You are on page 1of 7

P

QI Q II Q III
II

Y ( Nghìn tỉ đồng)
0 1.193.485 1.382.951 1.593.586

Biều đồ đường tổng cầu kinh tế Việt Nam Quý I 2020 đến Quý III 2020

1. Tác động của Đại dịch Covid 19 lên Tổng cung Việt Nam
1.1. Tác động đến chi tiêu người dân ( C)
Ở đây ta dùng số liệu Tổng mức bán lẻ hàng hóa và dịch vụ trong cả nước để minh họa cho số liệu
Chi tiêu người dân ( C). Theo số liệu thống kê của Bộ Kế hoạch Đầu từ thì Tổng mức bán lẻ hàng hóa
và doanh thu dịch vụ tiêu dùng các quý 2020 như sau
Quý I 2020: 1225814 tỷ đồng
Quý II 2020: 1141882 tỷ đồng
Quý III 2020: 1305836 tỷ đồng
Dữ liệu của Bộ Kế hoạch và Đầu tư cho thấy Mức bán lẻ hàng hóa và dịch vụ Quý I 2020 tăng
3.2% so với cùng kỳ năm trước. Số liệu Quý II thì lại giảm 5.5% so với cùng kỳ năm 2019. Số liệu
của Quý III thì đã tăng trở lại 4.5% so với cùng kì năm 2019.
Dịch Covid 2019 đã làm hoạt động kinh doanh của rất nhiều doanh nghiệp bị ảnh hưởng, nhiều
doanh nghiệp phải ngừng hoạt động hoặc thậm chí là phá sản. Theo Báo cáo của Bộ Kế hoạch thì 9
tháng đầu năm 2020 số lượng Doanh nghiệp tạm ngừng kinh doanh có thời hạn là 38629 doanh
nghiệp, tăng 81.8 % so với cùng kỳ năm 2019. Con số này cho thấy tác động to lớn của dịch Covid
lên hoạt động của các doanh nghiệp. Hệ quả của việc doanh nghiệp phải ngừng hoạt động đó là thu
nhập của người chủ doanh nghiệp cũng như người lao động đều bị sụt giảm. Vì thế mà thu nhập khả
dụng của các hộ gia đình Việt Nam bị sụt giảm dẫn đến Chi tiêu của người dân vào hàng hóa và dịch
vụ cũng giảm theo . Và trong suốt 9 tháng đó thì thời điểm dịch hoành hành nhiều nhất là vào Quý II.
Thời điểm từ tháng 4 đến tháng 6 là giai doạn dịch trầm trọng nhất. Vì lẽ đó mà ta thấy rằng Chi tiêu
người dân đã giảm mạnh vào Quý II khi so sánh với cùng kì năm 2019. Đến Quý III thì do dịch Covid
đã tạm lắng xuống nên hoạt động kinh doanh có phần khởi sắc trở lại từ đó kéo theo người dân có
nhiều thu nhập hơn để chi tiêu mua hàng hóa và dịch vụ. Nhưng nhìn chung thì do tác động to lớn của
DỊch Covid đén hoạt động kinh doanh và qua đó là tác động đến thu nhập và Chi tiêu người dân (C)
đã có ảnh hưởng tiêu cực đến Tổng cầu Việt Nam. Lẽ ra tác động này sẽ làm đường tổng cầu dịch
chuyển sang tría những do những chính sách sẽ được đề cập ở phần sau nên cuối cùng đường tổng cầu
vẫn dịch chuyển sang phải.

1.2. Tác động đến Đầu tư (I)


Yếu tố Đầu tư có thể được thấy rõ nhất qua số liệu Vốn đăng ký mới của Bộ Kế hoạch và đầu tư.
