You are on page 1of 32

Câu 1: Bạn hãy cho biết các nhận định sau đây đúng hay sai và giải thích

(ngắn
gọn) tại sao:

THƯƠNG MẠI - THƯƠNG MẠI QUỐC TẾ


1 Thương mại, thương mại quốc tế được hiểu theo nhiều cách khác nhau.
ĐÚNG
Ø Thương mại được hiểu theo nhiều cách khác nhau, một số trường hợp cụ
thể như:
Theo quan niệm truyền thống, TM là hoạt động trao đổi hàng hóa, là khâu
lưu thông trong một chu trình đầu tư khép kín từ sản xuất đến tiêu thụ sản
phẩm, hoặc cung ứng dịch vụ trên thị trường nhằm mục đích sinh lợi và
những người hoạt động kinh doanh trong lĩnh vực này được gọi là thương
gia.
Theo Luật TM (1997), hoạt động TM được hiểu bao gồm mua bán hàng hóa
và những tác vụ có liên quan trực tiếp đến mua bán hàng hóa. Nói cách
khác, theo quan niệm này, ngoại diên của TM được mở rộng hơn so với
quan niệm truyền thống.
Theo pháp lệnh Trọng tài TM (2003), hoạt dộng TM là việc thực hiện một
hay nhiều hành vi của TM của cá nhân, tổ chức kinh doanh bao gồm mua
bán hàng hóa, cung ứng dịch vụ; phân phối; đại diện, đại lý TM; ký gửi;
thuê, cho thuê; thuê mua; xây dựng; tư vấn; kỹ thuật; ly-xăng; đầu tư; tài
chính; ngân hàng; bảo hiểm; thăm dò; khai thác; vận tải hàng hóa, hàng
khách bằng đường hàng không, đường biển, đường sắt, đường bộ và các
hành vi TM khác theo quy định của PL.
Theo Luật Việt Nam (2005), hoạt động thương mại là hoạt động nhằm mục
đích sinh lợi, bao gồm mua bán hàng hóa, cung ứng dịch vụ, đầu tư, xúc
tiến TM và các hoạt động sinh lợi khác.
Theo Tổ chức TM thế giới (WTO), TM được bao gồm bốn lĩnh vực chính:
- TM về HH;
- TM về dịch vụ;
- Các biện pháp đầu tư liến quan đến TM;
- Các khía cạnh liên qaun đến TM của quyền sở hữu trí tuệ.
Ø Thương mại quốc tế là TM có yếu tố nước ngoài mà yếu tố nước ngoài
được hiểu theo nhiều cách khác nhau, một số cách hiểu đối với yếu tố nước
ngoài điển hình như:
Theo CISG La Haye (1964) và được ghi nhận trong Pháp lệnh trọng tài TM
(2003), thì được coi là yếu tố nước ngoài khi có ít nhất một trong các nhân
tố:
- Các bên chủ thể có trụ sở TM tại các quốc gia khác nhau.
- Hàng hóa được dịch chuyển qua biên giới.
- Căn cứ để xác lập hợp đồng phát sinh ở nước ngoài.
Theo CISG (1980), yếu tố nước ngoài được xác định theo trụ sở TM của các
bên chủ thể. Theo đó được coi là yếu tố nước ngoài khi các bên chủ thể
trong hợp đồng có trụ sở TM ở các quốc gia khác nhau.
Theo Luật TM (1997), HĐMB với thương nhân nước ngoài là khái niệm dung
để chỉ HĐMB HH QT. Nghĩa là, yếu tố nước ngoài được xác định khi một
bên chủ thể mang quốc tịch nước ngoài.
Theo K1, Đ27 Luật TM (2005), MB HH QT được thực hiện dưới các hình
thức xuất khẩu, nhập khẩu, tạm nhập, tái xuất, tạm xuất, tái nhập và chuyển
khẩu. Nghĩa là, yếu tố nước ngoài được xác định theo sự chuyển dịch hàng
hóa từ lãnh thổ hải quan này sang lãnh thổ hải quan khác.
=> Thương mại quốc tế cũng được hiểu theo nhiều cách khác nhau.
Thương mại quốc tế là hoạt động thương mại có yếu tố nước ngoài. Trong
2 đó, yếu tố nước ngoài được xác định trong các nguồn luật chưa thống nhất
với nhau.
ĐÚNG
Cho đến nay chưa có cách hiểu thống nhất về YTNN, một số cách hiểu điển
hình:
Theo CISG La Haye (1964) và được ghi nhận trong Pháp lệnh trọng tài TM
(2003), thì được coi là yếu tố nước ngoài khi có ít nhất một trong các nhân
tố:
- Các bên chủ thể có trụ sở TM tại các quốc gia khác nhau.
- Hàng hóa được dịch chuyển qua biên giới.
- Căn cứ để xác lập hợp đồng phát sinh ở nước ngoài.
Theo CISG (1980), yếu tố nước ngoài được xác định theo trụ sở TM của các
bên chủ thể. Theo đó được coi là yếu tố nước ngoài khi các bên chủ thể trong
hợp đồng có trụ sở TM ở các quốc gia khác nhau.
Theo UNCITRAL (Ủy ban về Luật TMQT của Liên hiệp quốc), Yếu tố nước
ngoài được xác định:
- Các bên quan hệ mang quốc tịch, có nơi cư trú hoặc có trụ sở TM ở các quốc
gia khác nhau; hoặc
- Quan hệ TM được xác lập, hoặc được thực hiện ở nước ngoài ít nhất đối với
một bên; hoặc
- Tài sản liên quan đến quan hệ TM toạ lạc ở nước ngoài ít nhất đối với 1 bên
Theo Luật TM (1997), HĐMB với thương nhân nước ngoài là khái niệm dung
để chỉ HĐMB HH QT. Nghĩa là, yếu tố nước ngoài được xác định khi một
bên chủ thể mang quốc tịch nước ngoài.
Theo K1, Đ27 Luật TM (2005), MB HH QT được thực hiện dưới các hình
thức xuất khẩu, nhập khẩu, tạm nhập, tái xuất, tạm xuất, tái nhập và chuyển
khẩu.
Tại Việt Nam - Quan niệm truyền thống, Yếu tố nước ngoài được xác định:
Các bên tham gia quan hệ TM mang quốc tịnh khác nhau
Hoạt động TM vượt biên giới quốc gia lãnh thổ
Tại Việt Nam - Quan niệm hiện nay:
Yếu tố nước ngoài được xác định theo “biên giới hải quan”: Là ranh giới để
xác định diễn ra hoạt động xuất khẩu, nhập khẩu. Trong đó, xuất khẩu là việc
đưa hàng hoá ra ngoài lãnh thổ Việt Nam, hoặc vào khu vực đặc biệt nằm
trên lãnh thổ Việt Nam được coi là khu vực hải quan riêng theo qui định của
pháp luật (ngược lại gọi là nhập khẩu – Điều 28, Luật TM 2005).
Chỉ những hoạt động thương mại vượt ra khỏi biên giới quốc gia mới
3
được coi là thương mại quốc tế.
SAI
Vì ở trong lãnh thổ của 01 quốc gia cũng xảy ra hoạt động thương mại quốc tế,
như hoạt động buôn bán ra vào khu vực chế xuất là phải đóng thuế, làm thủ tục
hải quan (theo luật hải quan) đây là hoạt động thương mại quốc tế. Vì vậy
TMQT trong nước giống như ở nước ngoài là hoạt động TMQT.
CHỦ THỂ CỦA LUẬT TMQT
Chỉ những quốc gia có chủ quyền mới là chủ thể của Luật thương mại
4
quốc tế
SAI
Vì theo lý thuyết thì quốc gia phải có chủ quyền nhưng trong thực tiễn một số
quốc gia không có chủ quyền nhưng vẫn tham gia Luật TMQT, như các nước
Hồng Kong, Ma Cao, Đài Loan họ vẫn chính thức tham gia tổ chức thương
mại quốc tế WTO.
5 Chủ thể của Luật thương mại quốc tế là thể nhân và pháp nhân và theo
pháp luật Việt Nam gọi là thương nhân.
SAI
Chủ thể của Luật TMQT là các bên tham gia quan hệ TM chịu sự điều chỉnh
của Luật TMQT và được chia làm ba loại: chủ thể cá nhân; pháp nhân và quốc
gia. Theo PL VN trong quan hệ TM, pháp nhân và cá nhân là chủ thể của Luật
TMQT gọi là thương nhân. Do đó, chủ thể của LTMQT không chỉ là thể nhân
và pháp nhân mà còn có chủ thể là quốc gia.
Chủ thể của Luật thương mại trong nước là chủ thể của Luật thương mại
6
quốc tế.
SAI
Vì chủ thể của luật thương mại trong nước là thương nhân còn chủthể của luật
thương mại quốc tế là cá nhân, pháp nhân và quốc gia
7 Quốc gia là chủ thể đặc biệt của Luật thương mại quốc tế.
ĐÚNG
Do quốc gia là chủ thể duy nhất có quyền chủ quyền tuyệt đối nên quốc gia là
chủ thể được hưởng hưởng quy chế đặc biệt:
- Luật áp dụng là luật của quốc gia đó
- Ngôn ngữ của hợp đồng là ngôn ngữ của QG đó
- Quốc gia được hưởng quyền miễn trừ tư pháp
KHÁC
8 Luật thương mại quốc tế là một bộ phận của Luật tư pháp quốc tế.
ĐÚNG
Luật TMQT là tập hợp các nguyên tắc, các qui phạm điều chỉnh quan hệ giữa
các chủ thể trong hoạt động TMQT. Trong đó:
- Bộ phận Luật TMQT điều chỉnh quan hệ TM giữa các thương nhân liên quan
đến trao đổi hàng hóa, dịch vụ và các đối tượng khác (International
Commerce) gọi là Luật TMQT tư (còn được gọi Luật Kinh doanh quốc tế).
- Bộ phận Luật TMQT điều chỉnh quan hệ TM giữa các quốc gia và các liên
kết TM khu vực thông qua các hiệp định TM (International Trade) và các
chính sách TM gọi là Luật TMQT công.
=> Luật thương mại quốc tế là một bộ phận của Luật tư pháp quốc tế
Khi quốc gia đã chấp nhận cho các cơ quan xét xử xét xử mình khi xảy rat
9 ranh chấp thì quốc gia sẽ bị ràng buộc bởi các phán quyết cơ quan có
thẩm quyền tài phán.
ĐÚNG
Vì khi quốc gia tham gia vào hoạt động thương mại với tư cách giống như là
các thương nhân thì khi quốc gia đã chấp nhận cho các cơ quan xét xử xét xử
mình khi xảy ra tranh chấp thì quốc gia sẽ bị ràng buộc bởi các phán quyết cơ
quan có thẩm quyền tài phán.
Khi chủ thể là quốc gia tham gia vào hoạt động thương mại quốc tế giống
10
như các thương nhân thì luôn được hưởng quyền miễn trừ tư pháp.
ĐÚNG Nhưng để thuận tiện cho việc tham gia các quan hệ quốc tế thì thông
thường các quốc gia từ bỏ quyền miễn trừ tư pháp. Có thể khi kí kết hợp đồng
trong trường hợp này tuyên bố từ bỏ quyền miễn trừ tư pháp thì lúc đó quốc
gia giống như một thương nhân, cá nhân.
11 Thứ tự ưu tiên áp dụng các nguồn của Luật thương mại quốc tế là:
a. Điều ước quốc tế; Luật quốc gia; Tập quán thương mại quốc tế. SAI
Vì mỗi loại nguồn lực đều có những giá trị khác nhau tùy thuộc vào từng quan
hệ mà thứ tự ưu tiên khác nhau.
Ví dụ: Công ước Viên sẽ áp dụng cho các hợp đồng mua bán hàng hóa giữa
các bên có trụ sở Thương mại tại các quốc gia khác nhau và khi các quốc gia
này đều là thành viên của Công ước Viên. Vì vậy, sự thỏa thuận áp dụng của
mỗi quốc gia trong trường hợp này là không có giá trị.
b. Điều ước quốc tế; Tập quán thương mại quốc tế; Luật quốc gia. SAI
c. Luật quốc gia; Điều ước quốc tế; Tập quán thương mại quốc tế. SAI
d. Nguồn luật các bên thỏa thuận áp dụng; Điều ước quốc tế; Luật quốc
gia; Tập quán thương mại quốc tế. ĐÚNG
Vì hợp đồng là sự thỏa thuận của các bên nên việc áp dụng nguồn luật nào là
do hai bên thỏa thuận => sử dụng nguồn luật mà hai bên thỏa thuận là ưu
tiên hàng đầu.
Điều ước quốc tế, Pháp luật quốc gia và Tập quán TMQT được áp dụng trong
các TH sau:
Điều ước quốc tế:
- Các bên quan hệ mang quốc tịch hoặc cư trú ở các nước là thành viên của
điều ước; hoặc
- Có sự qui định khác nhau giữa điều ước quốc tế và PL quốc gia là thành viên
của điều ước; hoặc
- Các bên thỏa thuận áp dụng.
Pháp luật quốc gia:
- Khi không có điều ước quốc tế, hoặc có nhưng không qui định, hoặc qui định
không đầy đủ; hoặc
- Khi các bên thoả thuận áp dụng (luật quốc gia của một bên hoặc quốc gia thứ
ba); hoặc
- Khi có xung đột pháp luật và có quy phạm xung đột dẫn chiếu đến áp dụng
pháp luật quốc gia.
Tập quán thương mại quốc tế:
- Các bên thỏa thuận áp dụng trước hoặc sau khi ký hợp đồng; hoặc
- Các điều ước quốc TM có liên quan, hoặc pháp luật quốc gia qui định áp
dụng; hoặc
- Các bên không thỏa thuận áp dụng, điều ước quốc tế và PL quốc gia không
điều chỉnh.
Như vậy, các bên sẽ ưu tiên áp dụng luật mà hai bên thỏa thuận. Nếu hai bên
không thỏa thuận thì theo thứ tự ưu tiên áp dụng các nguồn Luật thương mại
quốc tế là: Điều ước quốc tế; Luật quốc gia; Tập quán thương mại quốc tế.
Khi các bên không thỏa thuận áp dụng, Điều ước quốc tế và Luật của
12 quốc gia không dẫn áp dụng thì Tập quán thương mại quốc tế sẽ không
thể nào áp dụng đối với các chủ thể.
ĐÚNG
Vì theo Inconterms 2000 thì Tập quán thương mại quốc tế chỉ có giá trị pháp
lý bắt buộc các bên thực hiện khi họ thỏa thuận dẫn chiếu đến trong hợp đồng.
Sự thỏa thuận của các bên trong hợp đồng luôn có giá trị cao hơn các quy
13
định trong Tập quán thương mại quốc tế.
ĐÚNG
Vì theo Điều 12 của Incoterms 2000 thì các điều thỏa thuận riêngbiệt có giá
trị pháp lý cao hơn cả các điều giải thích trong Incoterm. Trên thực tế các điều
khoản của Incoterms có thể không phù hợp với một số thói quen giao dịch đối
với một số ngành nghề hoặc một số tập quán khu vực nào đó. Do vậy, trong
