You are on page 1of 38

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI

TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ


Khoa/Viện: Kinh tế và Kinh doanh Quốc tế

BÀI TẬP LỚN


Tên học phần: Toàn cầu hóa và khu vực hóa trong nền kinh tế thế giới
Mã số lớp học phần: INE3109 1

Họ và tên giảng viên: 1. PGS.TS. Nguyễn Xuân Thiên


2. Th.sĩ Mai Thị Thanh Mai
Họ và tên Sinh viên: Dương Ngọc Huyền Linh
Mã số Sinh viên: 20050861
Lớp khóa học: QH-2020E KTQT CLC 3

Hà Nội, tháng 2 năm 2023


ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ
Khoa/Viện: Kinh tế và Kinh doanh Quốc tế

BÀI TẬP LỚN


Tên học phần: Toàn cầu hóa và khu vực hóa trong nền kinh tế thế giới
Mã số lớp học phần: INE3109 1
Chủ đề: Trình bày và phân tích cơ sở lý thuyết và thực tiễn về sự hội
nhập kinh tế quốc tế của ASEAN? Hãy cho biết vị trí ý nghĩa của Việt
Nam khi hội nhập kinh tế ASEAN?

Họ và tên giảng viên: 1. PGS.TS. Nguyễn Xuân Thiên


2. Th.sĩ Mai Thị Thanh Mai
Họ và tên Sinh viên: Dương Ngọc Huyền Linh
Mã số Sinh viên: 20050861
Lớp khóa học: QH-2020E KTQT CLC 3

Hà Nội, tháng 2 năm 2023


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU ....................................................................................................................1
CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ HỘI NHẬP KINH TẾ QUỐC TẾ .............2
1.1. Khái niệm về hội nhập kinh tế quốc tế ...........................................................2
1.2. Đặc trưng của hội nhập kinh tế quốc tế .........................................................2
1.3. Nội dung của hội nhập kinh tế quốc tế ...........................................................3
1.4. Lợi ích và bất lợi của hội nhập kinh tế quốc tế ............................................4
1.4.1. Lợi ích của hội nhập kinh tế quốc tế ..........................................................4
1.4.2. Những bất lợi của hội nhập kinh tế quốc tế ...............................................5
CHƯƠNG 2: CƠ SỞ THỰC TIỄN VỀ HỘI NHẬP KINH TẾ QUỐC TẾ CỦA
ASEAN .......................................................................................................................7
2.1. Giới thiệu khái quát về ASEAN ......................................................................7
2.2. Sự phát triển trong việc hội nhập kinh tế quốc tế của ASEAN .....................8
2.2.1. BBC và AICO .............................................................................................8
2.2.2. AFTA ..........................................................................................................9
2.2.3 Xây dựng nên AEC và các hiệp định tự do hóa thương mại AEC ............10
2.3. Hội nhập kinh tế ASEAN với các nước khác ngoài khu vực ......................12
2.3.1 Trung Quốc ................................................................................................12
2.3.2. Australia và New Zealand ........................................................................15
2.3.3. Nhật Bản ...................................................................................................16
2.3.4. Hàn Quốc .................................................................................................18
2.4. Hai Hiệp định thương mại lớn của ASEAN.................................................20
2.4.1. Đối tác Kinh tế Toàn diện Khu vực (RCEP) ............................................20
2.4.2. Quan hệ Đối tác xuyên Thái Bình Dương (TPP) .....................................24
CHƯƠNG 3: VỊ TRÍ Ý NGHĨA CỦA VIỆT NĂM KHI HỘI NHẬP KINH TẾ
ASEAN .....................................................................................................................26
3.1. Vị trí của Việt Nam khi hội nhập kinh tế ASEAN .......................................26
3.3. Ý nghĩa của Việt Nam khi hội nhập kinh tế ASEAN ...................................29
KẾT LUẬN ..............................................................................................................33
TÀI LIỆU THAM KHẢO ......................................................................................34
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
ASEAN Hiệp hội các nước Đông Nam Á
WTO Tổ chức thương mại thế giới
AEC Cộng đồng Kinh tế ASEAN
CLMV Cambodia – Laos – Malaysia – Vietnam
PTA Thỏa thuận thương mại ưu đãi ASEAN
AIP Dự án công nghiệp ASEAN
AIC Chương trình bổ trợ công nghiệp ASEAN
AFTA Khu vực mậu dịch tự do ASEAN
CEPT Hiệp định thuế quan ưu đãi có hiệu lực chung
CAFTA Hiệp định Thương mại Tự do Trung Quốc – ASEAN
AANZFTA Khu vực mậu dịch tự do ASEAN - Australia - New
Zealand
MNE Doanh nghiệp đa quốc gia Nhật Bản
AJCEP Hiệp định Đối tác Kinh tế Toàn diện
AKFA Khu vực Thương mại Tự do ASEAN - Hàn quốc
RCEP Hiệp định Đối tác Kinh tế Toàn diện Khu vực
TPP Hiệp định Đối tác xuyên Thái Bình Dương
AIA Khu vực Đầu tư ASEAN
AICO Hiệp định Hợp tác Công nghiệp ASEAN
MỞ ĐẦU
Sau hơn 50 năm thành lập, Hiệp hội Các quốc gia Đông Nam Á (ASEAN) đã có
những thành công nhất định và khẳng định là một tổ chức liên kết khu vực có tầm
ảnh hưởng giúp thúc đẩy sự phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội trong khu vực và
quốc tế. Với việc thành lập Cộng đồng ASEAN của acsc nước ASEAN, trong đó
bao gồm Cộng đồng Kinh tế ASEAN đã và đang đưa ASEAN trở thành một thị
trường và không gian sản xuất thống nhất, một khu vực phát triển đồng đều, một
khu vực kinh tế cạnh tranh và hội nhập mạnh mẽ vào nền kinh tế thế giới. ASEAN
đã tạo cơ hội cho sự dịch chuyển tự do của hàng hóa, dịch vụ, vốn đầu tư và lao
động có tay nghề cao trong khu vực. Các hàng rào thuế quan và thuế quan của các
nước ASEAN sẽ dần được gỡ bỏ, tạo điều kiện thuận lợi cho thương mại và đầu tư
trong khu vực.
Gia nhập ASEAN chính là bước đi đầu tiên của Việt Nam trong tiến trình hội
nhập kinh tế quốc tế. Việt Nam đã tham gia tích cực vào hợp tác kinh tế ASEAN và
đạt được những kết quả nhất định được thể hiện rõ trên các lĩnh vực, đặc biệt là
thương mại và đầu tư. Ngay từ khi gia nhập, Việt Nam đã tích cực tham gia vào các
hoạt động của ASEAN, đặc biệt là các hoạt động hợp tác kinh tế. Với sự ưu tiên đặc
biệt của Việt nam về việc thành lập Cộng đồng Kinh tế ASEAN (AEC), Việt Nam
đã nỗ lực triển khia các cam kết, sáng kiến cũng như các biện pháp nhằm thực hiện
Kế hoạch tổng thể xây dựng AEC. Ngoài ra, Việt Nam đã cùng các nước trong khu
vực thúc đẩy hợp tác kinh tế sâu rộng với các đối tác ngoài khối ASEAN như:
Trung Quốc, Hàn Quốc, Nhật Bản. Australia và Newzealand…giúp tăng trưởng
thương mại và hợp tác kinh tế giữa ASEAN nói chung và Việt Nam nói riêng, duy
trì vai trò trung tâm của ASEAN trong quan hệ hợp tác của các Đối tác này.

1
CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ HỘI NHẬP KINH TẾ QUỐC TẾ

1.1. Khái niệm về hội nhập kinh tế quốc tế


Hội nhập quốc tế được hiểu như là quá trình các nước tiến hành các hoạt động
tăng cường sự gắn kết họ với nhau dựa trên sự chia sẻ về lợi ích, mục tiêu, giá trị,
nguồn lực, quyền lực (thẩm quyền định đoạt chính sách) và tuân thủ các luật chơi
chung trong khuôn khổ các định chế hoặc tổ chức quốc tế [3].
Hội nhập kinh tế quốc tế trên một ý nghĩa nào đó nằm trong khái niệm hội nhập
nói chung là tiến trình nhất thể hóa nền kinh tế thế giới, tức là xóa bỏ những khác
biệt về kinh tế giữa các quốc gia và khu vực. Trong điều kiện toàn cầu hóa kinh tế
ngày nay, hội nhập kinh tế quốc tế là quá trình gắn nền kinh tế và thị trường của
từng nước với thị trường khu vực và thế giới thông qua các nỗ lực thực hiện mở cửa
và thúc đẩy tự do hóa nền kinh tế mỗi nước trên tất cả các cấp độ: đơn phương (sự
nỗ lực cải cách tự nguyện bên trong của một quốc gia), song phương (theo các hiệp
định ký kết giữa các bên) và đa phương (cải cách và phát triển theo các tiêu chí của
từng hiệp định đã được nhiều bên cam kết).
Hội nhập kinh tế quốc tế là quá trình liên kết kinh tế có mục tiêu định hướng cụ
thể gắn với phạm vi, cấp độ cũng như điều kiện cụ thể của mỗi nước. Mỗi nước, do
điều kiện kinh tế - xã hội đặc thù sẽ có lộ trình, bước đi và các giải pháp hội nhập
rất khác nhau. Do đó, hội nhập kinh tế quốc tế là khách quan, do toàn cầu hóa kinh
tế và cuộc cách mạng khoa học công nghệ mới quy định, song không thể có hội
nhập quốc tế chung chung mà là hội nhập kinh tế quốc tế của mỗi nước vào các thể
chế khu vực và toàn cầu cụ thể, ở cấp độ song phương hoặc đa phương và cùng một
thời điểm lịch sử, những nước khác nhau sẽ có thể cùng lúc tham gia nhiều định
chế, tuy nhiên, lộ trình và bước đi vào các định chế giữa mỗi nước là khác nhau[1].

1.2. Đặc trưng của hội nhập kinh tế quốc tế


- Là một hình thức phát triển tất yếu và cao nhất của phân công lao động quốc tế.
- Là sự tham gia tự nguyện của mỗi quốc gia thành viên trên cơ sở những điều
khoản đã thỏa thuận trong hiệp định.

2
- Là sự phối hợp mang tính chất liên quốc gia giữa các nhà nước độc lập có chủ
quyền.
- Là giải pháp trung hòa cho hai xu hướng tự do hóa thương mại và bảo hộ
thương mại.
- Là bước quá độ để thúc đẩy nền kinh tế thế giới theo hướng toàn cầu hóa góp
phần giảm bớt những cuộc xung đột cục bộ, giữ gìn hòa bình, ổn định trong khu vực
và thế giới.

