Professional Documents
Culture Documents
QI Q II Q III
Q II
Q III
AS1
P0 A
P1
B
P2
C
AD1 AD0
Y
Y1 Y*
Biểu đồ ảnh hưởng của sự suy giảm tổng cầu đến sản lượng và mức giá
Như đã phân tích ở mục 2.1, các doanh nghiệp phải tạm ngừng hoạt động đã tác động tiêu cực
đến thu nhập của chủ doanh nghiệp cũng như người lao động. Trong đó, các doanh nghiệp vừa và
nhỏ là nhóm chịu nhiều khó khăn nhất. Theo thống kê của Ngân hàng Nhà nước, tín dụng của toàn
Ngành đến đầu tháng 5/2020 tăng khoảng 1,2%, tuy nhiên khu vực doanh nghiệp nhỏ và vừa lại
giảm 0,8%. Tác động tiêu cực chủ yếu là về thiếu hụt nguồn vốn, dòng tiền để đảm bảo hoạt động
sản xuất, kinh doanh. Đứng trước tình cảnh khó khăn như thế, các doanh nghiệp bắt buộc phải phản
ứng lại sự giảm sút doanh số bán ra, cũng như các khó khăn về nguồn vốn, dòng tiền trong hoạt
động sản xuất, kinh doanh bằng cách cắt giảm nguồn nhân lực. Từ đây, khiến cho thất nghiệp có xu
hướng tăng lên. Cụ thể, tỷ lệ thất nghiệp chung cả nước trong độ tuổi lao động quý II/2020 là
2,73%, tăng cao nhất trong giai đoạn 2011-20201.
Mặc dù tình hình tài chính, ngân sách của Việt Nam đang gặp khó khăn, nhưng trước ảnh hưởng
nghiêm trọng của đại dịch, Quốc hội và Chính phủ đã quyết định sử dụng mọi nguồn lực tài chính
cho giai đoạn hậu COVID-19 thông qua việc áp dụng các chính sách tài khóa và tiền tệ. Dựa vào
các dự báo Ngân hàng Thế giới và Ngân hàng Phát triển châu Á, theo suy đoán xác suất xảy ra
trong hồi phục kinh tế của Việt Nam theo mô hình chữ V là cao nhất, vì các lý do chính sau đây:
Khả năng tương đối cao dịch bệnh kết thúc trong mùa hè; Chính phủ đang quyết tâm thúc đẩy tăng
trưởng với các giải pháp hợp lý kể cả từ chính sách tài khóa và chính sách tiền tệ (Gia hạn thời hạn
nộp thuế giá trị gia tăng, thuế thu nhập doanh nghiệp, thuế thu nhập cá nhân và tiền thuê đất; tạm
dừng đóng quỹ bảo hiểm hưu trí, tử tuất; doanh nghiệp được hỗ trợ tiền để trả lương trong trường
hợp người lao động ngừng việc tạm thời...); Các nước lớn đang trình phê duyệt các gói giải cứu
kinh tế chưa từng có trước đây (như Hoa Kỳ với gói giải cứu lên tới 2000 tỷ USD), các quốc gia
phương Tây và Trung Quốc cũng đưa ra các gói kích thích kinh tế mạnh mẽ, vì vậy khi tình hình từ
quý II/2020 dịch bệnh được kiểm soát và đẩy lùi sẽ giúp kinh tế thế giới hồi phục sau đại dịch. Các
chính sách này góp phần hỗ trợ các doanh nghiệp vượt qua giai đoạn khó khăn, từ đó giảm thiểu tỷ
lệ thất nghiệp, đảm bảo nguồn thu nhập ổn định và cải thiện khả năng chi tiêu.