một số trường hợp, trong quá trình giao kết hợp đồng các bên có thể thoả thuận
dẫn chiếu đến tập quán của một ngành riêng biệt, tập quán của một địa phương
hoặc những thực tiễn mà bản thân các bên đã tạo nên trong quá trình giao dịch
thương mại quốc tế trước đó của họ.
Theo pháp luật Việt Nam, trưởng phòng kinh doanh của một Công ty có
14
thể ký kết hợp đồng Thương mại quốc tế.
SAI
Vì Theo pháp luật Việt Nam chỉ có giám đốc công ty mới có quyền kí hợp
đồng Thương mại quốc tế. Trưởng phòng kinh doanh có thể kí hợp đồng khi
được sự ủy quyền của giám đốc thì mới được kí, còn không thì chỉ có giám
đốc mới có thể kí hợp đồng.
Theo pháp luật Việt Nam hiện hành: xuất khẩu; nhập khẩu; tạm nhập -
15 tái xuất; tạm xuất – tái nhập; chuyển khẩu là các hình thức mua bán quốc
tế.
ĐÚNG
Theo K1, Đ27 Luật TM (2005), MB HH QT được thực hiện dưới các hình
thức xuất khẩu, nhập khẩu, tạm nhập, tái xuất, tạm xuất, tái nhập và chuyển
khẩu.
NGUỒN CỦA LUẬT TMQT
Pháp luật quốc gia chỉ trở thành nguồn của Luật thương mại quốc tế khi
16 không có điều ước quốc tế điều chỉnh; hoặc có nhưng không quy định
hoặc quy định không đầy đủ
SAI
Vì vẫn còn những trường hợp áp dụng pháp luật quốc gia. Trường hợp 1, khi
các bên trong TMQT thoả thuận áp dụng luật quốc gia. Trường hợp 2, trường
hợp các bên không thoả thuận chọn pháp luật áp dụng nhưng các nguồn luật
liên quan có quy phạm xung đột dẫn chiếu đến 1 hệ thống pháp luật nào đó, thì
pháp luật được dẫn chiếu đến sẽ được đem đi áp dụng để điều chỉnh quan hệ
thương mại quốc tế.
Các hệ luật sau sẽ được quy phạm xung đột dẫn chiếu đến
+ Luật quốc tịch của các bên chủ thể
+ Luật nơi cư trú của các bên chủ thể
+ Luật nơi có vật
+ Luật nơi kí kết hợp đồng
+ Luật nơi thực hiện hợp đồng.
17 Tại sao pháp luật quốc gia lại trở thành một nguồn luật của Luật thương
mại quốc tế?
Vì luật thương mại quốc tế được đặt ra nhằm mục đích quản lí, kiểm soát và
xử lí các vấn đề thương mại xảy ra giữa các quốc gia với nhau. Vì thì luật
TMQT phải dựa vào luật của từng quốc gia để có thể điều chỉnh luật sao cho
phù hợp nhất với tất cả các nước tham gia thương mại.
Tập quán thương mại quốc tế chỉ trở thành nguồn của Luật thương mại
18 quốc tế khi các bên thỏa thuận áp dụng trước hoặc sau khi xác lập quan
hệ hợp đồng.
SAI
Bên cạnh trường hợp Tập quán thương mại quốc tế trở thành nguồn của Luật
thương mại quốc tế khi các bên thỏa thuận áp dụng trước hoặc sau khi xác lập
quan hệ hợp đồng thì Tập quán thương mại quốc tế còn trở thành nguồn
LTMQT trong các trường hợp sau:
- Các điều ước quốc TM có liên quan, hoặc pháp luật quốc gia qui định áp
dụng; hoặc
- Các bên không thỏa thuận áp dụng, điều ước quốc tế và PL quốc gia không
điều chỉnh,
Cơ sở pháp lý để xác định tập quán thương mại quốc tế là nguồn của Luật
19
thương mại quốc tế
- Là thói quen thương mại được hình thành lâu đời và phải được áp dụng liên
tục.
- Có nội dung cụ thể rõ ràng và có tính duy nhất trong giao dịch thương mại
quốc tế.
- Được đại đa số các chủ thể trong thương mại quốc tế hiểu biết và chấp nhận.
20 Tất cả các tập quán thương mại đều là nguồn của luật thương mại quốc tế
SAI
Vì không phải bất kỳ tập quán thương mại nào cũng được xem là tập quán
thương mại quốc tế. Tập quán thương mại chỉ được xem là tập quán thương
mại quốc tế với tư cách là nguồn của Luật Thương mại quốc tế khi nó thỏa
mãn các điều kiện pháp lý như sau: tập quán thương mại quốc tế là thóiquen
trong thương mại được hình thành từ lâu đời, có nội dung cụ thể, rõ ràng,chỉ
có một cách hiểu duy nhất, được áp dụng liên tục và được đa số các chủ thể
trong thương mại quốc tế hiểu biết và chấp nhận.
Điều ước quốc tế chỉ trở thành nguồn của Luật thương mại quốc tế khi
21 các bên chủ thể mang quốc tịch hoặc có nơi cư trú ở các nước là thành
viên của điều ước
SAI
Vì trong quan hệ thương mại quốc tế, các điều ước quốc tế được áp dụng trên
nguyên tắc: trong trường hợp các bên chủ thể trong giao dịch thương mại quốc
tế không mang quốc tịch hoặc không có nơi cư trú ở các nước thành viên của
một điều ước quốc tế về thương mại thì các quy định trong điều ước này vẫn
điều chỉnh quyền và nghĩa vụ của các bên, nếu các bên thỏa thuận áp dụng các
điều khoản của điều ước quốc tế đó.
Bên cạnh trường hợp Điều ước quốc tế trở thành nguồn của Luật thương mại
quốc tế khi các bên chủ thể mang quốc tịch hoặc có nơi cư trú ở các nước là
thành viên của điều ước thì Điều ước quốc tế còn trở thành nguồn LTMQT
trong các trường hợp sau:
- Trong trường hợp có sự quy định khác nhau giữa điều ước quốc tế về TM và
luật trong nước của nước là thành viên điều ước quốc tế đó, quy định của
điều ước quốc tế được ưu tiên áp dụng.
- Trong trường hợp các bên chủ thể trong giao dịch TMQT không mang quốc
tịch hoặc không có nơi cư trú A các nước thành viên điều ước quốc tế về
thương mại thì các quy định trong điều ước này vẫn được áp dụng nếu các
bên thỏa thuận áp dụng các điều khoản của điều ước quốc tế đó.
MFN VÀ NT
Mọi sự ưu đãi trong TMQT của 1 quốc gia dành riêng cho một, một số
22
quốc gia khác đều bị coi là vi phạm chế độ tối huệ quốc (MFN).
SAI
Vì Mục đích của chế độ tối huệ quốc (MFN) là tạo cơ hội ngang nhau trong
thương mại, xóa bỏ mọi kỳ thị, phân biệt đối xử với các lý do khác nhau trong
hoạt động thương mại quốc tế, đồng thời củng cố và thúc đẩy quan hệ hợp tác
thương mại giữa các quốc gia với nhau. Tuy nhiên, nguyên tắc MFN có những
trường hợp ngoại lệ sau đây:
- Quốc gia được hưởng ưu đãi là thành viên của khu vực mậu dịch tự do
(Free Trade Area), hoặc liên minh thuế quan (Custom Union).
Ví dụ: Khu vực mậu dịch tự do: khu vực mậu dịch tự do ASEAN (AFTA), khu
vực mậu dịch tự do Bắc Mỹ (NAFTA);
Liên minh thuế quan: diễn đàn hợp tác kinh tế Châu Á Thái Bình Dương
(APEC), Thị trường Châu Âu (ECM),...
- Ưu đãi mà các quốc gia khác được hưởng là ưu đãi trong hoạt động mua
bán qua biên giới. Theo đó, các nước có biên giới liền kề có quyền dành cho
nhau những ưu đãi để tạo điều kiện thuận lợi cho việc đưa hàng hóa qua biên
giới, mà các quốc gia khác không có quyền đòi hỏi.
- Không được hưởng ưu đãi vì lý do phòng ngừa chung. Theo đó, các nước
có quyền cấm nhập khẩu, xuất khẩu sản phẩm từ một nước, hoặc đến một
nước vì lý do bảo vệ sức khỏe con người, cây trồng, động vật, hoặc an ninh
quốc giá (điều 20 và 21 của GATT 1994).
- Chế độ có đi – có lại và chế độ báo phục quốc.
Do đó, nếu thuộc một trong những trường hợp ngoại lệ trên cho dù có sự ưu
đãi trong Thương mại quốc tế của một quốc gia dành riêng cho một, một số
quốc gia khác thì không bị coi là vi phạm chế độ tối huệ quốc (MFN). Ví dụ:
Thái Lan và Việt Nam cùng nằm trong khu vực mậu dịch tự do ASEAN
(AFTA) do đó có quyền dành cho nhau những ưu đãi như bãi miễn thuế quan
và phi thuế quan để tạo điều kiện tự do hóa buôn bán một hoặc một số mặt
hàng nào đó. Và quyền lợi này không dành cho những nước không phải là
thành viên trong khu vực (ví dụ như Ấn Độ).
Mọi sự bảo hộ của nhà nước đối với một loại sản phẩm được sản xuất
23
trong nước đều bị coi là vi phạm chế độ NT (chế độ đãi ngộ quốc gia).
SAI
Vì nếu nằm trong các trường hợp ngoài lệ của chế độ đãi ngộ quốc gia dưới
đây
thì không được coi là bị vi phạm:
- Hàng hóa mua sắm phục vụ nhu cầu của Chính phủ;
- Hàng hóa thuộc diện được miễn trừ;
- Sử dụng các sản phẩm nội địa thay thế nhập khẩu trong thời hạn cho phép.
- Các ngoại lệ khác được quy định trong các hiệp định khác nhau như phân
biệt đối xử trong cấp hạn ngạch dệt may trong Hiệp định Dệt may...
CHÍNH PHỦ
Chính phủ Việt Nam bảo hộ ngành sản xuất ô tô và sản xuất mía đường
24 trong nước bằng việc tăng thuế nhập khẩu ô tô nguyên chiếc và thuế nhập
khẩu đường là vi phạm chế độ NT (chế độ đãi ngộ quốc gia).
SAI
Vì việc áp dụng nguyên tắc đối xử quốc gia cũng có một số trường hợp ngoại
lệ:
- - Hàng hóa mua sắm phục vụ nhu cầu của Chính phủ;
- - Hàng hóa thuộc diện được miễn trừ;
- - Sử dụng các sản phẩm nội địa thay thế hàng nhập khẩu trong thời hạn cho
phép.
- - Các ngoại lệ khác được quy định trong các hiệp định khác nhau như phân
biệt đối xử trong cấp hạn ngạch dệt may trong Hiệp định Dệt may…
Mà ngành sản xuất ô tô và sản xuất mía đường là các ngành được Chính phủ
Việt Nam khuyến khích phát triển nên áp dụng biện pháp bảo hộ bằng việc
“tăng thuế nhập khẩu ô tô nguyên chiếc và thuế nhập khẩu đường”. Do vậy,
nếu sự bảo hộ này được thực hiện trong thời hạn cho phép thì sẽ thuộc vào
trường hợp ngoại lệ “Sử dụng các sản phẩm nội địa thay thế hàng nhập khẩu
trong thời hạn cho phép” và không được xem là vi phạm chế độ đãi ngộ quốc
gia (NT).
Hoặc ĐÚNG
Chính phủ VN chỉ đúng trong trường hợp chính phủ bảo hộ ngành sản xuất ô
tô và sản xuất mía đường trong một thời gian quy định. Còn nếu không quy
định về thời hạn bảo hộ thì chính phủ VN đã vi phạm chế độ NT
Chính phủ các quốc gia phát triển sử dụng hàng rào kỹ thuật (tiêu chuẩn
chất lượng; vệ sinh, an toàn thực phẩm;...) là vi phạm nguyên tắc TMQT.
(Chính phủ các quốc gia phát triển sử dụng hàng rào kỹ thuật và an toàn
25
thực phẩm thông qua các quy định tiêu chuẩn kỹ thuật và tiêu chuẩn an
toàn thực phẩm là vi phạm các nguyên tắc “Thương mại không phân biệt
đội xử trong thương mại”).
SAI
Vì Hiệp định về các biện pháp kiểm dịch động thực vật (Hiệp định SPS)
cho phép các nước xây dựng cho mình những tiêu chuẩn riêng song cũng như
quy định các tiêu chuẩn này phải có căn cứ khoa học. Các quy định về vệ sinh
dịch tễ chỉ có thể được áp dụng trong chừng mực cần thiết để bảo vệ sức khỏe
của con người và các loài động thực vật. Chúng cũng không được gây ra sự
phân biệt đối xử tùy tiện hoặc vô căn cứ giữa các quốc gia có điều kiện giống
hệt nhau hoặc tương tự như nhau.
Các thành viên WTO được khuyến khích áp dụng các tiêu chuẩn, định hướng
hoặc khuyến nghị quốc tế sẵn có. Tuy vậy, các nước vẫn có thể thông qua
những biện pháp sử dụng những tiêu chuẩn cao hơn nếu họ có cơ sở khoa học.
Họ có thể xây dựng những tiêu chuẩn khắt khe hơn dựa trên việc đánh giá hợp
lý các rủi ro, với điều kiện phương pháp tiến hành phải chặt chẽ và không tùy
tiện. Trong chừng mực nào đó, các nước này có thể áp dụng nguyên tắc
“phòng ngừa”, cách tiếp cận theo kiểu “an toàn là trên hết” trong trường hợp
chưa có căn cứ khoa học chắc chắn. Khoản 7 điều 5 Hiệp định SPS cho phép
các nước đưa ra các biện pháp “phòng ngừa” tạm thời.
Hiệp định TBT (Hiệp định những rào cản kỹ thuật đối với thương mại)
thừa nhận quyền của các nước được đưa ra những chuẩn mực mà họ cho là
thích hợp để bảo vệ sức khỏe và cuộc sống của con người và động vật, để bảo
tồn các loài thực vật, bảo vệ môi trường hay các quyền lợi khác của người tiêu
dùng, v.v. Các nước thành viên của Hiệp định này không bị cấm thông qua các
biện pháp cần thiết để bảo đảm việc tuân thủ các chuẩn mực này.
BÁN PHÁ GIÁ
Chính phủ quốc gia nhập khẩu được áp dụng biện pháp “Thuế chống bán
26 phá giá” khi có hành vi bán phá giá (giá XK thấp hơn giá trị bình thường
tại nước XK) của các doanh nghiệp nước ngoài.
SAI
Chính phủ quốc gia nhập khẩu được áp dụng biện pháp “Thuế chống bán phá