1.3. Nội dung của hội nhập kinh tế quốc tế


Hội nhập kinh tế quốc tế là sự chủ động tham gia tích cực của các quốc gia vào
quá trình toàn cầu hóa, khu vực hóa, nhằm thiết lập, thực thi các định chế, tổ chức
kinh tế toàn cầu và khu vực nhờ gỡ bỏ những hàng rào ngăn cản giữa các quốc gia,
đã làm gia tăng khối lượng thương mại và đầu tư quốc tế, tạo ra những điều kiện
thuận lợi cho sự tăng trưởng kinh tế và nâng cao phúc lợi cho con người
Một là, ký kết và tham gia các định chế và tổ chức kinh tế quốc tế trong đó các
thành viên đàm phán xây dựng các luật chơi chung và thực hiện các quy định, cam
kết đối với từng thành viên của các định chế, tổ chức đó.
Hai là, tiến hành những cải cách trong nước để có thể thực hiện những quy định,
cam kết quốc tế về hội nhập như mở cửa thị trường, giảm và tiến tới xóa bỏ hàng
rào thuế quan và phi thuế quan, điều chỉnh cơ cấu kinh tế phù hợp với quá trình mở
cửa và tự do hóa kinh tế, cải cách hệ thống doanh nghiệp nhằm nâng cao năng lực
cạnh tranh của chúng, đào tạo nguồn nhân lực nhằm đáp ứng đòi hỏi của quá trình
hội nhập xây dựng các thể chế tương thích
Hội nhập kinh tế quốc tế có những nội dung chủ yếu như: tự do hóa thương mại,
đầu tư, dịch vụ, tự do lưu chuyển các nguồn hàng hóa, vốn, công nghệ, lao
động…Những biểu hiện cụ thể của hội nhập kinh tế; giá trị xuất khẩu của quốc gia;
mức độ tự do hóa thương mại, đầu tư và dịch vụ, tỷ lệ đóng góp của các công ty
xuyên quốc gia vào tăng trưởng kinh tế quốc gia [1].

3
1.4. Lợi ích và bất lợi của hội nhập kinh tế quốc tế

1.4.1. Lợi ích của hội nhập kinh tế quốc tế


Thứ nhất, quá trình hội nhập giúp mở rộng thị trường để thúc đẩy thương mại và
các quan hệ kinh tế quốc tế khác, từ đó thúc đẩy tăng trưởng và phát triển kinh tế-xã
hội.
Thứ hai, hội nhập cũng tạo động lực thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế, cải
thiện môi trường đầu tư kinh doanh, từ đó nâng cao hiệu quả và năng lực cạnh tranh
của nền kinh tế, của các sản phẩm và doanh nghiệp; đồng thời, làm tăng khả năng
thu hút đầu tư vào nền kinh tế.
Thứ ba, hội nhập giúp nâng cao trình độ của nguồn nhân lực và nền khoa học
công nghệ quốc gia, nhờ hợp tác giáo dục-đào tạo và nghiên cứu khoa học với các
nước và tiếp thu công nghệ mới thông qua đầu tư trực tiếp nước ngoài và chuyển
giao công nghệ từ các nước tiên tiến.
Thứ tư, hội nhập làm tăng cơ hội cho các doanh nghiệp trong nước tiếp cận thị
trường quốc tế, nguồn tín dụng và các đối tác quốc tế.
Thứ năm, hội nhập tạo cơ hội để các cá nhân được thụ hưởng các sản phẩm hàng
hóa, dịch vụ đa dạng về chủng loại, mẫu mã và chất lượng với giá cạnh tranh; được
tiếp cận và giao lưu nhiều hơn với thế giới bên ngoài, từ đó có cơ hội phát triển và
tìm kiếm việc làm cả ở trong lẫn ngoài nước.
Thứ sáu, hội nhập tạo điều kiện để các nhà hoạch định chính sách nắm bắt tốt
hơn tình hình và xu thế phát triển của thế giới, từ đó có thể đề ra chính sách phát
triển phù hợp cho đất nước và không bị lề hóa.
Thứ bảy, hội nhập giúp bổ sung những giá trị và tiến bộ của văn hóa, văn minh
của thế giới, làm giàu văn hóa dân tộc và thúc đẩy tiến bộ xã hội.
Thứ tám, hội nhập tạo động lực và điều kiện để cải cách toàn diện hướng tới xây
dựng một xã hội mở, dân chủ hơn, và một nhà nước pháp quyền.
Thứ chín, hội nhập tạo điều kiện để mỗi nước tìm cho mình một vị trí thích hợp
trong trật tự quốc tế, giúp tăng cường uy tín và vị thế quốc tế, cũng như khả năng
duy trì an ninh, hòa bình và ổn định để phát triển.

4
Thứ mười, hội nhập giúp duy trì hòa bình và ổn định khu vực và quốc tế để các
nước tập trung cho phát triển; đồng thời mở ra khả năng phối hợp các nỗ lực và
nguồn lực của các nước để giải quyết những vấn đề quan tâm chung của khu vực và
thế giới.

1.4.2. Những bất lợi của hội nhập kinh tế quốc tế


Thứ nhất, hội nhập làm gia tăng cạnh tranh gay gắt khiến nhiều doanh nghiệp và
ngành kinh tế gặp khó khăn, thậm chí là phá sản, từ đó gây nhiều hậu quả về mặt
kinh tế - xã hội.
Thứ hai, hội nhập làm tăng sự phụ thuộc của nền kinh tế quốc gia vào thị trường
bên ngoài và, do vậy, khiến nền kinh tế dễ bị tổn thương trước những biến động của
thị trường quốc tế.
Thứ ba, hội nhập không phân phối công bằng lợi ích và rủi ro cho các nước và
các nhóm khác nhau trong xã hội, do vậy có nguy cơ làm tăng khoảng cách giàu-
nghèo.
Thứ tư, trong quá trình hội nhập, các nước đang phát triển phải đối mặt với nguy
cơ chuyển dịch cơ cấu kinh tế tự nhiên bất lợi, do thiên hướng tập trung vào các
ngành sử dụng nhiều tài nguyên, nhiều sức lao động, nhưng có giá trị gia tăng thấp.
Do vậy, họ dễ có thể trở thành bãi rác thải công nghiệp và công nghệ thấp, bị cạn
kiệt nguồn tài nguyên thiên nhiên và hủy hoại môi trường.
Thứ năm, hội nhập có thể tạo ra một số thách thức đối với quyền lực Nhà nước
(theo quan niệm truyền thống về độc lập, chủ quyền) và phức tạp đối với việc duy
trì an ninh và ổn định ở các nước đang phát triển.
Thứ sáu, hội nhập có thể làm gia tăng nguy cơ bản sắc dân tộc và văn hóa truyền
thống bị xói mòn trước sự “xâm lăng” của văn hóa nước ngoài.
Thứ bảy, hội nhập có thể đặt các nước trước nguy cơ gia tăng của tình trạng
khủng bố quốc tế, buôn lậu, tội phạm xuyên quốc gia, dịch bệnh, nhập cư bất hợp
pháp…

5
Như vậy, hội nhập đồng thời đưa lại cả lợi ích lẫn bất lợi đối với các nước. Tuy
nhiên, không phải cứ hội nhập là đương nhiên hưởng đầy đủ tất cả các lợi ích và
gánh mọi bất lợi như đã nêu trên. Các lợi ích và bất lợi nhìn chung ở dạng tiềm
năng và đối với mỗi nước một khác, do các nước không giống nhau về điều kiện,
hoàn cảnh, trình độ phát triển… Việc khai thác được lợi ích đến đâu và hạn chế các
bất lợi, thách thức thế nào phụ thuộc vào nhiều yếu tố, trong đó đặc biệt quan trọng
là năng lực của mỗi nước, trước hết là chiến lược/chính sách, biện pháp hội nhập và
việc tổ chức thực hiện. Tuy nhiên lợi ích của hội nhập đem lại vẫn nhiều hơn so với
bất lợi của nó nên đây là lý do tại sao các quốc gia lựa chọn hội nhập kinh tế quốc tế
là chính sách phát triển của mình

6
CHƯƠNG 2: CƠ SỞ THỰC TIỄN VỀ HỘI NHẬP KINH TẾ QUỐC TẾ
CỦA ASEAN

2.1. Giới thiệu khái quát về ASEAN

ASEAN được thành lập tại thủ đô Băng Cốc, Thái Lan vào ngày 8/8/1967 với
mục tiêu tập hợp quyền lực chính trị nhằm thúc đẩy hợp tác và phát triển kinh tế
hướng tới thịnh vượng chung và đảm bảo hòa bình, ổn định ở Đông Nam Á. Năm
thành viên ban đầu gồm có Indonesia, Malaysia, Philippines, Singapore và Thái Lan
đã nhất trí về việc ký kết Tuyên bố ASEAN. Tiếp theo đó là sự mở rộng của
ASEAN với sự gia nhập của Brunei vào khối vào ngày 8/1/1984, Việt Nam vào
ngày 28/7/1995, Lào và Myanmar vào ngày 23/7/1997 và Campuchia vào ngày
30/4/1999.

Sau 51 năm hợp tác và không ngừng phát triển, ASEAN hiện bao gồm 10 quốc
gia Đông Nam Á, trở thành thị trường lớn thứ 3 châu Á với hơn 650 triệu dân,
chiếm 8,59% dân số toàn cầu, GDP bình quân đầu người đạt 4.305 USD. Không
dừng lại ở đó, con số này dự kiến sẽ tăng gấp đôi vào năm 2030, trở thành cộng
đồng kinh tế lớn thứ 7 thế giới với tổng GDP là 2,766 tỷ USD.