Cụ thể, theo báo cáo của Bộ thì Vốn đăng ký ở Việt Nam 3 quý đầu năm như sau:
Quý I: 351369 tỷ đồng
Quý II: 345720 tỷ đồng
Quý III: 731393 tỷ đồng
Dự liệu của Bộ Kế hoạch cho thấy số vốn đăng ký mới của Quý I 2020 đã giảm 6.4 % so với cùng
kỳ năm 2019. Sang quý II sự sụt giảm còn trầm trọng hơn khi số vốn đăng ký mới giảm 27.3% so với
cùng quý II 2019. Đến Quý III 2020 thì tình hình có sự khởi sắc khi số vốn đăng ký mới tăng 70.2%
so với cùng kỳ năm ngoài. Nhìn chung thì 9 tháng đầu năm 2020 số vốn đăng ký vẫn tăng 10.7% so
với cùng ký năm 2019.
Việc vốn đăng ký mới hay có thể hiểu là Đầu tư (I) của Quý I và Quý II 2020 giảm mạnh so với
cùng kỳ năm 2019 chính là do tác động của Dịch Covid. Như đã nói ở phần trên, Dịch Covid làm ảnh
hưởng nghiêm trọng đến hoạt động kinh doanh của các doanh nghiệp, làm cho thị trường đầu tư Việt
Nam những tháng dịch gần như đóng bang. Tâm lí bi quan về triển vọng kinh tế của các nhà đầu tư đã
làm cho Đầu tư (I) của kinh tế Việt Nam giảm mạnh so với với năm ngoài. Đặc biệt là vào Quý II
2020 khi dịch có diễn biến nghiêm trọng, phức tạp nhất cũng là lúc Đầu tư (I) của Việt Nam giảm
thấp đáng kể. Tất cả sự sụt giảm trong Vốn kinh doanh mới hày nói cách khác là Đầu tư (I) này đều
tác động tiêu cực đến Tổng Cầu của Việt Nam.
1.3. Tác động của Dịch Covid đến Chi tiêu Chính phủ (G)
Theo số liệu của Bộ Kế hoạch và Đầu tư thì Số Vốn đầu Nhà nước (tức là chi tiêu chính của Nhà
nước trong số các khoản chi mua hàng hóa và dịch vụ sau các khoản chi thường xuyên) thì vốn đầu tư
qua các Quý 2020 là:
Quý I: 60503
Quý II: 96887
Quý III: 145586
Dữ liệu của Bộ Kế hoạch cho thấy Vốn đầu tư Nhà nước Quý I tăng 18.4% so với cùng ký năm
2019. Vốn đầu tư Nhà nước Quý II tiếp tục tăng 23.6% so với cùng kỳ năm trước. Sang Quý III Vốn
đầu tư Nhà nước có sự tăng mạnh, tăng 48.9% so với cùng kỳ Quý III 2019.
Đại dịch Covid 2019 có tác động rất lớn đến chi tiêu Chính phủ. Nhà nước để khắc phục hảnh
hưởng tiêu cực của đại dịch lên nền kinh tế đã tăng mạnh chi tiêu công. Chính phủ Việt Nam trong
giai đoạn dịch vừa qua cũng đã có những khoản đầu tư lớn vào vật tư ngành y tế. Những khoản chi
tiêu lớn đã được dùng để mua sắm thêm máy móc thiết bị phục vụ cho công tác chống dịch như: máy
thở, khẩu trang ý tế,… Sự đầu tư mạnh vào ngành y tế này đã góp phần lớn làm tăng chi tiêu Chính
phủ. Bên cạnh đó các dự án xây dựng cơ sở hạ tầng lớn vẫn tiếp tục được tiến hành trong năm 2020
mặc dù chịu ảnh hưởng của dịch như: Dự án Đường sắt đô thị TP. Hồ Chí Minh, Đường sắt Đường
sắt Cát Linh - Hà Đông, Cao tốc Trung Lương - Mỹ Thuận,… Việc Nhà nước tiếp tục tiến hành đầu
tư ngân sách vào các dự án này góp phần nâng cao chi tiêu chính phủ. Như chúng ta đã biết, theo lý
thuyết Kinh tế Vĩ mô việc tăng chi tiêu chính phủ (G) sẽ có tác động tích cực đến Tổng cầu của Việt
Nam, làm cho đường tổng cầu dịch chuyển sang phải.
