You are on page 1of 25

TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM TP.

HCM
KHOA NGỮ VĂN
MÔN CÁC YẾU TỐ HÁN VIỆT TRONG TỪ VỰNG TIẾNG VIỆT

Đề tài:

NGỮ CỐ ĐỊNH GỐC HÁN


VÀ CÁCH THỨC VIỆT HÓA

GVHD: Đặng Duy Luận


SVTH: Nhóm 4
Ca học: Ca lẻ- Chiều thứ 2( 12h30’- 17h)
Phòng học: D.003- 351 Lạc Long Quân, P.5, Quận 11
Danh sách thành viên và bảng phân công công việc

STT Họ và tên MSSV Nhiệm vụ


Nhóm trưởng
1.Các loại
1 Đỗ Hoàng Duy 41.01.601.020 chuyên xưng gốc
Hán.
Powerpoint

4. Phân loại
thành ngữ gốc
Hán dựa vào đặc
2 Phan Nữ Xuân Quỳnh 41.01.601.097 điểm ngữ âm
5. Vấn đề nghĩa
của thành ngữ
gốc Hán

6. Cấu trúc nội


bộ của thành ngữ
gốc Hán
7. Thành ngữ gốc
3 Đào Thị Hồng Phương K40.606.099
Hán xét về
phương diện ngữ
pháp
Tổng hợp Word

2. Thành ngữ gốc


Hán
4 Đặng Thị Ly 41.01.601.056 3. Xác định
thành ngữ gốc
Hán
Mục lục
1. Chuyên xưng gốc Hán......................................................................................1
1.1 Định nghĩa và đặc điểm của chuyên xưng...................................................1
1.2 Phân loại......................................................................................................1
1.2.1 Loại chuyên xưng gốc Hán có trật tự cú pháp tiếng Hán.....................1
1.2.2 Loại chuyên xưng gốc Hán có trật tự cú pháp tiếng Việt.....................2
2. Thành ngữ gốc Hán..........................................................................................3
2.1. Các quan niệm thành ngữ...........................................................................3
2.2. Tiêu chí nhận diện thành ngữ.....................................................................4
3. Xác định thành ngữ gốc Hán............................................................................5
3.1. Loại thành ngữ ít xuất hiện......................................................................5
3.2. Loại thành ngữ xuất hiện với tần suất cao...............................................6
4. Phân loại thành ngữ gốc Hán dựa vào đặc điểm ngữ âm.................................8
4.1 Thành ngữ Hán Việt....................................................................................8
4.2 Thành ngữ cải biên......................................................................................8
4.3 Thành ngữ sao phỏng................................................................................10
5. Vấn đề nghĩa của thành ngữ gốc Hán.............................................................11
5.1 Loại A........................................................................................................12
5.2 Loại B........................................................................................................14
6. Cấu trúc nội bộ của thành ngữ gốc Hán.........................................................19
6.1. Đối và điệp...............................................................................................19
6.2 Sử dụng công cụ so sánh “như” 如............................................................20
7. Thành ngữ gốc Hán, xét về phương diện ngữ pháp........................................21
7.1. Thành ngữ có quan hệ hạn định, chi phối.................................................21
7.2. Thành ngữ có quan hệ đẳng lập................................................................21
7.3. Thành ngữ có cấu trúc tương đương cấp độ của câu đơn.........................22
7.4. Thành ngữ có cấu trúc tương đương câu ghép.........................................22
Nhóm 4 Ngữ cố định gốc Hán và cách thức Việt
hóa

1. Chuyên xưng gốc Hán


1.1 Định nghĩa và đặc điểm của chuyên xưng
- Định nghĩa: Có thể hiểu một cách nôm na, đó là loại cụm từ chuyên
dùng để gọi tên- một quốc gia, một tổ chức đoàn thể xã hội, một trường học,
nhà máy, cơ quan…
- Đặc điểm: Chúng có tổ chức khá chặt chẽ và có tính cố định, thường là
cụm từ tương đối dài, có nhiều tiếng tham gia. Không thể tuỳ tiện thay đổi trât
tự các thành tố; cũng không thể thay thế hoặc thêm bớt thành tố.

1.2 Phân loại


Căn cứ vào đặc điểm cấu tạo, có thể chia thành hai loại: một loại tổ chức
các thành tố theo trật tự cú pháp tiếng Hán; còn một loại thì theo trật tự cú
pháp tiếng Việt.
1.2.1 Loại chuyên xưng gốc Hán có trật tự cú pháp tiếng Hán.
Ví dụ:
Đông Dương Cộng sản Đảng
An Nam Cộng sản Đảng
Thanh niên Cách mạng Đồng chí hội
Việt Nam tuyên truyền giải phóng quân
Loại chuyên xưng này chỉ xuất hiện vào thời kỳ đầu của cuộc cách mạng
vô sản ở Việt Nam trong một thời gian ngắn. Đây là dấu ấn sự ảnh hưởng nặng
nề của Cộng sản Trung Quốc đối với Cộng sản Việt Nam ờ thời kỳ trứng nước.
Sau này xu hướng Việt hỏa về ngữ pháp đã có phẩn thẳng thế nên rất ít gặp
trong tiếng Việt. Tại miền Nam Việt Nam trước 1975, rải rác vẫn còn những
chuyên xưng như:
Việt Nam công thương ngân hàng
Y khoa đại học đường
Còn bây giờ, đâu đó bên các góc phố vẫn thấy những tấm biển như:
Trường sơn quân
Lâm viên đại tửu lâu
1
Nhóm 4 Ngữ cố định gốc Hán và cách thức Việt
hóa
Những trường hợp này tuy lẻ tẻ, không phổ biến, nhưng nó đã phản ánh
sự tiếp diễn của Biện tượng giao thoa giữa ngữ pháp tiếng Hán và ngữ pháp
tiếng Việt. Điều này ta còn thấy trong một số trường hợp không phải gốc Hán,
chẳng hạn “Vina giày”; Vina Café…
1.2.2 Loại chuyên xưng gốc Hán có trật tự cú pháp tiếng Việt.

