You are on page 1of 10

Tổng quan về nghiên cứu KHGD và các phương pháp nghiên cứu KHGD cơ bản

Nguyễn Minh Tân


Nội dung gồm:
1. Tổng quan:
 Khái niệm khoa học giáo dục và các lĩnh vực nghiên cứu;
 Các hướng nghiên cứu chính;
 Đề tài nghiên cứu.
2. Phương pháp luận NC KHGD:
 Quan điểm hệ thống - cấu trúc:
 Quan điểm lịch sử - logic:
 Quan điểm thực tiễn:
3. Các phương pháp nghiên cứu KHGD cơ bản
 Phương pháp quan sát
 Phương pháp điều tra
 Phương pháp nghiên cứu sản phẩm hoạt động:
 Phương pháp tổng kết kinh nghiệm
 Phương pháp xin ý kiến chuyên gia
 Phương pháp nghiên cứu lý thuyết
 Phương pháp thực nghiệm sư phạm
==========
1. Tổng quan:

 Khái niệm khoa học giáo dục


Là Khoa học về giáo dục con người, nghiên cứu bản chất, mục đích, nhiệm vụ và các
tính chất qui luật của giáo dục (GD), vai trò của GD trong phát triển kinh tế xã hội và cá nhân,
quá trình giáo dục và dạy học.
Các lĩnh vực nghiên cứu chủ yếu của Khoa học giáo dục (KGHD) gồm: lí luận giáo dục,
lí luận dạy học, quản lí giáo dục
Nhiều tư tưởng về giáo dục xuất phát từ kinh nghiệm cũng như từ những triết lí về con
người nhưng từ thế kỉ thứ XI, việc nghiên cứu giáo dục mới thật sự trở thành một ngành khoa
học, khi các nhà giáo dục biết đưa khoa học tâm lí vào quá trình dạy học.
Hơn một thế kỉ nay, khoa học giáo dục đã khẳng định nét đặc thù riêng, vừa vận dụng
mọi thành tựu của các ngành khoa học xã hội, tự nhiên và kĩ thuật vừa thúc đẩy các ngành khoa
học ấy phát triển.

 Các hướng nghiên cứu chính của KHGD hiện nay


 Hướng 1: Nghiên cứu hệ thống giáo dục quốc dân.
Trong sự phát triển của xã hội cũng như sự tăng lên theo cấp số nhân về tri thức, hệ
thống trường, lớp cũng phải thay đổi theo. Nhu cầu của xã hội về số lượng người đào tạo, sự
phát triển tâm sinh lí của học sinh... cũng làm cho các nhà KHGD suy nghĩ, tìm tòi các loại hình
trường, các dạng đạo tạo, số năm đào tạo v.v... Ðó là các đề tài của hướng nghiên cứu 1.
 Hướng 2: Nghiên cứu quá trình giáo dục.
Quá trình giáo dục (QTGD) hiểu theo nghĩa hẹp là các hoạt động của giáo viên chủ
nhiệm cũng như việc tổ chức phong trào thi đua của lớp, trường còn theo nghĩa rộng là các mối
liên kết giữa nhà trường, gia đình và xã hội trong việc xây dựng toàn diện một nhà trường (kể cả
trong dạy học) song không đi sâu vào phương pháp dạy học.
Ðối với người giáo viên, việc nghiên cứu giáo dục học sinh cá biệt (kém, giỏi) và tổ chức
phong trào của lớp chủ nhiệm là hai mảng đề tài thường gặp và cần thiết nhất. Cơ sở cho các
công trình nghiên cứu này là tâm lí học, các nguyên lí giáo dục, các quan niệm về con người
trong xã hội.
 Hướng 3: Nghiên cứu quá trình dạy học.
Hướng đề tài này có nội dung rất phong phú. Quá trình dạy học là quá trình chính yếu của
mọi nhà trường. Các nội dung nghiên cứu sẽ là:
- Nghiên cứu nội dung dạy học.
- Nghiên cứu các phương pháp dạy học.
- Nghiên cứu sử dụng, cải tiến, chế tạo dụng cụ dạy học.
- Nghiên cứu đào tạo học sinh giỏi cũng như nâng kết quả học tập của học sinh kém.
- Nghiên cứu các hình thức tổ chức dạy học.
 Hướng 4: Nghiên cứu quản lí giáo dục.
Nội dung nghiên cứu không những nhằm vào các trường học mà còn vượt ra ngoài chúng,
nghĩa là nhằm vào các cơ quan quản lí GD cũng như cán bộ quản lí GD các cấp.
Cần nhấn mạnh: sự phân chia trong khoa học, đặc biệt là khoa học giáo dục đều mang tính
tương đối, dù cho cơ sở để phân chia là giống nhau. Có nghĩa là, có những đề tài liên kết hai
hoặc nhiều hướng nghiên cứu với nhau, đặc biệt là các chương trình nghiên cứu có tầm cỡ quốc
gia. Chẳng hạn, khi nghiên cứu tìm hệ thống giáo dục phù hợp cho một quốc gia thì không thể
tách rời việc nghiên cứu về cơ sở vật chất ở các trường học, nội dung sách giáo khoa cũng như
không thể không nói đến đội ngũ quản lí giáo dục....