giá” khi chứng minh đủ 3 điều kiện:
- Có hành vi bán phá giá (giá XK thấp hơn giá trị bình thường tại nước XK)
- Biên độ phá giá ≥ 2% (chênh lệch giữa giá xuất khẩu và giá trị thị trường)
- Việc bán phá giá đang gây ra hoặc đe dọa gây ra thiệt hại vật chất đáng kể
(Giá trị hàng hóa bán phá giá của những nước thuộc diện này ≥ 7% tổng giá
trị nhập khẩu)
Như vậy, việc các doanh nghiệp nước ngoài có hành vi bán phá giá (giá XK
thấp hơn giá trị bình thường tại nước XK) chỉ là một trong số 3 điều kiện để
Chính phủ quốc gia nhập khẩu áp dụng biện pháp “Thuế chống bán phá giá”
mà thôi
Tất cả các trường hợp bán với giá thấp hơn 2% giá trị thông thường của
27 sản phẩm và gây thiệt hại cho ngành sản xuất của nước sở tại đều được
coi là hành vi phá giá và bị áp dụng thuế đối kháng.
SAI
Vì theo khoản 8 điều 5 hiệp định AD quy định điều kiện được coi là phá giá
khi biên độ phá giá lớn hơn 2%, bán thấp hơn 2% của giá xuất khẩu. Trong
trường hợp tổng sản phẩm xuất khẩu của 01 nước phá giá bằng tổng 3% so với
tổng giá nhập khẩu cho dù bán phá giá 10% vẫn được. nhưng tổng số các sản
phẩm tương tự của những nước này được nhập vào nước nhập khẩu chiếm trên
7% nhập khẩu sản phẩm tương tự vào Thành viên nhập khẩu.
Một quốc gia bán phá giá với biên độ phá giá lớn hơn 2% thì được coi là
28
hành vi phá giá.
SAI
Vì ngoài biên độ phá giá lớn hơn 2%, bán thấp hơn 2% của giá xuất khẩu và
gây thiệt hại hoặc đe dọa gây thiêt hại cho ngành sản xuất của nước nhập khẩu
thì mới được coi là hành vi phá giá.
29 Thuế chống bán phá giá có thể được áp dụng cao hơn mức phá giá
SAI
Vì theo khoản 3 điều 9 Hiệp định AD Mức thuế chống bán phá giá không được
phép vượt quá biên độ bán phá giá được xác định theo điều 2.
Khi xác định hành vi phá giá của một doanh nghiệp đã thỏa mãn các điều
30 kiện thì một doanh nghiệp của nước nhập khẩu có thể khởi kiện doanh
nghiệp bán phá giá đó.
SAI
Vì theo điều 5 hiệp định thực thi điều VI của Hiệp định chung về thuế quan và
thương mại 1994 (Hiệp định AD) thì một doanh nghiệp của nước nhập khẩu
không thể khởi kiện được mà phải được sự ủng hộ 5 doanh nghiệp của nước
nhập khẩu. Đơn yêu cầu sẽ được coi là được yêu cầu bởi ngành sản xuất trong
nước hoặc đại diện cho ngành sản xuất trong nước nếu như đơn này được ủng
hộ bởi các nhà sản xuất chiếm tối thiểu 50% tổng sản lượng của sản phẩm
tương tự được làm bởi các nhà sản xuất đã bày tỏ ý kiến tán thành hoặc phản
đối đơn yêu cầu đó. Tuy nhiên, điều tra sẽ không được bắt đầu nếu như các
nhà sản xuất bày tỏ ý tán thành điều tra chiếm ít hơn 25% tổng sản lượng của
sản phẩm tương tự được ngành sản xuất trong nước làm ra.
Các biện pháp chống bán phá giá; trợ cấp; tự vệ được các quốc gia nhập
31 khẩu áp dụng đều trái với các nguyên tắc chung của WTO về tự do hóa
thương mại.
SAI
Các biện pháp trên khi áp dụng đều có những tác động ngăn cản thương mại
quốc tế ở mức độ nhất định. Tuy nhiên, sự tồn tại của các biện pháp này là cần
thiết và không đi ngược lại với các nguyên tắc cơ bản của WTO bởi vì:
- Quyền tự do trong thương mại của các quốc gia chắc chắn cần phải được giới
hạn trong phạm vi không làm ảnh hưởng đến quyền và lợi ích hợp pháp của
chủ thể khác. Vì vậy, việc tự do thương mại của các chủ thể không được làm
ảnh hưởng đến quyền được phát triển trong môi trường cạnh tranh, công
bằng, minh bạch của chủ thể khác. Các biện pháp phá giá, trợ cấp, tự vệ
trong nhiều trường hợp là công cụ cho các quốc gia bóp méo trong thương
mại quốc tế gây ảnh hưởng đến môi trường cạnh tranh. Vì vậy, việc áp dụng
các biện pháp trên là cần thiết.
- Việc áp dụng các biện pháp trên phải tuân thủ những điều kiện nghiêm ngặt
và thủ tục chặt chẽ để hạn chế các quốc gia lạm dụng các công cụ này.
Gần đây, Mỹ có chính sách áp dụng thuế cao đối với một số hàng hoá
32 nhập khẩu từ các nước: Trung Quốc, EU,... là vi phạm nguyên tắc thiết
lập một chế độ Thương mại không phân biệt đối xử của WTO.
ĐÚNG
Vì trong trường hợp này, Mỹ đã vi phạm nguyên tắc tối huệ quốc và đãi ngộ
quốc gia. Tuy nhiên, cũng phải loại trừ các trường hợp như rơi vào một trong
những trường hợp ngoại lệ của nguyên tắc tối huệ quốc và đãi ngộ quốc gia,
còn lại thì coi đó là vi phạm hai nguyên tắc này.
Bên cạnh đó, còn bởi vì việc xác định bán phá giá sẽ phải dựa vào các căn cứ
sau đây (Dựa vào khoản 1, điều 6, Hiệp định GATT 1994 và khoản 5, điều 3,
hiệp định ADA cho trường hợp này)
- Biên độ phá giá >= 2%
- Giá bán < 2%
- Khối lượng nhập khẩu >= 3%
Trong khi đó, Hoa Kì áp dụng phương pháp quy về 0 để tính biên độ phá giá
nên sẽ gây bất lợi cho các quốc gia xuất khẩu.
Chính phủ Mỹ áp dụng thuế chống bán phá giá đối với các sản phẩm tôm
33 và cá da trơn của Việt Nam trong những năm qua là vi phạm nguyên tắc
TMQT.
ĐÚNG
Vì việc xác định bán phá giá sẽ phải dựa vào các căn cứ sau đây (Dựa vào
khoản 1, điều 6, Hiệp định GATT 1994 và khoản 5, điều 3, hiệp định ADA
cho trường hợp này)
- Biên độ phá giá >= 2%
- Giá bán < 2%
- Khối lượng nhập khẩu >= 3%
Trong khi đó, Hoa Kì áp dụng phương pháp quy về 0 để tính phá giá nên sẽ
gây bất lợi cho Việt Nam và đã bị khiếu kiện nhiều lần theo cơ chế tranh chấp
giải quyết WTO.
Chính phủ Mỹ áp thuế chống bán phá giá đối sản phẩm tôm đông lạnh
!!! được nhập khẩu từ một số doanh nghiệp xuất khẩu Việt Nam là vi phạm
nguyên tắc “Thương mại không phân biệt đối xử”
ĐÚNG
Vì chính phủ Mỹ cũng phải áp thuế chống bán phá giá đối với sản phẩm từ bất
kỳ quốc gia nào nhập khẩu vào nước Mỹ chứ không chỉ riêng Việt Nam và
phải chứng minh đủ 3 điều kiện sau đây thì việc áp thuế chống bán phá giá đối
với sản phẩm tôm đông lạnh được nhập khẩu từ một số doanh nghiệp xuất
khẩu Việt Nam mới được xem là không vi phạm nguyên tắc “Thương mại
không phân biệt đối xử”. Cụ thể ba điều kiện đó là:
- Có hành vi bán phá giá (giá XK thấp hơn giá trị bình thường tại nước XK)
- Biên độ phá giá ≥ 2% (chênh lệch giữa giá xuất khẩu và giá trị thị trường)
- Việc bán phá giá đang gây ra hoặc đe dọa gây ra thiệt hại vật chất đáng kể
(Giá trị hàng hóa bán phá giá của những nước thuộc diện này ≥ 7% tổng giá
trị nhập khẩu).
Trong khi đó, Hoa Kì áp dụng phương pháp quy về 0 để tính phá giá nên sẽ
gây bất lợi cho Việt Nam và đã bị khiếu kiện nhiều lần theo cơ chế tranh chấp
giải quyết WTO.
SAI
Vì việc Chính phủ Mỹ áp thuế chống bán phá giá đối sản phẩm tôm đông lạnh
được nhập khẩu từ một số doanh nghiệp xuất khẩu Việt Nam là vi phạm vào
Điều 6 Hiệp định GATT 1994 quy định về chống bán phá giá (AD) chứ không
phải vi phạm nguyên tắc “Thương mại không phân biệt đối xử”. Tuy nhiên,
việc áp thuế chống bán phá giá của Mỹ đối với tôm đông lạnh nhập khẩu từ
Việt Nam được xem là không vi phạm quy định về chống bán phá giá chỉ khi
Chính phủ Mỹ chứng minh đủ 3 điều kiện sau đây:
- Có hành vi bán phá giá (giá XK thấp hơn giá trị bình thường tại nước XK)
- Biên độ phá giá ≥ 2% (chênh lệch giữa giá xuất khẩu và giá trị thị trường)
- Việc bán phá giá đang gây ra hoặc đe dọa gây ra thiệt hại vật chất đáng kể
(Giá trị hàng hóa bán phá giá của những nước thuộc diện này ≥ 7% tổng giá
trị nhập khẩu).
Theo quy định của Luật TMQT, sản phẩm nhập khẩu bị coi là bán phá
giá nếu giá xuất khẩu của sản phẩm đó thấp hơn giá có thể so sánh được
34
trong điều kiện TM bình thường (giá trị bình thường) của sản phẩm
tương tự được tiêu thụ tại thị trường nước nhập khẩu
SAI
WTO có Hiệp định về thực thi Điều VI của GATT, thường được gọi là “Hiệp
định chống bán phá giá” (Agreement on Antidumping Practices – AD). Định
nghĩa pháp lý về bán phá giá được nêu rất cụ thể trong Hiệp định AD, theo đó
một sản phẩm nhập khẩu bị coi là bán phá giá nếu giá xuất khẩu của sản phẩm
đó thấp hơn giá có thể so sánh được trong điều kiện TM bình thường (giá trị
bình thường) của sản phẩm tương tự được tiêu thụ tại thị trường nước xuất
khẩu. WTO không đề cập TH bán phá giá sản phẩm tương tự trong thị trường
nội địa của một nước.
GSP – THUẾ QUAN
Hàng hóa được hưởng GSP phải là những hang hóa có xuất xứ hoàn toàn
35 trong nước hoăc có nguyên vật liệu được nhập khẩu nhưng đã qua quá
trình gia công tái chế cần thiết.
SAI
Vì các điều kiện về hàng hóa được hưởng GSP còn có nguyên tắc ngoại lệ là
nguyên tắc cộng gộp khu vực. Về cơ bản, điều kiện về hàng hóa phải có nguồn
gốc xuất xứ tại nước được hưởng hoặc nhập khẩu nhưng đã trãi qua quá trình
gia công tái chế cần thiết. Theo các chế độ của một số nước cho hưởng, quy
tắc này đã được mở rộng để 01 số sản phẩm có thể được sản xuất và hoàn
thiện tại 01 nước được hưởng từ các nguyên liệu, bộ phận hoặc thành phần
nhập khẩu từ những nước được hưởng nói trên, thì tất cả các nước được hưởng
đều được coi là khu vực duy nhất cho mục đích xác định xuất xứ. Do đó, xuất
xứ cộng gộp được đưa ra với phạm vi rộng và theo nhiều điều kiện khác nhau.
VD: EU cho các nước ASEAN hưởng thì nguyên vật liệu của VN lấy của
Singapore thì được xem là nguyên vật liệu của VN
36 Tác dụng của việc áp dụng chế độ thuế quan và các hàng rào phi thuế
quan là như nhau.
Vì “thuế quan” là loại thuế đánh vào hàng hóa khi di chuyển từ lãnh thổ hải
quan này sang lãnh thổ hải quan khác nhằm tăng nguồn thu ngân sách quốc
gia; điều tiết sản xuất, tiêu dùng và bảo hộ hàng hóa tương tự, ngành kinh tế
hàng hóa tương tự trong nước. Trong khi đó, các hàng rào phi thuế quan là
khái niệm chỉ các rào cản TM không phải thuế quan nhưng có tác dụng cản trở
TM nhằm bảo hộ sản xuất trong nước thông qua các quy định như: Hạn chế
định lượng (quota); Cấp giấy phép nhập khẩu; Giám định hàng hóa trước khi
giao; Định giá hải quan đối với hàng hóa; Các quy tắc xuất xứ;...
HỢP ĐỒNG – CISG
Một khi hợp đồng đã được ký kết, thì các thương nhân bắt buộc phải tuân
37
thủ hợp đồng đó?
Một khi hợp đồng được kí kết các bên thương nhân buộc phải tuân thủ hợp
đồng đó vì hợp đồng là thỏa thuận bằng văn bản giữa hai bên về việc xác lập,
thay đổi hoặc chấm dứt quyền, nghĩa vụ, trách nhiệm của các bên để thực hiện
một, một số hay toàn bộ công việc và giải quyết các vấn đề trong quá trình
hợp tác nếu 1 trong 2 bên không tuân thủ vi phạm các điều khoản thì hợp đồng
sẽ bị vô hiệu và bên vi phạm phải chịu bồi thường tổn thất.
Một khi hợp đồng đã có hiệu lực mà một bên vi phạm hợp đồng mua bán
38 hàng hóa quốc tế đó và gây thiệt hại cho bên còn lại thì bắt buộc phải bồi
thường.
SAI
Vì theo khoản 1 điều 79 của CISG 1980 “Một bên không chịu trách nhiệm về
việc không thực hiện bất kỳ một nghĩa vụ nào đó của họ nếu chứng minh được
rằng việc không thực hiện ấy là do một trở ngại nằm ngoài sự kiểm soát của họ
và người ta không thể chờ đợi một cách hợp lý rằng họ phải tính tới trở ngại đó
vào lúc ký kết hợp đồng hoặc là tránh được hay khắc phục các hậu qủa của
nó”. Thì sẽ được miễn trách nhiệm bồi thường thiệt hại về việc vi phạm hợp
đồng.
Hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế mà một bên ký kết là thương nhân
39
có trụ sở thương mại tại Việt Nam phải được lập dưới hình thức văn bản.
SAI
Vì theo điều 11 công ước viên 1980 quy định “Hợp đồng mua bán không cần