Ví dụ:
Tổng liên đoàn lao động Việt Nam
Hội liên hiệp phụ nữ Vịệt Nam
Bộ lao động thương binh xã hội
Đại học sư phạm ngoại ngữ Hà Nội
Hội văn học nghệ thuật tinh Vĩnh Long
Loại chuyên xưng này chiếm ưu thế trong tiếng Việt hiện đại. Tuy toàn
bộ các thành tố đều là tiếng hoặc từ Hán Việt, nhưng nhờ sắp xểp theo trật tự
thuận của ngữ pháp tiếng Việt nên ý nghĩa vẫn tương đối rõ ràng. Trật tự sắp
xếp này như là một nguyên tắc có tính bắt buộc khi có một chuyên xưng mới
xuất hiện trong tiếng Việt, chẳng hạn: Công ty tư vấn đầu tư xây dựng dầu khí
(danh từ trung tâm đứng trước, định ngữ đứng sau).
Có nhiều chuyên xưng huy động số tiếng tham gia cấu tạo rất lớn, ví dụ:
Trường đại học Khoa học xã hội Nhân Đại học quốc gia Hà Nội (16 tiếng, trong
đó có 15 tiếng Hán Việt và 01 tiếng phi Hán Việt). Có một điều khiến nhiều
người băn khoăn là, những chuyên xưng dài đó lại không có quy định về cách
nói hoặc viết rút gọn. Như thế sẽ tạo ra trở ngại trong vận dụng, vi phạm quy
luật tiết kiệm trong ngôn ngữ.
Hoặc có dạng nói và viết tắt nhưng lại không phù hợp, ví dụ: Trường đại
học dân lập ngoại ngữ tin học Thành phố Hồ Chỉ Minh (14 tiếng Hán Việt) viết
và đọc tắt là Huflit. Ở đây, dạng đầy đủ của chuyên xưng bằng tiếng Việt,
nhưng dạng rút gọn thì lại dùng tiếng Anh (Ho Chi Minh City University of
Foreign Languages Information Technology). Hoặc như ngân hàng đầu tư và
phát triển Việt Nam có dạng viết và nói tắt là BIDV.
2
Nhóm 4 Ngữ cố định gốc Hán và cách thức Việt
hóa

2. Thành ngữ gốc Hán


2.1. Các quan niệm thành ngữ
Trong giáo trình Từ vựng gốc Hán trong Tiếng Việt, đã nêu ra một loạt
các định nghĩa về thành ngữ từ các nguồn nghiên cứu khác nhau.
Đầu tiên là Từ điển giải thích thuật ngữ ngôn ngữ học đã giải thích thành ngữ là
“cụm từ hay ngữ cố định có tính nguyên khối về ngữ nghĩa, tạo thành một chỉnh
thể định danh có ý nghĩa chung, khác tổng số ý nghĩa của các thành tố cấu
thành nó, tức là không có nghĩa đen và hoạt động như một từ riêng biệt ở trong
câu”.
Thứ hai là trong Hiện đại Hán ngữ từ điển, từ thành ngữ được giải thích
như sau:
“Thành ngữ là những từ tổ hay đoản cú đã định hình, có tổ chức gọn và rõ
ràng, có ý nghĩa sâu sắc, và được mọi người sử dụng quen trong thời gian dài.
Thành ngữ tiếng Hán hầu hết được cấu tạo bằng bốn chữ, nói chung đều có
xuất xứ. Có một số thành ngữ có thể hiểu qua mặt chữ, như tiểu đề đại tố 小 題
大 做 (bé xé ra to), hậu lai cư thượng (kẻ đến sau lại ở trên),… Có một số thành
ngữ thì phải biết nguồn gốc hoặc điển cố mới hiểu được ý nghĩa, như triêu tam
mộ tứ (sáng ba chiều bốn), bôi cung xà ảnh (thần hồn nát thần tính)…”
Tiếp theo là Từ điển Tiếng Việt giải thích: “Thành ngữ là tập hợp từ cố
định đã quen dùng mà nghĩa thường không giải thích được một cách đơn giản
bằng nghĩa của các từ tạo nên nó”.
Hay trong Từ và vốn từ Tiếng Việt hiện đại cho rằng: “Thành ngữ là
cụm cố định mà các từ trong đó đã mất tính độc lập đến một trình độ cao về
nghĩa, kết hợp làm thành một khối vững chắc, hoàn chỉnh. Nghĩa của chúng
không phải do nghãi của từng thành tố (từ) tạo ra. Những thành ngữ này cũng
có tính hình tượng hoặc cũng có thể không có. Nghĩa của chúng đã khác nghĩa
của những từ nhưng cũng có thể cắt nghĩa bằng từ nguyên học”.

3
Nhóm 4 Ngữ cố định gốc Hán và cách thức Việt
hóa
 Kết luận: Dựa vào những định nghĩa trên, ta có thể hiểu một cách nôm na
và ngắn gọn về thành ngữ một cụm từ cố định đã quen dùng. Xét về mặt
ngữ pháp thì nó chưa thể là một câu hoàn chỉnh, nó chỉ tương đương với
một từ. Về mặt ngữ nghĩa thì thành ngữ có tính tượng hình và gợi cảm,
nó không nêu lên một nhận xét, một kinh nghiệm sống, một bài học luân
lý hay một sự phê phán nào mà chỉ mang chức năng thẩm mĩ.
Ví dụ một số thành ngữ gốc Hán quen thuộc:
- Cao nhân tất hữu cao nhân trị: Người tài giỏi sẽ có người giỏi hơn.
- Dục tốc bất đạt: Việc làm quá nhanh không thành công.
- Họa hổ họa bì nan họa cốt, tri nhân tri diện bất tri tâm: Vẽ hổ, vẽ da, khó
vẽ xương. Biết người biết mặt, không biết được lòng dạ người đó
- Hữu xạ tự nhiên hương: Có xạ thì thơm
- Mưu sự tại nhân, thành sự tại thiên: Vạch mưu kế do người, thành công
do trời
- Nhàn cư vi bất thiện: Nhàn rỗi dễ làm việc không tốt.
2.2. Tiêu chí nhận diện thành ngữ
Dựa vào những quan niệm ở trên, ta có thể xác định được một số đặc trưng cơ
bản của thành ngữ như sau:
1. Thành ngữ là tổ hợp gồm hai từ trở lên luôn luôn tồn tại trong đầu óc
người sử dụng dưới dạng có sẵn khi cần đến là có ngay, ví dụ như: dục
tốc bất đạt, muôn ngàn thử thách, thiên biến vạn hóa, khuynh quốc
khuynh thành…
2. Nghĩa của thành ngữ là nghĩa bóng, ẩn dụ, quy ước, có tính võ đoán,
không phải chỉ là phép cộng của các nghĩa thành viên cấu tạo nên nó.
3. Thành ngữ có cấu trúc cố định, nói chung không thể đảo lộn các vị trí các
thành tố, không thể tùy tiện thay đổi các thành tố, cũng không thể chêm
xen các yếu tố khác vào giữa các thành tố. Trong lời ăn tiếng nói hàng
ngày ta có thể thêm các từ như thì, là,… vào các câu tục ngữ như, ăn quả
thì phải nhớ kẻ trồng cây, hay ăn cháo rồi đá bát… nhưng ý nghĩa của