 Đề tài nghiên cứu khoa học giáo dục (NCKHGD)


Thực chất của một đề tài NCKHGD là một câu hỏi và tiếp theo là những giải đáp. Câu hỏi
xuất phát từ những mâu thuẫn nhận thức, hành động nảy sinh từ lí luận hay thực tiễn QTGD mà
trước đây chưa ai trả lời được.
Cần chú ý:
- Câu hỏi: không phải là một câu hỏi thông thường để người ta trả lời vài ba câu là xong
mà là một tình huống, một vấn đề đòi hỏi có thời gian nghiên cứu, quan sát, tìm hiểu... và cuối
cùng là một loạt những kết luận được rút ra.
- Cũng có thể câu hỏi đó đã được giải quyết ở nơi khác, trong điều kiện khác nhưng tại
địa phương lại nảy sinh những mâu thuẫn mới cần giải quyết tiếp cho phù hợp điều kiện thực
tiễn.
- Nhiệm vụ của đề tài là: giải đáp những điều chưa rõ, đem lại cái hoàn thiện hơn, có thể
phát hiện qui luật hoặc những kết luận mang tính phổ biến, có thể phát hiện cái mới hoặc cách
làm nào đó hợp qui luật hơn.
Tóm lại, một đề tài NCKHGD chỉ được chấp nhận khi nó hướng đúng vào giá trị lí luận,
thực tiễn nhất định và có ý nghĩa đối với giáo dục.
2. Phương pháp luận (PPL) nghiên cứu KHGD.
Một đề tài nghiên cứu KHGD muốn được chặt chẽ, mang tính thuyết phục thì cần phải tuân
thủ các mối quan hệ cũng như những qui định sau (gọi là các quan điểm):
 Quan điểm hệ thống - cấu trúc:
Một vấn đề nảy sinh trong bất cứ lĩnh vực nào, thời điểm nào đều được qui định bởi hoàn
cảnh, sự vật, sự việc xung quanh, nói cách khác, bản chất sự vật, vấn đề là một bộ phận của toàn
thể, một chỉnh thể chứa đựng sự vật, vấn đề ấy. Ðiều đó cho thấy không thể tách riêng sự việc,
vấn đề ra để nghiên cứu mà là phải nghiên cứu nó trong các mối liên hệ ràng buộc. Ta gọi đó là
hệ thống của vấn đề nghiên cứu.
Hệ thống các vấn đề có liên quan luôn mang tính cấu trúc và ngược lại, cấu trúc các sự vật là
nhằm thống nhất chúng trong một hệ thống tồn tại khách quan. Quan điểm này nhằm chỉ đạo
người nghiên cứu một sự nhất quán trong tư duy cũng như tôn trọng sự tồn tại khách quan của
vấn đề nghiên cứu.
 Quan điểm lịch sử - logic:
Lịch sử là phức tạp, là muôn màu muôn vẻ và nhiều ngẫu nhiên song vẫn bị chi phối bởi cái
tất nhiên. Cái tất nhiên ấy chính là logic khách quan của sự vật, sự việc. Không chú ý đến tính
lịch sử, tức là không tôn trọng sự hình thành và phát triển tất yếu của sự việc trong một quá
trình, tức là không tôn trọng qui luật khách quan của tự nhiên và xã hội.
Lịch sử chính là logic, như Anghen đã viết: Phương pháp logic chẳng qua là phương pháp
lịch sử, chỉ có khác là nó đã thoát khỏi những hình thức lịch sử và những ngẫu nhiên pha trộn.
Lịch sử bắt đầu từ đâu, quá trình tư duy cũng bắt đầu từ đó..
 Quan điểm thực tiễn:
Nguyên lí giáo dục đã khẳng định: mọi vấn đề nghiên cứu phải xuất phát từ thực tiễn và quan
trọng hơn nữa, chúng phải phục vụ cho thực tiễn. Vì vậy giá trị của một công trình NCKHGD
được thể hiện ở sự kết hợp hài hòa giữa lí luận chung với kinh nghiệm của thế giới và thực tiễn
địa phương.

