You are on page 1of 6

Câu 1: Anh (chị) hãy trình bày nguyên lý của mối liên hệ phổ biến.

Từ đó rút ra ý
nghĩa và sự vận dụng nguyên lý này vào công cuộc đổi mới ở Việt Nam.
 Khái niệm nguyên lý mối liên hệ phổ biến:
Nguyên lý mối liên hệ phổ biến (Universal Law of Interdependence) là một khái niệm
trong lĩnh vực khoa học xã hội và tự nhiên, ám chỉ rằng mọi sự vật và hiện tượng trong
thế giới này đều có mối quan hệ và tương tác với nhau.
Theo nguyên lý này, không có sự tồn tại độc lập hoàn toàn. Tất cả mọi thứ đều được hình
thành và tồn tại nhờ vào sự phụ thuộc và tương tác với những yếu tố khác trong môi
trường xung quanh. Mỗi sự thay đổi, biến đổi hay tác động đến một phần tử nào đó đều
có thể tác động đến các phần tử khác trong hệ thống.
Nguyên lý mối liên hệ phổ biến được áp dụng rộng rãi trong nhiều lĩnh vực khác nhau,
bao gồm khoa học môi trường, kinh tế học, sinh thái học, tâm lý học, và cả trong quan hệ
xã hội. Ví dụ, trong môi trường tự nhiên, mọi yếu tố trong hệ sinh thái đều có mối liên hệ
tương tác và phụ thuộc lẫn nhau. Sự thay đổi trong một thành phần như quá trình hủy
hoại môi trường sống của một loài có thể tác động đến cả hệ sinh thái và các loài khác.
Trong kinh tế học, nguyên lý mối liên hệ phổ biến được áp dụng để chỉ ra rằng các yếu tố
kinh tế, chẳng hạn như giá cả, cung cầu, lợi nhuận và đầu tư, cũng có mối quan hệ tương
tác và ảnh hưởng lẫn nhau. Một biến đổi trong một phần tử của hệ thống kinh tế có thể
gây ra tác động lan truyền và ảnh hưởng đến nhiều lĩnh vực khác trong nền kinh tế.
Tóm lại, nguyên lý mối liên hệ phổ biến cho thấy rằng mọi sự vật và hiện tượng trong thế
giới này không tồn tại độc lập, mà đều có mối quan hệ và tương tác với nhau. Hiểu và
nhìn nhận sự phụ thuộc và mối liên hệ này giúp chúng ta hiểu rõ hơn về sự phức tạp của
thế giới và những tác động mà chúng ta có thể gây ra.
 Những tính chất của mối liên hệ phổ biến:
1. Tính phổ biến:
Tính phổ biến của các mối liên hệ thể hiện ở chỗ dù ở bất kỳ đâu, trong tự nhiên, xã hội
và tư duy đều có vô vàn các mối liên hệ đa dạng, chúng giữ vai trò, vị trí khác nhau trong
sự vận động, chuyển hóa của các sự vật, hiện tượng. Mối liên hệ qua lại, quy định,
chuyển hóa lẫn nhau không những diễn ra ở mọi sự vật, hiện tượng tự nhiên, xã hội, tư
duy mà còn diễn ra ở giữa các mặt, các yếu tố, các quá trình của mọi sự vật, hiện tượng
2. Tính đa dạng:
Mỗi sự vật, hiện tượng, quá trình khác nhau thì mối liên hệ cũng khác nhau. Một sự vật
hiện tượng có nhiều mối liên hệ khác nhau (bên trong - bên ngoài, chủ yếu - thứ yếu, cơ
bản - không cơ bản,...), chúng giữ vị trí, vai trò khác nhau đối với sự tồn tại và phát triển
của sự vật, hiện tượng đó. Một mối liên hệ trong những điều kiện hoàn cảnh khác nhau
thì tính chất, vai trò cũng sẽ khác nhau. Nguyên lý về mối liên hệ phổ biến khái quát
được toàn cảnh thế giới trong những mối liên hệ chằng chịt giữa các sự vật, hiện tượng
của nó. Tính vô hạn của thế giới khách quan; tính có hạn của sự vật, hiện tượng trong thế
giới đó chỉ có thể giải thích được trong mối liên hệ phổ biến, được quy định bằng nhiều
mối liên hệ có hình thức, vai trò khác nhau.
+ Ví dụ như mỗi người khác nhau sẽ có mối liên hệ với cha mẹ, anh em, bạn bè khác
nhau. Hay cũng là mối liên hệ giữa cha mẹ với con cái nhưng trong mỗi giai đoạn lại
khác nhau, có tính chất và biểu hiện khác nhau
+ Ví dụ như các loại cá, chim, thú đều có quan hệ với nước nhưng mối quan hệ giữa cá
với nước khác hoàn toàn mối quan hệ của nước với chim, thú. Cá không thể sống thiếu
