Professional Documents
Culture Documents
T3 Digest 01 - 2022
T3 Digest 01 - 2022
06 Phát Hiện Mới Về Dao Động Mức Tiêu Thụ Năng Lượng Theo Tuổi Tác Của
Con Người
12 Các Nhóm Cơ Sẽ Thay Đổi Sự Kích Hoạt Như Thế Nào Trong Bài Bench
Press Khi Mức Tạ Tăng Lên
17 Bài Tập Dạng Free Weight Và Tập Với Máy Mang Lại Những Lợi Ích Giống
Nhau
23 Hiệu Quả Của Cluster Sets So Với Mô Hình Sets Thông Thường Đối Với Mục
Tiêu Phát Triển Cơ Bắp, Sức Mạnh Và Tốc Độ
29 Bài Bench Press Với Tư Thế Nhấc Chân Khỏi Mặt Đất (Feet Up) Giúp Tăng
Khả Năng Sử Dụng Các Nhóm Cơ Chính (Prime Movers) Nhiều Hơn.
33 Tập Giới Hạn Rom Ở Vị Trí Cơ Bị Kéo Dài Để Tăng Cơ Đùi Trước Tốt Hơn
Chính nhờ thói quen đọc những ẩn phẩm, tạp chí đánh giá khoa học trong lĩnh vực
tập luyện, mà team chúng tôi đã quyết định cho ra đời cuốn tập san này. Với sản
phẩm này, Team chúng tôi thực hiện nó với tư cách là những người "Tổng hợp", để
biên tập, biên dịch lại các bài đánh giá, các bài nghiên cứu khoa học từ những
chuyên gia trên Thế giới. Ở cuối mỗi bài đăng, bạn sẽ thấy chúng tôi trích dẫn nguồn
rất rõ ràng và minh bạch ở mục "Tư liệu tham khảo". Với các bạn cũng hay đọc các
tạp chí về đánh giá khoa học sẽ thấy khung sườn trình bày tập san T3 Digest này khá
giống với tạp chí MASS; thật vậy, chúng tôi lấy cảm hứng và có rất nhiều bài biên tập
được thực hiện dựa vào các bài đánh giá nghiên cứu từ tạp chí MASS khi thực hiện
tập san này.
Với mỗi số tập san, chúng tôi sẽ cung cấp cho bạn đọc ít nhất 8 bài đánh giá nghiên
cứu và 2 bài viết chuyên môn.
Đối với các bạn đã đăng ký mua tập san, các bạn còn có thêm quyền lợi tham gia
Group tổng hợp kiến thức về chuyên môn của chúng tôi có tên "T3 Monthly Digest".
Tại đây team chúng tôi sẽ thường xuyên chia sẻ các tài liệu có giá trị liên quan đến
việc tập luyện, dinh dưỡng, cũng như thường xuyên có những bài viết chuyên môn
về Fitness.
Tập san "T3 Digest" là một sản phẩm mà tôi nghĩ sẽ vừa giúp chính team chúng tôi
và cũng giúp cho bạn có thể tự học, tự update được các kiến thức chuyên môn mới
nhất mà Thế Giới cũng đang tiếp cận.
Một lần nữa, chúng tôi cảm ơn các bạn đã mua sản phẩm này. Rất mong rằng tập
san "T3 Digest" sẽ trở thành người bạn đồng hành cùng các bạn, giúp ích được cho
các bạn trong quá trình tự học.
01
T3 MONTHLY DIGEST - THE THINKING TRAINER - ISSUE 1
Nghiên cứu gần đây thực hiện bởi Brice và đồng nghiệp (Brice et. al.(2021) giải đáp mối quan tâm trên qua
việc so sánh ảnh hưởng của hai loại giày đến kỹ thuật và khả năng tập luyện khi thực hiện Back Squat đến
ngưỡng cận thất bại.
Hình 1 Tóm tắt đặc điểm của các đối tượng tham gia.
*Nguồn: MASS
AGE = độ tuổi; BODY MASS (KG) = cân nặng cơ thể (kg); HEIGHT (CM) = chiều cao (cm);
1RM SQUAT (KG) = mức tạ Back squat nặng nhất với 1 rep (1RM); RELATIVE SQUAT 1RM (KG/KG OF BODY MASS) = mức cân
Squat được tính trên từng kg của cơ thể; TRAINING EXPERIENCE = kinh nghiệm tập luyện.
Đối tượng tham gia gồm 11 nam giới có kinh nghiệm tập luyện từ 3 năm trở lên và có thể Back Squat ít nhất
1,5 lần trọng lượng cơ thể (1,5x BW) (Hình 1). Cả 11 người sẽ được lần lượt Squat với giày đế phẳng và giày
có lót trong kê gót thêm 2,5cm (giày nâng gót), tuy nhiên thứ tự Squat với giày nào trước sẽ được sắp xếp
ngẫu nhiên cho từng người.
Nghiên cứu bao gồm 4 buổi thí nghiệm tại phòng thí nghiệm với mỗi buổi trên cách nhau ít nhất 48 giờ (hay
còn gọi là washout period, để loại bỏ ảnh hưởng của lần Squat trước):
02 buổi làm quen (familiarization sessions) được sử dụng để giúp người tham gia làm quen với việc Back
Squat từng loại giày. Trong buổi này mỗi người sẽ tăng tạ dần đến mức 1RM của người đó khi đi từng loại
giày (đế bằng, nâng gót), và sau đó thực hiện một hiệp đến thất bại ở mức 80% 1RM (để đảm bảo người
tham gia quen với mức độ nỗ lực khi tập đến ngưỡng thất bại);
02 buổi đo (data collection), trong đó người tập sẽ thực hiện Squat 3 hiệp đến thất bại với 80% 1RM riêng
biệt cho từng loại giày.
Các chỉ số được đo lại ở rep thứ 2 của set 1 (mô phỏng trạng thái sung sức) và rep cuối cùng của hiệp thứ 3
(mô phỏng trạng thái kiệt sức).
