You are on page 1of 11

ẢNH HƯỞNG CỦA COVID-19 ĐẾN LAO ĐỘNG

PHI CHÍNH THỨC VÀ BẤT BÌNH ĐẲNG THU


NHẬP TẠI VIỆT NAM
Hoàng Thị Huệ
Khoa Kinh tế và Quản lý nguồn nhân lực, Trường Đại học Kinh tế Quốc dân
Emai: hoanghue@neu.edu.vn
Nguyễn Quang Huy
Trường Đại học Kinh tế Quốc dân
Email: huyquangnguyen.a2@gmail.com
Phạm Thị Thục Hiền
Trường Đại học Kinh tế Quốc dân
Email: thuchien1710@gmail.com
Nguyễn Thị Thu Huyền
Trường Đại học Kinh tế Quốc dân
Email: ntthuyen0613@gmail.com
Phạm Ngọc Anh
Trường Đại học Kinh tế Quốc dân
ngocanhh0406@gmail.com
Mã bài: JED-586
Ngày nhận: 16/03/2022
Ngày nhận bản sửa: 01/06/2022
Ngày duyệt đăng: 23/06/2022

Tóm tắt:
Bài viết nghiên cứu mối quan hệ giữa đại dịch Covid-19, lao động phi chính thức và bất bình
đẳng thu nhập tại Việt Nam thông qua bộ dữ liệu Điều tra Lao động Việc làm trong 3 quý đầu
năm 2021. Sử dụng mô hình probit, nghiên cứu chỉ ra Covid-19 làm giảm xác suất trở thành lao
động phi chính thức. Đồng thời, thông qua chỉ số Theil’s L, kết quả cũng khẳng định lao động phi
chính thức là nguyên nhân chính gây nên bất bình đẳng thu nhập. Bên cạnh đó, nghiên cứu sử
dụng phân rã Blinder-Oaxaca phân tích các yếu tố gây nên sự bất bình đẳng thu nhập giữa lao
động phi chính thức và chính thức. Kết quả cho thấy nhóm đặc điểm cá nhân góp phần tăng bất
bình đẳng thu nhập, trong khi nhóm đặc điểm lao động – việc làm và địa lý có xu hướng ngược
lại. Từ đó, nghiên cứu cung cấp một số khuyến nghị làm giảm rủi ro và cân bằng phân phối thu
nhập của lao động phi chính thức trong bối cảnh Covid-19.
Từ khóa: Bất bình đẳng thu nhập, Blinder-Oaxaca, Covid-19, lao động phi chính thức, Theil’s L
Mã JEL: J46, D63

The impact of Covid-19 on informal workers and income inequality in Vietnam


Abstract
The paper examines the relationship among the Covid-19 pandemic, informal workers and
income inequality in Vietnam, using The Labor Force Survey by the General Statistics Office for
the first three quarters of 2021. Thanks to the probit model, the study shows that the Covid-19
diminishes the probability of converting into informal workers. Furthermore, after using the
Theil’s L index to affirm that informal workers are the principal cause of income inequality,
this research analyzes the factors which trigger income inequality between formal and informal
workers by means of the Blinder-Oaxaca decomposition method. The results indicate that while
personal characteristics has given rise to income inequality, the opposite trend is true for labor-
employment and geographical characteristics. Based on the findings, several suggestions are
proposed to lessen the informal workers’ risks and equilibrate their income distribution in the
context of Covid-19.
Keywords: Income inequality, Blinder-Oaxaca, Covid-19, informal worker, Theil’s L
JEL Codes: J46, D63

Số 303 tháng 9/2022 13


1. Giới thiệu
Covid-19 là cuộc khủng hoảng tồi tệ nhất trên toàn cầu sau Chiến tranh Thế giới thứ II (Benhura &
Magejo, 2020), điều này gây nên những ảnh hưởng nghiêm trọng đến nền kinh tế và người lao động (Chari
& cộng sự, 2022). Lao động phi chính thức là đối tượng được nhiều học giả quan tâm phân tích, đặc biệt
đặt trong bối cảnh cú sốc hay bất bình đẳng thu nhập (Komin & cộng sự, 2020; Maloney, 1999). Tuy nhiên,
hầu hết các học giả chỉ xem xét tác động riêng lẻ như: ảnh hưởng của đại dịch Covid-19 đến lao động phi
chính thức (Benhura & Magejo, 2020) hay tác động của lao động phi chính thức đến bất bình đẳng thu nhập
(Chen & Hamori, 2013; Mishra & Ray, 2010), mà chưa xem xét bức tranh tổng thể của đại dịch Covid-19,
lao động phi chính thức và bất bình đẳng thu nhập. Hơn nữa, khi đo lường bất bình đẳng thu nhập các học
giả thường sử dụng hệ số Gini (Søbjerg, 2012). Nhưng hệ số này dễ nhạy cảm với sự thay đổi của bất bình
đẳng xung quanh trung vị, trong khi, chỉ số Theil (bao gồm Theil’s L và Theil’s T) tính đến sự biến thiên giữa
các nhóm được nghiên cứu (Sokolovska & cộng sự, 2015). Cụ thể, chỉ số Theil cho phép phân tách sự bất
bình đẳng chung thành bất bình đẳng trong từng nhóm nhỏ (Vũ Cương & Phạm Văn Vận, 2011). Hơn nữa,
chỉ số Gini không có khả năng phân biệt các loại bất bình đẳng khác nhau mà chỉ thể hiện mức độ bất bình
đẳng, vấn đề này có thể dẫn đến các mô hình phân phối thu nhập khác nhau nhưng lại có chỉ số Gini giống
nhau (De Maio, 2007). Do đó, chỉ số Theil’s L là thước đo sự bất bình đẳng tốt hơn Gini (Herrera-Serna &
cộng sự, 2019). Vì vậy, nhóm tác giả sử dụng chỉ số Theil’s L để đánh giá sự đóng góp của nhóm lao động
phi chính thức và chính thức đến bất bình đẳng thu nhập tổng thể thay vì các nghiên cứu trước đây chỉ xem
xét sự chênh lệch thu nhập giữa hai nhóm lao động này (Du & cộng sự, 2008; Angel & Tanabe, 2012). Đây
được coi là một hướng đi mới về phân tích bất bình đẳng thu nhập.
Bên cạnh đó, Việt Nam chưa có nhiều nghiên cứu phân tích nguyên nhân gây ra sự chênh lệch thu nhập
của hai nhóm lao động phi chính thức và chính thức. Trong khi việc chỉ ra được nguyên nhân có thể giúp
Chính phủ đưa ra các chính sách nhằm giảm bất bình đẳng thu nhập và góp phần nâng cao chất lượng cuộc
sống người lao động. Một trong những phương pháp được sử dụng rộng rãi trên thế giới trong phân tích kinh
tế về sự khác biệt giữa các nhóm là phương pháp phân rã Blinder-Oaxaca (1973) (Lê Bảo Lâm & cộng sự,
2015). Tuy nhiên ở Việt Nam, phương pháp này hầu hết được sử dụng trong phân tích về bất bình đẳng thu
nhập theo giới (Nguyễn Thái Hoà, 2017; Vũ Hoàng Ngân & Nghiêm Thị Ngọc Bích, 2021) mà chưa chú
trọng đánh giá sự bất bình đẳng thu nhập theo tình trạng việc làm. Do đó, việc sử dụng phương pháp phân
rã Blinder-Oaxaca trong nghiên cứu này được kỳ vọng sẽ phân tích sự khác biệt giữa lao động phi chính
thức và chính thức là nguyên nhân góp phần gia tăng bất bình đẳng thu nhập theo ba khía cạnh đặc điểm cá
nhân, lao động-việc làm và địa lý.
Kết quả nghiên cứu sẽ là cơ sở tham khảo nhằm đưa ra những khuyến nghị phù hợp với mục đích làm
giảm các bất lợi của lao động phi chính thức do đại dịch Covid-19 và giảm bất bình đẳng tổng thể một cách
toàn diện. Bài viết gồm 5 phần. Sau phần giới thiệu, phần 2 trình bày tổng quan về ảnh hưởng của đại dịch
Covid-19 đến lao động phi chính thức và ảnh hưởng của động phi chính thức đến bất bình đẳng thu nhập.
Phần 3 tập trung trình bày các phương pháp ước lượng. Phần 4, lần lượt phân tích kết quả và luận bàn kết
quả nghiên cứu. Cuối cùng, kết luận và một số hàm ý chính sách được đưa ra ở phần 5.
2. Tổng quan và cơ sở lý thuyết
2.1. Khái niệm lao động phi chính thức
Theo Tổng cục Thống kê (2021), lao động phi chính thức bao gồm những người làm việc trong khu vực
phi nông, lâm nghiệp và thủy sản và lao động trong khu vực nông, lâm nghiệp và thủy sản có đăng ký kinh
doanh, thuộc một trong bốn nhóm sau: (i) lao động gia đình không được hưởng lương, hưởng công; (ii)
người chủ của cơ sở, lao động tự làm trong khu vực phi chính thức; (iii) người làm công ăn lương không
được ký hợp đồng lao động hoặc được ký hợp đồng có thời hạn nhưng không được cơ sở tuyển dụng đóng
bảo hiểm xã hội theo hình thức bắt buộc; (iv) xã viên hợp tác xã không đóng bảo hiểm xã hội bắt buộc. Tuy
nhiên, Tổ chức Lao động Quốc tế (ILO) cho rằng lao động phi chính thức được xác định là lao động có việc
làm phi chính thức. Định nghĩa này bao gồm cả lao động làm việc trong khu vực phi chính thức và lao động
làm việc phi chính thức tại khu vực chính thức. Trong đó, việc làm phi chính thức bao gồm tất cả các thỏa
thuận việc làm mà không trang bị cho cá nhân người lao động sự bảo vệ về mặt pháp lý hoặc xã hội thông

