Professional Documents
Culture Documents
Trong giáo dục phổ thông, phương thức tổ chức quá trình thực thi chương trình vẫn
theo niên chế. Học sinh theo trình độ học lực được sắp xếp theo lớp và cùng học theo
một kế hoạch học tập, chương trình giảng dạy, thời khoá biểu thống nhất. Kết quả học
tập được đánh giá theo từng môn học và theo toàn khoá. Nếu người học không đạt yêu
cầu về kết quả học tập của một số môn học, phải ở lại lớp để học lại tất cả các môn
học cho đạt kết quả. Hình thức tổ chức quá trình đào tạo theo niên chế cho phép quản
lí quá trình học tập một cách liên tục và có hệ thống, song không hoàn toàn phù hợp
với năng lực và điều kiện cụ thể của từng học sinh và sinh viên để có có những trình
độ học lực khác nhau, do đó có thể hạn chế hiệu quả của quá trình đào tạo. Chế độ học
phần, tín chỉ kết hợp với nên chế giúp khắc phục những nhược điểm nói trên
Trong giáo dục đại học, phần lớn các trường đã chuyển sang đào tạo theo tín chỉ. Đây
là phương thức đào tạo vừa đảm bảo đào tạo nguồn nhân lực phục vụ cho nhu cầu xã
hội, vừa đáp ứng nhu cầu của từng cá nhân người học. Trong phương thức này, người
học có thể căn cứ chương trình đào tạo, cách thức tổ hợp các tín chỉ tiến tới một văn
bằng để thiết kế một kế hoạch học tập phù hợp nhất với bản thân.
a. Phân loại theo hình thức hoạt động của các chủ thể trong quá trình dạy học
- Theo hình thức hoạt động của người dạy có: phương pháp thông báo, phương
pháp giải thích, diễn giảng, thuyết trình, kể chuyện, làm mẫu v.v.
- Theo hình thức hoạt động của người học có: phương pháp luyện tập, thực hành,
bắt chước, tự học, tự nghiên cứu v.v.
b. Phân loại theo con đường tiếp nhận tri thức
- Phương pháp dùng lời – con đường tiếp nhận tri thức là ngôn ngữ nói hoặc viết;
ví dụ: kể chuyện, giải thích, diễn giảng, trò chuyện gợi mở, độc giảng (t.Nga –
Leksia, t. Anh – Lecture) v.v;
- Phương pháp trực quan – tri thức đến với người học thông qua các giáo cụ trực
quan, sự vật, hiện tượng có thể quan sát được; ví dụ: minh hoạ, trình diễn, làm
mẫu v.v.;
- Phương pháp thực hành – thông qua các hoạt động, hành động, thao tác… người
học chiếm lĩnh tri thức, hình thành kĩ năng, kĩ xảo v.v; ví dụ: luyện tập, thực hành,
thực nghiệm, thí nghiệm, trò chơi v.v
- Sử dụng thí nghiệm hóa học theo hướng dạy học tích cực: Trong dạy
học Hóa học thí nghiệm hóa học thường được sử dụng để chứng
minh minh họa cho những thông báo bằng lời của giáo viên về các
kiến thức hóa học. Thí nghiệm cũng được dùng làm phương tiện để
nghiên cứu tính chất các chất hình thành các khái niệm hóa học:
- Ngoài thí nghiệm hóa học giáo viên còn sử dụng các phương tiện
dạy hóa học khác như: Mô phỏng, sơ đồ, hình vẽ, bảng biểu, phương
tiện nghe nhìn (Máy chiếu, bản trong, băng hình, máy tính,..)
Phương tiện dạy học được sử dụng trong các bài học Hóa học như
phổ biến hơn tất cả là các hình thành khái niệm, nghiên cứu các chất.
Các bài dạy học hóa học có sử dụng phương tiện dạy học đều được
coi là giờ học tích cực nhưng nếu giáo viên dùng phương tiện dạy
học là nguồn kiến thức để học sinh tìm hiểu phát hiện kiến tạo kiến
thức mới sẽ là các giờ học có tích cực cao hơn nhiều.
Dùng hình vẽ sơ đồ không có đầy đủ giúp thích giúp học sinh kiểm
tra các thông tin còn thiếu
Dùng hình vẽ mô hình không có chút thích nhằm yêu cầu học sinh
phát hiện kiến thức ở mức độ khái quát hoặc kiểm tra kiến thức kĩ năng