You are on page 1of 14

LUẬT HÀNH CHÍNH 1

TỪ PHẠM PHÁP VI CẢNH ĐẾN HOÀN THIỆN


PHÁP LUẬT XỬ PHẠT VI PHẠM HÀNH CHÍNH
NGUYỄN HOÀNG VIỆT
Cục Quản lý xử lý vi phạm hành chính và theo dõi thi hành pháp luật, Bộ Tư pháp
Department of Management of Administrative Violations and Law Enforcement, Ministry of Justice
Email: vietnh@moj.gov.vn

Tóm tắt
Bài viết phân tích về khái niệm “vi phạm hành chính” qua các giai đoạn phát triển của pháp
luật về xử phạt vi phạm hành chính ở Việt Nam. Trên cơ sở đó, bài viết đề xuất một số kiến
nghị nhằm xác định rõ nội hàm và phạm vi của vi phạm hành chính.
Từ khóa: vi phạm hành chính, xử phạt vi phạm hành chính
Abstract
The article analyzes the concept of “administrative violations” through the development stages
of the law on sanctioning administrative violations in Vietnam. On that basis, the article makes
some proposals to clearly define the content and scope of administrative violations.
Keywords: administrative violations, administrative sanctions
Ngày nhận bài: 15/12/2021 Ngày duyệt đăng: 25/10/2022

1. Khái quát về phạm pháp vi cảnh


Trước khi Pháp lệnh Xử phạt vi phạm hành chính năm 1989 đưa ra
khái niệm “vi phạm hành chính”, trong hệ thống pháp luật về xử phạt vi phạm
hành chính ở nước ta chỉ có khái niệm “phạm pháp vi cảnh”. Khái niệm này
xuất hiện trong Điều 2 của Điều lệ về phạt vi cảnh được ban hành kèm theo
Nghị định số 143-CP ngày 27/5/1977 của Hội đồng Chính phủ. Theo đó:
“Những hành vi xâm phạm đến trật tự an toàn xã hội mà có tính chất đơn giản, rõ
ràng và hậu quả không nghiêm trọng, chưa đến mức truy cứu trách nhiệm hình sự hoặc
chưa đến mức xử phạt bằng các biện pháp hành chính khác là phạm pháp vi cảnh”.
1.1. Về hành vi vi phạm
a) Về loại hành vi và số lượng hành vi vi phạm
Theo quy định của Điều lệ về phạt vi cảnh, thì phạm pháp vi cảnh được
“nhóm lại” trong 15 loại hành vi xâm phạm đến trật tự an toàn xã hội (quy
định ở chương II, từ Điều 11 đến Điều 25 của Điều lệ về phạt vi cảnh). Chỉ
15 loại hành vi này mới coi là phạm pháp vi cảnh và bị xử lý theo những hình
thức quy định trong điều lệ này.1 Cụ thể là các nhóm hành vi sau đây: gây rối
trật tự công cộng; gây trở ngại cho sự yên tĩnh chung; gây trở ngại cho việc giữ gìn vệ
sinh chung; xâm phạm nếp sống văn minh; gây trở ngại cho trật tự an toàn giao thông
đường bộ; gây trở ngại cho trật tự an toàn giao thông đường thủy; gây hư hại đến các
công trình lợi ích công cộng; gây hư hại đến các công trình văn hóa nghệ thuật, những
di tích lịch sử, những khu danh lam thắng cảnh; xâm phạm đến tài nguyên rừng, thủy
sản; vi phạm điều lệ phòng cháy, chữa cháy; vi phạm các chế độ quản lý vũ khí, chất
1 Phần II Thông tư số 03-TT/BNV ngày 21/6/1977 của Bộ Nội vụ hướng dẫn thi hành Điều
lệ về phạt vi cảnh.
2 TẠP CHÍ KHOA HỌC PHÁP LÝ VIỆT NAM SỐ 12 (160)/2022

nổ, chất dễ cháy, chất độc; vi phạm các điều lệ quản lý hộ tịch, hộ khẩu; gian tham nhỏ
đối với tài sản xã hội chủ nghĩa, tài sản riêng của công dân; không giúp đỡ người thừa
hành công vụ cấp bách; cản trở người thừa hành công vụ2. Các phạm pháp vi cảnh
được liệt kê trong Điều lệ về phạt vi cảnh nêu trên có đặc điểm gần giống
các vi phạm hành chính được liệt kê trong Nghị định số 167/2013/NĐ-CP
ngày 12/11/2013 của Chính phủ về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh
vực an ninh, trật tự, an toàn xã hội.
Ngược lại, số lượng vi phạm hành chính được quy định trong các nghị
định của Chính phủ hiện nay rất lớn, bao gồm các hành vi vi phạm trên tất cả
các lĩnh vực của đời sống kinh tế - xã hội,3 chứ không chỉ các hành vi trong
lĩnh vực trật tự, an toàn xã hội như phạm pháp vi cảnh.
b) Về tính chất, mức độ của hành vi vi phạm
Nói chung, so với vi phạm hành chính thì phạm pháp vi cảnh là những
hành vi vi phạm có tính chất và mức độ ít nguy hiểm hơn. Những hành vi
tuy về hình thức có thể giống nhau, nhưng tính chất và mức độ nghiêm trọng
hơn, nếu phạt vi cảnh sẽ không thích đáng thì phải xử phạt vi phạm hành
chính hoặc truy cứu trách nhiệm hình sự, ví dụ:
Đối với hành vi buôn bán trái phép vé tàu, vé xe (quy định tại khoản 5
Điều 23 Điều lệ về phạt vi cảnh). Nếu chủ thể thực hiện hành vi đầu cơ, móc
ngoặc, buôn bán vé tàu, vé xe để trục lợi ở các ga, bến xe, cảng thì phải xem
xét từng trường hợp cụ thể, tùy theo tính chất phạm pháp mà phạt vi cảnh,
phạt hành chính, hoặc đề nghị truy tố trước Tòa án nếu việc phạm pháp có tổ
chức, là bọn đầu cơ làm ăn phi pháp (theo quy định tại điểm a khoản 7 phần I
Thông tư số 175-TT/PC ngày 21/9/1978 của Bộ Giao thông vận tải hướng
dẫn Điều lệ về phạt vi cảnh).
Khoản 1 Điều 11 Điều lệ về phạt vi cảnh quy định hành vi “đánh nhau
hoặc xúi giục người khác gây đánh nhau”. Cần hiểu trường hợp đánh nhau mang
tính chất làm rối trật tự công cộng ở một địa điểm nhỏ và trong một thời gian
ngắn và không gây ra thương tích gì đáng kể cho người thì coi là phạm pháp
vi cảnh. Nhưng nếu cố ý gây thương tích cho người khác như sứt đầu, vỡ
trán, v.v… hoặc do vô ý mà gây thương nặng, thành tật cho người khác hoặc
kéo bè đảng đông người đánh nhau liên tục ở địa bàn rộng lớn thì coi là tội
phạm hình sự và truy tố theo Điều 5 (điểm b) Sắc luật số 3 ngày 15/3/1976
của Chính phủ cách mạng lâm thời Cộng hoà miền Nam Việt Nam.4
Trong một số trường hợp, nếu tái phạm vi cảnh thì sẽ bị chuyển sang
xử phạt vi phạm hành chính, ví dụ: Đối với hành vi làm khó dễ cho chủ
hàng, cho hành khách để ăn đút lót trong việc chuyên chở hành khách, xếp
2 Điều 11 đến Điều 25 của Điều lệ về phạt vi cảnh.
3 Điều 24 Luật Xử lý vi phạm hành chính.
4 Phần II Thông tư số 03-TT/BNV ngày 21/6/1977 của Bộ Nội vụ hướng dẫn thi hành Điều
lệ về phạt vi cảnh.
LUẬT HÀNH CHÍNH 3

