
Sở dĩ tháng 10 có nhiều sản vật ngon là do theo quy luật cây trồng vào
tháng Chín, tháng Mười, cây cối đã ngọt ngon trĩu quả, thóc lúa vào dịp gặt để
phơi khô, quạt sạch. Trong thời gian này nhờ được ăn sản vật hoa màu rơi vãi mà
các loại gia súc, gia cầm, các loại lươn, ốc, cá, tôm…béo tốt lên. Hơn nữa để
thích nghi với mùa Đông giá rét sắp đến, các con vật cũng phải tích mỡ, có kế
hoạch dữ trữ năng lượng để sẵn sàng chống đỡ với thời tiết khắc nghiệt, thậm chí
một số loài còn ngủ đông. Vì vậy, các sản vật trong tháng Chín, tháng Mười
thường ngon và béo hơn.[5;tr.71]
Với việc tính theo thời gian nuôi trồng vật nuôi, người ta sẽ lựa chọn được
những thực phẩm tươi ngon như thịt gà ăn ngon nhất là ở độ nuôi 3 tháng, cá rô
ngon nhất tháng giêng, rươi con nhất chỉ trong mùa rươi tháng 10: Gà ba tháng

54
vừa ăn, ngựa ba năm cưới được; Nhất cá rô tháng Giêng, nhì cá tràu tháng
Mười…Tất cả những kinh nghiệm này đều được tổng kết trong tục ngữ.
Bên cạnh đó còn có thú ẩm thực ăn cây, ăn con ở dạng mầm như giá đỗ, búp
non hay dạng quả non như ngô bao tử, nụ mướp, bí non…dạng bào thai như
trứng vịt lộn, việc chọn thời điểm giao nhau, chuyển tiếp giữa các giai đoạn là
một trong những kinh nghiệm ẩm thực lâu đời của người dân. Riêng đối với loại
ốc cần lựa chọn theo thời điểm tuần trăng trong một tháng: Ăn ốc trông trăng/Ăn
vảy chốc còn hơn ăn ốc tháng 4. Theo kinh nghiệm dân gian, nên ăn ốc đầu
tháng tới trước rằm, đó là lúc ốc béo, ngọt, để tránh đến giữa tháng trăng tròn ốc
có con trong khi đó ăn cuối tháng ốc thường gầy. Ngoài ra nhân dân cũng khuyên
không nên ăn ốc vào tháng Tư mùa Hạ, ốc sinh đẻ nhiều nên thịt ốc không béo,
chất lượng không cao.
Như vậy, lựa chọn lương thực, thực phẩm theo thời gian sẽ đem lại những
sản phẩm ẩm thực thơm ngon, chất lượng, giàu dinh dưỡng. Lựa chọn thức ăn
theo mùa, theo thời gian còn mang lại sức khỏe cho con người bởi các loại thực
phẩm cung cấp dinh dưỡng phù hợp, thích nghi được với thời tiết, với môi trường
+ Kinh nghiệm chế biến, nấu ăn
Để có những bữa ăn thơm ngon, chất lượng không chỉ dừng lại ở việc lựa
chọn những thực phẩm chất lượng mà khâu chế biến cũng đóng vai trò quan
trọng cho thành công của bữa ăn. Lâu nay, việc chế biến trong ẩm thực Việt
Nam khá phong phú với các cách chế biến thông thường như luộc, chần tái,
nhúng, hầm, rang, xào, nấu…mỗi món ăn chế biến theo những cách khác
nhau đều mang một hương vị đặc trưng. Trong số 643 câu tục ngữ phản ánh
về kinh nghiệm ăn uống chỉ có 83 câu nói đến kinh nghiệm chế biến món ăn.
Mặc dù chiếm số lượng nhỏ hơn so với những kinh nghiệm khác mà tục ngữ
phản ánh nhưng nó đã tổng hợp một cách khá đầy đủ về các thao tác, các
công đoạn của việc chế biến những món ăn ngon.
Trước tiên đối với việc chế biến các món tôm, cua, thịt, cá, người xưa đã
đúc kết được nhiều kinh nghiệm qua những câu tục ngữ như Ăn tôm bỏ râu, ăn
bầu bỏ ruột bởi râu tôm và ruột bầu vốn đã không có chất dinh dưỡng nên nếu có

55
nấu chín không những không mang lại giá trị dinh dưỡng mà còn khiến cho món
canh tôm mất đi vị thơm ngon vốn có.
Trong việc chế biến và ăn thịt cóc, dân gian cũng đúc rút ra một kinh
nghiệm vô cùng quý báu: Ăn cóc bỏ gan, ăn trầu nhả bã
Thịt cóc là loại thịt có lượng đạm cao hơn thậm chí còn có những vi chất,
axit amin quý so với các loại thịt khác như thịt bò, gà, lợn…Trong dân gian, thịt
cóc thường được dùng để bồi dưỡng cho trẻ còi xương, suy dinh dưỡng. Đặc biệt
lưu ý khi làm thịt cóc phải chặt bỏ đầu, lột da và bỏ toàn bộ nội tạng của cóc,
cũng tuyệt đối không dùng gan cóc và buồng trứng vì các bộ phận này đều chứa
nhiều chất độc, nguy hiểm đến tính mạng. Trong khi đó, vì bã trầu chỉ là chất xơ
cũng không có chất dinh dưỡng nên khi ăn cần nhả bã.
Theo kinh nghiệm chế biến cá qua tục ngữ, dân gian cho rằng vây cá rất
cứng và hầu như không có chất dinh dưỡng nên khi làm cá cần bỏ vây: Ăn cá bỏ
vây đến lúc ăn cần Ăn cá bỏ xương. Ngoài ra, tùy từng loài cá mà có cách chế
biến riêng như nấu, kho hay rán, ngay cả cách kho đối với mỗi loài cá cũng khác
nhau như Cá bống kho tiêu, cá thiều kho ngọt. Chính vì cách chế biến đặc trưng
với mỗi loại cá đã để lại hương vị không thể quên đối với người thưởng thức:
Cá mè song Mực chấm với nước mắm Do Xuyên, chết xuống âm phủ còn
muốn trở về mút xương
Cá rô bàu Nón kho với nước tương Nam Đàn, gạo tháng mười cơm mới
đánh tràn không biết no
Rau rền làng Rền nấu cá sộp kẻ Sộp, cá sộp kẻ Sộp kho rau rền làng Rền
Trong việc chế biến, sự kết hợp hài hòa giữa món ăn và gia vị luôn có ý
nghĩa quan trọng, ngoài việc tạo cho món ăn hương vị thơm ngon đậm đà mà cần
phải có giá trị dinh dưỡng cao. Có lẽ vì thế, từ lâu người Hà Nội ăn bún thang
không thể thiếu món cà cuống: Ăn bún thang cả làng đòi cà cuống. Bún thang từ
lâu được xem là món ăn cầu kỳ, đặc biệt khi ăn món này phải có giọt hương cà
cuống thì mới dậy mùi đặc trưng của bát bún thang. Điều này cũng giống với
việc ăn các món gỏi phải có lá mơ, thịt trâu phải có tỏi, thịt bò phải có gừng, thịt
lợn phải có hành.

56
Ăn thịt trâu không tỏi như ăn gỏi không rau mơ
Trâu tỏi bò gừng
Thịt thơm vì hành, trăng thanh vì Cuội
Đối với việc nấu cơm ăn hàng ngày, mặc dù đây là công việc quen thuộc
với nhiều người nhưng tục ngữ cũng có những kinh nghiệm nấu nướng rất bổ ích,
ví như Cơm ăn hàng ngày phải nấu cho dẻo; Cơm sôi nhỏ lửa một đời không
khê.… Muốn cơm rang ngon, dân gian xưa cũng đúc kết kinh nghiệm: Rang cơm
thì ngồi, rang xôi thì đảo.
Cùng với các bí quyết lựa chọn và chế biến lương thực, thực phẩm, cách bảo
quản các sản vật cũng đóng vai trò rất quan trọng. Trong kho tàng tục ngữ, cách
thức bảo quản lương thực, thực phẩm được phản ánh không nhiều bởi trên thực
tế, trong xã hội cổ truyền Việt Nam, phương thức sản xuất chính là canh tác nông
nghiệp, tự cung tự cấp nên sản phẩm dư thừa rất ít. Dù vậy, vẫn có một số câu
tục ngữ nói tới kinh nghiệm này, chẳng hạn như:
-Bánh đúc bày sàng
-Bánh giầy phải đậy bằng nong
Bài học vỡ lòng đã rệt hai chân
Muốn để bánh đúc khô ráo, không bị thiu hay có vị chua khi chưa ăn hết thì
bánh đúc nóng cần đổ ra sàng có lót lá chuối tươi, để nguội rồi dùng dao cắt
miếng. Nếu muốn ăn thì cắt bánh theo từng miếng, trông miếng bánh vừa đẹp, lại
đảm bảo vệ sinh, không bị thiu, chua.
Đối với bánh giày, yêu cầu bảo quản luôn phải thoáng để không bị lên men
chua. Vì thế, kinh nghiệm quan trọng khi ăn bánh giày là nên ăn ngay sau khi bánh
vừa làm. Nếu muốn để dành khi chưa ăn hết thì sẽ phải đậy bằng nong sẽ cho hiệu
quả cao nhất vì vừa thoáng lại đảm bảo vệ sinh cho bánh.
Như vậy, những bí quyết sơ, chế biến các món ăn được nhân dân từ xưa rất
coi trọng. Việc chế biến một cách khoa học, đúng quy trình là sự tinh tế, khéo léo
giúp người Việt có thể tạo ra những bữa ăn thơm ngon, chất lượng và hấp dẫn.

57
+ Kinh nghiệm về cách thức ăn uống
Trong văn hóa ẩm thực, thói quen và cách thức ăn uống được người xưa đặc
biệt coi trọng bởi nó thể hiện tính cách, lối sống, quan điểm sống của mỗi con người.
Trong số 426 câu tục ngữ phản ánh về kinh nghiệm ăn uống có 154 câu đề cập trực
tiếp đến kinh nghiệm này như cách ăn lối uống: Nhai kỹ no lâu cày sâu tốt lúa; Ăn
cho ngon, cho lành, cho sành, cho đúng.
Văn minh Việt Nam là nền văn minh nông nghiệp chủ yếu dựa vào việc
trồng lúa nước. Tuy nhiên, sản xuất nhiều khi gặp khó khăn do khí hậu thất
thường, lụt, bão, hạn hán liên miên, giặc giã luôn rình rập vì thế cuộc sống của
người dân bấp bênh: Ăn bữa trưa, chừa bữa tối; Ăn bữa hôm lo bữa mai; Ăn củ
mon bữa mai, để củ khoai bữa mốt nhiều khi đến cùng của ăn mày chưa để dành,
tiết kiệm theo quan điểm: Buôn tàu bán bè không bằng ăn dề hà tiện.
Cuộc sống của người dân diễn ra trong cảnh đói nghèo, phải kiếm ăn tích
cóp nên nảy sinh ra triết lý theo kiểu năng nhặt chặt bị. Điều họ mong muốn
không phải là cái đẹp mà cốt sao ăn lấy chắc, mặc lấy bền. Những câu tục ngữ
này vừa phản ánh thực tế cuộc sống vừa là kinh nghiệm, bài học tiết kiệm của
người dân trong hoàn cảnh khó khăn, thiếu thốn.
Tục ngữ đã tổng kết kinh nghiệm của nhân dân, dạy người ta cách đối nhân
xử thể ở đời, từ những chuyện nhỏ như ăn chọn nơi, chơi chọn bạn đến những
chuyện to lớn hơn như mối quan hệ giữa người với người trong đời sống ăn ở
như bát nước đầy; ăn bát cơm dẻo nhớ nẻo đường đi.
Việc ứng xử trong ăn uống rất được coi trọng, có nhiều câu tục ngữ phản
ánh chân thực về kinh nghiệm này như Ăn ít no dai, ăn nhiều tức bụng hay Ăn ít
no lâu, ăn nhiều chống đói, Ăn kĩ no lâu, cày sâu tốt lúa…Những quy tắc, chuẩn
mực trong ăn uống vừa đảm bảo sức khỏe vừa thể hiện cách thức ứng xử, văn
hóa trong ăn uống của người Việt cũng được phản ánh cụ thể như Ăn có
chừng,chơi có độ;Ăn có thời, chơi có giờ.
Những kinh nghiệm quý báu của cha ông đúc kết từ ngàn đời nay liên quan
đến việc bảo đảm tính an toàn, tính bền vững của sự sống con người đến nay vẫn
còn nguyên giá trị. Không những vậy, chất lượng của việc ăn uống cũng rất được

58
quan tâm. Điều này được thể hiện rõ nét ở kinh nghiệm trong việc lựa chọn,
đánh giá các món ăn. Trong sự lựa chọn và đánh giá này, trước tiên là sự nhận
thức rõ về vai trò, giá trị của các loại lương thực, thực phẩm nào là quan trọng và
thiết yếu nhất trong bữa cơm hàng ngày. Mang đậm nét đặc trưng của nền văn
minh lúa nước nên văn hóa ẩm thực Việt Nam cũng chịu ảnh hưởng rõ nét. Theo
đó, về lương thực quan trọng nhất là lúa gạo với câu tục ngữ Cơm tẻ là mẹ ruột,
sau mới đến ngô, khoai, sắn. Thực phẩm có các loại tương, cà, rau, dưa, cá,
thịt…và trở thành những món ăn dân dã trong thể thiếu trong bữa ăn hàng ngày
của người Việt như Tương cà là gia bản hay Có cá đổ vạ cho cơm… Ngoài ra,
tục ngữ cũng phản ánh kinh nghiệm về việc ăn cháy trong bữa ăn thường ngày:
Cơm ăn còn có từng lưng, cháy ăn vô chừng chẳng biết đói no. Ngoài cơm, rau
cũng là món ăn không thể thiếu trong bữa ăn hàng ngày: Ăn không rau, đau
không thuốc do các món rau xanh chứa các chất vitamin, chất sơ…rất cần thiết
cho cơ thể.
+ Kinh nghiệm ứng xử trong ăn uống
Ngoài phản ánh kinh nghiệm về cách thức ăn uống theo lối trực tiếp, tục
ngữ còn có 272 câu gián tiếp phản ánh kinh nghiệm, thế ứng xử ăn uống của con
người. Đối với người Việt, trong ứng xử ăn uống phải có sự phân biệt rõ ràng, có
trên có dưới, có chủ có khách chứ không được phép xô bồ: Ăn đưa xuống, uống
đưa lên. Theo nhà nghiên cứu ngôn ngữ Hoàng Văn Hành để hiểu câu tục ngữ
này phải gắn vào bối cảnh của tục lệ xưa. Đó là việc sắp xếp cỗ bàn khi ăn
thường có mâm trên, mâm dưới theo thứ tự bậc về vai vế, ngôi thứ và tuổi tác
trong làng, trong họ. Người ở vai dưới, bề dưới không được phép ăn trèo, nói leo.
Do đó, câu tục ngữ Ăn đưa xuống, uống đưa lên đã phản ánh khả năng ăn uống
thực tế của những người ngồi mâm trên và mâm dưới, vừa phản ánh tính khiêm
nhường hay nhường nhịn của những người bề trên đối với những người bề dưới
và lòng kính trọng của người bề dưới đối với người bề trên. [18;tr.176].
Bên cạnh đó, còn có các kinh nghiệm ăn chắc mặc bền, nhai kỹ no lâu hay
ăn phải có nhai, nói phải có nghĩ. Khi ăn, nhất là trong bữa cơm gia đình phải Ăn
trông nồi, ngồi trông hướng cũng không nên ăn thủng nồi trôi rế; ăn đầy mồm

59
đầy miệng; ăn gấp năm, vơ gấp mười…Chính ở những câu tục ngữ này đã bộc lộ
lối ứng xử trong giao tiếp giữa con người với con người trong ăn uống nói riêng
và trong ứng xử xã hội nói chung.
Ngoài ra, thế ứng xử, kinh nghiệm trong ăn uống còn được thể hiện qua
nhiều câu ca dao khác:
Ăn gạo tám chực đình đám mới có
Ăn cỗ một bữa no nửa tháng
Ăn cơm cáy thì ngáy o o, ăn cơm thịt bò thì lo ngay ngáy
Trong nguyên tắc ứng xử cộng đồng, tình nghĩa được đưa lên hàng đầu và
được coi như một chuẩn mực trong cách sống. Tục ngữ về ẩm thực nhắc nhiều
đến cái tình nghĩa trong quan hệ giữa con người với con người:
Ăn gạo nhớ kẻ đâm xay giần sàng
Ăn quả nhớ kẻ trồng cây.
Mặc dù cuộc sống còn có nhiều gian nan, vất vả, nghèo túng nhưng con người
vẫn đặt cái nghĩa lên trên vật chất, của cải. Có thể thấy, ý thức hệ Việt Nam không
phải là ý thức hệ cá nhân mà là ý thức hệ cộng đồng, là lối sống duy tình –một lối
sống chủ đạo của người Việt Nam được in đậm trong tục ngữ qua nhiều thế kỷ, chi
phối mọi việc trong làng, nước, gia đình.
Những kinh nghiệm trong ăn uống của dân gian được đúc kết trong kho
tàng tục ngữ Việt Nam đến nay vẫn còn nguyên giá trị. Việc lựa chọn lương thực,
thực phẩm dựa vào đặc điểm của sản vật hay dựa theo quan điểm thời trân vừa là
sự cầu kỳ, tinh tế, khôn ngoan của con người khi tham gia vào quá trình ẩm thực.
Lựa chọn được thực phẩm ngon luôn đi cùng với cách chế biến và bảo quản theo
quy trình thích hợp để có được những bữa ăn không chỉ đảm bảo về chất lượng
dinh dưỡng mà hình thức cũng đẹp mắt, hấp dẫn. So với ca dao, tục ngữ chiếm số
lượng lớn khi phản ánh về các kinh nghiệm ẩm thực một mặt do tục ngữ thường
ngắn gọn, súc tích, gắn liền với lời ăn tiếng nói hàng ngày trong khi ca dao lại
nghiêng về tính trữ tình, mặt khác, do tục ngữ là một kho tàng vô tận về tri thức
dân gian, về quan niệm, triết lý dân gian trong ứng xử. Vì thế, tục ngữ có thế
mạnh tuyệt đối trong việc truyền tải những kinh nghiệm của đời sống.

60
2.3 Phong tục tập quán ăn uống của ngƣời Việt qua ca dao, tục ngữ
truyền thống
Văn hóa ẩm thực phản ánh rõ nét phong tục, tập quán của một địa phương,
một vùng miền rộng hơn là cả một dân tộc. Phong tục tập quán ăn uống của
người Việt bao gồm cả lễ nghi trong ăn uống, các phép tắc, trật tự, những đặc
trưng nổi bật trong đời sống ẩm thực. Qua thời gian nét đậm đặc trong phong tục,
tập quán ấy trở thành nét đặc trưng trong văn hóa của mỗi địa phương.
2.3.1. Phong tục tập quán ăn uống của người Việt qua ca dao truyền thống
Ca dao vốn là kho tàng phản ánh sinh động các khía cạnh khác nhau trong đời
sống, tư tưởng, tình cảm của con người. Thông qua những câu ca dao về văn hóa ẩm
thực, chúng ta có thể hiểu thêm về phong tục tập quán ăn uống của mỗi vùng miền.
Qua khảo sát, chúng tôi đã có bảng thống kê sau:
Bảng 8: Số lƣợng ca dao tục ngữ phản ánh phong tục tập quán ăn uống
STT Ca dao Tục ngữ
Số lượng ca dao tục ngữ phản ánh 10/336 70/1627
phong tục tập quán ăn uống
Tỷ lệ % 2,97 4,3

Dựa vào bảng số liệu trên, ca dao phản ánh về phong tục chiếm10 bài. Xét
theo đặc điểm vị trí địa lý, thổ nhưỡng mỗi vùng lại có những đặc sản riêng, vì
thế thói quen, phong tục tập quán trong ăn uống cũng khác nhau.
Trước hết qua ca dao, chúng ta biết được các ở mỗi miền quê lại có những
đặc sản như Bến Tre với bưởi, tôm cá, thóc lúa, xoài, Tứ Kỳ có bún, Biên Hòa –
Đồng Nai lại có bưởi…nó làm nên những nét đặc trưng trong phong tục truyền
thống của mỗi địa phương.
- Bến Tre giàu mía Mỏ Cày
Giàu nghêu Thạch Phú, giàu xoài Cái Mơn
Bếm Tre biển cá, sông tôm
Ba Tri muối mặn, Giồng Trôm lúa vàng
- Biên Hòa bưởi chẳng đắng the

61
Ăn vào ngọt lịm như chè đậu xanh
- Bún ngon bún mát Tứ Kì
Pháp Vân cua ốc đồn thì chẳng ngoa
Tập quán ăn uống của từng vùng, từng địa phương thể hiễn rất rõ qua các đặc
điểm như ở xứ Đoài ăn khoai thay cho ăn cơm là đặc điểm nổi bật ở địa phương
này: Tiếng ai như tiếng xứ Đoài/Ăn cơm thì ít ăn khoai thì nhiều hay Làng Sến
đồng trắng nước trong/Có về làng Sến ăn rong thì về.
Có những làng quê, ốc trai lại trở thành món ăn phổ biến do điều kiện sông
nước, đất đai.
- Làng Vạc ăn cỗ ông Nghè
Làng Vân, làng Chè kéo đá ông Đăng.
- Đồng Trì ăn ốc ăn trai
Yên Mĩ nước ngập mười hai năm ròng
Mỗi mảnh đất lại chứa đựng bao điều hấp dẫn bởi nơi đó có những món ăn
đặc sản, mang hương vị dân dã. Thậm chí nó còn hấp dẫn hơn bởi những tấm
lòng thơm thảo, mến khách của người dân bản địa, khiến cho bất cứ ai có dịp ghé
chân đều lưu luyến mỗi khi ra về:
Văn Yên người ngọt ngào thơm
Ra về nhớ mãi bữa cơm nếp mùa
Có bốn mùa trong năm, mùa nào thức ấy nên đời sống ẩm thực của nước ta
rất phong phú với những loại hoa trái, rau quả quanh năm… Trong ca dao, trầu
cau xuất hiện nhiều phản ánh phong tục ăn trầu của người Việt. Trầu ăn trong các
dịp cỗ,lễ, tết nhằm phản ánh đời sống tình cảm phong phú của con người qua ca
dao. Miếng trầu không chỉ được ăn trong đời sống thường ngày mà nó còn không
thể thiếu ở các dịp hội hè đình đám. Người xưa coi miếng trầu là đầu câu chuyện,
là cách để trao duyên và khi đã nhận trầu của người khác là ngầm ý đã nhận lời.
- Miếng trầu ăn nặng bằng chì
Ăn rồi em biết lấy gì đền ơn
Miếng trầu ăn nặng là bao
Muốn cho đồng liễu tây đào là hơn

62
- Miếng trầu ăn nặng bằng chì
Ăn thì đã vậy, lấy gì trả ơn
Miếng trầu ăn nặng ai têm
Xin chàng cầm lấy, cho êm miếng trầu
Trong quá trình khảo sát, chúng tôi nhận thấy số lượng các câu ca dao phản
ánh về phong tục, tập quán ăn uống của người xưa chiếm số lượng không nhiều.
Vì vậy, việc tìm hiểu về phong tục tập quán trong văn hóa ẩm thực của người
Việt qua ca dao sẽ tiếp tục được bổ sung.
2.3.2. Phong tục tập quán ăn uống của người Việt qua tục ngữ truyền thống.
Văn hóa ẩm thực có ý nghĩa quan trọng trong đời sống tinh thần và vật chất
bởi qua cách ăn, lối ứng xử trong ăn uống, người ta dễ dàng có thể nhìn nhận
đánh giá tính cách, con người đó. Trong kho tàng tục ngữ, phong tục tập quán ăn
uống người Việt được khái quát phần nào qua 70 câu tục ngữ nhưng đã phác họa
phần nào nét đẹp, nét đặc thù trong lối ăn uống của người Việt.
Phong tục, tập quán ăn uống của người Việt đã hình thành dưới tác động chi
phối của điều kiện tự nhiên, môi trường, đặc điểm đời sống dân cư khu vực. Việt
Nam nằm ở vùng Đông Nam châu Á, có khí hậu nhiệt đới gió mùa, mưa nhiều,
nắng lắm. Điều kiện tự nhiên thuận lợi là nguồn lợi to lớn và ưu đã cho người Việt.
Tuy nhiên, khí hậu thường lụt, bão, hạn hán đã gây không ít khó khăn, thiệt hại ảnh
hưởng đến đời sống con người. Sống trong môi trường thiên nhiên này, con người đã
biết gắn bó, thích nghi với nó và tận dụng các yếu tố của tự nhiên để đảm bảo cuộc
sống của mình.
Ăn bữa nay bày bữa mai, để củ khoai bữa mốt
Ăn bữa sáng, lo bữa tối
Với tính đa nghĩa của tục ngữ, nhiều câu tục ngữ không chỉ có ý nghĩa đơn
thuần là đúc rút kinh nghiệm ăn uống, lựa chọn lương thực, thực phẩm mà nó còn
thể hiện phong tục, tập quán ăn uống như nhiều câu tục ngữ được đề cập trong
phần này. Chính việc thích nghi với điều kiện tự nhiên và xã hội đã giúp người
Việt trong điều kiện lao động thủ công thô sơ, trước tác động của thiên nhiên

63
khắc nghiệt vẫn tồn tại và vững vàng trước mọi thử thách. Cách ứng xử hòa đồng
với thiên nhiên của con người đã chi phối lớn đến vấn đề ăn uống.
Hình thành dưới sự tác động và chi phối của các hình thái trên, phong
tục tập quán của người Việt cũng mang đậm bản sắc dân tộc và được thể hiện rõ
nét trong cơ cấu thành phần bữa ăn.
Ăn uống là văn hóa tận dụng môi trường tự nhiên, sẽ không có gì ngạc
nhiên khi cư dân các nền văn hóa gốc du mục thiên về ăn thịt còn trong cơ cấu
bữa ăn của người Việt Nam bộc lộ rõ dấu ấn của truyền thống văn hóa nông
nghiệp lúa nước. Đây là một cơ cấu thiên về thực vật. Trong tục ngữ về phong
tục ăn uống có những câu như: Cơm tẻ mẹ ruột, cơm mắm thắm về lâu…Cây lúa
có một vai trò quan trọng trong đời sống người dân Việt Nam, đó không phải là
ngẫu nhiên khi bữa ăn của người Việt được gọi là bữa cơm. Sau lúa gạo, trong
bữa ăn của người Việt không thể thiếu rau quả. Rau quả ở Việt Nam mùa nào
thức ấy, vô cùng phong phú, nếu bữa cơm của người Việt thiếu rau sẽ như Ăn
cơm không rau như nhà giàu chết không kèn trống; Ăn cơm không rau như đánh
nhau không có người gỡ. Nhắc đến rau trong bữa ăn của người Việt không thể
không nhắc đến hai món đặc thù là rau muống và dưa cà: Có dưa chừa rau/Có cà
thì tha gắp mắm/ Thịt cá là hương hoa, tương cà là gia bản. Đây được xem là hai
món ăn truyền thống, dân dã gắn liền với đời sống của người dân Việt. Món ăn
cũng làm nên lối sống thanh tao, đạm bạc của con người Việt. Đứng thứ ba trong
cơ cấu ăn và đứng đầu trong hàng thức ăn động vật của người Việt Nam là các
loại thủy sản. Nước ta có diện tích mặt nước lớn, đường bờ biển dài, lắm ao hồ
nên ngay từ sớm người dân đã biết tận dụng điều này để đánh bắt, người dân biết
nuôi trồng và chế biến thành những sản phẩm đặc trưng của vùng sông nước. Sau
cơm rau thì cơm cá được xem là cơ cấu bữa ăn thông dụng nhất: Cơm với cá như
mạ với con; Có cá đổ vạ cho cơm; Con cá đánh ngã bát cơm… Với cơ cấu ăn
uống chính là thực vật và thủy sản đã hình thành nên tập quán ăn uống của người
Việt. Đây cũng chính là cơ cấu bữa ăn của người Việt như công thức “Cơm – rau
– cá” mà cố GS Trần Quốc Vượng đã tổng kết về lương thực, thực phẩm thường
ngày của nhân dân ta.

64
Bên cạnh những món ăn chính trong ẩm thực Việt còn có những món ăn,
thức uống mang đậm phong cách truyền thống Việt Nam như trầu cau với Miếng
trầu là đầu câu chuyện, nước chè, nước vối, rượu gạo...
Ngoài những phong tục chung thể hiện đặc điểm văn hóa của cả dân tộc,
mỗi vùng miền trên cả nước còn có những phong tục, tập quán riêng dựa theo
điều kiện tự nhiên, kinh tế và văn hóa, xã hội của mỗi vùng. Đề cập đến vấn đề
này, tục ngữ xưa có câu Ăn Bắc mặc Kinh. Nhiều người cho rằng, ăn Bắc là nói
đến người miền Bắc thường kén món ăn và cách ăn, còn mặc Kinh là nói tới việc
ăn mặc ở kinh đô Huế. Ngày xưa ở Huế, người dân ăn mặc rất kỹ lưỡng, ngay
cả những người buôn thúng bán mẹt cũng mặc áo dài. Có ý kiến khác lại cho
rằng, Kinh ở đây là kinh thành Hà Nội, bởi Thăng Long – Hà Nội xưa và
nay thường có cách ăn mặc đẹp, vừa lịch sự nền nã, hào hoa, trang nhã, lại
vừa lộng lẫy mà vẫn kín đáo. Những trang phục mà người Hà Nội xưa
thường mặc là áo tứ thân, áo đổi vai, áo mớ ba mớ bẩy, sau này có áo
dài…cùng với những nữ trang như kiềng, xuyến, vòng…
Đề cập đến phong tục hai miền, tục ngữ còn có câu: Ăn như Nam, làm như
Bắc ý nói tới việc miền Nam người dân thường hay tiêu sài thoáng tay, làm được
bao nhiêu ăn bấy nhiêu trong khi người miền Bắc thường tiết kiệm, có kế hoạch
tiêu sài.
Coi trọng nền nếp trong ăn uống cũng trở thành một phong tục, tập quán đẹp của
người Việt Ăn trông nồi ngồi trông hướng. Hơn thế nữa, người Việt cũng đặc biệt coi
trọng tình nghĩa giữa con người với con người như ở những dịp lễ cưới xin, khao
vọng, giỗ Tết, họ đến dự cỗ là vị tình vị nghĩa, không phải vì đĩa xôi đầy.
Từ nhiều đời nay, truyền thống đền ơn đáp nghĩa đã trở thành một phong
tục đẹp, có ý nghĩa vô cùng sâu sa trong đời sống đạo đức văn hóa của nước ta
không chỉ dừng lại trong văn hóa ăn uống đơn thuần: Ăn quả nhớ kẻ trồng cây,
Uống nước nhớ nguồn…Những câu tực ngữ này vừa phản ánh phong tục tốt đẹp
của nhân dân ta vừa là quan niệm thể hiện lối sống, lối ứng xử của người Việt.
Ăn uống có tầm quan trọng đặc biệt trong đời sống con người. Từ việc ăn
uống đến ứng xử của mỗi con người là quá trình chuyển hóa nhờ vào hệ thống

65
tục ngữ giàu ý nghĩa. Với các lớp nghĩa bao phủ, đan quyện vào nhau, tục ngữ về
phong tục ăn uống đã mang đến những lớp ý nghĩa, biểu tượng và mã văn hóa
khác nhau. Vì vậy, việc tìm hiểu ý nghĩa của các câu tục ngữ sẽ giúp chúng ta
khám phá nhiều điều hấp dẫn trong kho tàng tục ngữ về ẩm thực.

Như vậy, tìm hiểu về phong cách ẩm thực người Việt qua ca dao, tục ngữ
truyền thống đã phần nào cho ta thấy rõ hơn tính cách của con người Việt Nam:
con người mang cốt cách Á đông: kín đáo, cẩn trọng và tình nghĩa.

2.4. Quan niệm, triết lý của ngƣời Việt qua ca dao, tục ngữ truyền
thống về ẩm thực

Ca dao, tục ngữ phản ánh sinh động và phong phú các khía cạnh của văn
hóa ẩm thực, trong đó phần giá trị nhất, quan trọng nhất của văn hóa ẩm thực
chính là quan niệm, triết lý sống của người Việt. Bởi xét cho cùng việc ăn uống
không nằm ngoài quy tắc ứng xử xã hội, ăn là chuyện ứng xử, quan niệm theo
những chuẩn văn hóa nhất định, ăn cũng là chuyện của đời sống tinh thần của
con người. Tất cả điều này đều được phán ánh khá cụ thể và sinh động qua
những vần ca dao, tục ngữ.