3. Các phương pháp NCKH GD


3.1. Phương pháp quan sát:
Phương pháp quan sát (PPQS) được dùng cho mọi lĩnh vực nghiên cứu của KHXH, kể cả một
số lĩnh vực của khoa học tự nhiên, khoa học kĩ thuật.
Trong khoa học sư phạm, PPQS tỏ ra có hiệu quả rõ rệt bởi vì những ý đồ sư phạm, hiệu quả
sư phạm được biểu hiện rất rõ nét trong nhà trường. Hơn nữa, việc tổ chức quan sát không gặp
nhiều khó khăn, mỗi trường học, bản thân đã là một môi trường sẵn có cho người làm công tác
giáo dục đến làm việc.
Vậy: QSSP là phương pháp thu thập thông tin về quá trình giáo dục trên cơ sở tri giác
trực tiếp các hoạt động sư phạm cho ta những tài liệu sống về thực tiễn giáo dục để có thể khái
quát nên những qui luật nhằm chỉ đạo tổ chức quá trình giáo dục được tốt hơn.
Phương tiện để quan sát chủ yếu là tri giác trực tiếp. Nếu có khả năng có thể dùng các
phương tiện kĩ thuật hỗ trợ để tài liệu quan sát được xem xét kĩ hơn (máy chụp hình, quay phim,
thu âm...).
Chức năng của PPQSSP:
- Thu nhận thông tin, phát hiện vấn đề từ trong thực tiễn QTGD.
- Kiểm chứng các lí thuyết về giáo dục loại kết quả của phương pháp TNSP.
- Mở đầu cho một PPNCKHSP khác.
Các công việc của PP QSSP:
- Xác định rõ mục đích quan sát:
Việc xác định mục đích rõ ràng sẽ làm cho người lập phiếu quan sát cũng như người đi
quan sát tập trung hơn vào các nội dung quan sát. Nghĩa là cần trả lời câu hỏi: Quan sát để làm
gì ?
- Xác định nội dung quan sát và phương pháp quan sát:
Nhằm trả lời câu hỏi: quan sát cái gì, quan sát như thế nào và bằng cái gì. Nếu mục
đích quan sát rõ ràng thì nội dung quan sát sẽ dễ dàng được ấn định.
Nội dung quan sát thể hiện qua việc lựa chọn đối tượng quan sát (mẫu quan sát), số
lượng mẫu, định thời điểm quan sát và độ dài thời gian quan sát. Căn cứ vào qui mô của đề tài và
độ phức tạp của mẫu mà quyết định phương pháp, phương tiện quan sát.
- Chuẩn bị cho người đi quan sát:
• Lập phiếu quan sát:
Ðể việc quan sát được chủ động và thống nhất giữa các lần quan sát hoặc giữa những
cộng tác viên quan sát, chủ đề tài phải thiết kế bảng yêu cầu các nội dung cụ thể khi đi quan sát.
Bảng này gọi là phiếu quan sát. Phiếu quan sát được cấu trúc thành 3 phần:
- Phần thủ tục: Ðối tượng, địa chỉ, ngày giờ quan sát, người quan sát.
- Phần nội dung: Ðây là phần quan trọng nhất của phương pháp, nó quyết định sự thành
công của đề tài nghiên cứu. Có thể gọi đây là phần yêu cầu ghi chép, thu hình cụ thể khi đi làm
việc. Vì vậy các yêu cầu phải thật cụ thể, sao cho người đi quan sát có thể đo, đếm, ghi được
bằng số, bằng chữ, bằng ý kiến đồng ý hay phản đối (Y/N, có/không…)
- Phần bổ sung bằng câu hỏi phỏng vấn: làm rõ hơn một số thông tin có thể chưa được rõ
khi quan sát.
• Kiểm tra phương tiện quan sát:
• Tập huấn cộng tác viên: Phương pháp và nội dung.
- Tiến hành quan sát:
Khi tập huấn xong, người quan sát chỉ cần làm theo mọi yêu cầu trong phiếu quan sát. Cần
chú ý ghi nhận đầy đủ và trung thực.
- Xử lí:
Tập hợp các phiếu quan sát, sắp xếp số liệu, phân tích để đi đến một nhận định khoa học.