dỡ hàng hóa, hoặc lấy quá giá cước quy định (quy định tại khoản 7 Điều 23
Điều lệ về phạt vi cảnh), nếu là vi phạm lần đầu thì phạt vi cảnh. Nhưng
nếu tái phạm nhiều lần hoặc số tiền đã lấy quá quy định từ 10 đồng trở lên
thì phạt hành chính hoặc thi hành kỷ luật, phạt tiền, thu hồi giấy phép kinh
doanh (người làm vận tải cá thể) v.v… theo quy định trong các thể lệ quản
lý vận tải hiện hành (theo quy định tại điểm b khoản 7 phần I Thông tư số
175-TT/PC ngày 21/9/1978 của Bộ Giao thông vận tải hướng dẫn Điều lệ
về phạt vi cảnh).
1.2. Về chế tài xử lý
a) Các hình thức, biện pháp xử lý
Đối với chủ thể phạm pháp vi cảnh, theo quy định tại Điều 2 Điều lệ
về phạt vi cảnh ban hành kèm theo Nghị định số 143-CP (đã được sửa đổi,
bổ sung theo Nghị định số 200-HĐBT ngày 06/7/1985 của Hội đồng Bộ
trưởng), chỉ có 04 hình thức xử phạt được áp dụng để xử lý: cảnh cáo, phạt
tiền, phạt lao động công ích và phạt giam. Đối với việc xử lý tang vật, phương
tiện dùng vào việc vi phạm, mặc dù Điều 8 và Điều 28 Điều lệ về phạt vi
cảnh có nêu phải tịch thu nhưng lại không có quy định cụ thể coi đây là một
hình thức xử phạt.
Trong khi đó, đối với chủ thể vi phạm hành chính, các hình thức xử
phạt phong phú, đa dạng hơn, gồm có: phê bình;5 cảnh cáo; phạt tiền; trưng
mua toàn bộ hàng phạm pháp;6 tịch thu tang vật, phương tiện vi phạm hành
chính; thu hồi giấy phép;7 tước quyền sử dụng giấy phép, chứng chỉ hành
nghề có thời hạn hoặc đình chỉ hoạt động có thời hạn;8 trục xuất.9 Theo
khoản 1 Điều 21 Luật Xử lý vi phạm hành chính năm 2012 (được sửa đổi,
bổ sung năm 2020) (Luật Xử lý vi phạm hành chính) thì có 06 hình thức xử
phạt: cảnh cáo; phạt tiền; tước quyền sử dụng giấy phép, chứng chỉ hành nghề
có thời hạn; đình chỉ hoạt động có thời hạn; tịch thu tang vật vi phạm hành
chính, phương tiện được sử dụng để vi phạm hành chính; trục xuất. Bên cạnh
các hình thức xử phạt mang tính trừng phạt, răn đe, còn có các biện pháp
khắc phục hậu quả được áp dụng đối với chủ thể vi phạm nhằm khắc phục
những thiệt hại do vi phạm hành chính gây ra.10
5 Khoản 2 Điều 44, Điều 45 Quyết định số 200-NQ/TVQH ngày 18/01/1966 của Ủy ban
Thường vụ Quốc hội ấn định thuế công thương nghiệp đối với các hợp tác xã, tổ chức hợp
tác và hộ riêng lẻ kinh doanh công thương nghiệp.
6 Khoản 2 Điều 4 Nghị định số 46-HĐBT ngày 10/5/1983 của Hội đồng Bộ trưởng quy định việc
xử lý bằng biện pháp hành chính các hành vi đầu cơ, buôn lậu, làm hàng giả, kinh doanh trái phép.
7 Điểm b khoản 2 mục I phần II Thông tư số 3984-LN/KL ngày 15/10/1977 của Bộ Lâm
nghiệp hướng dẫn việc xử phạt hành chính đối với các vi phạm luật lệ về bảo vệ rừng; Khoản
2 Điều 44 mới Pháp lệnh số 10-LCT/HĐNN7 của Hội đồng Nhà nước ngày 26/02/1983
sửa đổi một số điều về thuế công thương nghiệp.
8 Điểm c khoản 1 Điều 21 Luật Xử lý vi phạm hành chính.
9 Điểm đ khoản 1 Điều 21 Luật Xử lý vi phạm hành chính.
10 Khoản 1 Điều 28 Luật Xử lý vi phạm hành chính.
4 TẠP CHÍ KHOA HỌC PHÁP LÝ VIỆT NAM SỐ 12 (160)/2022