4
Nhóm 4 Ngữ cố định gốc Hán và cách thức Việt
hóa
chúng vẫn không hề thay đổi. Bên cạnh đó cũng chẳng ai đi thêm từ mới
vào các thành ngữ như vậy cả, vì nó sẽ làm giảm tính thẩm mĩ, quan
trọng hơn cái ý nghĩa của thành ngữ là khen, là mỉa mai, là châm biếm…
tính hình tượng, gợi cảm sẽ bị giảm đi.
4. Thành ngữ luôn có tính thống nhất về từ vựng – ngữ pháp. Một thành ngữ
không kể có quy mô cấu trúc tương đương với từ hay câu, trên tổng thể
nhất định phải thuộc về một từ loại, khi hoạt động trong câu có chức năng
cú pháp nhất định.
Trong tiếng Hán người ta thường coi trọng tiêu chí 1 và 3, ngay cả thuật
ngữ cũng đã bao hàm cái ý nghĩa ấy: thành là làm xong, có sẵn; ngữ là tập hợp,
tổ hợp từ. Trong khi đó, Tiếng Việt lại chú ý đến tiêu chí thứ 2. Tại sao lại như
vậy? Vì trong tiếng Việt từ bằng hình vị là đơn vị nhỏ nhất có nghĩa, mỗi một từ
trong tiếng Việt đều được dùng một cách độc lập, nhưng thành ngữ lại không
thể dùng ý nghĩa từng từ để giải thích; còn trong tiếng Hán thì không đủ số
lượng hình vị này cho nên với mỗi hoàn cảnh khác nhau, ý nghĩa của từ cũng vì
thế mà thay đổi.

3. Xác định thành ngữ gốc Hán


Trong tổng số gần 4000 thành ngữ Hán, có khoảng 2500 thành ngữ có
mặt trong Tiếng Việt, tức chiếm hơn 60%, hoạt động trên diện rộng, từ trong lời
nói hàng ngày đến văn bản, thư tịch từ xưa đến nay. Tuy nhiên, tính phổ biến
trong tiếng Việt không phải bình quân, mà xảy ra tình hình như sau: Loại thành
ngữ ít xuất hiện và loại thành ngữ có tần suất xuất hiện cao.

3.1. Loại thành ngữ ít xuất hiện


Có những thành ngữ Hán chỉ xuất hiện vài lần, thậm chí một lần duy nhất trong
văn tịch cổ của người Việt. Nguyên do chính là sự xa lạ, khó hiểu, khó lãnh hội
đối với người Việt. Nhất là khi những thành ngữ này được ghi lại dưới dạng

5
Nhóm 4 Ngữ cố định gốc Hán và cách thức Việt
hóa
phiên âm của tiếng Việt thì càng trở nên khó hiểu hơn, như a kì sở hiếu (hùa
theo người mình thích), bì oa chử nhục (nồi da nấu thịt)…

3.2. Loại thành ngữ xuất hiện với tần suất cao
Một số thành ngữ Hán hòa vào hệ thống thành ngữ Tiếng Việt, được sử dụng
song song với thành ngữ thuần Việt. Nhưng không phải thành ngữ nào hoạt
động trong tiếng Việt cũng được sử dụng như nhau, mà chia thành hai dạng
chính: Một là, giữ nguyên cấu trúc, cả về hình thức lẫn ngữ nghĩa, và theo âm
đọc Hán Việt; hai là có cải biên theo xu hướng Việt hóa ở các mức độ khác
nhau.
Dưới đây là một số hình thức vay mượn thành ngữ chữ Hán:
- Thành ngữ bị thay đổi hầu hết các thành tố - thay thế hoàn hoàn bằng các
từ thuần Việt, ví dụ như hữu đầu hữu vĩ -> có đầu có đuôi; tứ hải giai
huynh đệ -> bốn bể đều là anh em; cẩm y dạ thành -> áo gấm đi đêm; đại
ngư cật tiểu ngư -> cá lớn nuốt cá bé…

錦衣夜行
Áo gấm đi đêm
Cẩm y dạ hành

知己知彼百戰不殆
Biết địch biết ta trăm trận trăm thắng
Tri kỷ tri bỉ bách chiến bất đãi

大魚吃小魚
Cá lớn nuốt cá bé
Đại ngư cật tiểu ngư

高飛遠走
Cao chạy xa bay
Cao phi viễn tẩu

狐假虎威
Cáo mượn oai hùm
Hồ giả hổ uy

6
Nhóm 4 Ngữ cố định gốc Hán và cách thức Việt
hóa

不見棺材不下淚
Chưa thấy quan tài chưa đổ lệ
Bất kiến quan tài bất hạ lệ

有志竟成
Có chí thì nên
Hữu chí cánh thành

鐵杵磨成針
Có công mài sắt có ngày nên kim
Thiết xử ma thành châm

癩蛤蟆想吃天鵝肉
Lại cáp mô tưởng cật thiên nga Cóc ghẻ mà đòi ăn thịt thiên nga
nhục

恭敬不如從命
Cung kính không bằng tuân mệnh
Cung kính bất như tòng mệnh

走馬觀花
Cưỡi ngựa xem hoa
Tẩu mã quan hoa

敢做敢當
Dám làm dám chịu
Cảm tố cảm đương

牛刀割雞
Dùng dao mổ trâu giết gà
Ngưu đao cát kê

- Thay thành tố đồng nghĩa: nhập hương tùy tục -> nhập gia tùy tục; tình
đầu ý hợp -> tâm đầu ý hợp; hữu duyên vô phận -> có duyên không phận;
nhân họa đắc phúc -> gặp dữ hóa lành…
- Đảo trật tự các thành tố: túc trí đa mưu -> đa mưu túc trí, xà khẩu phật
tâm -> khẩu xà tâm phật, căn thâm đế cố -> thâm căn cố đế …
- Vừa đảo trật tự vừa thay thành tố:
- Đối dịch các thành tố tương ứng

7
Nhóm 4 Ngữ cố định gốc Hán và cách thức Việt
hóa
- Giữ nguyên cấu trúc đọc theo âm Hán Việt: bán tín bán nghi, biết người
biết ta, dám làm dám chịu, giận cá chém thớt