3.2. Phương pháp điều tra trong giáo dục (PPĐT)

Khác với phương pháp quan sát, phương pháp này thể hiện qua việc tác động trực tiếp của
người nghiên cứu vào đối tượng nghiên cứu thông qua câu hỏi để có những thông tin cần thiết
cho công việc của mình.
Phương pháp này nhằm mục đích thu nhận số liệu, sự suy nghĩ, quan điểm ...trên một số
lượng lớn đối tượng nào đó để từ đó có thể phán đoán, tìm ra nguyên nhân, tính phổ biến hoặc
biện pháp giải quyết một vấn đề trong giáo dục.
Phương pháp được thực hiện trên số lượng lớn đối tượng, mang tính thống kê nhưng kết quả
vẫn chịu ảnh hưởng vào chủ quan người trả lời và chủ quan nhận định của người nghiên cứu. Vì
vậy, trước tiên, người nghiên cứu phải có một số kĩ năng và kinh nghiệm cần thiết, đặc biệt là kĩ
năng hỏi và óc suy luận tốt thì mới hạn chế được các nhược điểm ấy. Ðôi khi, đối với những vấn
đề quan trọng cần phải tổ chức thực nghiệm để kiểm chứng.
Có hai loại điều tra là: Ðiều tra cơ bản trong giáo dục và trưng cầu ý kiến về một quan
điểm, một cách làm trong giáo dục.
 Các hình thức điều tra trong giáo dục:
- Phỏng vấn có chuẩn bị trước (bằng bảng hỏi): Theo phương cách làm này, nhà nghiên
cứu in sẵn bảng câu hỏi rồi giao cho đối tượng (giao trực tiếp, giao qua cộng tác viên hoặc qua
bưu điện). Tất nhiên nhà nghiên cứu phải làm sao để đối tượng hiểu được mục đích câu hỏi mà
trả lời cho đúng và đúng sự thật.
- Phỏng vấn không chuẩn bị trước: Theo cách này, người nghiên cứu phải có sẵn chủ đề
phỏng vấn để khi làm việc không hỏi lan man. Người phỏng vấn phải là nhà nghiên cứu lão
luyện để có thể ứng phó, tự điều chỉnh hướng trao đổi và đặc biệt là có thể có ngay những câu
hỏi sắc bén, khéo léo và tế nhị. Phương cách này có thể thực hiện cả bằng điện thoại.
- Nhóm trọng điểm (phương pháp não công - Brain Storming): Ðây là một kiểu điều tra
đặc biệt nhằm tìm kiếm những ý tưởng sáng tạo trong công việc. Tiến trình của phương pháp
làm này như sau: Ðể giải quyết một khó khăn nào đó đang bị bế tắc, nhà nghiên cứu tổ chức một
cuộc trao đổi trong một nhóm các nhà chuyên môn (không nhất thiết phải giống nhau). Những
người này rất giàu trí tưởng tượng. Họ được quyền đề xuất bất kì lời giải nào, thậm chí những đề
xuất ấy có vẻ như ngô nghê, không nghiêm túc. Không ai được bình luận, phê phán. Có hai thơ
kí ghi trọn vẹn cuộc trao đổi (kéo dài vài giờ).
Nhà nghiên cứu lấy các đề xuất ấy và tổ chức một cuộc trao đổi khác trong nhóm các
chuyên gia giỏi bình luận và nhận xét. Lại một lần nữa, nhà nghiên cứu lắng nghe họ nói để lọc
lựa ý tưởng hay từ nhóm này.
Ðối với cách này, nhà nghiên cứu cần phải đặt vấn đề thật giản dị, dễ hiểu (ở nhóm