02
T3 MONTHLY DIGEST - THE THINKING TRAINER - ISSUE 1
Box 1
THIẾT KẾ NGHIÊN CỨU BẮT CHÉO (CROSSOVER DESIGN)
Minh họa thiết kế thí nghiệm của Brice et. al. (2021)
Mỗi buổi cách nhau ít nhất 48 giờ để đảm bảo các đối tượng phục hồi hoàn toàn
Trong một nghiên cứu được thiết kế theo cách 'bắt chéo' (crossover design), các đối tượng nghiên cứu
được nhận nhiều hơn một liệu pháp (treatment)*. Một giai đoạn giãn cách giữa những lần áp dụng liệu
pháp (washout period) được áp dụng để đảm bảo hiệu ứng của các liệu pháp không bị lẫn với nhau. Lợi
thế của kiểu thiết kế thí nghiệm này là tránh sự khác biệt giữa các cá thể ảnh hưởng đến kết quả thí
nghiệm.
Lấy Brice et. al. (2021) làm ví dụ, toàn bộ 11 người tham gia nghiên cứu sẽ phải trải qua cả hai liệu
pháp được thử nghiệp của nghiên cứu (Squat với giày đế phẳng, Squat với giày nâng gót). Washout
period giữa mỗi buổi là 48 giờ (2 ngày) để đảm bảo tất cả đối tượng hồi phục hoàn toàn.
*Nguồn: : Michael Matthews & James Krieger (2020). Fitness Science Explained: A Practical guide to using science to optimize your health, fitness and lifestyle. Oculus Publishers
Kết quả
Có ba chỉ số chính mà một người tập cần quan tâm ở nghiên cứu này:
(1) Tổng phạm vi chuyển động, và phạm vi chuyển động của khớp,
(2) Mô-men trung bình của khớp (cho biết kháng lực mà các nhóm cơ chuyển động chính
phải vượt qua;
(3) Tốc độ thanh đòn (cho biết nỗ lực và độ khó).
Cả 3 chỉ số trên không xảy ra khác biệt đáng kể giữa Squat với giày đế bằng và giày nâng gót
ở trạng thái sung sức hay đuối sức.
Phạm vi chuyển động của khớp khi Squat bằng hai loại giày chỉ khác biệt 4 độ,
Mô-men khớp có khác biệt nhỏ hơn 5%;
Tốc độ thanh đòn chênh nhau 0,01 - 0,03 m/s.
03
T3 MONTHLY DIGEST - THE THINKING TRAINER - ISSUE 1
Một nghiên cứu công bố vào năm 2019 của Lee và đồng nghiệp (Lee et. al. 2019) cũng đi đến kết luận tương tự
với kết quả thu thập được từ số đo phạm vi chuyển động của đầu gối và cột sống, và chỉ số điện cơ đồ
(electromyography - EMG) của các nhóm cơ đùi trước và lưng (2). Nghiên cứu này so sánh 3 điều kiện tập Squat
khác nhau: đi chân đất, đi chân đất có kê gót, và đi giày nâng gót.
Với tất cả những thay đổi trên, kết luận của Brice et. al. vẫn không thay đổi.
Tuy nhiên, Lee et. al. (2019) có một số hạn chế như: Brice et. al. (2021) khắc phục những hạn chế:
các đối tượng tham gia thí nghiệm có kinh nghiệm người tập có kinh nghiệm tập luyện lâu hơn và
tập luyện ít (1RM Squat trung bình là 89kg); mức sức mạnh lớn hơn;
thí nghiệm áp đặt kỹ thuật Squat không tự nhiên nghiên cứu cho phép sử dụng bất kể kĩ thuật nào
với người tham gia, họ thấy thoải mái, và;
người tham gia tập xa ngưỡng thất bại (chỉ 3 sets các chỉ số được đo và so sánh tại hai thời điểm là
x 3 reps với 80% 1RM). khi người tập còn sung sức và khi họ đuối sức.
Với tất cả những thay đổi trên, kết luận của Brice et. al. vẫn không thay đổi.
Hiệu quả của giày nâng gót cũng đã từng được so sánh với giày chạy bộ và kết quả không cho thấy sự khác biệt
nhiều. Sato et. al. (2012) phát hiện rằng khi Squat với giày nâng gót, người tập có ít nghiêng người về phía trước
hơn. Whitting et. al. (2016) cũng phát hiện ra rằng khi Squat với giày nâng gót, người tập ít phải gập cổ chân
(ankle dorsiflexion) hơn so với đi giày chạy. Tuy nhiên rốt cục sự khác biệt phát hiện bởi hai nghiên cứu trên không
thực sự đáng kể (ít nghiêng về phía trước hơn 2cm như ở Sato et. al. (2012), và 5 độ ankle dorsiflexion ở Whitting
et.al (2016).
Box 2
NÂNG GÓT KHI SQUAT, LINH HOẠT CỔ CHÂN VÀ ĐẦU GỐI
Thoạt đầu, kết quả trên có vẻ đi ngược lại với điều mọi người thường tin. Đáng lý
nâng gót phải cho phép đầu gối dịch chuyển nhiều hơn về phía trước, giúp người tập
Squat với tư thế thẳng đứng (upright) và trội chuyển động gối hơn (knee-dominant)
hơn nhỉ?
Đi giày nâng gót có thể cho phép thực hiện điều này, tuy nhiên nó không hẳn sẽ dẫn
đến một kĩ thuật Squat thẳng đứng, trội chuyển động gối hơn. Kỹ thuật Squat tối ưu
cho mỗi người sẽ cần đầu gối di chuyển về phía trước một khoảng nhất định, và điều
này khác nhau ở mỗi người. Squat với giày nâng gót cho phép đầu gối di chuyển về
phía trước nhiều hơn do việc nâng gót đặt cổ chân vào vị trí duỗi (ankle
plantarflexion).