Bên cạnh các trụ cột An ninh - Chính trị và Văn hóa - Xã hội, ASEAN cũng chú
trọng hợp tác kinh tế thông qua việc thành lập Văn phòng ASEAN. Cộng đồng Kinh
tế ASEAN (AEC) được coi là một trong ba trụ cột chính nhằm hỗ trợ các nước đồng
phát triển; xây dựng Cộng đồng ASEAN vững mạnh về kinh tế; lành mạnh, đa sắc
về văn hóa; ổn định về an ninh, chính trị; thịnh vượng về an sinh xã hội. Vượt qua
sự khác biệt về tôn giáo, trình độ phát triển, cơ sở hạ tầng, công nghệ thông tin..., 10
nước thành viên ASEAN đã coi nhau như anh em một nhà nhằm tăng cường hỗ trợ,
giúp đỡ nhau cùng phát triển trên mọi lĩnh vực. Sự phát triển và hợp tác lành mạnh
của ASEAN đã góp phần quan trọng vào những thành tựu chung của thế giới trong
thiên niên kỷ mới nói chung, nâng cao vị thế của các nước ASEAN trên trường
quốc tế nói riêng. đồng thời tạo tiền đề để các khu vực đẩy mạnh hợp tác và coi

7
ASEAN là “người mở đường” trong hợp tác và liên kết kinh tế khu vực. Bên cạnh
hợp tác nội khối, ASEAN cũng tăng cường hợp tác và kết nối với nhiều đối tác bên
ngoài thông qua các cơ chế như ASEAN 3, ASEAN 6... trên nhiều lĩnh vực từ cơ sở
hạ tầng, thương mại hàng hóa, thương mại dịch vụ, cách mạng công nghiệp lần thứ
tư, chuỗi giá trị và kết nối thể chế - cơ sở hạ tầng - con người.

2.2. Sự phát triển trong việc hội nhập kinh tế quốc tế của ASEAN

2.2.1. BBC và AICO


Nỗ lực đầu tiên của ASEAN nhằm tự do hóa thương mại là đưa ra những thỏa
thuận thương mại ưu đãi ASEAN được quy định trong các Hiệp định về Thỏa thuận
thương mại ưu đãi ASEAN (PTA), được kí kết tại Manila vào ngày 24/2/1977
ASEAN PTA 15 năm trước
AFTA đã được đưa ra. Thỏa thuận thương mại ưu đãi ASEAN (PTA) được đưa
ra nhằm giảm thuế quan nội khối ASEAN đối với các sản phẩm thuộc Dự án công
nghiệp ASEAN (AIP) và Chương trình bổ trợ công nghiệp ASEAN (AIC), cũng
như các sản phẩm được thỏa thuận trong đàm phán. Tuy nhiên, thoả thuận thương
mại ưu đãi ASEAN (PTA) đã không thể đạt được mục tiêu của nó do việc đàm phán
từng sản phẩm là rất tốn thời gian. Lý do chính dẫn đến thất bại của thỏa thuận này
là trong những năm 1970 các nước ASEAN theo đuổi chiến lược công nghiệp hóa
thay thế nhập khẩu thông qua các chính sách bảo hộ mậu dịch như thuế quan.
Tự do hóa thương mại hiệu quả lần đầu tiên đạt được vào năm 1988 là BBC -
một chương trình tự do hóa thương mại cho ngành công nghiệp ô tô được đề xuất
bởi Mitsubishi Motors, giúp giảm 50% thuế đánh vào phụ tùng ô tô cho các nước
trong khối ASEAN. BBC thúc đẩy các nước trong khối có lợi thế so sánh trong việc
sản xuất, cung cấp phụ tùng và linh kiện ô tô xuất khẩu và cung cấp cho các nước
khác trong khối.
Năm 1996, Hiệp định AICO hay còn gọi là Hiệp định Hợp tác công nghiệp
ASEAN được các quốc gia ASEAN thỏa thuận và kí kết tại Singapore. Hiệp định
này được phát triển từ chính chương trình tự do hóa thương mại BBC. Các công ty

8
đang hoạt động tại một nước thành viên ASEAN có quyền hưởng thuế suất thuế
quan ưu đãi 0-5%. [7]

2.2.2. AFTA
Vào đầu vào những năm 1990, khi chiến tranh lạnh kết thúc, những thay đổi
nhanh chóng trong môi trường chính trị, kinh tế quốc tế và khu vực đã đặt kinh tế
các nước ASEAN trước những thách thức to lớn không dễ dàng vượt qua nếu không
có sự liên kết chặt chẽ và nỗ lực của toàn hiệp hội. Thứ nhất, quá trình toàn cầu hoá
kinh tế thế giới diễn ra nhanh chóng và mạnh mẽ, đặc biệt trong lĩnh vực thương
mại, chủ nghĩa bảo hộ truyền thống trong ASEAN ngày càng mất đi sự ủng hộ của
các nhà hoạch định chính sách trong nước cũng như quốc tế. Thứ hai, sự hình thành
và phát triển các tổ chức hợp tác khu vực mới đặc biệt như Khu vực Mậu dịch Tự
do Bắc Mỹ và Khu vực Mậu dịch Tự do châu Âu của EU và NAFTA sẽ trở thành
các khối thương mại khép kín, gây trở ngại cho hàng hóa ASEAN khi thâm nhập
vào những thị trường này. Thứ ba, những thay đổi về chính sách như mở cửa,
khuyến khích và dành ưu đãi rộng rãi cho các nhà đầu tư nước ngoài, cùng với
những lợi thế so sánh về tài nguyên thiên nhiên và nguồn nhân lực của các nước
Trung Quốc, Việt Nam, Nga và các nước Đông Âu đã trở thành những thị trường
đầu tư hấp dẫn hơn ASEAN, đòi hỏi ASEAN vừa phải mở rộng về thành viên, vừa
phải nâng cao hơn nữa tầm hợp tác khu vực. Do đó, nhằm đối phó với những thay
đổi của môi trường, năm 1992, các nước ASEAN đã cùng ký Hiệp định thuế quan
ưu đãi có hiệu lực chung (CEPT) quy định việc xây dựng Khu vực mậu dịch tự do
ASEAN (AFTA).
Khu vực mậu dịch tự do ASEAN (AFTA) đã được thống nhất tại Hội nghị Bộ
trưởng Kinh tế năm 1991 và được thông qua tại Hội nghị cấp cao lần thứ 4 tại
Singapore năm 1992 bằng việc các nước ASEAN ký kết Khung Hiệp định về tăng
cường hợp tác kinh tế và Hiệp định thuế quan có hiệu lực chung (CEPT). Ban đầu
chỉ có 6 nước là Brunei, Indonesia, Malaysia, Philippines, Singapore và Thái Lan
(gọi chung là ASEAN-6). Các nước Campuchia, Lào, Myanmar và Việt Nam được

9
yêu cầu tham gia AFTA khi được kết nạp vào khối này. AFTA nhắm tới những mục
đích (i) chuẩn bị cho việc tự do hóa thương mại toàn cầu; (ii) thu hút đầu tư trực
tiếp nước ngoài và (iii) đảm bảo rằng ASEAN không đánh mất tầm quan trọng
trong việc mở rộng hội nhập kinh tế, chẳng hạn như việc thành lập NAFTA và EU.
Mục đích quan trọng nhất của AFTA đó là thu hút vốn đầu tư nước ngoài với lo
ngại Trung Quốc sẽ thu hút phần lớn nguồn vốn đầu tư nước ngoài thông qua những
chính sách thu hút nguồn vốn FDI [8].
Theo kế hoạch, ASEAN sẽ thực hiện tiến trình giảm dần thuế quan xuống 0-5%,
loại bỏ dần các hàng rào thuế quan đối với đa phần các nhóm hàng và hài hòa hóa
thủ tục hải quan giữa các nước. Tỷ lệ tự do hóa thương mại của AFTA vào tháng 1
năm 2018 là cực kỳ cao ở mức 99,3% đối với ASEAN-6 (Brunei, Indonesia,
Malaysia, Philippines, Singapore, and Thái Lan), 97,7% đối với CLMV (Cambodia-
Laos-Myanmar-Vietnam) và 98,6% đối với toàn ASEAN10. Do đó, Hiệp định
AFTA được đánh giá là thành công vì đã đạt được mức độ tự do hóa cao.
Lý do cho sự thành công của Hiệp định AFTA là việc áp dụng tự do hóa dần dần
và linh hoạt dựa trên mức độ phát triển kinh tế khác nhau giữa các nước thành viên,
đặc biệt là trình độ phát triển công nghiệp. Cụ thể, đối với các nước thuộc nhóm
CLMV, lộ trình cắt giảm, xóa bỏ thuế quan chậm hơn so với ASEAN-6. Cùng với
đó, ASEAN còn triển khai và phát triển Sáng kiến Liên kết ASEAN (IAI) nhằm thu
hẹp khoảng cách phát triển trong ASEAN, cũng như giữa ASEAN và phần còn lại
của thế giới do quan ngại về khoảng cách phát triển giữa nhóm 4 nước thành viên
mới của ASEAN là Campuchia, Lào, Myanmar, Việt Nam (CLMV) với 6 nước
thành viên còn lại của ASEAN gồm Indonesia, Malaysia, Philippines, Singapore,
Thái Lan và Brunei (ASEAN-6).

2.2.3 Xây dựng nên AEC và các hiệp định tự do hóa thương mại AEC
Tại Hội nghị Bali diễn ra vào tháng 10 năm 2003, các nhà lãnh đạo ASEAN đã
ký tuyên bố Hòa hợp ASEAN II nhằm thành lập Cộng đồng ASEAN (AC) với 3 trụ
cột chính là Cộng đồng Kinh tế ASEAN (AEC), Cộng đồng Chính trị - An ninh

10
ASEAN (APSC) và Cộng đồng Văn hóa - Xã hội ASEAN (ASCC) vào năm 2020.
Tháng 8/2006, trong Hội nghị Bộ trưởng Kinh tế ASEAN tại Kuala Lumpur
(Malaysia), các quốc gia thành viên ASEAN đã đồng ý xây dựng một kế hoạch chi
tiết, cụ thể, độc lập nhằm thúc đẩy việc hiện thực hóa AEC bằng cách xác định rõ
các đặc điểm và yếu tố của AEC đến năm 2015 [4].
Mục tiêu của ASEAN được thể hiện nhất quán và xuyên suốt từ Tầm nhìn của
ASEAN đến Tuyên bố Bali và AEC Blueprint, theo đó, AEC được thành lập nhằm
mục đích tạo dựng một thị trường và cơ sở sản xuất thống nhất cho các quốc gia
thành viên ASEAN, thúc đẩy dòng chu chuyển tự do của hàng hóa, dịch vụ, đầu tư
và lao động có tay nghề trong ASEAN. ASEAN được lập ra với mục tiêu thúc đẩy
kinh tế phát triển một cách đồng đều, thiết lập khu vực kinh tế có năng lực cạnh
tranh cao, có khả năng hội nhập đầy đủ vào nền kinh tế toàn cầu.
Hình 2.1: Bốn trụ cột của Cộng đồng kinh tế ASEAN

Nguồn: ASEAN(2006)
AEC được thực hiện trên cơ sở 4 trụ cột chính bao gồm: (1) thị trường và cơ sở
sản xuất thống nhất; (2) khu vực kinh tế cạnh tranh; (3) khu vực phát triển kinh tế
đồng đều và (4) khu vực hội nhập đầy đủ vào kinh tế toàn cầu. Nằm thực hiện 4 trụ

11
cột trên, ASEAN đã đưa ra những biện pháp và lịch trình cụ thể cho từng trụ cột
theo 4 giai đoạn: 2008-2009, 2010-2011, 2012-2013, 2014-2015.
Bảng 2.1: Việc thực hiện bảng điểm AEC tính đến tháng 12/2021

Nguồn: ASEAN
Kế hoạch AEC bao gồm một chương trình chiến lược nêu các hành động ưu tiên
cần được thực hiện trong bốn giai đoạn, mỗi giai đoạn hai năm, từ 2008 đến 2015,
và tiến độ được theo dõi bằng thẻ điểm đánh giá. Được khởi đầu vào năm 2008,
công cụ tự đánh giá này theo dõi các hành động cần được thực hiện bởi từng nước
thành viên ASEAN hay một nhóm nước thành viên ASEAN, và ghi nhận các mốc
hoàn thành công việc. Qua bốn giai đoạn từ năm 2008 đến năm 2011, ASEAN đạt
67,5 điểm phần trăm cho những mục tiêu của AEC.