2.4.1 Quan niệm, triết lý của người Việt qua ca dao truyền thống về ẩm thực

Ca dao là tấm gương phản ánh hiện thực khách quan của mỗi dân tộc về lối
sống, điều kiện sống và những phong tục tập quán riêng. Đề cập đến vấn đề ẩm
thực, ca dao không chỉ phản ánh các sản vật địa phương, những kinh nghiệm ăn
uống mà còn thể hiện rõ nét những quan niệm, lối ứng xử thông qua việc ăn
uống. Theo khảo sát trong tổng số 336 bài ca dao phản ánh về ẩm thực thì có 146
bài đề cập đến quan niệm về ẩm thực của người Việt. Tuy nhiên so với tục ngữ,
con số này vẫn thấp hơn khá nhiều, những số liệu được thống kê cụ thể trong
bảng thống kê sau cho thấy rõ điều đó

66
Bảng 9: Số lƣợng ca dao, tục ngữ phản ánh quan điểm ăn uống
STT Ca dao Tục ngữ
Số lượng ca dao tục ngữ phản 146/336 690/1627
ánh quan điểm ăn uống

Thông qua các mối liên hệ trong cuộc sống như quan hệ gia đình, xã hội, ca
dao đã phản ánh sinh động những quan niệm trong ẩm thực, đồng thời, chúng ta
cũng thấy dân gian mượng một số câu ca dao về ẩm thực để phản ánh các vấn đề
xã hội khác trong cuộc sống, đặc biệt là tình yêu của những đôi nam nữ.
Trước tiên, đó là kinh nghiệm chọn vợ, chọn chồng:
-Muốn ăn rễ tía trầu vàng
Đông con nên gả cho làng Chạ Nghi
- Muốn làm kiểng lấy gái Sài Gòn
Muốn ăn mắm lấy gái đen giòn Bạc Liêu.
-Thích ăn khoai sượng
Lấy chồng Yên Trung
Thích ăn cà bung
Lấy chồng dưới xóm
Những lời ca dao mượt mà không chỉ bó hẹp trong văn hóa ẩm thực nói
chung mà nó còn thể hiện quan điểm, lối sống, lối nghĩ của người dân:
Từ khi em về làm dâu
Anh thì dặn trước, báo sau mọi lời
Mẹ già dữ lắm em ơi!
Nhịn ăn, nhịn mặc, nhịn lời mẹ cha
Nhịn cho nên cửa nên nhà
Nên kèo, nên cột, nên xà tầm vông
Nhịn cho nên vợ nên chồng
Thời em coi sóc lấy trong cửa nhà
Đi chợ thời chơi ăn quà
Đi chợ thời chớ rề rà ở trưa

67
Dù ai bảo đợi, bảo chờ
Thời em nói dối con thơ em về
Cách dạy vợ như câu ca xưa “dạy con từ thuở còn thơ, dậy vợ từ thở bơ vơ
mới về” được người chồng trong bài ca dao đã vận dụng rất tinh tế. Từ việc đối
nhân xử thế với cha mẹ, đến chuyện ăn uống, chợ búa, chăm lo nhà cửa…tất cả
đều được các tác giả dân gian gửi gắm ý nhị qua những câu ca chân tình.
Văn minh Việt Nam là nền văn minh nông nghiệp chủ yếu dựa vào việc
trồng lúa nước. Vì thế, người dân chủ yếu sinh sống bằng nghề nông. Theo đó,
lương thực chính trong bữa ăn hàng ngày là gạo, ngô khoai, ít ăn thịt động vật.
Hơn nữa, đa phần người dân nuôi gia súc nhằm lấy sức kéo, lấy phân, giữ
nhà…Vì vậy, thức ăn chính của người dân là các loại thực vật, thủy sản do nuôi
trồng và đánh bắt được. Sản xuất nhiều khi gặp khó khăn do thiên tai, giặc giã
nên cuộc sống của người dân không sung túc, bấp bênh. Chính cuộc sống không
lấy gì đảm bảo đã nảy sinh ra lối sống tiết kiệm:
Làm người cho biết tiện tằn
Đồ ăn thức mặc cho ngần thì thôi.
Tuy nhiên cũng không ít kẻ hà tiện, keo kiệt:
-Hà tiện mà ăn cháo hoa
Đồng đường, đồng dậu cũng ra ba đồng
Trong văn hóa của người Việt, hội hè đình đám, cỗ làng diễn ra vào nhiều
thời điểm trong năm. Việc ăn uống cũng được thực hiện ngay trong ngày đó
trước là để tạ ơn thần linh, các bậc có công với dân làng sau là để mỗi người dân
có cơ hội được thụ lộc. Vì thế, trong quan niệm và ý thức của nhiều người thì
phải ăn trước, ăn đầu tiên vì có nhiều cái lợi còn ăn sau luôn bị coi là thiệt thòi
khi vừa phải tham gia dọn dẹp, thức ăn lại có thể là đồ thừa. Do đó, cách ăn khôn
ngoan nhất vẫn là chọn cách ăn trước:
Khôn thì ăn trước ngồi trên
Dại thì đứng dựa cột đình đánh chống cầm canh.
Đó là cuộc sống vật chất kham khổ, túng thiếu
- Đói lòng ăn hột chuối ri

68
Đói năm, đói tháng chẳng phải đói chi một ngày
Dù cho cuộc sống có khốn khó nhưng mọi thành viên trong gia đình đoàn
kết, yêu thương nhau sống hạnh phúc. Điều đó thể hiện quan niệm ứng xử lạc
quan, tình nghĩa giữa con người với con người.
- Thà ăn bát cơm rau
Còn hơn cá thịt, nói nhau nặng lời
- Thà ăn bắp hột chà vôi
Còn hơn giàu có bồ côi một mình
Trong xã hội cũ, việc dựng vợ gả chồng thường có sự quyết định của cả bố
mẹ với quan niệm “cha mẹ đặt đâu con ngồi đấy”.
- Mẹ em muốn ăn cá thu
Bắt anh ra biển mù mù tăm tăm
Mẹ em thách cưới một trăm
Anh đi chín chục, mười lăm quan ngoài
- Mẹ mong gả thiếp về vườn
Ăn bông bí luộc dưa hường nấu canh
Tuy nhiên, cũng có những cô gái không đồng ý và đưa ra tiếng nói của
bản thân: bởi với các cô gái này, giàu nghèo giờ đây không còn quan trọng vì các
cô đã tìm được người yêu thương. Đây được xem là những tâm sự, mong muốn
rất chân tình:
- Mẹ ơi, đừng gả chồng xa
Tuy rằng ít ruộng, đất ta lắm màu
Ngô, khoai, rau, đậu, bông, dâu
Đây bến đò dọc, kia cầu chợ Hôm
Chẳng tham tiền lắm, người giòn
Thương anh đò dọc, “hò khoan” cả ngày.
Nghĩ về cha mẹ, đặc biệt trong những năm đói kém, lòng hiếu thảo càng
được tỏ rõ. Người con dù có chịu sống kham khổ, ăn cầm dạ, chủ yếu là những
cây quả dại, miễn để mẹ già được no ấm.
- Đắng lòng ăn hột chà là

69
Để cơm nuôi mẹ, mẹ già yếu răng
- Đói lòng ăn trái ổi non
Nhịn cơm nuối mẹ, cho tròn nghĩa xưa
Trong tình cảm vợ chồng, mượn những hình ảnh về ẩm thực, ca dao đã ca ngợi
tình cảm gắn bó keo sơn ấy: Đôi ta là nghĩa tào khang/Xuống khe bắt ốc, lên ngàn
hái rau. Và dù nghèo túng nhưng cả hai vợ chồng hòa thuận, tâm đầu ý hợp trong cả
bữa ăn đạm bạc thì khó khăn cũng chẳng nản:
Dâu tôm nấu với ruột bầu
Chồng chan vợ húp gật đầu khen ngon.
Không chỉ thương mình, mà con người còn nghĩ đến những bất hạnh của
người khác, những người sống trong cảnh đời đói rét, đau khổ hay đang phải chịu
cảnh sống đơn côi, gối chiếc:
Thóc bồ thương kẻ ăn đong
Có chồng thương kẻ nằm không một mình
Có chồng thương kẻ vắng chồng
Vắng chồng thương kẻ đứng đồng mà kêu
Trong quan hệ mẹ chồng – nàng dâu, ca dao phản ánh về ẩm thực cũng phê
phán định kiến xấu:
Đói thì ăn khế ăn sung
Trông thấy mẹ chồng thì nuốt chẳng trôi.
Từ lâu, ăn trầu đã trở thành một phong tục đẹp, ăn sâu vào đời sống văn hóa
giao tiếp của người Việt Nam với ý nghĩa “Miếng trầu là đầu câu chuyện”.
Mượn miếng trầu để làm quen, bắt liên lạc, đặc biệt trong chuyện tình yêu, trầu
cau là cái cớ để chàng và nàng có thể gặp gỡ làm quen và trao duyên từ đây.
- Thiên duyên kì ngộ gặp chàng
Khác chi như thể phượng hoàng gặp nhau
Tiện đây ăn một miếng trầu
Hỏi thăm quê quán ở đâu chăng là
- Gặp nhau đây ăn miếng trầu xanh
Chả ăn cầm lấy cho anh vừa lòng

70
Cũng nhờ có vật giao duyên này mà nhiều đôi đã nên duyên vợ chồng. Trầu cau
cũng trở thành lễ vật không thể thiếu trong lễ cưới hỏi, là một nét đẹp trong đời sống ẩm
thực nói riêng và đời sống văn hóa của dân tộc nói chung.
- Trầu em, trầu gói trong khăn
Trầu gói, trầu em, trầu quế, vừa vôi
Anh ăn một miếng kết đôi vợ chồng.
Văn hóa ẩm thực được thể hiện trong ca dao không chỉ dừng lại ở việc ăn
cái gì, chế biến như thế nào mà còn giáo dục cho con người cách đối nhân xử thế,
cách ứng xử. Trong ăn uống, bên cạnh những thói quen, tính cách tốt đẹp, người
Việt cũng có những hành động, thói quen chưa đẹp…Bằng những câu ca thâm
trầm, sâu sắc, các tác giả dân gian đã đưa ra hàng loạt những thói hư tật xấu trong
ăn uống ảnh hưởng. Trước tiên là phê phán thói phàm ăn tụng uống, không biết
lễ nghi, phép tắc.
Tham ăn mà chẳng cho mèo
Có hai con mắt mà xèo một con.
Hay
Người khôn ăn miếng thịt gà
Tuy rằng ăn ít nhưng mà ngon lâu
Người dại ăn trái bồ nâu
Ăn no bĩnh bầu chẳng biết mùi ngon
Cũng có khi là người tham ăn đổ vạ cho người khác:
Muốn ăn gắp bỏ cho người/
Gắp đi gắp lại, lại rơi vào mình;
Học đòi, ăn vụng, ăn trộm cũng là một thói xấu mà nhiều người thường
mắc phải:
Học đòi ăn ớt với gừng
Vừa cay vừa đắng lại chừng mắt lên.
Ca dao cũng phê phán thói xấu ăn vụng, ăn bốc bải:
Học trò ăn vụng càng cua
Bà thầy bắt được, để tôi mua tôi đền

71
Không những tham ăn, tham uống mà nhiều người còn lười làm, muốn
hưởng thụ mà không muốn lao động. Ca dao xưa đã cực lực lên tiếng phê phán
thói xấu này:
Muốn ăn mà chẳng muốn mần
Cha mi lại bỏ cái bần cho mi
hay
Làm thì chẳng dám bằng ai
Ăn thì thứ nhất thứ hai trong làng.
Ca dao cũng đã liệt kê hàng loạt những thói xấu của người chồng, người vợ
trong ăn uống, đặc biệt ca dao tập trung vào thói tham ăn.
-Tham ăn tranh vợ là trai Kim Bồng
Nhọn như đầu cá nhồng
Tham ăn tranh chồng là gái Cẩm Phô
- Lấy chồng ăn những của chồng
Ăn hết con mắt, khoét lòng con ngươi
- Làm trai cho đáng nên trai
Véo đũa cho dài, ăn vụng cơm con
Đối với những cô gái chưa chồng, ca dao đã chỉ ra 7 thói xấu trong đó có
thói hay ăn quà vặt:
Thì la thì bẩy
Con gái bảy nghề
Ngồi lê là một
Dựa cột là hai
Theo trai là ba
Ăn quà là bốn
Trốn việc là năm
Hay nằm là sáu
Láu táu là bảy.
Ca dao về ẩm thực còn Phê phán những thói xấu của con người, đặc biệt là
sự tham lam, bất chính:

72
Mồm thì tụng niệm nam mô
Miệng thì rượu thịt lu bù sớm hôm.
Có thể thấy các thói hư, tật xấu trong ca dao được thể hiện khá chi tiết và rõ
ràng. Việc điều chỉnh và hạn chế các thói xấu trong cách ăn uống và xa hơn là lối
sống, cách ứng xử trong xã hội giữa người với người là điều quan trọng và cần
thiết. Văn hóa ẩm thực Việt Nam từ xưa đến nay vốn có nhiều điều tốt đẹp, việc
điều chỉnh các thói xấu trong cách ăn uống và sinh hoạt chính là cách góp phần
hoàn thiện hơn nét hấp dẫn, độc đáo trong văn hóa ẩm thực của dân tộc.
Như vậy, có thể thấy ngay cả những câu ca dao về quan hệ gia đình, xã hội,
tình cảm nam nữ cũng có mối liên hệ phong phú và chặt chẽ với văn hóa ẩm
thực. Mượn những hình ảnh quen thuộc trong việc ăn uống, ca dao khéo léo gửi
gắm những mong muốn, quan niệm, ứng xử về cuộc sống, tình yêu, gia đình. Sự
gặp nhau giữa các hình tượng đẹp nên tạo nên những tầng lớp ý nghĩa sâu xa
trong văn hóa ẩm thực, văn hóa xử thế của con người Việt Nam.
2.4.2 Quan niệm, triết lý của người Việt qua tục ngữ truyền thống về
ẩm thực
Từ xưa, tục ngữ dân gian có nhiều câu nói tới tầm quan trọng và sự cần thiết
của ăn uống đối với cuộc sống hàng ngày của con người như Dân dĩ thực vi tiên;
Hay ăn hay ngủ là tiên; Hay ăn hay uống là tướng trời sinh; Ăn vi thủ, ngủ vi
tiên…lý do là bởi Có thực mới vực được đạo… nghĩa là có ăn mới có sức khỏe,
sống để làm việc. Cũng vì thế, ta bắt gặp những câu nói thường bắt đầu bằng từ
“ăn” mà không phải một từ nào khác như ăn nói, ăn mặc, ăn chơi, ăn uống, ăn
hỏi, ăn cắp, ăn tiêu…Rõ ràng, ăn để sống, để tồn tại là mục đích đầu tiên. Ăn
uống được xem là một phần của cuộc sống của con người. Ăn uống còn liên quan
mật thiết tới lối sống của con người, nói cách khác, nó biến thành đạo sống, đạo
ứng xử của con người với con người trong xã hội, của con người với môi trường
tự nhiên: Ăn để mà sống chứ không sống để mà ăn. Theo số liệu chúng tôi khảo
sát được có 191 câu tục ngữ trong tổng số 1606 câu phản ánh về quan niệm ẩm
thực, cao hơn hẳn so với ca dao chỉ với 146 câu khi đề cập cùng chủ đề.

73
Tục ngữ chỉ ra phải sống có đạo lý mới là mục đích sống của con người. Vì
thế, phải lao động, sáng tạo ra lương thực, thực phẩm và các nhu yếu phẩm để
nuôi sống bản thân và gia đình:
Có ăn thì có làm
Có cấy có trông, có trồng có ăn
Có bụng ăn, có bụng lo
Bởi, nếu ăn không đúng chuẩn của văn hóa ứng xử trong cộng đồng rất dễ
mắc vào trường hợp Miếng ăn là miếng nhục. Bởi vì theo lẽ thường ở đời ăn tùy
nơi, chơi tùy chốn. Việc ăn luôn phải được cân nhắc, lựa chọn và sau dần trở
thành thành thói quen Ăn có mời, làm có khiến…
Bàn về việc ăn, cách ăn của người Việt, tục ngữ đã đúc rút những kinh
nghiệm quý báu như: Ăn cho sạch, bạch cho thông; Ăn kỹ no lâu, cày sâu cuốc
bẫm; Ăn kỹ no dai hay Ăn cho no, đo cho thẳng…Trong ứng xử, giao tiếp điều
quan trọng là sự chân thật, vô tư Ăn cho thật, nói cho thà.
Việc ăn uống tưởng chừng đơn gian nhưng ăn như thế nào cho đúng cách,
ăn có văn hóa quả là điều không dễ dàng vì nó còn gắn liền với hàng loạt mối
quan hệ khác.
Trước hết, cần nói đến quan hệ sòng phẳng, vay trả, “có đi có lại”: Ăn cái
rau, trả cái dưa, Ăn cơm trả gạo, ăn cháo trả tiền… Gốc gác của mối quan hệ
này là mong muốn, ý nguyện đòi hỏi sự công bằng trong xã hội Ăn cho đều kêu
cho sòng. Người ta phản đối lối ngồi mát ăn bát vàng, cũng như không chấp
nhận thói không làm mà hưởng như kiểu cốc mò cò xơi đồng thời không ưa cảnh
ăn cơm nhà vác tù và hàng tổng…Đối với người Việt từ xưa tới nay, đức tính
quan trọng là phải giữ cho được cái đạo nghĩa nhân và sống không được vong ân
bội nghĩa. Đạo lý ấy có từ ngàn đời qua uống nước nhớ nguồn Ăn quả nhớ kẻ
trồng cây…người ta biết trân trọng, đền đáp công ơn của người đi trước, người
đời sau cũng cần tự ý thức trách nhiệm của mình: Ăn câu nào, rào cây
đấy…Người đời cũng lên án những kẻ lừa lọc, vong ân bội nghĩa, phản trắc theo
kiểu Ăn cháo đá bát thậm chí phá hoại không ăn được thì đạp đổ.

74
Người Việt vốn trọng lễ nghĩa nên trong quan hệ chủ - khách dù các gia
đình không giàu có, không có điều kiện nhưng vẫn chuẩn bị một bữa cơm chu tất
để mời khách dù ít dù nhiều.
Khách đến nhà chẳng gà thì gỏi
Khách đến nhà không con gà thì bát nếp
Người chủ không ít lần Nhịn miệng tiếp khách và giữ cái lệ Tiền chủ
khách, hậu chủ. Đặc biệt, người Việt không thích lối “làm khách” khi ăn phải giữ
ý, không tự nhiên. Vì thế, làm khách là sạch ruột, ăn mà “làm khách” thì sẽ đói.
Từ những hình ảnh gần gũi trong cuộc sống thường ngày gắn với việc ăn
uống, tục ngữ đã ngầm phản ánh triết lý sống, văn hóa ứng xử trong quan hệ vợ
chồng Cơm sôi bớt lửa, chồng giận bớt lời. Đó cũng là những kinh nghiệm, lời
khuyên răn quý báu trong quan hệ ứng xử giữa người với người, nó phản ánh lối
sống theo chủ nghĩa duy tình:
Cơm sôi cả lửa thì trào.
Cơm sôi cả lửa thì khê, việc làm hay hỏng là lề thế gian.
Cơm sống vì nồi, không sống vì vung.
Cơ cấu bữa ăn phổ biến của người Việt là ba món cơm – rau – cá. Với
người Việt ở vùng châu thổ Bắc Bộ, trong bữa cơm luôn luôn phải có rau, có
canh. Cơ cấu bữa ăn này dường như đã trở thành một điều tất yếu:
Ăn cơm có canh, tu hành có vãi
Ăn cơm không rau như nhà giàu chết không kèn trống
Trong bữa ăn hàng ngày, ngoài cơm, canh, rau còn các thức ăn khác như cá,
thịt…Trong đó, cơm ăn cùng với cá được tục ngữ nhắc tới nhiều bởi cá là nguồn
chất đạm quan trọng bổ sung cho bữa ăn. Đặc biệt, ăn cơm với cá luôn tạo cho
người ăn cảm giác ngon miệng, đậm đà và thường ăn được nhiều cơm: Có cá đổ
vạ cho cơm; Ăn cơm với cá, cơm chó còn đâu…Đây được xem là những kinh
nghiệm quý trong ăn uống đồng thời nó cũng thể hiện quan niệm của người Việt
trong cơ cấu bữa ăn.
Tập tục ăn trầu, một phong tục đẹp của dân tộc ta từ bao đời nay cũng được
tục ngữ phản ánh. Miếng trầu là đầu câu chuyện, là cách người ta giao tiếp,

75
chuyện trò, làm quen và cũng nên duyên từ đó. Miếng trầu không thể thiếu khi
khách ghé thăm nhà, nó giúp cho tình cảm giữa người với người thêm gắn bó, dù
không cao sang nhưng miếng trầu cũng đủ làm ấm lòng người. Mặc dù chỉ là một
loại “ăn vui”, “ăn chơi” nhưng không thể thiếu trong đời sống văn hóa ẩm thực,
nó góp phần tạo nên diện mạo phong phú của văn hóa Việt.
Cũng giống như ca dao, ngoài những kinh nghiệm trong lựa chọn thực
phẩm, cách chế biến món ăn… thì tục ngữ cũng có một số lượng không nhỏ bàn
về những thói hư tật xấu trong ăn uống để răn dạy người đời.
Khảo sát trong Kho tàng tục ngữ người Việt, thói xấu trong ăn uống được
phản ánh trong tục ngữ với 265 câu trong đó chủ yếu phê phán thói tham ăn và
lười làm như Ăn như gấu ăn trăng, Ăn như hùm đổ đố, Ăn như phát tấu, Ăn như
tằm ăn rỗi, Ăn như thuồng luồng..Xuất phát điểm là một nước nông nghiệp, đời
sống kinh tế khó khăn vì thế mong muốn được ăn no, ăn nhiều có lẽ không có gì
đáng bàn nhưng thói tham ăn, tham uống vẫn bị phê phán … Ăn sâu ngập
cánh;Ăn tham chắc mặc tham dày; Ăn tham mồm lam chóp chép; Ăn tham như
chàm bàm chốc mép…
Những thói xấu này đều được tục ngữ mượn những hình ảnh khá ấn tượng
để ví von so sánh như Ăn như tráng, làm như lão hay Ăn như xáng múc, làm như
lục bình trôi…Và đối lập là những hình ảnh làm như lão, làm như lục bình trôi,
làm như chổi cùn…
Không những thế, tục ngữ về ẩm thực cũng lên tiếng phê phán những kẻ
tham lam, cố chịu nhẫn nhục để kiếm lợi: Cố đấm ăn xôi, cố lôi ăn thịt; Cố đấm
ăn xôi, đấm thì vô hồi, xôi chẳng được ăn…Ngược lại, có những người làm ăn
chân chính nhưng lại bị kẻ khác cướp công: Cốc làm cho diệc nó xơi hay Cóc mò
cò ăn…Nhiều trường hợp kẻ được ăn, bạc đãi, kèm theo thái độ hờ hững, vô ơn
Ăn xong quẹt mỏ, Ăn xôi chùa ngậm miệng, mắc nước bí bó tay…bị tục ngữ lên
án, chê trách.
Ở nhiều địa phương còn có tục lệ “lấy phần” tức lấy một lượng thức ăn
trong mâm cỗ đem về, ngoài việc ăn tại đám. Tuy nhiên, nhiều khi người ăn lại
lấy nhiều, lấy lộ liễu không có trước, có sau: Chưa ăn cỗ đã chực lấy phần; Chưa
ăn cỗ đã lo mất phần. Người đời cũng chê trách những người chỉ lo việc ăn uống

76
một cách quá đà: Chưa ăn đã lo đói, hay Chưa đặt đít đã đặt mồm; Chưa đánh
mõ đã băm thịt…
Việc ăn uống đúng cách là thể hiện văn hóa của mỗi con người, tuy nhiên,
ăn cho lấy được, cho thỏa mãn nhu cầu: Ăn lấp „lấp mề; Ăn no giậm chuồng…lại
trở thành một thói xấu, thậm chí khi đáp ứng được nhu cầu có không ít kẻ Ăn no
sinh sự; Ăn no, to đám.... Trong quan hệ xã hội, việc vay trả luôn đi cùng với
những mâu thuẫn mà nguyên nhân chủ yếu lại dựa trên lòng tham của con người:
Ăn mật trả gừng, Ăn quả vả, trả quả sung, Ăn sung trả ngái, Ăn thúng trả đấu,
Ăn táo trả hột…
Ăn uống không chỉ phụ thuộc vào đồ ăn, cách ăn, thái độ ăn…mà còn phụ
thuộc khá nhiều vào hoàn cảnh ăn. Trong điều kiện thiếu thốn, sự đòi hỏi cao lại
trở thành sự a rua, kệch cỡm: Có cá mòi đòi cá chiên, Có cháo đòi chè, Có thịt
đòi xôi… thậm chí có những kẻ không biết thân phận mình Ăn mày đòi mặc áo
yếm, ăn mày đòi xôi gấc, ăn chực đòi bánh chưng. Sự tráo trở, phụ bạc giữa con
người với con người cũng đáng trách và đáng lên án hơn: Có cam phụ quýt, Có
oản phụ xôi…
Đặc biệt, những câu tục ngữ về quan niệm ẩm thực đã phê phán trực tiếp
những dục vọng cá nhân, những hành vi xấu, sự tham lam, tính thực dụng của
con người:
Ăn canh cả cận
Ăn cắp quen tay, ngủ ngày quen mắt
Ăn cỗ đi trước, lội nước đi sau
Ăn trước, bước sau
Trong xã hội cũng có nhiều kẻ ghen ăn tức ở với những người hơn mình:
Giàu ăn khó chịu cho yên một bề; Giàu ăn uống, khó đánh nhau thậm chí còn có
những hành động xấu xa Không được ăn thì đạp đổ.
Thói xấu tiết kiệm quá mức trong cuộc sống thường ngày: Hà tiện ăn
cháo hoa, Hà tiện mà ăn cháo hoa, mười lăm đồng đỗ, mười ba đồng
đường…thậm chí keo kiệt, bủn xỉn, Ruộng cheo, cháo thí, nghe hát nhờ…và cho

77
đến khi bị mất trắng: Ki cóp cho cọp nó ăn…đều được tục ngữ phản ánh bằng
những câu nói ngắn gọn,giàu hình ảnh.
Trong cuộc sống, có không ít kẻ cậy quyền thế, cha mẹ để sống nhàn hạ
Cơm cha, áo mẹ ai ơi, chẳng ăn cũng thiệt, chẳng chơi cũng hoài”, chỉ đến khi
phải tự lao động bằng sức lực của mình họ mới biết được giá trị của đồng tiền:
Cơm cha áo mẹ ăn chơi, cắt lấy cơm người đổ bát mồ hôi. Tục ngữ cũng lên
tiếng phê phán những kẻ đi làm thuê, làm mướn thiếu trách nhiệm: Cơm người
việc ta, nhân nha mà làm…Trong khi lại có người chỉ biết lo việc chung mà ít
quan tâm tới việc nhà: Cơm nhà, việc người.
Xã hội cũng lắm bất công khi vẫn có những cảnh Kẻ ăn không hết, kẻ lần
chẳng ra, và cũng có không ít cảnh:
Kẻ ăn không ngồi rồi, người làm không hết việc:
Kẻ ăn mắm người khát nước
Kẻ ăn rươi, người chịu bão
Kẻ chặt cây người ăn trái
Không ăn lươn vẫn phải chịu nhớt
Trong ăn uống, không ít người quá đề cao vai trò của miếng ăn khi Coi
miếng ăn như cái tàn cái tán hay Coi miếng ăn như vàng…Tuy nhiên, đề cao
việc ăn không đúng với hoàn cảnh dễ khiến nó trở thành Miếng ăn là miếng
nhục, Miếng ăn là miếng tồi tàn…nhiều khi cũng vì miếng ăn mà có thể gây xô
xát, đánh cãi chửi nhau: Miếng ăn quá khẩu thành tàn.
Từ bao đời nay Ăn cỗ đi trước, lội nước theo sau được lưu truyền rộng rãi
trong nhân dân như một kinh nghiệm ứng xử khôn khéo, biết lựa miếng ngon để
ăn, việc nhàn hạ để làm. Tuy nhiên, ở nghĩa xa hơn là khi có những điều lợi lộc,
những dịp may mắn cần phải nhanh tay nắm bắt cơ hội cho mình còn khi có các
việc khó khăn, nặng nhọc, gặp hiểm nguy thì sẽ chờ đợi hoặc đùn đẩy cho những
người khác xông pha, gánh chịu, đi sau nhằm để tránh tổn thất cho bản thân.
Sống trong một đất nước luôn có thiên tai địch họa đã nảy sinh trong con người
những hành động, những quan niệm rất thực tiễn, nhiều khi có phần thực dụng.
Với ý nghĩa này, câu tục ngữ trên nhằm chỉ sự khôn mọt, mánh khóe trong cuộc

78
sống. Điều này cho thấy sự đa nghĩa của tục nghĩa và tùy vào từng hoàn cảnh
thực tế mà ý nghĩa của câu tục ngữ có thể thay đổi.
Trong quan hệ mẹ chồng nàng dâu, tục ngữ cũng lên tiếng phê phán những
quan điểm cổ hủ Mẹ chồng ăn hồng cả hột; Mẹ chồng mà dữ mổ bò ăn khao hay
Mẹ chồng mà dữ giết trâu ăn mừng. Ngoài ăn phải kể đến uống, thói xấu la cà
rượu chè trong việc uống đã được tục ngữ phê phán như Uống rượu li bì, công
nợ Chúa Chổm hay Uống rượu ngồi dai, Uống rượu như hũ chìm…
Miếng ăn, cách ăn như thế nào đã phản ánh rõ ràng lối sống, lối cư xử của người
ăn. Vì vậy, dễ dàng hiểu được lý do vì sao ngay từ còn nhỏ chúng ta đã phải học ăn, học
nói, học gói, học mở…việc học này diễn ra thường xuyên và có khi là cả đời.
Như vậy, tục ngữ đã nêu ra những thói xấu trong ăn uống nhằm phê phán và
cảnh tỉnh con người đồng thời giúp con người tạo dựng được cho mình những
thói quen tốt.
Những quan điểm, triết lý, văn hóa ứng xử trong mỗi bài ca dao, mỗi câu
tục ngữ đều thể hiện rõ nét đời sống văn hóa ẩm thực của người Việt. Đó là
những bài học vô cùng sâu sắc và quý báu mà biết bao thế hệ đi trước đã đúc rút
và truyền lại cho các thế hệ hôm nay. Đặc biệt, triết lý ăn uống đã thể hiện lối
sống, lối ứng xử của con người: Ăn quả nhớ kẻ trồng cây, Miếng ăn là miếng
nhục... Mặc dù tục ngữ chiếm số lượng nhiều hơn hẳn trong việc thể hiện quan
niệm ứng xử về ăn uống nhưng cả ca dao và tục ngữ đều cho thấy sự phong phú,
đa dạng trong đời sống văn hóa ẩm thực nói chung của người Việt. Xét cho cùng,
ăn uống không nằm ngoài nguyên tắc ứng xử của con người. Ăn uống không chỉ
là một hoạt động nhằm đáp ứng nhu cầu cơ thể mà còn là một hoạt động giao tiếp
xã hội cao. Qua ăn uống, con người muốn gửi gắm ước vọng của mình về một xã
hội thanh bình, hạnh phúc, hài hòa trong các mối quan hệ xã hội.
2.5. So sánh sự phản ánh các vấn đề về văn hóa ẩm thực của ngƣời Việt
trong ca dao, tục ngữ truyền thống.
2.5.1 Những điểm tương đồng
Ca dao, tục ngữ được xem là kho kinh nghiệm quý về lao động sản xuất,
dự báo các hiện tượng thiên nhiên, phản ánh các quan hệ xã hội, tình cảm gia

79
đình…được dân gian đúc kết lại từ hàng ngàn năm qua. Văn hóa ẩm thực là một
nét văn hóa tự nhiên được hình thành trong cuộc sống. Đối với người Việt, việc
ăn uống không chỉ là nét văn hóa về vật chất mà còn là nét văn hóa về tinh
thần…Qua tục ngữ, ca dao, đời sống ẩm thực người Việt được tái hiện một cách
phong phú từ việc lựa chọn các sản vật tự nhiên, phương thức chế biến món ăn,
phong tục tập quán trong ăn uống đến những quan niệm triết lý về ăn uống thể
hiện lối sống, thế ứng xử của con người trong xã hội nông nghiệp cổ truyển.

Các vấn đề ẩm thực được cả ca dao và tục ngữ tập chung phản ánh chủ
yếu là các sản vật, đặc sản ở các địa phương, kinh nghiệm lựa chọn lương thực,
thực phẩm, quan niệm, ứng xử của con người về văn hóa ẩm thực, thói hư tật xấu
của người Việt phong tục tập quán trong ẩm thực. Sở dĩ có điều này là bởi ở mỗi
địa phương lại có điều kiện về đất đai, khí hậu khác nhau nên có những sản vật
mang đặc trưng riêng của mảnh đất đó. Ví dụ như ca rô Đầm Sét có ở Thanh Trì-
Hà Nội, rau húng, hành có ở làng Láng, tương bần ở Hưng Yên…Cách thức ứng
xử, quan điểm, phong tục tập quán trong ăn uống đóng vai trò vô cùng quan
trọng bởi qua ẩm thực đã phần nào thể hiện phẩm giá con người, xa hơn là trình
độ văn hóa của dân tộc. Bên cạnh đó, phản ánh về vấn đề về văn hóa ẩm thực cả
ca dao và tục ngữ đều sử dụng các phương thức ngắn gọn, cô đúc có khả năng tác
động trực tiếp đến tư tưởng, tình cảm của con người.

2.5.2 Những điểm khác biệt

Ca dao, tục ngữ phản ánh văn hóa ẩm thực là một trong những bộ phận
quan trọng nhất trong toàn bộ kho tàng ca dao, tục ngữ người Việt. Nó là sản
phẩm tinh thần, là sáng tạo nghệ thuật của nhân dân lao động trong những
điều kiện lịch sử, xã hội cụ thể. So sánh sự phản ánh của hai bộ phận tục ngữ,
ca dao thuộc hai thể loại là để góp phần tìm tòi, phát hiện và lý giải những nét
phổ biến và những nét đặc thù, độc đáo của tục ngữ và ca dao.

80
Bảng 10: Khảo sát số lƣợng ca dao, tục ngữ ngƣời Việt phản ánh về văn hóa
ẩm thực
STT Các vấn đề văn hóa ẩm thực Số lƣợng bài Tỷ lệ % Số lƣợng Tỷ lệ%
ca dao câu tục ngữ
1 Các sản vật, đặc sản địa 131 38,9 224 13,8
phương
2 Kinh nghiệm ẩm thực 49 14,5 643 39,5
3 Quan niệm ứng xử về văn 146 43,5 690 42,4
hóa ẩm thực
4 Phong tục ẩm thực của 10 3,1 70 4,3
người Việt
Tổng số 336 100% 1627 100%
Nhìn vào bảng thống kê phân loại dựa vào hai bộ Kho tàng ca dao người
Việt và Kho tàng tục ngữ người Việt do tác giả Nguyễn Xuân Kính chủ biên, có
thể thấy một sự chênh lệch khá lớn về số lượng giữa ca dao và tục ngữ khi phản
ánh về các vấn đề ẩm thực. Nếu như tục ngữ có 1627 câu thì ca dao chỉ có 336
câu viết về ẩm thực. Trong đó, vấn đề kinh nghiệm lựa chọn lương thực, thực
phẩm được tục ngữ đề cập đến nhiều nhất với 643 câu, chiếm 39,5%. Trong khi
đó, ca dao cũng dành số lượng lớn là 146 câu chiếm 43,5% để nói về quan điểm,
văn hóa ứng xử của con người qua ẩm thực. Có điều này vì tục ngữ là lời nói trực
tiếp, dễ gọn, dễ nhớ tổng kết các kinh nghiệm từ thực tiễn cuộc sống, đó là các
kinh nghiệm lựa chọn và chế biến lương thực, thực phẩm, kinh nghiệm ăn theo
mùa vụ, theo đặc điểm của sản vật, kinh nghiệm ứng xử giữa người với người….
còn ca dao thường có màu sắc tình cảm nhẹ nhàng, ví von, gián nên số lượng
thường ít hơn so với tục ngữ.
Nội dung của ca dao, phản ánh các vấn đề văn hóa ẩm thực cho thấy có số
lượng không nhỏ các câu ca dao gián tiếp nói về chuyện ăn uống, trong đó nhiều
câu mượn chuyện ăn uống để liên hệ đến tình cảm vợ chồng, nam nữ, quan hệ
gia đình, xã hội, chẳng hạn như Râu tôm nấu với ruột bầu/Chồng chan vợ húp
gật đầu khen ngon; Cơm sôi nhỏ lửa một đời không khê…Với cách ví von, so

81
sánh gián tiếp, ca dao đã phản ảnh sinh động đời sống ẩm thực của người Việt.
Trong khi đó, tục ngữ thường dựa vào những kinh nghiệm thực tiễn để khẳng
định một chân lý cũng có khi đưa ra những triết lý dân gian về ẩm thực như: Ăn
cây nào rào cây nấy hay Ăn cơm lừa thóc, ăn cóc bỏ gan.
Ngoài ra, xét về hình thức, ca dao và tục ngữ cũng có một số điểm khác
biệt. Tục ngữ thường gắn với lời ăn tiếng nói hàng ngày, trong khi ca dao là
những lời thơ dân gian được dùng để hát, để ngâm có khi được dùng để kể, để
nói để đọc. Nếu như tục ngữ có kết cấu bằng một câu có nhiều vế hoặc một vế
như: Bánh tráng Mĩ Lồng, bánh phồng Sơn Đốc, đa số các câu có vần như: Cam
Phương Độ, đỗ Chản Thương, tương Vân Cầu thì ca dao lại thường là một hoặc
nhiều cặp lục bát:
Ai qua phố Nhổn, phố Lai
Dừng chân ăn miếng trả đài thơm ngon
Ngọt thay cái quả cam tròn
Vừa thơm vừa mát hãy còn ở Canh.
Với sự khác biệt giữa đặc trưng hai thể loại đã tạo nên sự hấp dẫn đặc biệt
của hai thể loại ca dao và tục ngữ. Mặc dù cách thức thể hiện khác nhau nhưng cả
ca dao và tục ngữ đã tạo dựng kho tri thức phong phú về đời sống ẩm thực của
nhân dân ta.
Tiểu kết
Như vậy, cùng viết về ẩm thực Việt, bên cạnh những nét tương đồng trong
nội dung và hình thức phản ánh, ca dao, tục ngữ cũng thể hiện một số nét khác
biệt do đặc trưng của thể loại. Điều này hoàn toàn phù hợp với tâm lý, phong tục
tiếp nhận của người dân. Phản ánh đời sống văn hóa ẩm thực của người Việt
thông qua tục ngữ, ca dao là cách thức truyền tải vô cùng tinh tế, dễ nhớ, dễ
thuộc của cha ông từ ngàn xưa. Giờ đây, ẩm thực đã không đơn thuần là giá trị
vật chất, mà sâu xa hơn chính là giá trị văn hóa, một mảng văn hóa đậm đà,
duyên dáng và cốt cách. Tìm hiểu ẩm thực truyền thống của dân tộc là cách đơn
giản nhất để có thể hiểu thêm về lịch sử và con người của đất nước. Kho tàng ca
dao, tục ngữ người Việt đã cho thấy một nền văn hóa ẩm thực phong phú, đa
dạng có từ hàng ngàn năm nay và sẽ tiếp tục trường tồn đến mai sau.

