Professional Documents
Culture Documents
+KHTN
+KHXH-XH --- kinh tế, xã hội, dân tộc học, chính trị học
-NV ---văn hóa, văn hóa nhân loại, hán nôm, văn học
(2) Mô tả
mô tả thực trạng
(3) Nguyên nhân
Xu hướng
Vai trò, giá trị
Giải pháp
Kiến nghị
Phương pháp nghiên cứu khoa học giáo dục (6 yếu tố)
-Tìm, phát hiện những quy luật, tri thức mới để vận dụng vào thực tiễn
-Có tính mới
-Có tính tin cậy (định lượng và định tính)
-Tính khách quan
-Tính kế thừa (lịch sử nghiên cứu vấn đề)
-Tính rủi ro (nằm trong mức độ nhất định, chấp nhận rủi ro)
+Đặt ra mục tiêu cụ thể: Ngay từ khi bắt đầu nghiên cứu, tác giả cần xác định muốn làm và thể hiện
những gì trong toàn bài, từ đó có thể lựa chọn đề tài nghiên cứu cho phù hợp.
+Xác định phạm vi nghiên cứu: Các bạn nên giới hạn một phạm vi nhất định, thông thường với phạm
vi nghiên cứu hẹp thì vấn đề sẽ được khai thác sâu hơn, tránh tình trạng lang man, không đúng trọng
tâm.
+Xây dựng luận điểm mới, sáng tạo: Không đi theo hướng cũ hay gần giống với các đề tài nghiên cứu
trước đó. Sự sáng tạo sẽ giúp cho đề tài nghiên cứu của bạn được Hội đồng giám khảo đánh giá cao.
+Lựa chọn phương pháp, nhiệm vụ nghiên cứu phù hợp: Nhằm nâng cao tính khả thi trong quá trình
thu thập kết quả và phát triển đề tài nghiên cứu khoa học.
Để đặt được một tên đề tài nghiên khoa học cứu hấp dẫn, tạo ấn tượng mạnh, các bạn cần nắm
rõ những nguyên tắc sau:
Tên đề tài phải rõ ràng, súc tích, thể hiện được vấn đề mà bạn muốn nghiên cứu. Về nguyên tắc
chung, tên đề tài nên ít chữ nhất có thể, nhưng chứa đựng một lượng thông tin cao nhất.
Từ ngữ sử dụng trong tên đề tài phải đơn nghĩa, tránh sử dụng những từ đa nghĩa vì sẽ dễ gây hiểu
lầm, sai ý nghĩa của bài nghiên cứu.
Tên đề tài phải có mối liên hệ thống nhất với mục tiêu, nhiệm vụ, đối tượng, phạm vi và ý nghĩa của
bài nghiên cứu.
Các bạn nên tư duy, sáng tạo ra một cái tên đề tài mới, tránh trùng lặp với những đề tài đã được
nghiên cứu và công bố trước đó.
Chú ý cần tránh khi đặt tên đề tài nghiên cứu
Đối với cách đặt tên đề tài nghiên cứu khoa học, các bạn cần chú ý tránh một số vấn đề sau:
Không sử dụng các từ, cụm từ mang tính chất bất định về thông tin như: Về, bàn về, một số phương
pháp, tìm hiểu về vấn đề, thông tin về,… Những từ và cụm từ này sẽ khiến cho vấn đề nghiên cứu
không được xác định rõ ràng, lan man.
Không sử dụng các từ, cụm chỉ mục đích cho tên đề tài như: Nhằm, góp phần, để,… Những từ này sẽ
làm loạn thông tin, không thể hiện được trọng tâm.
Tên đề tài : MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ PHƯƠNG PHÁP DẠY HỌC CHƯƠNG TRÌNH
GDCD KHỐI 6 TRƯỜNG X (áp dụng phương pháp 5;6;7)
Có ý kiến cho rằng, nhiều bạn sinh viên chưa trả lời được câu hỏi "học để làm gì?". Ðiều đó giống
như một con thuyền trôi không rõ phương hướng, không tìm thấy đích đến của hành trình. Kết quả là
có những sinh viên học tập theo kiểu đối phó, học để đáp ứng mong muốn, yêu cầu của gia đình về
việc "phải có tấm bằng đại học".