phải được ký kết hoặc xác nhận bằng văn bản hay phải tuân thủ một yêu cầu
nào khác về hình thức của hợp đồng. Hợp đồng có thể được chứng minh bằng
mọi cách, kể cả những lời khai của nhân chứng”. Và theo khoản 2 điều 27
Luật thương mại Việt Nam 2005, mua hàng hóa quốc tế phải được thực hiện
trên cơ sở hợp đồng bằng văn bản hoặc bằng hình thức khác vẫn có giá trị
pháp lý tương đương.
Hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế là hợp đồng mua bán trong đó các
40
bên chủ thể có trụ sở thương mại tại các quốc gia khác nhau.
SAI
Vì tùy vào các nguồn luật khác nhau mà hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế
sẽ được hiểu theo nhiều cách khác nhau, chẳng hạn như:
Ø Theo Công ước La Haye (1964) và được ghi nhận trong Pháp lệnh trọng
tài Thương mại (2003), thì được coi là yếu tố nước ngoài khi có ít nhất một
trong các nhân tố:
- Các bên chủ thể có trụ sở Thương mại tại các quốc gia khác nhau;
- Hàng hóa được dịch chuyển qua biên giới;
- Căn cứ để xác lập hợp đồng phát sinh ở nước ngoài.
Ø Theo Công ước viên (1980), yếu tố nước ngoài được xác định theo trụ sở
Thương mại của các bên chủ thể. Theo đó, được coi là yếu tố nước ngoài
khi các bên chủ thể hợp đồng có trụ sở Thương mại ở các quốc gia khác
nhau.
Ø Theo Luật Thương mại (1977), hợp đồng mua bán với thương nhân nước
ngoài là khái niệm dùng để chỉ hợp đồng mua bán quốc tế. Nghĩa là, yếu tố
nước ngoài được xác định khi một bên chủ thể mang quốc tịch nước ngoài.
Ø Theo Luật Thương mại (2005), mua bán hàng hóa quốc tế được thực hiện
dưới hình thức xuất khẩu, nhập khẩu, tạm nhập, tái xuất, tạm xuất, tái nhập
và chuyển khẩu (Khoản 1 Điều 27).
Do đó, theo mỗi nguồn luật khác nhau sẽ có những quy định về yếu tố nước
ngoài trong hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế khác nhau và các quy định
trong văn bản pháp luật đó chưa thống nhất với nhau.
Hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế áp dụng Công ước Viên 1980 khi các
41 bên mua bán có trụ sở thương mại ở các quốc gia khác nhau là thành viên
của Công ước.
SAI
Vì Khi nói đến hợp đồng mua bán hàng hóa chỉ áp dụng Công ước Viên khi
các bên mua bán là thành viên của Công ước thôi là không đúng. Vì trong
trường hợp này khả năng áp dụng như thế nào là do sự thỏa thuận của hai bên,
và Công ước Viên áp dụng trong trường hợp khi các quốc gia phải có trụ sở
TM khác nhau đều là thành viên của Công ước. Tuy nhiên còn phải căn cứ
thêm vào điểm b, khoản 1, Điều 1 của CISG 1980: “Công ước này áp dụng
cho các hợp đồng mua bán hàng hóa giữa các bên có trụ sở thương mại tại các
quốc gia khác nhau. Khi theo các quy tắc tư pháp quốc tế thì luật được áp
dụng là luật của nước thành viên Công ước này.”. Vì vậy, khi các quy tắc của
tư pháp quốc tế dẫn chiếu đến việc áp dụng luật của một Quốc gia là thành
viên của Công ước thì lúc này sẽ áp dụng Luật quốc gia mà không áp dụng
Công ước Viên trong trường hợp đó.
Nếu các bên trong hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế đều không có trụ
sở thương mại tại nước thành viên Công ước Viên 1980 về hợp đồng mua
42
bán hàng hoá quốc tế (CISG 1980) thì CISG 1980 Công ước không được
áp dụng để điều chỉnh hợp đồng này.
SAI
- Theo quy định của điểm b, khoản 1, Điều 1 CISG 1980 thì Công ước này sẽ
áp dụng cho các hợp đồng mua bán hàng hoá giữa các bên trụ sở thương mại
tại các quốc gia khác nhau khi theo các quy tắc tư pháp quốc tế thì luật được
áp dụng là luật của nước thành viên Công ước này.
- Như vậy, yêu cầu đặt ra là không phải các bên phải có trụ sở tại các quốc gia
thành viên Công ước, mà điểm b là khi nguyên tắc tư pháp dẫn chiếu đến thì
luật được áp dụng là luật nước thành viên Công ước. Nếu trong trường hợp
các bên không có trụ sở tại các quốc gia thành viên Công ước nhưng chọn luật
của nước là thành viên thì theo điểm b khoản 1, Điều 1 CISG 1980, CISG vẫn
điều chỉnh đối với hợp đồng
Tất cả các hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế đều được điều chỉnh bởi
43
CISG 1980
Cách 1: Nhận định sai
- CSPL: điểm a, b, khoản 1 Điều 1 CISG 1980
- Giải thích: CISG 1980 không được áp dụng đối với HĐMBHHQT trong mọi
trường hợp mà chỉ điều chỉnh những HĐMBHHQT mà
+ Các bên có trụ sở thương mại tại thành viên CISG 1980 (điểm a, khoản 1,
Điều 1 CISG)
+ Quy tắc tư pháp quốc tế dẫn chiếu đến pl của quốc gia là thành viên CISG
(điểm b, khoản 1, Điều 1 CISG)
Cách 2: Sai.
CISG 1980 không được áp dụng đối với HĐMBHHQT trong mọi trường hợp
vì theo điều 2, Công ước này không áp dụng vào việc mua bán:
a. Các hàng hóa dùng cho cá nhân, gia đình hoặc nội trợ, ngoại trừ khi người
bán, vào bất cứ lúc nào trong thời gian trước hoặc vào thời điểm ký kết hợp
đồng, không biết hoặc không cần phải biết rằng hàng hóa đã được mua để sử
dụng như thế.
b. Bán đấu giá.
c. Ðể thi hành luật hoặc văn kiện uỷ thác khác theo luật.
d. Các cổ phiếu, cổ phần, chứng khoán đầu tư, các chứng từ lưu thông hoặc
tiền tệ.
e. Tàu thủy, máy bay và các chạy trên đệm không khí. f. Ðiện năng.
CISG áp dụng đối với mọi hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế được kí
44
kết giữa các bên có trụ sở thương mại tại các nước thành viên CISG 1980.
SAI
Vì nếu các nước là thành viên của công ước nhưng sử dụng điều 95 là bảo lưu
điều 1.1(b) thì khi tư pháp quốc tế dẫn chiếu tới luật nước đó thì CISG không
thể điều chỉnh. (hoặc theo điều 2).
CISG 1980 điều chỉnh tất cả các vấn đề trong hợp đồng mua bán hàng
45
hóa quốc tế.
SAI
Vì theo điều 4 CISG 1980, Công ước này chỉ điều chỉnh việc ký kết hợp đồng
mua bán và các quyền và nghĩa vụ của người bán và người mua phát sinh từ
hợp đồng đó. Trừ trường hợp có quy định khác được nêu trong Công ước,
Công ước không liên quan tới:
a. Tính hiệu lực của hợp đồng, hoặc bất cứ điều khoản nào của hợp đồng, hoặc
bất kỳ tập quán nào.
b. Hậu quả mà hợp đồng có thể đối với quyền sở hữu các hàng hóa đã bán.
46 CISG điều chỉnh hợp đồng thương mại quốc tế trong đó có hợp đồng mua
bán hàng hóa quốc tế, hợp đồng dịch vụ quốc tế, hợp đồng chuyển giao
công nghệ quốc tế
SAI
Vì nội dung của công ước là quy định các vấn đề pháp lí cơ bản về hợp đồng
mua bán hàng hoá quốc tế, không đề cập đến hợp đồng dịch vụ quốc tế và hợp
đồng chuyển giao công nghệ quốc tế.
CISG điều chỉnh hợp đồng thương mại quốc tế trong đó có hợp đồng mua
47
bán hàng hóa quốc tế, hợp đồng cung cấp dịch vụ quốc tế.
SAI
- CSPL: Điều 1 CISG 1980
- Giải thích: Trong phạm vi áp dụng được quy định tại Điều 1, Công ước Viên
xác định là chỉ điều chỉnh cho các hợp đồng mua bán hàng hóa giữa các bên
có trụ sở thương mại tại các quốc gia khác nhau, và vì nó sẽ không có giá trị
điều chỉnh đối với các loại hợp đồng khác như hợp đồng cung cấp dịch vụ.
Người bán ở Hoa Kỳ, người mua ở Anh ký hợp đồng mua bán hàng hóa.
48 Hoa Kỳ là thành viên trong khi Anh chưa là thành viên CISG 1980. Theo
điều 1 CISG thì CISG không thể áp dụng cho trường hợp này.
ĐÚNG
Vì thứ nhất Anh không phải là quốc gia thành viên. Thứ hai là, mặc dù Hoa kỳ
là quốc gia thành viên nhưng đã bảo lưu với điều 1.1(b) của CISG do vậy
CISG không được áp dụng cho những trường hợp này.
Nếu các bên thỏa thuận lựa chọn luật áp dụng là CISG 1980 thì công ước
49
viên sẽ điều chỉnh hợp đồng của nó.
SAI
Vì theo điều 1 Công ước viên 1980 “Công ước này áp dụng cho các hợp đồng
mua bán hàng hóa giữa các bên có trụ sở thương mại tại các quốc gia khác
nhau”. Để CISG điều chỉnh hợp đồng thì phải là hợp đồng mua bán hàng hóa
quốc tế giữa các bên có trụ sở thương mại tại các quốc gia khác nhau.
Công ước viên về hợp đồng mua bán hàng hóa được áp dụng cho tất cả
50 các hợp đồng mua bán hàng hóa mà các bên chủ thể có quốc tịch ở các
nước là thành viên của công ước.
SAI
Vì theo khoản 3 điều 1 Công ước viên 1980 “Quốc tịch của các bên, quy chế
dân sự hoặc thương mại của họ, tính chất dân sự hay thương mại của hợp đồng
không được xét tới khi xác định phạm vi áp dụng của Công ước này”.
Theo Công ước ước Viên (1980), chào hàng là một lời đề nghị ký kết hợp
51
đồng được gửi cho một, hoặc một số bên xác định.
ĐÚNG
Theo Khoản 1 Điều 14 CISG (1980), “Một đề nghị ký kết hợp đồng gửi cho
một hay nhiều người xác định được coi là một chào hàng nếu có đủ chính xác
và nếu nó chỉ rõ ý chí của người chào hàng muốn tự ràng buộc mình trong
trường hợp có sự chấp nhận chào hàng đó. Một đề nghị là đủ chính xác khi nó
nêu rõ hàng hóa và ấn định số lượng về giá cả một cách trực tiếp hoặc gián tiếp
hoặc quy định thể thức xác định những yếu tố này”.
Theo CISG 1980, trong mọi trường hợp, một sự trả lợi chấp nhận trễ hạn
!!!! của người được chào hàng gửi đến cho người chào hàng ban đầu không
được coi là một chấp nhận chào hàng.
SAI
Vì theo Khoản 1 Điều 21 CISG 1980 “Một chấp nhận chào hàng muộn màng
cũng có hiệu lực của một chấp nhận nếu người chào hàng phải thông báo
miệng không chậm trễ cho người nhận chào hàng hoặc gửi cho người này một
thông báo về việc đó”.
Theo CISG, trả lời đối với chào hàng bao gồm yêu cầu sửa đổi về giá cả
!!!
của hàng hóa vẫn được xem là một chấp nhận chào hàng.
SAI
Khoản Điều 19 CISG 1980
Theo Khoản 2 Điều 19 trả lời chào hàng có chứa đựng các điều khoản bổ
sung hay những điều khoản khác mà không làm biến đổi một cách cơ bản nội
dung của chào hàng thì được coi là chấp nhận chào hàng.
Theo Khoản 1 Điều 19 trả lời chào hàng mà những điểm bổ sung, bớt đi hay
các sửa đổi khác thì được coi là từ chối chào hàng và cấu thành một hoàn giá.
Theo Khoản 3 Điều 19 trả lời chào hàng mà “các yếu tố bổ sung hay sửa đổi
liên quan đến các điều kiện giá cả, thanh toán, đến phẩm chất và số lượng hàng
hóa, địa điểm và thời hạn giao hàng, đến phạm vi trách nhiệm của các bên hay
đến sự giải quyết tranh chấp được coi là những điều kiện làm biến đổi một
cách cơ bản nội dung của chào hàng”.
Trả lời đối với chào hàng bao gồm yêu cầu sửa đổi về giá cả của hàng hóa
không được xem là một chấp nhận chào hàng, mà phải là một chào hàng
mới vì sửa đổi về giá cả là sửa đổi cơ bản của chào hàng.
Chấp nhận chào hàng có hiệu lực khi tuyên bố chấp nhận chào hàng được
!!!
gửi đi.
SAI
Theo Khoản 2 Điều 18 CISG 1980 “Chấp nhận chào hàng có hiệu lực từ khi
người chào hàng nhận được chấp nhận. Chấp thuận chào hàng không phát sinh
hiệu lực nếu sự chấp nhận ấy không được gửi tới người chào hàng trong thời
hạn mà người này đã quy định trong chào hàng, hoặc nếu thời hạn đó không
được quy định như vậy, thì trong một thời hạn hợp lý, xét theo các tình tiết của
sự giao dịch, trong đó có xét đến tốc độ của các phương tiện liên lạc do người
chào hàng sử dụng. Một chào hàng bằng miệng phải được chấp nhận ngay trừ
phi các tình tiết bắt buộc ngược lại”.
Một đề nghị được gửi tới nhiều người không xác định cũng được coi là
52
một chào hàng.
SAI
Vì theo Khoản 2 Điều 14 Công ước viên 1980 Một đề nghị gửi cho những
người không xác định chỉ được coi là một lời mời làm chào hàng, trừ phi
người đề nghị đã phát biểu rõ ràng điều trái lại.
53 Điều kiện có hiệu lực của chào hàng là chào hàng phải “đủ rõ ràng”, tức
nội dung chào hàng phải xác định cụ thể: tên hàng hóa, số lượng, giá cả