1.4 Tác động của Dịch Covid đến xuất khẩu ròng (NX)
Theo số liệu báo cáo của Bộ Kế hoạch và Đầu tư, xuất khẩu ròng của Việt Nam trong 3 quý đầu 2020
cho thấy những biến động bất thường. Sự thay đổi này đã phản ánh tác động của Covid-19 đến giá trị
xuất nhập khẩu, một trong bốn yếu tố ảnh hưởng đến tổng cầu của Việt Nam.
Xuất khẩu ròng quý I năm 2020 đạt 7.246 triệu USD, giảm 3.335 triệu USD so với quý IV năm 2019
và giảm 326 triệu USD so với cùng kỳ năm trước. Một điểm cần lưu ý, quý I năm 2020 cũng chính là
thời điểm đại dịch Covid-19 bắt đầu bùng phát và tàn phá nền kinh tế toàn cầu, và Việt Nam cũng
không phải là ngoại lệ. Những biểu hiện suy giảm ở quý I chủ yếu xuất phát từ sự gián đoạn thương
mại với thị trường Trung Quốc - một trong những đối tác thương mại lớn nhất nước ta, đặc biệt là
xuất khẩu hàng nông, thủy sản và nhập khẩu nguyên phụ liệu phục vụ sản xuất trong nước, do hầu hết
nguyên liệu sản xuất của Việt Nam như may mặc, linh kiện điện tử được nhập khẩu từ Trung Quốc.
Hoạt động xuất nhập khẩu của Việt Nam chỉ thực sự “ngấm đòn” mạnh mẽ trong quý II năm 2020,
sau khi COVID-19 gây hậu quả nghiêm trọng trên toàn cầu, trong đó có các đối tác thương mại lớn
của Việt Nam như: Mỹ, EU, Nhật Bản, ASEAN… Quý II năm 2020 tiếp tục ghi nhận sự sụt giảm giá
trị xuất khẩu ròng, cụ thể, xuất khẩu ròng Việt Nam đạt 6.962 triệu USD, giảm 1.148 so với cùng kỳ
năm ngoái và giảm 284 triệu USD so với quý trước đó. Nguyên nhân xuất phát từ việc các nước thực
hiện chính sách đóng cửa, cách ly xã hội trên diện rộng, qua đó là gián đoạn chuỗi cung ứng toàn cầu
trên tất các cả lĩnh vực, nhu cầu tiêu dùng của người dân giảm đáng kể.
Tuy nhiên, một điểm sáng trong hoạt động xuất nhập khẩu là trong quý III năm 2020 xuất khẩu ròng
của Việt Nam đã tăng trưởng mạnh mẽ so với kỳ trước liền kề, và cả tăng so với cùng kỳ năm trước.
Cụ thể là tăng 6.035 triệu USD so với quý II, và tăng 3.403 triệu USD so với cùng kỳ. Điều này xuất
phát từ việc chúng ta đã thành công trong việc ngăn chặn đại dịch Covid-19 lây lan trong nước, từ đó
bước đầu ổn định các hoạt động sản xuất trong nước. Từ đó, tận dụng tốt các cơ hội từ Covid-19 như
xuất khẩu các trang thiết bị y tế, đẩy mạnh sản xuất và xuất khẩu các mặt hàng chủ lực để phục vụ cho
nhu cầu tiêu dùng trên toàn cầu. Ngoài ra, Việt Nam hưởng lợi lớn từ làn sóng dịch chuyển sản xuất
khỏi Trung Quốc khi dần trở thành một công xưởng mới của thế giới. Việc tăng trưởng đáng kể xuất
khẩu ròng trong bối cảnh các nước khác trên thế giới vẫn đang “vật lộn” với cơn khủng hoảng kinh tế
do Covid-19 mang lại đã chứng minh cho sức bật kinh tế đáng ngạc nhiên của thị trường Việt Nam.