Bên cạnh đó, với hình thức học tín chỉ như hiện nay, một bộ phận sinh viên tỏ ra bị động và không
hiểu rõ định hướng học tập và rèn luyện trong những năm học đại học. Có người không tìm hiểu kỹ
việc học những khối kiến thức, những môn học trong khung chương trình đào tạo để làm gì và có ý
nghĩa như thế nào trong việc xây dựng một hệ thống khối kiến thức tổng quan hoàn chỉnh cho sinh
viên. Từ đó, nhiều bạn không thể xây dựng được kế hoạch học tập một cách cụ thể và có tính khoa
học cao. Thực tế cho thấy, cứ đến giai đoạn đăng ký môn học, nhiều sinh viên chỉ biết đăng ký theo
kiểu "bạn bè rủ nhau", dẫn đến trường hợp hệ thống các môn học chưa hoàn toàn phù hợp bản thân,
khó có thể học tập đạt kết quả tốt.
Sự hiểu biết của sinh viên về phong trào nghiên cứu khoa học trong trường chưa đủ cả về chất và
lượng. Chưa có một kênh thông tin nào thường xuyên và mạnh mẽ đưa những nội dung về vấn đề này
đến sinh viên, vì thế các bạn sinh viên hầu hết hoặc là coi nghiên cứu khoa học là khá xa vời, chỉ
dành cho những sinh viên xuất sắc, không phải là mình. Bên cạnh đó, cũng chưa có những cơ chế thu
hút sinh viên tham gia các hoạt động nghiên cứu khoa học. Có không ít bạn trẻ chưa hiểu rõ nghiên
cứu khoa học là như thế nào, không biết bắt đầu từ đâu hay nghiên cứu những gì.
1. Không “thuộc bài”: Không biết do run hay chuẩn bị không cẩn thận mà nhiều tác giả không nhớ
nỗi một số nội dung, phương pháp hay các khái niệm cơ bản liên quan đến đề tài, thậm chí còn quên
các kết quả quan trọng. Điều này là không thể chấp nhận được vì như thế thì không thể cung cấp
thông tin cho người nghe một cách có hiệu quả mà còn có thể bị hiểu lầm là quá hời hợt với “đứa con
tinh thần” của chính mình.
2. Lúng túng khi mô tả phương pháp chọn mẫu và tính cỡ mẫu: Đa số các tác giả đều vướng vào phần
này. Có thể do không hiểu công thức, không biết các phương pháp chọn mẫu nên trả lời rất ấp úng, có
khi sai sót nghiêm trọng.
3. Không sử dụng bất cứ phương pháp thống kê nào: Các kết quả nghiên cứu chỉ đơn thuần là số đếm,
tính tỷ lệ phần trăm, không dùng bất cứ một phương pháp kiểm định thống kê nào để so sánh hay tìm
sự tương quan…như thế thì kết quả nghiên cứu làm sao có giá trị khoa học.
4. Mô tả các biến liên tục: Do không kiểm định phân phối của biến nên vô tư mô tả biến liên tục bằng
chỉ số trung bình và độ lệch chuẩn, kết quả từ phần mềm tính sao thì bê nguyên vào vậy. Có những số
liệu nhìn vào là biết không tuân theo luật phân phối chuẩn. Điều này dẫn kết quả sai và so sánh sai.
5. Ứng dụng phương pháp thống kê sai: Một số đề tài có sử dụng vài phương pháp thống kê nhưng
ứng dụng sai do không hiểu giả định đằng sau mỗi phương pháp.
6. Tính toán sai: Không biết vô tình hay cố ý, có vài tính toán như OR, t.test, chỉ số p… chỉ cần nhìn
qua hay vài thao tác tính toán lại đơn giản là có thể phát hiện sai sót. Có khi sai sót đến mức rất ngây
thơ ví dụ như giá trị OR không nằm trong khoảng tin cậy 95%. Một số nghiên cứu có tỷ lệ lưu hành
rất cao từ 80-90% mà vẫn so sánh bằng OR nên kết quả OR cao chót vót, không phản ánh quy mô
thực tế. Có những tác giả sử dụng OR nhưng lại không tính khoảng tin cậy 95%... như thế thì làm sao
biết có ý nghĩa thống kê hay không? Đó là chưa nói đến cách hiểu và diễn dịch của tác giả.
7. Mô tả chỉ số p: Giống như thời kỳ tính toán thủ công chỉ mô tả chỉ số p lớn hơn hoặc nhỏ hơn 0,05
mà không ghi giá trị cụ thể. Xu hướng hiện nay là ghi chỉ số p cụ thể, chỉ ghi p < 0,0001 khi chỉ số p
nhỏ hơn 1/10000. Một số nghiên cứu kiểm định nhiều giả thuyết nhưng không điều chỉnh chỉ số p.