Số 303 tháng 9/2022 14


qua công việc của họ, do đó khiến họ dễ gánh chịu các rủi ro kinh tế. Họ được cho là một trong những đối
tượng dễ bị tổn thương trước các cú sốc bởi vì ít nhận được sự quan tâm và hỗ trợ của nhà nước (ILO, 2021).
Như vậy, định nghĩa của Tổng cục Thống kê (GSO) chỉ xét đến lao động phi chính thức tại khu vực phi
nông, lâm nghiệp và thuỷ sản, trong khi định nghĩa của ILO lại bao gồm cả lao động phi chính thức trong
khu vực nông, lâm nghiệp và thủy sản. Do vậy, nhóm tác giả lựa chọn cách tiếp cận và phân tích lao động
phi chính thức theo định nghĩa của ILO (2021) vì bao quát hơn và không bị bỏ sót một lượng lớn lao động
phi chính thức tại khu vực nông, lâm nghiệp và thuỷ sản.
2.2. Ảnh hưởng của đại dịch Covid-19 đến chuyển dịch từ lao động chính thức sang phi chính thức
Covid-19 là cú sốc lớn ảnh hưởng nghiêm trọng đến nền kinh tế, từ đó dẫn đến những thay đổi trong cơ
cấu thị trường lao động toàn cầu, tuy nhiên có nhiều quan điểm khác nhau về vấn đề này. Cụ thể, Bussolo &
cộng sự (2021) chỉ ra trong thời gian thực hiện giãn cách xã hội tại Ấn Độ, nước này ghi nhận một tỷ lệ đáng
kể lao động chính thức trở thành lao động phi chính thức. Bên cạnh đó, Megersa (2020) đề cập đến chuyển
dịch cơ cấu lao động theo hướng phi chính thức của lao động chính thức trong bối cảnh dịch bệnh. Ngoài ra,
Gomes & cộng sự (2020) cũng đưa ra kết luận, đứng trước những ảnh hưởng tiêu cực từ cú sốc Covid-19,
lao động chính thức còn có xu hướng rơi vào trạng thái thất nghiệp. Việc hạn chế di chuyển và giảm quy mô
đáng kể các hoạt động kinh tế để kiểm soát sự lây lan của Covid-19 có ảnh hưởng mạnh mẽ đến các doanh
nghiệp cả trong khu vực phi chính thức và chính thức, từ đó tác động đến quyết định tham gia vào việc làm
phi chính thức hoặc thất nghiệp của lao động chính thức.
Tại Việt Nam, nghiên cứu về xu hướng và các yếu tố ảnh hưởng đến lao động phi chính thức của ILO
(2021) khẳng định Covid-19 đẩy lao động chính thức sang làm công việc phi chính thức. Sự suy yếu
của nền kinh tế khiến nhiều người buộc phải tìm kiếm bất cứ loại hình việc làm nào có thể làm, thường
là công việc phi chính thức. Điều này đồng nghĩa với chuyển dịch thành lao động phi chính thức cũng
có sự thay đổi lớn. Vì vậy, kế thừa từ các nghiên cứu quốc tế và trong nước, nhóm tác giả sẽ phân tích
tác động của đại dịch Covid-19 đến sự chuyển dịch lao động tại Việt Nam với giả thuyết:
(H1): Covid-19 làm tăng xác suất chuyển dịch từ lao động chính thức sang lao động phi chính thức.
2.3. Vai trò của lao động phi chính thức trong bất bình đẳng thu nhập tổng thể
Trên thế giới, ước tính khoảng 20% đến 30% tổng số lao động ở các nước phát triển và hơn 40% lao động
ở các nước đang phát triển làm việc trong khu vực phi chính thức (Hu & Yang, 2001). Mặc dù số lượng lao
động phi chính thức chiếm tỷ lệ tương đối lớn, nhưng họ vẫn phải chịu mức lương thấp, thiếu bảo trợ xã hội
và các vấn đề khác (ILO, 2002). Điều này không chỉ tạo ảnh hưởng tiêu cực đến phân phối tiền lương mà
còn tác động làm tăng bất bình đẳng thu nhập (Maloney, 1999), cụ thể: Xue & cộng sự (2014) chỉ ra lao động
phi chính thức là yếu tố đóng góp quan trọng nhất đối với bất bình đẳng thu nhập tổng thể ở các đô thị Trung
Quốc (57,51%), cụ thể: chênh lệch thu nhập giữa những lao động phi chính thức đóng góp vào 47,04% của
bất bình đẳng chung, trong khi chênh lệch thu nhập giữa lao động phi chính thức và lao động chính thức
chiếm 10,47% tổng bất bình đẳng.
Tại Việt Nam, Rand & Torm (2012) cũng khẳng định sự tồn tại của khoảng cách tiền lương giữa khu vực
phi chính thức và chính thức (mức lương trong khu vực chính thức cao hơn trung bình từ 10% đến 20% so
với khu vực phi chính thức), sự khác biệt này ảnh hưởng đến phân phối thu nhập và bất bình đẳng thu nhập
tại đây. Như vậy, khi xem xét tác động của lao động phi chính thức đến bất bình đẳng thu nhập, hầu hết các
nghiên cứu trên thế giới đều chỉ ra mối quan hệ tiêu cực. Cụ thể, lao động phi chính thức là nguyên nhân gây
gia tăng bất bình đẳng thu nhập. Do vậy, nhóm tác giả đưa ra giả thuyết nghiên cứu.
(H2): Lao động phi chính thức là nguyên nhân chủ yếu làm gia tăng bất bình đẳng thu nhập.
3. Phương pháp nghiên cứu:
3.1. Cơ sở dữ liệu
Bài viết này sử dụng dữ liệu từ Điều tra Lao động Việc làm (LFS) trong 3 quý đầu của năm 2021 thực
hiện bởi GSO cùng sự hỗ trợ của ILO. Mỗi điều tra theo quý bao gồm hơn 200 nghìn lao động trên phạm
vi 63 tỉnh thành.