2.3. Hội nhập kinh tế ASEAN với các nước khác ngoài khu vực
Hội nhập ASEAN thông qua AEC được kỳ vọng sẽ tác động đến mối quan hệ với
các đối tác châu Á chủ yếu bao gồm Australia, Trung Quốc, Nhật Bản, New
Zealand, và Hàn Quốc – qua đó có tác động gián tiếp đối với thương mại và FDI.

2.3.1 Trung Quốc


Hợp tác chặt chẽ giữa ASEAN và Trung Quốc đã được củng cố bằng Hiệp định
Thương mại Tự do Trung Quốc - ASEAN 2001 (CAFTA). Hiệp định này có sự

12
tham gia của mười nước thành viên ASEAN và Trung Quốc. Ý tưởng về CAFTA
lần đầu tiên được đề xuất vào năm 2000 bởi cựu Thủ tướng Trung Quốc Chu Dung
Cơ. Thỏa thuận khung ban đầu được ký kết tại Phnom Penh vào năm 2002 và
CAFTA đã được chính thức thành lập vào ngày 1/1/2010. CAFTA được khởi động
bằng cách giảm thuế quan bằng 0 đối với 7.881 loại sản phẩm, bao gồm 90% các
chủng loại hàng hóa nhập khẩu, giữa Trung Quốc và sáu thành viên ban đầu của
ASEAN - Brunei, Indonesia, Malaysia, Philippines, Singapore và Thái Lan. Thỏa
thuận này sẽ được áp dụng cho bốn nước thành viên ASEAN mới (các nước
CLMV) vào năm 2015.
Hình 2.2: Luồng FDI vào/ra của Trung Quốc và ASEAN trong giai đoạn
1983 - 2012

Nguồn: UNCTAD
Trước CAFTA, Chính phủ Trung Quốc đã và đang khuyến khích các doanh
nghiệp nước ngoài đầu tư vào Trung Quốc và các doanh nghiệp Trung Quốc đầu tư
ra nước ngoài. Điều này được thể hiện trong “Chính sách ra bên ngoài” của Trung
quốc năm 1999. Theo CAFTA, ASEAN đã trở thành một khu vực hưởng lợi nhiều
nhất từ chiến lược này. Trong giai đoạn 2001 - 2012, tổng thương mại song phương
đã tăng từ 32 tỷ lên 320 tỷ USD, biến Trung Quốc trở thành đối tác thương mại lớn
nhất của ASEAN. Từ năm 2003 đến năm 2012, tổng FDI vào các nước thành viên
ASEAN đã tăng từ 659 triệu USD lên 4.335 triệu. Việc loại bỏ các cản trở thương
mại đã giảm chi phí giao dịch và giúp tăng hơn nữa kim ngach thương mại Trung

13
Quốc - ASEAN. Kết quả là, thương mại giữa Trung Quốc và ASEAN đã cao hơn
giữa Trung Quốc và phần còn lại của thế giới. ASEAN đã thay thế Nhật Bản trở
thành đối tác thương mại lớn thứ ba của Trung Quốc, trong khi Trung Quốc đã trở
thành đối tác thương mại lớn nhất của ASEAN. CAFTA là khu vực thương mại tự
do lớn nhất thế giới về dân số và lớn thứ ba về kim ngạch thương mại, sau Khu vực
Thương mại Tự do Bắc Mỹ và Liên minh châu Âu (EU).
Về lý thuyết, tiếp cận một thị trường lớn hơn và hội nhập sâu hơn sẽ làm tăng
tính cạnh tranh của khối các doanh nghiệp tư nhân trong ASEAN. Khu vực này
cũng có thể kỳ vọng đầu tư nhiều hơn nữa từ các nước phát triển, tạo việc làm và
tăng phúc lợi kinh tế. Tuy nhiên, chuyển dịch cơ cấu công nghiệp là một quá trình
lâu dài và khó khăn. Chẳng hạn như, một số ngành sản xuất ở Indonesia và Thái
Lan khi phải đối mặt với luồng sản phẩm giá rẻ từ Trung Quốc đã bày tỏ sự e ngại
về việc cắt giảm thuế quan sâu rộng đối với các sản phẩm nhập khẩu của Trung
Quốc trong khuôn khổ CAFTA.
Từ năm 2001, dòng vốn đầu tư của Trung Quốc vào các quốc gia thành viên
ASEAN đã tăng 30 lần; thương mại song phương đã tăng gấp mười lần. Những xu
hướng này đã được kích hoạt bởi sự chuyển đổi cơ cấu nhanh chóng hiện nay của
Trung Quốc vốn chắc chắn sẽ ảnh hưởng đến các nền kinh tế và thị trường lao động
ASEAN. Số lượng người trong độ tuổi 15 - 64 ở Trung Quốc dự kiến sẽ giảm trong
những năm tới, dẫn tới suy giảm lực lượng lao động tiềm năng cho các ngành sản
xuất và thu hẹp các cơ sở sản xuất. Giá đất và lao động tăng đã đóng góp vào việc
xây dựng mô hình tăng trưởng mới dựa trên việc nâng cấp công nghệ, tăng năng
suất và đẩy mạnh tiêu thụ nội địa ở Trung Quốc. Sự chuyển dịch của Trung Quốc từ
những ngành sản xuất phục vụ cho xuất khẩu, sử dụng nhiều lao động với mức
lương thấp như may mặc, sang những ngành sản xuất phục vụ cho tiêu dùng trong
nước và xuất khẩu các sản phẩm đòi hỏi kỹ năng cao, sẽ làm tăng sự cạnh tranh với
các nước ASEAN trong một số hoạt động kinh doanh nhất định, nhưng lại hỗ trợ ở
những hoạt động khác. Sự thay đổi này tạo cơ hội phát triển quan hệ đối tác chiến
lược để hài hòa với vị thế đang thay đổi của Trung Quốc. Việc này rất quan trọng

14
cho sự thịnh vượng lâu dài, việc làm và phúc lợi của ASEAN khi khu vực đang
phấn đấu để dịch chuyển lên chuỗi giá trị cao hơn[3].
Do tiền lương và giá đất tăng, và lợi thế lao động giá rẻ của Trung Quốc đang
giảm, các nước như Indonesia, Philippines, và Việt Nam đang nổi lên như những
điểm đến hấp dẫn cho sản xuất của Trung quốc. Các mối quan hệ song phương chặt
chẽ hơn cũng hàm ý tăng cường sử dụng ngôn ngữ Trung Quốc. Trong những năm
gần đây số lượng sinh viên ASEAN học tập ở Trung Quốc đã tăng đột biến, đặc biệt
là sinh viên từ Indonesia, Thái Lan và Việt Nam.

2.3.2. Australia và New Zealand


Khu vực mậu dịch tự do ASEAN - Australia - New Zealand (AANZFTA), có
hiệu lực vào năm 2009, đã tăng cường quan hệ song phương một cách hiệu quả.
Trong giai đoạn 2009 - 2010, tổng kim ngạch thương mại giữa Australia và ASEAN
tăng khoảng 40% (tăng 17 tỷ USD). Thông qua Hiệp định AANZFTA tạo ra cơ hội
mới cho khoảng 663 triệu lao động ASEAN, Úc và New Zealand – khu vực có
Tổng sản phẩm quốc nội rơi vào khoảng 4.000 tỷ USD (năm 2016).
Hiệp định Khu vực mậu dịch tự do ASEAN-Australia và New Zealand hướng
đến một số mục tiêu chính như:

- Từng bước tự do hóa và tạo điều kiện thuận lợi cho thương mại hàng hóa giữa
các bên. Đồng thời, không hạn chế, xóa bỏ dần các hàng rào thuế quan và phi thuế
quan trong quan hệ giữa các thành viên tham gia.

- Từng bước thực hiện tự do hóa thương mại dịch vụ giữa các bên với phạm vi
ngành đáng kể.

- Tạo điều kiện thuận lợi, thúc đẩy và tăng cường cơ hội đầu tư giữa các bên
thông qua việc phát triển môi trường đầu tư thuận lợi.

- Thành lập một khuôn khổ nhằm tăng cường, đa dạng hóa và đẩy mạnh quan hệ
hợp tác, đầu tư kinh tế giữa các bên.

15
- Dành sự đối xử đặc biệt và khác biệt đối với những quốc gia thành viên
ASEAn, nhất là đối với những nước mới để tạo điều kiện thuận lợi cho việc hội
nhập kinh tế một cách có hiệu quả nhất.

Ngoài AANZFTA, Australia cũng đã đóng góp phát triển hội nhập kinh tế
ASEAN thông qua Chương trình Hợp tác Phát triển ASEAN - Australia. Từ năm
2002 đến năm 2008, Chương trình đã hỗ trợ các nước thành viên ASEAN trong việc
phát triển thị trường hàng hóa, dịch vụ và đầu tư, cũng như cải thiện chính sách thị
trường lao động ASEAN.
Trong tháng 6 năm 2013, chiếm 13,0% thương mại hàng hóa, ASEAN đã vượt
qua EU trở thành đối tác thương mại lớn thứ ba của New Zealand, chỉ sau Australia
và Trung quốc. Kể từ đầu thế kỷ 21, sự gia tăng nhanh chóng của tầng lớp trung lưu
ASEAN tạo ra một thị trường lớn cho các sản phẩm và dịch vụ chất lượng cao của
New Zealand. Đồng thời, New Zealand, với tư cách là một đối tác thương mại lớn,
có thể đóng một vai trò quan trọng trong việc giúp đỡ các nước Đông Nam Á duy
trì tăng trưởng kinh tế cao.