4. Phân loại thành ngữ gốc Hán dựa vào đặc điểm ngữ âm
Trong kho tàng thành ngữ phong phú đa dạng của tiếng Việt, có một số
thành ngữ mượn từ các ngôn ngữ ngoại quốc. Trong số thành ngữ ngoại lai ấy,
thành ngữ gốc Hán chiếm số lượng lớn nhất trên 90% tổng số thành ngữ mượn.
Do tiếp xúc lâu đời nên diện mạo của thành ngữ Hán trong tiếng Việt không
phải lúc nào cũng dễ nhận ra. Dựa vào tiêu chuẩn ngữ âm, cụ thể là dựa vào âm
đọc Hán Việt chúng ta tạm chia thành ngữ gốc Hán trong tiếng Việt thành ba
loại chính là:
- Thành ngữ Hán Việt
- Thành ngữ cải biên
- Thành ngữ sao phỏng
4.1 Thành ngữ Hán Việt
Đây là loại dễ nhận diện nhất vì chúng vào tiếng Việt với tư thế giữ nguyên
hình thái-ngữ nghĩa và đọc theo âm Hán Việt. Hầu hết thành ngữ loại này đều
đến bằng con đường văn tự, sách vở và có số lượng lớn nhất so với các loại
khác.
Ví dụ:
+ An cư lạc nghiệp
+ Hào hoa phong nhã
+ Phàm phu tục tử
+ Quyết chiến quyết thắng
+...
4.2 Thành ngữ cải biên
Đó là loại thành ngữ có một số thành tố không đọc theo âm Hán Việt mà
đọc theo âm thuần Việt, tiền Hán Việt hoặc hậu Hán Việt. Tức là loại thành ngữ
đã được Việt hóa cục bộ về ngữ âm và ngữ pháp.
STT Thành ngữ Việt loại cải biên Thành ngữ Hán (âm Hán Việt)
1 Giá áo túi cơm Y giá phạn nang
8
Nhóm 4 Ngữ cố định gốc Hán và cách thức Việt
hóa

2 Nghiên nước nghiêng thành Khuynh quốc khuynh thành


3 Bán nước cầu vinh Mại quốc cầu vinh
4 Gạo châu củi quế Mễ châu tân quế
5 Một vốn bốn lời Nhất bản vạn lợi
6 Rồng bay phượng múa Long phi phượng vũ
7 Nhả ngọc phun châu Thổ ngọc phún châu
8 Áo gấm đi đêm Cẩm y dạ hành
9 Vẽ rắn thêm chân Họa xà thiêm túc
10 Mặt người dạ thú Nhân diện thú tâm
11 Thề non hẹn biển Thệ hải minh sơn
12 Trời cao đất dày Thiên cao địa hậu

Nếu ở loại thành ngữ Hán Việt, tiếng Việt đã tiếp nhận thành ngữ Hán
trong nguyên khối (giữ nguyên cấu trúc) kèm theo sự chuyển đổi ngữ âm có
tính chất đại trà (âm đọc Hán Việt) thì ở loại hình thành ngữ cải biên, sự tiếp
nhận ấy đã được đẩy cao lên một mức. Mức độ Việt hóa về ngữ âm cao hơn.
Điều đó thể hiện ở chỗ nhiều thành tố Việt đã vào thay thành tố Hán. Trong số
những thành tố thay thế ấy có thành tố thuần Việt nhưng cũng có những thành
tố Hán đã Việt hóa cao độ. Chẳng hạn áo trong ví dụ (1) và (8) nguyên là một
yếu tố Hán nhưng đã Việt hóa về mặt ngữ nghĩa nên nó được dùng để thay thế
cho y trong các thành ngữ Hán. Sự thay thế của áo và y không đơn thuần là vấn
đề ngữ âm mà cái chính vẫn là nghĩa. Số thành tố được thay thế càng nhiều thì
nghĩa của thành ngữ càng rõ, càng dễ hiểu, càng có khả năng đi sâu vào quảng
đại quần chúng nhân dân Việt Nam.
Trong ví dụ (2) nghiêng thay cho khuynh, nước thay cho quốc, ví dụ (3):
bán/ mại. Ví dụ (4) gạo/ mễ, củi/tân, ... Trong các cặp đồng nghĩa trên đơn vị
đứng trước là những từ đơn trong tiếng Việt, đơn vị đứng sau hầu hết là từ đơn
trong tiếng Hán nhưng vào tiếng Việt thì chúng chỉ là những từ tố, không có khả

9
Nhóm 4 Ngữ cố định gốc Hán và cách thức Việt
hóa
năng hoạt động độc lập và nghĩa đã mờ đi. Cùng với sự thay đổi về ngữ âm, ngữ
nghĩa, nhiều thành ngữ Hán đã thay đổi cả cấu trúc cục bộ hoặc cấu trúc tổng
thể. Ví dụ, thành ngữ y giá phạn nang khi vào tiếng Việt đã xảy ra sự thay đổi
cấu trúc cục bộ như sau:
Y giá -> giá áo, phạn nang -> túi cơm
Sự thay đổi này xuất phát từ một nguyên nhân rất cơ bản về quan hệ ngữ pháp.
Trong tiếng Hán định tố danh từ đứng trước từ trung tâm còn trong tiếng Việt
thì nói chung là ngược lại. Vì vậy, việc thay đổi cấu trúc cũng không nằm ngoài
mục đích ngữ nghĩa. Y giá và phạn nang trong thành ngữ (1) có quan hệ liên
hợp. Loại quan hệ này dù trong tiếng Hán hay trong tiếng Việt nói chung đều có
thể thay đổi trật tự. Y giá phạn nang trong tiếng Hán có thể vào tiếng Việt với
hai cấu trúc tổng thể: túi cơm giá áo hoặc giá áo túi cơm. Tuy nhiên, việc thay
đổi cấu trúc tổng thể này ít xảy ra vì nó hầu như ít chịu sức ép ngữ nghĩa so với
kiểu cấu trúc cục bộ.
4.3 Thành ngữ sao phỏng
Đó là loại thành ngữ được Việt hóa một cách triệt để nhất, đến mức nếu đặt
chúng cạnh những thành ngữ thuần Việt thì cũng khó lòng phân biệt.
Thành ngữ Việt loại sao phỏng Thành ngữ Hán (âm Hán
Việt)
1 Ếch ngồi đáy giếng Tỉnh để chi oa
2 Chim sa cá lặn Trầm ngư lạc nhạn
3 Bới lông tìm vết Xuy mao cầu tì
4 Bịt mắt bắt chim Yểm mục bổ tước
5 Nồi da xáo thịt Bì oa chử nhục
6 Tai vách mạch rừng Bích trung hữu nhĩ
7 Đổi trắng thay đen Điên đảo hắc bạch
8 Mò kim đáy bể Hải để lao châm
9 Ngậm máu phun người Hàm huyết phún nhân
10 Anh lùn xem hội Nụy nhân khán trường
11 Trăm tay ngàn mắt Thiên thủ thiên nhãn
12 Thuốc đắng giã tật Lương dược khổ khẩu

