You are on page 1of 4

Tiểu luận vĩ mô

Đề tài 1. Tình hình lao động và việc làm khu vực phía nam ( TPHCM,
Đông Nam bộ, Đồng bằng sông Cửu Long) trong trạng thái bình thường
mới. Thực trạng và giải pháp
Gợi ý dàn bài:
Phần mở đầu
Phần nội dung
Chương 1. Tác đông của dịch bệnh Covid-19 đến lao động và việc làm
khu vực phía nam
Chương 2. Thực trạng lao động và việc làm trong trạng thái bình thường
mới.
Chương 3. Giải pháp hổ trợ người lao động trong trạng thái bình thường
mới
Phần kết luận

I. Khái quát :

1. Thế nào là trạng thái bình thường mới .


- “Trạng thái bình thường mới” COVID-19 là trạng thái mà tại đó đất
nước vừa tập trung chống dịch, vừa khôi phục và phát triển lại nền kinh tế
như lúc ban đầu.
2. Đặc trưng nhận diện.
- Có 4 điểm đặc trưng để nhận diện “trạng thái bình thường mới”, đó là:
 Khi làm bất kỳ việc gì, phải vừa đảm bảo tính hiệu quả vừa đảm bảo
mục tiêu;
 Dịch bệnh là vấn đề diễn ra trên quy mô toàn cầu, tình huống bất
thường không ai đoán trước được, tác động đến mọi giai tầng xã hội,
không phụ thuộc vào trình độ phát triển hay thể chế chính trị;
 Tác động của dịch bệnh đòi hỏi mỗi con người, tổ chức và toàn bộ hệ
thống xã hội phải năng động và có khả năng chống chịu và thích ứng
với bối cảnh mới;
 Đặt ra nhiều vấn đề phải định hình lại, phải đối mặt với nhiều rủi ro
xã hội: dịch bệnh, thiên tai, biến đổi khí hậu…
3.Tác động của đại dịch covid-19 trước trạng thái “ bình thường mới “.
3.1) Ảnh hưởng đến nền kinh tế.
 Trong 6 tháng đầu năm 2021, tốc độ tăng trưởng GDP của nước ta
chỉ đạt 5,64%, thấp hơn mục tiêu đề ra. Mặc dù đã được cải thiện
đáng kể so với cùng kỳ năm 2020 (1,82%), nhưng vẫn chưa hồi phục
được tốc độ tăng như cùng kỳ các năm 2018 và 2019 (7,05% và

1
6,77%). Thu hút vốn đầu tư phát triển của khu vực ngoài nhà nước và
khu vực FDI đạt thấp. Đầu tư của khu vực ngoài nhà nước năm 2020
chỉ tăng 3,1%, 6 tháng đầu năm 2021 chỉ tăng 7,4% so với cùng kỳ.
Tổng vốn đầu tư nước ngoài vào Việt Nam năm 2020 giảm 25% so
với năm 2019, trong 6 tháng đầu năm 2021 giảm 2,6%. Tỷ lệ thất
nghiệp và thiếu việc làm tăng. Trong Quý II/2021, tỷ lệ thất nghiệp và
tỷ lệ thiếu việc làm của lao động lần lượt là 2,4% và 2,6%, đều tăng
so với Quý I/2021 (2,19% và 2,2%).
3.2) Ảnh hưởng đến doanh nghiệp và lao động.
 Tính đến tháng 12 năm 2020, cả nước có 32,1 triệu người từ 15 tuổi
trở lên bị ảnh hưởng tiêu cực bởi dịch Covid-19 bao gồm người bị
mất việc làm, phải nghỉ giãn việc/nghỉ luân phiên, giảm giờ làm, giảm
thu nhập,… Trong đó, 69,2% người bị giảm thu nhập, 39,9% phải
giảm giờ làm/nghỉ giãn việc/nghỉ luân phiên và khoảng 14,0% buộc
phải tạm nghỉ hoặc tạm ngừng hoạt động sản xuất kinh doanh. Khu
vực dịch vụ chịu ảnh hưởng nặng nề nhất bởi dịch Covid-19 với
71,6% lao động bị ảnh hưởng, tiếp đến là khu vực công nghiệp và xây
dựng với 64,7% lao động bị ảnh hưởng; tỷ lệ lao động bị ảnh hưởng
trong khu vực nông, lâm nghiệp và thủy sản là 26,4% ( báo cáo tác động của dịch
Covid đến tình hình lao động , việc làm quý IV năm 2021 )

 Dịch Covid-19 đẩy 1,3 triệu người vào tình trạng không có việc làm
trong năm 2020, đa phần người mất việc trong độ tuổi lao động.
Riêng trong quý 4–2020 có khoảng 1,2 triệu người thất nghiệp, tăng
136.800 người so với cùng kỳ năm trước ( báo tuổi trẻ ) Nhiều lao động
nhập cư tại các thành phố bị thất nghiệp, thu nhập sụt giảm do giãn
cách xã hội tại gia.
II.Thực trạng lao động và việc làm trong trạng thái bình thường
mới.
1. Nền kinh tế Việt Nam trong trạng thái bình thường mới.