2.1. Những tác động đến tổng cung:

P
QI
Q II
Q III

1.193.485 1.382.951 1.593.586 Y (nghìn tỷ đồng)


Quý I : Tổng GDP quý I năm 2020: 1.193.485 nghìn tỷ đồng, giảm 40,64% so với quý IV năm 2019,
tăng 3,68% so với cùng kỳ năm trước. Đây là mức tăng thấp nhất của quý I trong giai đoạn (2011-
2020).
Quý II: Tổng GDP quý II năm 2020: 1.382.951 nghin tỷ đồng, tăng 15,9% so với quý I năm 2020,
tăng 0,36% so với cùng kỳ năm trước. Đây là mức tăng thấp nhất của quý II trong giai đoạn (2011-
2020).
Quý III: Tổng GDP quý III năm 2020: 1.593.586 nghìn tỷ đồng, tăng 15,2% so với quý II năm 2020,
tăng 2,62% so với cùng kỳ năm trước. Đây là mức tăng thấp nhất của quý III trong giai đoạn (2011-
2020).
*Phân tích và đánh giá:
- Như ta thấy ở quý I năm 2020, tổng số GDP giảm cực kỳ lớn so với quý IV năm 2019 cho thấy ảnh
hưởng tiêu cực của bối cảnh covid-19 vô cùng lớn đến mọi lĩnh vực kinh tế-xã hội ở Việt Nam. Đảng
và nhà nước ta đã đưa mục tiêu chống covid-19, “chống dịch như chống giặc” lên hàng đầu, nhằm bảo
vệ sức khoẻ đời sống của công dân Việt Nam để đánh đổi lợi ích kinh tế. Tuy mức tăng trưởng GDP
vẫn tăng nhưng lại đạt ngưỡng thấp nhất so với các quý của các năm trong cùng giai đoạn (2011-
2020), cho thấy sự nỗ lực không ngừng nghỉ đến từ chính phủ, bộ máy nhà nước để tiếp tục duy trì sự
tăng trưởng kinh tế để không rơi vào tình trạng tăng trưởng âm. Đây có thể coi là một thắng lợi nho
nhỏ trong công cuộc chống dịch covid-19, đồng thời duy trì các hoạt động kinh doanh liên quan đến
các lĩnh vực sản xuất liên quan đến y tế.
-Còn ở quý II năm 2020, tổng số GDP tăng một mức đáng kể so với quý I năm 2020 nhưng tại đây
cho thấy tốc độ tăng trưởng GDP đạt ngưỡng thấp nhất của quý II trong các năm chỉ 0,36% qua đó
cho thấy quý II chịu ảnh hưởng tiêu cực rất nặng đến từ covid-19 vì đây là khoảng thời gian dịch bùng
phát rất mạnh và chính phủ cũng đưa ra rất nhiều giải pháp mạnh mẽ như là giãn cách xã hội, đóng
cửa biên giới,… để chấp nhận đánh đổi tăng trưởng để đảm bảo an toàn quốc gia.
-Tại quý III năm 2020, ta nhận thấy được sự dịch phải của tổng cung có thể coi là đáng kể khi xét vào
bối cảnh dịch covid-19 đang diễn biến phức tạp trên thế giới. Tổng số GDP và tốc độ GDP tăng
trưởng đều được cải thiện. Dịch covid-19 đã được nhà nước ta kiểm soát chặt chẽ ở từng khu vực,
cũng như ý thức của người dân nâng cao. Từng bước năng động trở lại vào điều kiện bình thường mới
cho thấy sự khởi sắc trong khó khăn của quý III so với quý II cùng năm 2020.
-Trên bề nổi của tảng băng chìm, những tác động tiêu cực không những ảnh hưởng đến tổng cầu như
thường lệ mà nay còn tác động tiêu cực đến tổng cung làm đường tổng cung AS ở quý I 2020 dịch trái
so với quý IV năm 2019:
+ Yếu tố chi phí sản xuất: Yếu tố này không ảnh hưởng quá nhiều đến tổng cung trong thời điểm này
vì đa phần các yếu tố liên quan đến chi phí sản xuất đều bị động trước dịch covid-19.