Số 303 tháng 9/2022 15


3.2. Quy trình nghiên cứu
Thứ nhất, phân tích tác động của Covid-19 tới số lượng lao động phi chính thức thông qua xác suất
trở thành lao động phi chính thức bằng mô hình probit. Nhiều nghiên cứu trước đây đã sử dụng mô hình
probit để nghiên cứu xác suất chuyển dịch lao động việc làm. Điển hình ILO (2021) đã sử dụng mô
hình này để đánh giá xác suất một lao động chính thức thành lao động phi chính thức. Do đó, nhóm tác
giả lựa chọn mô hình probit để nghiên cứu mối quan hệ của Covid-19 và lao động phi chính thức với
phương trình (1):
ldpctjt= β0 + β1*Covidjt + β2Xjt +ujt (1)
Trong đó:
ldpctjt là tình trạng lao động j trong quý t, nhận giá trị bằng 1 nếu là lao động phi chính thức, bằng 0
nếu là lao động chính thức
Covidjt là lao động j bị ảnh hưởng bởi Covid-19 tại quý t, nhận giá trị bằng 1 nếu lao động có bị ảnh
hưởng bởi Covid-19, bằng 0 nếu lao động không bị ảnh hưởng bởi Covid-19.
Xjt là các biến kiểm soát đặc điểm cá nhân người lao động
ujt là các biến không quan sát được
Kết quả kiểm định mô hình fitstat tại Phụ lục 1 cho thấy hệ số Prob > LR = 0,000 (<0,005) và
McFadden’s R2=0,294 cho thấy mô hình trên là hoàn toàn phù hợp. Bên cạnh đó, nhóm tác giả tính
toán tỷ lệ dự đoán đúng của mô hình là 80,71% (Phụ lục 2), điều này chỉ ra kết quả nghiên cứu sẽ có
tính chính xác cao.
Thứ hai, đánh giá vai trò của lao động phi chính thức trong bất bình đẳng thu nhập bằng chỉ số bất bình
đẳng Theil’s L để phân rã sự bất bình đẳng tổng thể thành các yếu tố đóng góp của các nhóm lao động phi
chính thức và chính thức. Trên thế giới, phương pháp này được sử dụng rộng rãi để xem xét vai trò của lao
động phi chính thức và chính thức trong bất bình đẳng thu nhập, tiêu biểu như Xue & cộng sự (2014) và Zuo
(2016) nghiên cứu tại đô thị Trung Quốc. Phương pháp phân rã Theil’s L được tách thành hai phần, phần
một đo lường sự bất bình đẳng trong nhóm, phần hai đo lường sự bất bình đẳng giữa các nhóm. Cụ thể như
sau: 𝑵𝑵
𝒋𝒋 𝑵𝑵𝒋𝒋 𝒋𝒋 𝑵𝑵𝒋𝒋
𝒋𝒋�
THEIL’s L = � � � 𝑳𝑳𝒋𝒋 + � � � �� � 𝒀𝒀𝒋𝒋 𝑵𝑵�
𝒋𝒋�� 𝑵𝑵 𝒋𝒋�� 𝑵𝑵 �
Trong đó: 𝒀𝒀

Yj là tổng thu nhập của nhóm j


Trong đó: Y là tổng thu nhập (Y=Yj)
Yj là tổng L
thu
j
lànhập củaLnhóm
Theil’s j
của nhóm j
Nj lànhập
Y là tổng thu số lao động của nhóm j
(Y=Yj)
N là
Lj là Theil’s tổngnhóm
L của số laoj động (N=Nj)
Nj là số laoThứ phân
ba,của
động tíchjsự khác biệt giữa lao động phi chính thức và chính thức để xác định nguyên nhân gây
nhóm
nên bất bình đẳng giữa hai nhóm này bằng phân rã Blinder-Oaxaca. Xuất phát từ phương trình tiền lương
N là tổng số lao động (N=Nj)
Mincer (1997), nghiên cứu sử dụng phân rã Blinder-Oaxaca được chia thành ba phần bao gồm phần quan sát
được, phần không quan sát được và phần ảnh hưởng của hai phần trên thông qua phương trình (2):
Thứ ba, phânLn(thunhap
tích sự khácf
jt
) – Ln(thunhapc
biệt giữa laoijtđộng) = (X phi
f
– Xijt) βthức
jt chính
i
t
+ (βvàf
- βit) Xithức
t chính jt
+ (X – Xijtđịnh
đểfjt xác ) (βftnguyên
- βit) + unhân
t
(2) gây
nên bất bình đẳng giữa
                       hai nhóm này bằng phân rã Blinder-Oaxaca.
     =   E   +   C   + Xuất phát từ
I phương trình tiền lương
Mincer (1997), nghiên cứu sử dụng phân rã Blinder-Oaxaca được chia thành ba phần bao gồm phần quan
Trongkhông
sát được, phần đó: quan sát được và phần ảnh hưởng của hai phần trên thông qua phương trình (2):
Ln(thunhapfjt) và Ln(thunhapc i
): thui nhậpf tương ứng củaf lao iđộngf phii chính thức và chính thức
Ln(thunhapfjt ) – Ln(thunhapc i f jt i i i
jt ) = (X jt – X jt) β t + (β t - β t) X jt + (X jt – X jt) (β t - β t) + ut (2)
Xfjt và Xijt: Các biến độc lập đối với lao động phi chính thức và chính thức
= E + C + I
βft và βit: các hệ số ước lượng.
Trong đó:
E: Nhóm các yếu tố quan sát được
Ln(thunhapfjt) và Ln(thunhapcijt): thu nhập tương ứng của lao động phi chính thức và chính thức
C: Nhóm các yếu tố không quan sát được
Xfjt và Xijt: Các biến độc lập đối với lao động phi chính thức và chính thức
βf và βiSố
: các303hệ tháng
số ước 9/2022 lượng. 16
t t