b) Nguyên tắc áp dụng các hình thức xử phạt


Nghiên cứu các quy định về nguyên tắc xử lý đối với những phạm pháp
vi cảnh, có thể thấy rằng, trong phạt vi cảnh, việc áp dụng các chế tài có vẻ
“cứng nhắc”, không linh hoạt như xử phạt vi phạm hành chính. Điều lệ về
phạt vi cảnh ban hành kèm theo Nghị định số 143-CP và các văn bản hướng
dẫn thi hành đã quy định nguyên tắc trong áp dụng các hình thức xử phạt.
Theo đó, mỗi người phạm pháp vi cảnh chỉ có thể bị xử phạt bằng 01 trong
04 hình thức xử phạt: cảnh cáo, phạt tiền, phạt lao động công ích và phạt
giam. Nếu người phạm pháp có thái độ ngang bướng, không chịu chấp hành
hình thức xử lý thì có thể bị chuyển từ hình thức phạt thấp sang hình thức
phạt cao (theo điểm a mục III Thông tư số 03-TT/BNV ngày 21/6/1977
của Bộ Nội vụ hướng dẫn thi hành Điều lệ về phạt vi cảnh).11
Qua nghiên cứu các quy định pháp luật nêu trên, có thể thấy sự khác biệt
trong nguyên tắc áp dụng các hình thức xử phạt giữa xử phạt vi phạm hành
chính và phạt vi cảnh. Đối với xử phạt vi phạm hành chính, nhà làm luật quy
định nhiều hình thức xử phạt có thể được áp dụng đối với 01 vi phạm hành
chính, ví dụ: Theo quy định tại điểm b khoản 5 mục II phần III Thông tư số
3984-LN/KL ngày 15/10/1977 của Bộ Lâm nghiệp hướng dẫn việc xử phạt
hành chính đối với các vi phạm luật lệ về bảo vệ rừng, bên cạnh việc phạt
tiền, còn có hình thức xử phạt tịch thu tang vật và tịch thu dụng cụ, phương
tiện dùng để thực hiện hành vi vi phạm “chặt cây lấy lâm sản trái phép thuộc các
loại thực vật quý, hiếm”.
Đến Luật Xử lý vi phạm hành chính, cùng với sự đa dạng, phong phú
của các hình thức xử phạt, thì việc áp dụng các hình thức xử phạt cũng được
quy định một cách linh hoạt. Theo đó, nhiều hình thức xử phạt có thể được
áp dụng đối với 01 vi phạm hành chính (hình thức xử phạt chính, hình thức
xử phạt bổ sung), thậm chí, nếu cần thiết, hành vi vi phạm còn có thể bị áp
dụng thêm các biện pháp khắc phục hậu quả (chủ thể phạm pháp vi cảnh
không bị áp dụng biện pháp khắc phục hậu quả kèm theo hình thức xử phạt
như xử phạt vi phạm hành chính).12
c) Về việc tổng hợp mức phạt tiền
Điều lệ về phạt vi cảnh có quy định về việc tổng hợp mức phạt tiền
trong trường hợp một người thực hiện nhiều hành vi vi phạm. Theo quy
định tại Điều 3 Điều lệ về phạt vi cảnh, trường hợp “một người cùng một lúc mà
phạm vào nhiều điều khoản quy định trong chương II của bản Điều lệ này, thì bị xét
phạt riêng về từng hành vi, nhưng tổng hợp lại cũng không bị phạt quá mức tối đa nói
trong Điều 2 (không quá 100 đồng13)”.
11 Điều 5 Điều lệ xử phạt vi cảnh quy định: Người bị phạt tiền mà có thái độ ngang bướng
không chịu nộp phạt thì có thể bị chuyển sang phạt lao động công ích hoặc phạt giam; nếu
bị phạt lao động công ích mà không chấp hành thì có thể bị chuyển sang phạt giam.
12 Khoản 3 Điều 21 Luật Xử lý vi phạm hành chính.
13 Điều 2 Điều lệ về phạt vi cảnh ban hành kèm theo Nghị định số 143-CP (đã được sửa đổi,
bổ sung theo Nghị định số 200-HĐBT ngày 06/7/1985 của Hội đồng Bộ trưởng).
LUẬT HÀNH CHÍNH 5

Luật Xử lý vi phạm hành chính không có điều khoản trực tiếp quy
định, tuy nhiên, vấn đề này được quy định một cách gián tiếp thông qua
quy định về nguyên tắc xác định và phân định thẩm quyền xử phạt vi phạm
hành chính. Theo quy định tại các điểm a và b khoản 4 Điều 52 Luật Xử lý
vi phạm hành chính, trường hợp xử phạt một người thực hiện nhiều hành
vi vi phạm thì thẩm quyền xử phạt vi phạm hành chính được xác định theo
nguyên tắc sau đây:
- Nếu hình thức, mức xử phạt, trị giá tang vật, phương tiện vi phạm
hành chính bị tịch thu, biện pháp khắc phục hậu quả được quy định đối với
từng hành vi đều thuộc thẩm quyền của người xử phạt vi phạm hành chính
thì thẩm quyền xử phạt vẫn thuộc người đó.
- Nếu hình thức, mức xử phạt, trị giá tang vật, phương tiện vi phạm
hành chính bị tịch thu, biện pháp khắc phục hậu quả được quy định đối
với một trong các hành vi vượt quá thẩm quyền của người xử phạt vi phạm
hành chính thì người đó phải chuyển vụ vi phạm đến cấp có thẩm quyền
xử phạt.
Căn cứ các quy định pháp luật nêu trên, có thể thấy, quy định về việc
tổng hợp mức phạt tiền trong trường hợp một người thực hiện nhiều hành
vi vi phạm có sự khác biệt giữa xử phạt vi phạm hành chính và phạt vi cảnh.
Nếu ở phạt vi cảnh, dù có thực hiện bao nhiêu hành vi vi phạm đi chăng nữa
thì khi tổng hợp tiền phạt đối với tất cả các hành vi, chủ thể vi phạm cũng chỉ
bị phạt tiền không quá mức phạt tiền tối đa quy định tại Điều 2 Điều lệ về
phạt vi cảnh. Trong khi đó, ở xử phạt vi phạm hành chính, chủ thể vi phạm
sẽ bị tổng hợp mức phạt tiền với tất cả các hành vi và số tiền sau khi tổng hợp
có trường hợp hoàn toàn có thể vượt quá mức tiền phạt tối đa quy định tại
Điều 24 của Luật Xử lý vi phạm hành chính.
1.3. Về thẩm quyền xử phạt
a) Về số lượng chức danh có thẩm quyền xử phạt
Do phạm pháp vi cảnh chỉ giới hạn trong các hành vi xâm phạm đến
trật tự, an toàn xã hội nên số lượng chức danh có thẩm quyền phạt vi cảnh
hạn chế hơn rất nhiều so với các chức danh có thẩm quyền xử phạt vi phạm
hành chính, cụ thể:
- Theo quy định tại các điều từ Điều 26 đến Điều 29 Điều lệ về phạt vi
cảnh thì chỉ có các chức danh thuộc các lực lượng công an nhân dân, kiểm lâm,
thủy sản, thương nghiệp, y tế, giao thông vận tải có thẩm quyền phạt vi cảnh.
- Theo quy định tại các điều từ Điều 38 đến Điều 51 Luật Xử lý vi phạm
hành chính, thì có tới 183 chức danh thuộc các lực lượng có thẩm quyền xử
phạt vi phạm hành chính (chưa kể các chức danh có chức năng, nhiệm vụ
thanh tra chuyên ngành do Chính phủ quy định14).
14 Điều 46 Luật Xử lý vi phạm hành chính.
6 TẠP CHÍ KHOA HỌC PHÁP LÝ VIỆT NAM SỐ 12 (160)/2022