82
Chƣơng 3: PHƢƠNG THỨC PHẢN ÁNH ẨM THỰC QUA CA DAO TỤC NGỮ

Trong kho tàng văn học dân gian của người Việt, bộ phận ca dao, tục
ngữ truyền thống phản ánh về văn hóa ẩm thực rất đa dạng và phong phú trên các
khía cạnh: sản vật, kinh nghiệm, phong tục tập quán, quan niệm, triết lý…Văn
hóa ẩm thực là một mảng đề tài có ý nghĩa vô cùng quan trọng trong hai thể loại
ca dao và tục ngữ bởi ăn uống là nhu cầu thiết yếu hàng ngày của con người,
giúp con người duy trì sự sống, hơn nữa ăn uống được coi là một nghệ thuật
sống, biểu hiện lối sống, nét văn hóa trong mỗi con người, mỗi vùng miền, dân
tộc. Để thể hiện các khía cạnh khác nhau của văn hóa ẩm thực, ca dao và tục ngữ
có nhiều hình thức phản ánh khác nhau. Nếu như tục ngữ là thiên về lý trí với
những câu nói ngắn gọn, cô đọng, dễ nhớ mang tính chất bền vững, nhịp nhàng,
đa số câu có vần thì ca dao lại thiên về tình cảm, phần lớn có kết cấu là một hay
nhiều cặp lục bát va sử dụng những biện pháp tu từ trong việc phản ánh ẩm thực.
Soi chiếu những đặc trưng vốn có của hai thể loại này vào việc phản ánh ẩm thực
sẽ cho thấy rõ hơn những đặc điểm thể loại đã quy định cách thức thể hiện và
phản ánh những vấn đề về ẩm thực này như thế nào?
3.1. Thể thơ, nhịp điệu và vần
Như chúng ta đã biết, ca dao là những lời thơ dân gian được dùng để hát,
để ngâm, diễn đạt tâm tư, tình cảm của con người trong những môi trường sinh
hoạt văn hóa khác nhau… Cấu trúc của một bài ca dao phổ biến là một hoặc các
cặp lục bát. Trong thể thơ lục bát, một tác phẩm ít nhất phải có độ dài là hai dòng
thơ (một cặp lục bát). Ví dụ như:
-Ai về Nhượng Bạn thì về
Gạo nhiều, cá lắm, dễ bề làm ăn.
-Bến Tre giàu mía Mỏ Cày
Giàu nghêu Thạch Phú, giàu xoài Cái Mơn
Bếm Tre biển cá, sông tôm
Ba Tri muối mặn, Giồng Trôm lúa vàng
Theo tác giả Đinh Gia Khánh trong Ca dao Việt Nam có tới 95% ca dao
truyền thống được sáng tác theo thể lục bát. Vì vậy nhắc đến ca dao là người ta

83
nghĩ ngay đến thể thơ này. Với nhịp điệu uyển chuyển, linh hoạt, không có sự gò
bó về độ dài, ngắn, thể lục bát có sở trường trong việc diễn đạt cảm xúc vốn rất
phong phú cả hiện thực. Trong việc phản ánh văn hóa ẩm thực, sử dụng thể lục
bát giúp ca dao phản ánh những đặc sản địa phương, kinh nghiệm ăn uống một
cách mượt mà, trữ tình hay sự tinh tế, nhẹ nhàng khi nói về các quan niệm, triết
lý trong ăn uống.
Ngoài những bài ca dao được sáng tác theo thể lục bát còn có một số bài
phản ánh ẩm thực bằng lục bát biến thể. Tiến hành khảo sát trong số 336 bài ca
dao chúng tôi có bảng số liệu sau đây:
Bảng 11: Số lƣợng ca dao phản ánh ẩm thực bằng lục bát và lục bát biến thể

Số lƣợng câu lục bát Số lƣợng câu lục bát biến thể
Ca dao phản 264/336 72/336
ánh ẩm thực
Tỷ lệ % 78,6 21,4

Theo bản số liệu thống kê trên, có tới 264 bài ca dao được sáng tác theo
thể lục bát, chiếm 78,6% và có 72 bài lục bát biến thể,chiếm 21,4%. Theo cách
hiểu của nhà nghiên cứu Mai Ngọc Chừ: “Lục bát biến thể ở đây được quan tâm
là những câu ca dao có hình thức lục bát nhưng không khít khịt “trên sáu dưới
tám” mà có sự co giãn nhất định về số lượng âm tiết”. [27;tr.224] Đặc điểm của
lục bát biến thể thường là khuôn hình về vần vẫn được giữ, còn số tiếng trong
mỗi dòng thơ có thể thay đổi. Lục bát biến thể thường có ba loại:
Dòng lục thay đổi, dòng bát giữ nguyên:
Thà ăn bát cơm rau
Còn hơn cá thịt, nói nhau nặng lời
Dòng lục giữ nguyên, dòng bát thay đổi:
Muốn ăn cơm trắng, chả, giò
Thì về bến Cốc đẩy xe bò với anh
Cả hai dòng đều thay đổi:

84
Nước nào ngọt bằng nước sông Hinh
Chè Ô Long đủ vị súc bình còn thơm
Sử dụng lục bát biến thể trong việc phản ánh ẩm thực dường như các tác
giả dân gian được trình bày nhiều hơn các nội dung về ẩm thực, cung cấp đầy đủ
và cụ thể từng quan niệm, triết lý trong ăn uống hay tăng tính trữ tình, bay biểu
cảm ở mỗi bài ca dao khi nhắc đến một sản vật của địa phương. Ví dụ như:
- Đi đâu cũng nhớ Khánh Hòa
Nhớ biển Nha Trang gió mát, nhớ Ninh Hòa nhiều nem
- Ai về Hà Tĩnh thì về
Mặc lụa chợ Hạ, uống nước chè Hương Sơn
Cả hai bài ca dao trên đều sử dụng thể lục bát biến thể nhằm miêu tả chi
tiết và cụ thể hơn đặc sản của hai địa phương là Khánh Hòa và Hà Tĩnh.
Có nhiều cách giải thích về sự xuất hiện của lục bát biến thể là do có thể
có những biến thể cổ xuất hiện vào lúc mô hình lục bát chưa thật định hình;
những biến thể nảy sinh do việc đem thể lục bát phục vụ cho việc diễn xướng và
có thể những biến thể hình thành do sự linh động của nhà thơ, nhằm phục vụ yêu
cầu diễn đạt một nội dung nào đó. [27; tr.226]. Tuy vậy, có thể cho rằng chức
năng chính của hình thức lục bát biến thể là phục vụ nội dung chủ đề muốn thể
hiện. Đối với việc phản ánh ẩm thực, ca dao lục bát biến thể nhằm mở rộng phạm
vi đối tượng ẩm thực được đề cập tới, mô tả chi tiết hơn một vấn đề ẩm thực, một
đặc sản muốn thể hiện.
Đại đa số các bài ca dao được sáng tác theo thể thơ lục bát, mới nghe qua
nhiều người nghĩ rằng nhịp điệu của nó sẽ lặp lại nhàm chán theo kiểu dòng trên
2/2/2, dòng dưới 2/2/2/2. Tuy nhiên trên thực tế, nhịp điệu thơ lục bát uyển
chuyển, linh hoạt, phối điệu trong hình thức tối thiểu là một cặp lục bát gồm 2
câu với số tiếng cố định: 6 tiếng (câu lục) và 8 tiếng (câu bát). Phương thức gieo
vần 6- 8, vị trí gieo vần cố định: âm tiết cuối của câu sáu hiệp với âm sáu của câu
tám, âm tiết thứ tám của câu bát hiệp với âm tiết thứ sáu của câu lục tiếp theo.
Đây là thao tác đặc biệt tạo nên vẻ đẹp nhịp nhàng trong ngôn ngữ thơ. Ca dao
phản ánh về ẩm thực cũng mang đầy đủ những đặc điểm trên:

85
Muốn ăn/bông súng/mắm kho,
Thì vô/Đồng Tháp/ăn no/đã thèm
Hay
Mong về xứ ở Vinh Quang
Ăn canh cua bấy, tôm rang thỏa tình
Hai xóm Quang Hiển, Quang Minh
Ăn cá lá nướng, cá kình nấu chua
Trong hai bài ca dao trên nhờ cách hiệp vần nhịp nhàng, uyển chuyển mà
các vấn đề của ẩm thực được chuyển tải một cách rõ ràng nhưng không kém phần
tinh tế, làm người đọc, dễ nhớ, dễ truyền.
Với những kinh nghiệm tưởng chừng khó nhớ nhưng với nhịp điệu thơ
không gò bó, cách hiệp vần tinh tế, nhịp nhàng khiến những câu ca dao về ẩm
thực luôn tạo được ấn tượng sâu sắc.
Mua thịt chớ mua thịt mông
Lấy chồng chớ lấy dở ông dở thằng
Hoặc
Mua thịt thì chọn miếng mông
Lấy chồng thì chọn con tông nhà nòi
Như vậy, bằng phương thức phản ánh ẩm thực qua thể thơ, nhịp điệu và
vần, ca dao đã dễ dàng truyền tải những đặc sản, kinh nghiệm, quan niệm, phong
tục tập quán một cách cách tinh tế, dễ nhớ, dễ hiểu đến người đọc.
Nếu như ca dao nghiêng về tính trữ tình, gồm một cặp lục bát trở lên thì
tục ngữ là những câu nói đúc kết những kinh nghiệm của con người trong cuộc
sống. Đó là những câu nói ngắn gọn, gắn với lời ăn tiếng nói hàng ngày, có khi
được dùng để kể, để đọc. Tục ngữ phản ánh ẩm thực mang đầy đủ những đặc
điểm của tục ngữ nói chung, nó cũng thường có kết cấu bằng một câu có nhiều
vế hoặc một vế:
Bánh đúc bày sàng
Ăn cá bỏ xương, ăn quả bỏ hột
Chẳng đi nhớ cháo làng Ghề, nhớ cơm phố Mía, nhớ chè Đông Viên

86
Câu tục ngữ có cấu trúc cân xứng nằm ở giữa hai vế (nếu ba vế thì có hai
trục…). Dấu hiệu hình thức của đối xứng là những liên từ, trợ từ. Tuy nhiên, do
tục ngữ ít dùng các loại từ đó, nên trục đối xứng thường ẩn trong nhịp và vần.
Việc tỉnh lược những liên từ, trợ từ không chỉ có tác dụng làm cho câu tục ngữ
gọn chắc mà còn làm cho nó trở nên tinh tế, mềm dẻo hơn. Chẳng hạn như trong
các câu tục ngữ phản ánh kinh nghiệm ẩm thực đồng thời cũng là quan niệm ẩm
thực của nhân dân.
Ăn chọn nơi, chơi chọn bạn
Ăn cơm có canh, tu hành có vãi
Ở tục ngữ, nhịp tự nhiên đồng thời là nhịp logic. Đây là nguyên tắc chi
phối việc chọn đặt từ và gieo vần. Theo các tài liệu chúng tôi thống kê được về
tục ngữ phản ánh văn hóa ẩm thực thì nhịp 2/2, 3/3 chiếm đa số. Những câu tục
ngữ này đã đúc kết ngắn gọn kinh nghiệm ăn uống, đưa ra một quan niệm ứng
xử, về ăn uống hoàn toàn dựa vào tự nhiên mà không hề áp đặt.
Ăn trông nồi/ ngồi trông hướng
Ăn có chừng/ chơi có độ
Ăn cóc bỏ gan/ ăn trầu nhả bã
Ăn quả/ nhớ kẻ/ trồng cây/ ăn khoai/ nhớ kẻ/ cho dây/ mà trồng
Yếu tố nhịp trong tục ngữ, đặc biệt trong số những câu tục ngữ phản ánh ẩm
thực mặc dù được biểu hiện rõ nhưng có nhiều tác dụng, nó khiến cho câu tục ngữ
có tính nhịp nhàng, có sự tương tác với yếu tố vần và góp phần tạo ra sự hài hòa, cân
đối về âm thanh cho câu tục ngữ, qua đó biểu đạt sức thái quan hệ logic giữa các vế
của câu tục ngữ. Tính chất nhịp nhàng, vần vè của câu tục ngữ đã giúp cho nó dễ
nhớ, dễ truyền hơn nhưng vẫn được quy định bởi yêu cầu của nội dung.
Bánh đúc chợ Go/trâu bò/ chợ Bản
Bánh đúc kẻ Đanh/ bánh hành/ kẻ Láng
Việc tạo nhịp điệu 4/2/2 giúp cho các câu tục ngữ trên sự nhịp nhàng,
cùng sự tương tác với yếu tố vần đã góp phần tạo ra sự hài hòa về mặt âm thanh,
nó cũng góp phần tạo sự cân đối, qua đó biểu thị sắc thái quan hệ logic giữa các

87
vế của câu tục ngữ. Với nhịp điệu này còn giúp cho câu tục ngữ mượt mà dễ nhớ,
dễ truyền.
Giống như trong ca dao, vần trong tục ngữ là yếu tố giữ nhịp, tạo ra sự
hài hòa âm thanh cho câu, đồng thời góp phần làm nâng nổi những từ có ý nghĩa
quan trọng trong câu. Điểm đặc biệt trong tục ngữ là vần xuất hiện rất phong phú,
linh hoạt. Hiện tượng gò ép vần rất hiếm khi xảy ra. Đặc biệt, những câu tục ngữ
4 tiếng thường có cấu trúc đan chéo hoặc cấu trúc cân đối. Trong trường hợp vần
xuất hiện thường là vần sát như ở ví dụ sau:
Ăn liều/ tiêu càn
Ăn quả/nhả hột
Cốc mò/ cò xơi
Với cách sử dụng vần sát cùng nhịp điệu gấp gáp, dồn dập đã nhấn mạnh
vào các hành động, các sự việc khiến câu tục ngữ dễ nhớ. Vần sát cũng xuất hiện
trong những câu tục ngữ có cấu trúc đối xứng mà trục đối xứng ẩn như ở những
câu tục ngữ 6 tiếng :
Cá song Đôi, xôi kẻ Quánh
Ăn cây nào, rào cây ấy
Cá kể đầu, rau kể mớ
Và trong những câu 8 tiếng về kinh nghiệm ăn uống:
Ăn không kể bát, hát không kể đêm
Cơm nhà ăn ngon, con nhà dễ khiến
Tuy nhiên, cả ở trong những câu tục ngữ có cấu trúc đối xứng với trục đối
xứng ẩn ở dạng 8, 10 tiếng đều xuất hiện vần cách giúp các câu tục ngữ trở nên
nhịp nhàng, giàu vần điệu:
Bánh đúc làng Kẻ/ bánh tẻ làng Diễn
Bánh gai Cam Giá/ bánh lá Bạch Cừ
Cá bống kho tiêu/ cá thiều kho ngọt
Ngoài ra, còn có các trường hợp những câu tục ngữ tuy có cấu trúc hai
vế nhưng không đối xứng chặt chẽ và thậm chí còn có những câu tục ngữ có
cấu trúc tự do. Tuy vậy, nó vẫn giúp các câu tục ngữ phản ánh một cách nhịp

88
nhàng, hiệu quả các sản vật địa phương, các kinh nghiệm và quan niệm, ứng
xử trong ăn uống.
Vần cách một tiếng: - Cá đối tháng bảy, cá gáy tháng mười
Vần cách hai tiếng: - Cá cống Tràng, chè rừng Lạng
Vần cách ba tiếng: - Ăn vảy chốc còn hơn ăn ốc tháng 4
- Có cơm thì vạn người hầu, có bấc có dầu thì vạn người khêu
Như vậy, trong các câu tục ngữ trên, cách gieo vần cách hay vần sát đều
có đặc điểm chung là tạo sự nhịp nhàng cân đối cho vần và nhịp. Nhờ đó tạo ra
sự hài hòa về âm thanh cho câu tục ngữ giúp các câu tục ngữ phản ánh về ẩm
thực thường dễ nhớ, dễ truyền. Tính biểu cảm nghệ thuật của tục ngữ phụ thuộc
phần lớn vào vần. Khi phản ánh các vấn đề về ẩm thực, vần trong tục ngữ đã có
tác dụng rõ nét trong việc giới thiệu các đặc sản địa phương, đặc biệt nhờ có vần
điệu nhịp nhàng, uyển chuyển đã khiến những kinh nghiệm về ẩm thực, những
quan niệm, ứng xử trong ăn uống dễ nhớ, dễ thuộc hơn.
Như vậy cả hai thể loại ca dao và tục ngữ đều có những ưu điểm, thế
mạnh trong việc chuyền tải những thông điệp về ẩm thực đến với mọi người với
cách thức thể hiện khác nhau. Nếu như ca dao với những câu nghe rất xuôi tai,
trữ tình truyền tải rất nhẹ nhàng, tinh tế thì tục ngữ lại có thế mạnh trong việc
truyền tải những lời cô đọng, súc tích và thông tin ngắn nhưng cung cấp nhiều tri
thức. Ngoài ra, thông tin này cũng làm cho người ta dễ nhớ bởi tục ngữ được sử
dụng như lời ăn tiếng nói trong cuộc sống. Chẳng hạn như bằng một câu tục ngữ
ngắn có 8 chữ Dưa La, cà Láng, nem Báng, tương Bần nhưng lượng thông tin
nhiều hơn khi nói tới bốn loại đặc sản khác nhau. Trong khi đó với một ca dao
Bún ngon bún mát Tứ Kì/Pháp Vân cua ốc đồn thì chẳng ngoa có lượng thông tin
ít hơn hẳn nhưng thể thơ, nhịp phù hợp với lời nói và thường tục ngữ phù hợp để
đưa ra một triết lý, một kinh nghiệm hơn là ca dao.
Bằng cách sử dụng nhịp điệu uyển chuyển, có vần điệu, ca dao, tục ngữ
phản ánh về ẩm thực đã dễ dàng truyền tải được những đặc điểm, quan niệm,
kinh nghiệm trong đời sống văn hóa ẩm thực của nước ta. Cũng vì thế, những câu
ca dao, tục ngữ về ẩm thực đã đi sâu vào lòng người.

89
3.2. Ngôn ngữ
Văn hóa ẩm thực được phản ánh qua ca dao, tục ngữ một cách linh hoạt,
dễ nhớ, dễ hiểu, có được điều đó còn phải nhờ đến hệ thống ngôn ngữ, trong đó,
đáng chú ý là cách sử dụng ngôn ngữ qua ca dao, tục ngữ.
Trong ca dao có nhiều bài có một nghĩa chủ yếu là các bài ca dao phản
ánh đặc sản địa phương, kinh nghiệm ăn uống như:
- Ai về Hà Tĩnh thì về
Mặc lụa chợ Hạ, uống nước chè Hương Sơn
- Ai về Tân Phước, Rạch Già
Gửi con cá lóc hái cà nấu canh
- Mắm ngon xem lấy màng màng
Người khôn xem lấy hai hàng tóc mai.
Trong tục ngữ cách nói nói trực tiếp cũng được sử dụng khá thông dụng
như: Chè quán Dạo, cháo quán Tiên; Dưa La, cà Láng, cải Báng, tương Bần…
;kinh nghiệm lựa chọn lương thực, thực phẩm: Cá tươi xem mang hay Ăn cóc bỏ
gan, ăn trầu nhả bã...Nhiều khi các quan niệm, ứng xử trong ăn uống cũng được
thể hiện trực tiếp trong ăn uống như Ăn cơm có canh, tu hành có vãi, hay Ăn dối
làm thật… Với lối nói trực tiếp này, tục ngữ thường có cách phản ánh ngắn gọn,
cô đọng dễ dàng đi vào đời sống nhân dân và trở thành những tri thức ẩm thực
quý báu.
Phản ánh các vấn đề ẩm thực, có nhiều bài ca dao sử dụng lối tỷ dụ, ví
von, so sánh để nói tới một vấn đề khác. Được thể hiện dưới hình thức lục bát,
tác giả dân gian đã lấy chuyện ăn, chuyện uống để bàn các chuyện tình cảm gia
đình, quan hệ vợ chồng, cha – con, giữa người với người…
Mẹ ơi, đừng gả chồng xa
Tuy rằng ít ruộng, đất ta lắm màu
Ngô, khoai, rau, đậu, bông, dâu
Đây bến đò dọc, kia cầu chợ Hôm
Chẳng tham tiền lắm, người giòn
Thương anh đò dọc, hò khoan cả ngày.

90
Câu thơ sau đây lại đề cập đến tấm lòng hiếu thảo của người con dành cho
cha mẹ dù trong hoàn cảnh có khó khăn, nghèo đói:
Đắng lòng ăn hột chà là
Để cơm nuôi mẹ, mẹ già yếu răng
Với việc sử dụng cách nói vừa gián tiếp, vừa trực tiếp, vừa nghĩa đen lại
nghĩa bóng trong một văn bản ca dao giúp cho bài ca thêm giàu ý nghĩa. Có
không ít những câu ca dao đã mượn ẩm thực để nói về tình yêu đôi lứa khi sửa
dụng cả hai cách nói này:
Anh nói em cũng nghe anh
Bát cơm đã trót chan canh mất rồi
Nuốt đi đắng lắm anh ơi
Bỏ ra thì để tội trời ai mang
Ngoài ra, mượn hình ảnh biểu trưng là miếng trầu, tục ngữ ngầm ý phản
ánh tới chuyện tình duyên của các đôi nam nữ:
Từ ngày ăn miếng trầu trao
Miếng ăn môi thắm ngày nào cho quên.
Ngôn ngữ trong tục ngữ nói chung, ngôn ngữ trong tục ngữ về văn hóa ẩm
thực nói riêng rất phong phú, đa dạng và hết sức linh hoạt. Trong tục ngữ phản
ánh về ẩm thực, từ “ăn” không chỉ có nghã là một hành động sinh lý thông
thường, đưa một cái gì vào miệng, nhai và nuốt mà nó còn có nhiều nghĩa khác
nhau. Tìm trong Kho tàng tục ngữ người Việt, chúng tôi thấy từ “ăn”xuất hiện ở
đầu 790 câu tục ngữ phản ánh ẩm thực như Ăn cái rau, trả cái dưa, Ăn hết nhiều,
ở hết bao nhiêu, Ăn vóc học hay, Ăn hơn hờn thiệt…Từ “ăn” nhiều lúc được diễn
đạt đơn thuần có ý nghĩa trực tiếp như Ăn bữa trưa, chừa bữa tối nhưng cũng có
khi kết hợp với một nội dung khác để so sánh như Ăn cắp quen tay, ngủ ngày
quen mắt, Ăn cây đào, rào cây bồ hòn…Tuy nhiên, từ “ăn” có lúc lại được dùng
để đối lập ý của hai vế của câu tục ngữ như Ăn thật làm dối; Ăn có nhai, nói có
nghĩ; Ăn chưa sạch bạch chưa thông… Đặc biệt, dù không có từ ăn nhưng có tới
485 câu tục ngữ đã đề cập đến các vấn đề của ăn uống như: Mua thịt thì chọn
miếng mông, lấy chồng thì chọn con tông nhà nòi.

91
Theo các nhà nghiên cứu văn học dân gian, trong tiếng Việt, bên cạnh
những câu tục ngữ chỉ có một nghĩa đen (ví dụ: May hơn khôn…) hoặc một
nghĩa bóng (ví dụ: gieo gió gặt bão) là những câu tục ngữ có có hai nghĩa là
nghĩa đen và nghĩa bóng còn có những câu tục ngữ đa nghĩa hay nhiều nghĩa, ví
dụ như: cá mè đè cá chép
Nghĩa đen: Một kinh nghiệm chăn nuôi: Cá mè ăn nổi, sống ở tầng trên,
cá chép sống ở giữa tầng.
Nghĩa bóng: - Cùng họ hàng, đồng loại nhưng lại đè nén, chèn ép nhau
- Cảnh đời trớ trêu.
Như vậy, đề cập đến văn hóa ẩm thực, tục ngữ không những phản ánh trực
tiếp đến các sản vật, đặc sản ở các địa phương, kinh nghiệm ăn mà còn thể hiện
cách ứng xử, quan niệm, văn hóa của con người trong xã hội thông qua ăn uống.
Phần lớn những câu tục ngữ thể hiện điều này là những câu tục ngữ đa nghĩa. Ví
dụ như Ăn trông nồi, ngồi trông hướng ngoài nghĩa đen là ăn phải biết nhìn đồ ăn
thức uống để ăn còn nghĩa bóng là kinh nghiệm ứng xử trong ăn uống, ăn phải
biết ý tứ, biết lễ độ. Ngoài nghĩa đen, hiển hiện trên bề mặt nghĩa của câu tục ngữ
Ăn quả nhớ kẻ trồng cây/ Ăn khoai nhớ kẻ cho dây mà trồng còn có ý nghĩa sâu
sa hơn đó là thái độ trân trọng công lao của những người đi trước đã để lại những
thành quả cho các thế hệ sau.
Trong kho tàng tục ngữ của người Việt, xuất hiện hàng loạt câu tục ngữ đa
nghĩa như Ăn cá bỏ lờ; Ăn cháo đái bát, Ăn không biết trở đầu đũa; Ăn như rồng
cuốn, nói như rồng leo, làm như mèo mửa; Ăn cộc bốc dạ nhằm phê phán những
kẻ vô ơn bạc nghĩa, tham ăn lười làm không biết trước, biết sau...
So với tục ngữ, trong ca dao tính đa nghĩa được thể hiện ít hơn và thường
ở một số câu lấy ẩm thực để nói đến tình cảm gia đình, tình yêu nam nữ bởi ca
dao là những cặp thơ lục bát mang tính trữ tình, trong khi, tục ngữ là thể loại khái
quát với hình thức cô đọng, tính triết lý cao vì thế nó được thể hiện ra bằng các
câu nhiều nghĩa, đa nghĩa. Mỗi thể loại dù mang những đặc trưng riêng nhưng
đều có điểm chung là cách sử dụng ngôn ngữ rất gần gũi với lời ăn, tiếng nói

92
hàng ngày của nhân dân ta. Vì thế nó dễ nhớ, dễ truyền trong đời sống văn hóa
của người dân Việt Nam.
3.3. Hình ảnh
Phản ánh văn hóa ẩm thực qua ca dao, tục ngữ ngoài việc sử dụng ngôn
ngữ, lối nói trực tiếp, gián tiếp thì cách sử dụng hình ảnh cũng rất quan trọng.
Trong Thi pháp ca dao, nhà nghiên cứu Nguyễn Xuân Kính có khảo sát một số
biểu tượng như cây trúc, cây mai, hoa nhài, con cò…trong ca dao và trong văn
học viết. Tác giả cho rằng, việc phân tích một số biểu tượng trong thế giới thực
vật, không ít trường hợp tuy cùng viết về một biểu tượng nhưng hai dòng thơ dân
gian và bác học đã miêu tả khác nhau, cấp cho nó những ý nghĩa khác nhau.
[27.tr.350].
Nếu như biểu trưng của tục ngữ thiên về diễn đạt các phán đoán logic, các
thao tác suy lí thì ca dao thiên về phản ánh bức tranh đời sống xã hội, biểu đạt tư
tưởng, tình cảm con người. Ngay cả khi dùng chất liệu tạo hình giống nhau, biểu
trưng của chúng cũng không tương đồng. Ngoài ra, nếu như ở ca dao, yếu tố tạo
hình biểu cảm giữ vai trò chủ đạo thì ở tục ngữ, chất liệu này có chức năng biểu
trưng cho một triết lý nào đó. Ca dao, tục ngữ phản ánh về văn hóa ẩm thực, hình
ảnh biểu trưng cũng mang những nét rất riêng và độc đáo.
Phản ánh về ẩm thực, đa phần tục ngữ sử dụng những hình ảnh đặc trưng,
quen thuộc gắn liền với đời sống thường ngày của người dân Việt Nam, đặc biệt
là người nông dân. Những hình ảnh gần gũi, quen thuộc, dễ nhớ trong đời sống
như cơm, rau, canh, cà, thịt…cũng đều thấy xuất hiện trong các bài ca dao, tục
ngữ.
Tục ngữ là lời ăn tiếng nói được sử dụng trong đời sống hàng ngày, nên những
hình ảnh được phản ánh trong ẩm thực thường rất chân thực, giản dị như Miếng trầu
là đầu câu chuyện, Răng đen vì thuốc, rượu nồng vì men hay Ăn ít no lâu, đào sâu
nhọc lấp, Ăn nhỏ nhẻ như mèo, Ăn như con tằm lại rút ruột ra, Ăn như hà bá đánh
vực…. Đó còn là những đặc sản ở các vùng miền, là kinh nghiệm chế biến món ăn
hay đơn giản là nỗi niềm mong muốn được trở về quê sau bao ngày xa cách để được
thưởng thức những món ăn dân dã:

93
-Biên Hòa có bưởi Thanh Trà
Thủ Đức nem nướng, Điện Bà Tây Ninh
-Bún ngon bún mát Tứ Kì
Pháp Vân cua ốc đồn thì chẳng ngoa
-Chiều chiều lại nhớ chiều chiều
Nhớ nồi cơm nguội, nhớ niêu nước chè
Ngồi buồn nhớ cá trích ve
Nhớ bát nước dừa, nhớ chén đường non
Nhớ hồi cá trích y con
Thịt heo cắt khúc, lòng còn ước mơ.
Trong số các hình ảnh xuất hiện nhiều trong ca dao tục ngữ khi phản ánh
về ẩm thực thì hình ảnh “cơm”, “thóc”, “lúa”, “gạo” xuất hiện nhiều nhất. Khảo
sát trong tổng số 1627 câu tục ngữ phản ánh về ẩm thực có tới 119 câu tục ngữ
bắt đầu bằng từ “cơm”. Đặc biệt trong phần đặc sản địa phương, loại lương thực
này đã được tục ngữ phản ánh với tần suất 37 lần.Trong khi đó, ở ca dao, thóc lúa
gạo cũng được đề cập 28 lần, chỉ đứng sau cá.
Trong các câu tục ngữ viết về ẩm thực, hình ảnh “cơm”, “canh” xuất hiện
nhiều lần không chỉ mang nghĩa đen mà còn có ý nghĩa biểu trưng cho mối quan
hệ, ứng xử giữa vợ chồng. Đó là sự hòa thuận, yêu thương nhau: Cơm lành, canh
ngọt, Chồng giận thì vợ bớt lời, cơm sôi nhỏ lửa, mấy đời cơm khê hay Cơm
trắng ăn với chả chim, chồng đẹp vợ đẹp những nhìn mà no… Vẫn với hai hình
ảnh “cơm”, “canh” nhưng trong tục ngữ nó còn mang nghĩa biểu trưng cho triết
lý ứng xử trong mối quan hệ vợ chồng: Cơm chẳng lành, canh chẳng ngon, chín
đụn mười con cũng lìa.
Trong ca dao, hai hình ảnh này còn nhằm biểu đạt nội dung tình cảm:
Anh nói em cũng nghe anh
Bát cơm đã trót chan canh mất rồi
Nuốt đi đắng lắm anh ơi
Bỏ ra thì để tội trời ai mang

94
Bài ca dao là tiếng lòng của người phụ nữ luôn thương nhớ mối tình xưa
không thành và phải sống chán chường trong cuộc hôn nhân không tình yêu.
Cũng vì thế, bài ca dao trở thành một lời kêu ai oan của người phụ nữ hồng nhan
mà bạc mệnh, bộc lộ sự đồng cảm sâu sắc của người đọc.
Do có trường độ dài hơn tục ngữ nên ca dao có ưu thế hơn trong việc xây
dựng hình ảnh, biểu tượng và sử dụng nhiều biện pháp tu từ để tạo sự liên tưởng,
lối nói ý nhị, sâu xa. Vì vậy, khi thể hiện về cuộc sống, văn hóa của người lao
động có phần phong phú, sinh động và hấp dẫn hơn so với tục ngữ:
-Muốn ăn cơm trắng, chả, giò
Thì về bến Cốc đẩy xe bò với anh.
- Làm người ăn tối lo mai
Việc mình hồ dễ để ai lo lường
Cách nhận xét, đánh giá, đúc rút kinh nghiệm cũng như phê phán những
thói hư tật xấu từ việc ăn uống qua tục ngữ cũng rất đơn giản, cô đọng và súc
tích: Khen nết hay làm ai khen nết hay ăn, Khéo ăn thì no, khéo co thì ấm, Đừng
ăn cây táo mà rào cây sung, Ăn bát cơm dẻo, nhớ nẻo đường đi…
Như vậy,trong cả hai thể loại ca dao, tục ngữ phản ánh văn hóa ẩm thực
chúng ta thấy hình ảnh đều rất chân thực, quen thuộc, gần gũi với đời sống nhân
dân. Tuy nhiên, nếu như ca dao sử dụng các hình ảnh mang tính biểu tượng với
lối nói trữ tình, sâu xa thì tục ngữ lại sử dụng những hình ảnh biểu trưng có tính
“gọn chắc”. Đây là đặc điểm thể hiện sự khác biệt của hai thể loại đồng thời là
cách để nhận biết hai thể loại khi phản ánh về ẩm thực.
3.4. Kết cấu
Các dạng kết cấu thể hiện nội dung của ca dao, tục ngữ khi phản ánh ẩm
thực đã cho thấy nét đặc trưng nổi bật của hai thể loại. Tác giả Nguyễn Xuân
Kính trong cuốn Thi pháp ca dao đã đề cập đến cấu trúc cú pháp của ca dao,
theo quan điểm ngữ pháp chức năng. Xem xét chức năng phản ánh phán đoán
của ca dao, tác giả đã chỉ ra vai trò của các phán đoán và các dạng mô hình của nó
chủ yếu thông qua cách kết hợp khác nhau để tạo ra lời. Từ việc chỉ ra sự sắp xếp, tổ
chức các phán đoán, ông đã đưa ra nhận xét về kết cấu của ca dao, đặc biệt nhất phải