E: Nhóm các yếu tố quan sát được


C: Nhóm các yếu tố không quan sát được
I: Nhóm các yếu tố tương tác giữa E và C.
4. Kết quả nghiên cứu và thảo luận
4.1. Ảnh hưởng của đại dịch Covid-19 đến chuyển dịch từ lao động chính thức sang phi chính thức
ở Việt Nam
Bảng 1 cho thấy ảnh hưởng ngược chiều của Covid-19 tới xác suất trở thành lao động phi chính thức.
Nói cách khác, đại dịch Covid-19 làm giảm 1,8% xác suất trở thành lao động phi chính thức của lao
động chính thức. Nguyên nhân là do khi không chịu ảnh hưởng bởi đại dịch Covid-19 vẫn có nhiều lao
động chính thức chuyển sang phi chính thức vì nhiều nguyên nhân khác nhau như sức khỏe, trình độ
Bảng 1: Kết quả ước lượng ảnh hưởng của Covid-19 tới xác suất trở thành lao động phi chính thức
Lao động phi chính thức
Biến độc lập
Hệ số hồi quy Xác suất
Covid-19 -0,074*** -0,018***
Biến kiểm soát Hệ số hồi quy Xác suất
Sơ cấp -0,620*** -0,183***
Chuyên môn kỹ thuật Trung cấp -1,077*** -0,345***
(Tham chiếu không có chuyên môn kỹ thuật) Cao đẳng -1,254*** -0,408***
Từ Đại học trở lên -1,862*** -0,598***
Có vợ/chồng -0,141*** -0,034***
Tình trạng hôn nhân Góa -0,045** -0,010**
(Tham chiếu chưa có vợ/chồng) Ly hôn -0,109*** -0,026***
Ly thân -0,044 -0,01
Từ 20-24 tuổi -0,332*** -0,090***
Từ 25-29 tuổi -0,285*** -0,076***
Từ 30-34 tuổi -0,258*** -0,069***
Từ 35-39 tuổi -0,219*** -0,058***
Nhóm tuổi Từ 40-44 tuổi -0,114*** -0,029***
(Tham chiếu nhóm tuổi từ 15-19 tuổi) Từ 45-49 tuổi -0,011 -0,003
Từ 50-54 tuổi 0,123*** 0,030***
Từ 55-59 tuổi 0,385*** 0,086***
Từ 60-64 tuổi 0,631*** 0,131***
Từ 65 tuổi trở lên 0,804*** 0,158***
Giới tính
Nữ -0,235*** -0,057***
(Tham chiếu giới tính nam)
Đồng bằng sông Hồng -0,409*** -0.107***
Bắc Trung Bộ và Duyên hải miền Trung 0,046*** 0,011***
Tây Nguyên 0,354*** 0,075***
Vùng địa lý
(Tham chiếu vùng Trung du và miền núi phía Đông Nam Bộ -0,631*** -0,172***
Bắc) Đồng bằng sông Cửu Long 0,002 0,001
Hà Nội -0,045*** -0,011***
Thành phố Hồ Chí Minh -0,546*** -0,146***
Khu vực
Nông thôn 0,326*** 0,083***
(Tham chiếu thành thị)
_cons 1,175***
Số quan sát 305.692
Pseudo R2 0,2935
Prob > chi2 0,0000
Mức ý nghĩa thống kê: *p < 0,1, **p <0,05, ***p <0,01
Nguồn: Tính toán của nhóm tác giả.

Số 303 tháng 9/2022 17


Để xem xét cụ thể hơn xác suất chuyển dịch từ lao động chính thức sang phi chính thức, nghiên cứu phân
tích xác suất chuyển dịch này theo các đặc điểm cá nhân. Cụ thể:
không đáp ứng đủ... Trong bối cảnh Covid-19, một lượng lớn lao động chính thức buộc phải nghỉ việc
vàXét
lâm vàotrình
theo tìnhđộ trạng
chuyên thấtmônnghiệp hoặc chuyển
kỹ thuật, Bảng 1 chosangthấylàmnhóm
công từ việcĐạiphi
họcchính thức.
trở lên Tuysuất
có xác nhiên,
trở tỷ lệ lao
thành lao
động
độngchính thức thức
phi chính chuyển sangnhất
là nhỏ làm(thấp
công hơn
việc59,8%
phi chính
so vớithức
nhómchỉ chiếm một phần
tham chiếu). Laonhỏ,
độngtrong khi mộtmôn
có chuyên phầnkỹ
thuật
lớn laocàng
độngcao chínhthì thức
xác suấtđã trởtrởthành
thànhlaolaođộng
độngthất
phinghiệp.
chính thức Điềucàng
này thấp.
dẫn đếnNguyên nhântrởlàthành
xác suất do laolao
động
độngcó
trình độ từ Đại học trở lên có chuyên môn cao, vì vậy, họ thường làm
phi chính thức giảm khi người lao động bị ảnh hưởng bởi đại dịch Covid-19. Như vậy, kết quả nghiênnhững công việc ổn định trong khu
vực chính thức nên khả năng trở thành lao động phi chính thức thấp nhất. Kết quả này tương tự với nhận
cứu ngược lại với giả thuyết H1 mà nhóm tác giả kỳ vọng.
định của ILO (2021) lao động phi chính thức có mối liên hệ chặt chẽ và tỷ lệ nghịch với trình độ học vấn.
Để xem xét cụ thể hơn xác suất chuyển dịch từ lao động chính thức sang phi chính thức, nghiên cứu phân
Xét theo tình trạng hôn nhân, nhóm có vợ/chồng có xác suất trở thành lao động phi chính thức thấp nhất
tích xác suất chuyển dịch này theo các đặc điểm cá nhân. Cụ thể:
(thấp hơn 3,4% so với nhóm tham chiếu). Xét theo khu vực thành thị/nông thôn, xác suất trở thành lao
Xét theo
động trình độ
phi chính thức chuyên
ở khumôn vực kỹ thuật,
nông thônBảng
cao 1hơn
chothành
thấy nhóm từ Đại
thị 8,3%. Haihọc
xu trở lên có
hướng nàyxác suấtđược
cũng trở thành
chỉ ra
lao động
trong báophicáo
chính
“Lao thứcđộng là nhỏ nhấtlàm
có việc (thấplaohơn 59,8%
động so với thức
phi chính nhómở tham chiếu).xuLao
Việt Nam, độngvàcócác
hướng chuyên
yếu tốmôn
tác
động” (ILO, 2021).
kỹ thuật càng cao thì xác suất trở thành lao động phi chính thức càng thấp. Nguyên nhân là do lao động có
trình
Xét độ
theotừnhóm
Đại họctuổi, trởxáclênsuất
có chuyên
trở thành mônlaocao,
động vì phi
vậy,chính
họ thường làm dần
thức tăng nhữngtheocông
nhómviệc ổnvà
tuổi định
đạttrong khuở
cực đại
vực
nhómchính
tuổithức nêntuổi
từ 65 khảtrở năng
lêntrở thành
(cao hơnlao độngsophivới
15,8% chính
nhóm thức thấpchiếu)
tham nhất. -Kết quả người
những này tương tự với
có năng nhận
suất lao
động thấp và khả năng tiếp thu kém. Xét theo giới tính, lao động nữ có xác
định của ILO (2021) lao động phi chính thức có mối liên hệ chặt chẽ và tỷ lệ nghịch với trình độ học vấn. suất trở thành lao động phi
chính thức cao hơn nam giới 5,7%. Nguyên nhân là do nữ giới có xu hướng làm các công việc dễ bị tổn
Xét theo tình trạng hôn nhân, nhóm có vợ/chồng có xác suất trở thành lao động phi chính thức thấp nhất
thương hơn nam giới và phải chịu nhiều thiệt thòi hơn về khía cạnh vị thế việc làm (GSO, 2018).
(thấp hơn 3,4% so với nhóm tham chiếu). Xét theo khu vực thành thị/nông thôn, xác suất trở thành lao động
4.2.
phi Vai trò
chính thứccủaở khulao vực
độngnôngphi chính
thôn cao thức
hơntrong
thànhbấtthịbình
8,3%.đẳngHaithu nhập ởnày
xu hướng Việtcũng
Namđược chỉ ra trong báo
cáo
Kết“Lao
quả động
phân cótíchviệc
vai làm lao động
trò của phi phi
lao động chính thứcthức
chính ở Việt Nam,
trong bấtxu hướng
bình đẳngvàtổngcác thể
yếucủa
tố tác
Việtđộng”
Nam (ILO,
thông
qua chỉ số Theil’s L được nhóm tác giả thể hiện qua Bảng 2.
2021).
Xét theo nhóm tuổi, xác suất trở thành lao động phi chính thức tăng dần theo nhóm tuổi và đạt cực đại ở
Bảng 2: Kết quả phân rã chỉ số bất bình đẳng thu nhập Theil’s L
Lao động phi chính thức Lao động chính thức Tổng
Quý I - năm 2021
Theil’s L 0,22407 0,12293 0,20990
Tỷ lệ lao động (%) 68,07 31,93 100
Nội bộ nhóm (%) 71,12 18,30 89,42
Giữa các nhóm (%) _ _ 10,58
Quý II - năm 2021
Theil’s L 0,24756 0,12652 0,22255
Tỷ lệ lao động (%) 68,00 32,00 100
Nội bộ nhóm (%) 74,18 17,84 92,02
Giữa các nhóm (%) _ _ 7,98
Quý III - năm 2021
Theil’s L 0,25909 0,13350 0,23281
Tỷ lệ lao động (%) 67,64 32,36 100
Nội bộ nhóm (%) 74,01 18,24 92,26
Giữa các nhóm (%) _ _ 7,74
Nguồn: Tính toán của nhóm tác giả.
nhóm tuổi từ 65 tuổi trở lên (cao hơn 15,8% so với nhóm tham chiếu) - những người có năng suất lao động
thấp và khả năng tiếp thu kém. Xét theo giới tính, lao động nữ có xác suất trở thành lao động phi chính thức
Theo Bảng 2, chỉ số Theil’s L tăng dần theo các quý trong năm 2021 tại cả hai nhóm lao động. Điều
cao hơn nam giới 5,7%. Nguyên nhân là do nữ giới có xu hướng làm các công việc dễ bị tổn thương hơn
này cho thấy khi đại dịch Covid-19 diễn biến càng phức tạp thì bất bình đẳng thu nhập càng trở nên
nam giới và
nghiêm phải Bên
trọng. chịu cạnh
nhiềuđó,
thiệtnội
thòi
bộhơn về khía
nhóm cạnh vị
lao động thếchính
phi việc làm
thức(GSO,
đóng 2018).
góp theo thứ tự là 71,12%,
74,18%
4.2. Vaivà
trò74,01%
của laovào
độngbấtphi
bình đẳng
chính thutrong
thức nhậpbất
tổng thểđẳng
bình trongthu
quýnhập
I, quý II vàNam
ở Việt quý III năm 2021. Con
số này cao hơn nội bộ nhóm lao động chính thức ở cả 3 quý đầu năm 2021. Ngoài ra, bất bình đẳng
Kết quả phân tích vai trò của lao động phi chính thức trong bất bình đẳng tổng thể của Việt Nam thông
qua chỉ số Theil’s L được nhóm tác giả thể hiện qua Bảng 2.
Theo Bảng 2, chỉ số Theil’s L tăng dần theo các quý trong năm 2021 tại cả hai nhóm lao động. Điều