2.3.3. Nhật Bản


Bắt đầu từ cuối những cuối những năm 1980, các doanh nghiệp đa quốc gia Nhật
Bản (MNE) tích cực đầu tư vào các nước thành viên ASEAN, biến ASEAN thành
cơ sở sản xuất cho các công ty đa quốc gia của Nhật Bản một cách hiệu quả. Hội
nhập ASEAN sẽ mở rộng thị trường nội khối và khuyến khích các doanh nghiệp đa
quốc gia của Nhật Bản tái sắp xếp các cơ sở của họ, thu lợi cho các doanh nghiệp
này từ việc quy tụ cụm công nghiệp. Các yếu tố ngoại vi tích cực gắn với việc quy
tụ cụm công nghiệp sẽ tăng cường chuyên môn hoá và nâng cao năng lực cạnh tranh
của các công ty Nhật Bản. Tháng 4/2008, ASEAN và Nhật Bản ký kết Hiệp định
Đối tác Kinh tế Toàn diện (AJCEP). AJCEP được đánh giá là một Hiệp định thương
mại tự do (FTA) toàn diện trong nhiều lĩnh vực, bao gồm thương mại hàng hóa,
dịch vụ, đầu tư và hợp tác kinh tế. Mục tiêu của của Hiệp định này gồm: (a) từng
bước tự do hóa và tạo thuận lợi thương mại hàng hóa và dịch vụ giữa các Bên; (b)

16
cải thiện các cơ hội đầu tư và bảo đảm bảo hộ vốn đầu tư và các hoạt động đầu tư
của các Bên và (c) thiết lập khuôn khổ tăng cường hợp tác giữa các Bên nhằm hỗ
trợ hội nhập kinh tế ASEAN, thu hẹp khoảng cách phát triển giữa các Quốc gia
thành viên ASEAN, và thúc đẩy thương mại và đầu tư giữa các Bên[9].

Hình 2.3: 5 nguồn FDI vào ASEAN lớn nhất trong năm 2020

Nguồn: ASEAN
Hội nhập ASEAN tạo ra một sự hồi sinh của FDI Nhật Bản trong khu vực, do
môi trường kinh doanh ở Trung quốc dần kém hấp dẫn và doanh nghiệp Nhật Bản
tìm cách đa dạng hóa rủi ro. Năm 2021 đánh dấu Nhật bản là đối tác có vốn đầu tư
nước ngoài lớn thứ 5 với dòng vốn FDI từ Nhật Bản đạt 8.5 tỷ USD.
Việc tự do hóa và tạo thuận lợi cho thương mại hàng hóa và dịch vụ là một cơ
hội tốt thúc đẩy sự phát triển thương mại ASEAN - Nhật Bản. Cụ thể, Nhật Bản là
thị trường bên ngoài lớn thứ 3 cho xuất khẩu ASEAN chiếm 7,2% thị phần trong
năm 2020. Cùng với đó, về nhập khẩu, Nhật Bản là đối tác nhập khẩu hàng hóa
ASEAN lớn thứ 2 trên thế giới trong năm 2020.
Hình 2.4: 5 đối tác nhập khẩu lớn nhất của ASEAN trong năm 2020

17
Nguồn: ASEAN
Hình 2.5: 5 đối tác xuất khẩu lớn nhất thế giới của ASEAN trong năm 2020

Nguồn: ASEAN
Việc loại bỏ thêm các rào cản thương mại sẽ thúc đẩy doanh nghiệp đa quốc gia
Nhật Bản dịch chuyển việc sản xuất các sản phẩm đòi hỏi kỹ năng thấp, sử dụng
nhiều lao động sang các nước CLMV. Điều này dự kiến sẽ dẫn đến các tác động lan
tỏa về công nghệ và tri thức cũng như nâng cấp kỹ năng nghề.

2.3.4. Hàn Quốc


Hợp tác kinh tế giữa ASEAN và Hàn Quốc đã đạt đến một mốc quan trọng trong
năm 2005 trong việc thực hiện Khu vực Thương mại Tự do ASEAN - Hàn quốc
(AKFA). Thông qua việc thiết lập khu vực thương mại tự do, ASEAN và Hàn Quốc
mong muốn thúc đẩy đầu tư và mở rộng thị trường xuất khẩu - hai yếu tố đóng vai
trò quan trọng đối với sự thành công trong quá khứ của các nền kinh tế này. Việc

18
xây dựng khu vực thương mại tự do giữa ASEAN và Hàn Quốc cũng được xem như
một phản ứng của các nền kinh tế ở Đông Á trước những tiến bộ chậm chạp trong
quá trình tự do hóa thương mại trong khuôn khổ WTO cũng như những lo ngại về
sự hình thành các khối thương mại ở châu Âu và Bắc Mỹ có thể thu hẹp các thị
trường xuất khẩu và làm chệch hướng đầu tư khỏi Đông Á.
AKFTA hướng tới việc xóa bỏ thuế quan đánh vào thương mại nội khối đối với
Hàn Quốc và ASEAN-6 vào năm 2010, và đối với các nước thành viên kém phát
triển của ASEAN (các nước CLMV) vào năm 2018-2022. Việc cắt giảm thuế quan
và áp dụng thuế quan ưu đãi được thực hiện trên cơ sở nguyên tắc có đi có lại. Thuế
quan được cắt giảm dần với các lộ trình khác nhau được áp dụng đối với các hàng
hóa khác nhau cũng như các nước khác nhau. Các hàng hóa trong danh mục nhạy
cảm có lịch trình cắt giảm thuế quan dài hơn, mức độ cắt giảm ít hơn và trong một
số trường hợp được miễn trừ khỏi nghĩa vụ cắt giảm thuế quan. Tính linh hoạt và
các biện pháp đối xử đặc biệt cũng được dành cho các nước CLMV với thời gian
thực hiện kéo dài hơn và các nước này cũng được phép đưa nhiều hàng hóa hơn vào
danh mục nhạy cảm và nhạy cảm cao.
Trong giai đoạn năm năm đầu tiên sau khi thực hiện hiệp định Thương mại
ASEAN - Hàn Quốc về hàng hóa, tổng kim ngạch thương mại song phương tăng
hơn 114%, từ 48 tỉ USD đến 103 tỷ. Những năm sau đó, kim ngạch thương mại
song phương tăng hơn 23%. Thương mại hai chiều giữa ASEAN và Hàn Quốc giảm
từ 131,4 tỷ USD vào năm 2014 xuống còn 122,9 tỷ USD năm 2015. Tuy nhiên, Hàn
Quốc vẫn thuộc một trong 5 đối tác thương mại lớn nhất của ASEAN. Dòng vốn
FDI từ Hàn Quốc vào ASEAN tăng đều đặn hằng năm. FDI của Hàn Quốc vào
ASEAN tăng từ 1,7 tỷ năm 2011 lên 4,3 tỷ vào năm 2013 và 5,7 tỷ vào năm 2015.
Điều này khiến Hàn Quốc trở thành đối tác đầu tư lớn thứ 5 của ASEAN.

19
2.4. Hai Hiệp định thương mại lớn của ASEAN
Ngoài CAFTA và các sáng kiến ASEAN+ khác, có hai hiệp định thương mại lớn
- Đối tác Kinh tế Toàn diện Khu vực (RCEP) và Hiệp định Thương mại xuyên Thái
Bình Dương (TPP) - sẽ định hình các yếu tố của hội nhập kinh tế ở châu Á

2.4.1. Đối tác Kinh tế Toàn diện Khu vực (RCEP)


Hiệp định Đối tác Kinh tế Toàn diện Khu vực (RCEP) là một hiệp định thương
mại tự do (FTA) bao gồm 10 nước thành viên ASEAN và 5 quốc gia mà ASEAN đã
ký hiệp định thương mại tự do (Australia, Trung Quốc, Nhật Bản, Hàn Quốc và
New Zealand) được ký kết tại Hà Nội vào ngày 15 tháng 11 năm 2020, hướng tới
mục tiêu hình thành Hiệp định thương mại tự do Đông Á (EAFTA) và khởi đầu cho
Đối tác kinh tế toàn diện Đông Á (CEPEA). Hiệp định RCEP, một hiệp định hiện
đại, toàn diện, chất lượng cao và cân bằng về lợi ích, khi được 15 nước thực thi, sẽ
tạo nên khu vực thương mại tự do lớn nhất thế giới với quy mô 2,2 tỉ người tiêu
dùng, chiếm 30% dân số thế giới và GDP 26,2 nghìn tỉ USD.

Hiệp định thương mại bao gồm các quốc gia có nền kinh tế thu nhập cao, thu
nhập trung bình, và thu nhập thấp, đã được đưa ra ở hội nghị thượng đỉnh ASEAN
năm 2011 ASEAN tại Bali, Indonesia, trong khi được thảo luận chính thức ở hội
nghị thượng đỉnh ASEAN năm 2012 tại Campuchia. Hiệp định này góp phần
khẳng định vai trò trung tâm của ASEAN trong khu vực, tích cực tạo dựng và thúc
đẩy một cấu trúc khu vực vì hòa bình, an ninh và thịnh vượng ở Châu Á và hội nhập
kinh tế khu vực mạnh mẽ. Các nhà lãnh đạo các nước tham gia RCEP đã nêu rõ,
RCEP sẽ là một Hiệp định hiện đại, toàn diện, chất lượng cao và cùng có lợi, bao
gồm các lĩnh vực: Thương mại hàng hóa; Dịch vụ; Đầu tư; Hợp tác kinh tế và kỹ
thuật; Sở hữu trí tuệ; Cạnh tranh; Giải quyết tranh chấp và các vấn đề khác. Bên
cạnh đó các quốc gia trong khối RCEP sẽ cam kết tự do hóa gần hết 100% thương
mại, thông qua hàng loạt các hiệp định thương mại tự do. RCEP được thiết kế nhằm
cắt giảm chi phí và thời gian cho các thương nhân khi cho phép họ xuất khẩu hàng

20
hóa sang bất kỳ quốc gia ký kết thỏa thuận nào mà không cần đáp ứng các yêu cầu
riêng biệt của từng quốc gia

Về kinh tế, RCEP được ký kết và có hiệu lực sẽ giúp tối ưu hóa việc phân bổ
nguồn lực trong khu vực, thúc đẩy việc tạo thuận lợi cho thương mại và tự do hóa
đầu tư, nâng cao trình độ hội nhập kinh tế. RCEP còn thúc đẩy việc khôi phục kinh
tế, cũng như sự thịnh vượng lâu dài của khu vực.