95
kể đến chức năng của từng thành tố (ngữ đoạn) được kết hợp bằng các phương tiện
để tạo thành lời ca dao.
Thứ nhất là kết cấu một vế đơn giản. Ở dạng này, nội dung của lời là một ý
lớn do các phán đoán tạo thành. Trong ví dụ sau, tất cả các phán đoán đều hướng
vào chủ đề ca ngợi cảnh đẹp, đặc sản của con người huyện Thanh Trì (Hà Nội):
Thanh Trì có bánh cuốn ngon
Có gò Ngũ Nhạc có con sông Hồng
Thanh Trì cảnh đẹp người đông
Có cây sáo trúc bên đồng lúa xanh
Tương tự là câu ca dao sau phản ánh về sự sung túc, phong phú của một
địa phương khi có nhiều loại đặc sản.
Làng Quang, dưa vải khắp đồng
Ngô khoai khắp ruộng, nhãn lồng xóm Văn
Ngoài ra, cũng có trường hợp có hai dòng thơ nhưng chúng ta đã có tới
bốn thông tin về các đặc sản của tỉnh Phú Thọ:
Bưởi Chí Đám, quít Đan Hà
Cà phê Phú Hộ, đồi trà Thái Ninh
Thường những lời được tổ chức theo dạng này ít nhất phải có một phán
đoán (xét về mặt logic) và hai dòng thơ (xét về mặc tự thể hiện). [27;tr.279]
Thứ hai là kết cấu một vế có phần vần. Ở dạng kết cấu này thường có hai
phần rõ rệt. Trong phần đầu tác giả dân gian miêu tả ngoại cảnh, những đặc điểm
bề ngoài của sự vật, sự việc muốn nói tới. Các nhà nghiên cứu thường gọi phần
này là phần gợi hứng và phần sau là phần chính của lời.
Vạn Vân có bến Thổ Hà
Vạn Vân nấu rượu, Thổ Hà nung vôi
Nghĩ rằng đá nát thì thôi
Ngờ đâu đá nát nung vôi lại nồng
Đôi người nói chưa có chồng
Để tôi mua cốm, mua hồng sang chơi
Bây giờ người lấy chồng rồi

96
Để cốm mốc, để hồng long tai
Nghĩ rằng long một long hai
Ai ngờ long cả một trăm hai mươi quả hồng
Sao người nói chửa có chồng
Trong bài ca dao trên, với phần chính từ câu đầu đến Ngờ đâu đá nát nung
vôi lại nồng là phần gợi hứng, tác giả dân gian muốn mượn ngoại cảnh của làng
nấu rượu Vạn Vân, làng gốm Thổ Hà để nói tới chuyện lỡ duyên trong tình cảm
của chàng trai ở phần sau. Với dạng kết cấu một vế có phần vần đã càng khiến
cho câu chuyện tình duyên của chàng trai thêm buồn thương.
Đôi khi giữa hai phần miêu tả thiên nhiên và phần nội dung chính chỉ có
mối liên hệ về mặt ngữ âm hay về mặt vần thuần túy.
Trên trời có đám mây xanh
Ở giữa mây trắng, chung quanh mây vàng
Ước gì anh lấy được nàng
Để anh mua gạch Bát Tràng về xây
Xây dọc anh lại xây ngang
Xây hồ bán nguyệt cho nàng rửa chân
Nhà nghiên cứu văn học dân gian Chu Xuân Diên đã giải thích bằng chính
đặc điểm của quá trình sáng tạo ca dao, dân ca. Trong các cuộc hát đối đáp lại
đối phương, người hát vừa cần phải suy nghĩ để tìm ra nội dung cho sát, lại cần
phải hát cho nhanh vì thế những từ ngữ, những câu miêu tả thiên nhiên như như
mây xanh, mây vàng…chỉ có tác dụng đưa đẩy, bắt vần.[27; tr.281]
Thứ ba là dạng kết cấu hai vế đối lập. Ở đó, ta thấy lời có thể gồm hai ý lớn
hoặc hai hiện tượng, hai sự việc, hai tính chất hay hai ý kiến đối lập nhau. Khảo
sát dựa trên số lượng ca dao phản ánh ẩm thực cũng đã có hàng loạt câu về kinh
nghiệm ăn uống sử dụng dạng kết cấu này:
1. Thà ăn bắp hột chà vôi
Còn hơn giàu có bồ côi một mình
2. Thà ăn bát cơm rau
Còn hơn cá thịt, nói nhau nặng lời

97
3. Thà ăn nửa quả hồng
Còn hơn ăn cả chùm sung chát lè
Việc sử dụng kết cấu đối lập nhằm nhấn mạnh vào sự lựa chọn cũng là
cách khẳng định và chỉ ra những kinh nghiệm ăn uống tốt, có lợi cho con người.
Kết cấu gồm nhiều ý nối tiếp nhau là dạng thứ tư mà ca dao phản ánh về
ẩm thực đã sử dụng. Nội dung của kết cấu này thường lời gồm nhiều ý nối tiếp
nhau. Một loại là những câu hát bâng quơ ở giữa các ý và không có mối liên hệ
mạch lạc mà. Loại thứ hai thì giữa các vế không chỉ gắn bó về vần mà còn được
liên hệ chặt chẽ về nội dung. Khảo sát ca dao về ẩm thực, có khá nhiều bài có kết
cấu theo kiểu kết cấu này:
Muốn ăn cơm ngon
Đi cày ruộng tốt
Muốn ăn canh ngọt
Lấy chú đi câu
Muốn ăn canh bầu
Lấy chồng Yên Thượng
Với kết cấu này, bài ca dao là kinh nghiệm hay trong việc lựa chọn, tìm
kiếm những thức ăn ngon.
Cuối cùng là dạng kết cấu hai vế tương hợp. Đây là dạng thường xuất hiện
trong hát đối đáp. Nội dung gồm hai ý lớn ở thế tương hợp. Ví như trong bài ca
dao sau:
Nghe anh đi đó đi đây, em hỏi nhỏ câu này
Bánh phồng, bánh tráng đất này đâu ngon
Bánh tráng Mĩ Lồng, bánh phồng Sơn Đốc, măng cụt Hàm Luông.
Vỏ ngoài nâu, trong trắng tợ bông gòn
Anh nói đây nói thiệt, sao em còn so đo?
Mượn cuộc trò chuyện giữa chàng trai và cô gái, tác giả dân gian muốn nói
tới kinh nghiệm trong việc chọn thực phẩm. Chàng trai giải đáp thắc mắc của cô
gái nhưng cũng không quên khẳng định Bánh tráng Mĩ Lồng, bánh phồng Sơn

98
Đốc, măng cụt Hàm Luông là những đặc sản ngon không cần phải đắn đo khi
quyết định lựa chọn.
Có thể thấy, mỗi một lời thuộc dạng kết cấu này gồm hai vế, vế trên có thể được
tách ra trong quá trình lưu truyền. Khi đó, vế trên được coi như là một lời khác biệt vì
nội dung của nó đã có thể diễn đạt trọn vẹn một điều mà người hát mong muốn. Lúc
này, vế trên là một lời riêng biệt, người ta gọi dạng này thuộc loại kết cấu mở.
Nếu như ca dao sử dụng tới 5 kiểu kết cấu chính thì tục ngữ phản ánh về ẩm
thực sử dụng hai dạng kết cấu là kết cấu bằng một câu có một vế hoặc kết cấu có
nhiều vế. Trong đó dạng kết cấu một vế chiếm số lượng không nhỏ:
-Cảnh cau rau khoai
-Bánh đúc bày sang
-Ăn cá bỏ vây
-Ăn mít bỏ xơ
-Ăn ngay nói thật
Những kinh nghiệm trong việc chế biến, bảo quản và cách ăn uống đều
được diễn tả qua kết cấu một vế ngắn gọn, cô đọng, súc tích khiến người đọc dễ
dàng có thể tiếp thu để áp dụng trong cuộc sống.
Dạng kết cấu chiếm từ hai vế trở nên xuất hiện trong hàng loạt trong các câu
tục ngữ phản ánh về đặc sản địa phương, các kinh nghiệm, quan niệm, ứng xử
trong ăn uống như trong các ví dụ sau:
Dưa La, cà Láng, cải Báng, tương Bần.
Ăn ngay nói thật, mọi tật mọi lành
Cá ngon là cá Cù Mông, gạo ngon là gạo ở đồng Phú Dương
Ăn bốc quen tay ngủ ngày quen mắt
Các câu tục ngữ có từ hai vế trở lên thường có cấu trúc đối xứng với sự xuất
hiện của vần cách Ăn ngay nói thật, mọi tật mọi lành; vần sát Ăn cây nào, rào
cây ấy; vần cách một tiếng Ăn cơm trả gạo, ăn cháo trả tiền; vần cách hai tiếng
Ăn không thì hóc, chẳng xay thóc phải ẵm em, vần cách ba tiếng Có cơm thì vạn
người hầu, có bấc có dầu thì vạn người khêu. Nhờ cách tạo vần này đã tạo ra sự
nhịp nhàng, uyển chuyển trong mỗi câu tục ngữ.

99
Tiểu kết
Mặc dù có các hình thức kết cấu khác nhau nhưng cả ca dao và tục ngữ
phản ánh về ẩm thực đều có cách thể hiện phong phú, sinh động đem tới những
kinh nghiệm, đặc sản, quan niệm và các phong tục tập quán về đời sống ẩm thực
một cách chân thực và giàu ý nghĩa. Qua cách thức truyền tải ngắn gọn, dễ nhớ,
dễ hiểu đã giúp kho kinh nghiệm quý giá này còn có ý nghĩa trường tồn đến các
thể hệ mai sau.

100
KẾT LUẬN
Ca dao, tục ngữ cổ truyền phản ánh về văn hóa ẩm thực chiếm vị trí quan
trọng trong kho tàng văn học dân gian của người Việt. Đó là bức tranh phong phú
và đa dạng về đời sống ẩm thực trên khắp ba miền Bắc – Trung –Nam. Ca dao,
tục ngữ phản ánh về văn hóa ẩm thực là kho kinh nghiệm truyền dạy, khuyên răn
con người những nhu cầu thiết yếu nhất trong đời sống ẩm thực hàng ngày. Ở đó
là các sản vật tinh hoa của thiên nhiên đất trời qua bàn tay tài hoa, khéo léo của
con người đã tạo ra những món ăn hấp dẫn. Đó còn là những kinh nghiệm quý
báu trong việc lựa chọn và chế biến lương thực thực phẩm, những quan niệm,
ứng xử trong ăn uống. Thông qua những câu ca dao về ẩm thực giúp mỗi người
hiểu biết hơn về phong tục tập quán ăn uống của dân tộc đã có từ ngàn đời. Đặc
biệt, trong đó tục ngữ về ẩm thực có một thế mạnh lớn trong việc đúc kết những
kinh nghiệm, những tri thức để nói tới những triết lý, quan niệm, lối sống, lối ứng
xử của con người với con người và con người với môi trường.
Cùng phản ánh về văn hóa ẩm thực, tuy nhiên, cả ca dao và tục ngữ lại có
các phương thức thể hiện khác nhau. Nếu như tục ngữ là những câu nói súc tích,
ngắn gọn cô đọng thường có vần và nhịp thì ca dao lại có kết cấu là một hay
nhiều cặp lục bát, sử dụng các biện pháp tu từ và thiên về tình cảm để phản ánh
các vấn đề ẩm thực. Mặc dù mang những nét đặc trưng của mỗi thể loại, nhưng
cả ca dao và tục ngữ đã góp phần phản ánh các vấn đề ẩm thực một cách tinh tế,
cô đọng, dễ nhớ dễ truyền.
Ca dao, tục ngữ phản ánh các vấn đề về ẩm thực còn được xem là nội dung
quan trọng trong văn hóa ẩm thực người Việt. Cả hai bộ phận này đều tập chung
phản ánh các sản vật, đặc sản ở các địa phương, kinh nghiệm lựa chọn lương
thực, thực phẩm, những quan niệm, triết lý, ứng xử, những phong tục tập quán
trong ăn uống. Tuy nhiên, ca dao và tục ngữ cũng thể hiện những điểm khác biệt,
trong đó số lượng của tục ngữ gấp 5 lần so với ca dao khi cùng phản ánh các vấn
đề ẩm thực như đặc sản địa phương, kinh nghiệm lựa chọn lương thực thực
phẩm, quan niệm, triết lý về ăn uống. Có sự chênh lệch này là bởi lâu nay, tục
ngữ là những lời ăn tiếng nói hàng ngày của nhân dân lao động đồng thời cũng

101
được xem là túi khôn dân gian phản ánh các kinh nghiệm trong đời sống. Với
tính chất ngắn ngọn, dễ nhớ, dễ thuộc nên tục ngữ dễ dàng đi sâu vào đời sống
văn hóa ẩm thực của người dân. Trong khi, ca dao với thể thơ lục bát mang màu
sắc trữ tình cùng cách ví von, ẩn dụ.
Trong văn hóa ẩm thực, ca dao tục ngữ đã phản ánh một cách toàn diện,
đa dạng và phong phú các vấn đề ẩm thực. Nhờ bộ phận ca dao, tục ngữ này mà
kho tri thức quý báu của dân gian đã được lưu truyền và tồn tại cho đến ngày
hôm nay. Hơn nữa, những vấn đề văn hóa ẩm thực được thể hiện qua ca dao, tục
ngữ đã làm tăng thêm giá trị cho văn hóa ẩm thực người Việt đồng thời văn hóa
ẩm thực cũng khẳng định những giá trị to lớn mà ca dao tục ngữ đem lại.
Như vậy, với cách biểu đạt, thể hiện nội dung có phần khác nhau toàn bộ
tri thức của ca dao tục ngữ truyền thống đã bao quát được phần nào đời sống ẩm
thực của văn hóa dân tộc Việt từ xưa đến trước năm 1945 - một bức tranh văn
hóa ẩm thực vô cùng phong phú. Đến nay, dù cho cuộc sống có nhiều đổi thay
nhưng những giá trị trong văn hóa ẩm thực người Việt trong đó có bộ phận ca
dao tục ngữ phản ánh ẩm thực vẫn còn nguyên ý nghĩa. Nhờ có bộ phận văn hóa
ẩm thực này đã góp phần tạo nên đời sống văn hóa Việt Nam thêm đa dạng,
phong phú và mang đậm đà bản sắc dân tộc.

102
TÀI LIỆU THAM KHẢO
Sách, báo, tạp chí

1. Nguyễn Thúy Anh (2008), Thế ứng xử xã hội cổ truyền của người Việt qua
một số ca dao – tục ngữ, NXB ĐHQG. H.

2. Toan Ánh (2000) Văn hóa ẩm thực và món ăn Việt Nam, NXB Trẻ, Tp HCM
3. Lại Nguyên Ân chủ biên (2005 ), Từ điển văn học Việt Nam( in lần 5), Nxb
Giáo dục, Hà Nội.
4. Phan Kế Bính ( 1990 ), Việt Nam phong tục, Nxb Tổng hợp Đồng Tháp
5. Nguyễn Thị Bảy (2010), Ẩm thực dân gian Hà Nội, NXB Chính trị quốc gia.
6. Nguyễn Thị Bảy – Phạm Lan Anh (2014), Văn hóa ẩm thực qua tục ngữ
người Việt, NXB Chính trị quốc gia, H.
7. Nguyễn Thị Bảy (2010), Quà Hà Nội, NXB Văn hóa Thông tin, H.
8. Vũ Bằng (2014), Miếng ngon Hà Nội,NXB Hội nhà văn, H.
9. Lý Khắc Cung (2000): Hà Nội văn hóa và phong tục, NXB Thanh niên, H.
10. Huỳnh Thị Dung, Nguyễn Thu Hà, Nguyễn Thị Huế (2001), Từ điển văn
hóa ẩm thực việt nam, NXB Văn hóa thông tin.
11. Nguyễn Nghĩa Dân, Văn hoá ẩm thực trong tục ngữ ca dao Việt Nam, NXB
Lao động, 2011.
12. Chu Xuân Diên, Lƣơng Văn Đang, Phƣơng Tri (1993), Tục ngữ Việt
Nam, tái bản, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội .
13. Cao Huy Đỉnh ( 1974 ), Tìm hiểu tiến trình văn học dân gian Việt Nam, Nxb
Khoa học xã hội, Hà Nội .
14. Lê Bá Hán, Trần Đình Sử, Nguyễn Khắc Phi (1997 ), Từ điển thuật ngữ
văn học, tái bản, Nxb Đại học quốc gia Hà Nội, Hà Nội.
15. Đỗ Thị Hảo (chủ biên) (2010), Ẩm thực Thăng Long Hà Nội, NXB Phụ nữ
16. Hoàng Văn Hành chủ biên ( 1988 ), Kể chuyện thành ngữ tục ngữ, Nxb
Khoa học xã hội, Hà Nội .
17. Hoàng Văn Hành chủ biên ( 1988 ), Từ điển tục ngữ, thành ngữ , Nxb Khoa
học xã hội, Hà Nội.

103
18. Hoàng Văn Hành chủ biên (2008), Thành ngữ học Tiếng Việt, Nxb Khoa
học xã hội, Hà Nội.
19. Xuân Huy (2000), Văn hóa ẩm thực và các món ăn Việt Nam, NXB Trẻ, TP
HCM.
20. Nguyễn Việt Hƣơng (2006), Văn hoá ẩm thực và trang phục truyền thống
của người Việt, Nxb Đại học Quốc gia, H.
21. Nguyễn Việt Hƣơng (2002), Mấy ý kiến về vấn đề thể loại tục ngữ, Tạp chí
Khoa học ĐHQG.
22. Phan Văn Hoàn, (2006), Bước đầu tìm hiểu văn hóa ẩm thực Việt Nam,
NXB Khoa học xã hội, H.
23. Nguyễn Hải Kế (2004), Một số vấn đề về văn hoá ăn, uống trong xã hội cổ
truyền người Việt, Đề tài nghiên cứu khoa học cơ bản, trường
ĐHKHXH&NV.
24. Nguyễn Xuân Kính, Phan Đăng Nhật (chủ biên), Kho tàng ca dao người
Việt, (3 tập), Nxb Văn hoá Thông tin, H. 1995.
25. Nguyễn Xuân Kính (2002), Kho tàng tục ngữ người Việt, (2 tập), Nxb Văn
hoá Thông tin, H.
26. Nguyễn Xuân Kính (2012), Mọi nhận thức về Văn học dân gian Việt Nam,
NXB ĐHQG HN.
27. Nguyễn Xuân Kính ( 1992 ), Thi pháp ca dao, Nxb Khoa học xã hội, Hà
Nội
28. Nguyễn Xuân Kính, Phan Hồng Sơn ( 1995 ), Tục ngữ Việt Nam, Nxb Văn
hoá, Hà Nội .
29. Đinh Gia Khánh chủ biên, (2003), Văn học dân gian Việt Nam, Nxb Giáo
dục.
30. Đinh Gia Khánh ( 1989 ), Trên đường tìm hiểu văn hoá dân gian, Nxb Khoa
học xã hội, Hà Nội .
31. Đinh Gia Khánh ( 1993 ), Văn hoá dân gian Việt Nam trong bối cảnh văn
hoá Đông Nam A, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội .

104
32. Đinh Gia Khánh ( 1995 ), Văn hoá dân gian Việt Nam với sự phát triển của
xã hội Việt Nam, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội .
33. Đinh Gia Khánh, Chu Xuân Diên ( 1972- 1973 ), Văn học dân gian (2 tập ),
Nxb Đại học và Trung học chuyên nghiệp, Hà Nội .
34. Đinh Gia Khánh (chủ biên) (2008), Địa chí văn hoá Thăng Long - Đông
Đô, Hà Nội, Sở Văn hoá Thông tin Hà Nội.
35. Vũ Ngọc Khánh, Hoàng Khôi, (2012), Ăn và uống của người Việt, NXB Hà
Nội.
36. Vũ Ngọc Khánh (2002), Văn hóa ẩm thực Việt Nam, NXB Lao động
37. Mã Giang Lân tuyển chọn và giới thiệu ( 1994 ), Tục ngữ ca dao Việt Nam,
Nxb Giáo dục, Hà Nội .
38. Nguyễn Lân ( 1997 ), Từ điển thành ngữ và tục ngữ Việt Nam, Nxb Khoa
học xã hội, Hà Nội .
39. Nguyễn Quang Lê (2003), Văn hoá ẩm thực trong lễ hội truyền thống Việt
Nam, Nxb Văn hoá thông tin.
40. Phạm Quang Long, Bùi Việt Thắng Tuyển chọn và giới thiệu (2010),
Tuyển tập tác phẩm về Văn hoá ẩm thực Thăng Long – Hà Nội, Nxb Hà Nội.
41. Nguyễn Thúy Loan (2010), Tục ngữ ca dao dân ca Hà Nội, NXB Hà Nội.
42. Phƣơng Linh, (1992), Món ăn Việt Nam sổ tay nội trợ, NXB TP HCM,
43. Bùi Việt Mỹ, Trƣơng Sỹ Hùng (1999), Văn hoá ẩm thực Hà Nội, Nhà xuất
bản Lao động, H.
44. Hoàng Kim Ngọc (2009), So sánh và ẩn dụ trong ca dao trữ tình, NXB
Khoa học xã hội, H.
45. Bùi Văn Nguyên. Hà Minh Đức (2013), Thơ ca Việt Nam hình thức và thể
loại, NXB ĐHQG, H,
46. Nhiều tác giả (2001), Văn hoá ẩm thực Việt Nam, Nxb Thanh niên, 2001.
47. Nhiều tác giả ( 1990 ), Văn hoá dân gian- Những phương pháp nghiên cứu,
Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội .

105
48. Vũ Ngọc Phan ( 1971 ), Tục ngữ ca dao dân ca Việt Nam, Nxb Khoa học xã
hội, Hà Nội .
49. Vũ Ngọc Phan, Tạ Phong Châu, Phạm Ngọc Hy ( 1972 ), Hợp tuyển văn
học Việt Nam (Tập 1)-Văn học dân gian , Nxb Văn học, Hà Nội.
50. Hoàng Phê, (1988), Từ điển Tiếng Việt, NXB Khoa học xã hội, H.
51. Lê Chí Quế, Võ Quang Nhơn, Nguyễn Hùng Vĩ ( 2004 ), Văn học dân gian
Việt Nam, Hà Nội .
52. Vũ Tiến Quỳnh biên soạn ( 1995 ), Ca dao tục ngữ, Nxb Văn nghệ Thành
phố Hồ Chí Minh.
53. Băng Sơn (2005), Thú ăn chơi người Hà Nội, NXB Văn hóa Thông tin
54. Trần Ngọc Thêm ( 1998 ), Cơ sở Văn hoá Việt Nam, Nxb Giáo dục, Hà Nội .
55. Ngô Đức Thịnh (2010), Khám phá ẩm thực truyền thống Việt Nam, NXB trẻ,
2010.
56. Nguyễn Văn Thông (2012), “Tìm hiểu văn hóa ứng xử của người Việt qua
ca dao, tục ngữ”, Tạp chí khoa học Đại học Quốc gia,.
57. Đỗ Bình Trị (1991 ), Văn học dân gian Việt Nam ( Tập 1 ), Nxb Giáo dục,
Hà Nội .
58. Đỗ Bình Trị (1999 ), Những đặc điểm thi pháp của các thể loại văn học dân
gian , Nxb Giáo dục, Hà Nội .
59. Đỗ Bình Trị, Bùi Văn Nguyên ( 1971 ), Thơ ca dân gian Việt Nam, Nxb
Giáo dục, Hà Nội
60. Hoàng Trinh (1990), "Tục ngữ Việt Nam và các hình thể ngôn từ ", Tạp chí
văn học.
61. Hoàng Tiến Tựu (1990 ), Văn học dân gian Việt Nam ( Tập 2 ), Nxb Giáo
dục, Hà Nội .
62. Trần Quốc Vƣợng chủ biên ( 1997 ), Cơ sở văn hoá Việt Nam, Nxb Giáo
dục, Hà Nội.
63. Trần Quốc Vƣợng, Nguyễn Thị Bẩy (2010), Văn hóa ẩm thực Việt Nam
nhìn từ lý luận và thực tiễn, NXB Từ điển bách khoa & Viện Văn hóa, H.

106
64. Trần Quốc Vƣợng (chủ biên) (1996), Văn hóa đại cương và cơ sở văn hóa
Việt Nam, NXB KHXH, H.
65. Trần Quốc Vƣợng, (2001), Văn hóa Việt Nam tìm tòi và suy ngẫm, NXB
HN.
Khóa luận, luận án:
66. Nguyễn Thị Bảy, Văn hóa ẩm thực dân gian Hà Nội, Luận án tiến sĩ ngành
văn hóa học.
67. Nguyễn Việt Hƣơng (2001), Tục ngữ Việt Nam: Bản chất thể loại qua hệ
thống phân loại, Trường Đại học KHXH&NV Hà Nội.
68. Nguyễn Thị Hà (2007) Ẩm thực trong kho tàng tục ngữ người Việt, Khoá luận
tốt nghiệp, ngành Văn học, Trường Đại học KHXH& NV Hà Nội.