trước), biết lắng nghe, ít nói, đồng thời biết gợi ý, hướng các cuộc trao đổi đi đúng hướng và đặc
biệt là biết tìm các chuyên gia cho các nhóm khác nhau.
3.3. Phương pháp nghiên cứu sản phẩm hoạt động:
- Phương pháp nghiên cứu sản phẩm hoạt động là phương pháp mà người nghiên cứu tiếp
cận với các sản phẩm do hoạt động giáo dục sản sinh ra
- Sản phẩm giáo dục gồm có: hồ sơ sổ sách, bài tập, kế hoach, đồ dùng dạy học.Người ta có
thể xem xét nhân cách của người học sinh là sản phẩm của nhà trường (để nghiên cứu ở phương
pháp quan sát).
- Phương pháp này xuất phát từ lý thuyết nhân cách và hoạt động, kết quả nghiên cứu khá
chính xác, nên được sử dụng phổ biến trong nghiên cứu.
 Các bước tiến hành gồm:
Xác định mục đích nội dung.
Xác định hệ thống các sản phẩm cần nghiên cứu.
Lập kế hoạch cần nghiên cứu.
Tiến hành theo kế hoạch.
Để tiến hành nghiên cứu có hiệu quả phải sử dụng tốt thao tác các tư duy như phân tích,
tổng hợp, khái quát hoá…. Cần dựng lại quá trình hoạt động đưa đến sản phẩm, có thể tiếp xúc
với tác giả của sản phẩm để hiểu rõ hơn. fặc biệt là phải tôn trọng các yếu cầu của chủ nhân.
Phương pháp này cung cấp những thông tin khá chính xác về đối tượng hoạt động, nên được
kết hợp sử dụng trong nhiều phương pháp khác chẳng hạn: quan sát, thực nghiệm,
Hạn chế của phương pháp này là các sản phẩm đôi khi bị thất lạc, ngườithực hiện thiếu
trung thực, khi dựng lại không hoàn toàn giống như thực tiễn đã trải qua vì vậy cần lưu ý khắc
phục trong quá trình vận dụng.
3.4. Phương pháp tổng kết kinh nghiệm
Mục đích của PPTKKN là tìm hiểu bản chất, nguồn gốc, nguyên nhân và cách giải quyết
tình huống giáo dục ở một đơn vị giáo dục, nghiên cứu con đường đi có hiệu quả của một đơn vị
giáo dục, tổng kết sáng kiến, tìm nguyên nhân thất bại của một đơn vị giáo dục và nghiên cứu
hoặc tự hệ thống lại thành tích phấn đấu của cá nhân giáo viên, cán bộ quản lí giáo dục.
 Các bước tiến hành: 
- Chọn đối tượng (tốt, kém) để nghiên cứu.
- Sưu tầm tài liệu: văn bản báo cáo, các bài viết về đối tượng NC (nếu có), phỏng vấn ....
- Xây dựng mô hình lí thuyết (cấu trúc đơn vị, phân loại thành tích...).
- Phân tích, hệ thống để rút ra bài học kinh nghiệm, qui luật giáo dục....
- Viết bài.
Cần chú ý, Một bài nghiên cứu khoa học theo PPTKKN khác với bản báo cáo thành tích
thông thường ở chỗ: Bản báo cáo thành tích mang nhiều tính chất thống kê (thống kê thực trạng,
thống kê những việc đã làm được, thống kê các kiến nghị...), còn bài nghiên cứu: mô tả hoạt
động, phân tích hoạt động, dựa vào lí thuyết để khái quát thành những kết luận mang tính qui
luật.... do đó một bài viết theo PPTKKN cần đưa những cơ sở lí thuyết để phân tích dữ kiện cũng
như để khái quát hóa các sự kiện thành lí luận