một cách trực tiếp, hoặc gián tiếp, hoặc quy định thể thức xác định
những yếu tố này
SAI
Theo Khoản 1 Điều 14 CISG
Điều kiện có hiệu lực của chào hàng không chỉ là chào hàng phải “đủ rõ ràng”,
tức nội dung chào hàng phải xác định cụ thể: tên hàng hóa, số lượng, giá cả
một cách trực tiếp, hoặc gián tiếp, hoặc quy định thể thức xác định những yếu
tố này mà còn phải có các điều kiện theo Điều 15 CISG gồm:
- Chào hàng có hiệu lực khi nó tới nơi người được chào hàng.
- Chào hàng dù là loại chào hàng không hủy ngang vẫn có thể bị hủy nếu như
thông báo về việc hủy chào hàng đến người được chào hàng trước hoặc cùng
lúc với chào hàng.
Theo quy định của Công ước viên 1980 về mua bán hàng hóa quốc tế
54 (CISG), chào hàng phải đảm bảo các điều khoản nội dung tối thiểu là tên
hàng, số lượng, giá cả, địa điểm thực hiện, thời hạn hợp đồng
SAI
Theo Khoản 1 Điều 14 “Một đề nghị ký kết hợp đồng gửi cho một hay nhiều
người xác định được coi là một chào hàng nếu có đủ chính xác và nếu nó chỉ
rõ ý chí của người chào hàng muốn tự ràng buộc mình trong trường hợp có sự
chấp nhận chào hàng đó. Một đề nghị là đủ chính xác khi nó nêu rõ hàng hóa
và ấn định số lượng về giá cả một cách trực tiếp hoặc gián tiếp hoặc quy định
thể thức xác định những yếu tố này”.
Theo Công ước ước Viên (1980), chấp nhận chào hàng có hiệu lực là chấp
55
hàng vô điều kiện các nội dung chào hàng
SAI
Theo K2 Điều 18, K2 Điều 19 & K1 Điều 21, CISG:
Chấp nhận chào hàng có hiệu lực từ khi người chào hàng nhận được chấp
nhận. Chấp thuận chào hàng không phát sinh hiệu lực nếu sự chấp nhận ấy
không được gửi tới người chào hàng trong thời hạn mà người này đã quy định
trong chào hàng, hoặc nếu thời hạn đó không được quy định như vậy, thì trong
một thời hạn hợp lý, xét theo các tình tiết của sự giao dịch, trong đó có xét đến
tốc độ của các phương tiện liên lạc do người chào hàng sử dụng. Một chào
hàng bằng miệng phải được chấp nhận ngay trừ phi các tình tiết bắt buộc
ngược lại. (Điều 18.2 CISG).
Tuy nhiên một sự phúc đáp có khuynh hướng chấp nhận chào hàng nhưng có
chứa đựng các điều khoản bổ sung hay những điều khoản khác mà không làm
biến đổi một cách cơ bản nội dung của chào hàng thì được coi là chấp nhận
chào hàng, trừ phi người chào hàng ngay lập tức không biểu hiện bằng miệng
để phản đối những điểm khác biệt đó hoặc gửi thông báo về sự phản đối của
mình cho người được chào hàng. Nếu người chào hàng không làm như vậy, thì
nội dung của hợp đồng sẽ là nội dung của chào hàng với những sự sửa đổi nêu
trong chấp nhận chào hàng. (Điều 19.2 CISG)
Một chấp nhận chào hàng muộn màng cũng có hiệu lực của một chấp nhận nếu
người chào hàng phải thông báo miệng không chậm trễ cho người nhận chào
hàng hoặc gửi cho người này một thông báo về việc đó. (Điều 21.1 CISG)
Như vậy, chấp nhận chào hàng có hiệu lực là chấp hàng vô điều kiện các nội
dung chào hàng chỉ là một trong số các điều kiện để chấp nhận chào hàng có
hiệu lực mà thôi.
Theo Công ước ước Viên (1980), chấp nhận chào hàng có hiệu lực là chấp
56 nhận chào hàng vô điều kiện, hoặc chỉnh sửa một số điểm nhưng không
làm thay đổi các nội dung cơ bản của chào hàng.
SAI
Vì chấp nhận chào hàng có hiệu lực khi thỏa mãn các điều kiện sau:
- Chấp nhận vô điều kiện hoặc có chỉnh sửa một số điểm nhưng không làm
thay đổi nội dung cơ bản của chào hàng.
- Được gửi tới người chào hàng trong thời hạn trách nhiệm hoặc một thời gian
hợp lý. Trừ trường hợp, bên chào hàng, trong thời hạn không chậm trễ, thông
báo bằng lời nói hoặc gửi thông báo cho bên được chào hàng xác nhận chấp
nhận đó có hiệu lực (Điều 21.1 CISG)
Như vậy, chấp nhận chào hàng có hiệu lực là chấp hàng vô điều kiện, hoặc
chỉnh sửa một số điểm nhưng không làm thay đổi các nội dung cơ bản của
chào hàng chỉ là một trong số các điều kiện để chấp nhận chào hàng có hiệu
lực mà thôi.
Theo CISG 1980, mọi trả lời chấp nhận đối với chào hàng của bên được
!!! chào hàng gửi đến người chào hàng ban đầu đều cấu thành một chấp
nhận chào hàng và đưa đến kết quả là hợp đồng được giao kết.
SAI
Theo Điều 19 CISG 1980
Trả lời chấp nhận đối với chào hàng,
+ Trả lời chấp nhận đối với chào hàng không đặt ra việc sửa đổi, bổ sung đối
với chào hàng ban đầu hoặc có sửa đổi, bổ sung (không cơ bản) => trả lời này
chấp nhận chào hàng
+ Trả lời chấp nhận đối với chào hàng đặt ra việc sửa đổi, bổ sung (cơ bản) =>
trả lời này không được coi là chấp nhận chào hàng mà là một chào hàng mới.
Vì vậy, nếu trong trường hợp trả lời chấp nhận với chào hàng đặt ra sửa đổi bổ
sung những nội dung cơ bản của chào hàng thì trả lời này không được coi là
chấp nhận chào hàng, từ đó hợp đồng không thể được giao kết.
Theo CISG, hợp đồng chỉ được ký kết khi bên được chào hàng chấp nhận
!!!
toàn bộ điều khoản của chào hàng.
Người chào hàng gửi đi một lời đề nghị chào hàng + có hiệu lực, người được
chào hàng phải gửi lại một trả lời được coi là chấp nhận chào hàng + có hiệu
lực.
Chấp nhận chào hàng theo quy định của Điều 19 CISG
Chấp nhận chào hàng (Khoản 2 Điều 19 CISG 1980)
+ Trả lời của người được chào hàng không đặt ra sửa đổi, bổ sung với chào
hàng ban đầu.
+ Trả lời của người được chào hàng có đặt ra sửa đổi, bổ sung nhưng nội dung
không cơ bản.
SAI
Trả lời của người được chào hàng vẫn được xem là chấp nhận chào hàng và
đưa đến trường hợp là hợp đồng được ký khi trả lời của người được chào hàng
có đặt ra sửa đổi, bổ sung nhưng nội dung không cơ bản.
Chấp nhận chào hàng chỉ có giá trị khi người được chào hàng chấp nhận
57
toàn bộ chào hàng mà không đưa ra bất kỳ một sự sửa đổi nào.
SAI
Vì theo Khoản 2 Điều 19 Công ước viên 1980 thì một sự phúc đáp có khuynh
hướng chấp nhận chào hàng nhưng có chứa đựng các điều khoản bổ sung hay
những điều khoản khác mà không làm biến đổi một cách cơ bản nội dung của
chào hàng thì được coi là chấp nhận chào hàng, trừ phi người chào hàng
ngay lập tức không biểu hiện bằng miệng để phản đối những điểm khác biệt đó
hoặc gửi thông báo về sự phản đối của mình cho người được chào hàng. Nếu
người chào hàng không làm như vậy, thì nội dung của hợp đồng sẽ là nội dung
của chào hàng với những sự sửa đổi nêu trong chấp nhận chào hàng.
Theo Công ước ước Viên (1980), chấp nhận chào hàng sửa đổi các nội
dung của chào hàng (số lượng, chất lượng, giá cả, thanh toán, thời gian,
58
địa điểm giao hàng, phạm vi trách nhiệm, giải quyết tranh chấp) thì được
coi là hình thành chào hàng mới (gọi là hoàn giá chào).
ĐÚNG
Theo Khoản 3 Điều 19 CISG “Các yếu tố bổ sung hay sửa đổi liên quan đến
các điều kiện giá cả, thanh toán, đến phẩm chất và số lượng hàng hóa, địa điểm
và thời hạn giao hàng, đến phạm vi trách nhiệm của các bên hay đến sự giải
quyết tranh chấp được coi là những điều kiện làm biến đổi một cách cơ bản nội
dung của chào hàng”.
 Bị coi là từ chối và hình thành một chào hàng mới (còn gọi là hoàn giá
chào).
Theo Công ước ước Viên (1980), hợp đồng được ký kết tại nơi và thời
59 điểm chấp nhận chào hàng vô điều kiện các nội dung của chào hàng được
gửi đi.
SAI
Bởi vì nó còn phụ thuộc vào hình thức ký hợp đồng trực tiếp hay gián tiếp.
Theo Điều 23 Công ước viên 1980, thông thường nếu hợp đồng được ký kết
trực tiếp thì thời điểm hợp đồng được ký kết là thời điểm các bên cùng ký kết
vào hợp đồng; nếu hợp đồng được ký kết gián tiếp thì thời điểm nhận chào
hàng vô điều kiện có hiệu lực (theo Khoản 2 Điều 18 Công ước Viên 1980).
Theo Công ước ước Viên (1980), hợp đồng được ký kết tại thời điểm chấp
60 nhận chào hàng vô điều kiện các nội dung của chào hàng được gửi đến
bên chào hàng
SAI
Theo Công ước Viên (1980) quy định thời điểm HĐ được ký kết là thời điểm
ngưởi chào hàng nhận được chấp nhận chào hàng vô điều kiện của người được
chào hàng (Điều 18 và 23). Còn hợp đồng được ký kết tại thời điểm chấp nhận
chào hàng vô điều kiện các nội dung của chào hàng được gửi đến bên chào
hàng là theo thuyết tiếp nhận (Luật Đức, Pháp và các quốc gia châu Âu lục
địa,...)
Theo CISG 1980, nếu người chào hàng im lặng trước những điều kiện bổ
61 sung trong thư trả lời chấp nhận đối với chào hàng, thì hợp đồng sẽ được
kết lập bao gồm cả những điều kiện bổ sung đó.
SAI
Vì Khoản 3 Điều 19 CISG “Các yếu tố bổ sung hay sửa đổi liên quan đến các
điều kiện giá cả, thanh toán, đến phẩm chất và số lượng hàng hóa, địa điểm và
thời hạn giao hàng, đến phạm vi trách nhiệm của các bên hay đến sự giải quyết
tranh chấp được coi là những điều kiện làm biến đổi một cách cơ bản nội dung
của chào hàng”.
Theo Khoản 1 Điều 19 trả lời chào hàng mà những điểm bổ sung, bớt đi hay
các sửa đổi khác thì được coi là từ chối chào hàng và cấu thành một hoàn giá.
/Theo CISG, hợp đồng chỉ được ký kết khi bên được chào hàng chấp nhận
toàn bộ điều khoản của chào hàng. Chấp nhận chào hàng có hiệu lực khi tuyên
bố chấp nhận chào hàng được gửi đi. Trong bất kỳ trường hợp nào, sự im lặng
không cấu thành chấp nhận chào hàng.
Theo CISG 1980, mọi trả lời chấp nhận đối với chào hàng của bên được chào
hàng gửi đến người chào hàng ban đầu đều cấu thành một chấp nhận chào
hàng và đưa đến kết quả là hợp đồng được giao kết thì khi đó được coi là từ
chối chào hàng và cấu thành một hoàn chào hàng/.
Trong bất kỳ trường hợp nào, sự im lặng không cấu thành chấp nhận
!!!
chào hàng.
SAI
Theo Khoản 1 Điều 18 CISG 1980, thì sự im lặng không mặc nhiên được coi
là chấp nhận chào hàng, như vậy trong trường hợp bình thường thì im lặng
không được xem là chấp nhận chào hàng, nhưng nếu giữa các bên có hình
thành thói quen hoặc tập quán từ đó xác định sự im lặng của người được chào
hàng là dấu hiệu của chấp nhận chào hàng thì sự im lặng của người được chào
hàng trong trường hợp này được xem là chấp nhận chào hàng.
62 Theo CISG, im lặng là đồng ý.
SAI
Vì theo khoản 1 điều 18 có nêu rõ “Một lời tuyên bố hay một hành vi khác
của người được chào hàng biểu lộ sự đồng ý với chào hàng cấu thành chấp
nhận chào hàng. Sự im lặng hoặc bất hợp tác vì không mặc nhiên có giá trị
một sự chấp nhận”.
Theo CISG 1980, một trả lời chào hàng có kèm theo sửa đổi, bổ sung
nhưng không làm thay đổi nội dung cơ bản của chào hàng thì chắc chắn
63 cấu thành một chấp nhận chào hàng. (Theo CISG, trả lời đối với chào
hàng bao gồm yêu cầu sửa đổi về giá cả của hàng hóa vẫn được xem là
một chấp nhận chào hàng).
SAI
Vì theo 19.2 “Tuy nhiên một sự phúc đáp có khuynh hướng chấp nhận chào
hàng nhưng có chứa đựng các điều khoản bổ sung hay những điều khoản khác
mà không làm biến đổi một cách cơ bản nội dung của chào hàng thì được coi
là chấp nhận chào hàng, trừ phi người chào hàng ngay lập tức không biểu hiện
bằng miệng để phản đối những điểm khác biệt đó hoặc gửi thông báo về sự
phản đối của mình cho người được chào hàng. Nếu người chào hàng không
làm như vậy, thì nội dung của hợp đồng sẽ là nội dung của chào hàng với
những sự sửa đổi nêu trong chấp nhận chào hàng”.
Các hình thức trách nhiệm do vi phạm hợp đồng mua bán hàng hóa quốc
64 tế được qui định trong Luật Thương mại Việt Nam( 2005) và được qui
định trong Công ước Viên (1980) là giống nhau
SAI