Nhận xét:

10
Nhóm 4 Ngữ cố định gốc Hán và cách thức Việt
hóa
Về mặt ngữ âm, hầu hết các thành tố tạo nên thành ngữ đều không theo
âm đọc Hán Việt. Nếu có thành tố nào đó đọc theo âm Hán Việt thì trong thực
tế hoạt động ngôn ngữ nó đã có đủ phẩm chất của một từ thuần Việt, do đó
không còn khả năng cản trở việc lãnh hội và biểu thị ý nghĩa.
Về mặt ngữ nghĩa và ngữ pháp, các cách thức Việt hóa ở đây đã diễn ra
theo một số trường hợp như: sửa đổi trật tự cú pháp tổng thể và cục bộ. Chẳng
hạn, thành ngữ Hán tỉnh để chi oa là một danh ngữ, oa là trung tâm ngữ, tỉnh để
là định tố, chi là trợ từ. Định tố đứng trước, trung tâm ngữ đứng sau. Trật tự ấy
phải đảo lại theo “ngữ pháp thuận” để có ếch ngồi đáy giếng trong tiếng Việt,
với ếch là trung tâm ngữ đứng trước, ngồi đáy giếng là định tố đứng sau.
Trong thành ngữ Hán hải để lao châm ở ví dụ (8) hải để là trạng ngữ chỉ địa
điểm cho hành động lao châm. Trạng ngữ đứng trước, hành động đứng sau. Trật
tự ấy không phổ biến trong tiếng Việt. Vì vậy, khi vào tiếng Việt nó có trật tự là
mò kim đáy bể. Hành động đứng trước địa điểm đứng sau.
Có khi trong thành ngữ xảy ra hiện tượng sửa đổi trật tự cú pháp cục bộ,
chẳng hạn bì oa đổi thành nồi da (ví dụ (5)), lương dược đổi thành thuốc đắng
(ví dụ (12)), hải để đổi thành đáy bể (ví dụ (8)), tỉnh để đổi thành đáy giếng (ví
dụ (1)),...

5. Vấn đề nghĩa của thành ngữ gốc Hán


Nghĩa của thành ngữ, nói chung là một vấn đề mà tính thống nhất về quan
niệm giữa các nhà nghiên cứu chưa cao. Điều đó thể hiện rất rõ khi nêu ra tiêu
chí xác định thành ngữ.
Một số quan niệm hẹp cho rằng ngoài tiêu chí về cấu trúc ra thì tính chất
ẩn dụ, tính chất bóng nghĩa như là một tiêu chí không thể thiếu được của thành
ngữ. Nhờ vào tiêu chí ấy để phân biệt thành ngữ và quán ngữ vốn đều là tổ hợp
cố định.
Một số nhà nghiên cứu theo quan niệm rộng, lại chú trọng về mặt cấu
trúc, tức là tính có sẵn của loại đơn vị này. Vì thế, ranh giới giữa thành ngữ và
11
Nhóm 4 Ngữ cố định gốc Hán và cách thức Việt
hóa
quán ngữ không phải xác định bằng nghĩa mà là bằng mức độ cấu kết chặt chẽ
hay không chặt chẽ giữa các thành tố tạo nên tổ hợp.
Thành ngữ trong tiếng Hán được xác định theo quan niệm rộng nên hàng
loạt thành ngữ Hán xâm nhập vào tiếng Việt đã góp phần nới lỏng tiêu chí nghĩa
của thành ngữ Việt. Những tổ hợp như đồng tâm hiệp lực, thượng lộ bình an,
vạn sự như ý, trong tiếng Hán được xem là thành ngữ. Và chúng cũng nằm
trong danh sách thành ngữ gốc Hán. Ở đây nghĩa của thành ngữ là một thứ
nghĩa đen, hợp lại từ nghĩa gốc của các thành tố. Do đó, việc lãnh hội nghĩa
thành ngữ không gặp phải cản trở nào đáng kể.
Lại có những thành ngữ Hán kiểu như triêu tam mộ tứ, bôi cung xà ảnh,
Tái ông thất mã, Ngu công di sơn,... thì tình hình ngược lại nghĩa của thành ngữ
được rút ra từ một câu chuyện, một điển tích lưu truyền trong dân gian. Không
thể căn cứ vào nghĩa các thành tố để biết nghĩa của thành ngữ.
Căn cứ vào nghĩa từng thành tố và nghĩa của cả thành ngữ có thể tạm thời chia
thành các loại sau:
5.1 Loại A
Loại này gồm các thành ngữ mà nghĩa của cả tổ hợp được tạo thành trực
tiếp từ nghĩa các thành viên. Do vậy, khi đã có nghĩa của tổ hợp thì cũng có thể
biết được nghĩa các thành viên. Và ngược lại, từ nghĩa các thành viên có thể
hiểu nghĩa cả tổ hợp. Về mặt nghĩa, loại thành ngữ này giống với cụm từ tự do
(tức tổng hợp nghĩa các thành tố), chỉ khác ở chỗ, đây là những tổ hợp từ cố
định, tái diễn trong lời nói với dạng có sẵn. Nghĩa của chúng là nghĩa đen, nghĩa
khởi thủy, chứ không phải là nghĩa bóng, nghĩa phái sinh, Ví dụ:
- Thượng lộ bình an
- Tôn sư trọng đạo
- Tự nguyện tự giác
- Vạn sự như ý
- Văn ôn võ luyện

12
Nhóm 4 Ngữ cố định gốc Hán và cách thức Việt
hóa
Vì thế chúng dễ hiểu, dễ sử dụng, sớm hòa nhập vào trong hệ thống thành
ngữ tiếng Việt. Trở thành một thành viên không thể thiếu trong lời ăn tiếng nói
hằng ngày của người Việt bình thường.
Người ta tìm nghĩa thành ngữ qua việc tìm hiểu nghĩa từng thành tố,
chẳng hạn trong thượng lộ bình an thì thượng là lên (đi), lộ là đường, bình là
yên ổn, an là an toàn -> lên đường bình an. Thao tác phân tích để truy tìm nghĩa
này đã dẫn đến những gợi ý về việc thay thế những bộ phận có thể thay thế
được trong thành ngữ Hán. Khiến chúng gần gũi và dễ hiểu hơn đối với người
Việt. Số lượng những thành tố được thay thế có khi nhiều có khi ít, mức độ
không giống nhau. Có thể chia thành bốn loại nhỏ, bốn kiểu.
 Kiểu A1 thay thế một thành tố.
Ví dụ:

Lễ bạc tâm thành -> lễ bạc lòng thành


Sinh vô gia cư -> sống vô gia cư
Tử vô địa táng -> chết vô địa táng
Đó là những thành tố đồng nghĩa 1-1 giữa tiếng Hán và tiếng Việt như tâm
=lòng, tử = chết, sinh= sống.