nước nhưng các loài chim, thú khác không sống trong nước thường xuyên được.
3. Tính khách quan:
Các mối liên hệ tác động, suy cho đến cùng đều là sự phản ánh mối liên hệ và sự quy
định lẫn nhau giữa các sự vật, hiện tượng của thế giới khách quan. Liên hệ là tất yếu, là
khách quan, vốn có của sự vật, hiện tượng. Phép biện chứng duy vật đã khẳng định tính
khách quan của các mối liên hệ, tác động qua lại trong thế giới. Giữa các sự vật, hiện
tượng với nhau, giữa các sự vật hiện tượng này với các sự vật hiện tượng khác. Chúng tác
động qua lại, chuyển hóa và phụ thuộc lẫn nhau. Đây là cái vốn có của bản thân sự vật,
tồn tại độc lập và không phụ thuộc vào ý muốn chủ quan hay nhận thức của con người.
Sở dĩ mối liên hệ có tính khách quan là do thế giới vật chất có tính khách quan. Con
người chỉ có thể nhận thức và vận dụng các mối liên hệ vật chất trong hoạt động thực tiễn
của mình.
 Ý nghĩa của phương pháp luật và áp dụng vào công cuộc đổi mới ở Việt Nam
Nhìn nhận toàn diện: Nguyên lý mối liên hệ phổ biến giúp chúng ta nhìn nhận công cuộc
đổi mới từ một góc nhìn toàn diện, không chỉ tập trung vào các yếu tố đơn lẻ mà còn xem
xét mối quan hệ và tương tác giữa các yếu tố khác nhau. Điều này giúp thấy được tác
động lan truyền và những tương quan phức tạp trong quá trình đổi mới.
Hiểu về tương tác và phụ thuộc: Nguyên lý này nhấn mạnh sự tương tác và phụ thuộc
giữa các yếu tố. Khi áp dụng vào đổi mới, chúng ta có thể nhận ra rằng các yếu tố khác
nhau, chẳng hạn như chính sách công, nguồn nhân lực, hệ thống giáo dục, và cộng đồng
doanh nghiệp, đều có mối quan hệ tương tác và tác động lẫn nhau. Điều này yêu cầu sự
cân nhắc và phối hợp giữa các yếu tố này để tạo ra kết quả tốt nhất.
Tìm kiếm giải pháp toàn diện: Sự hiểu biết về mối liên hệ và tương tác trong quá trình
đổi mới giúp tìm kiếm những giải pháp toàn diện hơn. Thay vì tập trung chỉ vào một khía
cạnh cụ thể, chúng ta có thể xem xét cả hệ thống và tác động của các yếu tố khác nhau.
Điều này có thể dẫn đến việc phát triển các giải pháp đổi mới sáng tạo và bền vững hơn.
Đối tác và liên kết: Áp dụng nguyên lý mối liên hệ phổ biến trong công cuộc đổi mới
cũng đòi hỏi sự hợp tác và liên kết giữa các bên liên quan. Mỗi phần tử trong hệ thống có
thể đóng góp vào quá trình đổi mới và cần có sự hòa nhập và tương tác tích cực giữa
chính phủ, doanh nghiệp, cộng đồng và cá nhân để đạt được kết quả tốt nhất.
Hiểu và đối mặt với hệ quả không mong muốn: Nguyên lý mối liên hệ phổ biến nhấn
mạnh rằng sự thay đổi trong một phần tử có thể có tác động lan truyền và ảnh hưởng rộng
rãi. Trong quá trình đổi mới, việc hiểu và đối mặt với các hệ quả không mong muốn là rất
quan trọng. Điều này đòi hỏi sự linh hoạt và khả năng thích ứng để giảm thiểu các tác
động tiêu cực và tận dụng những tác động tích cực.
Tổng thể, áp dụng nguyên lý mối liên hệ phổ biến trong công cuộc đổi mới tại Việt Nam
giúp tăng cường hiểu biết về mối quan hệ và tương tác giữa các yếu tố khác nhau trong
quá trình đổi mới. Điều này có thể giúp chúng ta phát triển các giải pháp toàn diện, thúc
đẩy sự hợp tác và liên kết, và đối mặt hiệu quả với các hệ quả không mong muốn.
Câu 2: Trình bày nội dung tư tưởng Hồ Chí Minh về những chuẩn mực đạo đức
cách mạng. Anh (chị) tâm đắc nhất nội dung nào? Vì sao? Liên hệ bản thân anh
(chị) về việc học tập và làm theo nội dung tâm đắc đó như thế nào?
 Phân tích 4 chuẩn mực đạo đức: Trung với nước, hiếu với dân, cần kiệm,…
yêu thương con người, tinh thần quốc tế trong sáng
Một là, trung với nước, hiếu với dân.