Việc nâng gót sẽ không quá quan trọng với một người có cổ chân đủ linh hoạt để đạt được chuyển động tối ưu của đầu
*Nguồn: MASS
gối. Ví dụ nếu kĩ thuật Squat của bạn cho cần cổ chân gập 1 góc 40 độ để đầu gối di chuyển về phía trước tối ưu nhất,
mà bạn có thể gập cổ chân 55 độ, việc nâng gót sẽ không ảnh hưởng gì đến kĩ thuật của bạn Còn nếu bạn muốn tư thế
Squat của mình upright và knee-dominant nhất có thể, việc nâng gót sẽ giúp bạn đạt được điều đó.
Mặt khác, nếu như bạn bị giới hạn chuyển động gập (dorsiflexion) ở cổ chân, đi giày nâng gót có thể và sẽ thay đổi kỹ
thuật Squat của bạn. Mặc dù đi giày nâng gót có thể có ảnh hưởng lớn tới kỹ thuật Squat của một cá thể, xét trên mặt
bằng chung đi giày đế bằng hay nâng gót sẽ không ảnh hưởng đáng kể tới kĩ thuật hay khả năng Squat của mọi người.
04
T3 MONTHLY DIGEST - THE THINKING TRAINER - ISSUE 1
05
T3 MONTHLY DIGEST - THE THINKING TRAINER - ISSUE 1
2. Năng lượng tiêu thụ thay đổi tỉ lệ thuận với lượng thân nạc trên cơ thể, nhưng mối quan hệ này có
những khác biệt cơ bản ở các giai đoạn khác nhau của vòng đời. Năng lượng tiêu thụ xét theo lượng
thân nạc ở mức cao nhất ở trẻ sơ sinh, sau đó giảm dần từ sau 01 tuổi đến năm 20 tuổi, và giữ ổn
định cho đến 60 tuổi. Sau 60 tuổi, năng lượng tiêu thụ xét theo lượng thân nạc bắt đầu giảm;
3. Bản thân giới tính không gây ra sự khác biệt gì về năng lượng tiêu thụ; thay vào đó, sự khác biệt
đến từ sự chênh lệch về khối lượng cơ thể. Năng lượng tiêu thụ xét theo lượng thân nạc không suy
giảm từ 20 đến 60 tuổi; bất cứ sự suy giảm nào khả năng cao sẽ đến từ sự suy giảm vận động, dẫn
tới giảm lượng thân nạc.
06
T3 MONTHLY DIGEST - THE THINKING TRAINER - ISSUE 1
Một nghiên cứu gần đây thực hiện bởi Pontzer và đồng nghiệp (Pontzer et. al.) (1) điều tra mối liên hệ giữa
tuổi tác, giới tính, và lượng thân nạc với tổng năng lượng tiêu thụ hằng ngày. Kết quả của nghiên cứu này phủ
nhận nhiều lầm tưởng về biến động năng lượng theo độ tuổi và giới tính, và chỉ ra mối liên hệ giữa lượng thân
nạc và năng lượng tiêu thụ hằng ngày.
Box 1
THEO DÕI CHỈ SỐ CƠ THỂ BẰNG PHƯƠNG PHÁP
DOUBLY-LABELED WATER
07
T3 MONTHLY DIGEST - THE THINKING TRAINER - ISSUE 1
Đồ thị biến động tổng năng lượng tiêu thụ hằng ngày dựa theo (A) lượng thân
Hình 2 nạc xuyên suốt các dộ tuổi, và (B) giới tính
*Nguồn: MASS
08
T3 MONTHLY DIGEST - THE THINKING TRAINER - ISSUE 1
Biến động tổng năng lượng tiêu thụ (A) và lượng năng lượng tiêu thụ cơ
Hình 3 bản (B) sau khi đã điều chỉnh theo lượng thân nạc và lượng mỡ, và trong
thời kì thai sản (C) *Nguồn: MASS
Có 3 khía cạnh của những kết quả trên đáng chú ý: ảnh hưởng của giới tính, ảnh hưởng của tuổi tác, và khác biệt
giữa các cá thể.
09
T3 MONTHLY DIGEST - THE THINKING TRAINER - ISSUE 1
Box 2
CHÊNH LỆCH SỨC MẠNH GIỮA NAM VÀ NỮ
*Nguồn: MASS
So sánh về sức mạnh giữa nữ giới và nam giới ở hai chuyển động cử tạ Olympic (Olympic Weightlifting): Cử giật (Snatch) và Cử Đẩy (Clean & Jerk)
Nguôn: Stone et.al. (2007) (4)
Khi khớp theo LBM, nữ giới có thể đạt được lần lượt 91% và 93% thành tích của nam giới ở hai
chuyển động Snatch (Cử Giật) và Clean & Jerk (Cử Đẩy). Khác biệt này còn có thể rút ngắn hơn nữa
khi chúng ta chỉ tính đến khối lượng cơ xương (skeletal muscle mass), vì nữ giới có ít cơ xương trong
LBM hơn nam giới (3).
Biến động mức độ vận động trung bình và cao theo độ tuổi tổng hợp
Hình 4 từ 4 nghiên cứu *Nguồn: MASS
10
T3 MONTHLY DIGEST - THE THINKING TRAINER - ISSUE 1
11
T3 MONTHLY DIGEST - THE THINKING TRAINER - ISSUE 1
1. Vùng vai trước (Front Delts) và Đầu dài của nhóm cơ tay sau (Triceps) sẽ tăng sự hoạt động
nhiều hơn so với vùng Ngực (Pecs) khi mà mức tạ của bài Bench press tăng lên.
Bench press luôn là một bài tập nhận được nhiều sự quan tâm của mọi người, do đó cũng có khá nhiều
nghiên cứu thực hiện xoay quanh bài tập này. Với nghiên cứu của “Krol và Golas” năm 2017 (1) sẽ giúp
chúng ta có thêm thông tin về các nhóm cơ thay đổi ra sao trong bài Bench Press ở những mức tạ khác nhau.