 Kiểu A2 thay thế hai thành tố.


Ví dụ:
Thượng lộ bình an -> lên đường bình an
Mại quốc cầu vinh -> bán nước cầu vinh
Hữu tình hữu lí -> có tình có lý
Thiên phương bách kế -> trăm phương ngàn kế
Cẩn tắc vô ưu -> cẩn tắc vô áy náy
Các thành tố thay thế hầu hết là đối xứng 1-1 cả về nghĩa lẫn số lượng âm
tiết, nhưng thỉnh thoảng cũng có trường hợp không hoàn toàn đối ứng về ngữ
âm: thượng =lên, lộ= đường, mại=bán, ưu= áy náy,...

13
Nhóm 4 Ngữ cố định gốc Hán và cách thức Việt
hóa
 Kiểu A3 thay thế ba hoặc bốn thành tố.
Ví dụ:
Nhất bản vạn lợi -> một vốn bốn lời
Nhân diện thú tâm -> mặt người dạ thú
Bán tín bán nghi -> nửa tin nửa ngờ
Ân thâm nghĩa trọng -> ơn sâu nghĩa nặng
Trong số những thành tố thay thế ấy, ngoài những thành tố thuần Việt ra
còn có cả những thành tố gốc Hán đã trải qua một bước Việt hóa về ngữ âm
hoặc theo lối phát âm tiền Hán Việt, chẳng hạn: bản>vốn, lợi>lời, tín>tin,
tham>ham.
 Kiểu A4 thay thế toàn bộ, ví dụ:

Tri nhân tri kỷ -> biết người biết ta


Tứ hải nhất gia -> bốn bể là nhà
Uý tử tham sinh -> ham sống sợ chết
Phong y túc thực -> ăn no mặc đẹp
Đồng tâm hiệp lực -> chung sức chung lòng
Cùng với việc thay thế toàn bộ các thành tố là sự điều chỉnh về trật tự các
nhóm thành tố, thường là các nhóm có quan hệ liên hợp. Chẳng hạn, trong thành
ngữ Hán úy tử tham sinh, nhóm thành tố úy tử đứng trước, tham sinh đứng sau,
sang tiếng Việt thì ngược lại. Tuy nhiên sự thay đổi trật tự này không hẳn là vì
mục đích ngữ nghĩa, nhất là đối với loại thành ngữ có cấu trúc theo quan hệ liên
hợp. Trong bốn trường hợp vừa nêu thì đây là trường hợp Việt hóa thành ngữ
Hán ở mức độ cao nhất, triệt để nhất, ít ra cũng là xét về mặt ngữ nghĩa.

5.2 Loại B
Loại này gồm các thành ngữ mà nghĩa của cả tổ hợp không phải được tạo
thành trực tiếp từ nghĩa các thành viên. Nghĩa của tổ hợp có được do liên tưởng
mà rút ra từ nghĩa kết hợp của các thành viên. Đó là loại nghĩa bóng, một trong
những loại nghĩa đặc trưng của thành ngữ. Những khái niệm trừu tượng thường

14
Nhóm 4 Ngữ cố định gốc Hán và cách thức Việt
hóa
được hình tượng hóa bằng cách diễn đạt cụ thể. Chúng thể hiện nghĩa bằng
phương thức so sánh (tỉ dụ) và so sánh ngầm (ẩn dụ).
 Kiểu B1 gồm những thành ngữ mà muốn hiểu nghĩa của chúng phải qua
một quá trình so sánh ngầm. Đối tượng được nêu làm mốc để so sánh có
thể là:
a. Một hiện tượng trong giới tự nhiên, chẳng hạn, hình ảnh con ếch trong
“ếch ngồi đáy giếng” (tỉnh để chi oa) chỉ thấy được một phần vô cùng
nhỏ bé của bầu trời qua bao la miệng giếng. Một người nào đó nhận thức
thế giới khách quan một cách phiến diện và có vốn kiến thức ít ỏi sẽ được
ví như con ếch ngồi đáy giếng.

b. Mô tả một hiện tượng để suy ra bản chất, chẳng hạn:

+ Bới lông tìm vết< xuy mao cầu tì = xoi mói


+ Da ngựa bọc thây< mã cách quả thi= sự chiến đấu, hi sinh
+ Đứng ngồi không yên< tọa lập bất an= lo lắng
+ Túi không đáy< vô để chi nang= tham lam vô độ
 Kiểu B2 gồm những thành ngữ có nguồn gốc từ những truyện ngụ ngôn
cổ đại, các truyền thuyết, chuyện lịch sử, thơ văn cổ điển,... hầu hết là tựa
đề của những câu chuyện, vì vậy muốn hiểu sâu sắc nghĩa của thành ngữ,
buộc phải biết nội dung và diễn biến của câu chuyện. Thông qua cốt
truyện để rút ra được một điều gì đấy, chính là nghĩa của thành ngữ.

Ngu công dời núi (Ngu công di sơn) là tựa đề của một câu chuyện ngụ
ngôn cổ đại Trung Quốc. Chuyện kể về nhân vật Ngu công già chín mươi tuổi
vẫn quyết tâm di chuyển hai quả núi lớn vốn chắn mất lối đi phía trước nhà. Dù
thiên hạ cười chê, ông vẫn không thay đổi ý định. Thượng đế cảm kích trước
việc làm của Ngu công nên đã sai thần tiên xuống giúp chuyển núi đi nơi khác.