107
PHỤ LỤC
Các sản vật, đặc sản địa phƣơng trong ca dao, tục ngữ truyền thống
CA DAO
1. Ai mua bánh ít bán cho
Nhưn tôm, nhưn thịt, nhưn dừa thơm ngon
2. Ai qua phố Nhổn, phố Lai
Dừng chân ăn miếng chả đài thơm ngon
Ngọt thay cái quả cam tròn
Vừa thơm vừa mát hãy còn ở Canh.
3. Ai về Hà Tĩnh thì về
Mặc lụa chợ Hạ, uống nước chè Hương Sơn
4. Ai về nhớ vải Định Hòa
Nhớ cau Hổ Bái, nhớ cà Đan Nê
Nhớ dừa Quảng Hán, Lựu Khê
Nhớ cơm chợ Bản, thịt dê Quán Lào
5. Ai về Nhượng Bạn thì về
Gạo nhiều, cá lắm, dễ bề làm ăn.
6. Ai về Tân Phước, Rạch Già
Gửi con cá lóc hái cà nấu canh
7. Ai về Tuy Phước ăn nem
Ghé qua Hưng Thạnh mà xem Tháp Chàm. (Tiền Giang)
8. Ai vô Quảng Nam cho tôi gửi mua đôi ba lượng quế
Ai ra ngoài Nghệ cho tôi gửi mua tám chín lượng sâm.
Đem về nuôi dưỡng phụ thân
Hai ta đền đáp công ơn sinh thành
9. Ai đi đóng đáy Bảy Ngang
Ghé qua Láng Lộc để nàng lượm tôm
10. Anh về Bình Định ban trưa
Dừng chân uống bát nước dừa Tam Quan
11. Anh về dưới vạn ăn dưa
Về chi Bến Chụt ăn dừa mỏi răng
12. Anh về Hòa Đại hái chè
Bỏ cây cam mật sau hè ai trông
Anh về Bình Định thăm nhà
Tháng hai trở lại, tháng ba cưới nàng
Cưới nàng đôi nón Gò Găng
Xấp lãnh An Thái, một khăn trầu nguồn
13. Anh về qua cửa Đề Gi
Nghe mùi chả cá chân đi không đành
14. Ẵm em đi dạo vườn cà
Trái non ăn mắm, trái già giầm dưa
Ngâm dưa ba bữa dưa chua
Gởi về cho mẹ đừng mua uổng tiền
15. Ăn bưởi thì hãy đến đây
Đến mùa bưởi chín vàng cây trĩu cành
16. Ba phen quạ nói với diều
Cù lao ông Chưởng có nhiều cá tôm
17. Ăn bưởi thì hãy đến đây
Đến mùa bưởi chín vàng cây trĩu cành
Ngọt hơn quýt mật, cam sành
Biên Hòa có bưởi trú danh tiếng đồn
18. Ăn chả tôm bạc thịt nạc đố bằng
Cá Hanh nấu ám, cá Rằn nướng khô
Tôm Cơ lột, tôm Rằn bấy
Trông thấy đã ngon
Kho tiêu cá Thệ thì còn nói chi
Ăn vào một miếng mê li
Người già thích hợp, sánh chi cho bằng
19. Bánh canh cọng vắn cọng dài
Bánh tầm xe cọng dài, cọng vắn
Xứ Cần Thơ gạo trắng nước trong
Ai về xứ bạc thong dong cuộc đời.
20. Bánh đúc làng Go
Chè xanh làng Núi
Tằm tơ làng Hồng
Làng Vạc trồng bông buôn buông
21. Bánh tráng Mĩ Lồng
Bánh phồng Sơn Đốc
Măng cụt Hàm Luông
Vỏ ngoài nâu, trong trắng như bông gòn
Anh đây nói thiệt sao em còn so đo?
22. Bao giờ làng Khả hết lang
Ông phủ hết bạc, nhà quan hết tiền
23. Bến Tre giàu mía Mỏ Cày
Giàu nghêu Thạch Phú, giàu xoài Cái Mơn
Bếm Tre biển cá, sông tôm
Ba Tri muối mặn, Giồng Trôm lúa vàng
24. Bến Tre nước ngọt lắm dừa
Ruộng vườn màu mỡ, biển thừa cá tôm
Sầu riêng, măng cụt Cái Mơn
Nghêu sò Công Lợi, thuốc ngon Mỏ Cày
Xoài chua, cam ngọt Ba Lai
Bắp thì Chợ Giữa, giồng khoai Mĩ Hòa
Mắm bần ven bãi phù sa
Bà Hiền, Tân Thủy hằng hà cá tôm
Quýt đường, vú sữa ngổn ngang
Dừa xanh Sốc Sãi, tơ vàng Ba Tri
Xẽo Sâu cam tốt ai bì
Lúa vàng Thạch Phú, khoai mì Thạch Phong
Muối khô ở Gảnh mặn nồng
Giồng Trôm, Phong Nẫm đưa đồng giăng giăng.
25. Biên Hòa bưởi chẳng đắng the
Ăn vào ngọt lịm như chè đậu xanh
26. Biên Hòa có bưởi Thanh Trà
Thủ Đức nem nướng, Điện Bà Tây Ninh
27. Bình Định có núi Vọng Phu
Có đầm Thị Nải có cù lao Xanh
Em về Bình Định cùng anh
Được ăn bí đỏ nấu canh nước dừa.
28. Bún ngon bún mát Tứ Kì
Pháp Vân cua ốc đồn thì chẳng ngoa
29. Cá ngon là cá Cù Mông
Gạo ngon là gạo ở đồng Phú Dương
30. Cách sông cách nước thì thương
Cách quê cách quán, nhớ tương Cự Đà
31. Canh chua điên điển cá linh
Ăn chỉ một mình thì chẳng biết ngon.
32. Cần chi cá lóc, cá trê
Thịt chuột, thịt rắn nhậu mê hơn nhiều
33. Chẳng đi nhớ cháo làng Ghề
Nhớ mưa phố Mía nhớ chè Đông Viên
34. Chợ Ba Tri thiếu gì cá biển
Anh thương nàng anh nguyện về đây
35. Chợ Nhàng lắm bún, nhiều phi
Trăm công nghìn việc cũng đi chợ Nhàng
36. Chừng nào Chợ Quán hết vôi
Thủ Thiêm hết gạo em thôi đưa đò
37. Đầm Châu Trúc nước xanh biêng biếc
Gạch cua tôm chỉ xiết mặn nồng
Chình mun nằm sát đáy sông
Sài Gòn, Hà Nội, Hồng Không cũng thèm
38. Đi đâu cũng nhớ Khánh Hòa
Nhớ biển Nha Trang gió mát, nhớ Ninh Hòa nhiều nem
39. Đi đâu mà chẳng biết ta
Ta ở Thủ Đức vốn nhà làm nem.
40. Đi lên Đá Trắng ăn xoài
Muốn ăn tương ngọt Thiên Thai thiếu gì
41. Đi thì mỏi gối trối lề
Không đi thì nhớ cháo chè Đình Hương
42. Đò tôi ở bến sông Dâu
Buôn chè mạn hảo tháng sau mới về
Lênh đênh ba bốn chiếc thuyền kề
Vạn Vân có bến Thổ Hà
Vạn Vân nấu rượu, Thổ Hà nung vôi
Nghĩ rằng đá nát thì thôi
Ai ngờ đá nát nung vôi lại nồng
Chăn đơn gối chiếc lạnh lùng
Nửa thì mình đắp, nửa phòng tình nhân…
43. Vạn Vân có bến Thổ Hà
Vạn Vân nấu rượu, Thổ Hà nung vôi
Nghĩ rằng đá nát thì thôi
Ngờ đâu đá nát nung vôi lại nồng
Đôi người nói chưa có chồng
Để tôi mua cốm, mua hồng sang chơi
Bây giờ người lấy chồng rồi
Để cốm mốc, để hồng long tai
Nghĩ rằng long một long hai
Ai ngờ long cả một trăm hai mươi quả hồng
Sao người nói chửa có chồng
44. Đồn rằng Án Đổ lắm chè
Tống Sơn lắm mía, chợ Nghè lắm khoai
45. Đồn rằng chùa Sỏi lắm Tiên
Bạch Câu lắm cá, Thạch Tuyền lắm quan
46. Đồn rằng kẻ Trọng lắm cau
Kẻ Cát lắm lúa, kẻ Mau lắm tiền
47. Đồn rằng: núi Trạn lắm công
Ao quan lắm cá, đình Trung lắm rồng.
48. Đồng Cống đan rọ, đan sàng
Đang Lại dệt vải, chợ Hàm nhuộm thâm
Trung Lãng thì tráng bánh đa
Ngân cầu bánh bỏng, Hưng La bánh bèo
49. Đồng Lầm có vả nâu non
Có hồ cá rộng, có con sồng bồi.
50. Đức Thọ gạo trắng nước trong
Ai về Đức Thọ thong dong con người
51. Em về dưới chợ Kì Sơn
Mua Tôm, mua cá đền ơn mẹ già
52. Gạo chợ Nguyễn ai đong cho xiết
Gái làng Đoài ai biết cho thông.
53. Gắng công kén hộ cốm Vòng
Kén hồng Bạch Hạc cho lòng ai vui..
54. Gặp cơm Ba Thắc thơm ngon
Chan nước mắm Hòn ăn chẳng muốn thôi.
Mắm Hòn: tên nước mắm Phú Quốc, nổi tiếng thơm ngon.
55. Gò Bồi có nước mắm thơm
Ai đi cũng nhớ cá tôm Gò Bồi.
56. Hết gạo thì có Đồng Nai
Hết củi thì có Tân Sài chở vô.
57. Hôm nay ăn mía Triệu Tường
Đợi mắm Nam Ố, đợi đường Phú Yên.
58. Hỡi cô thắt lưng áo xanh
Có về An Phú với anh thì về
An Phú có ruộng tứ bề
Có ao tắm mát có nghề kẹo nha.
59. Hỡi cô thắt lưng áo xanh
Có về An Phú với anh thì về
An Phú có ruộng tứ bề
Có ao tắm mát có nghề kẹo nha.
Làm nha bán lẻ bán buôn
Bán khắp Hà Nội bán sang Hải Phòng
Bán cho chú khách cửa Đông
Làm ra kẹo lạc, kẹo hồng kẹo tây.
60. Huyện Thanh Trì kia làng Thịnh Liệt
Đồn cá rô đầm Sét là ngon
Bấy lâu cạn nước trơ bùn
Biết rằng phong vị có còn như xưa.
61. Hồ Tĩnh tâm giàu sen bách diệp
Đất Hương Cần ngọt quít, thơm cam
Ai về cầu ngói Thanh Toàn
Đợi đây về với một đoàn cho vui.
62. Khen cho Phù Mĩ có tài
Nấu cơm chén gạo nồi hai cũng đầy
Anh về dưới Vạn ăn dưa
Về chi bên Chụt ăn dừa mỏi răng.
63. Làng Đam bán mắm tôm canh
Làng Họa đan đó, làng Chanh quay guồng
Đồng Phù cấp thúng đi buôn
Đông Trạch bán thịt, làng Om vặn thừng
Tương Trúc thì giỏi buôn sừng
Tự Khoát đan thúng, Vẹt từng làm quang
Làng Đam thì bán mắm tôm
Làng Họa đan đó, làng Om quấn thừng
Tương Trúc làm nghề lược sừng
Tự Khoát đan thúng, Vĩnh Trung làm giành.
64. Làng Quang, dưa vải khắp đồng
Ngô khoai khắp ruộng, nhãn lồng xóm Văn
65. Lụa Nga Khê, đũi Chi Long
Hương nan Nam Xá, trầu không Đại Hoàng.
66. Ngó lên đất đỏ nhiều khoai
Ngó xuống Đồng Xoài nhiều mía nhiều tranh
Ngó về Đồng Cọ lúa xanh
Phú Điền, Phú Cốc, Mỹ Phong cau nhiều.
67. Ngọc Tích đi bán vải con
Thổ Oa gánh đất sơn son nặn nồi
Làng Nhồi đục đá nung vôi
Hương Bào trồng cải cho người ta mua.
68. Ngồi buồn họa mấy cảnh chơi
Ngẫm xem Cổ Điển buôn nồi bán vung
Chạ chiêng nom xuống cánh đồng
Ngày thì thả cá giếc rô rành rành
Nghĩ ra Văn Điển cũng sành
Giò nem, ninh mọc, đủ ngành, nàng ơi !
Nhà ga chính thực là vui
Kẻ ngược Hà Nội, người xuôi phủ Thường
Yên Ngưu đất thực là ương
Kẻ nấu rượu lậu, người sông Thương đó mà
Vĩnh Đăng thì hay đi a
Kẻ Bảo làm nón cho ta mua cùng
Ngọc Hồi đan giỏ khuất tua
Lưu Phái làm mã, người mua cũng nhiều.
69. Nhật Tân đào nở tưng bừng
Làng Quảng bánh mật, bánh chưng dãi đầy
Tây Hồ xách bị cả ngày
Nghi phàm chặt rễ được ngày quan tiền
Yên Phụ buôn trám dưới thuyền
Xuống đò phố Mới bán than quạt trà
Làng Võng bán lợn bán gà
Làng Thụy nấu rượu la cà cả đêm
Làng Hồ làm giấy thực nền
Chợ Bưởi lại có cô Tiên bán hàng
Làng Sài dệt lĩnh quay tơ
Làng Hổ chỉ có xuống hồ quanh năm
70. Nhớ phiên chợ bản anh đi
Thiếu gì heo ỷ thiếu gì bò trâu
Dê tầm thường thì chả thấy đâu
Muốn tìm dê tốt anh phải xuống cầu Mật Sơn
Vịt bầu anh biết đâu hơn
Anh lên Trạc Nhật hỏi, thăm đàn vịt to
Chợ Môi có giống gà cồ
Có con gà chọi cộc lồ, anh cũng mua luôn
Cá mè sông Mực ngon thậm là ngon
Anh vào Nông Cống chuôc trăm con cá mè
Cửa Trào của Vích có tiếng tôm he
Anh ra ngòai bể để mua về cho sang
Lại mau thêm nước mắm Ba Làng
Dưa Gia, cà Hạc lẫn mang dang Thạch Thành
71. .Ổi Quảng Bá, cá Hồ Tây
Hàng Đào tơ lụa làm say lòng người
72. Ở đâu bằng xứ Lung Tràm
Chim kêu như hát bội, cá lội vàng tợ mắm nêm.
73. Ớt cay là ớt Định Công
Nhãn ngon là loại nhãn lồng làng Quang .
74. Quảng Nam nổi tiếng lòn bon
Chà viên Bình Định vừa ngon vừa lành
Chín muồi da vẫn tươi xanh
Mùi thơm cơm nếp, vị thanh đường phèn.
75. Sa Nam trên chợ dưới đò
Bánh đúc hai dãy thịt bò mê thiên
Muốn ăn mà nỏ có tiền
76. Than rằng Hà Đá trồng khoai
Hà Thanh trồng cói, Cầu Hai trồng chè.
77. Thanh trì có bánh cuốn ngon
Có gò Ngũ Nhạc có con sông Hồng
Thanh Trì cảnh đẹp người đông
Có cây sáo trúc bên đồng lúa xanh
78. Tiếng đồn chợ Xổm nhiều khoai
Đất Đỏ nhiều bắp, La Hai nhiều đàng (đường)
79. Tiếng đồn Đại Nẫm nhiều xoài
Xuân Phong nhiều cốm, Phú Tài mạch nha
80. Tôm rằn mà lột vỏ bỏ đuôi
Gạo nhe An Cựu mà nuôi mẹ già
Mẹ già là mẹ già anh
Em vô bảo dưỡng cá canh cho thường
Mẹ già như chuối bà hương
Như xôi nếp một, như đường mía lau.
81. Vải Quang, húng Láng, ngổ Đầm
Cá rô đầm Sét, sâm cầm Hồ Tây.
82. Vạn Long dệt cửu kéo hoa
An Phú nấu kẹo mạch nha ngọt đường
Trung Kính thì lễ vàng hương
Nghĩa Đô làm giấy để làng tả văn
83. Vễnh Bình Thới
Ruốc Cồn chim
Ở xa ngàn dặm cũng tìm tới mua
84. Yến Sào Hòn Nội
Vịt lộn Ninh Hòa
Tôm hùm Bình Ba
Nai khô Diên Khánh
Cá tràu Võ Cạnh
Sò huyết Thủy Triều
Đời anh cay đắng đã nhiều
Từ nay ngọt sớm ngọt chiều cùng em.
85. La Thượng bán cá
Hoàng Cang bán cá, Cha La bán thuyền
Ăn cướp thì quân phố Miên
Giết người lấy của quan viên Chung Hà.
86. Bạc Liêu là xứ quê mùa
Dưới sông đánh cá chốt trên bờ Triều Châu
87. Ai ơi về miệt Tháp Mười
Cá tô, sẵn bắt, lúa trời sẵn ăn.
88. Đông Thành là mẹ là cha
Đói cơm rách áo thì ra Đông Thành
89. Đồng Nai gạo trắng nước trong
Ai đi đến đó thời không muốn về
90. Đồng Tháp Mười cò bay thẳng canh
Nước Tháp Mười lấp lánh cá tôm.
91. Gà nào hay bằng gà Cao Lãnh
Gái nào bảnh bằng gái Cần Thơ
Làm chi nay đợi mai chờ
Linh đinh Phong Mĩ, dật dờ Hòa An
92. Gà nào hay bằng gà Cao Lãnh
Gái nào bảnh bằng gái Nha Mân.
93. Gạo Cần Đước, nước Đồng Nai
Ai ơi, xin nhớ cho ai theo cùng.
94. Hồ Tĩnh Tâm giàu sen bách diệp
Đất Hương Cần, ngọt quýt, thơm cam.
Ai về cầu ngói Thanh Toàn
Đợi đây về với một đoàn cho vui.
95. Trai Thổ Sơn ăn khoai ăn củ
Mà lên rừng bắt hổ về chơi
Xuống biển tìm giết cá voi
Đi học biết chữ gấp đôi ông thầy.
96. Đất Quảng Nam chưa mưa đã thấm
Rượu hồng đào chưa uống đã say
Bạn về nằm nghỉ gác tay
Thư xem ai ơn trượng, nghĩa dày bằng ta
97. Đi đâu mà chẳng biết ta
Ta ở kẻ Láng vốn nhà trồng rau
Rau thơm rau húng rau mùi
Thì là, cải cúc đủ mùi hành hoa
Mồng tơi, mướp đắng, ớt, cà
Bí đao, đậu ván vốn nhà trồng nên
Anh giúp em quang song tám giẻ cho bền
Mượn người lịch sự gánh lên Kinh kì
Gánh lên chợ mới một khi
Mong cho đến chợ em thì nghỉ ngơi
Cậu cai phát vé vừa rồi
Một lúc lại thấy cậu bồi ra mua
Củ hành em bán một xu
Củ cải hai rưỡi tính xu lấy tiền
Người hiền ra bán của hiền
Nào em có dám cửa quyền cậu đâu
Bán hàng mắt trước mắt sau
Kìa thằng đội xếp đứng đầu Hàng Ngang
98. Đi đâu mà chẳng biết ta
Tớ ở kẻ Láng vốn nhà trồng rau
Rau thơm rau húng rau mùi
Thì là cải cúc lại cùng hành hoa
Dù em có lúc đi qua
Đi qua ngõ gạch hỏi nhà ta mà vào
99. Đi thì mỏi gối trối lè
Không đi thì nhớ cháo chè Đình Hương
100. .Hoàng Cương ăn ít đã no
Đông Viên có lúa bán cho kẻ Hoàng
101. Kể chơi một huyện Thanh Trì
Mọc thì gạo xáo, Láng thì trồng rau
Định Công đan gối, Lủ Cầu bánh trong
Làng Mơ cất rượu khê nồng
Làng Vọng dệt gối, chăn tằm làng Mui
Kẻ Giả thì bán bùi nhùi
Làng Lê bán phấn cho người tốt da
Ke Vọng khéo ngọc khéo ngà
Đưa em đi bán cho nhà kẻ sang
Kẻ Lủ thì bán bỏng rang
Trên ô hàng Đậu lắm hàng nhiều thay
Ngâu, Tựu thì bán dao phay
Dù đem chặt nưa gãy cây lại liền
Trong kho lắm bạc nhiều tiền
Để cho giấy lại chạy liền với dây
106. Thuốc an lương hương thơm khói nhẹ
Chè hòa hội nước đậm mùi hương
Em về mua vải chợ Gồm
Gò Găng mua nón, phiên Chàm anh vô
107. Thuốc Bông Viên ngon lắm anh ơi
Giấy quyến rộng khổ anh bỏ tôi sao đành
108. Thuốc ngon Bình Định
Giấy khuyến Sa Huỳnh
Ai xa thì mược nậu hai đứa mình đừng xa
109. Tiền Bần, lụa Lạc, vải Đồng Than
Đã mua thì chớ phàn nàn làm chi
110. Mít thơm thì đến Phong Cao
Cà phê xóm láng dừa cau Ông thầy
111. Mong về xứ ở Vinh Quang
Ăn canh cua bấy, tôm rang thỏa tình
Hai xóm Quang Hiển, Quang Minh
Ăn cá lá nướng, cá kình nấu chua
Các địa danh trong bài là thuộc tỉnh Bình Định
112. Muốn ăn bánh ếch lá gai
Lấy chồng Bình Định sợ dài đường đi
113. Muốn ăn bông súng mắm kho
Thì vô Đồng Tháp ăn no đã thèm.
114. Muốn ăn bún sốt lòng tươi
Có con thì gả cho người làng Đông
Làng Đông: thuộc xã Xuân Lâm, Tĩnh Gia, Thanh Hóa.
115. Muốn ăn cá bống kho gừng
Thì về kẻ Mĩ đánh thừng với anh.
116. Muốn ăn cơm tám canh cần
Thì về Trình Tiết chăn tằm với anh
117. Muốn ăn cơm trắng cá chim
Thì về thụt bễ, đi rèn với anh
118. Muốn ăn cơm trắng cá kho
Trốn cha trốn mẹ xuống đò cùng anh
119. Muốn ăn cơm trắng cá mè
Muốn đội nón tốt thì về làng Chuông
120. Muốn ăn cơm trắng cá thèn
Thì về Đa Bút đi rèn với anh.
121. Muốn ăn cơm trắng cá thu
Lấy chồng xóm Bể, làm du Gấm Mè.
122. Muốn ăn cơm trắng canh cần
Thì về Đồng Lũng đan giần với anh.
123. Muốn ăn cơm trắng, chả, giò
Thì về bến Cốc đẩy xe bò với anh.
124. Muốn ăn dưa hấu dưa hồng
Bỏ chồng Yên Lộc, lấy chồng Yên Ninh
125. Muốn ăn mật rú vô Trèn
Muốn xơi ốc đực thì lên thác Đài.
126. Muốn lên Đá Trắng ăn xoài
Muốn ăn tương ngọt, Thiên Thai thiếu gì’
127. Muốn về đất biển ăn cua
So đi tính lại cũng thua Nam Bình
Nam Bình nhiều mía nhiều đàng
Nhiều loại khoai môn ấp đấy sàng dễ bưng
Lại thêm một cuộn rau dừng (dừng viết theo sách)
Một khoanh bông súng, một vừng ấu khô.
128. Muốn ăn cơm trắng nước trong
Em lên phố Cát Đại Đồng hành cùng anh
Ai lên phố Cát Đại Đồng
Hỏi thăm cô tú có chồng hay chưa
Năm nay chồng bỏ như chưa có chồng
129. Thuốc An Lương hương thơm, khói nhẹ
Chè Hòa Hội nước đậm mùi hương
Em về mua vải chợ Gồm
Gò Găng mua nón, phiên Chàm anh vô.
130. Ở đâu bằng xứ Lung Tràm
Chim kêu như hát bộ, cá lội vàng tợ mắm nêm
131. Rau đắng nấu với cá trê
Ai đến lục tỉnh thì mê không về
TỤC NGỮ
1. An Lãng bánh đúc bánh đa, Ngân Cầu bánh bỏng, Hương La Bánh Bèo
2. Ăn cơm làng Giống, cá bống cầu Da, con gái Chua, Va, lấy chồng Tầu, Đọ.
3. Bánh chưng cầu Hậu, cháo đậu quán Lào
4. Bánh cuốn Thanh Trì, bánh dì Quán Gánh
5. Bánh đúc chợ Go, trâu bò chợ Bản
6. Bánh đúc kẻ Đanh, bánh hành kẻ Láng
7. Bánh đúc làng Điền góp tiền mà mua
8. Bánh đúc làng Kẻ, bánh tẻ làng Diễn
9. Bánh gai Cam Giá, bánh lá Bạch Cừ
10. Bánh Giầy làng Kẻ, bánh tẻ Kẻ So
11. Bánh giầy nếp cái, con gái họ Ngô
12. Bánh giầy Quán Gánh, bánh rán Cầu Khâu
13. Bánh nẳng Cầu Mai, bánh chưng hàng Gát, bánh gai Cầu Dền
14. Bánh sáp đi, bánh chì lại
15. Bánh trái làng Hương, tương làng Xấu, Bến
16. Bánh tráng Mĩ Lồng, bánh phồng Sơn Đốc
17. Bánh tráng nhân đường ngon thậm là ngon, đến cơn đánh đòn, đâu thậm là đau.
18. Bằng vải, Bằng dưa, Linh cua, Tứ búnk
19. Bình Lăng rút kén ươm tơ, chợ trâu Quỹ Nhất, bánh đa làng Vò
20. Bún Cổ Đô, ngô Kiêu Mộc
21. Bún Đa Mai, vai làng Đò, giò Châu Xuyên
22. Bún Đoàn, quan Triện, biện Khoái Khê
23. Bún Mai Cương, tương Đình Tổ
24. Bún Tái Đầm, gà hầm Văn Phú, xôi củ làng Chanh
25. Bung, mọc, nem, chưng
26. Cà Đằng Rừng, lưng con lợn
27. Cá chợ Sáo, gạo chợ Sàng, khoai lang Thọ Lão
28. Cá cống Tràng, chè rừng Lạng
29. Cam Bo Giầu, bầu Ngô Xá
30. Cam Canh, hồng Diễn, cốm Vòng
31. Cam Đa Lộc, thuốc Lỗ Đưng
32. Cam kẻ Canh, hành kẻ Láng
33. Cam Lai Thành, chanh Thượng Kiệm
34. Cam Mai Xá, cá An Duyên, tiền An Cự, chữ Trừng Uyên
35. Cam Phương Độ, đỗ Chản Thương, tương Vân Cầu
36.Cam Xã Đoài, xoài Bình Định
37. Canh làng Mè, chè làng Yên Phụ
38. Chẳng đi nhớ cháo làng Ghề, nhớ cơm phố Mía, nhớ chè Đông Viên.
39. Chè hàng nồi, xôi hàng chõ, võ hàng đời
40. Chè họ Đỗ, cỗ họ Lê
41. Chè lam bánh bỏng chẳng hỏng miếng nào
42. Chè làng Rùm, hùm Mai Sưu
43. Chè quán Dạo, cháo quán Tiên
44. Chè quán Tiên, tiền Thanh Nghệ
45. Chè, Rị đúc nồi, làng Nhồi đục đè
46. Chè tàu uống một hơi
47. Chè Trại Lạo, gạo Vô Hốt
48. Chè Vân Thái, gái Tiên Lữ
49. Chè vối Cầu Tiên, bún sen Tứ Kì
50. Phim mía Xuân Phổ, cá bống song Trà, kẹo gương Thu Xà mạch nha Thi Phổ.
51. Chớ lấy vợ Gò Cà, chớ đá gà Mĩ Phú
52. Chuối Đại Hoàng lạng vàng tiến vu
53. Chuối Tam Nông, hồng huyện Hạc.
54. Chưa ăn bánh giầy quai hàm đã trễ
55. Cói Vô Song, bông chợ Giẽ, củ chợ Nan, khoai lang Chợ Đậu.
56. Cỗ an Hòa, nhà Lạc Chính
57. Cỗ Dương Đanh, hành làng Nội, hội làng Lam, tàn làng Quán, hương án làng Đề
58. Cốm Nguyễn, Ổi Bo
59. Cốm hoa vàng, chim ra rang, gái mãn tang, cà cuống trứng
60. Cơm chắm, mắm chườm
61. Cơm Đại Hóa, cá Chản Thương, tương Vân Cầu
62. Cơm đồng Á, cá đồng Gáp
63. Cơm đồng Á, cá đồng Nung
64. Cơm đồng Á, cá đồng Vầy
65. Cơm đồng Quá, cá đồng Ua, cua đồng Chùa.
66. Cơm làng Áo, cháo làng Bơ
67. Cơm làng Áo, cháo làng Bùng
68. Cơm Lời, rượu Trịnh, thịt Phù Phong
69. Cơm Nai Rịa, cái Rí Rang
70. Cơm nắm thợ Săn, phá tan quân Bún Thượng
72. Cơm Vàng, nước Chẹm, cá Quán Ghen.
73. Cơm Văn Giáp, táp Cầu Giền, chè quán Tiên, tiền Thanh Nghệ
74. Cơm Văn Xá, cá đầm Soi
75. Cơm xứ Đông, cồng Bồng Hải
76. Cua đồng Ngo bằng bò Phúc Mãn
77. Cua Đồng Quan, lục vàng Cảnh Thụy.
78. Cua mả Mít, ốc đồng Viên.
79. Cua Phụng Pháp, rau muống Hiên Ngang.
80. Cua Sen Hồ, cá rô Đình Chám
81. Cua trái càng, gà chéo cánh, mèo xẻ rãnh, lợn cạo đuôi
82. Cua Vệ Xá, cá Cầu Đầm
83. Cua Vệ Xám cá Thất Dương
84. Dưa gang làng Sắt đỏ như đồng
85. Dưa hấu dưa gang là làng Mông Phụ
86. Dưa La, cà Láng
87. Dưa La, cà Láng, cải Báng, tương Bần.
88. Dưa La, húng Láng, nem Báng, tương Bần, nước mắm Vạn Vân, cá rô đầm Sét.
89. Dưa làng La, cà Phúc Khánh
90. Dưa Quài, khoai Bái, gái Vạn Đồn.
91. Dưa Quài khoai Mễ.
92. Dừa làng Nghĩa, mía làng Tào.
93. Dưa ngang đông không ông thì mụ
94.Dứa Hướng Đạo gạo làng Chùa
95.Dứa Hướng Đạo, gạo Long Trì
96. Dứa Sàn mật Chũ
97.Dương Sơn bãi dẻ bạt ngàn, bí bầu Ngô Xá bắc giàn khắp nơi
98. Đắc Chúng lắm cau, nhiều rau Quân Hành, Yên Xá
99.Đậu phụ Thủy Nhai, tú tài Hành Thiện
100. Khoai ao Làng Xá, chè lá Phú Điền
101.Khoai Đông Lữ, chữ Tiên Sơn
102.Khoai đồng Lá, cá Dưới Đồng
103.Khoai đông Mả, nếp ả đồng Đông
104.Khoai lang làng Đọ, khoai sọ làng Non, lợn con làng Dẫm
105. Đi thì mỏi gối chối lè, không đi thì nhớ cháo chè Đình Hương
106. Đỉa An Xá, cá Lộc An
107. Gạo Đa Giá, cá Áng Sơn
108. Gạo ré Đồng Môi, cá trôi Đồng Chờ
109.Giầy Gôi, xôi Báng, rượu Hầu
110. Giầy làng Gôi, xôi Xuân Bảng.
111.Hành làng Láng, bánh rán kẻ Thầy
112.Hành Nga Trại, cải Tiếu Mai
113.Hôm nay ăn mía Triệu Tường, đợi mắm Nam Ố, đợi đường Phú Yên
114.Khoai làng Thống, trống làng Cò, bo làng Nội
115.Làng Cả ăn nước Cầu Vai, ăn gạo Đồng Khoản ăn khoai đồng Tì
116.Làng Dâu ăn da, làng ta ăn thịt, làng Vít ăn xương, Thanh Tương ăn nước
117.Làng gin gỏi cá, làng Lá giã bánh
118. Lúa Phú Xuyên, tiền La Phẩm, gạo hẩm Phương Khê
120.Mạ vườn Không, bông đồng Hang, lang đông Gừa, dưa chùa Rí, bí ông Đe, chè
Khán Cổ
121.Mắm tươi, nước cất, đô vật ba năm
122.Măng kẻ Hếch, ếch kẻ Chai, khoai Chiềng Mì
123.Măng sông, ếch giếng, chó nhà chùa
124.Mây giăng Cửa Đại, cá mại phơi khô
125.Mình về nhớ cá Chản Thương, nhớ cơm Đại Hóa, nhớ tương Vân Cầu
126.Mít làng Nghè, chè làng Dẫm
127.Mít làng Nghè, chè Mai Siu
128.Mồng sáu tháng ba, ăn cơm với cà, đi hội chùa Tây
129.Muối Xuân An, cam Xã Thượng
130.Muốn ăn bánh ít lá gai, lấy chồng Đồng Cọ, sợ dài đường đi
131.Muốn ăn cá Sỉnh ngòi Lao, vượt qua dốc Mét đi vào A Mai
132.Nam sâm Bố Trạch, cua gạch Thanh Khê
133.Nem chả Hòa Vang, bánh tổ Hội An, khoai lang Trà Kiệu, thơm rượu Tam Kỳ
135. Nem xứ Huế, quế xứ Thanh
136.Nếp Đồng Trầu, cau An Hiệp
137.Nếp Màng Màng, đàng Tân Lập
138.Ngỗng Phong Hòa, gà Cam Giá, cá Liên Thành
139. Nguyên Xá bánh cáy, khoai ráy Đông Trung, bánh lọc thật trông Đô Kì chợ Quếch
140.Nguyên Xá cấy bông, đúc đồng An Lộng, cá giống Thanh Nga, ương chè thôn
Quán
141. Ốc đồng Cùa, cua đồng Coi, cá või Mương
Ở tỉnh Phú Thọ. Theo TNVP, Cùa, Coi, Mương thuộc xã Sơn Dương, huyện Lâm Thao
142.Ổi Chi Nhị, thị Đông Côi
143. Ổi Định Công, hồng làng Quang, vàng làng Tố, kéo vó xóm Vân
144. Ổi Định Công, nhãn lồng làng Quang, vàng làng Sét
145. Ổi Định Công, nhãn lồng Thanh Liệt
146. Ổi làng Gia, cà Hà Đức, gái Phúc Xuyên, thuyền Xuân La
147. Ổi Phù Sa, ma Yên Tốt
148.Ớt Định Công, nhãn lồng làng Quang, vàng làng Sét
149. Quýt Bo, bò Sỏi
150. Quýt Bo, bò Sỏi, gỏi Đinh, đình Nhã Nam, cam xứ Thái, gái Dương Lâm
151. Rau ao Thủ, củ vườn Lai, gạo đồng Đỗ, nước giếng Đình
152.Rau Đồng Gạo, gạo Hương Linh, thuốc lá Thanh Bình, khoai lang Đa Hội
153. Rau muống Chũng Xuồng, cua đường Đống Cấn
154. Rau muống Đầu Cầu, tằm dâu Lục Liễu
155. Rau muống làng Lái, con gái làng Than, làm quan làng Chiền, đan thuyền làng Lớ,
chạy chợ làng Kênh, chông chênh làng Mĩ, hậu hĩ Phao Chàng, việc làng Phao Tân
156. Rau Ngô Đạo, gạo Cốc Lương
157. Rau sông Bứa, dứa Văn Lang
158. Rượu Bồ Trang, cám rang Lượng Cả
159. Rượu Đông Cường, đường xã Trung
160. Rượu Đông Lâu, bầu Tri Lai, khoai Tang Cấu, dưa hấu Yên Bồ, cá rô Phú Nghĩa
161. Rượu hũ làng Ngâu, bánh đúc trâu làng Tó
162. Rượu kẻ Mơ, cờ Mộ Trạch
163. Rượu Kiên Lao, ao Lục Thủy
164. Rượu làng Hương, tương làng Xấu
165. Rượu làng Mơ, cá rô đầm Sét
166. Rượu làng Mơ, cờ Mông Phụ
167. Rượu Vạn Vân, cua Phụng Pháp, rau muống Hiên Ngang
168. Rượu Vân La, cà Trà Bút, bún Lội Hà
169. Sò huyết bãi Ngao, thạch cao Đá Trắng
170. Sò nghêu Quán Hàu, rượu dâu Thuận Lí
171.Than đá Hòn Gai, sơn nâu Yên Bái, Quần Anh lụa nái, rượu cái Kiên Lao
172. Thịt chó chợ Bè, tro kè làng Đông
173.Thịt chó làng Nghe, nước chè làng Chạm
174.Thóc gạo làng Đông, thừng chão làng Rồng, nước rong làng Ải, bánh trái Phương
Trì, ù ì Tam Sơn
175. Thóc Lại Yên, tiền kẻ Giá, cá kẻ Chanh, hành kẻ Láng, bánh rán kẻ Thầy, bánh dày
làng Kẻ, bánh tẻ kẻ So
176. Thóc hoa dâu, trầu lá mặt
177.Thúng Quan Nha, cà Văn Phái, gái Lam Cầu, giầu Lệ Thủy
178.Tiền kẻ Dốc, ốc Tử Đà, gà Bình Bộ, đỗ Hạ Thôn
179.Tiền làng Đụn, bún Đa Mai
180. Tiếng đồn chợ Xổm nhiều khoai, Đất Đỏ nhiều bắp, La Hai nhiều đàng
181.Tiếng đồn lắm cá Lang Cao, lắm than Ngô Xá, lắm ao Khánh Giàng
182. Tôm he cửa Vích, cá trích Lạch Trào
183. Tôm luộc làng Đông, gà đồng làng Sấu
184. Trâu Ngo, bò Chều, lợn Khám, cám Chẹm, lệm Ngò
185. Trâu Ngô Xá, cá đầm Phiêng
186. Trâu Ngô Xá, cá đầm Meo
187.Trâu Tạ Xá, cá đồng Meo, heo Yên Dưỡng
188. Trèo làng Luộc, cuốc làng Lan, than Ngô Xá, cá Làng Cao, ao Khánh Giàng
189.Trống chè, mõ Then, kèn Táo, cháo Dương, tương Sủi, củi Đáng, vàng Keo, bèo Trỗ
190. Trống Chè, mõ Then, kèn Táo, cháo Đương.
191. Tương Cự Đà, dưa cà Khúc Thủy
192.Tương làng Búng, thúng làng Roi, bánh đúc, đậu phụ là nòi Thanh Hương
193.Tương Nhật Tảo, đào Nhật Tân
194. Tương Nhật Tảo, đào Nhật Tân, phân Cổ Nhuế
195.Tương Phương Tảo, gạo Lộc Điền, tiền làng Roi, ngòi Phương Bản
196.Tương Sủi, củi Đàng, vàng Keo, bèo Trỗ
197.Tương Vân Cầu, bầu Đông Ngữ, chữ Đông Ngàn, quan họ Sen, kèn phó Tí, bí Bưởi
Cuốc, thuốc Tân Miêng, chiêng họ Từ
198. Tương Ngô Cầu, bầu Ngô Xá
199. Thuốc lào Khai Lai, lợn choai chợ Thượng
200. Thuốc lào một nạm, chè tẩu một hơi
201. Tiền Đông Lỗ, cỗ Mai Đình
202. Tiết vịt, gan gà, trứng cá rô.
203. Tôm he cá mực
204. Tôm nha nhá, cá hồng đông.
205. Trưa gỏi cá cháy, tối canh cá chày
206. Nem Báng, tương Bần
207. Nghéo: gan, mang: thiều
208. Ngói lò Cánh, bánh quán Đanh
209. Ngon bát canh, lành mang áo
210. Vải La, cà Đăm
211. Vải Lưu Xá, cá đầm Rạch
212.Vải Quang, húng Láng, ngổ Đầm, cá rô đầm Sét, sâm cầm hồ Tây
213. Vàng mã làng Giàng, chè lam Phủ Quảng
214. Xoài giòn, mít dẻo, thị dai
215. Nhút Thanh Chương, tương Nam Đàn
216. Dâu Me, chè Mét
217. Diêm quả đào, thuốc lào làng Nhót
218. Dong Hữu Ái, vải Cổ Thiết
219. Giành Cáo, gạo Vọng
220. Giò Trèm, nem Vẽ, chuối Xù
221. Gỏi cua làng Sải, dưa cải làng Nghè
222. Khoai lang Triều Khúc, bánh đúc Đơ Bùi
223. Khoai làng Ná, cá sông Mực
224. Lắm cỗ làng Đoàn, lắm quan làng Triện, lắm biện Khoái Khê