b) Về thẩm quyền xử phạt của các chức danh


Đối với phạt vi cảnh, theo Điều lệ về phạt vi cảnh, ngoài hình thức xử
phạt cảnh cáo và phạt tiền được tất cả các chức danh có thẩm quyền xử phạt
áp dụng, thì đối với hình thức xử phạt lao động công ích và phạt giam, chỉ
có các chức danh thuộc lực lượng công an nhân dân được quyền áp dụng.15
Đối với xử phạt vi phạm hành chính, để đáp ứng yêu cầu đấu tranh
phòng, chống vi phạm hành chính trên các lĩnh vực quản lý nhà nước, Luật
Xử lý vi phạm hành chính quy định hầu hết các chức danh thuộc các lực lượng
có thẩm quyền xử phạt đều được áp dụng các hình thức xử phạt, trừ hình thức
xử phạt trục xuất thì chỉ có giám đốc công an cấp tỉnh và Cục trưởng Cục
Quản lý xuất nhập cảnh thuộc Bộ Công an được quyền áp dụng.16
2. Khái quát về vi phạm hành chính
Hiện nay, “vi phạm hành chính” được quy định tại khoản 1 Điều 2 Luật
Xử lý vi phạm hành chính, theo đó: “Vi phạm hành chính là hành vi có lỗi do
cá nhân, tổ chức thực hiện, vi phạm quy định của pháp luật về quản lý nhà nước mà
không phải là tội phạm và theo quy định của pháp luật phải bị xử phạt vi phạm hành
chính”. Nghiên cứu khái niệm về vi phạm hành chính nêu trên, chúng ta có
thể dễ dàng nhận ra các dấu hiệu cơ bản sau:
Dấu hiệu thứ nhất, đó là dấu hiệu hành vi. Vi phạm pháp luật nói chung
và vi phạm hành chính nói riêng, trước hết phải là hành vi của chủ thể (của cá
nhân, tổ chức) gây nguy hiểm hoặc có khả năng gây nguy hiểm cho xã hội.
Biểu hiện của hành vi có thể dưới dạng hành động hoặc không hành động.
Dấu hiệu thứ hai, đó là tính trái pháp luật của hành vi. Vi phạm hành
chính không những phải là hành vi gây nguy hiểm hoặc có khả năng gây
nguy hiểm cho xã hội của các chủ thể mà hành vi đó còn phải trái pháp luật
hành chính, xâm phạm trật tự quản lý hành chính. Hành vi trái pháp luật
hành chính là hành vi không phù hợp với những quy định trong các văn bản
quy phạm pháp luật như: vi phạm điều cấm của pháp luật,vi phạm nghĩa vụ,
trách nhiệm mà pháp luật quy định.
Dấu hiệu thứ ba, đó là dấu hiệu lỗi của chủ thể thực hiện hành vi trái pháp
luật hành chính. Dấu hiệu trái pháp luật là dấu hiệu về mặt hình thức (bên
ngoài) của hành vi. Để xác định vi phạm pháp luật hành chính cần xác định cả
mặt chủ quan của hành vi, nghĩa là xác định lỗi của chủ thể tại thời điểm thực
hiện hành vi pháp luật. Vi phạm hành chính là hành vi được thực hiện bởi lỗi
vô ý hoặc cố ý của chủ thể vi phạm hành chính. Nếu một hành vi trái pháp
luật hành chính được chủ thể thực hiện trong điều kiện và hoàn cảnh khách
quan (kể cả trường hợp bị buộc thực hiện mà không có tự do ý chí), không
cố ý, không vô ý hoặc không thể nhận thức được, từ đó không thể lựa chọn
15 Điều 26 đến Điều 29 Điều lệ về phạt vi cảnh.
16 Điểm đ khoản 5 và khoản 7 Điều 39 Luật Xử lý vi phạm hành chính.
LUẬT HÀNH CHÍNH 7

được cách xử sự phù hợp với quy định pháp luật thì hành vi đó không bị coi
là hành vi có lỗi, không bị coi là vi phạm pháp luật hành chính.
Dấu hiệu thứ tư, đó là dấu hiệu chủ thể của vi phạm hành chính. Chủ thể
của vi phạm hành chính là cá nhân, tổ chức có năng lực trách nhiệm hành
chính theo quy định của pháp luật. Những hành vi trái pháp luật hành chính
nhưng được thực hiện bởi các chủ thể không có hoặc chưa có năng lực trách
nhiệm hành chính theo quy định của pháp luật thì không bị coi là hành vi vi
phạm pháp luật hành chính.
Bốn dấu hiệu cơ bản trên đây là cơ sở để phân biệt vi phạm hành chính
với các dạng vi phạm pháp luật khác mà chủ yếu là vi phạm hình sự.
Điều 8 Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) (Bộ luật
Hình sự) định nghĩa tội phạm: “là hành vi nguy hiểm cho xã hội được quy định trong
Bộ luật hình sự, do người có năng lực trách nhiệm hình sự hoặc pháp nhân thương mại
thực hiện một cách cố ý hoặc vô ý, xâm phạm độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn
lãnh thổ Tổ quốc, xâm phạm chế độ chính trị, chế độ kinh tế, nền văn hóa, quốc phòng,
an ninh, trật tự, an toàn xã hội, quyền, lợi ích hợp pháp của tổ chức, xâm phạm quyền
con người, quyền, lợi ích hợp pháp của công dân, xâm phạm những lĩnh vực khác của trật
tự pháp luật xã hội chủ nghĩa mà theo quy định của Bộ luật này phải bị xử lý hình sự”.
Về mặt lý thuyết, để chỉ ra phạm vi giới hạn xác định vi phạm hành
chính, cần căn cứ vào khách thể của loại vi phạm pháp luật này. Dấu hiệu
khách thể để nhận biết về vi phạm hành chính là hành vi vi phạm này đã xâm
hại đến trật tự quản lý hành chính nhà nước, được các quy phạm pháp luật
về quản lý hành chính nhà nước quy định và bảo vệ17. Đó là các hành vi trái
với các quy định của pháp luật về quản lý nhà nước trên các lĩnh vực khác
nhau của đời sống xã hội như: Quy tắc về giao thông đường bộ, đường sắt;
an ninh trật tự, an toàn xã hội; phòng, chống tệ nạn xã hội; quản lý đất đai,
xây dựng… Tuy nhiên, trên thực tế, trong một số trường hợp, việc xác định
hành vi có xâm hại đến trật tự quản lý hành chính nhà nước hay không không
hề đơn giản. Bởi lẽ, khách thể của vi phạm hành chính và tội phạm có những
điểm giao thoa, tương đồng. Các tiêu chí cụ thể phân biệt và xác định ranh
giới vi phạm hành chính và tội phạm như sau:
Thứ nhất, mặt khách quan: Xét về mức độ nguy hiểm cho xã hội của
hành vi, vi phạm hành chính có mức độ nguy hiểm thấp hơn tội phạm hình
sự (đây là dấu hiệu cơ bản nhất). Các căn cứ đánh giá mức độ nguy hiểm cho
xã hội của vi phạm hành chính và tội phạm bao gồm:
- Về mức độ thiệt hại: Đối với một số loại tội phạm, Bộ luật Hình sự
quy định mức độ gây thiệt hại cho xã hội của hành vi. Mức độ gây thiệt hại
biểu hiện dưới các hình thức khác nhau như: giá trị tài sản bị xâm hại, giá trị
17 Việc khoản 1 Điều 2 Luật Xử lý vi phạm hành chính xem trật tự “quản lý nhà nước” (do các quy phạm
pháp luật về quản lý nhà nước quy định và bảo vệ) là khách thể của vi phạm hành chính cũng chưa
hoàn toàn chính xác. Vấn đề này sẽ được nêu cụ thể tại mục 3.1 phần III của bài viết này.
8 TẠP CHÍ KHOA HỌC PHÁP LÝ VIỆT NAM SỐ 12 (160)/2022