Theo Hồ Chí Minh, đây là phẩm chất quan trọng nhất, bao trùm nhất và chi phối các
phẩm chất khác.Từ quan niệm cũ “ trung với vua, hiếu với cha mẹ” trong đạo đức truyền
thống của xã hội phong kiến phương Đông, Hồ Chí Minh đưa vào đó một nội dung mới,
cao rộng hơn là “ trung với nước, hiếu với dân”. Người khẳng định: Trung với nước, hiếu
với dân, suốt đời phấn đấu hy sinh vì độc lập tự do của Tổ quốc, vì chủ nghĩa xã hội,
nhiệm vụ nào cũng hoàn thành, khó khăn nào cũng vượt qua, kẻ thù nào cũng đánh thắng.
Câu nói của Bác vừa là lời kêu gọi hành động, vừa là định hướng chính trị, đạo đức cho
mỗi người Việt Nam, không phải chỉ trong cuộc đấu tranh giành độc lập dân tộc mà còn
lâu dài mãi về sau.

Hai là, yêu thương con người.

Quan niêm này cho thấy Chủ tịch Hồ Chí Minh nói về lòng yêu thương con người rất
toàn diện và độc đáo. Bởi vậy, Hồ Chí Minh đã xác định tình yêu thương con người là
một trong những phẩm chất cao đẹp nhất. Người luôn luôn dành tình yêu thương rộng lớn
cho những người cùng khổ, những người lao động bị áp bức bóc lột. Bác viết: tôi chỉ có
một ham muốn, ham muốn tột bậc là làm sao cho nước ta được hoàn toàn độc lập, dân ta
được hoàn toàn tự do, đồng bào ta ai cũng có cơm ăn, áo mặc, ai cũng được học hành. Ở
Hồ Chí Minh, tình yêu thương đồng bào, đồng chí của Người rất bao la, rộng lớn và toàn
diện, không phân biệt vùng, miền, trẻ, già, trai, gái...hễ là người Việt Nam yêu nước thì
đều có chỗ trong tấm lòng nhân ái của Người. Tình yêu thương của Chủ tịch Hồ Chí
Minh còn thể hiện tấm lòng bao dung cao cả của một người Cha, đặc biệt, đối với những
người phạm sai lầm, khuyết điểm. Người căn dặn: mỗi con người đều có thiện và ác ở
trong lòng, ta phải biết làm cho phần tốt ở trong mỗi con người nảy nở như hoa mùa xuân
và phần xấu bị mất dần đi, đó là thái độ của người cách mạng. Đối với những người có
thói hư tật xấu, từ hạng người phản lại Tổ quốc và nhân dân, ta cũng phải giúp họ tiến bộ
bằng cách làm cho cái phần thiện trong con người nảy nở để đẩy lùi phần ác, chứ không
phải đập cho tơi bời. Chính vì vậy, trong Di chúc để lại cho muôn đời sau, Người căn dặn
Đảng: phải có tình đồng chí thương yêu lẫn nhau, mỗi cán bộ, đảng viên luôn luôn chú ý
đến phẩm chất yêu thương con người.

Ba là, cần kiệm liêm chính, chí công vô tư.

Theo Hồ Chí Minh thì: Cần tức là lao động cần cù, siêng năng, có kế hoạch, sáng tạo, có
năng suất cao, với tinh thần tự lực cánh sinh, không lười biếng, không ỷ lại, không dựa
dẫm; Kiệm tức là tiết kiệm sức lao động, thì giờ, tiền của của dân, của nước, của bản thân
mình, phải tiết kiệm từ cái to đến cái nhỏ, nhiều cái nhỏ cộng lại thành cái to, không xa
xỉ, không hoang phí, không bừa bãi, không phô trương hình thức, không liên hoan chè
chén lu bù; Liêm tức là luôn luôn tôn trọng, giữ gìn của công và của dân, không xâm
phạm một đồng xu, hạt thóc nào của Nhà nước, của nhân dân, phải trong sạch, không
tham lam, không tham địa vị, không tam tiền tài, không tham sung sướng, không ham
người tâng bốc mình, vì vậy mà quang minh, chính đại, không bao giờ hủ hóa; Chính
nghĩa là không tà, thẳng thắn, đứng đắn, đối với mình thì không tự cao, tự đại, luôn chịu
khó học tập cầu tiến bộ, luôn tự kiểm điểm để phát triển điều hay, sửa đổi điều dở của
bản thân mình, đối với người thì không nịnh hót người trên, không xem khinh người
dưới, luôn giữ thái độ chân thành, khiêm tốn, đoàn kết, thật thà, không dối trá, lừa lọc,
đối với việc thì để việc công lên trên, lên trước việc tư, việc nhà; Chí công vô tư là đem
lòng chí công vô tư mà đối với người, với việc, khi làm bất cứ việc gì cũng đừng nghĩ
đến mình trước, khi hưởng thụ thì mình nên đi sau, phải “ lo trước thiên hạ, vui sau thiên
hạ”.