Kinh nghiệm ăn uống


CA DAO
1. Kèo nèo mà lại làm chua
Ăn với cá rán, chẳng thua món nào
2. Khoai lang ăn với nước don
Những người làng Trá béo tròn như cu.
3. Lỗi lầm vì mắm trích ve
Vì rau muống luộc, vì mè trộn măng
4. Mít thơm thì đến Phong Cao
Cà phê xóm láng dừa cau Ông thầy.
5. Mắm ngon chấm cá liệt
Em có chồng rồi bảo thiệt anh hay
6. Mắm ngon xem lấy màng màng
Người khôn xem lấy hai hàng tóc mai.
7. Mong về xứ ở Vinh Quang
Ăn canh cua bấy, tôm rang thỏa tình
Hai xóm Quang Hiển, Quang Minh
Ăn cá lá nướng, cá kình nấu chua
8. Muốn ăn bánh ếch lá gai
Lấy chồng Bình Định sợ dài đường đi
9. Muốn ăn bông súng mắm kho
Thì vô Đồng Tháp ăn no đã thèm.
10.Muốn ăn bún sốt lòng tươi
Có con thì gả cho người làng Đông
11.Muốn ăn cá bống kho gừng
Thì về kẻ Mĩ đánh thừng với anh.
12.Muốn ăn cơm ngon
Đi cày ruộng tốt
Muốn ăn canh ngọt
Lấy chú đi câu
Muốn ăn canh bầu
Lấy chồng Yên Thượng
13. Muốn ăn cơm tám canh cần
Thì về Trình Tiết chăn tằm với anh
14. Muốn ăn cơm trắng cá chim
Thì về thụt bễ, đi rèn với anh
15. Muốn ăn cơm trắng cá kho
Trốn cha trốn mẹ xuống đò cùng anh
16. Muốn ăn cơm trắng cá mè
Muốn đội nón tốt thì về làng Chuông
17. Muốn ăn cơm trắng cá thèn
Thì về Đa Bút đi rèn với anh.
18. Muốn ăn cơm trắng cá thu
Lấy chồng xóm Bể, làm du Gấm Mè.
19. Muốn ăn cơm trắng canh cần
Thì về Đồng Lũng đan giần với anh.
20. Muốn ăn cơm trắng, chả, giò
Thì về bến Cốc đẩy xe bò với anh.
21. Muốn ăn dưa hấu dưa hồng
Bỏ chồng Yên Lộc, lấy chồng Yên Ninh
22. Muốn ăn mật rú vô Trèn
Muốn xơi ốc đực thì lên thác Đài.
23. Muốn ăn đầu phụ tương tàu
Mài dao đánh kéo gọt đầu đi tu.
24. Muốn lên Đá Trắng ăn xoài
Muốn ăn tương ngọt, Thiên Thai thiếu gì’
25. Muốn về đất biển ăn cua
So đi tính lại cũng thua Nam Bình
Nam Bình nhiều mía nhiều đàng
Nhiều loại khoai môn ấp đầy sàng dễ bưng
Lại thêm một cuộn rau rừng
Một khoanh bông súng, một vừng ấu khô.
26. Muốn ăn măng trúc măng dang
Măng tre, măng nứa, cơm lam thì chèo
Ngược xuôi lên thác xuống chèo
Chim kêu bên nọ, vượn trèo bên kia.
27. Muốn ăn măng trúc măng dang
Măng tre, măng nứa, chè bàng, cơm lam
Muốn ăn sim tím đi tìm
Đố ai tìm được đem lên hầu nàng
Chim kêu vượn hót trên ngàn
Bây giờ đã đến trăng tàn canh ba.
28. Muốn ăn mơ nổi mận chìm
Anh cũng lận đận đi tìm của chua
29. Muốn ăn cơm trắng nước trong
Em lên phố Cát Đại Đồng hành cùng anh
Ai lên phố Cát Đại Đồng
Hỏi thăm cô tú có chồng hay chưa
Năm nay chồng bỏ như chưa có chồng
30. Muốn ăn cá cả thời thả câu dài
Kìa như miệng cá ai hoài mà đo
31. Muốn ăn cua ốc, ốc nhồi
Có con thì gả cho người đồng chiêm
32. Nghe anh đi đó đi đây, em hỏi nhỏ câu này
Bánh phồng, bánh tráng đất này đâu ngon
Bánh tráng Mĩ Lồng, bánh phồng Sơn Đốc, măng cụt Hàm Luông.
Vỏ ngoài nâu, trong trắng tợ bông gòn
Anh nói đây nói thiệt, sao em còn so đo?
33. Nhất trong là nước giếng Hồi
Nhất béo, nhất mùi là cá rô câu.
34. Nước nào ngọt bằng nước sông Hinh
Chè Ô Long đủ vị súc bình còn thơm
35. Nước ròng chảy xuống Nam Vang
Cà Na chín rục tao mầy ăn chung.
36. Rau đắng nấu với cá trê
Ai đến lục tỉnh thì mê không về
37. Rủ nhau mua tép Trà Ô
Sẵn bờ cát trắng phơi khô đem về.
38. Sầu riêng, măng cụt, chôm chôm
Xoài ngon, mít ngọt, chuối thơm nghìn trùng.
39. Tháng bảy ông thị đỏ ra
Ông mít chơm chởm, ông da rụng rời
Ông mít đóng cọc mà phơi
Ông da rụng rời, đỏ cả chân tay.
40.Tháng chín thì quýt đỏ trôn
Tháng hai ngái mọc cò con tìm về
41. Thuốc rê chồng hút vợ say
Thằng nhỏ mồi thuốc lăn quay chín vòng.
41. Ví dầu con cá nấu canh
Bở tiêu cho ngọt, bỏ hành cho thơm
42. Đầu năm ăn quả chanh yên
Cuối năm ăn bưởi lại thêm đèo bòng
Ăn bưởi thời nhớ đến bòng
Ăn cam nhớ quýt, ăn hồng nhớ hương
Ăn mít lấy hạt mà ương
Một chiếu nơi giường biết trai nơi nao.
43. Khen rằng nếp dẻo hơn xôi
Không tin nấu thử một nồi mà ăn
44. Khéo thay canh cải nấu gừng
Không ăn thì chớ, xin đừng mỉa mai
45. Làm người ăn tối lo mai
Việc mình hồ dễ để ai lo lường
46. Mua thịt chớ mua thịt mông
Lấy chồng chớ lấy dở ông dở thằng
47. Mua thịt thì chọn miếng mông
Lấy chồng thì chọn con tông nhà nòi
48. Mướn đắng đã có mạt cưa
Bố bay khéo lừa lấy được mẹ bay
49. Nước ròng trong ngoạn chảy ra
Lòng đây thương đó, mới qua thăm chừng
TỤC NGỮ:
1. Ăn bữa trưa, chừa bữa tối
2. Ăn cá bỏ vây
3. Ăn biếu ngồi chiếu hoa
4. Ăn bớt bát, nói bớt lời
5. Ăn bữa hôm lo bữa mai
6. Ăn bữa mai để của khoai bữa mốt
7. Cá tươi xem mang
8. Cảnh không gì bằng cảnh rau, rau không gì bằng rau khoai
9. Cao cồn tốt cải ngon dưa, gần sông chao sạch muối vừa thì ngon
10. Ăn cá bỏ xương, ăn quả bỏ hột
11. Ăn cá nhả xương, ăn đường nuốt chậm
12. Ăn cá trắm, uống rượu tăm, vật trăm trận
13. Ăn có bữa, lo không có bữa
14. Ăn có chỗ đỗ có nơi
15. Ăn bát cháo bầu hát sầu cành bưởi
16. Ăn bát cơm dẻo, nhớ nẻo đường đi
17. Ăn bát đại thanh, nằm chiếu miến
18. Ăn bát mẻ, nằm chiếu manh
19. Ăn có chúng nói có bạn
20. Ăn có chừng, chơi có độ
21. Ăn có giờ làm có buổi
22. Ăn có mời làm có khiến
23. Ăn có nhai, nói có nghĩ
24. Ăn có nơi, chơi có chốn
25. Ăn có nơi làm có chỗ
26. Ăn có sở, ở có nơi
27. Ăn có thời, chơi có giờ
28. Ăn cóc bỏ gan, ăn trầu nhả bã
29. Ăn cỗ đi sau, lội bàu đi trước
30. Ăn cỗ đi trước, lội nước đi sau
31. Ăn cỗ một bữa no nửa tháng
32. Ăn cơm cáy thì ngáy o o, ăn cơm thịt bò thì lo ngay ngáy
33. Ăn cơm chẳng sớm thì trưa
34. Ăn cơm châu đầu, ăn trầu nhả bã
35. Ăn cơm cho no, chờ đò Phù Trịch
36. Ăn cơm chúa múa tối này
37. Ăn cơm hom, nằm giường hòm
38. Ăn cơm hom, nằm giường hòm, đắp chiếu Hới
39. Ăn cơm không rau như đánh nhau không có người gỡ
40. Ăn cơm không rau như nhà giàu chết không có kèn trống
41. Ăn cơm làm cỏ chẳng bỏ đi đâu
42. Ăn cơm lừa thóc, ăn cóc bỏ gan
43. Ăn cơm mắm, thấm về lâu
44. Ăn cơm mới không nên nói chuyện cũ
45. Ăn cơm mới, nói chuyện cũ
46. Ăn cơm mới, xới gốc bầu
47. Ăn cơm nắm, nằm đầu hè, nghe giảng võ
48. Ăn cơm nguội nằm nhà ngoài
49. Ăn cơm người, nằm nhà ngoài
50. Ăn cơm nhà dì, uống nước nhà o
51. Ăn cơm nhà nọ, kháo cà nhà kia
52. Ăn cơm nhà, nói chuyện hàng xóm
53. Ăn cơm nhà Phật, đốt râu thầy chùa
54. Ăn cơm nhà thổi tù và hàng tổng
55. Ăn cơm nhà vác ngà voi
56. Ăn cơm phải biết trở đầu đũa
57. Ăn cơm tấm đấm bể sập vàng
58. Ăn cơm với mắm thì ngắm về sau
59. Ăn cơm với mắm thì ngắm về sau, ăn cơm với rau ngắm sau ngắm trước
60. Ăn cơm với mói như trói mà đập
61. Ăn cơm với rau ngắm sau ngắm trước
62. Ăn củ mon bữa mai, để củ khoai bữa mốt
63. Ăn của Bụt thắp hương giả Bụt
64. Ăn của ngon, mặc của tốt
65. Ăn của người, vâng hộ người
66. Ăn của rừng, rưng rưng nước mắt
67. Ăn cùng nồi, ngồi cùng chiếu
68. Ăn dứa đắng đít, ăn mít đằng đầu
69. Ăn đằng nọ, đừng ăn đằng kia
70. Ăn đằng sóng, nói đằng gió
71. Ăn đói qua ngày, ăn vay nên nợ
72. Ăn đong cho đáng ăn đong, lấy chồng cho đáng hình dong con người
73. Ăn đua cho đáng ăn đua, lấy chồng cho đáng việc vua việc làng.
74. Ăn đúng bữa, nói lựa lời
75. Ăn đưa xuống, uống đưa lên
76. Ăn được ngủ được là tiên
77. Ăn được ngủ được là tiên, không ăn không ngủ mất tiền thêm lo
78. Ăn gạo nhớ kẻ đam xay giần sàng
79. Ăn gạo tám chực đình đám mới có
80. Ăn giỗ ngồi áp vách, có khách ngồi thành bàn
81. Ăn gỏi lá mè không lá mơ
82. Ăn gỏi không lá mơ
83. Ăn hung thì chó được nhờ
84. Ăn ít ngon nhiều
85. Ăn ít no dai, ăn nhiều tức bụng
86. Ăn ít no lâu, ăn nhiều chống đói
87. Ăn ít no lâu, đào sâu nhọc lấp
88. Ăn ít no nhiều
89. Ăn ít nói nhiều
90. Ăn không rau, đau không thuốc
91. Ăn kĩ no dai
92. Ăn kĩ no lâu, cày sâu tốt lúa
93. Ăn làng Cói, nói làng Nguyễn, kiện làng Dừa
94. Ăn làng Gáo, kiện cáo Đào Tràng
95. Ăn lạt mới biết muối mặn
96. Ăm lắm hay no, cho lắm hay phiền
97. Ăn lắm, ỉa nhiều
98. Ăn lắm thì hết miếng ngon
99. Ăn lắm thì hết miếng ngon, nói lắm thì hết lời khôn hoá rồ
100. Ăn lắm thì núi cũng lở
101. Ăn lắm thèm nhiều
102. Ăm lắm trả nhiều
103. Ăn lấy chắc, mặc lấy bền
104. Ăn lấy đời, chơi lấy thì
105. Ăn lấy sống, ở lấy sáng
106. Ăn lấy thơm lấy tho chứ không đi ăn lấy no lấy béo
107. Ăn lấy vị chứ ai lấy bị mà mang
108. Ăn liều, tiêu càn
109. Ăn lỗ miệng, tháo lỗ trôn
110. Ăn lúc đói, nói lúc say
111. Ăn lựa bát, nói lựa lời, đừng có chơi bời với kẻ nói rông
112. Ăn lưng đọi làm lọi lưng
113. Ăn mặn khát nước
114. Ăn mặn nói ngay
115. Ăn mặn nói ngay hơn ăn chay nói dối
116. Ăn miếng xôi, lôi miếng chả, trả miếng bánh
117. Ăn mít bỏ xơ
118. Ăn mít bỏ xơ, ăn cá bỏ lờ
119. Ăn mít đi chợ Bôn, ăn tôm đi chợ Ghép
120. Ăn mít thì ít ăn cơm
121. Ăn một bát cháo chạy ba quãng đồng
122. Ăn một bát, nói một lời
123. Ăn một bữa một con heo, không bằng ngọn gió trong đèo thổi ra
124. Ăn một mâm, nằm một chiếu
125. Ăn một miếng, tiếng muôn đời
126. Ăn một mình đau tức, làm một mình cực thân
127. Ăn muối còn hơn ăn chuối chát
128. Ăn nắm xôi dẻo, nhớ nẻo nhà hàng
129. Ăn nên đọi, nói nên lời
130. Ăn ngang cổ, bổ ngang hầu
131. Ăn ngay nói thật
132. Ăn ngay nói thật, mọi tật mọi lành
133. Ăn ngọt trả bùi
134. Ăn nhạt mới biết thương đến mèo
135. Ăn nhau miếng cẳng miếng sườn, hễ quen miếng bụng thì ườn ngay ra
136. Ăn nhiều ăn ít bằng quả quýt cho nó cam lòng
137. Ăn nhiều nuốt không trôi
138. Ăn nhỏ nhẻ như mèo
139. Ăn nhờ cái chén, nhén nhờ đòn gánh
140. Ăn như con tằm lại rút ruột ra
141. Ăn như cũ, ngủ như xưa.
142. Ăn như hà bá đánh vực
143. Ăn như Hộ pháp cắn trát
144. Ăn như lửa cháy
145. Ăn như thợ đấu
146. Ăn no làm có
147. Ăn no lo được
148. Ăn no lòng, nói mất lòng
149. Ăn no nằm ngủ, chớ bầu chủ mà lo
150. Ăn nói phải thật thà, trời soi xuống, đất soi lên, quỷ thần hai vai biên chép.
151. Ăn nơi nằm chốn
152. Ăn nước ngòi Giành, trâu sốt vó, chó tuốt long, con gái không chồng đi qua cũng chửa
153. Ăn ốc trông trăng
154. Ăn ổi thổi bớt cơm
155. Ăn ở xởi lởi ông trời gởi cho
156. Ăn ớt sút sít, ăn quýt ghê răng
157. Ăn phải mùi, chùi phải sạch
158. Ăn quả chín, dành quả xanh
159. Ăn quả, nhả hột
160. Ăn quả nhớ kẻ trồng cây
161. Ăn quả nhớ kẻ trồng cây, ăn gạo nhớ kẻ đâm xay giần sang
162. Ăn quả nhớ kẻ trồng cây, ăn khoai nhớ kẻ cho dây mà trồng
163. Ăn quả nhớ kẻ trồng cây, nào ai vun xới cho mày, mày ăn?
164. Ăn quả nhớ kẻ trồng cây, uống nước song nhớ mạch suối
165. Ăn quả phải vun cây
166. Ăn sao cho được mà mời, thương sao cho được vợ người mà thương
167. Ăn sau là đầu quét dọn
168. Ăn se sẻ đẻ ăn voi
169. Ăn se sẻ đẻ ông voi
170. Ăn sung ăn sướng, không bằng ăn rướng đầu năm
171. Ăn táo phải rào cây táo
172. Ăn Tầu, ở Tây, lấy vợ Nhật
173. Ăn tết Đoan ngọ trở về tháng năm
174. Ăn theo thuở, ở theo thì
175. Ăn thì lành, để dành thì đau
176. Ăn thịt trâu không tỏi như ăn gỏi không rau mơ
177. Ăn thời nặng mặt sa mày, no thời tức bụng trời hay chăng trời
178. Ăn tối lo mai
179. Ăn tôm bỏ râu, ăn bầu bỏ ruột
180. Ăn tôm cắn đầu, ăn trầu nhả bã
181. Ăn trái phải dành trái xanh
182. Ăn tráng làm nhiều
183. Ăn trầu cách mắt
184. Ăn trầu có tốt, bà cốt lên tiên
185. Ăn trầu không rễ như rể nằm nhà ngoài
186. Ăn trầu lá lốt, bà tốt không tiền
187. Ăn trầu nhả bã, ăn cá nhả xương
188. Ăn trầu quên vôi, làm tôi quên chúa
189. Ăn trầu thì giở trầu ra, một là thuốc độc, hai là mặn vôi
190. Ăn trầu thì ngỏ trầu ra
191. Ăn treo hai ngồi dai treo một
192. Ăn uống tìm đến, đánh nhau tìm đi
193. Ăn vào Ba Chạ, vật ra La Hào
194. Ăn vảy chốc còn hơn ăn ốc tháng 4
195. Ăn vùa thua chịu
196. Ăn vụng chóng no
197. Ăn vụng no lâu
198. Cá bống kho tiêu, cá thiều kho ngọt
199. Cá đối bằng đầu
200. Cá đối tháng bảy, cá gáy tháng mười.
201. Cá mè song Mực chấm với nước mắm Do Xuyên, chết xuống âm phủ còn muốn
trở về mút xương
202. Cá ngon là cá Cù Mông, gạo ngon là gạo ở đồng Phú Dương
203. Cá rô bàu Nón kho với nước tương Nam Đàn, gạo tháng mười cơm mới đánh tràn
không biết no
204. Cá rô đầm Sét, cá chép đầm Đại
205. Cá rô đầm Sét, cá chép song Đơ
206. Cá rô đầm Sét, sâm cầm Hồ Tây
207. Cá rô đồng cháy, cá gáy đồng Chờ
208. Cá rô đồng Giá, rổ rá Ngẫu Khê
209. Cá rô đồng Nếnh, nước mắm Vạn Vân, rau cần kẻ Chúc, bánh đúc chợ Chay
210. Cá song Đôi, xôi kẻ Quánh
211. Cá tôm chợ Hộ, chợ Chùa, cá rẻ muốn mua chiều về chợ Gú
212. Cây rau má, lá rau hung, cuống rau đay
213. Cây rau má, lá rau muống, cuống rau răm
214. Chè xuân cứ vặt cho đau, chè hạ nương nhẹ chè thu đãi đằng
215. Chiếu làng Chẹo, kẹo chợ Rồng
216. Chè xuân cứ vặt cho đau, chè hạ nương nhẹ chè thu đãi đằng
217. Chim mía Xuân Phổ, cá bống song Trà, kẹo gương Thu Xà, mạch nha Thi Phổ.
218. Chim ngói mùa thu, chim cu mùa hè
219. Chim sa cá nhảy thì đừng có ăn
220. Chín quá hóa nẫu
221. Chín tháng ăn rươi, mười tháng ăn nhộng
222. Chịu đấm ăn xôi
223. Cho thầy bói ăn rươi
224. Chó treo mèo đậy, để vậy nó ăn
225. Chồng ăn giò, vợ co chân chạy, chồng ăn mày mạy vợ lạy vợ về
226. Chồng ăn một, vợ ăn hai
227. Chuối hàng sau cau hàng trước
228. Chưa để vào môi đã trôi vào ruột
229. Chưa đến tay đã hay đến mồm
230. Con cá đánh ngã bát cơm
231. Cơm ăn còn có từng lưng, cháy ăn vô chừng chẳng biết đói no.
232. Cơm ăn đúng bữa, bệnh chữa kịp thời.
233. Cơm ăn đủ đầu mắm
234. Cơm ăn mỗi bữa một lưng, hơi đâu mà giận người dưng thêm gầy
235. Cơm ba bát, thuốc ba thang.
236. Cơm búng nhai nát, cơm nhót nhai khô.
237. Cơm chin tái, gái đoạn tang, chim bén rang, gà mái ghẹ
238. Cơm chin tới, cải ngồng non.
239. Cơm chin tới, cải vồng non, gái một con, gà mái ghẹ
240. Cơm chín vần ra
241. Cơm để rá, cá để đĩa
242. Cơm giở, cỏ xới
243. Cơm hàng cháo chợ ai lỡ thì ăn.
244. Cơm khỏe chè bạo
245. Cơm khô là cơm thảo, cơm nhão là cơm hà tiện.
246. Cơm mùa treo chái chùa cũng chín.
247. Cơm muối hơn chuối chết
248. Cơm no chớ có chải đầu, đói lòng chớ có tắm lâu tật nguyền
249. Cơm phải rau, đau phải thuốc.
250. Cơm quanh rá, mạ quanh bờ.
251. Cơm ráo cháo nát.
252. Cơm rau nước vối dễ tiêu lại lành.
253. Cơm sôi to lửa thì ngon, cháo sôi to lửa thì còn nồi không.
254. Cơm tẻ ăn no, vải to mặc ấm
255. Cơm tẻ mẹ ruột
256. Cơm tẻ no, xôi vò chẳng thiết.
257. Cơm thiu tiêu cơm nguội
258. Cơm to lửa quá hóa khê.
259. Cơm và cháo húp
260. Dưa chín thì cuống rụng
261. Dưa gang đỏ đít, dưa cà đỏ trôn.
262. Dưa hành đánh cả củ
263. Dừa ngang đông không ông thì mụ
264. Dứa đằng đít, mít đằng cuống
265. Đắng như mật cá mè
266. Đắt cá hơn rẻ thịt
267. Đắt cá hơn rẻ tôm
268. Đắt chè hơn rẻ nước
269. Đắt muối, ế cà
270. Đầu cá trôi, môi cá mè.
271. Đậu nành rang, cả làng khát nước
272. Đậu xanh, đu đủ, của chua, có tính dã thuốc chớ cho uống cùng
273. Đi đạo lấy gạo con ăn
274. Đi đâu mà chẳng ăn de, đến khi hết của ăn dè chẳng ra
275. Đi đến nước Lào phải ăn mắm ngóe
276. Đi sau được bàu cá giét
277. Đói ăn bánh vẽ, chiêm bao thấy vàng
278. Đói ăn rau đau uống thuốc
279. Đói ăn rau má chớ ăn bậy bạ mà chết
280. Đói bụng ăn rau má
281. Gà ba tháng vừa ăn, ngựa ba năm cưới được
282. Gạo năm gian ăn gạo lường, áo năm rương mặc áo vá
283. Hàng cau ăn chũm
284. Hay ăn Yên Đức, hay dức Trung Ngãi, hay cãi Lăng Xương, cả ương Trung Hậu
285. Hay lam hay làm, chè lam bánh mỏng, chẳng hỏng miếng nào
286. Hiền Đa ăn ốc ăn trai, bắt cua bắt ốc hàng hai ba đời
287. Họ đạo ăn gạo té re, ăn chè phù thũng
288. Hoàng Cương ăn tấm cũng no, Đông Viên có thóc bán cho kẻ Hoàng
289. Hơn cơm rẻ gạo.
290. Ít ăn, ít mặc, ít lo, ít làm
291. Khôn ăn cái, dại ăn nước
292. Khôn ăn cánh, dại ăn cạnh trầu không
293. Làm người ăn tối no mai, việc mình hồ dễ để ai lo cùng
294. Làm người phải biết tiện tằn, đồ ăn thức mặc có ngần thì thôi
295. Làm ruộng ăn cơm nằm, chăn tằm ăn cơm đứng
296. Làng Dâu ăn da, làng ta ăn thịt, làng Vít ăn xương, Thanh Tương ăn nước
297. Mồng ba cá đi ăn thề, mồng bốn cá về cá vượt Vũ Môn
298. Mồng bảy ăn gà, mồng ba ăn cá
299. Mồng bốn cá đi ăn thề, mồng tám các về cá vượt Vũ Môn
300. Mồng chín tháng chín không mưa, thì con bá cả cày bừa mà ăn.
301. Muốn ăn cá cả phải thả câu dài, kìa như miệng cá ăn hoài mà đo
302. Muốn ăn cá phải thả câu
303. Muốn ăn cơm ngon, lấy con nhà đi mót; muôn ăn canh ngọt, lấy cháu nhà bắt cua
304. Muốn ăn cơm trắng canh cần thì về Đồng Lăng đan giần với anh
305. Muốn ăn đậu phụ tương tầu, mài dao đánh kéo gọt đầu đi tu
306. Muốn ăn gạo trắng nước trong, vượt qua dốc Kẻo vào trong Đàn Trầm
307. Muốn ăn gạo trắng nước trong, vượt qua núi Đẫu vào trong Ca Đình
308. Muốn ăn hét thì phải đào giun, muốn đén cống Cun phải đi thuyền mướn
309. Muốn ăn khoai lấy chồng đồng bãi, muốn dệt vải lấy chồng Đông Linh, muốn cầu
kinh lấy chồng làng Bèo, muốn hát chèo lấy chồng Thọ Lão
310. Muốn ăn mật ngọt lấy chồng Bình Hào, muốn ăn khoai ao lấy chồng Quảng Nạp
311. Học ăn học nói, học gói học mở
312. Khoan ăn bớt ngủ mới là người lo toan
313. Khôn ăn người
314. Khôn ăn người, dại người ăn
315. Khôn ăn trôn ngái, dại ăn trộm gần
316. Khôn kia dễ bán dại này mà ăn
317. Khôn làm dại ăn
318. Khôn ngoan kiếm ăn bề ngoài, những người vụng dại mới kiếm ăn quanh
319. Khôn ngoan kiếm ăn xứ người, mạt đời thì kiếm ăn quanh
320. Khôn ra ăn cháo ăn dừa
321. Khôn thì ăn trước ngồi trên, dại thì đứng dựa cột đình, đánh trống cầm canh
322. Không ăn còn đấy,mất đâu mà lo
323. Khôn ăn cũng mất tiếng rồi
324. Không ăn không ngủ là tiền vất đi
325. Làm anh, ăn trước bước đầu, vẽ vời em út ngó hầu thay cha
326. Làm anh làm ả phải nhả miếng ăn
327. Làm ăn có ngăn có nắp
328. Làm cỗ sẵn cho người ăn
329. Làm lẽ ăn bát mẻ, nằm chiếu manh
330. Làm lẽ ăn bát mẻ, nằm chiếu manh; làm cả ăn bát đại thanh nằm chiếu miến
331. Làm một tấc, ăn một thước
332. Làm nghề gì ăn nghề ấy
333. Măng tháng ba chưa la đã chạy, măng tháng bẩy ai bẻ gãy thì ăn, măng tháng
mười, mười người mười bẻ
334. Mầu củ đậu, hạt long chanh
335. Mít tròn,dưa vẹo. thị méo trôn
336. Mua bầu xem cuống
337. Mua bầu xem cuống mới toan không nhầm
338. Mua bầu xem cuống, mua muống xem lá, mua cá xem mang
339. Mua cá xem mang
340. Mua cá thì phải xem mang, mua bầu xem cuống mới toan không nhầm
341. Mua cá thì phải xem mang, người khôn xem lấy hai hàng tóc mai
342. Mua cua xem càng, mua cá xem mang
343. Mua nước mắm thì đi chợ Mèn, thuê thợ kèn thì về Thuyền Định
344. Mua thịt thì chọn miếng mông, lấy chồng thì chọn con tông nhà nòi
345. Mua trâu mua bò thì về chợ Sóc, mua thóc mua gạo thì về chợ Nang
346. Làm như ba ngày mùa, của để đâu cho hết, ăn như ba ngày tết, lấy của đâu mà ăn
347. Làm quan ăn lộc vua, ở chùa ăn lộc phật
348. Làm rán ăn nhịn có dư, làm ngon ăn dữ cũng như không làm
349. Làng chưa ăn, làng đã tới
350. Lành ăn, đễ khiến
351. Lạo xạo như cầy ăn ốc
352. Lắm lác thì ăn, lắm năn thì bỏ
353. Lấy ai thì cũng một chồng, lấy anh hàng thịt ăn lòng sớm mai
354. Lúc có thì không ăn dè, đến khi ăn hết ăn dè chẳng rau
355. Mẻ không ăn cũng chết
356. Mẹ ăn cơm chả, con lả bụng
357. Muốn ăn oản Bụt cho thơm, ba đồng gạo nếp thì đơm cả ngày
358. Muốn ăn oản phải giữ lấy chùa
359. Muốn ăn quả chín, nhớ người trồng cây
360. Muốn ăn quả phải trồng cây
361. Muốn ăn sim chín thì vào rừng xanh
362. Muốn ăn thì lăn vào bếp
363. Muốn ăn thì lăn vào bếp, muốn chết thì lết vào xăng
364. Muốn ăn thì trốc cúi phải bò
365. Muốn ăn trái, phải đốt gốc
366. Muốn ăn xôi thì ngồi gần bếp
367. Muốn đánh thì đẻ con ra, muốn ăn thì thổi cơm nhà mà ăn
368. Muốn đánh thời đẻ con ra, muốn ăn xôi gà, đóng tiền mà ăn
369. Muốn ngon ăn chả giò, muốn no ăn bánh đúc
370. Nay ăn một, mai ăn hai
371. Nay ăn tấm, mai ăn gạo
372. Năng ăn thì ói, năng nói thì lầm
373. Nếp đẻ khéo sẻ mà ăn
374. Ngày ba bữa ăn chưa no, đến khi đói bụng thì rờ đến niêu
375. Ngày làm tháng ăn.
376. Nhất cá rô tháng giêng, nhì cá tràu tháng mười
377. Nhất đầu cá chép, nhì mép cá trê
378. Nhất ngon là đầu cá gáy(chép), nhất thơm là cháy cơm nếp
379. Nhiều tiền ăn thịt, ít tiền ăn nây
380. Rành rành như canh nấu hẹ
381. Rành rành như canh nấu thịt
382. Rành rành như hành với tỏi
383. Rau bợ là vợ canh cua
384. Rau bợ làm vợ canh cua, ai chết nửa mùa sống lại mà ăn
385. Rau cải làng Tiếu, nấu nước điếu cũng ngon
386. Rau cần bồ hóng, rau muống phân tro
387. Rau chọn lá, cá chọn vẩy
388. Rau già cá ươn
389. Rau lang, cà quẹng, húp phều phào
390. Rau rền làng Rền nấu cá sộp kẻ Sộp, cá sộp kẻ Sộp kho rau rền làng Rền
391. Rau xem lá, cà xem cuống
392. Rượu tăm thịt chó nướng vàng, mời đi đánh chén cách làng cũng đi
393. Thà liếm môi liếm mép, còn hơn ăn chép mùa hè
394. Tháng chín thì quýt đỏ trôn, tháng hai ngái mọc cái con tìm về
395. Tháng năm cá mòi, tháng mười cá nục
396. Thịt gà chấm muối, cơm nguội trộn tương
397. Thịt không hành, canh không mắm
398. Thịt một giành, không hành không ngon
399. Thịt sơn son, dưa cuộn tròn
400. Thịt thăn cơm ré
401. Thịt thơm vì hành, trăng thanh vì Cuội
402. Thịt tươi thì phải xem gan, mua bầu xem cuống mới toan không nhầm
403. Thợ Sớm, cốm Vòng
404. Thứ nhất cháo hoa, thứ nhì bánh tráng, thứ ba nước chè
405. Thứ nhất lạc rang, thứ nhì khoai nướng
406. Thứ nhất thì bấu Chi Lăng, thứ hai thì khế Đồng Đăng, Kì Lừa
407. Thứ nhất thịt bò tái, thứ nhì gái đương tơ
408. Thương con thì cho ăn tiết, giết con thì cho ăn gan
409. Tiết vịt, gan gà, trứng cá rô
410. Tôm nấu sống, bống để ươn
411. Trẻ muối cà, già muối dưa
412. Ớt tháng ba, cà tháng hai
413. Quà đói bánh giò, quà no bánh đúc
414. Rau muống sinh cơ, rau dưa sinh huyết
415. Rau muống tháng chín mẹ chồng nhịn cho nàng dâu ăn
416. Ăn cơm vào mẹt, uống nước vào mo
417. Ớt cay gừng đắng
418. Ớt nào là ớt chẳng cay, gái nào là gái chẳng hay ghen chồng.
419. Quá khẩu thành tàn.
420. Quýt ngọt chanh chua
421. Rang cơm thì ngồi, rang xôi thì đảo
422. Rùa dùng cân, trạnh dùng lạng
423. Ruốc tháng 2 không khai thì thối
424. Rượu cổ be, chè đầy ấm
425. Rượu không hay, hay vì nhắm
426. Rượu không say, say vì chén
427. Sáng ngày bồ dục chấm chang, trưa gỏi cá chay, tối canh cá chầy.
428. Sâm núi Dành, hành Liên Xô
429. Sồn sồn ăn bậy, chín bấy mất ngon
430. Sớm chí tai, mai chí hầu.
431. Sượng mẹ, bở con
432. Thả vỏ quýt ăn mắm ngấu
433. Tháng bảy ngồi dưng, ăn cơm giả bữa
434. Tháng chín ăn rươi, tháng mười ăn ruốc.
435. Tháng 8 ăn ốc trông trăng
436. Thẳng da bụng, chùng da mắt
437. Thẳng da bụng chùng da mặt.
438. Thin thít như thịt nấu đông
439. Thịt ăn sau, rau ăn trước
440. Thịt cá là hoa, tương cà là gia bản
441. Thịt chó chấm nước chó.
442. Thịt mỡ, dao bầu
443. Thịt nạc dao phay
444. Thịt nạc dao phay, thịt mỡ dao bầu, xương xẩu dìu búa.
445. Thịt nạc dao phay, xương xẩu rìu búa
446. Thịt thối hơn muối bùi
447. Thứ nhất cháo hoa, thứ nhì bánh tráng, thứ ba nước chè.
448. Thứ nhất gạo lúa can, thứ hai gan cá bống.
449. Thứ nhất phao câu thứ nhì đầu cánh
450. Thứ nhất thịt bò tái, thứ nhì gái đương tơ
451. Thực túc binh cường
452. Tối cắt tai, mai cắt gáy, cắt tiết gà phải nhớ
453. Tối cắt tai, mai cắt hầu
454. Tốt cá rô khô nước mắm
455. Tốt cá vạ cơm.
456. Tốt mốc ngon tương
457. Trà chuyên nước nhất, hương dồn khói đôi.
458. Trà ngon rát họng, thuốc ngon quyện đờm
459. Trà ngon xuống bể, thuốc ngon lên rừng.
460. Trâu bò được ngày phá đỗ, con cháu được ngày giỗ ông.
461. Trâu teo heo nở.
462. Trâu thịt thì gày, trâu cày thì béo
463. Trâu tỏi bò gừng
464. Tương không ngon cũng cùng một giuộc.
465. Tửu tam trà nhị
466. Uống dấm để đỡ khát
467. Uống như thằn lằn uống nước cúng
468. Uống nước chè tàu, ăn trầu cơi thiếc
469. Ướp dưa phải dằn đá, vãi mạ phải soạn trưa
470. Vịt già gà tơ.
471. Mắm không ngon thì xem nước thống, việc làm không chóng coi bộ chân tay
472. Mắm ngấu nấu cá trê, võ nghề về đất Thánh
473. Mắm ngấu thì ngon, ruộng ngấu mẹ con cả mừng
474. Mặn mắm chết dòi
475. Măng chua nấu với ngạnh nguồn, sự đời đắp đổi khi buồn khi vui
476. Mắt to hơn bụng
477. Mía tháng 7 nước chảy về ngọn.
478. Miếng ngon ai chả gắp.
479. Miếng ngon ăn ít ngon nhiều, người khôn dẫu nói nửa điều cũng khôn.
480. Miếng ngon chẳng lọ là nhiều, người khôn mới nói nửa điều cũng khôn.
481. Miếng ngon đánh ngã bát đầy.
482. Miếng ngon nhớ lâu
483. Miếng ngon nhớ lâu, cơ cầu nhớ dai
484. Miếng ngon nhớ lâu, lời đau nhớ đời
485. Miếng ngon nhớ lâu, nhời khôn nhớ mãi, cơ cầu nhớ dai
486. Một bát cơm rang bằng sàng cơm thổi
487. Một đống khoai, hai đống vỏ
488. Một đống khoai, một đống vỏ
489. Một nạm gạo, một gáo nước
490. Một trăm cái cáy, không bằng hàm dưới con trê
491. Một trăm đám cưới không bằng hàm dưới cá trê
492. Mỡ hành canh mắm
493. Mỡ lợn đầy cong, mỡ lòng đong mấy thí
494. Mỡ như bánh rán
495. Mới để vào môi đã trôi xuống họng
496. Mua ăn mất, mua đất còn
497. Mùa bớt ra, chiêm tra vào
498. Mùa hè cá sông, mùa đông cá bể
499. Mùa màng cơm nấu, cơm rang
500. Mùa một thưng, chiêm ba đấu
501. Mùa nào thức ấy
502. Múa mõ không bằng gõ thớt
503. Muối dưa phải dằn đá
504. Muốn ngon ăn chả giò, muốn no ăn bánh đúc
505. Muốn ngon thì cốm dẹp
506. Muốn ngon thì cốm dẹp, muốn đẹp thì cháo hoa
507. Muốn no trồng màu, muốn giàu nuôi heo, để bớt khổ nghèo, gắng mà nuôi vịt.
508. Muốn no trồng mùa, muốn giàu nuôi heo, muốn nghèo đánh bạc.
509. Muốn trắng gắng láy cơm
510. Mười bảy vảy thì tha, mười ba vảy thì ních
511. Mướp non nấu với gà đồng.
512. Nắng gỏi mưa cầy
513. Nấu cơm không xới thì mất một bát, cày ruộng không lấp trôôc vát thì mất một triêng.
514. Ngon mồm ôm bụng
515. Ngon như xáo chó
516. Ngọt như đường
517. Ngọt như đường cát mát như đường phèn
518. Ngọt như đường, cay như ớt, đắng như mật ong
519. Ngọt như mật, đắng như rau
520. Ngọt như mía lùi
521. Người có ăn mới khỏe, mẻ không ăn thì mẻ cũng chết
522. Người cơm gạo, sống áo bù nâu.
523. Người đi không bực bằng người chực mâm cơm
524. Người gày thầy cơm
525. Người sống về gạo, cá bạo về nước
526. Nhà giàu ngày ăn ba bữa, nhà khó đỏ lửa ba lần
527. Nhà sạch thì mát, bát sạch ngon cơm
528. Nhân hiền tại mạo, trắng gạo ngon cơm
529. Nhất đậu phụng rang, nhì khoai lang nướng
530. Nhất gái một con, nhì thuốc ngon nửa điếu.
531. Nhất thủ nhì vĩ
532. Nhất trong là nước giếng bùi, nhất béo nhất bùi là cá rô câu
533. Nhất trong là nước thượng nguồn
534. Nhiều đường thì ngọt, roi mót thì đau.
535. Nhìn người đặt cỗ
536. Nhịn thuốc mua trâu, nhịn trầu mua ruộng
537. Nhọn gai mít dai, lẹt gai mít mật
538. Nhung nhúc như rươi tháng chín
539. Nhứt củ khoai đầu vồng, nhì có chồng Điện Nam.
540. Nhứt củ khoai đầu vồng, nhì có chồng trưởng nam
541. Nhứt trong là giếng làng đồi, nhất béo nhì bùi là cá rô câu.
542. No cơm tấm, ấm tổ rơm
543. No mất ngon
544. Nói cho phải cũng không bằng dưa cải chấm nước mắm, nói cho lắm cũng không
bằng nước mắm chấm dưa cải.
545. Nồi cơm không rế, mất một hạt, bờ ruộng không phạt mất một bó
546. Nồi đồng chóng sôi, nồi đất chóng chín
547. Nồi đồng dễ nấu, chồng xấu dễ sai
548. Nồi đồng đánh ra lại sáng
549. Nồi đồng sôi, nồi đất cũng sôi.
550. Nồng như vôi, cay như ớt
551. Nở như bánh rán
552. Nợ miệng trả đồng lần
553. Nước chè xanh vừa nồng vừa mát
554. Dạm tháng 8, rạm tháng 4, ếch tháng ba, gà tháng mười
555. Dao cùn thớt trũng
556. Dao sắc chắc kê
557. Dẻo như kẹo đàn
558. Dễ như ăn gỏi
559. Dĩ tửu vô lượng bất cập loạn
560. Dửng dưng như bánh chưng ngày Tết
561. Đàn ông quện nhà, đàn bà quện bếp
562. Đánh như đánh chó làm thịt
563. Đánh như đánh dê tế đền
564. Đặc như bí
565. Đâm đi đâm lại gái dại cũng làm nên
566. Đầu chép, mép mè
567. Đầu chép, mép trôi, môi mè, lườn trắm
568. Đầu diếc, mép trôi, môi mè, đuôi trắm
569. Đầu gà, má lợn
570. Đầu nheo hơn phèo trâu
571. Đầu to hơn giành
572. Đói ăn gì cũng ngon
573. Đói ăn muối cũng ngon
574. Đậu nành là anh nước lã
575. Đố ai biết món gì ngon, gà lộn trái vải, cu con ra ràng
576. Ếch tháng 3, gà tháng 7
577. Ếch tháng 3, gà tháng 10
578. Ếch tháng mười người Hà Nội
579. Ếch tháng mười, người tháng giêng
580. Gà cựa dài thì rắn, gà cựa ngắn thì mềm
581. Gà lọt giậu, chó sáu bát
582. Gà nộn trái vải, cu con ra ràn (thức ăn ngon
583. Gà luộc hai lần
584. Gà luộc lại, gái cải giá
585. Gà mổ đằng bụng, chim mổ đằng lưng
586. Gan trôi, môi mè
587. Gạo da ngà, nhà gỗ lim
588. Gạo đầu mùa thổi củi chùa cũng ngon
589. Gạo tám xoan, chim ra ràng
590. Gạo tám xoan, chim ra ràng, cà cuống trứng
591. Gạo tám xoan, chim ra ràng, gái mãn tang, gan gà giò
592. Gạo trắng ngon cơm
593. Già nước ngọt canh, già hành ngọt cháo, già nói láo người ghét
594. Giàu cơm thịt, khó cơm rau
595. Giàu khó đều phải ăn rau, ốm đau đều phải uống thuốc
596. Giàu nồi đồng, khó nồi đất
597. Giàu thì cơm cháo bổ lao, khó thì đánh điếu thuốc lào ngậm hơi
598. Giận mất khôn, lo mất ngon
599. Giêng hai lấm đường, mùa mường lấm miệng
600. Gỏi thèm nem thừa
601. Góp gạo thổi cơm chung
602. Gỗ trắc đem lát ván cầu, yến sào đem nấu với đầu tôm khô
603. Hanh heo đường trèo lên ngọn
604. Hạt muối mặn ba năm còn mặn, củ gừng cay chín tháng còn cay
605. Hay ăn thì lăn vào bếp
606. Hoài tiền mua thuốc nhuộm răng, để tiền mua bánh đúc mà quăng vào mồm
607. Hoài tiền mua thuốc nhuộm răng, để tiền mua mía đánh khăng vào mồm
608. Học ăn học nói, học gói học mở
609. Húp nước phải chừa cặn
610. Ít bột không nặn nhiều bánh
611. Kê bì ngư cốt
612. Kê tam khuyển lục
613. Kêu cho thấu, nấu cho chín
614. Khế xanh nấu với ốc nhồi, tuy nước nó xám mà mùi nó ngon
615. Khôn ăn cái dại ăn nước
616. Khôn ngoan diện mạo, trắng gạo ngon cơm
617. Làm khách thì sạch ruột
618. Làm như ba ngày mùa, của để đâu cho hết, ăn như ba ngày Tết, lấy của đâu mà ăn
619. Liệu mỡ tra hành, liệu cơm gắp mắm
620. Liệu người thổi cơm
621. Liệu người thổi cơm, chớ để cơm thừa gạo thiếu
622. Ló chín thì lâu, cơm sôi thì chút
623. Lòng bầu cũng như ruột bí
624. Lợn đầu, cau cuối
625. Lợn giò, bò bắp.
626. Ăn bún thang, cả làng đòi cà cuống
627. Ăn chân sau, cho nhau chân trước
628. Bánh đúc bày sang
629. Bánh đúc bẻ ba, mắm tôm quệt ngược, cửa hàng tan hoang
630. Bánh đúc bẻ ba, mắm tôm quệt ngược đàn bà Phúc Lai
631. Bánh giầy phải đậy bằng nong, bài học vỡ long đã rệt hai chân
632. Cảnh cau rau khoai
633. Bánh giầy lăn đỗ, ăn dỗ tiền bà, mất cửa mất nhà, vì bà lăn đỗ
634. Bánh ít trao đi, bánh dì trao lại
635. Bánh chưng chấm mật, ngon thật là ngon
636. Bánh chưng xanh vừa hành vừa mỡ
637. Muốn ăn cơm ngon lấy con mụ mót; muốn ăn canh ngọt lấy chú đi câu; muốn ăn
canh bầu lấy chồng Doan Thượng
638. Nem tỏi gỏi riềng
639. Ở vườn nhà ăn cau sâu
640. Chè trên cháo dưới