hàng hóa vi phạm, mức độ thương tật… Căn cứ vào các dấu hiệu này, có thể
phân biệt được ranh giới giữa vi phạm hành chính và tội phạm. Ví dụ: Đối
với hành vi lừa đảo chiếm đoạt tài sản, nếu tài sản có giá trị từ 2.000.000 đồng
trở lên thì bị truy cứu trách nhiệm hình sự theo quy định tại Điều 174 Bộ luật
Hình sự; nếu tài sản có giá trị dưới 2.000.000 đồng (ít nghiêm trọng hơn) thì
bị xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực an ninh, trật tự, an toàn xã hội
theo quy định tại điểm c khoản 2 Điều 15 Nghị định số 167/2013/NĐ-CP.
Qua ví dụ trên có thể thấy, hành vi lừa đảo chiếm đoạt tài sản (có giá trị
dưới 2.000.000 đồng) xâm hại trật tự quản lý trật tự quản lý hành chính nhà
nước về an ninh, trật tự, an toàn xã hội do tính nguy hiểm cho xã hội của
hành vi này là không đáng kể nên chỉ bị xử phạt vi phạm hành chính. Trong
khi đó, đối với hành vi lừa đảo chiếm đoạt tài sản (có giá trị từ 2.000.000 đồng
trở lên) do mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi là nghiêm trọng, mức
độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi là đáng kể nên các nhà làm luật đặt ra
yêu cầu phải “hình sự hoá” đối với hành vi vi phạm này.
- Số lần vi phạm: Nhiều trường hợp bị coi là tội phạm khi đã bị xử phạt
vi phạm hành chính hoặc đã bị kết án về hành vi đã thực hiện (hoặc các hành
vi khác có tính chất tương tự). Hiện nay, theo quy định của Bộ luật Hình sự,
có 75 tội có cấu thành “đã bị xử phạt vi phạm hành chính về hành vi này mà còn
vi phạm”. Trong những trường hợp này, nếu chỉ đánh giá về mặt hành vi thì
khó xác định một cách chính xác đó là tội phạm hay vi phạm hành chính mà
phải căn cứ vào dấu hiệu số lần thực hiện hành vi vi phạm.
Trở lại với ví dụ về hành vi lừa đảo chiếm đoạt tài sản nêu trên, theo quy
định tại điểm a và điểm b khoản 1 Điều 174 Bộ luật Hình sự, người đã bị xử
phạt vi phạm hành chính về hành vi lừa đảo chiếm đoạt tài sản hoặc đã bị kết
án về tội này hoặc về một trong các tội liên quan đến hành vi chiếm đoạt tài
sản quy định tại các điều 168 (tội cưới tài sản), 169 (tội bắt cóc nhằm chiếm
đoạt tài sản), 170 (tội cưỡng đoạt tài sản)… của Bộ luật này, chưa được xóa án
tích mà còn vi phạm thì sẽ bị truy cứu trách nhiệm hình sự, không phụ thuộc
vào trị giá tài sản bị chiếm đoạt.
- Công cụ, phương tiện, thủ đoạn thực hiện hành vi vi phạm. Đây cũng
được coi là căn cứ để đánh giá mức độ nguy hiểm của hành vi vi phạm. Tiếp
tục với ví dụ về hành vi lừa đảo chiếm đoạt tài sản nêu trên: Theo quy định
tại điểm e khoản 2 Điều 174 Bộ luật Hình sự, hành vi lừa đảo chiếm đoạt tài
sản nhưng nếu thuộc trường hợp “dùng thủ đoạn xảo quyệt” thì sẽ bị truy cứu
trách nhiệm hình sự mà không phụ thuộc vào trị giá tài sản bị chiếm đoạt.
Thứ hai, mặt chủ quan: Do tính chất nguy hiểm cho xã hội của hành vi
của từng trường hợp lỗi là khác nhau, hơn nữa, tội phạm là loại vi phạm pháp
luật bị áp dụng chế tài nặng nhất nên tại Điều 10 và Điều 11 Bộ luật Hình sự
quy định 04 hình thức lỗi của chủ thể để giúp giải quyết chính xác các vụ án
LUẬT HÀNH CHÍNH 9

hình sự: cố ý trực tiếp; cố ý gián tiếp; vô ý vì quá tự tin; vô ý do cẩu thả. Vi
phạm hành chính chỉ quy định hai hình thức lỗi là cố ý và vô ý, không có sự
phân biệt cố ý trực tiếp hay gián tiếp, vô ý vì quá tự tin hay do cẩu thả.
Thứ ba, chủ thể: Chủ thể thực hiện vi phạm hành chính bao gồm cá
nhân và tổ chức; chủ thể thực hiện hành vi phạm tội là cá nhân và pháp nhân
thương mại.
Thứ tư, khách thể: Có ý kiến cho rằng, khách thể của vi phạm hành
chính và tội phạm được mô tả như hai vòng tròn giao nhau, dù phạm vi giao
nhau là khá lớn nhưng vẫn tồn tại những quan hệ xã hội chỉ có thể là vi phạm
hành chính, dù có vi phạm nhiều lần cũng không chuyển hóa thành tội phạm
(ví dụ, hành vi tiểu tiện nơi công cộng, điều khiển mô tô, xe máy không đội
mũ bảo hiểm…), có những hành vi vi phạm pháp luật chỉ có thể là tội phạm
chứ không bao giờ là vi phạm hành chính, dù có gây hậu quả hay chưa (ví dụ,
hành vi giết người, hiếp dâm…).18
3. Hoàn thiện khái niệm vi phạm hành chính và xử phạt vi phạm
hành chính trong Luật Xử lý vi phạm hành chính
3.1. Hoàn thiện khái niệm vi phạm hành chính
Mặc dù khái niệm vi phạm hành chính đã được “luật hóa” chính thức
tại Luật Xử lý vi phạm hành chính như đã nêu trên, tuy nhiên, về mặt lý luận,
chúng tôi cho rằng, định nghĩa về khái niệm này vẫn còn nhiều điểm chưa thực
sự phù hợp, cần tiếp tục được nghiên cứu sửa đổi, bổ sung theo hướng sau:
Thứ nhất, về mặt khách thể:
Khách thể của vi phạm pháp luật là những quan hệ xã hội được các quy
định pháp luật bảo vệ nhưng bị hành vi vi phạm pháp luật xâm hại. Khách thể
của vi phạm hành chính là những quan hệ xã hội được các quy phạm pháp
luật hành chính bảo vệ nhưng bị hành vi vi phạm hành chính xâm hại. Đó
chính là trật tự quản lý hành chính được nhà nước bảo đảm. Như vậy, khách
thể của vi phạm hành chính phải là những quan hệ xã hội được các quy phạm
pháp luật hành chính bảo vệ chứ không thể là các “quy định của pháp luật về
quản lý nhà nước” như định nghĩa tại khoản 1 Điều 2 Luật Xử lý vi phạm hành
chính. Việc mô tả vi phạm hành chính là sự “vi phạm quy định của pháp luật
về quản lý nhà nước” như định nghĩa tại khoản 1 Điều 2 Luật Xử lý vi phạm
hành chính thực chất chỉ khẳng định tính trái luật của hành vi chứ chưa thể
khẳng định được chính xác khách thể của vi phạm hành chính.
Bên cạnh đó, việc Luật Xử lý vi phạm hành chính coi trật tự “quản lý
nhà nước” (do các quy phạm pháp luật về quản lý nhà nước quy định) là khách
thể của vi phạm hành chính cũng chưa hoàn toàn chính xác. Bởi vì, quản lý
nhà nước có nội hàm rất rộng, đó là hoạt động của Nhà nước trên tất cả các
18 Nguyễn Thị Thiện Trí, “Góp ý dự thảo Luật Xử lý vi phạm hành chính”, Tạp chí Khoa học
pháp lý, số 2, năm 2012.
10 TẠP CHÍ KHOA HỌC PHÁP LÝ VIỆT NAM SỐ 12 (160)/2022