3.5. Phương pháp xin ý kiến chuyên gia


Phương pháp này thực chất là phương pháp phỏng vấn.Người nghiên cứu trình bày với các
chuyên gia về một số câu hỏi cụ thể, nhờ đấy có thể giúp đv giải thích đúng đắn những vấn đề của
thực tiễn và lý luận liên quan đến đề tài nghiên cứu.
Những câu trả lời của các chuyên gia có thể dùng làm bằngchứng bổ sung thêm về tính đúng
đắn của nhứng phán đoán, kết luận của người nghiên cứu.
Kĩ thuật tiến hành cũng tương tự như phương pháp phỏng vấn, cần chú ý các yêu cầu sau
đây:
- Chọn đúng chuyên gia có năng lực chuyên môn theo vấn đề đang nghiên cứu.
- Xây dựng được hệ thống chuẩn đánh giá.
- Hạn chế thấp nhất ảnh hưởng qua lại giữa các chuyên gia.
Thường phương pháp này được sử dụng ở giai đoạn cuối cùng, hoặc khi phương pháp nghiên
cứu khác không cho kết quả.
3.6. Phương pháp nghiên cứu lý thuyết
Là tổ hợp các phương pháp nhận thức khoa học bằng con đường suy luận dựa trên các tài
liệu lý thuyết được thu thập từ các tài liệu khác nhau, PPNC này thường bao gồm:
 Phân tích và tổng hợp lý thuyết:
Là thao tác phân tích lý thuyết thành các đơn vị kiến thức, tìm những dấu hiệu đặc thù của bản
chất cấu trúc bên trong của lý thuyết, trên cơ sở phân tích ta tổng hợp lại để tạo ra một hệ thống, từ
đó thấy được mối quan hệ biện chứng của chúng.
 Phân loại hệ thống hoá lý thuyết:
Phân loại là thao tác lôgíc sắp xếp tài liệu khoa học theo chủ đề, theo từng mặt, theo từng đơn vị
kiến thức có cùng dấu hiệu bản chất, cùng một hướng phát triển. NCKHGD phải phân loại các hiện
tượng giáo dục, sắp xếp các kiến thức thành một hệ thống có thứ bậc, trật tự, giúp ta nghiên cứu
chúng đầy đủ theo nguyên lí hệ thống.
 Mô hình hoá:
Mô hình hoá là phương pháp nghiên cứu các hiên tượng và quá trình xây dựng giả định về chúng
để nghiên cứu chúng. mô hình trong nghiên cứu lí thuyết có nhiệm vụ cấu trúc thành cái mới
chưa có trong hiện thực, tức là mô hình cái chưa biết để nghiên cứu chúng còn gọi là mô hình giả
thuyết.
Nghiên cứu giáo dục được thực hiện bằng phương pháp mô hình, đó là con đường dùng cái cụ thể
trực quan sinh động để nghiên cứu cái trừu tượng từ đó tim ra các quy luật của giáo dục.
 Phương pháp giả thuyết:
NCKHGD còn được thực hiện bằng cách xây dựng và chứng minh giả thuyết. Giả thuyết có
chức năng tiên đoán bản chất sự kiện và dẫn nhà khoa học hướng tới khám phá đối tượng. Nhiệm vụ
của nhà khoa học là từ giả thuyết đi tìm chân lý. Giả thuyết ở đây đóng vai trò là phương pháp tư
duy. với tư cách là một phương pháp suy luận, giả thuyết được sử dụng như một thực nghiệm, thiết
kế các hành động tương lai. Suy diễn rút ra các kết quả từ lý thuyết là bước đi quan trọng của quá
trình NCKH. Nghiên cứu lí thuyết KHGD giả thuyết có giá trị như một phương pháp quan trọng.
3.7. Phương pháp thực nghiệm sư phạm
Thực nghiệm khoa học là phương pháp đặc biệt quan trọng của nghiên cứu thực tiễn, trong
đó các nhà khoa học chủ động tác động vào đối tượng và quá trình diễn biến sự kiện mà đối tượng