Kinh tế Việt Nam dự kiến đạt mức tăng trưởng 3,8% trong năm nay và
6,5% vào năm 2022. Tăng trưởng đã phục hồi trong nửa đầu năm 2021,
chủ yếu do lưu lượng thương mại tăng cao, nhưng đã chậm lại trong nửa
cuối năm do làn sóng thứ tư của đại dịch ảnh hưởng đến hoạt động kinh
doanh và thị trường lao động. Lạm phát dự báo sẽ được kiềm chế trong
năm 2021 và 2022 do tốc độ tăng trưởng chậm lại (Theo Báo cáo cập nhật Triển vọng Phát
triển Châu Á (ADO) 2021)

2. Đối với doanh nghiệp và lao động


2.1) Đối với doanh nghiệp :
 Doanh nghiệp đóng cửa , lao động mất việc làm.

2
 Thời gian giãn cách xã hội, phong tỏa diện rộng của đợt bùng phát
dịch COVID-19 lần thứ 4 kéo dài từ 2-3 tháng khiến các cộng đồng
doanh nghiệp gặp rất nhiều khó khăn và liên tục phải “đóng cửa” .
 So với cùng kỳ năm 2020, chỉ số sản xuất ngành công nghiệp (IIP)
của TP Hồ Chí Minh tháng 8/2021 giảm 49,2%, tổng mức bán lẻ hàng
hóa và doanh thu dịch vụ tiêu dùng giảm 59,4%. Khoảng 18% doanh
nghiệp EU đã chuyển đơn hàng ra khỏi Việt Nam ( Báo cáo kiến nghị của VASEP
ngày 17/9/2021)
.
 “Nhiều doanh nghiệp đứng trước nguy cơ phá sản, chuỗi cung ứng
trong nước và quốc tế bị đứt gãy, người lao động mất việc làm, nông -
ngư dân không tiêu thụ được sản phẩm. Nhiều lao động ở các tỉnh
không có việc làm, không có lương thực và tiền dự trữ. Tinh thần cao
nhất của cộng đồng doanh nghiệp luôn chung tay với Chính phủ và
Thủ tướng Chính phủ, cùng với cách tiếp cận chống dịch linh hoạt
mới thì yêu cầu khởi động lại nền kinh tế là rất cấp bách” ( Nội dung đơn kiến
nghị của VASEP cùng 13 hiệp hội doanh nghiệp gửi đến Thủ tướng Chính phủ ngày 17/09/2021 )
.
 Chi phí sản xuất tăng nhưng lượng cung ứng hàng hóa bị hạn chế .
 Lao động có việc làm tiếp tục phải đối mặt với nguy cơ rất cao phải
nghỉ việc, giảm giờ làm, giảm thu nhập, không đảm bảo điều kiện làm
việc... Tỷ lệ thất nghiệp, thiếu việc làm tiếp tục gia tăng kéo theo tình
trạng suy giảm lực lượng lao động khi một bộ phận người lao động
phải rời khỏi thị trường.
 Số lượng hàng hóa sản xuất để xuất khẩu và lượng hàng nhập khẩu
sụt giảm nghiêm trọng.
 Từ đầu tháng 10 trở đi, doanh nghiệp dần dần khôi phục hoạt động
sản xuất, kinh doanh để đón đầu nhu cầu tiêu dùng trong dịp lễ, Tết
cuối năm.
2.2) Đối với lao động và việc làm
 Sau 2 đợt dịch và giãn cách diện rộng khiến các hoạt động kinh tế có
phần chững lại vào quý I và quý III/2020, thị trường lao động bắt đầu
có một vài dấu hiệu phục hồi trong quý IV/2020.
 Tính đến hết tháng 10/2021, cả nước có khoảng 15,46 triệu người
tham gia bảo hiểm xã hội, đạt 31,08% lực lượng lao động; khoảng
12,5 triệu người tham gia bảo hiểm thất nghiệp, đạt 25,18% (báo cáo quý
III/2021)
. Con số khiêm tốn này, đặc biệt của bảo hiểm thất nghiệp, khiến
phần lớn người lao động luôn nằm trên ranh giới rủi ro về thu nhập
trong cả ngắn hạn và dài hạn.
 Khả năng kết nối cung-cầu lao động tiếp tục là vấn đề của các cơ
quan quản lý nhà nước, doanh nghiệp và cả người lao động. Hệ thống
thông tin thị trường lao động chưa đầy đủ, thiếu đồng bộ giữa các địa
phương, không có khả năng cập nhật thường xuyên và chưa phản ánh
được mức độ dịch chuyển của lao động-việc làm, đã làm giảm hiệu
quả của công tác giới thiệu việc làm, đặc biệt trong bối cảnh thông tin

3
thị trường thay đổi thường xuyên và liên tục trước ảnh hưởng của
dịch bệnh.
 Đến hết quý III/2021, thị trường lao động-việc làm Việt Nam cơ bản
đi vào giai đoạn ổn định thích ứng với trạng thái bình thường mới.
 Trong suốt quá trình đầu áp dụng “ bình thường mới “ thị trường luôn
phải đối mặt với mức thiếu hụt lao động nghiêm trọng.
 Xu thế dịch chuyển về quê một cách ồ ạt của người lao động từ quý
III kéo dài sang quý IV, dẫn đến việc thiếu hụt lao động ở các khu
kinh tế trọng điểm nhưng thừa lao động ở các vùng, miền khác dẫn
đến thiếu lao động cục bộ gây nên sức ép lớn đối với kinh tế.
 Nguồn cung và cầu lao động trong trạng thái “ bình thường mới” rất
được quan tâm , cung-cầu mất cân đối , cân bằng cục bộ nghiêm trọng
đặc biệt ở các nhóm nghề yêu cầu kĩ năng thấp , các công việc bấp
bênh .

You might also like