Ø Trong Luật TM Việt Nam (2005) quy định 7 chế tài trong thương mại (gọi
là trách nhiệm pháp lý do vi phạm hợp đồng thương mại), gồm:
- Buộc thực hiện hợp đồng;
- Phạt phạm vi;
- Bồi thường thiệt hại;
- Tạm ngừng thực hiện hợp đồng;
- Đình chỉ thực hiện hợp đồng;
- Hủy bỏ hợp đồng;
- Các biện pháp khác do các bên thỏa thuận.
Ø Còn trong CISG (1980) quy định 3 hình thức trách nhiệm khi xảy ra vi
phạm hợp đồng, gồm:
- Tiếp tục thực hiện hợp đồng;
- Bồi thường thiệt hại;
- Tuyên bố hủy hợp đồng.
Do đó, Các hình thức trách nhiệm do vi phạm HĐMB HH QT được quy định
trong Luật TM Việt Nam (2005) và trong CISG (1980) là khác nhau
65 Theo CISG, một bên có thể được miễn trách vì lỗi của bên thứ ba.
ĐÚNG
Vì theo điều 79.2 có nêu rõ “Nếu một bên không thực hiện nghĩa vụ của mình
do người thứ ba mà họ nhờ thực hiện toàn phần hay một phần hợp đồng cũng
không thực hiện điều đó thì bên ấy chỉ được miễn trách nhiệm trong trường
hợp:
a. Ðược miễn trách nhiệm chiếu theo quy định của khoản trên, và.
b. Nếu người thứ ba cũng sẽ được miễn trách nếu các quy định của khoản trên
được áp dụng cho họ.”
Theo CISG, các bên có thể hủy hợp đồng bất cứ lúc nào bên còn lại vi
66
phạm hợp đồng
SAI
Vì theo Khoản 1 điều 49 có nêu người mua có thể tuyên bố huỷ hợp đồng, tuy
thiên theo Khoản 2 Điều 49 “Tuy nhiên trong trường hợp nếu người bán đã
giao hàng thì người mua sẽ mất quyền hủy hợp đồng nếu người mua đã không
tuyên bố hủy hợp đồng.”
Theo công ước viên 1980, khi hủy bỏ hợp đồng các bên phải hoàn trả cho
67
nhau những gì đã nhận.
SAI
Vì theo khoản 2 điều 81 Công ước viên 1980 “Bên nào đã thực hiện toàn
phần hay một phần hợp đồng có thể đòi bên kia hoàn lại những gì họ đã cung
cấp hay đã thanh toán khi thực hiện hợp đồng. Nếu cả hai bên đều bị buộc phải
thực hiện việc hoàn lại, thì họ phải làm việc này cùng một lúc”. Vì vậy, khi
hủy bỏ hợp đồng các bên phải hoàn trả cho nhau những gì đã nhận nếu cả hai
bên đều bị buộc phải thực hiện việc hoàn lại, thì họ phải làm việc này cùng
một lúc.
Mức bồi thường thiệt hại theo Công ước viên năm 1980 là toàn bộ những
68
tổn thất do hành vi phạm hợp đồng gây ra.
SAI
Vì theo điều 74 Công ước viên 1980 “Tiền bồi thường thiệt hại xảy ra do một
bên vi phạm hợp đồng là một khoản tiền bao gồm tổn thất và khoản lợi bị bỏ
lỡ mà bên kia đã phải chịu do hậu qủa của sự vi phạm hợp đồng. Tiền bồi
thường thiệt hại này không thể cao hơn tổn thất và số lợi bỏ lỡ mà bên bị vi
phạm đã dự liệu hoặc đáng lẽ phải dự liệu được vào lúc ký kết hợp đồng như
một hậu qủa có thể xảy ra do vi phạm hợp đồng, có tính đến các tình tiết mà họ
đã biết hoặc đáng lẽ phải biết”.
69 Theo hiệp định SMC thì mức trợ cấp cho phép chỉ là 1%.
SAI
Vì theo hiệp định SMC thì đối với các nước phát triên mức trợ cấp không quá
1%, các nước đang phát triển mức trợ cấp ≤ 2% và các nước kém phát triển thì
mức trợ cấp ≤ 3%.
VẬN ĐƠN
Vận đơn thực hiện chức năng của hợp đồng vận chuyển hàng hóa, vì thế
70
vận đơn có giá trị như một hợp đồng vận chuyển hàng hóa.
SAI
K7, Điều 1 Quy tắc Harmburg 1978
Vì vận đơn là một chứng từ làm bằng chứng cho một hợp đồng vận tải đường
biển và cho việc người vận tải đã nhận hàng để chở hoặc xếp hàng xuống tàu
và bằng vận đơn này người vận tải cam kết sẽ giao hàng khi vận đơn xuất
trình.
Vận đơn không chỉ thực hiện chức năng là biên lai nhận hàng của người
71
vận tải và chứng từ để họ giao hàng cho người nhận.
ĐÚNG
Vì vận đơn đường biển còn có một số chức năng cơ bản sau:
- Là bằng chứng xác nhận hợp đồng vận chuyển đã được ký kết cũng như nội
dung của hợp đồng;
- Là chứng từ xác nhận chủ sở hữu đối với hàng hóa trong B/ L;
- Là căn cứ để khai báo hải quan và làm thủ tục xuất nhập khẩu hàng hóa.
72 Vận đơn gồm nhiều loại và giá trị pháp lý của chúng là không giống nhau.
ĐÚNG
Việc phân loại vận đơn đường biển được căn cứ vào các tiêu chí khác nhau,
điển hình:
Ø Căn cứ vào hành trình vận tải:
B/L chở thẳng (Direct B/L): Tàu chở thẳng hàng từ cảng đi tới cảng đích
B/L chở suốt (Throught B/L): Tàu đầu tiên chịu trách nhiệm chở hàng đến
cảng đích
B/L chuyển tải (Transshipment B/L): Trên hành trình vận tải có chuyển tải
tại 1, 1 số cảng nào đó hàng trước khi đến cảng đích
Ø Căn cứ khả năng lưu thông (chuyển nhượng):
B/L đích danh (Straight Bill of Lading)
B/L theo lệnh (To Order Bill of Lading)
B/L Người cầm (To bearer Bill of Lading
Ø Căn cứ vào ghi chú trên vận đơn (tình trạng hàng sau khi xếp):
B/L hoàn hảo (Clean Bill of Lading)
B/L không hoàn hảo (Unclean Bill of Lading)
Trách nhiệm của người vận tải đối với những mất mát, hư hỏng hàng hóa
73
trong vận tải biển phụ thuộc vào các quy tắc vận đơn.
ĐÚNG
Trách nhiệm của người vận tải phụ thuộc vào luật B/L áp dụng cụ thể:
Quy tắc Hague và Hague – Visby:
- Thời hạn chịu trách nhiệm được tính từ khi hàng được móc vào móc cần cẩu
ở cảng bốc và kết thúc khi hàng tháo khỏi móc cần cẩu ở cảng dỡ (từ móc cần
cẩu đến móc cần cẩu)
- Được miễn trách nhiệm nếu tổn thất không phải do lỗi thương mại (mất mát,
hư hỏng hàng trong xếp, dỡ và bảo quản hàng) của người vận tải
Qui tắc Hamburg:
- Thời hạn người vận tải phải chịu trách nhiệm được tính kể từ khi nhận hàng
cho đến khi đã giao hàng.
- Chỉ được miễn trách nhiệm khi người vận tải chứng minh được họ không có
lỗi, hoặc đã áp dụng đủ các biện pháp cần thiết và hợp lý để ngăn chặn.
NGƯỜI VẬN TẢI
Trách nhiệm của người vận tải đối với những mất mát, hư hỏng hàng hóa
trong vận tải biển được xác định kể từ khi hàng được móc vào cần cẩu ở
74
cảng bốc cho đến khi hàng được tháo ra khỏi móc cần cẩu ở cảng dỡ (từ
móc cần cẩu đến móc cần cẩu).
SAI
Tùy vào thỏa thuận áp dụng quy tắc nào mà xác định được thời hạn chịu TN
của người vận tải đối với những mất mát, hư hỏng hh trong vận tải biển, cụ
thể:
Quy tắc Hague và Hague – Visby:
- Thời hạn chịu trách nhiệm được tính từ khi hàng được móc vào móc cần cẩu
ở cảng bốc và kết thúc khi hàng tháo khỏi móc cần cẩu ở cảng dỡ (từ móc
cần cẩu đến móc cần cẩu)
- Được miễn trách nhiệm nếu tổn thất không phải do lỗi thương mại (mất mát,
hư hỏng hàng trong xếp, dỡ và bảo quản hàng) của người vận tải
Qui tắc Hamburg:
- Thời hạn người vận tải phải chịu trách nhiệm được tính kể từ khi nhận hàng
cho đến khi đã giao hàng.
- Chỉ được miễn trách nhiệm khi người vận tải chứng minh được họ không có
lỗi, hoặc đã áp dụng đủ các biện pháp cần thiết và hợp lý để ngăn chặn.
Người vận tải không phải chịu trách nhiệm đối với những mất mát, hư
75
hỏng hàng hóa trong vận tải biển.
SAI
Bởi vì theo các công ước khác nhau thì có những quy định khác nhau. Và nhìn
chung trách nhiệm này vẫn thuộc về phía bên vận tải, trừ các trường hợp miễn
trách nhiệm theo điều 4 Công ước Brussels năm 1924:
- Do tàu ko đủ khả năng đi biển trừ khi tình trạng đó do sự thiếu mẫn cần thích
đáng của người vận tải.
- Sự hư hỏng mất mát của hàng hóa do các nguyên nhân sau: hành vi, sơ suất
hay khuyết điểm của thuyền trưởng, thủy thủ, hoa tiêu hoặc người làm công
của người vận tải trong việc điều khiển hay quản trị tàu (Navigation and
Management of Ship); cháy, trừ khi do lỗi cố ý của người vận tải; những rủi ro,
nguy hiểm hoặc tai nạn bất ngờ trên biển, thiên tai, hành động chiến tranh,
hành động cướp phá, thù địch; hành động bắt giữ tịch thu của các nhà cầm
quyền hay tòa án; hạn chế vi kiểm dịch: nếu phát hiện thấy có vi trùng truyền
nhiễm, dịch bệnh mà tàu bị chính quyền cảng bắt phải ra ngoài khơi để loại trừ
và thời gian chờ đợi làm tăng chi phí liên quan đến miễn dịch, hành vi hay
thiếu sót của chủ hàng, đại lý, hoặc đại diện của chủ hàng; đình công, bãi công,
cấm xưởng hay cản trở lao động bộ phận hoặc toàn bộ không kể vì lý do gì;
bạo động và nổi loạn; cửu hay mưu toan cửu sinh mạng hay tài sản trên biển;
hao hụt thể tích hay trọng lượng hay bất kỳ mất mát, hư hỏng nào khác xảy ra
do nội tỳ (Inherant Vice) hay bản chất hay khuyết tật của hàng hóa (Nature of
goods); bao bì không đầy đủ, thiếu sót hay sự không chính xác về ký, mã hiệu;
những ẩn tỷ (Latent Defect) của tàu không phát hiện được mặc dù đã có sự cần
mẫn thích đáng; mọi nguyên nhân khác không phải do lỗi lầm thực sự hay cố ý
của người vận tải, đại lý, người làm công cho người vận tải, trừ khi họ không
chứng minh được.
Ø Theo quy tắc Hague và quy tắc Hague-Visby: Người vận tải có các trách
nhiệm sau: cung cấp con tàu có đủ khả năng đi biển, tiến hành việc bốc xếp,
di chuyển, bảo quản hàng hóa một cách cẩn thận và thích hợp, cung cấp vận
đơn đường biển. Trách nhiệm này phát sinh từ khi hàng hóa được xếp lên
tàu tại càng đi đến khi hàng hóa được đỡ khỏi tàu tại cảng đến. Trong
trường hợp hàng hóa bị tổn thất trong quá trình vận tải mà giá trị hàng hóa
không được kê khai trên vận đơn hay chứng từ vận tải, người vận tải có
trách nhiệm bồi thường theo quy định và trách nhiệm chứng minh lỗi thuộc
về chủ hàng.
Ø Theo Quy tắc Harmburg 1978: Trách nhiệm của người vận tải được xác
định theo nguyên tắc “lỗi suy đoán " , theo đó người vận tải có lỗi nếu có
mất mát, hư hỏng hàng hóa hoặc giao hàng chậm , trừ khi họ chứng minh
mình không có lỗi hoặc đã áp dụng các biện pháp cần thiết , hợp lý để ngăn
ngừa thiệt hại xảy ra.
Người vận tải thoát khỏi trách nhiệm bồi thường đối với những hàng hóa
bị mất mát, hư hỏng xảy ra trong quá trình vận tải biển nếu chúng đã
được chủ hàng mua bảo hiểm.
SAI
Vì quan hệ bảo hiểm là quan hệ giữa người mua bảo hiểm với các doanh
nghiệp bảo hiểm, do vậy bên vận chuyển sẽ không loại trừ trách nhiệm đối với
những hàng hóa bị tổn thất trong quá trình vận tải biển nếu hàng hóa đã được
mua bảo hiểm mà nó chỉ loại trừ trong trường hợp họ được miễn trách nhiệm
theo Điều 4 Công ước Brussels 1924 và trong trường hợp họ chứng minh
được mình không có lỗi hoặc áp dụng các biện pháp cần thiết, hợp lý để ngăn
ngừa thiệt hại (Theo quy tắc Harmburg 1978) hoặc trừ trường hợp các bên
có thỏa thuận khác thì áp dụng sự thỏa thuận đó.. Còn lại về mặt nguyên tắc thì
họ vẫn không được loại trừ trách nhiệm trong trường hợp mua bảo hiểm.
Hoặc SAI
Vì trừ khi những mất mát hư hỏng đó họ chứng minh mình không có lỗi hoặc
đã áp dụng các biện pháp cần thiết, hợp lý để ngăn ngừa thiệt hại nhưng vẫn