+ Yếu tố mức giá kỳ vọng: Đây là một trong những biến số mới quan trọng tác động lên vị trí của
tổng cung ngắn hạn. Khi covid-19 diễn ra việc cắt giảm lực lượng lao động ở đa số các ngành nghề là
bắt buộc, thậm chí là doanh nghiệp tạm ngưng sản xuất hoạt động dẫn đến người lao động và doanh
nghiệp kỳ vọng mức giá cao hơn ở các ngành nghề thuận lợi trong mùa dịch, phổ biến là ở các cá
nhân quan trọng trong lĩnh vực ý tế, sản xuất công cụ phục vụ y tế,.. họ có khuynh hướng đàm phán
với mức lương danh nghĩa cao. Nhưng vấn đề ở đây là việc kỳ vọng này chỉ đến từ một số ít, và mức
lương đàm phán trên có thể đến từ ngân sách nhà nước nên yếu tố này cũng không ảnh hưởng mấy
đến việc đường tổng cung AS dịch trái.
+ Ta xét đến các nhân tố sản xuất:
Đầu tiên là lao động (L): Đây có thể nói là một yếu tố trọng tâm làm ảnh hưởng đến đường tổng
cung AS ngắn hạn dịch trái. Nhận thấy dễ nhất đó là yếu tố con người, yếu tố nguồn nhân lực. Dòng
dịch chuyển nguồn nhân lực bị tê liệt hoàn toàn khi mà các công nhân, các kỹ sự, chuyên gia, người
lao động,.. đi du lịch hay đi công tác ngoài nước không thể trở về nước mình. Kể cả trong nước cũng
bị ảnh hưởng mạnh khi mà việc giãn cách xã hội làm cho các doanh nghiệp bắt buộc tạm ngưng sản
xuất cũng như thu hẹp quy mô, cắt giảm nguồn lao động. Dẫn đến lợi nhuận giảm. Việc này là hạt
nhân khiến cho đường tổng cung dịch trái. Ta có logics sau: L giảm -> π giảm -> AS dịch trái. Ở quý
I,II năm 2020 tình hình lao động chịu tác động tiêu cực của đại dịch Covid-19, tỷ lệ thất nghiệp tăng
cao, còn lực tỷ lệ tham gia lực lượng lao động rất thấp, nhu cầu thị trường lao động cũng giảm sút
theo làm cho tỷ lệ thiếu việc làm cho nhóm lao động trong độ tuổi tăng cao nhất trong năm mười năm
trở lại đây. Số liệu cho thấy tỷ lệ thất nghiệp ở 2 quý trên (quý I 2,02%; quý II 2,53%) tăng đáng kể.
Nhưng khi tới quý III ta thấy được dấu hiệu hồi sinh với 2,29% về số tỷ lệ thất nghiệp giảm 0,24% so
với quý 2. Tuy vậy quý III vẫn ở mức cao nhất so với các năm cùng kỳ trong giai đoạn 10 năm trở lại
đây.