lĩnh vực lập pháp, hành pháp, tư pháp. Quản lý nhà nước trong lĩnh vực hành
pháp là quản lý hành chính nhà nước19. Việc đồng nhất khách thể của vi phạm
hành chính với trật tự quản lý nhà nước dễ tạo ra sự lúng túng khi tiếp cận
khái niệm khoa học, bởi suy cho cùng, tất cả các ngành luật đều bảo vệ trật tự
quản lý nhà nước20. Do vậy, chúng tôi cho rằng, khách thể của vi phạm hành
chính chỉ nên giới hạn trong trật tự quản lý hành chính nhà nước (được các
quy phạm pháp luật về quản lý hành chính nhà nước quy định và bảo vệ). Có
lẽ chính vì nhận thấy sự bất cập này mà tại Nghị định số 81/2013/NĐ-CP
ngày 19/7/2013 của Chính phủ quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành Luật
Xử lý vi phạm hành chính, các nhà làm luật đã sử dụng thuật ngữ “trật tự quản
lý hành chính nhà nước” thay cho trật tự “quản lý nhà nước” được nêu tại khoản
1 Điều 2 của Luật Xử lý vi phạm hành chính. Điều này có nghĩa là, thuật ngữ
“quản lý nhà nước” được hiểu theo nghĩa hẹp, đồng nghĩa với “hành chính nhà
nước” hay hoạt động “chấp hành - điều hành”.21
Thứ hai, về trách nhiệm hành chính:
Khoản 1 Điều 2 Luật Xử lý vi phạm hành chính mô tả một trong những
dấu hiệu của vi phạm hành chính đó là phải bị xử phạt vi phạm hành chính,
tức là bị áp dụng các hình thức xử phạt theo quy định tại khoản 1 Điều 21
của Luật (cảnh cáo; phạt tiền; tước quyền sử dụng giấy phép, chứng chỉ hành
nghề có thời hạn hoặc đình chỉ hoạt động có thời hạn; tịch thu tang vật vi
phạm hành chính, phương tiện được sử dụng để vi phạm hành chính; trục
xuất). Việc khẳng định vi phạm hành chính phải bị xử phạt vi phạm hành
chính là không hoàn toàn chính xác về mặt khoa học, bởi vì, trách nhiệm
hành chính không phải chỉ là việc phải gánh chịu những hình thức xử phạt
mang tính trừng phạt, răn đe mà còn bao gồm cả việc buộc phải thực hiện các
biện pháp khắc phục hậu quả nhằm khôi phục lại trật tự quản lý hành chính
nhà nước do vi phạm hành chính gây ra.
Thứ ba, về mặt kỹ thuật định nghĩa:
Khoản 1 Điều 2 Luật Xử lý vi phạm hành chính quy định việc xác định
vi phạm hành chính được thực hiện theo phương pháp loại trừ: “không phải là
tội phạm”. Việc định nghĩa theo phương pháp loại trừ để khoanh vùng đâu là
vi phạm hành chính khiến cho việc xác định vi phạm hành chính mất đi tính
độc lập, bị phụ thuộc vào tội phạm, dễ dẫn đến cách hiểu rằng: Hành vi nào
19 Trường Đại học Luật Hà Nội, Trần Minh Hương (chủ biên), Giáo trình Luật Hành chính Việt
Nam, Nxb. Công an nhân dân, năm 2009, tr. 11-12.
20 Đinh Phan Quỳnh, “Bàn thêm về khái niệm vi phạm hành chính”, Tạp chí Luật sư Việt Nam,
số 4, năm 2016.
21 Điểm a khoản 2 Điều 2 Nghị định số 81/2013/NĐ-CP (được sửa đổi, bổ sung bởi Nghị
định số 97/2017/NĐ-CP) quy định một trong những yêu cầu của việc quy định hình thức
xử phạt, mức xử phạt đối với từng vi phạm hành chính là phải căn cứ vào “Tính chất, mức độ
xâm hại trật tự quản lý hành chính nhà nước của hành vi vi phạm…”.
Điểm b khoản 3 Điều 2 Nghị định số 81/2013/NĐ-CP quy định một trong những yêu cầu
khi quy định biện pháp khắc phục hậu quả đối với từng vi phạm hành chính là phải: “Đáp ứng
yêu cầu khôi phục lại trật tự quản lý hành chính nhà nước do vi phạm hành chính gây ra”.
LUẬT HÀNH CHÍNH 11

không phải là tội phạm được quy định tại Bộ luật Hình sự thì sẽ là vi phạm
hành chính, hay nói cách khác, khách thể của vi phạm hành chính và khách
thể của tội phạm là một, chỉ khác nhau ở tính chất, mức độ nguy hiểm cho
xã hội của hành vi mà thôi. Hơn nữa, theo quan điểm của một số nhà nghiên
cứu thì “không nên định nghĩa khái niệm của ngành luật này thông qua khái niệm
của một ngành luật khác”.22
Trên cơ sở phân tích nêu trên, chúng tôi đề xuất sửa đổi khoản 1 Điều
2 Xử lý vi phạm hành chính để định nghĩa về khái niệm vi phạm hành chính
như sau: “Vi phạm hành chính là hành vi trái pháp luật, do cá nhân, tổ chức có năng
lực trách nhiệm hành chính thực hiện với lỗi cố ý hoặc vô ý, xâm phạm trật tự quản lý
hành chính nhà nước và theo quy định của pháp luật phải chịu trách nhiệm hành chính”.
3.2. Hoàn thiện khái niệm xử phạt vi phạm hành chính
Căn cứ quy định về xử phạt vi phạm hành chính tại khoản 2 Điều 2 Luật
Xử lý vi phạm hành chính có thể thấy, nội hàm khái niệm này bao gồm: việc
áp dụng hình thức xử phạt và việc áp dụng biện pháp khắc phục hậu quả đối
với chủ thể vi phạm.
Với định nghĩa này, chúng ta thấy rằng, dường như nhà làm luật muốn
quy định xử phạt vi phạm hành chính được hiểu theo nghĩa rộng: không chỉ
là việc áp dụng các hình thức xử phạt mà còn bao gồm cả việc áp dụng các
biện pháp khắc phục hậu quả; việc xử phạt vi phạm hành chính không chỉ
được biểu hiện dưới hình thức ban hành quyết định xử phạt vi phạm hành
chính mà còn có thể được biểu hiện dưới hình thức ban hành các quyết định
khác nhằm áp dụng một cách độc lập hình thức xử phạt tịch thu tang vật,
phương tiện vi phạm hành chính và/ hoặc các biện pháp khắc phục hậu quả
trong trường hợp không ra quyết định xử phạt vi phạm hành chính.23
Tuy nhiên, nếu căn cứ vào một số quy định khác trong Luật Xử lý vi
phạm hành chính thì lại thấy rằng, xử phạt vi phạm hành chính được hiểu
theo nghĩa hẹp hơn, ví dụ quy định tại khoản 1 Điều 7 đạo luật này quy định
về thời hạn được coi là chưa bị xử phạt vi phạm hành chính: “Cá nhân, tổ chức
bị xử phạt vi phạm hành chính, nếu trong thời hạn 06 tháng, kể từ ngày chấp hành
xong quyết định xử phạt cảnh cáo hoặc 01 năm, kể từ ngày chấp hành xong quyết
định xử phạt hành chính khác hoặc từ ngày hết thời hiệu thi hành quyết định xử phạt
vi phạm hành chính mà không tái phạm thì được coi là chưa bị xử phạt vi phạm hành
chính”. Theo quy định này thì xử phạt vi phạm hành chính được hiểu chỉ là
việc áp dụng các hình thức xử phạt và các hình thức xử phạt phải được thể
hiện trong các quyết định xử phạt vi phạm hành chính. Như vậy, xử phạt vi
phạm hành chính sẽ không bao gồm việc áp dụng (độc lập) các biện pháp
khắc phục hậu quả và thậm chí không bao gồm cả việc áp dụng hình thức
22 Nguyễn Cửu Việt, Giáo trình Luật Hành chính Việt Nam, Nxb. Chính trị quốc gia, 2013, tr. 496.
23 Điều 65 Luật Xử lý vi phạm hành chính quy định những trường hợp không ra quyết định xử
phạt vi phạm hành chính.
12 TẠP CHÍ KHOA HỌC PHÁP LÝ VIỆT NAM SỐ 12 (160)/2022