Cụ thể 2 câu hỏi được đặt ra trước khi thực hiện nghiên cứu là:
1. Các nhóm cơ : Pecs (Ngực), Triceps (Tay sau), Anterior Deltoids (Vai trước) và Lats (Cơ xô) thay đổi sự
hoạt động như thế nào khi độ nặng bài tập tăng lên ?
2. Chuyển động, đường đi của bài tập thay đổi như thế nào khi mức tạ tăng lên ?
12
T3 MONTHLY DIGEST - THE THINKING TRAINER - ISSUE 1
Các máy đo cảm biến EMG sẽ được đặt tại phần “Sternocostal Head” của nhóm cơ ngực, phần “Long
head” của nhóm cơ tay sau, nhóm cơ vai trước và cơ xô.
Các đối tượng sẽ được Test để tìm ra mức tạ 1RM chính xác trước khi thực hiện kiểm tra. Sau đó sẽ thực
hiện đo đạc trên các mức 70%, 80% và 90% 1RM. Tất cả các Rep tập đều không có “Bouncing” (Hạ tạ
nhanh rồi dùng đà đẩy lên), độ rộng tay cầm vào khoảng 81cm, các đối tượng được nghỉ 5 phút sau mỗi
Set tập
Các nhóm cơ đều hoạt động nhiều hơn trong giai đoạn Concentric Phase so với Eccentric Phase. Sự khác
biệt rõ nhất đến từ nhóm cơ Tay sau, khi tỉ lệ hoạt động ở giai đoạn Concentric tăng gấp 2 lần so với giai
đoạn Eccentric. trong khi đó nhóm cơ ngực chỉ kích hoạt nhiều hơn 21%; nhóm cơ Vai trước và Xô thì tăng
sự hoạt động hơn 40%. (Hình 1)
Biến động của việc kích hoạt các cơ Ngực (Pec), Tay sau (Triceps), Vai trước (Anteiror
Hình 1 Deltoids) và cơ Xô (Lat) thông qua chỉ số EMG, ở các mức tạ 70%1RM và 100%1RM.
Ảnh : Mass
13
T3 MONTHLY DIGEST - THE THINKING TRAINER - ISSUE 1
Tốc độ và gia tốc di chuyển của thanh Bar giảm dần khi độ nặng tăng lên ở bài tập. Ở các mốc 70% 80%
Hình 1
Biến động của khối lượng (A) toàn cơ thể (Body Mass), (B) thân nạc (Fat Free Mass), (C)
1RM hầu như không cóvàđiểm
mỡ, (D) tỉ lệnào mà
% mỡ đường
(Body đi của tạ chứng lại (Sticking Region). Với mức tạ 90% 1RM trở
Fat %)
*Nguồn: MASS
lên, có một điểm Sticking Region nhỏ ở giữa giai đoạn Concentric Phase. (Hình 2)
Tốc độ di chuyển của thanh Bar trong bài Bench press khi đo đạc trong giai đoạn
Hình 2 Eccentric và Concentric, với các mức tạ 70%,80%, 90%, 100% 1RM.
Ảnh : MASS
Quãng đường di chuyển của thanh Bar (Horizontal Displacement) không thay đổi trong giai đoạn Eccentric
khi mức tạ tăng lên, nhưng tăng lên trong giai đoạn Concentric (Di chuyển dải hơn 3.7cm) khi tạ tăng lên từ
mức 70%1RM đến 100% 1RM. (Hình 3)
Góc chuyển động của khớp gần như không thay đổi ở các mức tạ khác nhau. Có thể thấy với mức tạ nặng
hơn thì ví trí thanh Bar có vẻ ở thấp hơn, lúc này vai ở vị trí Extension nhiều hơn.
Quãng đường di chuyển của thanh Bar và góc gập (Flexion), dạng (Abduction) của khớp
Hình 3 vai ở mức tạ 70% và 100% 1RM
Ảnh : MASS
*Nguồn: MASS
14
T3 MONTHLY DIGEST - THE THINKING TRAINER - ISSUE 1
Một số nghiên cứu khác như của “Ogasawara và đồng nghiệp” (3) cũng chỉ ra rằng, ở mức tạ
70% 1RM và 30% 1RM thì cả ngực và tay sau đều có thể phát triển/tăng cơ. Nhưng nhóm cơ
ngực phát triển trội hơn một chút so với tay sau ở mức tạ 30% 1RM (21.1% so với 17.6%) và
nhóm cơ tay sau phát triển trội hơn một chút ở mức 70% 1RM (11.9% so với 9.8%). Nghĩa là ở
mức tạ lớn hơn, nhóm cơ tay sau sẽ tham gia vào nhiều hơn.
Cũng một nghiên cứu khac của “Klemp et al” (4) cũng cho thấy mức tăng cơ của vùng ngực là
ngang nhau khi so sánh thực hiện ở 2 mức tạ là “60-70% 1RM” và “75-85% 1R
15
T3 MONTHLY DIGEST - THE THINKING TRAINER - ISSUE 1
16
T3 MONTHLY DIGEST - THE THINKING TRAINER - ISSUE 1
Các nghiên cứu cũng chỉ ra rằng, đối với người mới (không tập luyện) thì mức độ tăng cơ bắp và sức
mạnh giữa 2 dạng bài Free-Weight và Machine-Based là như nhau.
Bạn nên lựa chọn tập các bài “Free Weights” nếu muốn tăng sức mạnh tối đa ở những bài “Free
Weights”, nên chọn tập các bài “Machine-Based” nếu muốn tăng sức mạnh tối đa ở những bài
“Machine-Based”.
Mức độ tăng cơ bắp là tương đồng nhau ở 2 dạng bài tập này, nếu mục đích là tăng cơ
(Hypertrophy) thì bạn nên chọn dạng bài tập nào mà mình cảm thấy thích hơn và gắn bó được lâu
dài với nó hơn.