Quá trình hội nhập kinh tế của ASEAN đã cải thiện khả năng cạnh tranh của các
nước, tạo điều kiện cho tự do thương mại và thu hút nguồn vốn đầu tư nước ngoài
(FDI) thông qua một loạt các biện pháp tạo thuận lợi, tự do hóa và bảo hộ đầu tư.

Thương mại tăng trưởng

Với 92% các sản phẩm được loại bỏ thuế quan hoặc giảm thuế sẽ tạo động lực
cho tăng trưởng thương mại giữa các nước. Theo ước tính từ UNCTAD, các
nhượng bộ về thuế quan của hiệp định RCEP có thể thúc đẩy xuất khẩu tăng thêm
gần 2%, tương đương khoảng 42 tỷ USD tổng kim ngạch xuất khẩu RCEP vào năm
2019. Tuy nhiên, tác động đối với thương mại giữa các nước là không đồng nhất.
Ước tính của UNCTAD cho thấy, Nhật Bản tăng 5.5% tương đương với 20 tỷ USD
tổng kim ngạch xuất khẩu. Xuất khẩu của các quốc gia không phải thành viên
ASEAN cũng tăng hơn so với trước khi tham gia RCEP. Tuy nhiên, xuất khẩu từ
các quốc gia thành viên ASEAN có xu hướng giảm do chuyển hướng thương mại,
theo đó xuất khẩu của các nước này được chuyển hướng sang các thành viên RCEP
khác vì những ưu đãi về thuế quan tốt hơn.

Bảng 2.2: Ảnh hưởng của Hiệp định RCEP đến xuất/ nhập khẩu trong năm 2019

21
Nguồn: UNCTAD

Đối với nhập khẩu, tất cả các quốc gia RCEP, bao gồm các quốc gia thành viên
ASEAN và ngoài ASEAN, đều tăng trưởng về tổng kim ngạch nhập khẩu sau khi
tham gia RCEP. Trung Quốc là quốc gia có sự tăng trưởng lớn nhất trong nhập khẩu
(11,4 tỷ USD) sau khi tham gia vào RCEP, tiếp theo đó lần lượt là Hàn Quốc (6,4 tỷ
USD), Malaysia (3,7 tỷ USD), Campuchia (2,3 tỷ USD) và Nhật Bản (2,28 tỷ
USD).

Thu hút nguồn vốn FDI

Trong khi FDI toàn cầu đã bị đình trệ trong thập kỷ qua, dòng vốn FDI lại có xu
hướng tăng lên dành cho các nước RCEP. Nguồn vốn FDI của các nước RCEP

tăng từ 2,7 nghìn tỷ USD vào năm 2010 lên 6,2 nghìn tỷ USD vào năm 2020, tốc
độ tăng trưởng trung bình 9%/năm.

Bên cạnh đó, nguồn vốn FDI ra nước ngoài của các nước RCEP chiếm 48% dòng
vốn FDI toàn cầu trong năm 2020. Nguồn vốn FDI ra nước ngoài của các nước
RCEP tăng từ 2,4 nghìn tỷ USD trong năm 2010 lên 7,1 nghìn tỷ USD vào năm

22
2020 – gấp hơn hai lần tốc độ tăng trưởng vốn FDI ra nước ngoài toàn cầu trong
cùng một khoảng thời gian. [10]

Bảng 2.3: Nguồn vốn FDI của các nước RCEP vào ASEAN trong năm 2015-
2020 (đơn vị: %)

Nguồn: ASEAN

RCEP chiếm 40% dòng vốn FDI vào ASEAN, trong đó 24% là từ các thành viên
RCEP ngoài ASEAN. Hơn 95% vốn FDI từ các nước RCEP ngoài ASEAN trong
năm 2018–2020 đến từ các nước lần lượt là Nhật Bản, Trung Quốc và Hàn Quốc.
Đầu tư vào ASEAN từ các nước RCEP, ngoại trừ Trung Quốc, thường tập trung vào
ba lĩnh vực chính của ngành công nghiệp (bảng 1.8). Ba ngành công nghiệp chính là
sản xuất, tài chính, bán lẻ được ASEAN, Nhật Bản và Hàn Quốc đặc biệt quan tâm.
Đầu tư bất động sản ASEAN là mục tiêu quan trọng mà Trung Quốc hướng đến,
trong khi chuyên môn, khoa học và kỹ thuật dịch vụ là mục tiêu quan trọng đối với
Úc.

Bảng 2.4: Nguồn vốn FDI của thành viên RCEP vào ASEAN trong các lĩnh vực
cụ thể (đơn vị: tỷ USD và %)

23
Nguồn: ASEAN

2.4.2. Quan hệ Đối tác xuyên Thái Bình Dương (TPP)


Hiệp định Đối tác xuyên Thái Bình Dương (TPP) là một hiệp đinh/thỏa thuận
thương mại tự do được ký kết giữa 12 nước vào ngày 4/2/2016 tại Auckland, New
Zealand sau 5 năm đàm phán với mục đích hội nhập các nền kinh tế thuộc khu vực
châu Á-Thái Bình Dương.

Mục tiêu ban đầu của Hiệp định là giảm 90% các loại thuế xuất nhập khẩu giữa
các nước thành viên trước ngày 1 tháng 1 năm 2006 và cắt giảm bằng không tới
năm 2015. Đây là một thỏa thuận toàn diện bao quát tất cả các khía cạnh chính của
một hiệp định thương mại tự do, bao gồm trao đổi hàng hóa, các quy định về xuất
xứ, can thiệp, rào cản kỹ thuật, trao đổi dịch vụ, vấn đề sở hữu trí tuệ, chính sách
của các chính quyền..

Xóa bỏ thuế quan

Trong những năm qua, các loại thuế quan xuất nhập khẩu đánh vào các nước TPP
đã giảm đáng kể và ở mức trung bình thấp do các hiệp định thương mại tự do hiện
có như NAFTA, ASEAN,… được ký kết giữa các thành viên TPP. Tuy nhiên, vẫn
tồn tại một số quốc gia như Mexico và Việt Nam vẫn áp dụng mức thuế suất trung
bình 5% lên các đối tác TPP. Bên cạnh đó, các nước TPP cũng áp mức thuế nhập

24
khẩu khá cao cho các nước đối tác TPP như Brunei (3.4%), Canada (3.1%), Nhật
Bản (3.3%), Mexico (3.6%), New Zealand (3.7%) và Việt Nam (4.4%).

Bảng 2.6: Mức thuế trung bình áp dụng lên các nước TPP

Nguồn: ASEAN

Thu hút đầu tư nước ngoài

Hiệp định TPP đảm bảo các nước thành viên TPP đối xử công bằng với các nhà
cung cấp dịch vụ nước ngoài và nhà đầu tư nước ngoài. Nói cách khác, các công ty
nước ngoài không bị phân biệt đối xử với các công ty trong nước TPP. Tuy nhiên,
các lĩnh vực nhạy cảm (được chỉ định rõ trong danh sách các ngành bị loại trừ) như
lĩnh vực quốc phòng sẽ loại trừ khỏi sự đối xử này. Đáng chú ý là hiệp định TPP
cấm áp dụng một số hạn chế đối với chính phủ về hành vi của các công ty nước
ngoài như việc cấm thực hiện yêu cầu chuyển giao công nghệ và hạn chế chuyển
tiền.

Ngoài ra, việc các nước TPP đối xử đặc biệt với các doanh nghiệp nhà nước
(DNNN), từ đó tạo ra lợi thế cạnh tranh không lành mạnh đối với các công ty nước
ngoài sẽ bị cấm trong Hiệp định TPP. Tuy nhiên, TPP có thể gây tổn hại cho chính
các doanh nghiệp nhà nước vốn được hưởng lợi từ sự cạnh tranh yếu ớt đối với các
hợp đồng của chính phủ.

25
CHƯƠNG 3: VỊ TRÍ Ý NGHĨA CỦA VIỆT NĂM KHI HỘI NHẬP
KINH TẾ ASEAN

3.1. Vị trí của Việt Nam khi hội nhập kinh tế ASEAN
Tham gia ASEAN là một quyết sách có tầm chiến lược của Đảng và Nhà nước ta,
góp phần tạo nên cục diện phát triển mới cho đất nước, củng cố môi trường hòa
bình, ổn định, tranh thủ các nguồn lực bên ngoài cho phát triển và nâng cao vị thế
đất nước.

Trong suốt hành trình 27 năm tham gia ASEAN với phương châm “tích cực, chủ
động và có trách nhiệm”, Việt Nam đã có nhiều đóng góp cho một ASEAN thống
nhất, đoàn kết, hòa bình, ổn định và phát triển, có tiếng nói ở khu vực và được các
nước lớn công nhận.

Một là, ngay sau khi gia nhập ASEAN, Việt Nam đã tích cực thúc đẩy ASEAN
kết nạp các nước Lào, Myanmar (năm 1997) và Campuchia (năm 1999), mặc dù
phải đối mặt với không ít lực cản. Việt Nam đã trở thành cầu nối giữa khu vực
Đông Nam Á lục địa với Đông Nam Á hải đảo để đến năm 1999, giấc mơ về một
đại gia đình ASEAN gồm toàn bộ 10 quốc gia Đông Nam Á chính thức trở thành
hiện thực. Với sự tham gia của cả 10 nước trong khu vực, nghi kỵ giữa các dân tộc
dần được xóa bỏ, khoảng cách phát triển giữa các quốc gia từng bước được thu hẹp,
tinh thần tự chủ của khu vực cũng được nâng cao đáng kể.