Yếu tố thứ hai là tư bản hay vốn (K): Ở đây bao gồm cả số lượng máy móc và trình độ người
lao động. Do tác động của covid-19 nên nhiều doanh nghiệp đã thu hẹp quy mô hoặc ngừng hoạt động
để chờ giải thể. Theo thống kê ở quý I năm 2020, 12,2 nghìn doanh nghiệp ngừng hoạt động và chờ
giải thể. Tuy quý II năm 2020 là quý chịu thiệt hại nặng nề nhất nhưng nhờ sự nổ lực của chính phủ
và nhà nước cũng như người dân thực hiện các biện pháp giãn cách xã hội, rửa tay, phòng chống dịch
mà đã có dấu hiệu vực dậy với số doanh nghiệp hoạt động trở lại tăng 16,4%, doanh nghiệp ngưng
hoạt động chờ giải thể 10,2% và doanh nghiệp hoàn tất thủ tục giải thể là 5%. Ở quý III vấn đề có
khởi sắc nhưng không hoàn toàn là nằm ở việc áp lực chi phí sản xuất cũng như một số vấn đề nợ nần
mà doanh nghiệp gặp phải khiên doanh nghiệp trở lại hoạt động gần như là không thể và giảm so với
tháng trước. Việc doanh nghiệp trở lại hoạt động tăng 90% so với cùng kỳ năm 2019. Doanh nghiệp
hoàn tất thủ tục giải thể ở quý III/2020 tăng 22,6% và 14,1% so với cùng kỳ các năm khác. Sau 3 quý
vấn đề về vốn được thể hiện một cách rõ ràng và làm cho đường tổng cung ngắn hạn dịch trái rồi dịch
phải theo thứ tự các quý I -> quý II -> quý III.
Yếu tố công nghệ (Tech): yếu tố công nghệ không làm đường tổng cung ngắn hạn AS dịch
trái.
Yếu tố tài nguyên thiên nhiên (N): Đây cũng là một trong những yếu tố quan trọng và tác
động rất mạnh vào sự dịch chuyển của đường cung ngắn hạn. Theo thống kê giá dầu giảm mạnh
xuống mức 33 USD, đến 31/3/2020 đã giảm trên 60%. Sự sụt giảm giá dầu trên thế giới không làm
đường AS ngắn hạn dịch trái.
Ngoài ra còn một số yếu tố khác như thiên tai, ảnh hưởng của thiên nhiên tác động đến sự
dịch chuyển của tổng cung làm cho tổng cung ngắn hạn dịch trái. Như thống kê cả 3 quý hay trong 9
tháng liệt kê rằng: “làm 96 người chết và mất tích; 292 người bị thương; 142,6 nghìn ha lúa và 67,8
nghìn ha hoa màu bị hư hỏng; 849 con gia súc và 65,9 nghìn con gia cầm bị chết; 1.806 ngôi nhà bị
sập đổ, cuốn trôi; gần 101,2 nghìn ngôi nhà bị hư hỏng. Tổng giá trị thiệt hại về tài sản do thiên tai
gây ra trong 9 tháng ước tính 7,2 nghìn tỷ đồng, trong đó do xâm nhập mặn là 3,4 nghìn tỷ đồng,
chiếm 47% tổng giá trị thiệt hại”.
Bên cạnh những ảnh hưởng tiêu cực cũng đã có những ảnh hưởng tích cực vô cùng to lớn đến
từ chính phủ nhà nước cũng như người dân trong việc đẩy lùi đại dịch bùng nổ Covid-19. Ngoài ra
còn có nhiều nhân tố khách quan khác ảnh hưởng đến việc dịch chuyển của tổng cung ngắn hạn AS để
duy trì theo hướng tăng trưởng không âm trong thời kỳ vô cùng khó khăn khiên các đường AS ngắn
hạn dịch phải trong một khoảng dịch trái nhất định (giai đoạn Covid-19 bùng nổ từ quý IV/2020 đến
quý I/2020) theo thứ tự quý I -> quý II-> quý III. Sau đây là các yếu tố khiến đường AS ngắn hạn thay
đổi một cách tích cực:
Trước hết là tinh thần người Việt Nam ta xưa đến nay luôn sống tình cảm. Một nét tiêu biểu
trong cộng đồng doanh nghiệp Việt Nam là tinh thần “tương thân, tương ái”, số liệu báo cáo cho biết :
“hình thức liên kết được nhiều doanh nghiệp áp dụng nhất là cho trả chậm tiền hàng, với 33,3% doanh
nghiệp áp dụng; chia sẻ đơn hàng với 7,9%; hàng đổi hàng với 3,8%; cho vay với 2,8% doanh nghiệp
áp dụng. Trong hoạt động này, nhóm doanh nghiệp vừa và lớn có mối quan hệ mật thiết giữa các
doanh nghiệp hơn nhóm doanh nghiệp nhỏ và siêu nhỏ. Doanh nghiệp khu vực công nghiệp và xây
dựng có mối liên hệ chặt chẽ nhất với tỷ lệ là 50,1%, tiếp theo là ngành dịch vụ 46,8%, ngành nông,
lâm nghiệp và thủy sản 43,5%”.