15
Nhóm 4 Ngữ cố định gốc Hán và cách thức Việt
hóa
Thành ngữ này trong tiếng Hán dùng với nghĩa “có chí thì nên” và “nhân định
thắng thiên”. Trong tiếng Việt cũng dùng để nói về ý chí và lòng quyết tâm.
Tái ông thất mã > Ngựa Tái ông, là câu chuyện kể về sự được mất ngựa
của “Tái ông” (ông già vùng biên giới), qua đó nói về điều phúc họa trên đời.
Đó cũng là câu chuyện minh họa cho triết lý âm dương: trong cái dương luôn
tiềm ẩn cái âm, và trong âm bao giờ cũng có mầm mống cái dương. Ý nghĩa
hàm chứa trong đó là hãy giống như Tái ông bình thản trước số phận. Trong
tiếng Việt thường được dùng để an ủi, xoa dịu trước một sự mất mát của ai đó.
Người ta thường nói “Tái ông thất mã mà, biết đâu...”. Ở đời này được mất hơn
thua là chuyện thường tình, được đó rồi lại mất đó, mất rồi lại được, không mất
hết cũng không được hết. Có khi tưởng là được nhưng đang mất đấy, “được cái
này mất cái kia”.
Các thành ngữ như triêu tam mộ tứ, bôi cung xà ảnh tuy cùng kiểu loại với các
thành ngữ trên nhưng mức độ ẩn dụ cao hơn nhiều. Nghĩa của chúng cũng phải
được rút tỉa ra thông qua những câu chuyện cổ mà phần lớn có tính sách vở, ít
người biết đến. Trong tiếng Hán chúng được ghép vào loại thành ngữ “chữ
nghĩa” khó hiểu, không thông dụng lắm. Vào tiếng Việt phạm vi hoạt động của
chúng cũng rất hạn hẹp, hầu như chỉ xuất hiện trong văn bản viết nhưng cũng
với tần suất thấp. Nguyên nhân chính vẫn là vấn đề nghĩa.
Chẳng hạn, thành ngữ triêu tam mộ tứ có nguồn gốc từ câu chuyện giữa
người chủ và những con khỉ mà ông ta nuôi như sau: khỉ vốn rất thích ăn hạt dẻ,
ăn bao nhiêu cũng không đủ, mỗi lần cho ăn chúng đều tranh giành cắn xé ầm ĩ.
Để đỡ tốn người chủ nghĩ ra cách chia phần cho chúng, mỗi con một ngày được
bảy hạt dẻ. Ông nói với chúng là buổi sáng cho ba hạt (tiêu tam), buổi chiều cho
bốn hạt (mộ tứ) chúng phản đối. Ông liền đổi lại, buổi sáng cho bốn hạt (triêu
tứ), buổi chiều cho ba hạt (mộ tam), chúng đồng ý ngay và rất thích thú. Nghĩa
của thành ngữ này đã được hiểu là:
+ Thủ đoạn, lừa đảo
+ Bản chất không đổi, dùng thủ pháp thay đổi danh mục để người khác mắc lừa

16
Nhóm 4 Ngữ cố định gốc Hán và cách thức Việt
hóa
+ Người thông minh thì khéo dùng thủ đoạn, kẻ ngu dốt thì không phân biệt
được phải trái.
Trong tiếng Hán hiện đại, người ta dùng thành ngữ này để chỉ người tráo
trở, lật lọng, lá mặt lá trái.
Còn từ điển giải thích thành ngữ gốc Hán thì giải thích là: kém cỏi không
có khả năng xem xét nên dễ tin theo trá thuật, dễ bị người khác đánh lừa.
Rõ ràng cùng một sự kiện có thể rút ra những nhận xét khác nhau, những bài
học khác nhau tùy theo góc độ quan sát và cộng thêm một chút cảm thụ chủ
quan nữa.
 Kiểu B3 gồm những thành ngữ so sánh với xu hướng chính là dùng sự vật
hiện tượng cụ thể để giải thích những khái niệm trừu tượng, tức hình
tượng hóa các khái niệm. Nghĩa của thành ngữ được rút ra từ các thuộc
tính của yếu tố dùng để so sánh. Chẳng hạn A là khái niệm hoặc sự vật, B
là sự vật hiện tượng dùng để so sánh.
A như B
tâm đao cát
dị phản chưởng
thân thủ túc
diện phương điền
nam thực hổ

Nghĩa của tổ hợp A như B được rút ra từ thuộc tính của B. Trong những
ví dụ trên có thể lần lượt hiểu là:
Đao cát (dao cắt)= rất đau
phản chưởng (trở bàn tay)= dễ dàng
thủ túc (tay chân)= gần gũi, gắn bó
điền (chữ điền)= vuông (kiểu chữ điền)
hổ (hổ thực)= ăn nhanh, nhiều

Mô hình cấu trúc kiểu thành ngữ này còn có các biến thể như sau:
(A) như B và A (như) B
- (A) như B
Hổ thêm dực, Ngư đắc thủy, ảnh tùy hình, đao phá thạch
17
Nhóm 4 Ngữ cố định gốc Hán và cách thức Việt
hóa
Nghĩa của tổ hợp được quy chiếu từ hình ảnh của
Hổ thêm dực ( hổ thêm cánh)= mạnh mẽ, hung dữ hơn
Ngư đắc thủy (cá gặp nước)= tự do, phóng túng
Đao phá thạch (dao chém đá)= đanh chắc, dứt khoát
- A (như) B
Phú quý--- phù vân
Nhất nhật--- tam thu
Quân thần---thủ túc
Cũng tương tự như các trường hợp trên, ở đây nghĩa của tổ hợp được suy
ra từ các thuộc tính của B. Chẳng hạn: phù vân (mây nổi)= cái không lâu bền,
vừa nổi lên đã có thể tan ngay trước một trận gió, phú quý (giàu có và sang
trọng) cũng giống như đám mây trôi nổi vừa có được lại mất ngay.
Tam thu (ba mùa thu, ba năm)= lâu, thời gian dài. Nhất nhật (một ngày)
tại sao lại như tam thu? Đó là cách nói để phản ánh về cảm giác, về tâm lý con
người chứ không phải là kiểu so sánh trong toán học.
Quân thần (vua tôi), thủ túc (tay chân), quan hệ giữa vua và bề tôi phải
gần gũi, gắn bó như ruột rà.
Vì thế tuy cấu tạo của thành ngữ có hình thức rõ ràng nhưng nếu không
có thêm một bước suy luận thì cũng không dễ gì nắm được nghĩa của chúng.
Nhận xét:
Các kiểu thành ngữ so sánh Hán Việt (gồm tỉ dụ và ẩn dụ) có số lượng ít
so với các loại khác (chiếm khoảng 8-10% tổng số), song về mặt nghĩa, loại này
tỏ ra phức tạp nhất, cách diễn đạt của chúng vừa sinh động bóng bẩy lại vừa súc
tích. Do không phải nhìn chữ để biết nghĩa mà phải suy luận nên rất khó hiểu
hoặc dễ bị hiểu lầm. Tuy nhiên có thể xem đây là loại thực sự có đặc trưng của
thành ngữ nếu theo quan niệm hẹp (nghĩa bóng bẩy).
Hầu hết các thành ngữ Hán Việt loại B đều có dạng cải biên, tức Việt hóa về
hình thức và trong nhiều trường hợp chúng được dùng song song:
Tái ông thất mã= ngựa Tái ông
Ngu công di sơn = Ngu công dời núi
Bất cộng đái thiên= không đội trời chung
18
Nhóm 4 Ngữ cố định gốc Hán và cách thức Việt
hóa
Riêng loại thành ngữ so sánh kiểu B3 (có thành tố như tham gia hoặc
không có như) gần giống với hàng loạt thành ngữ Việt có cấu trúc theo mô hình
tương tự: xấu như ma, đẹp như tiên, nhanh như sóc, chậm như rùa, trắng như
vôi, đỏ như son,... Tuy nhiên chúng ta không bao giờ nghĩ rằng chúng cũng là
thành ngữ vay mượn từ tiếng Hán. Vì không hề có cơ sở nào để đi đến kết luận
ấy. Ngay cả những thành ngữ cấu tạo hoàn toàn bằng các yếu tố gốc Hán như
xấu như ma, cũng không hề thấy trong tiếng Hán. Vả lại có một điều rất cần lưu
ý đó là hàm nghĩa văn hóa thể hiện thông qua ngôn ngữ. Chẳng hạn, trong tiếng
Hán, Lão hoàng ngu (con bò vàng già) là một từ tượng trưng chỉ những người
luôn luôn làm việc cần cù, chịu khó, có đóng góp lớn lao và không bao giờ khoe
khoang thành tích đó là một danh hiệu cao quý, cũng là một sự đánh giá rất cao
đối với con người. Vậy thì không lý gì lại có thành ngữ “ngu như bò” trong
tiếng Hán. Người Hán ví màu trắng với tuyết, màu đỏ với máu, chứ không có
trắng như vôi, đỏ như gấc,... Nhưng sự xuất hiện của yếu tố như trong thành ngữ
Việt khiến người ta nghĩ đến ảnh hưởng của thành ngữ Hán đối với thành ngữ
Việt về thủ pháp cấu thành.