Bốn là, tinh thần quốc tế trong sáng.

Đó là tinh thần đoàn kết quốc tế vô sản mà Hồ Chí Minh đã nêu lên bằng một mệnh đề “
bốn phương vô sản đều là anh em”, là tinh thần đoàn kết với các dân tộc bị áp bức, với
nhân dân lao động các nước mà Hồ Chí Minh đã dày công vun đắp bằng hoạt động cách
mạng thực tiễn của bản thân mình và bằng sự nghiệp cách mạng của cả dân tộc, là tinh
thần đoàn kết của nhân dân Việt Nam với tất cả nhân dân tiến bộ trên toàn thế giới vì hòa
bình, công lý và tiến bộ xã hội, vì mục tiêu hòa bình, độc lập dân tộc và chủ ngĩa xã hội,
là tinh thần hợp tác và hữu nghị.
 Nội dung tâm đắc: Cần kiệm liêm chính, chí công vô tư
 Lý do và thực trạng hiện nay:
Thực trạng về đạo đức cách mạng
– Thực tế, đối với vấn đề đạo đức cách mạng được đề cao theo hướng đẩy mạnh mạnh
mẽ đối với cán bộ, công chức, viên chức, lãnh đạo,…
Nhìn chung đa phần thì chúng ta đã đáp ứng được những nhiệm vụ đặt ra, có ý thức kỷ
luật, có tinh thần trách nhiệm trong công việc, đặt ra lối sống lành mạnh để thực hiện góp
phần vào sự phát triển của kinh tế xã hội nhất là trong thời kỳ – hội nhập kinh tế quốc tế.
– Tuy nhiên, bên cạnh mặt tích cực đó trong rèn luyện đạo đức cách mạng thì vẫn có
những điểm tiêu cực xuất hiện trong cuộc sống hằng ngày. Trong đó, cụ thể là một số cá
nhân, tổ chức hay một bộ phận cán bộ, đảng viên bị thoái hóa, biến chất, thiếu tu dưỡng
và rèn luyện đạo đức cách mạng. Từ đó, gây ra việc bản thân ích kỷ, bị sa đà vào những
cám dỗ về lợi ích vật chất gây ra những sự việc đáng buồn, rạn nứt niềm tin trong lòng
nhân dân đối với Đảng và Nhà nước.
 Liên hệ với bản thân:
Đạo đức là một đặc trung cơ bản của xã hội chủ nghĩa, là sức mạnh trong sự nghiệp xây
dựng và bảo vệ tổ quốc, liên quan đến sự thành bại của cách mạng. Xác định được vai trò
to lớn của tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh, Đảng ta đã chủ trương đẩy mạnh cuộc vận
động học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh, làm cho toàn Đảng, toàn dân,
toàn quân nhận thức ngày càng sâu sắc những nội dung cơ bản và giá trị to lớn của tư
tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh. Làm cho tư tưởng, đạo đức, phong cách của
Người thật sự trở thành nền tảng tinh thần vững chắc của đời sống xã hội, xây dựng văn
hóa, con người Việt Nam đáp ứng yêu cầu phát triển bền vũng và bảo vệ vững chắc tổ
quốc, vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ công bằng, văn minh. Và để có thể làm
được điều đó, mỗi học sinh, sinh viên, đảng viên chúng ta ngay từ thời còn đi học, chập
chững bước chân vào Đảng cần phải:
+ Xây dựng, rèn luyện bản lĩnh vững vàng, có niềm tin vào mục tiêu, lý thưởng cách
mạng của Đảng. Trung thực, trách nhiệm, trước hết là trách nhiệm với tổ quốc, với Đảng,
với nhân dân. Sau đó là trách nhiệm với bản thân, với gia đình và quê hương
+ Học tập, tu dưỡng, rèn luyện theo tấm gương cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư,
đức tính khiêm tốn, trung thực, sống trong sạch và chính trực
+ Phải có đức tin tuyệt đối vào sức mạnh của nhân dân, kính trọng nhân dân và hết lòng,
hết sức phục vụ nhân dân. Luôn nhân ái, vị tha, khoan dung và nhân hậu với con người.
+ Phải học tấm gương về chủ nghĩa yêu nước kết hợp với chủ nghĩa quốc tế vô sản trong
sáng
Có như vậy thì tư tưởng Hồ Chí Minh về đạo đức cách mạng vẫn sẽ luôn còn nguyên giá
trị, tồn đọng, trường tồn vĩnh viễn với thời gian, với công cuộc xây dựng đất nước giàu
mạnh, dân chủ, văn minh cho đến tận ngày nay.

You might also like