Giá dầu thế giới giảm cũng là một nhân tố vô cùng lớn góp phần cho sự dịch chuyển của AS
tích cực ở Việt Nam. Nó góp phần làm giảm CPSX cho doanh nghiệp, từ đó lượng ngoại tệ nhập khẩu
xăng dầu được tiết kiệm một cách đáng kể, thêm vào đó là sự hỗ trợ về vấn đề kiểm soát lạm phát để
ổn định kinh tế vĩ mô. Nhờ vậy mà đầu tư và tiêu dùng cũng dần được kích thích. Tuy vậy cũng sẽ có
một số khó khăn ảnh hưởng đến nguồn thu ngân sách và ở các khâu khai thác, lọc hoá dầu, cũng như
tình hình Covid-19 khiến cho nhiều doanh nghiệp còn e dè, chưa dám mạo hiểm để mở rộng lại quy
mô hoạt động khiến cho việc sự dụng các tài nguyên còn chưa nhiều gây thâm hụt kinh tế cũng như
vấn đề tổng cung.
Yếu tố công nghệ (Tech): ): Covid-19 được xem là cơ hội cho những đột phá về công nghệ
trên toàn thế giới nói chung và Việt Nam nói riêng. Covid-19 buộc con người phải bước vào trạng thái
“bình thường mới”, khi mà các biện pháp giãn cách xã hội vẫn diễn ra song song với các hoạt động
kinh tế. Yếu tố công nghệ được đủ mạnh phát triển và ứng dụng trong nhiều lĩnh vực, đặc biệt là sản
xuất và dịch vụ. Để thích ứng với các biện pháp phòng chống Covid-19, nhiều ngân hàng đã tiên
phong ứng dụng công nghệ AI để tạo ra các giải pháp đột phá, dẩy mạnh ứng dụng các sản phẩm công
nghệ như: làm việc từ xa, gặp khách hàng từ xa,...Nhiều khách hàng phản hồi tích cực về tiện ích của
ứng dụng vì công việc vẫn đạt hiệu quả, trong khi giảm được chi phí đi lại và tiết kiệm thời gian.
Covid-19 buộc các doanh nghiệp vừa và nhỏ phải đổi mới công nghệ, trong đó ứng dụng AI là nhân tố
cốt lõi giúp phục hồi sản xuất trong bối cảnh bị giảm giao dịch, đứt gãy nguồn nguyên liệu buộc phải
ứng dụng công nghệ vào sản xuất, kinh doanh. Ngoài ra Vingroup cũng đã tạo ra nhiều sản phẩm chất
lượng cao trong việc hỗ trợ nền y tế nước nhà cũng như đảm bảo nguồn cung cho thị phần nước ngoài
về các vấn đề công cụ y tế như tiến hành sản xuất máy thở, tài trợ các dự án nghiên cứu khoa học
công nghệ ứng phó với đại dịch Covid-19,…
Còn một số yếu tố về cơ hội như việc đẩy lùi được dịch bệnh khiến Việt Nam trở thành một
điểm sáng trên thế giới đặc biệt thu hút các nhà đầu tư nước ngoài, khiến Việt Nam trở thành một
điểm đến đầy tiềm năng, vừa an toàn cho cải tạo vốn đầu tư trên thế giới vừa là nơi có lực lượng lao
động dồi dào, nhân công giá rẻ và đặc biệt là xu hướng rút các dây chuyền sản xuất ở Trung quốc của
các tập đoàn lớn trên thế giới cũng là một trong những yếu tố khiến Việt Nam khao khát có được khi
cơ sở hạ tầng Việt Nam đang phát triển cực kỳ tốt.

You might also like