6. Cấu trúc nội bộ của thành ngữ gốc Hán


Đặc điểm của thành ngữ gốc Hán
Thành ngữ gốc Hán có nguồn gốc phức tạp và cấu trúc rất đa dạng.Thế
nhưng vẫn có thể nhận ra một số nét cơ bản như đại đa số thành ngữ gốc Hán
đều có cấu tạo bốn tiếng (4 âm tiết) nhưng cũng có các thành ngữ 5 chữ hoặc 8
chữ nhưng rất ít. Tỷ lệ các thành ngữ 4 ữ thường chiếm đến 75%- 80%.
Ví dụ:
Công thành danh toại. (4 chữ)
功成名遂
Mã đáo thành công. (4 chữ)
馬到成功
Ví dụ các thành ngữ 5 chữ hoặc 8 chữ: “Vạn sự khởi đầu nan”, “Hổ phụ
sinh hổ tử”, “Phúc bất trùng lai, họa vô đơn chí”,...
19
Nhóm 4 Ngữ cố định gốc Hán và cách thức Việt
hóa
Dựa vào quan hệ ngữ âm, ngữ nghĩa hay ngữ pháp giữa các thành tố
trong nội bộ thành ngữ cũng có thể rút ra một số đặc điểm sau:
6.1. Đối và điệp
 Có một số thành ngữ được láy lại về âm hoặc về nghĩa gọi là điệp âm
hoặc điệp nghĩa.
知己知彼
Biết người biết ta (điệp âm: “biết”)
半信半疑
Bán tín bán nghi (điệp âm: “bán”)
Ngoài ra còn có thành ngữ bao gồm cả điệp âm và điệp nghĩa:

不 移 不 易
Bất di bất dịch (điệp âm: “bất”, điệp nghĩa từ “di, dịch”)

 Một số thành ngữ sử dụng phép đối:


改邪归正
Cải tà quy chính ( đối: tà >< chính)
口蛇心佛
Khẩu xà tâm phật ( đối: xà>< phật)

 Các thành ngữ sử dụng cả phép điệp và phép đối:


Bán tín bán nghi (điệp âm “bán”, đối: tín>< nghi)
 Phân tích thành ngữ theo cụm thành viên, mỗi cụm một vế, đọc theo nhịp
hai:
Chiêu hiền/ đãi sĩ (hai vế điệp nghĩa)
Mưu ma chước quỷ (hai vế điêp nghĩa)
Nam tôn/ nữ ti (hai vế đối nghĩa)
Cải tử/ hoàn sinh(hai vế đối nghĩa)

6.2 Sử dụng công cụ so sánh “như” 如


Công thức: “A như B”
20
Nhóm 4 Ngữ cố định gốc Hán và cách thức Việt
hóa
Ví dụ:
Đa nghi như Tào Tháo
Lương y như từ mẫu
Dụng binh như thần

7. Thành ngữ gốc Hán, xét về phương diện ngữ pháp


Căn cứ theo quan hệ ngữ pháp giữa các thành tố, giữa các vế trong thành
ngữ:
7.1. Thành ngữ có quan hệ hạn định, chi phối.
 Thành ngữ có cấu túc tương đương cụm động từ (động ngữ).

 Thành ngữ có cấu trúc tương đương cụm tính từ (tính ngữ)

 Thành ngữ có cấu trúc tương đương cụm danh từ (danh ngữ)

7.2. Thành ngữ có quan hệ đẳng lập


Thành ngữ có quan hệ đăng lập là loại thành ngữ mà các thành ngữ mà
các yếu tố tạo thành nó độc lập bình đẳng, không phụ thuộc vào nhau, vào vị trí
của các thành tố và các vế tương đối tự do.
 Ở cấp độ từ đơn

21
Nhóm 4 Ngữ cố định gốc Hán và cách thức Việt
hóa
 Ở cấp độ từ ghép

7.3. Thành ngữ có cấu trúc tương đương cấp độ của câu đơn

Lá / rụng về cội
C V

Người / chết để tiếng


C V

7.4. Thành ngữ có cấu trúc tương đương câu ghép

Rồng / bay phượng/ múa


C1 V1 C2 V2

Nước/ mất nhà/ tan


C1 V1 C2 V2

Thân/ bại danh/ liệt


C1 V1 C2 V2

 Kết luận : Việc phân tích cấu tạo của thành ngữ gốc Hán từ nhiều phía,
nhằm mục đích tìm ra bản chất của chúng cả về nghĩa lẫn tính năng và từ
đó có thể chi phối chúng trong khi chúng hoạt động. Khi dùng từ để tạo
ra những đơn vị lớn hơn chẳng hạn như đoản ngữ hoặc câu chẳng hạn,
điều kiện tối thiểu là phải biết nghĩa và khả năng hoạt động của từ ấy, tức
là phải biết chúng thuộc loại từ gì, có thể đứng ở vị trí nào trong cụm từ
hoặc trong câu. Đối với một ngữ cố định cũng vậy, nếu không biết nghĩa
cơ bản của nó khi kết hợp hay khi thay thế thì không thể nào vận dụng
được, nhất là khi đối với các ngữ cố định ngoại lai.

22

You might also like