Phong tục tập quán ăn uống


CA DAO:
1.Văn Yên người ngọt ngào thơm
Ra về nhớ mãi bữa cơm nếp mùa
2.Cầu Đá ăn cá bỏ đầu
Xóm Chụt lượm lấy xỏ xâu đem về
3. Đa Ngư ăn cá bỏ đầu
Phú Lương thấy tiếc xỏ xâu đem về
4. Đồng Trì ăn ốc ăn trai
Yên Mĩ nước ngập mười hai năm ròng
5.Làng Mui thì bán củi đồng
Nam Dư mía mật giàu lòng ăn chơi
Thanh Trì buôn bán mọi nơi
Đồng Nhân Thúy Ái là nơi chăn tằm
Làng Mơ thì bán rượu tăm
Sờ Lờ cua ốc quanh năm đủ đời.
6.Làng Sến đồng trắng nước trong
Có về làng Sến ăn rong thì về
Làng Sến có ruộng bốn bề
Có thợ đục đá, có nghề bán phân
7.Làng Vạc ăn cỗ ông Nghè
Làng Vân, làng Chè kéo đá ông Đăng.
8.Tiếng ai như tiếng xứ Đoài
Ăn cơm thì ít ăn khoai thì nhiều.
9.Đến ngày mồng sáu tháng ba
Ăn cơm với cà đi hội chùa Tây
Miếng trầu ăn nặng bằng chì
Ăn rồi em biết lấy gì đền ơn
Miếng trầu ăn nặng là bao
Muốn cho đồng liễu tây đào là hơn
10. Miếng trầu ăn nặng bằng chì
Ăn thì đã vậy, lấy gì trả ơn
Miếng trầu ăn nặng ai têm
Xin chàng cầm lấy, cho em miếng trầu
TỤC NGỮ
1.Ăn bữa nay bày bữa mai, để củ khoai bữa mốt
2.Ăn Bắc, mặc Kinh
3. Ăn bữa sáng, lo bữa tối
4. Ăn cá trời dễ ai ăn được
5. Ăn hay ở thật, mọi tật mọi lành
6. Ăn hết bị đòn, ăn còn mất vợ
7. Ăn hết nhiều, ở hết bao nhiêu
8. Ăn vóc học hay
9. Ăn hơn hờn thiệt
10. Ăn hơn hờn thiệt đánh tiệt cất đi
11. Ăn hơn hờn thiệt, đánh tiệt cất đi, làm chi thì làm
12. Ăn kẻ Gủ, ngủ kẻ Rét
13. Ăn khi đói nói khi hay
14. Ăn không thì hóc, chẳng xay thóc phải ẵm em
15. Ăn mặn kẻ Nét, nói phép Yên Tử
16. Ăn mận trả đào
17. Ăn như Nam, làm như Bắc
18. Ăn ở có trời có đất
19. Ăn ở như bát nước đầy
20. Ăn sung ngồi gốc cây sung
21. Ăn tại phủ, ngủ tại công trường
22. Ăn tám lạng, mặc tham bền
23. Ăn tám lạng, trả nửa cân
24. Ăn xứ Bắc mặc xứ Đoài
25. Ăn xứ Bắc, mặc xứ Kinh
26. Có má ở nhà mới có cá mà ăn
27. Cơm ăn mỗi bữa mỗi bò, lấy chồng La Thượng chỉ lo đeo giành
28. Cơm ăn mỗi bữa mỗi bò, lấy chồng Vĩnh Một phải mò khoai ao.
29. Cơm ăn mỗi bữa mỗi chim, lấy chồng Viễn Lãm chết chìm nay mai.
30. Cơm ăn một bữa, ngủ với chồng nửa trống canh.
31. Cơm có bữa, chợ có chiều
32. Cơm kể ngày, cày kể cuối
33. Cơm làng áo, cháo làng Bơ, lơ thơ làng Bùng
34. Cơm nắm ăn với muối vừng, lấy vợ Vân Đội thì đừng chê đen.
35. Cơm nắm chợ Săn, phá tan quân Bún Thượng
36. Cơm nặng áo dầy
37. Cơm sôi không cho đàn ông ngó, ló lổ chớ cho đàn bà nhìn.
38. Cơm sôi nhỏ lửa, ló chín trời mưa
39. Cơm sôi nhỏ lửa một đời không khê.
40. Cơm với cá như mạ với con
41. Cơm vua, nợ dân
42. Dưa mắm thắm về lâu
43.Đức Thắng trọng lệ thông gia, mới ăn lễ hỏi bánh và bốn trăm.
44.Đừng ăn cây táo mà rào cây sung
45.Đừng ăn quá miệng, đừng diện quá sang
46.Được ăn bánh giò không bằng coi trò làng Láng
47 .Được ăn cả, ngã về không
48.Được ăn được nói được gói đem về
49.Được ăn được nói, mất ăn mất nói
50.Em là con gái kẻ Cài, ăn cơm thì ít, ăn khoai thì nhiều
51. Tương cà là gia bản
52. Đi chạ, cái giá cắn đôi
53. Có nhơn đạo mới có gạo nấu
54. Có thì ăn, không có bấm bụng mà chịu
55. Cơm cha, áo mẹ, công thầy.
56. Cơm làm ruộng, cá kiếm ăn
57. Miếng trầu là đầu câu chuyện
58. Miếng trầu là đầu thuốc câm
59. Cơm tẻ ăn no, vải to mặc ấm
60. Cơm tẻ mẹ ruột
61. Ăn cơm không rau như nhà giàu chết không kèn trống
62. Ăn cơm không rau như đánh nhau không có người gỡ
63.Có dưa chừa rau
64.Có cà thì tha gắp mắm
65.Thịt cá là hương hoa, tương cà là gia bản
66.Có cá đổ vạ cho cơm
67.Con cá đánh ngã bát cơm
68.Lời chào cao hơn mâm cỗ.
69.Vị tình vị nghĩa không ai vị đĩa xôi đầy
70. Ăn trông nồi ngồi trông hướng
Quan niệm, triết lý ẩm thực
CA DAO:
1. Chẳng thơm cũng thể hoa nhài
Chẳng lịch cũng thể con người Thượng Kinh
Chẳng chua cũng thể là chanh
Chẳng ngọt cũng thể cam sành chín cây
2. Chiều chiều lại nhớ chiều chiều
Nhớ nồi cơm nguội, nhớ niêu nước chè
Ngồi buồn nhớ cá trích ve
Nhớ bát nước dừa, nhớ chén đường non
Nhớ hồi cá trích y con
Thịt heo cắt khúc, lòng còn ước mơ.
3. Đừng về đường ấy cho xa
Đi về Cổ Điển với ta cho gần
Cổ Điển sẵn cầu rửa chân
Có ao tắm mát lại gần giếng khơi
Muốn ăn cơm trắng cá trôi
Thì về Cổ Điển buôn nồi cùng anh
Muốn ăn cơm trắng canh cần
Thì về Cổ Điển sắm cân buôn nồi.
4. Gió đưa gió đẩy về rẫy ăn còng
Về bưng ăn cá, về đồng ăn cua
Bắt cua làm mắm cho chua
Gởi về quê nội khỏi mua tốn tiền
5. Gió đưa gió đẩy về rẫy ăn còng
Về sông ăn cá, về đồng ăn cua
6.Khi nào Bến Thủy hết dầu
Đô Lương hết gạo ta cầu duyên em
7.Khi nào hết lúa Hội Lâm
Anh lui về Phuống, Rộ để kết tri âm với nường
8.Gạo chợ một tiền mười thưng
Mẹ con nhịn đói vì chưng không tiền
9.Gạo chợ Nguyễn ai đong cho xiết
Gái làng Đoài ai biết cho thông
10. Gạo đâu mà nấu nồi mười
Tiền đâu mà cưới được người làng Khoai
11. Gắng công kén hộ cốm Vòng
Kén hồng Bạch Hạc cho lòng ai vui.
12. Hết gạo thì có Đồng Nai
Hết củi thì có Tần Sài chở vô.
13. Khoai lang ba tháng bẩy vồng
Thương em quá bộ băng đồng đến đây
Hãy ráng nghe anh ngỏ lời này.
Cái duyên giải cấu ai bày mà nên
14. Khoai lang bóc vỏ 2 đầu
Nửa thương Phủ Tĩnh, nửa sầu Quảng Xương
15. Khoai lang củ sượng củ trân
Siêng ăn nhác mần mà lựa củ to.
16. Khoai lang đậu phụng thì ngon
Vì cha mi nhác để con nhịn thèm.
17. Khoai lang Suối Mít
Đậu phụng Hòn Dung
Chàng đào thiếp mót, bỏ chung một gùi.
18. Mặc dầu cha đánh, mẹ đe
Em đây chẳng bỏ bát chè Đông Viên.
19. Mẹ ơi, đừng gả chồng xa
Tuy rằng kẻ bể, đất ta cũng màu
Đi về, con cá lá rau
Mua gạo chợ Vực, mua trầu chợ Đông
Lấy ai cũng lấy một chồng
Kiếm ăn ngày tháng no lòng thì hơn
20. Mẹ ơi, đừng gả chồng xa
Tuy rằng ít ruộng, đất ta lắm màu
Ngô, khoai, rau, đậu, bông, dâu
Đây bến đò dọc, kia cầu chợ Hôm
Chẳng tham tiền lắm, người giòn
Thương anh đò dọc, “hò khoan” cả ngày.
21. Một mai nước lớn đò trôi
Cây khô lá rụng bậu ngồi chờ ai?
Bậu ngồi chờ củ chờ khoai
Chờ thơm, mít chín, chờ xoài cà lăm.
22. Năm tiền một khứa cá buôi
Cũng mua cho đặng, đãi người khách sang.
23. Ngồi buồn nhớ cảnh bờ xe
Nhớ nước dừa nạo nhớ chè đường non
Nhớ hồi cá trích y con
Thịt heo cắt khúc lòng còn ước mơ.
24. Em về Đập Đá, Gò Găng
Không về Phù Mĩ sợ ăn củ mì
25. Từ ngày ăn miếng trầu trao
Miếng ăn môi thắm ngày nào cho quên.
26. Lấy chồng Phù Mĩ ăn dưa
Lấy chồng Dương Liễu đạp xơ dừa mỏi tay
27. Lấy chồng Tân Long, Tân Hội, bà nội hổng cho
Lấy chồng Suối Sỏi ăn mắm kho rặc ròng
28. Lấy chồng Trịnh Mễ làm chi?
Đồng sâu ruộng hiếm, lội khe trèo rừng
Ở đây cơm chạu cá chưng
Tha hồ chả phải cầm chừng mà lo.
29. Lấy chồng về Bàn Gõ nước mắt nhỏ hai hàng
Tay bưng mâm cơm để đó, giã chín néo bàng mới ăn.
30. Lòng thương con gái Kiến Vàng
Đầu đội neo bàng, tay xách mo cơm.
31. Ma Liên ăn cá bỏ đầu
Chợ Xổm thấy vậy bỏ xâu đem về.
32. Mọi nơi đi gặt lúa mùa
La Sơn đi vớt rau dừa về ăn..
33. Một năm ba cái lụt liền
Lấy gì làm thú giải phiền anh ơi
Cơm nắm ăn với muối vừng
Lấy chồng Hà Thiết xin đừng chê đen.
34. Muôn nghìn chớ lấy kẻ La
Cái tương thì thối, cái cà thì thâm.
35. Muốn ăn rễ tía trầu vàng
Đông con nên gả cho làng Chạ Nghi
36. Muốn làm kiểng lấy gái Sài Gòn
Muốn ăn mắm lấy gái đen giòn Bạc Liêu.
37. Muốn lên chợ Mới ăn dừa
Sợ e Chợ Mới phỉnh lừa người ta.
38. Muốn ăn hét phải đào giun
Phá bờ xông bụi nào còn biết e.
39. Muốn ăn mơ nổi mận chìm
Anh cũng lận đận đi tìm của chua
40. Rủ nhau đi cấy xứ Đoài
Ăn cơm thời ít, ăn khoai thời nhiều
41. Yêu nhau cho thịt cho xôi
Ghét nhau đưa đến Kim Bôi, Hạ Bì.
42. Từ khi em về làm dâu
Anh thì dặn trước, báo sau mọi lời
Mẹ già giữ lắm em ơi!
Nhịn ăn, nhịn mặc, nhịn lời mẹ cha
Nhịn cho nên cửa nên nhà
Nên kèo, nên cột, nên xà tầm vông
Nhịn cho nên vợ nên chồng
Thời em coi sóc lấy trong cửa nhà
Đi chợ thời chơi ăn quà
Đi chợ thời chớ rề rà ở trưa
Dù ai bảo đợi, bảo chờ
Thời em nói dối con thơ em về
43. Thà ăn bắp hột chà vôi
Còn hơn giàu có bồ côi một mình
44. Thà ăn bát cơm rau
Còn hơn cá thịt, nói nhau nặng lời
45. Thà ăn nửa quả hồng
Còn hơn ăn cả chùm sung chát lè
46. Thích ăn khoai sượng
Lấy chồng Yên Trung
Thích ăn cà bung
Lấy chồng dưới xóm
Thích ăn cá món
Lấy chồng kẻ bể
Thích ăn ở nể
Thì lấy chồng quan
Thích đi đốt than
Lấy chồng Bàn Thạch
47. Thiên duyên kì ngộ gặp chàng
Khác chi như thể phượng hoàng gặp nhau
Tiện đây ăn một miếng trầu
Hỏi thăm quê quán ở đâu chăng là
Xin chàng quá bước vào nhà
Trước là hỏi chuyện sau là nghỉ chân
48. Thiên hạ đời mô, thiên hạ đời chữ
Ăn cơm đứt giọng nói chuyện tầm phào
Nói cho cây xa cội, nói cho lựu xa đào
Cho gái thuyền quyên sấp mặt.
49. Thuốc An Lương hương thơm, khói nhẹ
Chè Hòa Hội nước đậm mùi hương
Em về mua vải chợ Gồm
Gò Găng mua nón, phiên Chàm anh vô.
50.Thiên vàn chớ lấy học trò
Dài lưng tốn vải ăn no lại nằm
Hay nằm thì có võng đào
Dài lưng thì có áo trào nhà vua
Hay ăn thì có thóc kho
Việc gì mà chẳng ăn no lại nằm
51.Thóc bồ thương kẻ ăn dong
Có chồng thương kẻ nằm không một mình
52.Thóc bồ thương kẻ ăn đong
Có chồng thương kẻ nằm không một mình
Có chồng thương kẻ vắng chồng
Vắng chồng thương kẻ đứng đồng mà kêu
53. Thóc bồ thương kẻ ăn dong
Vắng chồng thương kẻ nằm không một mình
54.Thóc đâu mà nộp cho Tây
Nó ăn nó béo, nó đầy đọa ta
Hỡi này các bạn nông gia!
Bảo nhau đừng nộp thóc ta cho thù
55.Thơm gì mày, hỡi hoa thiên lý
Quý gì mày, hỡi cá mương sông
Tuồng gì cua ốc ngoài đồng
Đẹp gì người ấy mà lòng say mê!
56. Thương ai em nói khi đầu
Để cho thầy mẹ ăn trầu một nơi
Ăn trầu người ta như chim mắc nhợ
Uống rượu người ta như cá mắc câu
57. Thương nhau bỏ đãy ăn trầu
Tối tăm mù mịt biết đâu là đèn?
Trầu em, anh đã ăn quen
Bất luận chi đèn, bất luận chi trăng
Têm trầu em bỏ đầy đãy đầy khăn
Gà cất tiếng gáy, em ăn anh về
Chuyện chi mà đã vội về
Ở chơi nát nữa hãy về được không?
Em ơi, em chớ cầm lâu
Để anh về sớm mở trâu ra cày
Ra cày để cấy mùa đông
Em bận quần hồng, em đứng ngã ba
Mồ hôi giọt giọt nhỏ sa
Giày lâu nhỏ đượm ướt ba quần hồng
58. Trách ai ăn giấy bỏ bìa
Khi thương thương vội, khi lìa lìa xa
59. Trai Thô Sơn ăn khoai ăn củ
Mà lên rừng bắt hổ về chơi
Xuống biển tìm giết cá voi
Đi học biết chữ gấp đôi ông thầy
60.Trăng lên có chiếc sao chầu
Hỏi thăm đào liễu đã ăn trầu ai chưa?
Mận hỏi thì đào xin thưa:
Vườn hồng có lối nhưng chưa ai vào
61.Trầu ai bưng tới thì ăn
Rượu ai rót uống duyên căn tại trời
62.Trâu ăn không béo mà thèm
Ngãi nhơn không mấy mà đem lòng phiền
Tà tà bóng ngả trăng nghiêng
Bao nhiêu vui về bạn, bấy nhiêu phiền về ta
63.Trầu ăn là nghĩa, thuốc xỉa là tình
Ấy ai cắt mối tơ mành
Cho thuyền quên bến, cho anh quên nàng
64.Trầu ăn là nghĩa
Thuốc xỉa là tình
Đội ơn phụ mẫu sanh mình dễ thương
65.Trầu bọc khăn trắng cau tươi
Trầu bọc khăn trắng đãi người xinh xinh
Ăn cho nó thỏa tâm tình
Ăn cho nó hả sự mình sự ta
66.Trầu cau đắt lắm anh ơi
Anh ăn điếu thuốc cầm hơi đỡ buồn
67. Trầu em, trầu gói trong khăn
Trầu gói trầu em, trầu quế, vừa vôi
Anh ăn một miếng kết đôi vợ chồng
68. Trầu vàng ăn với cau sâu
Lấy chồng thua bạn thêm sầu mà hư
69. Trầu xanh, cau trắng, chay vàng
Cơi trầu bít bạc, thiếp mời chàng ăn chung
70. Trên trời có đám mây xanh
Ở giữa mây trắng, chung quanh mây vàng
Ước gì anh lấy được nàng
Để anh mua gạch Bát Tràng về xây
Xây dọc anh lại xây ngang
Xây hồ bán nguyệt cho nàng rửa chân
Có rửa thì rửa chân tay
Chớ rửa lông mày chết cả ao anh
Nhà anh có một cây chanh
Nó chửa ra cành nó đã ra hoa
Nhà anh có một mẹ già
Thổi cơm chẳng chín, quét nhà chẳng nên
Ăn cỗ thì đòi mâm trên
Mân son bát sứ đem lên hầu bà
Bà giận bà chẳng ăn cho
Bà đi chăn vịt cho nhà chúa công
Vịt chết thì bà trôi sông
Bao nhiêu con gái chưa chồng thì phải lấy anh đây
71. Đã từng ăn bát cơm đầy
Đã từng nhịn đói bảy ngày không ăn
72. Đêm khuya thắp ngọn đèn chai
Quen ăn nốc đáy ăn hoài cá tươi
73. Đêm khuya thiếp mới hỏi chàng
Cau khô ăn với trầu vàng xứng không
74. Đêm khuya thiếp mới hỏi chàng
Cau xanh ăn với trầu vàng xứng chăng
Cau xanh nhá với trầu vàng
Duyên em sánh với tinh anh tuyệt vời
75. Đói lòng ăn hột chuối ri
Đói năm, đói tháng chẳng phải đói chi một ngày
76. Đắng lòng ăn hột chà là
Để cơm nuôi mẹ, mẹ già yếu răng
77. Đói lòng ăn lá rau lu
Còn hơn làm mướn lí Xu một ngày
78. Đói lòng ăn nắm lá sung
Chồng một thời lấy, chồng chung thì đừng
79. Đói lòng ăn nắm lá sung
Chồng một thì lấy, chồng chung thì đừng
Một thuyền một lái chẳng xong
Một chĩnh đôi gáo còn nong tay vào
79. Đắng lòng ăn nửa quả sim
Uống lưng bát nước đi tìm người thương
Người thương ơi hỡi người thương
Đi đâu mà để buồng hương lạnh lùng?
80. Đói lòng ăn nửa trái sim
Uống lưng bát nước đi tìm người thương
81.Đói lòng ăn trái khổ qua
Nuốt vô thì đắng, nhả ra bạn cười
82. Đói lòng ăn trái ổi non
Nhịn cơm nuối mẹ, cho tròn nghĩa xưa
83. Đói lòng ăn trái thanh yên
Tội chi làm bé, ăn riêng một mình
84. Đói thì ăn cơm lại no
Từ ngày có vợ chẳng dò đi đâu
85. Đói thì ăn khế ăn sung
Trông thấy mẹ chồng thì nuốt chẳng trôi
86. Đói thì ăn nắm cám rang
Làm thuê cai Ngấu ăn vàng chẳng đi
87. Đói thì ăn ngô, ăn khoai
Đừng ở với dượng điếc tai láng giềng
88. Đói thì ăn ráy ăn khoai
Chớ thấy lúa trỗ tháng hai mà mừng
89. Gặp đây ăn một miếng trầu
Mai ra đường cái gặp nhau ta chào
Miếng trầu, của chả là bao
Chỉ mong đông liễu, tây đào gần nhau
90. Gặp em ăn một miếng trầu
Gọi là nghĩa cũ về sau mà chào
Miếng trầu đã nặng là bao
Muốn cho đông liễu tây đào là hơn
Miếng trầu kể hết nguồn cơn
Muốn xưng đây đấy thiệt hơn thế nào
Miếng trầu là nghĩa tương giao
Muốn cho đây đấy duyên nào hợp duyên
91. Gặp nhau đây ăn miếng trầu xanh
Chả ăn cầm lấy cho anh vừa lòng
92. Giàu người ta ăn mâm thau đầy đĩa
Khó đôi đứa mình lưng đĩa quá lưng
Mắm đam chấm với rau mưng
Theo nhau cho trọn, xin đừng bỏ nhau
93. Gió đưa gió đẩy về rẫy ăn còng
Về sông ăn cá, về đồng ăn cua
94. Hà tiện mà ăn cháo hoa
Đồng đường, đồng dậu cũng ra ba đồng
95. Khi xưa ăn những gạo vay
Bây giờ mó đến cái chày rã hơi
96. Khó mà biết lẽ biết lời
Biết ăn biết ở hơn người giàu sang
97.Khôn ngoan thời kiếm ăn ngoài
Vô phúc mạt đời mới kiếm ăn quanh
98. Khôn thì ăn trước ngồi trên
Dại thì đứng dựa cột đình đánh chống cầm canh
99.Không ăn sợ ốm sợ gầy
Ăn thì nước mắt chan đầy bát cơm
100.Không chồng ăn bữa nồi năm
Ăn đói ăn khát mà cầm lấy hơi
Có chồng ăn bữa nồi mười
Ăn đói ăn khát mà nuôi lấy chồng
101. Không hữu tình nhủ cố hữu tình
Chim không ăn cá, cá rình ăn chim
102. Không thèm ăn gỏi cá mè
Không thèm nói với một bè trẻ ranh
Không thèm ăn gỏi cá mương
Không thèm nói với một phường trẻ ranh
Không thèm ăn gỏi cá chày
Không thèm nói với thằng thầy mày đâu
103. Lại đây ăn miếng trầu cay
Nhắc người tình xưa nghĩa cũ kẻo lâu ngày quên đi
104. Làm anh ăn trước bước đầu
Vẽ vời em út ngõ hầu thay cha
105.Làm người cho biết tiện tằn
Đồ ăn thức mặc cho ngần thì thôi
Những người đói rách rạc rài
Bởi phụ của trời, làm chẳng nên ăn
106. Lấy ai thì cũng một chồng
Lấy anh hàng thịt ăn lòng sớm mai
107.Lấy anh mà cạy mà nhờ
Ăn hơn miếng cháy, anh làm tờ để ra
108. Lấy lính thì được ăn lương
Lấy thầy ăn óc ăn xương gì thầy
Em đừng lấy lính mà khinh
Lãnh binh, Thống chế, Tam dinh một dòng
109.Mẫy bữa ni anh ăn phở với cao lầu
Bữa ni anh ăn một bát canh bầu cho mát chân răng
110.Mẹ em muốn ăn cá thu
Bắt anh ra biển mù mù tăm tăm
Mẹ em thách cưới một trăm
Anh đi chín chục, mười lăm quan ngoài
111. Mẹ mong gả thiếp về vườn
Ăn bông bí luộc dưa hường nấu canh
112.Miếng trầu ăn một trả mười
Ăn sao cho được một người như em
113.Miếng trầu ăn ngọt như đường
Đã ăn lấy của phải thương lấy người
114. Miếng trầu của đáng là bao
Chẳng ăn cầm lấy cho nhau bằng lòng
Thưa rằng: bác mẹ em răn
Làm thân con gái chớ ăn trầu người
115. Mồ cha cái cố làm hầu
Ăn cau vòng nguyệt, ăn trầu cánh dơi
Ăn rồi chẳng đặng nghỉ ngơi
Cơm cháo không thiếu mà người lại hư
116. Mồng chín tháng chín có mưa
Thì con đi sớm về trưa mặc lòng
Mồng chín tháng chín không mưa
Thì con bán cả cày bừa mà ăn
117. Một mình ăn chẳng no lòng
Lại thêm có vợ lại hòng có con
Anh về thưa với mẹ cha
Rằng em có cửa có nhà đã lâu
118. Một mình ăn hết bao nhiêu
Mò cua bắt ốc cho rêu bám đùi
119. Một mình ăn hết cũng nhiều
Còn thừa đem bán mua siêu cho chồng
120. Ngày ngày ăn bát cơm rang
Ăn con tép mại dạ càng long đong
Chim sầu cất cánh bay rông
Em nhớ nhân gãi dốc lòng ra đi
Chàng đừng trách em ăn ở bất nghì
Cha cầm mẹ giữ chẳng đi được nào
Chàng đi vực thẳm non cao
Em mong tìm vào đến núi Tản Viên
Bao giờ nở núi Tản viên
Cạn sông Tô lịch thiếp mới quên lời chàng
121. Người ăn thì người lại đi
Ta ăn ta ở cùng thì sớm mai
122.Từ ngày em về nhà này
Tưởng ngày một khá, hóa ngày một hư
Đi chợ ăn những quà trừ
Đi tắm mất váy, khư khư chạy về
Nấu cơm trên sống dưới khê
Đủ cả tứ bề như thể cháo hoa
Bữa ăn nồi bay nồi ba
Quanh năm ngày tháng chẳng ra đồng nào
Rửa bát ngủ gật cầu ao
Ngủ trưa chồng gọi, kêu sao nhức đầu
Ăn nói cẩu nhảu, cầu nhàu
Sai em rinh nước đổ vào tàu khoai
Việc ăn em chẳng kém ai
Hễ mó đến gánh thì vai sứt hờ
Việc làm chểnh mảng thờ ơ
Lại thêm một chút làm thơ với chồng
123. Tham ăn mà chẳng cho mèo
Có hai con mắt mà xèo một con
124. Thằng trọc mà ăn canh măng
Đánh rắm, đánh rít thối hoăng cả làng
Bà vãi vác gậy đi khua
Mồm cha thằng trọc ở chùa bà chi
125. Thì la thì lảy
Con gái bảy nghề
Ngồi lê là một
Dựa cột là hai
Theo trai là ba
Ăn quà là bốn
Trốn việc là năm
Hay nằm là sáu
Láu táu là bảy
126.Thơm gì bà lão ăn thừa
Bà ăn chẳng được bà lừa cho tôi
127. Muốn ăn đậu phụ tương tàu
Mài dao đánh kéo gọt đầu đi tu
Mồm thì tụng niệm nam mô
Miệng thì rượu thịt lu bù sớm hôm
Một tay gõ mõ gõ chuông
Một tay bóp vú cô nường nghe kinh’
128. Muốn ăn gắp bỏ cho người
Gắp đi gắp lại, lại rơi vào mình,.
129. Muốn ăn mà chẳng muốn mần
Cha mi lại bỏ cái bần cho mi.
130. Đi tu Phật bắt ăn chay
Thịt chó ăn được, thịt cầy thì không
131. Em là con gái Phủ Từ
Lộn chồng trả của, theo sư chùa Viềng
Đói ăn thịt chó nấu riềng
Bán rau mảnh bát lấy tiền nộp theo
Dù còn thiếu thốn bao nhiêu
Xin làng đừng có cắm nêu ruộng chùa
132. Giẹp như đầu cá chai
Tham ăn tranh vợ là trai Kim Bồng
Nhọn như đầu cá nhồng
Tham ăn tranh chồng là gái Cẩm Phô
133. Học đòi ăn ớt với gừng
Vừa cay vừa đằng lại chừng mắt lên
134. Học trò ăn vụng càng cua
Bà thầy bắt được, để tôi mua tôi đền
135. Khi ăn chẳng nhớ đến tai
Đến khi phải bỏng lấy ai mà rờ
136. Làm thì chẳng dám bằng ai
Ăn thì thứ nhất thứ hai trong làng
137. Làm trai cho đáng nên trai
Ăn cơm với vợ lại nài vét niêu
Sống chết thời ông cũng liều
Ông quyết không để cái niêu phần mày
138. Làm trai cho đáng nên trai
Ăn cơm với vợ lại nài cạy niêu
Con vợ nó cũng biết điều
Thắt lưng con cón, cạy niêu với chồng
139. Làm trai cho đáng nên trai
Véo đũa cho dài, ăn vụng cơm con
140. Làm trai cho đáng nên trai
Ăn cơm với vợ lại nài vét niêu
141. Lấy chồng ăn những của chồng
Ăn hết con mắt, khoét lòng con ngươi
142. Muốn ăn măng trúc măng dang
Măng tre, măng nứa, chè bàng, cơm lam
Muốn ăn sim chín đi tìm
Đó ai tìm được đem lên hầu nàng
Chim kêu vượn hót trên ngàn
Bây giờ đã đến trăng tàn canh ba
143. Người khôn ăn miếng thịt gà
Tuy rằng ăn ít nhưng mà ngon lâu
Người dại ăn trái bồ nâu
Ăn no bĩnh bầu chẳng biết mùi ngon
TỤC NGỮ:
1. Ăn bánh đúc đục mặt
2. Ăn cá bỏ lờ
3. Ăn cá vá chài
4. Ăn cái rau, trả cái dưa
5. Ăn cam nhớ quýt, ăn hồng nhớ nhau
6. Ăn cám trả vàng
7. Ăn canh cả cận
8. Ăn cáy dễ bưng tay
9. Ăn cắp quen tay, ngủ ngày quen mắt
10. Ăn cây côi, thôi cây dưới
11. . Ăn cây đào, rào cây bồ hòn
12. Ăn cây nào rào cây nấy
13. Ăn cháo đái bát
14. Ăn cháo để báo cho con
15. Ăn cháo để gạo cho vay
16. Ăn cháo đòi ói, ăn rau xanh ruột
17. Ăn cháo làm báo cho cơm
18. Ăn chặn cả cơm chim
19. Ăn chẳng bõ dính răng
20. .Ăn chẳng bõ ỉa
21. Ăn chẳng bõ nhã
22. Ăn chẳng có, khó đến mình
23. Ăn chẳng đến no, lo chẳng đến phận
24. Ăn chẳng hay nói chẳng biết
25. Ăn chẳng hết, thết chẳng khắp
26. Ăn chẳng nên đọi, nói chẳng nên lời
27. Ăn chắt để dành
28. Ăn chân sau, cho nhau chân trước
29. Ăn châu chấu, ỉa ông voi
30. Ăn chinh chích, ỉa con voi
31. Ăn cho đều, kêu ho sòng
32. Ăn cho ngay, ở cho lành
33. Ăn cho ngon, chịu đòn cho đáng
34. Ăn cho no, đo cho thẳng
35. Ăn cho rỗng cửa rỗng nhà
36. Ăn cho sạch, bạch cho thông
37. Ăn cho sống không phải sống mà ăn
38. Ăn cho thật, nói cho thà
39. Ăn chọn nơi, chơi chọn bạn
40. Ăn chuối không biết lột vỏ
41. Ăn chưa no, lo chưa tới
42. Ăn chưa no, lo đã đến
43. Ăn chưa sạch, bạch chưa thông
44. Ăn chực đòi bánh chưng
45. Ăn cơm chúa múa tối này
46. Ăn cơm có canh, tu hành có vãi
47. Ăn cơm còn có khi đổ
48. Ăn cơm gà gáy, cất binh nửa ngày
49. Ăn cơm gà gáy, xuất quân ban chiều
50. Ăn cơm, hết phần chó
51. Ăn cơm tấm nói chuyện triều đình
52. Ăn cơm trả gạo, ăn cháo trả tiền
53. Ăn cơm trên nói hớt
54. Ăn cơm vay, cày ruộng rẽ.
55. Ăn cơm với cá, cơm chó còn đâu
56. Ăn cướp cơm chó, ăn tranh cơm mèo.
57. Ăn cướp dở không bằng ăn trộm
58. Ăn cướp đường xa, ăn quà chợ lạ
59. Ăn cứt không biết thối
60. Ăn dỗ, người ăn giỗ giả
61. Ăn dối làm thật
62. Ăn dưa chừa rau.
63. Ăn đâu cũng gạo nhà này
64. Ăn đấu trả bồ
65. Ăn đây nói đó
66. Ăn đầy mồm đầy miệng
67. Ăn đến nơi làm đến chốn
68. Ăn đều tiêu sòng
69. Ăn gắp năm gắp mười
70. Ăn gấp năm, vơ gấp mười
71. Ăn hàng con gái, đái hàng bà lão
72. Ăn hơn nói kém
73. Ăn khoai cả vỏ
74. Ăn khoai lang trả tiền bánh rán
75. Ăn không biết trở đầu đũa