xử phạt tịch thu tang vật, phương tiện vi phạm hành chính trong trường hợp
không ban hành quyết định xử phạt vi phạm hành chính theo quy định tại
khoản 2 Điều 65 Luật Xử lý vi phạm hành chính: “Đối với trường hợp quy định
tại các điểm a, b, c và d khoản 1 Điều này, người có thẩm quyền không ra quyết định
xử phạt vi phạm hành chính nhưng có thể ra quyết định tịch thu sung vào ngân sách nhà
nước hoặc tiêu hủy tang vật vi phạm hành chính thuộc loại cấm lưu hành và áp dụng
biện pháp khắc phục hậu quả quy định tại khoản 1 Điều 28 của Luật này”.
Điều này dẫn đến sự không thống nhất ngay trong nội tại Luật Xử lý vi
phạm hành chính, cụ thể là: Trường hợp chủ thể thực hiện hành vi vi phạm
nhưng vì một lý do nào đó (vụ việc hết thời hiệu xử phạt, quá thời hạn ra
quyết định xử phạt…), người có thẩm quyền xử phạt không thể ra quyết
định xử phạt vi phạm hành chính để áp dụng các hình thức xử phạt mà chỉ
có thể ra quyết định tịch thu tang vật vi phạm hành chính và/ hoặc áp dụng
biện pháp khắc phục hậu quả đối với hành vi vi phạm, nếu căn cứ quy định
tại khoản 2 Điều 2 Luật Xử lý vi phạm hành chính, thì việc tịch thu tang vật
vi phạm hành chính và/ hoặc áp dụng biện pháp khắc phục hậu quả này vẫn
được coi là thuộc trường hợp đã bị xử phạt vi phạm hành chính.
Tuy nhiên, cũng vẫn là trường hợp nêu trên, nếu căn cứ quy định tại
khoản 1 Điều 7 Luật Xử lý vi phạm hành chính về thời hạn được coi là chưa bị
xử phạt vi phạm hành chính thì việc tịch thu tang vật vi phạm hành chính và/
hoặc áp dụng biện pháp khắc phục hậu quả này lại không được coi là trường
hợp đã bị xử phạt vi phạm hành chính, vì lý do: Vụ việc không có quyết định xử
phạt vi phạm hành chính mà chỉ có quyết định tịch thu tang vật vi phạm hành
chính và/ hoặc quyết định (độc lập) áp dụng biện pháp khắc phục hậu quả.
Để khắc phục vướng mắc, bất cập nêu trên, khoản 2 Điều 65 Luật Xử lý
vi phạm hành chính đã được sửa đổi, bổ sung theo hướng: Việc tịch thu tang
vật, phương tiện vi phạm hành chính, áp dụng biện pháp khắc phục hậu quả
trong trong trường hợp không ra quyết định xử phạt vi phạm hành chính thì
không bị coi là đã bị xử phạt vi phạm hành chính.24
Tuy nhiên, chúng tôi cho rằng, để khái niệm xử phạt vi phạm hành chính
tại khoản 2 Điều 2 Luật Xử lý vi phạm hành chính được hiểu một cách chính
xác (trong mối liên hệ với quy định tại khoản 1 Điều 7 và khoản 2 Điều 65),
bảo đảm sự thống nhất trong cách hiểu liên quan đến vấn đề tịch thu tang vật vi
phạm hành chính và/ hoặc áp dụng biện pháp khắc phục hậu quả trong trường
hợp không ban hành quyết định xử phạt vi phạm hành chính có được coi là
thuộc trường hợp đã bị xử phạt vi phạm hành chính không, cần thiết phải sửa
đổi, bổ sung quy định tại khoản 2 Điều 2 Luật Xử lý vi phạm hành chính theo
hướng khẳng định một cách rõ ràng, xử phạt vi phạm hành chính phải gắn với
việc ban hành quyết định xử phạt vi phạm hành chính, cụ thể như sau:
24 Khoản 2 Điều 65 Luật Xử lý vi phạm hành chính.
LUẬT HÀNH CHÍNH 13