không khắc phục thì mới được miễn trách nhiệm bồi thường khi đó bảo hiểm
sẽ bồi thường cho người mua.
Người vận tải phải chịu trách nhiệm đối với những tổn thất hàng hoá
76
trong quá trình xếp hàng lên tàu và dỡ hàng xuống tàu.
SAI
Vì người vận tải không có nghĩa vụ chịu trách nhiệm với những tổn thất của
hàng hóa nếu như:
- Trong trường hợp người vận tải chứng minh mình không có lỗi hoặc đã áp
dụng các biện pháp cần thiết, hợp lý để ngăn ngừa thiệt hại xảy ra. (Theo
Quy tắc Harmburg 1978)
- Và trong những trường hợp miễn trừ trách nhiệm của người vận tải theo Điều
4 Công ước Brussels năm 1924 (Quy tắc Hague)
INCOTERMS
Incoterms lại là cơ sở quan trọng để xác định giá cả hàng hóa ngoại
!!!
thương
ĐÚNG
Vì Incoterms quy định trách nhiệm của các bên về giao nhận, vận tải, bảo
hiểm, thủ tục hải quan và thuế.
Incoterms là tập quán Thương mại quốc tế mà khi kí kết hợp đồng
77
thương mại quốc tế, các bên Thương nhân phải bắt buột tuân thủ.
SAI
Vì Tập quán Thương mại quốc tế chỉ có giá trị pháp lý trong trường hợp được
các bên thỏa thuận áp dụng ghi trong hợp đồng.Vì vậy nếu các bên chủ thể của
hợp đồng thỏa thuận áp dụng tập quán TMQT (Incoterms) để điểu chỉnh quyền
và nghĩa vụ của họ thì tập quán TMQT mới có giá trị ràng buộc các bên. Nếu
không có thỏa thuận áp dụng trong hợp đồng thì Incotems không có giá trị
ràng buộc.
Nguyên tác áp dụng Incoterms là các bên có thể thống nhất áp dụng đầy
78
đủ, hoặc một phần các nghĩa vụ theo qui định của điều kiện Incoterms.
ĐÚNG
Các bên có thể thoả thuận áp đặt thêm hoặc bớt một phần nghĩa vụ và trách
nhiệm trong từng điều khoản Incoterms. Tuy nhiên điều này đi kèm với các rủi
ro đó là Incoterms không có hướng dẫn cụ thể trong các trường hợp này. Vì
vậy trong mọi trường hợp thêm bớt thì đều cần thoả thuận rõ trong hợp đồng.
Thêm vào đó theo nguyên tắc chung, việc thêm bớt các thoả thuận Incoterms
không được làm thay đổi bản chất của điều khoản Incoterms mà các bên đã
thoả thuận áp dụng. Nghĩa là các bên có thể thống nhất áp dụng đầy đủ, hoặc
một phần các nghĩa vụ theo qui định của điều kiện Incoterms.
Ví dụ 1: EXW: Giao hàng tại xưởng có nghĩa là hàng hóa được giao cho
người mua khi người bán đặt hàng hóa dưới quyền định đoạt của người
mua tại cơ sở của người bán hoặc tại một địa điểm được chỉ định (ví dụ nhà
máy hoặc nhà kho, xưởng, v.v...). Địa điểm được chỉ định này không nhất
thiết phải là một cơ sở của người bán. Khi giao hàng, người bán không có
nghĩa vụ phải xếp hàng lên phương tiện vận tải do người mua chỉ định tới
lấy hàng, không phải làm thủ tục hải quan xuất khẩu.
Ví dụ 2: FOB: Giao hàng lên tàu có nghĩa là người bán giao hàng lên con
tàu do người mua chỉ định tại cảng xếp hàng chỉ định hoặc mua lại hàng
hóa đã được giao như vậy. Rủi ro về mất mát hoặc hư hỏng của hàng hóa di
chuyển khi hàng hóa được xếp lên tàu, và người mua chịu mọi chi phí kể từ
thời điểm này trở đi.
Ví dụ 3: CFR: Tiền hàng và cước phí có nghĩa là người bán phải giao hàng
lên tàu hoặc mua hàng để giao hàng như vậy. Rủi ro về mất mát hay hư
hỏng hàng hóa chuyển giao khi hàng được giao lên tàu. Người bán phải ký
hợp đồng và trả các chi phí và cước phí cần thiết để đưa hàng hóa đến cảng
đến quy định.
Ví dụ 4: CIF: Tiền hàng, phí bảo hiểm và cước phí có nghĩa là người bán
phải giao hàng lên tàu hoặc mua hàng để giao hàng như vậy. Rủi ro về mất
mát hay hư hỏng hàng hóa chuyển giao khi hàng được giao lên tàu. Người
bán phải ký hợp đồng và trả các chi phí và cước phí cần thiết để đưa hàng
hóa đến cảng đến quy định. Người bán có nghĩa vụ ký kết hợp đồng bảo
hiểm để bảo hiểm những rủi ro của người mua nếu mất mát hư hỏng hàng
hóa.
Nguyên tắc áp dụng Incoterms là các bên phải áp dụng đầy đủ các nghĩa
79
vụ theo điều kiện Incoterms mà các bên đã lựa chọn áp dụng.
SAI
Bởi vì về mặt nguyên tắc chung, các bên có thể áp dụng đầy đủ hoặc 1 phần
các nghĩa vụ, sửa đổi, bổ sung, thay thế tăng hoặc giảm nhưng không làm thay
thế hay ảnh hưởng đến các điều kiện giao hàng Incoterms.
Trách nhiệm xếp, dỡ (xếp hàng lên tàu và dỡ hàng xuống tàu) thuộc về ai
80 được xác định theo điều kiện Incoterms mà các bên thỏa thuận trong hợp
đồng mua bán hàng hóa quốc tế.
SAI Vì
- Nguyên tắc chung là trách nhiệm thuộc về bên vận tải (loại trừ những trường
hợp miễn trách nhiệm của người vận tải theo điều 4 của Công ước Brussels
năm 1924 và loại trừ họ chứng minh mình không có lỗi hoặc đã áp dụng các
biện pháp cần thiết, hợp lý để ngăn ngừa thiệt hại xảy ra).
- Và theo quy tắc Hague và quy tắc Hague-Visby: Người vận tải có các
trách nhiệm sau: cung cấp con tàu có đủ khả năng đi biển, tiến hành việc bốc
xếp, di chuyển, bảo quản hàng hóa một cách cẩn thận và thích hợp, cung cấp
vận đơn đường biển. Trách nhiệm này phát sinh từ khi hàng hóa được xếp lên
tàu tại càng đi đến khi hàng hóa được đỡ khỏi tàu tại cảng đến.
- Theo công ước Brussels 1924 “ Người chuyên chở phải tiến hành 1 cách
thích hợp, cẩn thận việc xếp, chuyển dịch, sắp xếp, chuyên chở, coi giữ,
chăm sóc và dở những hàng hóa được chuyên chở” nghĩa là nghĩa vụ của
người chuyên chở trong việc chăm sóc hàng hóa bao gồm nhiều khía cạnh từ
việc bảo quản hàng hóa khi được xếp xuống tàu và được tiến hành ở các giai
đoạn chuyên chở hàng hóa. Trong qua trình chuyên chở người chuyên chở
phải bảo quản trông nom hàng hóa một cách cẩn thận.
- Khoản 2 điều 3 của Công ước viên 1980 trên còn đề cập mọi khía cạnh của
sắp xếp hàng hóa bao gồm cả thời điểm bốc và dở hàng. Quy định này đòi
hỏi người giao hàng, người nhận hàng có cách thức thích hợp trong việc bốc
hàng, xếp hàng và dỡ hàng. Nếu hàng hóa bị hư hỏng do việc xếp hàng
không đúng kỹ thuật gây ra do các hầm hàng không đúng vệ sinh, không
thích hợp cho việc vận chuyển loại hàng có liên quan thì người chuyên chở
phải bồi thường cho chủ hàng.
Trong các hợp đồng mua bán hàng hoá quốc tế được ký kết theo điều kiện
81 Incoterms không quy định nghĩa vụ mua bảo hiểm hàng hoá thì nghĩa vụ
mua bảo hiểm hàng hoá do người mua và người bán thoả thuận
SAI
Mặc dù, trong 11 điều kiện Incoterms thì có một số điều kiện có quy định về
vấn đề mua bảo hiểm, còn đa số các điều kiện khác thì không quy định về
nghĩa vụ mua bảo hiểm trong trường hợp này. Tuy nhiên, việc mua bảo hiểm
hàng hóa không phải do người mua và người bán thỏa thuận mà nó phụ thuộc
vào thời điểm chuyển giao rủi ro. Ai nhận rủi ro thì để hạn chế được rủi ro của
mình thì người đó sẽ tự mua bảo hiểm. Tuy nhiên lưu ý là sự thoả thuận của
các bên không được làm sai lệch bản chất của Incoterms.
Tức là theo nguyên tắc chung bên mua bảo hiểm chính là bên phải gánh
chịu
rủi ro trong quá trình vận tải theo các điều kiện Incoterms quy định.
Ví dụ: Trong các hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế được ký kết theo
điều kiện giao hàng EXW Incoterms 2020, thời điểm chuyển giao rủi ro cho
bên mua kể từ khi người bán giao hàng dưới quyền định đoạt của người
mua tại cơ sở của người bán hoặc tại một địa điểm chỉ định (như xưởng,
nhà máy, kho hàng,...) và kể từ thời điểm đó trở đi đã chuyển giao rủi ro
cho người mua. Để hạn chế rủi ro thì bên phía người mua sẽ tự mua bảo
hiểm. Do đó, việc mua bảo hiểm này là do bên phía người mua thỏa thuận
với công ty bảo hiểm chứ không phải là thỏa thuận giữa người mua và
người bán hàng hóa.
Ví dụ: Trong các hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế được ký kết theo
điều kiện giao hàng FAS Incoterms 2020, thời điểm chuyển giao rủi ro cho
bên người mua kể từ khi người bán giao hàng và hàng hóa được đặt dọc
mạn tàu do người mua chỉ định (ví dụ đặt trên cầu cảng hoặc trên xà lan) tại
cảng xếp hàng chỉ định và kể từ thời điểm đó trở đi rủi ro đã được chuyển
giao cho người mua. Để hạn chế rủi ro thì bên phía người mua sẽ tự mua
bảo hiểm. Do đó, việc mua bảo hiểm này là do bên phía người mua thỏa
thuận với công ty bảo hiểm chứ không phải là thỏa thuận giữa người mua
và người bán hàng hóa.
LUẬT TRỌNG TÀI
Thỏa thuận trọng tài có thể được xác lập sau khi xảy ra tranh chấp và bắt
82
buộc phải bằng hình thức văn bản.
ĐÚNG Theo điều 5 và 16.2
Tòa án quốc gia luôn có thẩm quyền giải quyết mọi tranh chấp hợp đồng
83
mua bán hàng hóa quốc tế.
SAI Theo điều 6
Theo pháp luật Trọng tài thương mại Việt Nam, đối với vụ việc tranh
84 chấp thuộc thẩm quyền của trọng tài thì tòa án không có thẩm quyền áp
dụng các biện pháp khẩn cấp tạm thời.
SAI Theo điều 48
Theo pháp luật Trọng tài thương mại Việt Nam, bị đơn chỉ có thể kiện lại
85
nguyên đơn bằng cách khởi kiện một vụ kiện khác.
SAI Theo điều 36.1
Theo pháp luật trọng tài Thương mại Việt Nam, hội đồng trọng tài không
86 cần thiết phải xem xét thẩm quyền giải quyết tranh chấp của mình trước
khi tiến hành giải quyết tranh chấp
SAI Theo điều 43.1
Theo pháp luật trọng tài Thương mại Việt Nam, đối với vụ việc tranh
87 chấp đang được giải quyết bằng phương thức trọng tài, thì chỉ có Hội
đồng trọng tài mới có thẩm quyền áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời.
SAI Theo điều 48
Theo pháp luật trọng tài Thương mại Việt Nam, bị đơn có thể không cần
88
gửi bản tự bảo vệ sau khi nhận được khởi kiện.
SAI Theo điều 35.5
Theo pháp luật trọng tài Thương mại Việt Nam, trong mọi trường hợp, bị
89 đơn hoàn toàn có thể phản đối thẩm quyền của Hội đồng trọng tài trong
suốt quá trình giải quyết tranh chấp.
SAI Theo điều 35.4 và 35.2
Theo pháp luật trọng tài Thương mại Việt Nam, nguyên đơn có thể sửa
90 đổi, bổ sung đơn khởi kiện bất cứ khi nào trước khi Hội đồng trọng tài ra
phán quyết cuối cùng
SAI Theo điều 37.2
Trong trường hợp Hội đồng trọng tài vụ việc không được thành lập do
91 các bên không thống nhất được trọng tài viên thì Tòa án có thẩm quyền
thụ lý giải quyết tranh chấp
SAI Theo điều 41.1
92 WTO là một sự thay thế GATT và có sự khác biệt với GATT
Chính thực tế đòi hỏi phải có một thiết chế mới thay thế GATT để điều chỉnh
các vấn đề quan trọng, bức xúc của việc mở rộng hệ thống TM toàn cầu.
=> WTO ra đời. WTO không phải là sự mở rộng đơn giản của GATT mà nó
hoàn toàn thay thế cho GATT và có những điểm khác biệt chính như sau:
Cơ sở để
GATT WTO
so sánh