76. Ăn không dám ăn, mặc không dám mặc
77. Ăn không được, chê là hôi
78. Ăn không được đạp đổ
79. Ăn không kể bát, hát không kể đêm
80. Ăn không kể bát, hát không kể đêm, vật không kể nền, bền không kể đá.
81. Ăn không lo của kho cũng hết
82. Ăn không nên, làm chẳng ra
83. Ăn không ngon, ngủ không yên
84. Ăn mày cầm tinh bị gậy
85. Ăn mày chả tày giữ bị
86. Ăn mày đánh đổ cầu ao
87. Ăn mày giữ bị
88. Ăn mắm khát nước
89. Ăn mắm lắm cơm
90. Ăn mắm thì ngắm về sau
91. Ăn miếng chả, trả miếng bùi
92. Ăn miếng cho ngon phải đờn cho đáng
93. Ăn miếng ngon, chồng con giả người
94. Ăn miếng trả miếng
95. Ăn sung, sung sướng làm sao
96. Ăn sương nằm gió sức đọ nghìn cân, võ nghệ chỉ cần ngoắc một ngón tay.
97. Ăn tấm trả rặt
98. Ăn thì cho, buôn thì so
99. Ăn trộm ăn cướp thành phật thành tiên, đi chùa đi chiền bán thân bất toại
100. Ăn trộm không xấu bằng đâm cấu ban ngày (đâm cấu:giã gạo)
101. Ăn trộm quen tay, ngủ ngày quen mắt
102. Ăn trông nồi, ngồi trông hướng
103. Ăn trứng thì đừng ăn con
104. Ăn trước, bước sau
105. Ăn trước sạch bát
106. Ăn trước trả sau
107. Ăn trước trả sau, đau hơn hoạn
108. Ăn tuỳ nơi, chơi tuỳ chốn
109. Ăn vi thủ, ngủ vi tiên
110. Ăn vỏ dưa, thấy vỏ dừa mà sợ
111. Ăn vóc học hay
112. Ăn vừa ở phải
113. Ăn xin cho đáng ăn xin
114. Ăn xưa, chừa nay.
115. Có ăn có chịu
116. Có ăn có chọi mới gọi là trâu
117. Có ăn thì có làm
118. Có ăn vất vả đã cam, không ăn ta nghỉ ta làm làm chi
119. Có bụng ăn, có bụng lo
120. Có cà thì tha gắp mắm
121. Có cá đổ vạ cho cơm
122. Có cấy có trông, có trồng có ăn
123. Có chè có rượu không thiếu anh em
124. Có cơm ăn cơm, có cháo ăn cháo
125. Có cơm thì vạn người hầu
126. Có cơm thì vạn người hầu, có bấc có dầu thì vạn người khêu
127. Có nhơn đạo mới có gạo nấu
128. Có rau ăn rau có cháo ăn cháo
129. Có sức ăn có sức chịu
130. Có thì ăn, không có bấm bụng mà chịu
131. Có thóc cúng thóc, có tiền cúng tiền
132. Có thực mới vực được đạo
133. Có tiền, có thóc làm cóc chi không nên
134. Có tiếng không bằng có miếng
135. Có xôi có thịt mới nên phần
136. Cờ ba cuộc, cơm ba bát, thuốc ba thang
137. Cờ bạc ăn nhau về sáng
138. Cơm ai nấy ăn, việc ai nấy làm
139. Cơm ăn chẳng sớm thì trưa, cái nón đội đầu chẳng mưa thì nắng
140. Cơm ăn cơm gỡ, mẹ ngỡ đi đâu
141. Cơm ăn cũng có hột rơi hột vãi
142. Cơm ăn tiền lấy
143. Cơm ăn, tiền lấy, giấy trả quan
144. Cơm ba bát, áo ba manh.
145. Cơm ba bát, áo ba manh, đói chẳng xanh, rét chẳng chết
146. Cơm ba bát tắm mát sớm mai.
147. Cơm cà là nhà có phúc
148. Cơm cả rá, cá cả nồi
149. Cơm cá chả chim
150. Cơm cá giả mặt Bụt
151. Cơm cày cơm cấy, ai thấy thì ăn
152. Cơm cha, áo mẹ, công thầy.
153. Cơm cháo chẳng ăn mạnh gì thầy
154. Cơm chẳng ăn gạo còn đó
155. Cơm chín tới, vợ mới về
156. Cơm đâu cũng gạo nhà này.
157. Cơm đâu no bụng chó, cỏ đâu no bụng trâu
158. Cơm đâu no chó, thóc đâu nuôi gà.
159. Cơm là gạo, áo là tiền.
160. Cơm làm ruộng, cá kiếm ăn
161. Cơm nhà ăn ngon, con nhà dễ khiến
162. Cơm nhà chưa, mưa tối ngày.
163. Cơm sáng thợ bừa, cơm trưa thợ mộc.
164. Cơm sống là cơm thảo, cơm nhão là cơm hà tiện.
165. Cơm tốt chan canh cũng đành chịu húp
166. Cơm trắng ăn với chả chim, chồng đẹp vợ đẹp những nhìn mà no.
167. Cơm vào dạ như vạ vào mình
168. Đánh nhau chia gạo, chào nhau ăn cơm
169. Khen nết hay làm ai khen nết hay ăn
170. Khéo ăn thì no, khéo co thì ấm
171. Khi ăn tùy chủ, khi ngủ tùy con
172. Khi kiến ăn cá, khi cá ăn kiến
173. Đi trước ăn trước, đi sau ăn sau
174. Đói ăn gì cũng ngon
175. Đói ăn muối cũng ngon
176. Đói đảo ngói mà ăn
177. Đói cháy ăn ra, tim la ăn vào
178. Đông cao có lệ bó mo, Tráng Việt có tiệc đi mò ăn đêm
179. Đồng Sài ăn khoai nói phét
180. Đời cha ăn mặn, đời con khát nước
181. Đời cha trồng cây, đời con ăn quả
182. Đứa ăn mắm, đứa khát nước
183. Đứa dại làm đứa khôn ăn
184. Được ăn, chịu thua
185. Được bữa kiêng ăn, gặp lần hết gạo
186. Được thì ăn thua thì chịu
187. Gái đẻ ăn ngon, chồng con trả người
188. Gần chùa thì được ăn xôi
189. Ghen vợ, ghen chồng không nồng bằng ghen ăn
190. Gần nhà có giỗ, không được ăn cỗ cũng được liếm lá
191. Gần nhà giàu đau răng ăn cốm
192. Gần nhà giàu đau răng ăn cốm, gần kẻ trộm ốm lưng chịu đòn
193. Già ăn trẻ lại, gái ăn đắt chồng, nhỡ nhỡ nhừng nhừng ăn được lứa đẻ thêm
194. Già quen việc, trẻ quen ăn
195. Giàu thì cũng chẳng có them, khó khăn ta liệu ta làm ta ăn
196. Giàu út ăn, khó út chịu
197. Giời cho sống lâu gặp đâu ăn đấy
198. Hán Đà là đất ăn chơi, gánh nước bằng sọt chẳng rơi hạt nào
199. Hay ăn chóng lớn
200. Hay ăn Cổ Mễ, hay lễ Y Na
201. Hay ăn đi ở vú, hay đú đi làm nàng hầu
202. Hay ăn hay đói, hay nói hay lỗi
203. Hay ăn hay ngủ là tiên
204. Hay ăn hay uống là tướng trời sinh
205. Hay ăn, khỏe ngủ
206. Hương Ninh là đất ăn chơi, được thời bán hết khó thời đi vay
207. Làm cố được, ăn không cố được
208. Làm gắng hơn ăn gắng
209. Làm kĩ, nghỉ ăn
210. Miếng ngon ăn ít ngon nhiều
211. Miệng ăn núi lở
212. Miệng hỏa lò ăn hết cơ nghiệp
213. Con chẳng ăn nhời mẹ cha, cá chẳng ăn muối chắc là cá ươn
214. Cơm ăn công lấy, sáng rửa cưa, trưa mài đục, tối giục nhau về.
215. Cơm chẳng lành, canh chẳng ngon, chín đụn mười con cũng lìa.
216. Cơm chẳng lành, canh chẳng ngọt
217. Cơm chéo áo, gạo chéo khăn
218. Cơm cười người no
219. Cơm đổ lỗ chuột, còm chẳng còm kheo.
220. Cơm gạo đổ lỗ hà
221. Cơm khê tại lửa
222. Cơm mẹ thì ngon, cơm con thì đắng
223. Cơm nem đã trải, tay tranh đã từng
224. Cơm no, bò cưỡi
225. Cơm sôi bớt lửa, chồng giận bớt lời.
226. Cơm sôi cả lửa thì khê, việc làm hay hỏng là lề thế gian.
227. Cơm sôi cả lửa thì trào.
228. Cơm sống vì nồi, không sống vì vung.
229. Cơm thì chia nhau, rau thì tháo khoán
230. Cơm thừa, gạo thiếu
231. Cơm vào miệng cũng còn rơi
232. Cơm vua, ngày trời, tối rày còn mai.
233. Cua thâm càng, nàng thâm môi
234. Cua thâm càng, đàn ông thâm môi
235. Dốc bồ thương kẻ ăn đong
236. Dốc bồ thương kẻ ăn đong, có chồng thương kể nằm không một mình.
237. Dốc bồ thương kẻ ăn đong, góa chồng thương kẻ nằm không một mình.
238. Khi ăn chẳng nhớ đến tai, đến khi phải bỏng lấy ai mà rờ
239. Khi lành cho nhau ăn cháy, khi dữ mắng nhau cạy nồi
240. Khó khăn đắp đổi lần hồi, giàu thì chưa dễ em ngồi em ăn
241. Đói lòng ăn nắm lá sung, chồng một thì lấy chồng chung thì đừng
242. Đói thì ăn cơm lại no, từ ngày có vợ chẳng dò đi đâu
243. Đói thì ăn khế ăn sung, trông thấy mẹ chồng thì nuốt chẳng trôi
244. Đói thì ăn ngô ăn khoai, đừng ở với dượng điếc tai láng giềng
245. Đói thì ăn rau mơ rễ khoai, đừng vào gò Lai mà chết
246. Đói thì ăn ráy ăn khoai, chớ thấy lúa giỗ tháng hai mà mừng
247. Đói thì ăn vất, mất thì nói quàng
248. Đói thì vào Lói mà ăn
249. Già ăn trẻ lại, gái ăn đắt chồng
250. Giũa không ăn giũa
251. Làm giàu có số, ăn cỗ có phần.
252. Làng được mùa, sãi chùa ăn no
253. Mau miệng ăn thưa miệng nói
254. Ăn cá bỏ lờ
255. Ngày làm tháng ăn
256. Ngon như ăn tép mỡ
257. Quýt chín chẳng rụng thì rơi, cam sành không rụng để đời trên cây
258. Quân tử thực vô cầu bão, cư vô cầu an.
259. Quân tử viễn bào trù
260. Quen như cơm bữa
261. Răng đen vì thuốc, rượu nồng vì men
262. Rượu ngon phải có bạn hiền
263. Rượu uống thì say, vò đầu rối tóc.
264. Sắp xuống lộ, trộ khoai cũng thèm
265. Sống ăn gỏi cá lình, chết không có minh tinh thì đừng
266. Sống ăn khoai làng Dạm, chết không có tạm cũng thôi
267. Sống được miếng dồi chó, chết được bó vàng tâm.
268. Sống no hơn chết thèm.
269. Sống ở trên đời ăn miếng dồi chó
270. Sống thì chẳng cho ăn nào, chết thì cúng giỗ mâm cao cỗ đầy
271. Sống thì cua nướng ốc lùi, chết cũng nên đời ăn những miếng ngon.
272. Sợ bát cơm đầy chứ không sợ thầy lớn tiếng.
273. Sợ người ở phải, hãi người cho ăn.
274. Sớm ăn, tối nhịn
275. Tát nước lấp lỗ, ăn cỗ lấy phần.
276. Thà giữ con trâu đực còn hơn chực bữa cơm.
277. Thèm cho chết, chẳng thết, chẳng ăn.
278. Thèm cho thịt, chẳng thiết cho ăn.
279. Thủ thỉ ăn sỏ lợn
280. Thuốc phiện hết nhà, thuốc trà hết phên.
281. To như cỗ giỗ
282. Tối ăn khoai đi ngủ, sáng ăn củ đi làm
283. Trẻ con hay ăn quà, đàn bà hay nhẹ dạ
284. Trẻ thì miếng thịt miếng xôi, già đánh đáo lưỡi càng gia tinh thần
285. Trời đánh còn cho ăn
286. Trời đánh còn tránh miếng ăn
287. Trời đất hương hoa, người ta cơm rượu
288. Uống rượu chẳng say như vay chẳng trả
289. Uống rượu ngồi trên, lên thuyền ngồi đầu
290. Uống rượu thịt chó, xem nôm Thúy Kiều
291. Uống chè tàu, ngồi trường kỉ
292. Vào quả cà, ra quả táo
293. Vắt chân chữ ngũ, đánh củ khoai lang
294. Vợ ăn hàng, chồng đánh bạc
295. Vợ già canh ngọt
296. Vụng sà vụng sịt lắm thịt cũng ngon
297. Vuông như bánh chưng
298. Xanh nhà, lợn gà người
299. Xi xao ba bữa ngày mùa
300. Mau tay hơn tày đũa
301. Mắm nào vừa miệng cả làng
302. Mâm cao đánh ngã bát đầy
303. Mâm cơm sui không bằng cái muôi con cá chuồn
304. Miếng thịt là miếng nhục
305. Miếng trầu là đầu câu chuyện
306. Miếng trầu là đầu thuốc câm
307. Miệng đặt trước cỗ
308. Nam thực như hổ, nữ thực như miêu
309. Nam vô tửu như kỳ vô phong
310. Nát dẻo sống bùi
311. Ngày qua bữa chẳng qua
312. Ngậm bánh đúc xúc bát cơm
313. Ngon miệng anh, lành manh áo
314. Nhà nghèo cơm không rau như nhà giàu chết không trống
315. Nhẩn nha như bóc bánh
316. Nhất béo, nhất bùi, gà liền xương
317. Nhịn miệng thết khách
318. Nhớ bát xôi dẻo, nhớ nẻo đường đi
319. Ai ưa dưa khú bầu già
320. Dân dĩ thực vi tiên
321. Dĩ ăn vi thủ, dĩ thủ vi tiên
322. Dĩ thực vi tiên
323. Đã chết, cái nết không chừa, đến mai đi chợ, chộ dừa lại ăn
324. Đánh mõ không bằng gõ thớt
325. Đẹp vàng son, ngon mật mỡ
326. Để cho người đói nấu cơm, người no thổi lửa, người hờn rửa rau.
327. Đểnh đoảng như rau cần nấu suông
328. Điếu kêu tốn thuốc
329. Đói cho chết, ngày tết cũng no
330. Đũa cong không bằng chồng dại
331. Được mùa khoai lang, khỏi mang công nợ
332. Già ăn trẻ lại, gái ăn đắt chồng
333. Già ăn trẻ lại, gái ăn đắt chồng, nhỡ nhơ nhừng những ăn được lứa đẻ thêm
334. Già được bát canh, trẻ được manh áo mới
335. Giọng chua như mẻ
336. Giời cho sống lâu, gặp đâu ăn đấy
337. Hạt thóc dưới đất, miếng ăn trên rừng
338. Hạt tiêu nó bé nó cay, đồng tiền nó bé, nó hay cửa quyền
339. Hay ăn một chén, hay ren rén một bát
340. Hết cái thì đến nước
341. Hết gạo thì nạo thêm khoai
342. Hết lòng còn ruột
343. Hết nạc vạc đến xương
344. Hết xôi rồi việc.
345. Hóc xương gà, sa cành khế
346. Hộ pháp ăn bỏng
347. Hộ pháp ăn tép
348. Hộ pháp cắn trắt
349. Hơn cơm rẻ gạo
350. Khách đến nhà chẳng gà thì gỏi
351. Khách đến nhà chẳng trầu thì thuốc
352. Khách đến nhà không con gà thì bát nếp
353. Khi ăn tùy chủ, khi ngủ tùy con
354. Khỏi họng ra bọng dơ
355. Không ăn cũng mất tiếng rồi
356. Làm đi không bì làm lại
357. Làm giàu có số, ăn cỗ có phần
358. Làm trai cho đáng nên trai, một trăm bữa cỗ chẳng sai bữa nào
359. Làm trai cho đáng nên trai, vót đũa cho dài ăn vụng cơm con
360. Lao xao như mụ xào tép
361. Cam ngon, quýt ngọt đã từng, còn quả khế rụng trên rừng chưa ăn
362. Canh suông khéo nấu thì ngon, mẹ già khéo nói thì con đắt chồng
363. Canh tập tàng ngon, con tập tàng khôn
364. Ăn cỗ là tổ việc làng
365. Ăn cỗ là tổ việc làng
366. Ăn đã vậy múa gậy làm sao
367. Ăn độc chốc đít
368. Ăn đời ở kiếp chi đây, coi nhau như bát nước đầy thì hơn
369. Ăn đợi nằm chờ
370. Ăn đưa xuống, uống đưa lên
371. Ăn được ngủ được là tiên
372. Ăn được ngủ được là tiên, không ăn không ngủ mất tiền thêm lo
373. Ăn gạo nhớ kẻ đam xay giần sàng
374. Ăn gian giàn ra đấy.
375. Ăn giỗ chớ đi sau, lội bàu chớ đi trước
376. Ăn giỗ ngồi áp vách, có khách ngồi thành bàn
377. Ăn ha hả, trả hi hỉ
378. Ăn ha hả, trả ngùi ngùi
379. Ăn lãi tuỳ chốn, bán vốn tuỳ nơi
380. Ăn làm sóng, nói làm gió
381. Ăn lấy thơm lấy tho chứ không đi ăn lấy no lấy béo
382. Ăn lấy vị chứ ai lấy bị mà mang
383. Ăn liều, tiêu càn
384. Ăn năn thì sự đã rồi
385. Ăn nể ngồi không non đồng cũng lở
386. Ăn ngay nói thật
387. Ăn ngay nói thật, mọi tật mọi lành
388. Ăn ngọt trả bùi
389. Ăn nhau cướp miếng nhử mồi, nào đâu có phải tại đôi chân vò
390. Ăn nồi ba làm ra nổi bẩy.
391. Ăn nồi bẩy thì ra, ăn nồi ba thì mất
392. Cho trọ mà nọ cho ăn
393. Chồng ăn chả, vợ ăn nem
394. Chồng ăn chả, vợ ăn nem, đứa ở có thèm, mua thịt mà ăn
395. Chuối hàng sau cau hàng trước
396. Có cơm ăn, hãy hết đồng mắm
397. Mẹ ăn con giả
398. Rau muống tháng chín mẹ chồng nhịn cho nàng dâu ăn
399. Ăn cộc, bốc rạ
400. Ăn bẩn như ma trơi
401. Ăn bánh trả tiền
402. Ăn bằng nói chắc
403. Ăn bên ngoại, bái bên nội
404. Ăn bòn giòn tay, ăn mày say miệng
405. Ăn bốc quen tay ngủ ngày quen mắt
406. Ăn bớt ăn xén, xé mắm còn hòng mút tay
407. Ăn bừa ăn bãi, ăn hại của trời
408. Ăn kĩ làm dối
409. Ăn là anh, làm là em
410. Ăn mày cầm tinh bị gậy
411. Ăn mày chả tày giữ bị
412. Ăn mày đánh đổ cầu ao
413. Ăn mày đòi mặc áo yếm
414. Ăn mày đòi mặc áo gấm
415. Ăn mày đòi xôi gấc
416. Ăn mày đòi xôi gấc, ăn chực đòi bánh chưng
417. Ăn mày giữ bị
418. Ăn mắm mút dòi
419. Ăn mật trả gừng
420. Ăn một nơi ấp một nơi
421. Ăn nạc bỏ cùi
422. Ăn ngồi tựa vách, có khách nói tôi ngụ cư
423. Ăn ngủ bẩn như thợ nề
424. Ăn nhà diệc, việc nhà cò
425. Ăn như gấu ăn trăng
426. Ăn như hùm đổ đố
427. Ăn như phát tấu
428. Ăn như phát tấu, làm như trấu vãi
429. Ăn như quỷ phá nhà chay
430. Ăn như rồng cuốn, làm như cà cuống lội ngược
431. Ăn như rồng cuốn, nói như rồng leo, làm như mèo mửa
432. Ăn như tằm ăn rỗi
433. Ăn như thần trùng
434. Ăn như thợ ngoã, làm như ả chơi trăng
435. Ăn như thúng lủng khu
436. Ăn như thuồng luồng
437. Ăn như thuyền chở mã, làm như ả chơi trăng
438. Ăn như tráng, làm như lão
439. Ăn như vạc
440. Ăn như xáng múc, làm như lục bình trôi
441. Ăn như xáng thổi, làm như chổi cùn
442. Ăn no chạy làng
443. Ăn no cho tiếc
444. Ăn no giậm chuồng
445. Ăn no giở mặt, xúc bước chân đổ đi
446. Ăn no lấp mề
447. Ăn no, ngồi chỗ mát
448. Ăn no ngủ kĩ, chổng tĩ lên trời
449. Ăn no rửng mỡ
450. Ăn no rửng phao câu
451. Ăn no sinh sự
452. Ân no, to đám
453. Ăn no, trách cả nồi cơm
454. Ăn no tức bụng
455. Ăn nói có gang có thép
456. Ăn non, vừa ngon vừa dễ
457. Ăn nồi ba làm ra nồi bảy
458. Ăn ốc nói mò
459. Ăn ốc nói mò, ăn cò nói bay.
460. Ăn ốc nói mò, ăn măng nói mọc, ăn cò nói leo
461. Ăn ở như chó với mèo
462. Ăn ở trần, mần mặc áo
463. Ăn quà như mỏ khoét
464. Ăn quả vả, trả quả sung
465. Ăn quen chầy ngày phải mắc
466. Ăn quen chồn dần mắc bẫy
467. Ăn quen nhịn không quen
468. Ăn rá cơm, ỉa rá cơ
469. Ăn ráy ngứa miệng
470. Ăn sang đủ miếng, mồm mè, me chép, nuốt thì trôi
471. Ăn sấp mặt sấp mũi
472. Ăn sâu ngập cánh
473. Ăn sung giả ngái
474. Ăn sung ngồi gốc cây sung, ăn rồi lại ném tứ tung ngũ hành
475. Ăn táo trả hột
476. Ăn tham chắc mặc tham dày
477. Ăn tham mồm lam chóp chép
478. Ăn tham như chàm bàm chốc mép
479. Ăn tham thàm làm chốc mép
480. Ăn tham trời làm chết nghẹn
481. Ăn tham nói dại
482. Ăn thật, làm dối
483. Ăn thì ăn những miếng ngon, làm thì chọn việc cỏn con mà làm
484. Ăn thì có mó thì không
485. Ăn thì cúi trốc đẩy nốc thì van làng
486. Ăn thì đùa, thua thì chịu
487. Ăn thì gắp năm vơ mười
488. Ăn thì mau chân, việc cần thì đủng đỉnh
489. Ăn thì như thúng lủng khu, mần thì đủng đỉnh như du mới về
490. Ăn thì no, cho thì tiếc, để dành thì thiu
491. Ăn thì nói dối nói ngang
492. Ăn thì thút cổ như cổ cò, mần thì thút cổ như cổ hôn
493. Ăn thì trợn trừng trợn trạc
494. Ăn thịt người không biết tanh
495. Ăn thịt thì thối, ăn đầu gối thì thơm
496. Ăn thịt thì thối, ăn đầu gối thì trơ
497. Ăn thủng nồi trôi rế
498. Ăn thúng trả đấu
499. Ăn thuốc bán trâu, ăn trầu bán ruộng
500. Ăn to nói lớn
501. Ăn trên chái đái xuống sân
502. Ăn tro giọ trấu, ỉa cứt ra than
503. Ăn trộm chiêng không dám đánh
504. Ăn trộm có kẻ điểm chỉ, làm đĩ có kẻ mai dong
505. Ăn trộm có tang, chơi ngang có tích
506. Ăn trước bước mau, ăn sau bước thưa
507. Ăn trước, bước sau
508. Ăn từ đầu dần đến cuối dậu
509. Ăn vặt quen mồm
510. Ăn vô chừng chẳng biết đói no
511. Ăn vụng không biết chùi mép
512. Ăn vụng mới ngon
513. Ăn vụng như chớp
514. Ăn vụng quen tay, ngủ ngày quen mắt
515. Ăn xong quẹt mỏ
516. Ăn xôi chùa ngậm miệng, mắc nước bí bó tay
517. Ăn xôi chùa ngọng miệng
518. Ăn vụng phải biết chùi mép
519. Chịu đấm ăn xôi
520. Chưa ăn, cha rìu con rựa, ăn rồi, cha ngựa con giường
521. Chưa ăn cha rít con rít, ăn rồi cha ngả con nghiêng
522. Chưa ăn cỗ đã chực lấy phần.
523. Chưa ăn cỗ đã lo mất phần
524. Chưa ăn đã lo đói
525. Chưa đánh mõ đã băm thịt
526. Chưa đặt đít đã đặt mồm
527. Chưa đi chợ đã lo ăn quà
528. Có cá mòi đòi cá chiên
529. Có cam phụ quýt
530. Có cam phụ quýt có người phụ ta
531. Có cha bẻ đùi gà cho con
532. Có cháo đòi chè
533. Có lưng thăng gạo khấn trời làm mưa
534. Có mâm cỗ họ, miếng vào miếng ra
535. Có miếng còn hơn có tiếng
536. Có miệng ăn mà không có tay làm.
537. Có một thúng gạo khấn trời đừng mưa
538. Có oản phụ xôi
539. Có thịt đòi xôi
540. Có thịt khen thịch nạc, có lạc khen lạc bùi
541. Có thóc mới bóc ra gạo
542. Có thóc thì róc ra gạo, có gạo thì nạo ra cơm
543. Coi miếng ăn như cái tàn cái tán
544. Coi miếng ăn như vàng
545. Cơm ăn chẳng hết thì treo, việc làm chẳng hết thì kêu láng giềng.
546. Cơm kề miệng chẳng ăn
547. Cơm treo mèo nhịn đói
548. Kẻ tham ăn lấy răng đào miệng
549. Đói ăn sung, cùng ăn ngái, dại ăn khế
550. Đói ăn vụng, túng làm liều
551. Hay ăn mà chẳng hay làm
552. Hay ăn một chén, hay ren rén một bát
553. Hay ăn thì lăn vào bếp, chẳng ai khen cái nết ăn làm gì
554. Hấp tấp như cháo đổ mặt mâm
555. Mẹ chồng ăn hồng cả hột
556. Mẹ chồng mà dữ giết trâu ăn mừng
557. Mẹ chồng mà dữ mổ bò ăn khao
558. Mèo nào chẳng ăn vụng mỡ
559. Mèo nào mèo lại ăn than, bởi chưng có mỡ đổ tràn lên trên
560. Méo miệng đòi ăn xôi vò
561. Miếng ăn là miếng nhục
562. Miếng ăn là miếng tồi tàn
563. Miếng ăn là miếng tồi tàn, mất ăn một miếng lộn gan lên đầu
564. Miếng ăn là miếng tốt, miếng nuốt là miếng xấu
565. Miếng ăn là miếng xấu, miếng thịt là miếng nhục
566. Miếng ăn quá khẩu thành tàn
567. Miệng thì mời xin, bụng thì lạy đừng ăn
568. Miệng tu hú ăn lở rú lở ri
569. Muốn ăn không muốn làm
570. Có của đóng cửa đi ăn mày
571. Có xôi nói với xôi, có thịt nói với thịt
572. Có xôi nói xôi dẻo, có thịt nói thịt bùi
573. Có xôi vò, đòi xôi gấc
574. Cố đấm ăn xôi, đấm thì vô hồi, xôi chẳng được ăn
575. Cốc làm cho diệc nó xơi
576. Cốc mò cò ăn
577. Cơm cha, áo mẹ ai ơi, chẳng ăn cũng thiệt, chẳng chơi cũng hoài.
578. Cơm cha áo mẹ ăn chơi, cắt lấy cơm người đổ bát mồ hôi.
579. Cơm đã tới mồm giật không cho ăn
580. Cơm người việc ta, nhẩn nha mà làm
581. Cơm nhà, việc người
582. Cơm sống tại nồi, cơm sôi tại lửa.
583. Cơm sống tại vung.
584. Gần chùa chẳng được ăn xôi
585. Giàu ăn khó chịu
586. Giàu ăn khó chịu cho yên một bề
587. Giàu ăn uống, khó đánh nhau
588. Hà tiện ăn cháo hoa
589. Hà tiện mà ăn cháo hoa, đồng đường đồng đậu cũng ra ba đồng
590. Hà tiện mà ăn cháo hoa, mười lăm đỗng đỗ, mười ba đồng đường
591. Ham ăn mắc bẫy
592. Ham ăn thì lú, ham ngủ thì mê
593. Hết xôi rồi việc
594. Hết thịt ăn cá, thừa giấy vẽ voi
595. Hòa Làng ăn cơm rang nói phét
596. Kẻ ăn không hết, kẻ lần chẳng ra
597. Kẻ ăn không ngồi rồi, người làm không hết việc
598. Kẻ ăn mắm người khát nước
599. Kẻ ăn rươi, người chịu bão
600. Kẻ chặt cây người ăn trái
601. Không ăn lươn vẫn phải chịu nhớt
602. Không ăn ốc phải đổ vỏ
603. Không được ăn thì đạp đổ
604. Ki cóp cho cọp nó ăn
605. Kiếm ăn xa, độc nước
606. Kiếm được một muốn ăn mười
607. Kiêng ăn nhằm ngày hết gạo
608. Kiêng ăn cái nước
609. Làm giả ăn thật
610. Làm trai cho đáng nên trai, ăn cơm với vợ, lại nài vét niêu
611. Lấy chồng ăn hết của chồng, ăn hết con mắt khoét lòng con ngươi
612. Ngày ba bữa ăn chưa no, đến khi đói bụng thì rờ đến niêu
613. Ngày đi làm ăn, đêm làm lăn ngủ.
614. Ruộng cheo, cháo thí, nghe hát nhờ
615. Thực bất tri kì vị
616. Tọa thực sơn băng
617. Trên sống, dưới khê, tứ bề nát bét
618. Uống nước không chừa cặn
619. Uống rượu li bì, công nợ như Chúa Chổm
620. Uống rượu ngồi dai
621. Uống rượu như hũ chìm
622. Ngốn như bò ngốn rơm
623. Ngốn như xa cán ngốn bông
624. Ngủ lắm thì lắm chiêm bao, ăn lắm ỉa lắm cứt cao hơn đầu.
625. Ngủ ngày quen mắt, ăn vặt quen mồm
626. Người ăn cháy, kẻ cạy nồi
627. Người ăn ốc, người đổ vỏ
628. Người bạo thì đâm cốm
629. Người bạo thì đâm cốm, người ốm thì nhồi dưa
630. No dạ đã thèm
631. No hết ngon, giận hết khôn
632. Đan mủng giữa đường, rán mỡ đầu gió
633. Đánh bạc quen tay, ngủ ngày quen mắt, ăn vặt quen mồm
634. Đau răng ăn cốm
635. Đồng bấc thì qua, đồng quà thì nhớ
636. Đũa bếp khấy nồi bung
637. Hay ăn thì lăn vào bếp, chẳng ai khen cái nết ăn làm gì
638. Hay ăn thì lăn vào bếp, chẳng ai khen cái nết hay làm
639. Hay ăn thì lăn vào bếp, chẳng ai khen cái nết không làm.
640. Hay ăn vào bếp, chống chết quản voi
641. Hiếm thịt cá, thừa giấy vẽ voi
642. Hồng rim chê nhạt, cháo bồi khen ngon
643. Kẻ tham ăn lấy răng đào miệng
644. Ăn cỗ nắm phần
645. Ăn của chồng thì ngon, ăn của con thì nhục
646. Ăn của chó, nói xó cùng ma
647. Ăn đàn anh, làm đàn em
648. Ăn đường ngủ chợ, không trốn chúa thì lộn chồng
649. Cố đấm ăn xôi, cố lôi ăn thịt
650. Ăn bát cơm dẻo, nhớ nẻo đường đi

You might also like