17
T3 MONTHLY DIGEST - THE THINKING TRAINER - ISSUE 1
Đầu tiên, một lần nữa thì nguyên tắc về tính cụ thể lại được chứng minh là đúng, việc tập luyện với
Free Weight sẽ giúp bạn tốt hơn/mạnh hơn trong những bài Free Weight đó, tập với Máy (Machine
Hình
Based) sẽ 1
giúp bạn mạnh hơn trong những bài Machine Based đó. (Hình 2) (Hình 3)
Thứ hai, không có sự khác biệt trong tăng cơ giữa 2 nhóm tập luyện Free Weight và Machine Based.
(Hình 1)
Hình 1 Mức tăng cơ gần như tương đồng ở cả 2 bài dạng Free Weight và Machine Based.
Ảnh : MASS
18
T3 MONTHLY DIGEST - THE THINKING TRAINER - ISSUE 1
So sánh sức mạnh ở những bài tập dạng Free Weight của các nghiên cứu được tổng
Hình 1 hợp.
Ảnh : MASS
Hình 1
Nhìn chung nhóm tập Free weight sẽ có sức mạnh tốt hơn ở những bài dạng Free Weight
Hình 2 So sánh sức mạnh ở những bài tập dạng Machine Based của các nghiên cứu được tổng
hợp.
Ảnh : MASS
*Nguồn: MASS
Nhìn chung nhóm tập với máy sẽ có sức mạnh tốt hơn ở những bài tập trên máy
19
T3 MONTHLY DIGEST - THE THINKING TRAINER - ISSUE 1
Strength mang tính cá biệt cụ thể (Specificity) với Khi phân tích các số liệu từ tập hợp các nghiên cứu,
chính dạng bài tập mà bạn thực hiện. Còn vấn đề đầu tiên không có sự khác biệt nhiều về tỉ lệ tăng cơ
tăng cơ lại có liên hệ mất thiết với yếu tố đối với nhóm tập “Free-Weight” và “Machine-Based”
“Mechanical Tension” (Sức căng cơ học), yếu tố này khi so sánh giữa giới tính Nam và Nữ.
lại không phụ thuộc nhiều vào cách thức chọn bài
tập Free Weight hay Machine Based. Những phát Qua các nghiên cứu của Saeterbakken et al (15),
hiện trong bài nghiên này (1) là tin tốt đối với những Rossi et al (13), Schwanbeck et al (16) đều chỉ ra
người tập luyện phổ thông, họ có thể tùy biến lựa rằng, đối với cả 2 dạng bài tập là “Multi-Joint” (Đa
chọn dạng bài tập tùy theo sở thích của mình. khớp) và “Single-Joint” (Đơn khớp) khi tập luyện với
số Sets và Reps bằng nhau thì sự phát triển cơ bắp
Nếu như bạn muốn tăng sức mạnh ở một bài tập cụ đều giống nhau ở cả 2 nhóm “Free-Weight” và
thể, bạn sẽ phải bắt buộc tập luyện bài tập đó. Do “Machine-Based). Do đó, đối với những người luyện
đó, nếu bạn là vận động viên Powerlifter thì bạn bắt tập thông thường và Bodybuilder khi mục tiêu là
buộc phải tập các bài như Squat, Bench Press, tăng cơ thì họ hoàn toàn có thể lựa chọn việc tập
Deadlift. Có 2 nghiên cứu (13,16) cũng chỉ ra tầm “Free Weight” hay “Machine Based” tùy theo sở
quan trọng của việc tăng sức mạnh mang tính cụ thể thích và sự ưu tiên cá nhân.
này.
20
T3 MONTHLY DIGEST - THE THINKING TRAINER - ISSUE 1
*Nguồn: MASS
Một nghiên cứu của Carraro et al (22) khi đánh giá sự yêu thích các bài tập tại các trung tâm Fitness Center
nhận thấy rằng, hầu hết mọi người tham gia lấy ý kiến đều cho rằng họ thú vị và dễ chịu hơn khi tập trên máy
(Machine-Based), mặc dù họ cho rằng tập với các bài Free-Weight khiến họ vất vả hơn. Tất cả các đối tượng
tham gia vào nghiên cứu này đều có kinh nghiệm tập trên 2 năm và đều đang luyện tập tại các trung tâm
Fitness thông thường.
Một nghiên cứu khác với vấn đề tương tự được thực hiện bởi Cavaretta et al (23) thực hiện trên những đối tượng
có kinh nghiệm tập dưới 1 năm thì cho thấy họ có sự thích thú ngang nhau giữa 2 dạng mô hình bài tập nếu
như số Set tập là như nhau.
Rất nhiều người đi tập đều muốn tăng sức mạnh chung (General Strength), có nghĩa là khả năng bê vác, mang
vác đồ trong cuộc sống thông qua việc tập luyện, bài test phổ biến nhất đó chính là mang vác đồ vật từ điểm A
đến điểm B.
Một tin tốt là, với hầu hết các nghiên cứu trong tập hợp các bài nghiên cứu (Meta-Analysis) đều ủng hộ cho
quan điểm rằng, cả việc tập với máy (Machine Based) hay tập với tạ (Free Weight) đều giúp cải thiện khả năng
sức mạnh ở những tác vụ, công việc hàng ngày ngoài phòng tập, như việc mang vác đồ trong sinh hoạt.
Cuối cùng, nên nhớ rằng việc lựa chọn dạng bài tập “Free-Weight” hay “Machine Based” không mang tính bắt
buộc chỉ được chọn 1 trong 2. Đới với các vận động viên Powerlifter họ sẽ có sự lựa chọn chính là tập trung cho
các bài Squat, Bench press, Deadlift, nhưng họ hoàn toàn có thể sử dụng các bài tập với máy để làm bài tập hỗ
trợ cho việc tăng cơ. Hoặc các Powerlifter có thể thay đổi tỉ lệ Volume tập giữa “Free Weight” và “Machine-
Based” tùy thuộc vào giai đoạn tập luyện của họ, thường thì đến giai đoạn gần ngày thi đấu, họ sẽ muốn dồn
Volume nhiều nhất cho các bài tập họ phải thi (Competition Lift).