tham gia, để hướng dẫn sự phát triền của chúng theo mục tiêu dự kiến của mình. Thực nghiệm thành
công sẽ cho ta các kết quả khách quan và như vậy là mục đích khám phá khoa học được thực hiện
một cách hoàn toàn chủ động.
TNDSP là phương pháp thu nhận thông tin về sự thay đổi số lượng và chất lượng trong nhận
thức và hành vi của các đối tượng giáo dục và khoa học tác động đến chúng bằng một số tác nhân
điều khiển và đã được kiểm tra.
 Phương pháp này có những đặc điểm:
- Thực nghiệm sư phạm được tiến hành xuất phát từ một giả thuyết hay một phỏng đoán về một
hiện tượng giáo dục. Thực nghiệm được tiến hành kiểm tra, để chứng minh tính chân thực của giả
thuyết vừa nêu.
- Kế hoạch thực nghiệm đòi hỏi phải miêu tả hệ thống các biến số quy định diễn biến của hiện
tượng giáo dục theo một chương trình. fây là những biến số độc lập có thể điều khiển và kiểm tra
được.
- Theo mục đích kiểm tra giải quyết, các nghiệm thể được chia thành hai nhóm: nhóm thực
nghiệm và nhóm kiểm chứng (đối chứng). l nhóm này được chọn ngẫu nhiên và có mặt bằng xuất
phát tương đương nhau.
 Tổ chức thực nghiệm sư phạm:
- Phát hiện ra mâu thuẫn giáo dục nhưng chưa có biện pháp khắc phục. Từ mâu thuẫn này đề
xuất các giả thuyết khoa học.
- Trên cơ sở giả thuyết, phân tích biến số độc lập và chọn các nhóm thực nghiệm và đối chứng
tương đương nhau về mọi phương diện và tiến hành thực nghiệm trong hoàn cảnh giống nhau.
- Tiến hành thực nghiệm đối với nhóm thực nghiệm và quan sát thật tỉ mỉ diễn biến kết quả của
hai nhóm một cách thật sự khách quan theo từng giai đoạn.
- Xử lý tài liệu thực nghiệm: là giai đoạn phân tích kết quả khảo sát điều tra, theo dõi sự diễn
biến của nhóm thực nghiệm, các tài liêu được phân tích, sắp xếp phân loạivà xử lý theo công thức
toán học, đánh giá trên cơ sở so sánh kết quả của nhóm đối chứng. Từ kết quả thực nghiệm có thể
khpng định mối liên hệ nhân quả xét theo tính chất của nó.
- Kết quả xử lí tài liệu cho chúng ta những cơ sở để khpng định giả thuyết, rút ra những
bài học cần thiết và đề xuất ứng dụng thực tế. Để đảm bảo tính phổ biến của thực nghiệm cần
phải chọn đối tượng tiêu biểu, tiến hành ở nhiều địa bàn trên các đối tượng khác nhau, nên lặp đi
lặp lại thực nghiệm trên cùng một đối tượng ở các thời điểm. Một điểm cần lưu ý là thực nghiệm
sư phạm không được phép biến nghiệm thể thành “vật hy sinh”. phương pháp thực nghiệm là
phương pháp cơ bản chủ yếu nhất của NCKH. Khoa học từ khi có phương pháp này đã có
những bước tiến lớn, các quy luật được phát hiện một cách nhanh chóng và chính xác.
 Các bước cơ bản trong NC TNSP:
• Lựa chọn và làm cân bằng điều kiện ở Các lớp thực Các lớp đối
nghiệm(TN) chứng(ĐC)
các lớp.
• Xác định mức độ ban đầu M1 của kiến
thức, kỹ năng về vấn đề được nghiên cứu. M1T M1Đ
• Dạy thực nghiệm.
• Xác định mức độ đạt được của kiến
thức, kỹ năng M2. Đưa vào yếu tố Theo cách
• Đánh giá mức gia tăng của kiến thức, kĩ thực nghiệm truyền thống
năng …
• Phân tích so sánh hiệu quả của yếu tố
thực nghiệm. M2T M2Đ