*Quý III/2020:
1
Tỷ lệ thất nghiệp chung cả nước trong độ tuổi lao động quý II giai đoạn 2011-2020 lần lượt là: 2,22%, 1,87%, 2,17%,
1,84%, 2,42%, 2,29%, 2,26%, 2,19%, 2,16%, 2,73%
Theo báo cáo của Bộ Công Thương, trong Quý III/2020, kim ngạch xuất khẩu đạt 80,07 tỷ
USD, tăng 11% so với cùng kỳ năm trước và tăng 34,4% so với quý II năm nay. Tính chung 9 tháng
năm 2020, cán cân thương mại hàng hóa tiếp tục xuất siêu 16,99 tỷ USD (cùng kỳ năm trước xuất
siêu 7,27 tỷ USD). Khu vực kinh tế trong nước có kim ngạch xuất khẩu 9 tháng đạt 71,83 tỷ USD,
tăng mạnh 20,2%, chiếm 35,4% tổng kim ngạch xuất khẩu. Khu vực có vốn đầu tư nước ngoài (kể
cả dầu thô) đạt 131,03 tỷ USD, giảm 2,9%. Về nhập khẩu, trong quý III/2020, kim ngạch nhập khẩu
đạt 68,54 tỷ USD, tăng 3% so với cùng kỳ năm trước và tăng 18,5% so với Quý II năm nay, cho
thấy sản xuất bắt đầu phục hồi, nhu cầu nhập khẩu có xu hướng tăng lên.
Bên cạnh tình hình xuất nhập khẩu, các doanh nghiệp cũng dần “hồi sức” sau thời gian bị ảnh
hưởng nghiêm trọng do dịch Covid-19 gây ra. Chính vì tình hình hoạt động của các doanh nghiệp
đang dần ổn định, cho nên tỷ lệ thất nghiệp trong độ tuổi lao động quý III năm 2020 là 2,50%,
nghĩa là đã giảm 0,23% so với quý trước (Quý I là 2,22%; Quý II là 2,73%). Tỷ lệ thất nghiệp giảm
so với Quý 2 cho thấy hoạt động kinh doanh có thể đang bắt đầu phục hồi, tuy vậy, số doanh nghiệp
tạm ngừng kinh doanh vẫn còn tăng cao cho thấy sự phục hồi này có thể sẽ cần nhiều thời gian,
cũng như sự phối hợp với các chính sách hỗ trợ của Chính phủ.
CPI tháng 9 tăng 2,98% so với cùng kỳ năm ngoái và tăng 0,12% so với tháng 8. Nguyên nhân
chính đến từ (i) hàng ăn và dịch vụ ăn uống tăng 10,79% do giá thực phẩm tăng 13,27%; (ii) giáo
dục tăng 2,66% do thực hiện lộ trình tăng học phí cho năm học mới 2020-2021; (iii) nhóm nhà ở và
vật liệu xây dựng tăng 0,94%, do giá điện sinh hoạt tăng 3,23%; và (iv) nhóm hàng giao thông giảm
12,57%, so với Quý trước (giảm 20,12%) do giá xăng dầu tăng và nhu cầu đi lại sau lệnh phong tỏa
vì dịch bệnh hồi đầu tháng 7 tăng. Dẫn đến, lạm phát có xu hướng giảm trong Quý III (lạm phát
tháng 07/2020 là 3,39%; tháng 8 là 3,18%; tháng 9 là 2,87%) do tình hình dịch bệnh tại Việt Nam
được khống chế tốt, giá xăng dầu tăng trở lại, cũng như tình hình dịch tả lợn châu Phi đã được kiểm
soát tốt và các chính sách bình ổn giá khiến giá thực phẩm nói chung và giá thịt lợn nói riêng giữ
mức ổn định.
3. Khuyến nghị chính sách
3.1. Những chính sách và giải pháp đã triển khai
Tính đến hết quý III - 2020, Ngân hàng nhà nước đã ba lần hạ mức các công cụ lãi suất điều
hành và gói hỗ trợ tín dụng 250 nghìn tỷ VND vẫn đang được các ngân hàng thương mại triển khai.
Ngân hàng Nhà nước đã ra Thông tư số 01/2020/TT-NHNN “Quy định về việc các tổ chức tín
dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài cơ cấu lại thời hạn trả nợ, miễn, giảm lãi, phí, giữ nguyên
nhóm nợ nhằm hỗ trợ khách hàng chịu ảnh hưởng do dịch COVID-19”. Nhiều ngân hàng đã tiến
hành cơ cấu lại nợ, giảm lãi suất vay cho các doanh nghiệp đã và đang bị thiệt hại với Covid-19.
Bộ Tài chính cũng thực hiện nhiều chính sách về miễn, giảm nhiều loại phí, lệ phí, nổi bật là
giảm 50% lệ phí trước bạ đối với xe ô tô sản xuất, lắp ráp trong nước đến hết năm 2020 nhằm kích
cầu tiêu dùng đối với lĩnh vực này ở thị trường nội địa.