Số 303 tháng 9/2022 18


giữa hai nhóm lao động đóng góp lần lượt 10,58%, 7,98% và 7,74% tại 3 quý trong tổng thể bất bình
đẳng thu nhập tại Việt Nam. Như vậy, lao động phi chính thức đã đóng góp vào bất bình đẳng tổng
thể bằng tỷ lệ đóng góp của nội bộ nhóm và giữa hai nhóm lần lượt đạt 81,70%, 82,16% và 81,75%
trong 3 quý đầu năm 2021. Do đó, có thể khẳng định lao động phi chính thức là nguyên nhân lớn nhất
gây nên sự bất bình đẳng thu nhập tại Việt Nam.
này
Kếtcho
quảthấy
trên khi đạiđồng
tương dịch với
Covid-19
một số diễn
nghiênbiến
cứucàng
trên phức tạp cụ
thế giới, thì thể,
bất Krstic
bình đẳng thu nhập
& Sanfey càng
(2011) chỉtrở
ra nên
rằng
nghiêm
việc làm trọng. Bên cạnh
phi chính thức làđó,một
nộiyếu
bộ tốnhóm
quyếtlao động
định phiđộng
và tác chínhmạnhthứcmẽ đóng
đếngóp theo đẳng
bất bình thứ tựthulànhập.
71,12%,Một
74,18% và 74,01% vào bất bình đẳng thu nhập tổng thể trong quý I, quý II và quý
số nghiên cứu trước như Xue & cộng sự (2014), Zuo (2016) cũng nhận định rằng bất bình đẳng thu nhập III năm 2021. Con số
này
giữacao
laohơn
động nộiphi
bộchính
nhómthứclao luôn
độnglớn
chínhhơnthức ở cả đẳng
bất bình 3 quýgiữa
đầulaonăm 2021.
động chínhNgoài
thứcra,
vớibất bình đẳng
nguyên nhân giữa
là do
mức
hai chênh
nhóm laolệch thuđóng
động nhậpgópcủa lần
các lượt
lao động phi chính
10,58%, 7,98% thức
và lớn.
7,74% tại 3 quý trong tổng thể bất bình đẳng
thu
4.3.nhập tại Việt
Nguyên nhânNam.
gâyNhư
nên vậy, laobình
sự bất độngđẳng
phi chính
thu nhậpthứcgiữa
đã đóng góp vào
lao động phibất bìnhthức
chính đẳngvàtổng
chínhthểthức
bằngở
tỷViệt
lệ đóng
Nam góp của nội bộ nhóm và giữa hai nhóm lần lượt đạt 81,70%, 82,16% và 81,75% trong 3 quý
đầu năm 2021. Do đó, có thể khẳng định lao động phi chính thức là nguyên nhân lớn nhất gây nên sự
Bảng 2 ở trên cho thấy bất bình đẳng giữa lao động phi chính thức và chính thức luôn đóng góp từ 7%
bất
đếnbình
10%đẳng thubất
trong nhập
bìnhtạiđẳng
Việtthu
Nam.nhập tổng thể. Để phân tích các yếu tố gây nên sự bất bình đẳng này,
Kết quả
nhóm tác trên
giả sửtương
dụngđồng
phânvới
rã một số nghiên cứu
Blinder-Oaxaca theotrên
bathế giới,
khía cụ đặc
cạnh: thể, điểm
Krsticcá&nhân,
Sanfeylao(2011) chỉ ralàm
động-việc rằng