Tương tự, đối với những Bodybuilder, nếu họ yêu thích các bài tâp Free-Weight thì hoàn toàn có thể đưa những
bài đó vào trong giáo án song song với các bài tập trên máy (Machine-Based).
Có một số người sẽ muốn tăng sức mạnh ở những bài tập cụ thể (Như vđv Powerlifter); tuy
nhiên với những ai có mong muốn tăng cơ và cải thiện sức mạnh cho những công việc sinh hoạt
hàng ngày thì hoàn toàn có thể tự do chọn lựa loại mô hình bài tập mà mình thích.
Việc chọn lựa dạng bài tập Free-Weight hay Machine-Based không phải sự lựa chọn tuyệt đối,
bắt buộc chỉ được chọn 1 trong 2 loại. Các vđv Powerlifter hoàn toàn có thể đưa các bài dạng
Machine-Based vào chương trình tập, cũng như các Bodybuilder có thể lựa chọn các bài Free-
Weight song song với các bài tập trên máy trong giáo án của họ.
21
T3 MONTHLY DIGEST - THE THINKING TRAINER - ISSUE 1
22
T3 MONTHLY DIGEST - THE THINKING TRAINER - ISSUE 1
2. Trong khi Cluster Set có ưu thế ngắn hạn khi tạo ra ít dấu hiệu mệt mỏi trong và sau buổi tập,
Cluster Set và Set truyền thống có hiệu quả tăng cơ bắp, sức mạnh như nhau, và Cluster có lợi thế
phát triển tốc độ và sự bùng nổ hơn.
3. Với mục tiêu tập luyện là phát triển sức mạnh hoặc cơ bắp, Cluster Set là một lựa chọn không tồi,
đặc biệt nếu bạn đang tập song song một môn thể thao khác, hay gặp vấn đề với stress ảnh hưởng
đến kết quả buổi tập. Nó sẽ không giúp hay cản trở tiến trình của cả chương trình tập. Tuy nhiên,
Cluster Set có thể giúp tăng sự bùng nổ và tốc độ phát lực (dù không đáng kể).
23
T3 MONTHLY DIGEST - THE THINKING TRAINER - ISSUE 1
Một giả định chính về lợi ích của cách thiết kế hiệp tập này là nó giúp người tập hoàn thành cùng một khối
lượng tập nhưng, nhờ có những khoảng nghỉ ngắn giữa các cluster, ít bị xuống sức, duy trì khả năng thực hiện
bài tập. Các nghiên cứu hiện tại về Cluster Sets đang tập trung vào hiệu quả tức thì của Cluster Sets (tức hiệu
quả ngay trong buổi tập). Tuy nhiên, bằng chứng về những thay đổi lâu dài Cluster Sets mang lại như phát
triển cơ bắp (hypertrophy), sức mạnh (strength), tốc độ (velocity), sự bùng nổ (power) vẫn chưa rõ ràng và
thống nhất.
Minh họa các dạng thiết kế Set tập, với ví dụ là 2 Sets x 12 Reps với A) Traditional
Hình 1 Set (Set truyền thống); B) Cluster Set; C) Rest Distribution (Phân bố thời gian nghỉ);
D) Rest Pause (Dừng nghỉ). Nguồn: Tufano et. al (2016)
A. Traditional Set: 2 sets x 12 reps với 120 giây nghỉ giữa 2 set
Tổng số Rep:
24 reps
Tổng thời gian nghỉ
120 giây
B. Cluster Set: 2 sets x 12 với 30 giây nghỉ trong set (intra-set rest) và 120 giây nghỉ giữa 2 set (inter-set rest). Một biến thể
của Cluster Set thông thường là nghỉ trong set giữa các rep (inter-repetition rest)
Tổng số Rep:
24 reps
Tổng thời gian nghỉ
240 giây
Tổng *Nguồn:
số Rep: MASS
24 reps
Tổng thời gian nghỉ
120 giây
D. Rest Pause: 2 sets x 12 reps đến ngưỡng thất bại với 30 giây nghỉ trong set và 120 giây nghỉ giữa 2 set
Tổng số Rep:
21 reps
Tổng thời gian nghỉ
280 giây
Bài viết này sẽ tóm tắt nội dung của 3 nghiên cứu phân tích tổng hợp (meta-analysis) mới nhất về vấn đề
trên, với một nghiên cứu (Jukic et. al. 2020) về hiệu quả tức thì và hai nghiên cứu (Davies et.al. 2021, Jukic et.
al. 2021) về hiệu quả phát triển cơ bắp, sức mạnh, tốc độ, sự bùng nổ trong thời gian dài. Ba nghiên cứu này
so sánh thiết kế Set truyền thống với Cluster Sets; Rest Redistribution; Rest Pause (minh họa ở Hình 1)
24
T3 MONTHLY DIGEST - THE THINKING TRAINER - ISSUE 1
Phương pháp
28 nghiên cứu được sàng lọc từ 1275 kết quả tìm kiếm ban đầu sau khi đáp ứng đủ các điều kiện chọn
lọc, trong đó:
Nghiên cứu phải so sánh ít nhất một phản hồi cơ học, chuyển hóa hoặc nỗ lực ngắn hạn giữa Set
truyền thống và Cluster Sets, hoặc giữa hiệp tập truyền thống và Rest Redistribution;
Nghiên cứu phải bao gồm 1 nhóm tập theo thiết kế Set truyền thống (tập liên tục hết số rep mà
không có quãng nghỉ trong set), và 1 nhóm tập theo thiết kế Cluster Sets và/hoặc 1 nhóm tập theo
thiết kế Rest Redistribution;
Mức tạ và Volume (sets x reps) giữa các nhóm phải được quân bình; bài tập thực hiện với nhiều set
(nhiều hơn 1)
Biểu hiện cơ học (mechanical fatigue): Tốc độ và mức độ bùng nổ khi phát lực bị hao hụt ít hơn và duy trì tốt
hơn. Tuy nhiên, tác động lên biểu hiện cơ học tồn lại sau buổi tập không lớn bằng tác động ngay trong buổi
tập,
Biểu hiện chuyển hóa (metabolic fatigue): Mức độ mệt mỏi do áp lực chuyển hóa (thể hiện qua mức tập
trung lactic trong máu) thấp hơn;
Mức độ nõ lực quan sát được (perceived exertion): Đánh giá mức độ nỗ lực ít hơn (thể hiện qua thang RPE);
Cluster Set hiệu quả hơn Rest Redistribution khi tăng và duy trì mức độ bùng nổ và vận tốc tối đa trung bình
(mean power and peak velocity) và giảm áp lực chuyển hóa (metabolic stress) trong buổi tập.