8. Bảng số liệu: Số liệu giữa các bảng có liên quan không khớp nhau, trình bày không rõ ràng có khi
quá lằng nhằng chi chít, không ghi chú chữ viết tắt, không ghi đơn vị tính, không tiêu đề…Một vài đề
tài có quá nhiều bảng số liệu, trong khi có vài bảng không cần hay có thể ghép lại được.
9. Biểu đồ: Chọn loại biểu đồ không phù hợp, ví dụ số liệu có cơ cấu tỷ lệ 100% thay vì chọn biểu đồ
hình bánh thì chọn biểu đồ hình thanh; mô tả nhiều số liệu cùng thời điểm thay vì chọn biểu đồ hình
thanh thì lại chọn loại biểu đồ đường biểu diễn; mô tả số liệu trung bình chọn biểu đồ không có sai số
chuẩn…Thiết kế biểu đồ thì xấu có khi lại rất màu mè; không ghi định danh trục hoành, trục tung,
tiêu đề và ghi chú các chữ viết tắt trong biểu đồ. Có những biểu đồ phản ánh thông tin quá nghèo nàn,
chiếm diện tích, không cần thiết kế mà chỉ mô tả một câu là đủ.
10. Không cân đối giữa bảng sô liệu và biểu đồ: Có nghiên cứu quá nhiều bảng số liệu, lại có nghiên
cứu có quá nhiều biểu đồ…Cách trình bày như thế ngoài việc cung cấp thông tin không tối ưu còn
làm bố cục đề tài đơn điệu và không đẹp.
11. Soạn powerpoint: Đây là sai lầm hầu hết các tác giả. Sai lầm từ cách chọn phông chữ, cỡ chữ, số
lượng chữ mỗi slide, màu chữ, màu nền, hiệu ứng…Có những slide không thể đọc được do tiệp màu
chữ và màu nền hay phông chữ quá nhỏ. Nhìn chung hầu hết trên file powerpoint là sao chép từ file
word.
12. Phong cách báo cáo: Đa số các tác giả báo cáo bằng cách đọc và đọc không sót một chữ. Do sao
chép từ file word nên số lượng slide powerpoint quá nhiều, để kịp thời gian nên tác giả đọc rất nhanh,
nhanh đến nỗi không thể đọc nhanh hơn nữa, đọc dàn trải từ đầu đến cuối làm người nghe rất khó
nắm bắt thông tin.
13. Trả lời câu hỏi của Hội đồng: Một số tác giả quá rụt rè, thiếu tự tin khi trả lời câu hỏi nên chất
lượng trả lời không cao. Một số trả lời không đúng trọng tâm, thậm chí lạc đề, mặc dù nội dung câu
hỏi không quá khó.
-Kết quả nghiên cứu (sản phẩm trong quá trình nghiên cứu)
+Báo cáo tổng hợp
+Báo cáo tóm tắ
+Báo cáo kiến nghị
+Báo cáo chắt lọc
+Báo cáo chuyên đề
+Báo cáo tổng quan tài liệu
+Báo cáo phân tích số liệu
Phù hợp : Điều kiện , Hoàn cảnh, Thời gian, Tài chính
Tên đề tài : Một số vấn đề lí luận về phương pháp dạy học chương trình GDCD Khối 6
Mở đầu
Chương 1:
Khái niệm
Lý thuyết (áp dụng 3 lí thuyết nghiên cứu lí luận về phương pháp dạy học)
Quan điểm, Chính trị ( Quan điểm về lí luận phương pháp dạy học)
Kinh nghiệm
Bài học
Khái quát đặc điểm văn hóa xã hội ( không cần)
Khái quát quan điểm văn hóa xã hội
Chương 2: Thực trạng vấn đề nghiên cứu quá trình dạy học
(Thảo luận nhóm , kết quả bằng số liệu , định lượng , định tính)
Chương 3: Đánh giá Nguyên nhân, Vai trò lí luận trong dạy học, Giải pháp, Vai trò , Xu hướng vận
động/ Xu hướng tiến độ , Môt số giải pháp nâng cao trong quá trình dạy học môn GDCD 6
Kết luận
Tài liệu tham khảo
Thao tác hóa khái niệm và áp dụng lý thuyết trong nghiên cứu
+Thao tác hóa trong khái niệm
+Xác định lý thuyết, mô hình lý thuyết và ứng dụng vào nghiên cứu văn hóa du lịch