địa làm
việc lý. Bảng 3 cho
phi chính thấy
thức logarit
là một yếukhoảng
tố quyếtcách
địnhtiền lương
và tác độnggiữa laomẽ
mạnh động
đếnphi
bất chính thứcthu
bình đẳng và nhập.
chính Một
thứcsốlà
0,520.cứu
nghiên Điều nàynhư
trước giảiXue
thích&rằng
cộngthu nhập trung
sự (2014), Zuobình
(2016)củacũng
lao động chínhrằng
nhận định thứcbất
bằng
bìnhe^0,520=1,68
đẳng thu nhậplần lao
giữa
động phi chính thức.
lao động phi chính thức luôn lớn hơn bất bình đẳng giữa lao động chính thức với nguyên nhân là do mức
chênh lệch thu nhập của các lao động phi chính thức lớn.
Bảng 3: Kết quả phân rã Blinder-Oaxaca
Tính khác biệt Ln(thunhap) Phân rã Ln(thunhap)
Giá trị trung bình nhóm 1 8,910*** Yếu tố quan sát được (E) 0,125***
Giá trị trung bình nhóm 2 8,390*** Yếu tố không quan sát được (C) 0,593***
Sự khác biệt 0,520*** Yếu tố tương tác giữa E và C (I) -0,198***

Số quan sát: 261719 Mức ý nghĩa thống kê: * p< 0,1, ** p <0,05, *** p < 0,01

Nhóm 1: Lao động chính thức


Nhóm 2: Lao động phi chính thức
Nguồn: Tính toán của nhóm tác giả.
4.3. Nguyên nhân gây nên sự bất bình đẳng thu nhập giữa lao động phi chính thức và chính thức ở
Việt Nam
Bảng 4 cho thấy các yếu tố có thể quan sát (E) được cho là do sự khác nhau về kỹ năng của người lao
Bảng 2 ở trên cho thấy bất bình đẳng giữa lao động phi chính thức và chính thức luôn đóng góp từ 7% đến
động đã làm tăng 12,5% bất bình đẳng giữa nhóm lao động phi chính thức và chính thức. Điều này được
10% trong bất bình đẳng thu nhập tổng thể. Để phân tích các yếu tố gây nên sự bất bình đẳng này, nhóm tác
lý giải là sự khác nhau về kinh nghiệm làm việc, trình độ chuyên môn kỹ thuật…Các yếu tố không quan
giả
sátsửđược
dụng(C) phân làmrãtăng
Blinder-Oaxaca
59,3% trongtheo ba bình
sự bất khía cạnh: đặc điểm
đẳng giữa cá nhân,
hai nhóm lao lao
độngđộng-việc làm và
này. Nguyên địa được
nhân lý. Bảngcho
3 làchodothấy
địnhlogarit
kiến xãkhoảng cáchniệm
hội, quan tiền lương
gây bấtgiữa
lợi lao
chođộng phi chính
lao động thức thức
phi chính và chính
ngaythức
cả khilà 0,520. Điều này
họ có chung đặc
giải thích rằng thu nhập trung bình của lao động chính thức bằng e^0,520=1,68 lần
điểm với lao động chính thức. Trong khi đó, nhóm các yếu tố tác động đồng thời của thành phần quan sát lao động phi chính thức.
được
Bảngvà4 chokhôngthấyquan sát được
các yếu (I) quan
tố có thể làm giảm 19,78%
sát (E) được chosự là
bấtdobình đẳngnhau
sự khác giữavềhaikỹnhóm lao người
năng của động phi chính
lao động
thức và chính thức. Cụ thể sự khác biệt về thu nhập theo tình trạng việc làm
đã làm tăng 12,5% bất bình đẳng giữa nhóm lao động phi chính thức và chính thức. Điều này được lý giải được mô tả chi tiết trong

Bảng 4.
sự khác nhau về kinh nghiệm làm việc, trình độ chuyên môn kỹ thuật…Các yếu tố không quan sát được (C)
làmBảngtăng4:59,3%
Kết quả trong sự bất
phân rã bình đẳng giữa haisựnhóm
Blinder-Oaxaca kháclao động
biệt này.nhập
về thu Nguyên giữanhân
lao được
độngchophi là do định
chính thức kiến

xã hội, quan niệm gây bất lợi cho lao động phi lao chính
động chính thứccả khi họ có chung đặc điểm với lao động
thức ngay
chính thức. Trong khiNhóm đó, nhóm cáccáyếu
đặc điểm tố tác động đồng thời của thành
nhân E phần Cquan sát được I và không quan
Total
sát được (I) làm giảm 19,78% sự bất bình đẳng giữa hai nhóm lao động phi chính thức và chính thức. Cụ thể
Giới tính
sự khác
(Thambiệt
chiếuvềlàthu
namnhập
giới) theo tình trạng việc làm được mô tả chi tiết trong Bảng 4.
Nữ -0,041*** 0,071*** 0,021*** 0,051***

nhóm đặc điểm


Thứ nhất,Tuổi cá nhân đã làm tăng nhiều nhất (51,9%)
Tuổi trong0,657***
0,059*** bất bình đẳng thu nhập0,621***
-0,095*** giữa lao
động phi chính thức và chính thức. Trong đó, đặc điểm tuổi đã làm tăng 62,1% bất bình đẳng thu nhập giữa
hai nhóm lao động này. Hơn nữa, giới tính góp phần làm tăng 5,1% bất bình đẳng thu nhập giữa lao động
phi chính thức và chính thức, điều này có thể do định kiến xã hội đã khiến lao động nữ có mức thu nhập
trung bình thấp hơn nam giới.
Thứ hai, nhóm đặc điểm lao động – việc làm góp phần làm giảm 15,9% bất bình đẳng thu nhập giữa hai nhóm
lao động phi chính thức và chính thức. Trong đó, đóng góp của đặc điểm loại hình sở hữu làm giảm 21,9% bất
bình đẳng thu nhập này. Ngược lại, nhóm từ Đại học trở lên đã làm tăng 11,8% bất bình đẳng thu nhập giữa hai
nhóm lao động này. Thực tế, lao động phi chính thức thường có chuyên môn kỹ thuật thấp hơn so với lao động
chính thức là một nguyên nhân dẫn đến sự bất bình đẳng này. Cụ thể, nhóm từ Đại học trở lên thường làm trong

Số 303 tháng 9/2022 19


Bảng 4: Kết quả phân rã Blinder-Oaxaca sự khác biệt về thu nhập
giữa lao động phi chính thức và lao động chính thức
Nhóm đặc điểm cá nhân E C I Total