Hai là, Việt Nam đã đóng vai trò nòng cốt trong việc xác định mục tiêu, phương
hướng phát triển và hình thành các quyết sách lớn trong ASEAN, như Hiệp ước
Đông Nam Á không có vũ khí hạt nhân (SEANWFZ, năm 1995); Tầm nhìn
ASEAN 2020 (năm 1997) và các kế hoạch triển khai Tầm nhìn, như Chương trình
hành động Hà Nội, Kế hoạch hành động Viêng Chăn; Tuyên bố hòa hợp ASEAN II
(năm 2003); Hiến chương ASEAN (năm 2007); Lộ trình xây dựng Cộng đồng
ASEAN (2009-2015); Tầm nhìn Cộng đồng ASEAN 2025, các kế hoạch triển khai
trên từng trụ cột và nhiều thỏa thuận quan trọng khác, như Kế hoạch tổng thể về kết

26
nối ASEAN (MPAC) và Sáng kiến liên kết ASEAN (IAI) về thu hẹp khoảng cách
phát triển…[5]

Trong lĩnh vực thương mại, ngay sau khi trở thành thành viên AFTA (1996), Việt
Nam đã đệ trình danh mục giảm thuế 875 mặt hàng trong 15 nhóm sản phẩm và cho
đến tháng 2/2000, Chính phủ đã thông qua lộ trình tổng thể sửa đổi để thực hiện
CEPT của Việt Nam trong giai đoạn 2001-2006. Theo lộ trình này, hàng năm,
Chính phủ ban hành danh mục CEPT thực hiện trong năm. Đây là một dấu hiệu tích
cực cho thấy, Việt Nam đã hướng mạnh vào thị trường phát triển giống như các
nước cũng giống như cách mà các thành viên ASEAN-6 đã làm. Cùng với vấn đề
giảm thuế theo CEPT là quá trình thực hiện dỡ bỏ các hàng rào phi thuế quan theo
CEPT/AFTA. Cũng như các nước thành viên khác, Việt Nam đã và đang loại bỏ tất
cả các hạn chế định lượng đối với các sản phẩm đã cam kết giảm thuế quan theo
CEPT, loại bỏ các hàng rào phi thuế quan khác ngay sau khi được hưởng ưu đãi
CEPT cho sản phẩm của mình, thực hiện hài hòa tiêu chuẩn đối với nhóm 20 mặt
hàng ưu tiên, đã ký Hiệp định khung về công nhận tiêu chuẩn và đánh giá phù hợp.

Sáng kiến về việc xây dựng Khu vực Đầu tư ASEAN (AIA) lần đầu tiên được
đưa ra tại Hội nghị Cấp cao ASEAN lần thứ năm nhằm tăng cường tính hấp dẫn và
tính cạnh tranh của các nước ASEAN trong việc thu hút đầu tư nước ngoài. Hiệp
định AIA ra đời nhằm khắc phục tình trạng giảm sút đầu tư sau khủng hoảng tài
chính – tiền tệ 1997. Quyết định đẩy nhanh thời hạn mở cửa các ngành và dành đối
xử quốc gia cho tất cả các nhà đầu tư đã tạo ra bước chuyển tích cực cho môi trường
đầu tư ASEAN. Việt Nam tham gia AIA hoàn toàn phù hợp với chủ trương hội
nhập kinh tế khu vực và thế giới trong thời kỳ đổi mới.

Trong lĩnh vực tài chính được chính thức hóa tại Hội nghị Bộ trưởng Tài chính
ASEAN lần thứ nhất tháng 3/1997 và được chú trọng hơn sau khủng hoảng tài
chính khu vực. Hợp tác tài chính tiền tệ trong ASEAN bao gồm: tăng cường cơ chế
đối thoại chính sách nhằm chia sẻ thông tin và khuyến nghị các biện pháp hành
động cấp khu vực để ngăn chặn nguy cơ gây khủng hoảng tài chính khu vực, thực

27
hiện sáng kiến phát triển thị trường trái phiếu châu Á, tăng cường liên kết giữa các
thị trường chứng khoán trong khu vực nhằm thúc đẩy các hoạt động đầu tư qua biên
giới và giảm chi phí đầu tư. Việt Nam đã tích cực tham gia vào các chương trình
hợp tác này và thu được kết quả thiết thực, tạo điều kiện trao đổi thông tin và kinh
nghiệm với các nước trong khu vực về các chính sách tài chính tiền tệ, giúp Việt
Nam ổn định hệ thống tài chính trong nước và phát triển nền kinh tế vĩ mô.

Trong lĩnh vực công nghiệp, Việt Nam tham gia Hiệp định Hợp tác Công nghiệp
ASEAN (AICO). ASEAN đã xúc tiến thực hiện AICO, đơn giản hóa thủ tục AICO.
Trị giá trao đổi thông qua AICO đạt hơn 700 triệu USD/năm. Tuy nhiên, việc tham
gia AICO của Việt Nam hiện còn rất hạn chế. Việc tham gia cơ cấu AICO là một
bước thử nghiệm cho quá trình hội nhập kinh tế khu vực, khẳng định nỗ lực của
Việt Nam hội nhập vào phân công sản xuất trong nội bộ ASEAN. Việt Nam đã cùng
ASEAN tham gia các hoạt động như hội nghị về quản lý hệ thống cung cấp của
SMEs (xí nghiệp vừa và nhỏ), nâng cao kỹ năng sản xuất của SMEs tại các nước
thành viên mới của ASEAN là Campuchia, Lào, Myanmar và Việt Nam, giới thiệu
hệ thống đánh giá tiên tiến về SMEs tại ASEAN.

Trong lĩnh vực nông – lâm nghiệp: trên cơ sở chương trình hành động (SPA),
Việt Nam và ASEAN đã thảo luận việc tăng cường an ninh lương thực ASEAN
thông qua duy trì cơ chế Quỹ dự trữ gạo khẩn cấp ASEAN, xây dựng hệ thống
thông tin và số liệu thống kê an ninh lương thực ASEAN cũng như trang web về sản
xuất và buôn bán lương thực của các nước ASEAN. Việt Nam cũng tham gia các
chương trình triển khai và áp dụng công nghệ tiên tiến vào nông nghiệp như xây
dựng mạng lưới ASEAN về khí hậu nông nghiệp, hệ thống cảnh báo sớm các rủi ro
thiên tai cho sản xuất nông nghiệp, quản lý rừng bền vững, mạng lưới kiến thức
quản lý dịch hại tổng hợp, đánh giá rủi ro khi sử dụng các sản phẩm nông nghiệp có
biến đổi di truyền, kiểm soát và ngăn ngừa dịch bệnh trong chăn nuôi, công nghệ
sạch trong sản xuất thực phẩm, rau quả, công nghệ sinh học và thủy sản. Ngoài ra
Việt Nam còn hợp tác với ASEAN nhằm nâng cao khả năng tiếp cận của hàng nông

28
lâm sản ASEAN trên thị trường quốc tế và thực hiện kế hoạch hành động về phát
triển nông thôn và xóa đói giảm nghèo trong ASEAN. Các lĩnh vực Hợp tác trong
ASEAN đã được tăng cường qua việc đẩy mạnh thực hiện Chương trình Hành động
Hà Nội, thông qua Tuyên bố Hà Nội về thu hẹp khoảng cách phát triển, triển khai
Sáng kiến liên kết ASEAN (IAI) nhằm thu hẹp khoảng cách phát triển, hỗ trợ thành
viên mới hội nhập khu vực.

3.3. Ý nghĩa của Việt Nam khi hội nhập kinh tế ASEAN
Tháng 7 năm 1995, Việt Nam chính thức gia nhập Hiệp hội các quốc gia Đông
Nam Á (ASEAN), trở thành một trong những thành viên chủ động, tích cực, có
trách nhiệm, ảnh hưởng lớn đến cấu trúc thống nhất của ASEAN cũng như duy trì
hòa bình, thịnh vượng ở khu vực, xây dựng ASEAN trở thành một cộng đồng chung
hoàn thiện, lấy người dân làm trung tâm. Kể từ đó, Việt Nam đã chủ động tham gia
vào quá trình hội nhập kinh tế ASEAN thông qua việc thực hiện các cam kết
CEPT/AFTA loại bỏ dần các rào cản thuế quan và thực hiện các FTA đa phương
trong khuôn khổ ASEAN. Quá trình hội nhập này cũng phù hợp với những cải cách
định hướng thị trường và chính sách "mở cửa" chủ động mà Việt Nam theo đuổi kể
từ khi bắt đầu Đổi Mới.
Đối với một đất nước đang trong giai đoạn cải cách kinh tế theo hướng thị trường
và hội nhập kinh tế khu vực như Việt Nam, quá trình hội nhập ASEAN có ý nghĩa
quan trọng, mở ra nhiều cơ hội phát triển cho Việt Nam trên nhiều lĩnh vực. Thứ
nhất, hội nhập ASEAN tạo nhiều điều kiện thuận lợi, gồm cả ổn định khu vực, cho
phát triển kinh tế - xã hội. Thứ hai, hội nhập ASEAN đóng vai trò nền tảng để tiến
tới tăng cường tự do hóa và hội nhập kinh tế ở Việt Nam. Sau khi gia nhập ASEAN,
Việt Nam đã trở thành thành viên của APEC và WTO, và trở thành đối tác ký kết
nhiều hiệp định khác như Việt Nam - US BTA, ACFTA, AKFTA,... Thứ ba, là
thành viên của ASEAN giúp tăng cường khả năng thương lượng của Việt Nam, đặc
biệt là trong đàm phán với các đối tác thương mại và đầu tư lớn khác. Điều quan
trọng hơn, Việt Nam không còn có thể đứng ngoài những sự kiện xảy ra trong hoặc

29
tác động đến khu vực ASEAN. Cuối cùng, ASEAN đã chứng tỏ mình là một đối tác
thương mại và đầu tư quan trọng của Việt Nam.
Kể từ khi trở thành thành viên ASEAN, xuất nhập khẩu của Việt Nam với
ASEAN luôn giữ một tỉ trọng lớn trong cán cân xuất nhập khẩu [6]. Giá trị thương
mại tính theo số tuyệt đối giữa Việt Nam với ASEAN tăng liên tục, từ 4,8 tỷ USD
năm 1996 lên 29.7 tỷ USD năm 2008 và 39,7 tỉ USD năm 2013. Có thể thấy kim
ngạch thương mại Việt Nam và ASEAN đã tăng gần 4 lần trong thập kỷ qua từ
khoảng 9 tỷ USD năm 2003 lên đến gần 40 tỷ USD năm 2013.
Trong những năm gần đây, ASEAN luôn thuộc nhóm các thị trường xuất khẩu
hàng đầu của Việt Nam. Năm 2013, ASEAN là thị trường xuất khẩu lớn thứ 3 của
Việt Nam, chỉ đứng sau Mỹ và EU, với kim ngạch 18,4 tỷ USD, tăng 4,4% so với
năm trước đó. Ngay cả trong bối cảnh cả thế giới phải chịu những tác động nặng nề
của cuộc khủng hoảng tài chính và suy thoái kinh tế toàn cầu, thương mại song
phương giữa Việt Nam và ASEAN và vẫn đạt 22 tỷ USD năm 2009 và tiếp tục tăng
trưởng vào những năm sau đó. Điều này phản ánh sự vững mạnh của ASEAN như
một đối tác thương mại quan trọng của Việt Nam. Tuy nhiên, xuất khẩu của Việt
Nam sang ASEAN lại đang có chiều hướng tăng trưởng chậm lại, một trong những
lý do là các ưu thế về xuất khẩu với khối thị trường truyền thống có vị trí địa lý gần
gũi này chưa được tận dụng một cách tối đa ví dụ như các ưu đãi từ Hiệp định
thương mại hàng hóa ASEAN (ATIGA).
Bảng 3.1: Thương mại song phương giữa Việt Nam - ASEAN