Bộ Công thương tiến hành phát động trên toàn quốc phong trào “Tháng khuyến mại tập trung
quốc gia 2020” diễn ra trong suốt tháng 7/2020, nhằm kích thích tiêu dùng nội địa; khôi phục sản
xuất và thúc đẩy phát triển công nghiệp, thương mại trong giai đoạn “bình thường mới”. Đơn cử là
việc các doanh nghiệp có thể đưa ra mức khuyến mãi lên tới 100% thay vì tối đa chỉ là 50% như
trước đây nhằm kích thích tiêu dùng,khôi phục hoạt động thương mại, hỗ trợ cho các doanh nghiệp
đang gặp khó khăn trong hoạt động buôn bán lẻ. Các chính sách về kích cầu du lịch cũng đã và thực
hiện kịp thời nhằm “cứu lấy” ngành du lịch, và đặc biệt là các hàng không - lĩnh vực chịu ảnh
hưởng nặng nề từ đại dịch Covid-19 cũng như các biện pháp đóng cửa và cách ly xã hội trên diện
rộng gây nên.
Ngoài ra, Chính phủ đã ra nhiều chính sách kịp thời nhằm hồi phục nền kinh tế hậu Covid như:
Gia hạn nộp thuế giá trị gia tăng, thuế thu nhập doanh nghiệp, thuế thu nhập cá nhân và tiền thuê
đất; tạm dừng đóng quỹ bảo hiểm hưu trí, tử tuất; doanh nghiệp được hỗ trợ tiền để trả lương trong
trường hợp người lao động ngừng việc tạm thời...
Đáng chú ý còn có Nghị định số 41/2020/NĐ-CP “Về việc gia hạn thời hạn nộp thuế và tiền
thuê đất cho đối tượng chịu ảnh hưởng bởi dịch Covid-19”, đây được xếp vào nhóm “chính sách tức
thời”, được thực hiện rất sớm trong giai đoạn đầu tiên bị ảnh hưởng bởi dịch bệnh, đã giúp tạo
luồng tiền cho doanh nghiệp, hộ kinh doanh trong bối cảnh gặp khó khăn về dòng tiền do suy giảm
đột ngột về thị trường tiêu thụ hàng hóa, dịch vụ….
3.2. Những chính sách và giải pháp cho thời gian tới
Có thể khẳng định, việc duy trì nền kinh tế tăng trưởng dương là một thành công lớn của Chính
phủ Việt Nam trong việc “vừa chống dịch, vừa phát triển kinh tế” với những chính sách và giải phải
kịp thời. Tuy nhiên, đại dịch Covid-19 vẫn đang tiếp tục hiện diện và tàn phá nặng nề kinh tế thế
giới, do đó chúng ta cần những biện pháp căn cơ và có tính ổn định trong thời gian sắp tới.
Trong ngắn hạn, chính phủ có thể thiết lập các chương trình làm việc tạm thời cho lao động
nhập cư thất nghiệp, cấp các biện pháp xóa nợ cho các doanh nghiệp và cá nhân, và giảm bớt thủ
tục hải quan liên vùng để tăng tốc nhập khẩu và xuất khẩu hàng hóa thiết yếu.
Trong việc hỗ trợ doanh nghiệp thiệt hại do Covid-19, cần phân biệt mức độ bị ảnh hưởng giữa
các doanh nghiệp.Đối với khu vực chính thức, cú sốc cầu ảnh hưởng đến các doanh nghiệp trong
các lĩnh vực khác nhau, và vì vậy các chính phủ cần nhắm mục tiêu vào các doanh nghiệp bị ảnh
hưởng xấu nhất trước tiên. Nhóm nghiên cứu kiến nghị 3 nhóm như sau:
(1) Các doanh nghiệp có nhu cầu liên tục (như các doanh nghiệp kinh doanh nhu yếu phẩm và
các sản phẩm y tế)
(2) Các doanh nghiệp phải đối mặt với nguy cơ giảm lượng cầu trên thị trường (bao gồm nhà
hàng, du lịch, giải trí, giao thông và du lịch)
(3) Các doanh nghiệp phải đối mặt với nguy cơ chậm trễ về lượng cầu trên thị trường (bao gồm
các sản phẩm tiêu dùng và sản xuất và các dịch vụ kinh doanh liên quan)
Các doanh nghiệp trong mục (1) ở trên không cần hỗ trợ, trong khi các doanh nghiệp trong mục
(2) và (3) ở trên cần được hỗ trợ ưu tiên trước. Những doanh nghiệp trong mục (2) có thể được trợ
cấp bằng tiền mặt, trong khi những doanh nghiệp trong mục (3) ở trên có thể được hỗ trợ bằng hình
thức cho vay với lãi suất thấp, vì nhu cầu cho đầu ra của họ có thể sẽ trở lại.