Box 1
CLUSTER SET VÀ REST REDISTRIBUTION
Một điểm khác biệt của Jukic et. al. (2020) là sự phân biệt rõ ràng giữa Cluster Set và Rest-Redistribution.
Vậy hai cách thiết kế Set này có gì khác nhau?
Nếu nhìn vào ví dụ ở Hình 1 bên trên, các bạn có thể thấy Cluster Set và Rest Redistribution có xu hướng
chia Set truyền thống (12 reps) thành các set nhỏ hơn. Tuy nhiên, Cluster Set làm điều này bằng cách
thêm các quãng nghỉ trong set (intra-set rest), thậm chí nghỉ giữa các rep nếu như một Set truyền thống
được chia thành các 'single' (inter-repetition rest) trong khi vẫn giữ nguyên thời gian nghỉ giữa hai set
(inter-set rest) (Hình 1B). Trong khi đó, Rest Redistribution chia đều thời gian inter-set rest ban đầu cho
các set nhỏ (Hinh 1C).
Sự phân chia trên khiến thời gian nghỉ khi sử dụng Cluster Set bị kéo dài hơn hẳn so với Rest
Redistribution (240 giây so với 120 giây), khiến thời lượng buổi tập bị kéo dài hơn. Điều này có thể khiến
việc sử dụng Cluster Set khi thời gian tập luyện bị giới hạn gặp khó khăn. Tuy vậy, như nghiên cứu chỉ ra ở
trên, cả hai các thiết kế Set này đều vượt trội hơn Set truyền thống về tác động lên những dấu hiệu mệt
mỏi trong và sau buổi tập.
25
T3 MONTHLY DIGEST - THE THINKING TRAINER - ISSUE 1
Hai meta-analysis của Davies et. al. và Jukic et. al. được công bố gần như cùng thời điểm (tháng 01/2021).
Hai nghiên cứu này có cùng đối tượng nghiên cứu, tuy nhiên có những khác biệt nhỏ ảnh hưởng tới kết quả
của phân tích. Do có sự tương đồng về nội dung và phương pháp, hai nghiên cứu này sẽ được tóm tắt cùng
nhau để thuận tiện trong việc so sánh.
Phương pháp
Cả 2 meta-analysis sàng lọc và lựa chọn các nghiên cứu đáp ứng đầy đủ các tiêu chí chọn lọc. Tiêu chí
chọn lọc nghiên cứu của 2 nghiên cứu đa phần giống nhau, tuy nhiên có một số khác biệt sau:
Davies et. al. so sánh Set truyền thống không chỉ Jukic et. al. đưa ra các tiêu chí chặt chẽ hơn, như:
với Cluster Set/Rest Redistribution mà còn cả volume và mức tạ giữa các nhóm (Set truyền
Rest Pause. thống và Cluster Set/ Rest Redistribution) phải
quân bình; nghiên cứu khi đánh giá tác động lên
tốc độ và sự bùng nổ phải sử dụng thay đổi với
độ cao bật nhảy, thời gian chạy bứt tóc hay
chuyển hướng, cũng như tốc độ và mức độ bùng
nổ khi phát lực lên một khối lượng ta không đổi;..
Box 2
REST PAUSE VÀ CLUSTER SET/REST REDISTRIBUTION
Trong hai nghiên cứu trên, Jukic et. al. (2021), khác với Davies et. al. (2021) loại bỏ Rest Pause ra khỏi phạm
vi nghiên cứu. Trong khi việc này không ảnh hưởng đến kết quả sau cùng của cả hai nghiên cứu, sự loại trừ
này giúp chúng ta hiểu rõ hơn về bản chất của Cluster Set và Rest Redistribution, và sự khác biệt giữa chúng
với các phương pháp "Intensity tecnique" như Rest Pause.
26
T3 MONTHLY DIGEST - THE THINKING TRAINER - ISSUE 1
Ảnh hưởng của Cluster Set và/ hoặc Rest Redistribution lên biểu hiện mệt mỏi cơ học tích tụ sau buổi tập (vì
có ít nghiên cứu điêu tra vấn đề này);
Mối liên hệ giữa mức tạ, độ tiệm cận thất bại và số rep sử dụng (tập luyện cận ngưỡng thất bại với khoảng
rep/ mức tạ đa dạng hơn) với sự so sánh tác động giữa Set truyền thống và Cluster Set/ Rest Redistribution.
Hai phân tích tổng hợp này cũng cung cấp bằng chứng ngược lại với quan điểm chung là tập luyện đến ngưỡng
cận thất bại (training near failure) là cần thiết cho phát triển cơ bắp. Điều này lý giải bởi các cơ chế khác nhau
ảnh hưởng đến hiệu ứng phát triển cơ bắp, khi Cluster Set/Rest Redistribution nghiêng về cơ chế áp lực cơ học
(mechanical tension) do tốc độ và sự bùng nổ được duy trì tốt hơn, trong khi Set truyền thống sẽ thiên về áp lực
chuyển hóa (metabolic stress).
Với hiệu quả lâu dài tương đương nhưng ít gây mệt mỏi trong và sau buổi tập hơn so với Set truyền thống,
Cluster Set/ Rest Redistribution có thể phù hợp với các đối tượng sau:
Người mới bắt đầu tập luyện, đang còn học kĩ thuật của các bài tập phức tạp (vd: Squat, Bench Press,
Deadlift);
Vận động viên tập luyện thể thao cùng một ngày hoặc ngay sau khi tập tạ;
Những người gặp vấn đề về stress gây cản trở tới thành tích tập luyện của buổi tập.