“2. Xử phạt vi phạm hành chính là việc người có thẩm quyền xử phạt ra quyết
định xử phạt vi phạm hành chính để áp dụng hình thức xử phạt, biện pháp khắc
phục hậu quả đối với cá nhân, tổ chức thực hiện hành vi vi phạm hành chính theo quy
định của pháp luật về xử phạt vi phạm hành chính”.25
3.3. Về phạm vi giới hạn xác định vi phạm hành chính
Hiện nay, có khoảng hơn 70 nghị định quy định về xử phạt vi phạm
hành chính trong các lĩnh vực quản lý nhà nước26 với hàng trăm nghìn
hành vi bị coi là vi phạm hành chính. So với tội phạm, có rất nhiều những
vi phạm hành chính có mức tiền phạt cao, giá trị tang vật, phương tiện
bị tịch thu rất lớn, việc áp dụng các chế tài xử phạt vi phạm hành chính
có ảnh hưởng trực tiếp đến quyền con người, quyền công dân, quyền tài
sản của cá nhân, tổ chức nhưng lại chỉ bị xử lý theo trình tự, thủ tục hành
chính mà không theo thủ tục tư pháp. Không giống như cơ chế xét xử tại
Tòa án theo thủ tục tư pháp, việc xử phạt vi phạm hành chính chỉ do một
người thực hiện, lại không có thủ tục xem xét lại tính đúng, sai của quyết
định (như phúc thẩm, giám đốc thẩm, tái thẩm đối với bản án, quyết định
của Tòa án). Do vây, theo định hướng xây dựng nhà nước pháp quyền,
chúng tôi cho rằng, về lâu dài, cần tạo lập các điều kiện cần thiết để dần
chuyển đổi cơ chế xử phạt vi phạm hành chính do các chức danh có thẩm
quyền trong bộ máy hành chính trực tiếp thực hiện sang cơ chế xét xử
tại Tòa án theo thủ tục rút gọn, đơn giản tại cơ quan tòa án như phần lớn
các quốc gia đang thực hiện. Để làm được điều này, cần phải nghiên cứu,
giảm thiểu số lượng các vi phạm hành chính thông qua quy định giới hạn
phạm vi các hành vi vi phạm pháp luật bị coi là vi phạm hành chính bằng
các cách thức như:
Một là, cần xác định, vi phạm hành chính có tính phổ biến nên khó
có thể xử phạt vi phạm hành chính đối với tất cả hành vi vi phạm xảy ra
trong đời sống xã hội. Nhà nước cần quan tâm tới việc xử phạt nghiêm hơn
là việc cố gắng để làm sao xử phạt được đối với mọi hành vi vi phạm xảy
ra trong đời sống xã hội. Do đó, không phải càng quy định nhiều vi phạm
hành chính thì càng tốt. Không cần phải coi một hành vi là vi phạm hành
25 Việc sửa đổi, bổ sung khoản 2 Điều 2 Luật Xử lý vi phạm hành chính theo hướng này sẽ bảo
đảm chính xác, triệt để hơn và không cần thiết phải bổ sung quy định “Việc tịch thu tang vật,
phương tiện vi phạm hành chính, áp dụng biện pháp khắc phục hậu quả quy định tại khoản này không
bị coi là đã bị xử phạt vi phạm hành chính” tại khoản 2 Điều 65 Luật Xử lý vi phạm hành chính
như hiện nay.
26 Tính đến ngày 27/3/2020, có 77 Nghị định quy định về xử phạt vi phạm hành chính trên
các lĩnh vực quản lý nhà nước đang có hiệu lực thi hành (Phụ lục số 03 - Danh mục văn bản,
dự kiến nội dung các văn bản quy định chi tiết thi hành Luật Xử lý vi phạm hành chính và
Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Xử lý vi phạm hành chính của “Tài liệu bổ sung dự
án Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Xử lý vi phạm hành chính năm 2012” kèm theo Tờ
trình số 129/TTr-CP ngày 09/4/2020 của Chính phủ về dự án Luật sửa đổi, bổ sung một số
điều của Luật Xử lý vi phạm hành chính năm 2012 gửi Quốc hội).
14 TẠP CHÍ KHOA HỌC PHÁP LÝ VIỆT NAM SỐ 12 (160)/2022

chính nếu những quy phạm pháp luật khác hoặc quy phạm xã hội khác điều
chỉnh hiệu quả hơn.27
Hai là, đối với những hành vi có tính chất, mức độ nguy hiểm cao,
cần thiết phải phạt tiền ở mức cao hoặc áp dụng tịch thu tài sản (tang vật,
phương tiện) thì sẽ được “chuyển hóa” thành các cấu thành tội phạm cụ
thể để bổ sung quy định trong Bộ luật Hình sự, xét xử tại Tòa án theo thủ
tục tư pháp để bảo đảm chặt chẽ, công khai, dân chủ cũng như quyền và lợi
ích hợp pháp của công dân theo đúng nguyên tắc hoạt động của nhà nước
pháp quyền.
Ba là, coi vi phạm hành chính chỉ giới hạn là các vi phạm nhỏ mang
tính chất vi cảnh, xâm phạm trật tự công cộng, diễn ra phổ biến trong xã
hội, có thể là một số hành vi vi phạm do cá nhân thực hiện trong lĩnh vực
trật tự, an toàn xã hội, vệ sinh, trật tự an toàn giao thông… với mức tiền
phạt được cân nhắc, tính toán, hạn chế ở con số hợp lý, phù hợp với điều
kiện kinh tế - xã hội, mức sống và thu nhập của người dân. Mức tiền phạt
không nhằm mục đích trừng phạt mà chủ yếu nhằm mục đích giáo dục,
thuyết phục là chính.28
Bốn là, việc xử phạt đối với các hành vi vi phạm nhỏ mang tính chất

.
vi cảnh, xâm phạm trật tự công cộng sẽ do công chức cơ quan hành chính
công thực hiện, tạo sự liên thông hiệu quả trong việc xử lý các vi phạm
hành chính giữa các cơ quan hành chính và hệ thống tòa án; tăng số lượng
công chức cơ quan hành chính công thực thi công vụ ở cấp cơ sở được trao
quyền xử phạt để đáp ứng yêu cầu xử lý kịp thời, nhanh chóng.
Tài liệu tham khảo
[1] Bùi Tiến Đạt, “Pháp luật về xử phạt vi phạm hành chính: Lý luận và thực tiễn”, Luận văn Thạc sĩ
Luật học, năm 2008 [trans: Bui Tien Dat, “The law on handling administrative violations: Theory and
pratice”, Law Master Thesis, 2008]
[2] Đinh Phan Quỳnh, “Bàn thêm về khái niệm vi phạm hành chính”, Tạp chí Luật sư Việt Nam, số 4,
năm 2016 [trans: Dinh Phan Quynh, “Discuss on the concept of administrative violations”, Vietnam
Lawyer Journal, No. 4, 2016]
[3] Nguyễn Thị Thiện Trí, “Góp ý dự thảo Luật xử lý vi phạm hành chính”, Tạp chí Khoa học pháp lý,
số 2, năm 2012 [trans: Nguyen Thi Thien Tri, “Comments to the Bill on Handling Administrative
Violations”, Legal Sciences Journal, No. 2, 2012]
[4] Trường Đại học Luật Hà Nội, Trần Minh Hương (chủ biên), Giáo trình Luật Hành chính Việt
Nam, Nxb. Công an nhân dân, năm 2009 [trans: Ha Noi Law University, Tran Minh Huong (ed),
Vietnamese Administrative Law Curriculum, People’s Public Security Publisher, 2009]
[5] Nguyễn Cửu Việt, Giáo trình Luật Hành chính Việt Nam, Nxb. Chính trị quốc gia, năm 2013 [trans:
Nguyen Cuu Viet, Vietnamese Administrative Law Curriculum, National Political Publisher, 2013]

27 Bùi Tiến Đạt, “Pháp luật về xử phạt vi phạm hành chính: Lý luận và thực tiễn”, Luận văn Thạc
sĩ Luật học, năm 2008, tr. 102-103.
28 Hiện tại, theo quy định tại Điều 24 Luật Xử lý vi phạm hành chính năm 2012 (được sửa đổi, bổ
sung năm 2020), mức phạt tiền hành chính tối đa có thể lên đến 1.000.000.000 đồng đối với cá nhân
(2.000.000.000 đồng đối với tổ chức), cao hơn mức phạt tiền trong Bộ luật Hình sự rất nhiều.

You might also like