Giới tính
Nữ -0,041*** 0,071*** 0,021*** 0,051***
(Tham chiếu là nam giới)
Tuổi Tuổi 0,059*** 0,657*** -0,095*** 0,621***
Có vợ/chồng 0,003*** -0,140*** -0,002*** -0,139***
Tình trạng hôn nhân Góa -0,005*** -0,006*** 0,004*** -0,007***
(Tham chiếu là chưa có
vợ/chồng) Ly hôn -0,001*** -0,006*** 0,001*** -0,006***
Ly thân 0,000*** -0,001*** 0,000*** -0,001***
Nhóm đặc điểm lao động - việc làm E C I Total
Sơ cấp 0,004*** -0,006*** -0,001*** -0,003***
Trình độ chuyên môn kỹ
thuật Trung cấp 0,005*** 0,001 0,001 0,007***
(Tham chiếu là không có Cao đẳng 0,011*** 0,000 0,002 0,013***
trình độ chuyên môn kỹ thuật)
Đại học trở lên 0,095*** 0,002*** 0,021*** 0,118***
Tập thể 0,000*** -0,001*** 0,000 -0,001***
Tư nhân 0,133*** -0,027*** -0,107*** -0,001***
Loại hình sở hữu
(Tham chiếu là nhà nước) Hộ Nông Lâm Thủy sản/cá nhân và kinh
-0,305*** -0,060*** 0,050*** -0,315***
doanh cá thể
FDI 0,084*** -0,002*** -0,059*** 0,023***
Nhóm đặc điểm địa lý E C I Total
Đồng bằng sông Hồng 0,014*** -0,032*** -0,011*** -0,029***
Bắc Trung Bộ và duyên hải miền Trung -0,009*** -0,050*** 0,012*** -0,047***

Vùng kinh tế Tây Nguyên -0,010*** -0,024*** 0,011*** -0,023***


(Tham chiếu Trung du và Đông Nam Bộ 0,024*** -0,022*** -0,017*** -0,015***
miền núi phía Bắc) Đồng bằng Sông Cửu Long -0,018*** -0,058*** 0,022*** -0,056***
Hà Nội 0,020*** -0,013*** -0,012*** -0,005***
Hồ Chí Minh 0,022*** -0,009*** -0,013*** 0,000***
Khu vực
Nông thôn 0,040*** 0,067*** -0,026*** 0,081***
(Tham chiếu thành thị)
_Cons 0,252*** 0,252***
Total 0,125*** 0,593*** -0,198*** 0,520***
Mức ý nghĩa thống kê: * p< 0,1; ** p <0,05; *** p < 0,01
Nguồn: Tính toán của nhóm tác giả.
khu vực chính thức với mức thu nhập cao đã góp phần làm gia tăng bất bình đẳng thu nhập.
Thứ
Thứ ba, nhóm đặc điểm cá
nhất, địanhân
lý làmđã giảm
làm tăng
9,3%nhiều nhất đẳng
bất bình (51,9%)
thu trong bất bình
nhập giữa đẳng phi
lao động thu chính
nhập giữa
thứclao

động phi chính thức và chính thức. Trong đó, đặc điểm tuổi đã làm tăng 62,1% bất
chính thức. Cụ thể, đặc điểm vùng kinh tế giảm 17,4% chênh lệch thu nhập giữa hai nhóm lao động này, bình đẳng thu nhập
giữa hai
trong khi nhóm
đó đặclao
điểmđộngkhunày.
vựcHơn nữa,tăng
chỉ làm giới8,1%
tính góp phầnđẳng
bất bình làm tăng 5,1% bất bình đẳng thu nhập giữa lao
thu nhập.
động phi chính thức và chính thức, điều này có thể do định kiến xã hội đã khiến lao động nữ có mức thu
5. Kết
nhập luận
trung vàthấp
bình hàmhơn ý chính sách
nam giới.
Nghiên cứu đã chứng minh và lý giải về mối quan hệ giữa Covid-19, lao động phi chính thức và bất bình
Thứ hai, nhóm đặc điểm lao động – việc làm góp phần làm giảm 15,9% bất bình đẳng thu nhập giữa hai nhóm
đẳng thu nhập. Kết quả nghiên cứu cho thấy, Covid-19 làm giảm xác suất trở thành lao động phi chính thức
lao động phi chính thức và chính thức. Trong đó, đóng góp của đặc điểm loại hình sở hữu làm giảm 21,9% bất
do một
bình số lượng
đẳng lớnnày.
thu nhập lao động
Ngược chính thức buộc
lại, nhóm từ Đạiphải
họcrời
trởkhỏi
lên đãlựclàm
lượng
tănglao độngbất
11,8% trong
bìnhhoàn
đẳngcảnh
thu khó
nhậpkhăn.
giữa
Tuy nhiên, nhóm tác giả đặc biệt nhấn mạnh lao động phi chính thức là nguyên nhân chính
hai nhóm lao động này. Thực tế, lao động phi chính thức thường có chuyên môn kỹ thuật thấp hơn so với gây nên sự bất
lao
bình đẳng này. Bên cạnh đó, kết quả phân rã Blinder-Oaxaca cho thấy nhóm đặc điểm cá nhân góp phần
gia tăng bất bình đẳng thu nhập giữa lao động phi chính thức và chính thức, trong khi nhóm đặc điểm lao
động – việc làm và địa lý có chiều hướng ngược lại. Kết quả nghiên cứu cho chúng ta một số hàm ý về mặt
lý thuyết và thực tiễn.
Về mặt lý thuyết, nghiên cứu này làm đa dạng hơn cho những phát hiện của các nghiên cứu hiện tại về tác

Số 303 tháng 9/2022 20


động của cú sốc đến lao động dễ bị tổn thương và bất bình đẳng thu nhập. Nhóm tác giả cũng sử dụng chỉ
số Theil’s L thay vì Gini như các nghiên cứu trước để đánh giá rõ nét tỷ lệ đóng góp của lao động phi chính
thức và chính thức vào bất bình đẳng thu nhập tổng thể. Bên cạnh đó, phương pháp phân rã Blinder-Oaxaca
cũng được sử dụng để phân tích nguyên nhân dẫn đến bất bình đẳng thu nhập giữa hai nhóm lao động này.
Về mặt thực tiễn, kết quả nghiên cứu là cơ sở để Chính phủ, các tổ chức doanh nghiệp và người lao động
có nhận thức và định hướng phù hợp trong bối cảnh đại dịch Covid-19 vẫn diễn biến phức tạp như hiện nay,
cụ thể:
Kết quả nghiên cứu chỉ ra rằng trình độ chuyên môn của lao động càng cao thì xác suất chuyển dịch
từ lao động chính thức sang phi chính thức càng thấp, do đó, Chính phủ cũng như các doanh nghiệp
cần đẩy mạnh các hoạt động giáo dục đào tạo nhằm mở ra cơ hội học tập tốt hơn, có chất lượng hơn, đồng
thời bảo đảm công bằng xã hội trong giáo dục và đào tạo. Đặc biệt trong bối cảnh cách mạng công nghiệp
lần thứ 4, bên cạnh giáo dục truyền thống cũng cần xây dựng chính sách trong chiến lược giáo dục quốc gia
về giáo dục trực tuyến, giáo dục mở để hướng tới một mô hình mới về phát triển giáo dục toàn diện hơn.
Kết quả cũng cho thấy lao động phi chính thức là nguyên nhân chính gây nên bất bình đẳng thu nhập. Do
vậy, Chính phủ cần tạo thêm việc làm bền vững để đảm bảo lao động phi chính thức duy trì được công việc,
từ đó góp phần làm giảm chênh lệch tiền lương trong nhóm lao động phi chính thức và giữa đối tượng này
với lao động chính thức. Khi có được các công việc bền vững, lao động phi chính thức sẽ ít bị ảnh hưởng
bởi tính bấp bênh của các công việc đang đảm nhận, thu nhập của họ dần được cải thiện. Ngoài ra, việc cung
cấp nhiều việc làm trong khu vực chính thức cũng là điều cần thiết để làm tăng tiền lương cho những người
có thu nhập thấp, cân đối lại phân phối thu nhập trên thị trường lao động.
PHỤ LỤC
Phụ lục 1: Kết quả kiểm định mô hình phù hợp Fitstat
Log-Lik Intercept Only: -188644,431 Log-Lik Full Model: -133272,568
D(305657): 266545,135 LR(28): 110743,727
Prob > LR: 0,000
McFadden's R2: 0,294 McFadden's Adj R2: 0,293
Maximum Likelihood R2: 0,304 Cragg & Uhler's R2: 0,429
McKelvey and Zavoina's R2: 0,451 Efron's R2: 0,351
Variance of y*: 1,822 Variance of error: 1,000
Count R2: 0,807 Adj Count R2: 0,373
AIC: 0,872 AIC*n: 266615,135
BIC: -3,594e+0 BIC': -110390,078