Nguồn: Viện nghiên cứu quản lý kinh tế Trung Ương

30
Quan hệ FDI giữa Việt Nam và ASEAN cũng được củng cố theo thời gian.
Trong giai đoạn 1990-2009, tổng lượng vốn FDI (đăng ký) từ ASEAN vào Việt
Nam đạt 40 tỷ USD với 1.517 dự án, chiếm 26 % tổng nguồn vốn FDI (13,8 % tổng
số dự án) vào Việt Nam. Ngược lại, FDI của Việt Nam sang ASEAN đạt 4,8 tỷ
USD (269 dự án) trong giai đoạn từ năm 2006 đến năm 2009, chủ yếu là đầu tư
sang các nước Campuchia, Lào và Myanmar.
Kết quả hoạt động thương mại và đầu tư song phương Việt Nam - ASEAN trong
những năm qua không tự đến. Trong thực tế, những kết quả này có được chủ yếu là
do thực hiện nghiêm túc các cam kết của Việt Nam trong hội nhập ASEAN. Kể từ
khi bắt đầu quá trình Đổi mới Việt Nam luôn ghi nhận hội nhập quốc tế là phần
không thể thiếu của quá trình cải cách tổng thể. Quan hệ thuận chiều giữa mức độ
hội nhập hiệu quả và tăng trưởng kinh tế, đặc biệt kể từ năm 2000, càng củng cố
lòng tin của đất nước vào việc tiếp tục đẩy mạnh các nỗ lực hội nhập khu vực. Nhìn
chung, có thể nói Việt Nam đã thực hiện nghiêm túc các cam kết đa phương (WTO,
ASEAN,...) mặc dù phải đối mặt với nhiều thách thức như các nước ASEAN khác.
AEC sẽ giúp các doanh nghiệp mở rộng trao đổi thương mại, thu hút đầu tư, đẩy
mạnh xuất khẩu, cắt giảm chi phí nhập khẩu, hạ giá thành sản phẩm, tiếp cận các thị
trường rộng lớn hơn. Hàng hóa Việt Nam sẽ có lợi thế cạnh tranh nhiều tại các thị
trường Campuchia, Lào và Myanmar về giá cả và chất lượng, đặc biệt là cơ hội tiềm
năng khi đầu tư vào các lĩnh vực là thế mạnh của Việt Nam như hàng tiêu dùng, vật
liệu xây dựng, nguyên liệu nông- lâm sản, bên cạnh đó là cơ hội đầu tư vào những
lĩnh vực như tài chính, ngân hàng, du lịch, viễn thông, bất động sản, sản xuất chế
biến. Tuy nhiên, để đẩy mạnh khai thác hiệu quả các thị trường Campuchia, Lào và
Myanmar, Việt Nam cần nỗ lực vượt qua các rào cản do cơ chế, chính sách quản lý
của các nước này còn nhiều bất cập. Đồng thời Việt Nam cũng phải cạnh tranh gay
gắt với nhiều quốc gia khác như Singapore, Indonesia, Thái Lan.
Việc thúc đẩy tự do lưu chuyển hàng hóa đã được ASEAN triển khai thực hiện cả
đối với thương mại nội khối và mở rộng với nhiều đối tác thông qua các FTA của
ASEAN với các đối tác này. Ở khía cạnh này, Việt Nam đã nỗ lực cùng với

31
ASEAN ký kết và triển khai các FTA+1 giữa ASEAN với Trung Quốc, Hàn Quốc,
Nhật Bản, Ấn Độ, Australia và New Zealand, qua đó đem lại những tác động tích
cực đối với nền kinh tế Việt Nam. Thông qua các FTA, một khối lượng đáng kể
hàng hóa xuất khẩu của Việt Nam vào các thị trường nói trên được hưởng thuế nhập
khẩu ưu đãi 0%, góp phần tăng nhanh giá trị xuất khẩu của Việt Nam sang các đối
tác chính của ASEAN.
Tham gia AEC giúp Việt Nam mở rộng thị trường xuất khẩu, cải thiện cơ cấu sản
phẩm xuất khẩu, đa dạng hóa mặt hàng, cải thiện số lượng và chất lượng sản phẩm
xuất khẩu. Những năm gần đây, sản phẩm xuất khẩu của Việt Nam vào ASEAN đã
có sự chuyển dịch từ xuất khẩu sản phẩm thô hàm lượng hoàn thiện và giá trị thấp
sang xuất khẩu nhiều hơn các sản phẩm hàng tiêu dùng có độ hoàn thiện cao hơn
như nông sản chế biến, mỹ phẩm và hàng công nghiệp như điện thoại, máy tính,
linh kiện và sản phẩm điện tử. Số liệu từ Tổng cục Hải quan cho thấy kim ngạch
xuất khẩu nhóm hàng điện thoại, máy vi tính, sản phẩm điện tử và linh kiện sang
các nước ASEAN năm 2013 đạt 4,42 tỷ USD, tăng 47,2%.
Bên cạnh đó, AEC sẽ giúp các doanh nghiệp Việt Nam nâng cao năng lực cạnh
tranh cho các sản phẩm xuất khẩu. Với thị trường rộng lớn và thuế suất ưu đãi, sản
phẩm xuất khẩu sẽ sẽ giảm được chi phí, hạ giá thành, qua đó nâng cao khả năng
cạnh tranh của hàng xuất khẩu Việt Nam với các nước khác. Hơn thế nữa, một điều
kiện để nhận các ưu đãi khi xuất khẩu hàng hóa sang các quốc gia đã ký FTA với
ASEAN là phải đảm bảo tỷ lệ “nội khối” 40% của sản phẩm để được xem là sản
phẩm của ASEAN, mở ra cơ hội lớn để hàng hóa Việt Nam thâm nhập và mở rộng
thị phần ở các thị trường lớn này.

32
KẾT LUẬN
Đầu tiên, em xin gửi lời cảm ơn chân thành đến Trường Đại học Kinh tế -
ĐHQGHN đã đưa học phần Toàn cầu hóa và khu vực hóa trong nền kinh tế thế giới.
Đặc biệt, em xin gửi lời cảm ơn sâu sắc đến giảng viên bộ môn thầy Nguyễn Xuân
Thiên vì đã dạy và truyền đạt những kiến thức quý báu cho em trong suốt thời gian
học tập vừa qua. Trong thời gian tham gia lớp học, em đã có thêm cho mình nhiều
kiến thức bổ ích, tinh thần học tập hiệu quả, nghiêm túc. Đây chắc chắn sẽ là những
kiến thức quý báu, là hành trang để em có thể vững bước trong công việc mà em lựa
chọn sau này.
Bộ môn Toàn cầu hóa và khu vực hóa trong nền kinh tế thế giới là môn học thú
vị, vô cùng bổ ích. Học phần này đã mở ra cơ hội cho sinh viên tìm hiểu một cách
sâu sắc hơn về xu hướng toàn cầu hóa và khu vực hóa nền kinh tế thế giới hiện nay.
Sau khi kết thúc học phần, em nhận thấy rằng xu hướng toàn cầu hóa và khu vực
khóa là một xu thế khách quan, không thể đảo ngược của nền kinh tế - xã hội thế
giới ngày nay. Từ đó, em phân tích được những cơ hội cũng như thách thức của
toàn cầu hóa đối với các nước đang phát triển nói chung và Việt Nam nói riêng.
Tuy nhiên, do vốn kiến thức còn nhiều hạn chế và khả năng tiếp thu thực tế còn
nhiều bỡ ngỡ dù em đã cố gắng hết sức nhưng bài tập lớn vẫn khó có thể tránh khỏi
những thiếu sót, kính mong thầy xem xét và góp ý để bài của em được hoàn thiện
hơn. Cuối cùng em xin chúc thầy và Khoa mình ngày càng vững mạnh và có thật
nhiều thành công.
Em xin chân thành cảm ơn!

33
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Nguyễn Xuân Thắng (2009), Giáo trình Toàn cầu hóa và hội nhập kinh tế quốc tế,
NXB Đại học Quốc gia Hà Nội, Hà Nội, Tr. 11-31.
2. Đỗ Thị Thanh Tâm (2005), Quá trình hội nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam - Thực
trạng và Giải pháp, Luận văn thạc sĩ Thạc sĩ Kinh tế Chính trị, trường Đại học Kinh
tế - ĐHQGHN, Hà Nội, Tr. 5-91.
3. Tổ chức Lao động quốc tế và Ngân hàng Phát triển Châu Á (2014), Cộng đồng
ASEAN 2015: Quản lý hội nhập hướng tới thịnh vượng chung và việc làm tốt hơn
Hà Nội, Hà Nội.
4. Nguyễn Hồng Sơn - Nguyễn Anh Thu (2015), Cộng đồng Kinh tế ASEAN: Bối cảnh
và kinh nghiệm quốc tế, NXB Đại học Quốc gia Hà Nội, Hà Nội, Tr. 65 - 102.
5. Trọng Đức (2022), “27 năm Việt Nam gia nhập ASEAN (28/7/1995 - 28/7/2022):
Khẳng định vai trò, nâng tầm vị thế”, Báo Tin tức - TTXVN.
6. Viện nghiên cứu quản lý kinh tế Trung Ương (2014), Tiến trình hình thành Cộng
đồng Kinh tế ASEAN: Kinh nghiệm hội nhập và những thách thức đối với Việt Nam,
Hà Nội.
7. Koichi Ishikawa (2021),“The ASEAN Economic Community and ASEAN economic
integration”, Journal of contemporary east asia studies, Tr. 24-41.
8. Koichi Ishikawa (2021), “FTA kara Keizaikyoudotai he”, Journal of contemporary
east asia studies, Tr. 249-255.
9. ASEAN (2022), ASEAN key figures 2021, Jakarta.
10. ASEAN (2021), ASEAN Investment Report 2020–2021 – Investing in Industry 4.0,
Jakarta.

34

You might also like