Chính phủ nên cho phép các doanh nghiệp nhỏ và vừa hạch toán đầy đủ chi phí liên quan đến
tiền lương, tiền công và các khoản có liên quan đến tiền lương, tiền công phát sinh trong năm 2020.
Đối với chính sách đổ hỗ trợ doanh nghiệp, cần quy định điều kiện để hưởng là không được sa
thải người lao động và không được giảm lương người lao động không chỉ năm 2020 mà cho đến hết
năm 2021
Chính phủ cần chủ trương đẩy nhanh giải quyết chi ngân sách nhà nước cho đầu tư công.
Trong dài hạn, cần có những giải pháp nhằm tăng cường khả năng tự chủ và khả năng chống
chịu của nền kinh tế Việt Nam trước tác động từ kinh tế Thế giới. Chính phủ và các doanh nghiệp
nhất thiết phải tính đến chuyện chuyển hướng nền kinh tế tiêu thụ truyền thống sang nền kinh tế số
và nền kinh tế tuần hoàn. Covid-19 được cho là một “đòn bẩy” để thúc đẩy nền kinh tế số, đặc biệt
trong lĩnh vực thương mại điện tử.
Chính phủ nên cân nhắc về các khoản chi ngân sách để tái thiết nền kinh tế hậu Covid, cụ thể là
trong giai đoạn 5 năm tới. Những thách thức từ Covid-19 cũng là một làn sóng “sàng lọc tự nhiên”
đối với các doanh nghiệp, hay nói cách khác là sự tự tái thiết nền kinh tế. Nền kinh tế tự tái thiết
kinh tế (tái thiết tự nhiên) và Chính phủ tái thiết kinh tế (tái thiết chủ động) sẽ tôi luyện doanh
nghiệp bản lĩnh, dẫn đầu; đồng thời, lọc bỏ những doanh nghiệp yếu kém, không tôn trọng luật pháp
và có thể gây nguy hại môi trường.
Ngoài ra, Việt Nam cần tận dụng tốt cơ hội từ các hiệp định thương mại quốc tế để tạo động lực
phát triển nền kinh tế. Hiệp định EVFTA được ký kết và sắp có hiệu lực sẽ là một động lực mới cho
tăng trưởng xuất khẩu hàng hóa của Việt Nam trong thời Covid-19. Chính phủ và các doanh nghiệp
cần có những chính sách cũng như chiến lược phát triển để khai thác triệt để những lợi ích mà
EVFTA mang lại để tăng trưởng nền kinh tế, vượt qua tác động tiêu cực của Covid-19.
4. Tổng kết
Nhìn chung, nền kinh tế Việt Nam đã và đang gánh chịu những ảnh hưởng rất lớn do đại dịch
COVID-19 gây ra. Sự ảnh hưởng này được thể hiện rõ nét thông qua các tác động đến tổng cung,
tổng cầu và trạng thái cân bằng vĩ mô. Đây được xem là một thách thức lớn đối với Chính phủ khi
vừa phải đảm bảo công tác phòng, chống dịch hiệu quả, vừa phải đảm bảo sự ổn định của nền kinh
tế.
Qua bài nghiên cứu, nhóm tác giả đã tiến hành phân tích, diễn giải cũng như minh họa các tác
động đến tổng cung, tổng cầu, đồng thời đề cập đến những chính sách hiệu quả mà Chính phủ đã
triển khai để giải quyết những khó khăn của nền kinh tế trong bối cảnh hiện tại. Ngoài ra, nhóm tác
giả cũng đề xuất các giải pháp, chính sách khả thi nên thực hiện trong thời gian tới, nhằm hướng
đến mục tiêu: không chỉ giải quyết tình trạng khó khăn hiện tại của nền kinh tế, mà còn giải quyết
“bài toán” phát triển mạnh mẽ hậu COVID-19 của Việt Nam.