Phụ lục 2: Tỷ lệ dự đoán đúng mô hình


-------- True --------
Classified D ~D Total
+ 196263 43561 239824
- 15421 50447 65868
Total 211684 94008 305692
Classified + if predicted Pr(D) >= .5
True D defined as ldpct != 0
Sensitivity Pr( +| D) 92,72%
Specificity Pr( -|~D) 53,66%
Positive predictive value Pr( D| +) 81,84%
Negative predictive valu Pr(~D| -) 76,59%
False + rate for true ~D Pr( +|~D) 46,34%
False - rate for true D Pr( -| D) 7,28%
False + rate for classified + Pr(~D| +) 18,16%
False - rate for classified - Pr( D| -) 23,41%
Correctly classified 80,71%

Số 303 tháng 9/2022 21


Tài liệu tham khảo
Angel-Urdinola, D. F., & Tanabe, K. (2012), ‘Micro-determinants of informal employment in the Middle
East and North Africa region’, World Bank Group, retrieved on March 10th 2022, from
Tài liệu tham khảo
Angel-Urdinola, D. F., & Tanabe, K. (2012), ‘Micro-determinants of informal employment in the Middle East and North
Africa region’, World Bank Group, retrieved on March 10th 2022, from <https://openknowledge.worldbank.org/
handle/10986/26828>.
Benhura, M., & Magejo, P. (2020), ‘Differences between formal and informal workers’ outcomes during the Covid-19
crisis lockdown in South Africa’, National Income Dynamics Study (NIDS), South Africa.
Bussolo, M., Kotia, A., & Sharma, S. (2021), Workers at risk: Panel data evidence on the COVID-19 labor market
crisis in India, World Bank.
Chari, F., Muzinda, O., Novukela, C., & Ngcamu, B. S. (2022), ‘Pandemic outbreaks and food supply chains in
developing countries: A case of Covid-19 in Zimbabwe’, Cogent Business & Management, 9(1), 1-14.
Chen, G., & Hamori, S. (2013), ‘Formal and informal employment and income differentials in urban China’, Journal
of International Development, 25(7), 987-1004.
De Maio, F. G. (2007), ‘Income inequality measures’, Journal of Epidemiology & Community Health, 61(10), 849-852.
Du, Y., Cai, F., & Wang, M. Y. (2008), Marketization and/or informalization? New trends of china’s employment
in transition, retrieved on March 10th 2022, from <http://iple.cssn.cn/webpic/web/iple/upload/2012/03/
d20120305101119714.pdf>.
Gomes, D. B., Iachan, F. S., & Santos, C. (2020), ‘Labor earnings dynamics in a developing economy with a large
informal sector’, Journal of Economic Dynamics and Control, 113, 1-18.
GSO (2018), Báo cáo Lao động phi chính thức 2016, Hà Nội.
Herrera-Serna, B. Y., Lara-Carrillo, E., Toral-Rizo, V. H., do Amaral, R. C., & Aguilera-Eguía, R. A. (2019),
‘Relationship between the human development index and its components with oral cancer in Latin America’,
Journal of Epidemiology and Global Health, 9(4), 223-232.
Hu, A. G., & Yang, Y. X. (2001), ‘The employment pattern changes: from formal to informal - China’s urban informal
employment analysis’, Management World, 2, 69-78.
ILO (2002), Decent work and the informal economy, Geneva.
ILO (2021), Lao động có việc làm phi chính thức ở Việt Nam: Xu hướng và các yếu tố tác động, Hà Nội.
Komin, W., Thepparp, R., Subsing, B., & Engstrom, D. (2020), ‘Covid-19 and its impact on informal sector workers:
a case study of Thailand’, Asia Pacific Journal of Social Work and Development, 31(1-2), 80-88.
Krstic, G., & Sanfey, P. (2011), ‘Earnings inequality and the informal economy’, Economics of transition, 19(1), 179-
199.
Lê Bảo Lâm, Nguyễn Minh Hà, Lê Văn Hưởng (2015), ‘Mô hình Blinder-Oaxaca trong phân tích kinh tế’, Tạp chí
khoa học Đại học Mở Thành phố Hồ Chí Minh-Kinh tế và quản trị kinh doanh, 10(1), 50-58.
Maloney, W. F. (1999), ‘Does informality imply segmentation in urban labor markets? Evidence from sectoral
transitions in Mexico’, The World Bank Economic Review, 13(2), 275-302.
Megersa, K. (2020), The Informal Sector and COVID-19, Institute of Development Studies, UK.
Mincer, J. (1997), ‘The production of human capital and the life cycle of earnings: Variations on a theme’, Journal of
labor economics, 15(1, Part 2), 26-47.
Mishra, A., & Ray, R. (2010), ‘Informality, corruption, and inequality’, Bath economics research paper, 13(10), 1-34.
Nguyễn Thái Hòa (2017), ‘Bất bình đẳng giới trong thu nhập của người lao động ở Việt Nam’, Tạp chí Khoa học Xã
hội, 6 (226), 10-24.
Rand, J., & Torm, N. (2012), ‘The informal sector wage gap among Vietnamese micro-firms’, Journal of the Asia
Pacific Economy, 17(4), 560-577.

Số 303 tháng 9/2022 22


Søbjerg, L. M (2012), ‘The Meritocracy Trap: How America’s Foundational Myth Feeds Inequality, Dismantles the
Middle Class, and Devours the Elite’, Tidsskrift for Professionsstudier, 16(31), 150-153.
Sokolovska, V., Lazar, Ž., & Tomašević, A. (2015), ‘Measuring social inequality: Comparison of Gini coefficient and
Theil index’, All in one conferences, 96-100.
Tổng cục thống kê (2021), Tình hình lao động việc làm Quý IV và năm 2021, thông cáo báo chí, ngày 6 tháng 1, Hà
Nội.
Vũ Cương & Phạm Văn Vận (biên soạn, 2011), Kinh tế Công cộng, Nhà xuất bản Thống Kê, Hà Nội.
Vũ Hoàng Ngân, Nghiêm Thị Ngọc Bích (2021), ‘Ảnh hưởng của thời gian cho công việc nhà đến khoảng cách tiền
lương theo giới trên thị trường lao động ở Việt Nam’, Tạp chí Kinh tế và Phát triển, 290 (2), 2-11.
Xue, J., Gao, W., & Guo, L. (2014), ‘Informal employment and its effect on the income distribution in urban China’,
China Economic Review, 31, 84-93.
Zuo, H. (2016), ‘How does informal employment impact income inequality?’, Applied Economics Letters, 23(15),
1117-1120.

Số 303 tháng 9/2022 23

You might also like