GATT có thể được mô tả như một


WTO là một tổ chức
bộ quy tắc, hiệp định thương mại đa
quốc tế, ra đời để giám
phương, có hiệu lực, để khuyến
Ý nghĩa sát và tự do hóa
khích thương mại quốc tế và xóa bỏ
thương mại giữa các
các rào cản thương mại xuyên quốc
quốc gia.
gia.

Nó có tổ chức thường
Tổ chức Nó không có bất kỳ sự tồn tại thể
trực cùng với một ban
giáo dục chế, nhưng có một ban thư ký nhỏ.
thư ký.

Các quốc
gia tham Bên ký kết Các thành viên
gia

Cam kết Tạm Đầy đủ và vĩnh viễn

Các quy tắc của WTO


bao gồm các dịch vụ
Ứng Các quy tắc của GATT chỉ dành cho
và các khía cạnh của
dụng thương mại hàng hóa.
sở hữu trí tuệ cùng với
hàng hóa.

Thỏa thuận của nó ban đầu là đa Các thỏa thuận của nó


Hiệp
phương, nhưng thỏa thuận đa hoàn toàn là đa
định
phương được thêm vào sau đó. phương.

Pháp luật
Không được phép tiếp
trong Được phép tiếp tục
tục
nước
Hệ thống
giải
Nhanh chóng và hiệu
quyết Chậm và không hiệu quả
quả
tranh
chấp

You might also like