M1T - M2T = GT M1Đ - M2Đ = GĐ

GT - GĐ = G

4. Những công việc của nhà nghiên cứu khoa học


- Chọn mẫu điều tra: Mẫu điều tra (mẫu khách thể) là số lượng cá thể hay đơn vị được
chọn để trả lời câu hỏi của nhà nghiên cứu. mẫu phải thỏa mãn: Chọn phần tử phải thật khách
quan và kích thước mẫu (số phần tử trong mẫu) phải đủ lớn.
- Lấy mẫu điều tra gồm:
• Lấy mẫu phi xác suất: việc lấy mẫu này chỉ là để thử bảng câu hỏi, nghiên cứu sơ bộ,
nên việc chọn mẫu vẫn mang tính chất ngẫu nhiên, số phần tử không nhiều. Có các hình thức:
o Lấy mẫu thuận tiện: Không chú ý đến tính đại diện, chỉ cần thuận tiện (dễ, gần, nhanh)
cho nhà nghiên cứu.
o Lấy mẫu tích lũy nhanh: chọn một số phần tử ban đầu, từ các phần tử ấy nhân ra số
phần tử thứ cấp. Ví dụ: chọn 10 học sinh trong lớp, yêu cầu 10 học sinh đó, mỗi em chọn thêm 3
em khác... Tùy theo số phần tử định nghiên cứu, có thể số phần tử thứ cấp ấy lại tiếp tục chọn
thêm nữa để đủ số lượng phần tử của mẫu.
• Lấy mẫu xác suất: Bao gồm: lấy mẫu ngẫu nhiên thông thường bằng cách rút thăm hay
bằng bảng ngẫu nhiên
• Lấy mẫu hệ thống: Trường hợp này dành cho các đối tượng điều tra giống nhau, các
bước gồm:
o Lập danh sách tất cả các phần tử hiện có.
o Tùy kích thước mẫu mà chọn bước nhảy k (tức là: cách mấy số lấy 1 số)
o Lấy các phần tử theo bước nhảy k với phần tử xuất phát là tùy ý, cho đến khi đủ
kích thước mẫu.
• Lấy mẫu theo nhóm ngẫu nhiên: Khi cuộc điều tra trên diện rộng về địa bàn hoặc nhiều
đơn vị khác nhau, ta có thể chọn mẫu theo kiểu này. Ví dụ, khi điều tra về học vấn của mọi
người dân của một tỉnh (mẫu tổng thể - MTT), ta không thể phỏng vấn tất cả dân trong tỉnh đó
mà chỉ chọn mẫu ngẫu nhiên (mẫu nghiên cứu - MNC). Nếu chọn như các kiểu trên thì rất bất
tiện. Ta có cách chọn khác: Giả sử Tỉnh có 3 Huyện, các Huyện có số xã khác nhau. Nếu 3
Huyện có mọi điều kiện tương đương nhau thì chúng ta có thể chọn 2 hoặc 1 Huyện làm MNC.
Tuy nhiên không thể lấy hết tất cả các xã ra NC. Vậy là phải chọn ngẫu nhiên các xã. Ở mỗi xã
cũng chọn ngẫu nhiên ấp rồi tiếp tục chọn ngẫu nhiên gia đình.
- Thiết kế bảng câu hỏi:
Bảng câu hỏi là một loạt các câu hỏi đưa ra để các cá nhân, đơn vị trở lời. Kết quả trả lời
sẽ được xử lí để có thể nhận định cho mục tiêu đã được đề ra của đề tài nghiên cứu. Vì vậy, vấn
đề chính ở đây là các câu hỏi.Hai loại câu hỏi thường dùng là:
Câu hỏi đóng: Là loại câu hỏi yêu cầu người trả lời chỉ đánh dấu vào các khả năng cho trước.
Câu hỏi mở: Là loại câu hỏi mà người trả lời có thể nói (viết) vài câu để giải trình một vấn
đề gì đó. Mục đích của câu hỏi này là bổ sung cho các câu hỏi đóng hoặc nhà nghiên cứu cần
hiểu sâu hơn về tâm tư, tình cảm, thái độ của người trả lời đối với vấn đề đang nghiên cứu.
- Thu thập , sắp xếp dữ liệu:
Có thể thu tiến hành bằng các phương pháp: điều tra, quan sát, đo đạc, làm thí nghiệm để có
những tài liệu, số liệu cần thiết cho công việc phục vụ cho một mục đích nào đó tiếp theo.
Những việc làm ấy được gọi là thu thập dữ liệu. Dữ liệu là sự kiện được thu gọn lại trong các
hình ảnh, con số, văn bản... vì vậy nếu việc thu thập dữ liệu không tốt (không thật, không chính
xác, không đa dạng...) thì những kết quả của NCKH sẽ không trung thực, sai lệch với thực tiễn
và tất nhiên sẽ không trở thành khoa học.
Qua những hoạt động nghiên cứu ban đầu, ta thu được rất nhiều dữ liệu. Cần sắp xếp chúng
lại theo hệ thống, thứ, loại, thậm chí có thể sàng lọc bớt những dữ liệu không cần thiết hoặc
quyết định bổ sung thêm dữ liệu mới để công việc cuối cùng được đơn giản hơn.
- Xử lí dữ liệu:
Ðây là công việc quan trọng nhất, giá trị nhất của NCKH. Một lần nữa, nhà nghiên cứu phải
phân tích các dữ liệu để có thể đoán nhận, khái quát hóa thành kết luận. Nếu dữ liệu là những
con số, cần xử lí bằng thống kê, rút ra kết quả từ các đại lượng tính được. Tư duy khoa học bắt
đầu từ đây.
- Khái quát hóa toàn bộ công trình, kết quả nghiên cứu, kết luận chung cho ĐTNC
Phần này trình bày toàn bộ các kết quả nghiên cứu lý thuyết và thực tiễn của ĐTNC
Thí dụ: Nội dung ĐTNC gồm ba chương ngoài phần mở đầu, kết luận.
Chương I. Cơ sở lý luận của vấn đề nghiên cứu cần trình bày:
+ Lịch sử nghiên cứu những vấn đề có liên quan tới đề tìa (tổng quan)
+ Cơ sở lý luận của vấn đề nghiên cứu.
Chương 2: Thực trạng của vấn đề nghiên cứu.
+ Trình bày cac bước tiến hành và kết quả quan sát, điều tra, thí nghiệm.
+ Những khái quát tài liệu thực tiễn đã sử lý bằng Toán học.
Chương 3: Trình bày quá trình thực nghiệm khẳng định giả thuyết khoa học. Những bài
học rút ra từ các kết quả nghiên cứu thực nghiệm.
• Kết luận chung cho đề tài nghiên cứu, trong đó trình bày:
+ Toàn bộ những tư tưởng quan trọng nhất mà luận án đã nghiên cứu, phát hiện, bao
gồm cả những vấn đề lý thuyết và thực tiễn.
+ Các đề xuất ứng dụng kết quả nghiên cứu của luận án.
+ Những kiến nghị cho việc nghiên cứu tiếp theo.

===============

You might also like