Davies et. al. cũng lưu ý rằng, không phải bài tập nào cũng sẽ phù hợp để sử dụng phương pháp này. Những
bài tập đòi hỏi unrack tạ (vd: Squat, Bench Press) sẽ ít phù hợp hơn những bài tập với máy hoặc kéo tạ từ dưới
sàn lên (vd: Deadlift, Clean, Snatch).
27
T3 MONTHLY DIGEST - THE THINKING TRAINER - ISSUE 1
28
T3 MONTHLY DIGEST - THE THINKING TRAINER - ISSUE 1
Nghiên cứu với mục đích đánh giá mức độ sử dụng các nhóm cơ chính giữa 2 biến thể là : Cơ
ngực (Pecs), Cơ tay sau và Cơ vai trước (Front Delts). Việc đánh giá này sẽ thông qua máy đo
điện cơ EMG.
Kêt quả nghiên cứu ghi nhận thông số EMG của các nhóm cơ chính tham gia bài Bench Press
cao hơn với kỹ thuật khi “Chân nhấc lên”.
29
T3 MONTHLY DIGEST - THE THINKING TRAINER - ISSUE 1
Thông tin của các đối tượng nghiên cứu bao gồm Age (Tuổi), Body Mass (Cân nặng), Height (Chiều
Bảng 1 cao), Chỉ số BMI, Biacromial Distance (Độ rộng vai), Mức tạ 1RM Bench Press
Ảnh : MASS
Cả 2 kỹ thuật sẽ đều thực hiện với tay nắm rộng hơn vai (1,5 lần độ rộng vai - trung bình rộng khoảng 70cm).
Hình 1
Với kỹ thuật chân để dưới đất, yêu cầu mông luôn chạm vào ghế, khớp gối gập 90 độ, vùng xương chậu và
lưng dưới giữ ở vị trí tự nhiên. Nói cách khác thì các đối tượng sẽ thực hiện bài Bench press với vùng lưng
phẳng (Flat Back) và xuất hiện rất ít kỹ thuật “Leg Drive”.
Với kỹ thuật Bench press nhấc chân khỏi mặt đất, khớp gối và khớp hông sẽ gập ở 90 độ.
Ở buổi thứ hai tại phòng thí nghiệm, các đối tượng được cài đặt thiết bị EMG để đo các nhóm cơ như : Pecs
(Ngực), Front Delts (Vai trước), Triceps (Tay sau), Wrist Flexors (Cẳng tay) và các nhóm cơ ở vùng bụng
(Obliques, Rectus Femoris). Sau đó họ thực hiện 8 Rep của bài Bench press với 2 giây cho giai đoạn eccentric
và 2 giây cho concentric, ở từng kỹ thuật.
Mức tạ thí nghiệm ở 2 kỹ thuật này là 60% 1RM của kỹ thuật để chân trên đất.
30
T3 MONTHLY DIGEST - THE THINKING TRAINER - ISSUE 1
Hình 1 Bài Bench press với chân để dưới sàn (A) và Chân nhấc lên khỏi mặt đất (B).
Ảnh : MASS
Hình 1
A : Chân ở dưới đất, đầu gối gập 90 độ, xương chậu và vùng lưng dưới giữ ở tư thế tự nhiên
B : Hông và gối đều gập 90 độ, chân ở trên không.
Kết quả
Thông số EMG đo đạc trên cơ bắp cao hơn ở kỹ thuật nhấc chân tại tất cả các nhóm cơ được đánh giá.
Không quá bất ngờ khi thông số EMG với kỹ thuật nhấc chân cao hơn ở các nhóm cơ vùng bụng như Rectus
Abdominis (Cơ thẳng bụng), External Obliques (Cơ bụng xiên ngoài) và nhóm cơ Rectus Femoris (Cơ thẳng
đùi), nhưng có điều đáng lưu ý là các nhóm cơ này tham gia không nhiều trong bài Bench Press ở cả 2 kỹ
thuật. (Hình 2)
Điều đặc biệt cần quan tâm là sự kích hoạt ở vùng Ngực, Vai trước và Tay sau ở kỹ thuật nhấc chân lớn hơn
đến 9-15%
Biểu đồ so sánh tương đối về sự kích hoạt các nhóm cơ trong bài Bench Press giữa hai biến
Hình 2 thể Chân đặt dưới mặt đất (Màu tối) và Nhấc chân (Màu trắng).
Ảnh : MASS
*Nguồn: MASS
31
T3 MONTHLY DIGEST - THE THINKING TRAINER - ISSUE 1
Đây là kỹ thuật có thể dùng thay thế bài Bench press thông thường ở những ngày hoặc giai
đoạn tập trung vào “Hypertrophy”.
32
T3 MONTHLY DIGEST - THE THINKING TRAINER - ISSUE 1
1. Nghiên cứu hiện tại xem xét một khoảng ROM nhất định của bài tập.
33
T3 MONTHLY DIGEST - THE THINKING TRAINER - ISSUE 1
34
T3 MONTHLY DIGEST - THE THINKING TRAINER - ISSUE 1
Tập luyện một nhóm ở vị trí kéo dài đem lại hiệu quả tăng cơ Luyện tập kết hợp giữa các khoảng ROM khác nhau của
tốt hơn. Điều này tương đồng với quan điểm được nhiều chuyển động có hiệu quả tăng sức mạnh. Một nghiên cứu
nghiên cứu ủng hộ rằng tập luyện Full ROM đem lại kết quả liên quan kết luận rằng kết hợp tập Squat full ROM và bán
tốt hơn so với chỉ tập ở khoảng ROM cuối - tức ở vị trí cơ bị ROM (half-squat) có hiệu quả tăng sức mạnh tốt hơn chỉ tập
co ngắn. Tập luyện ở vị trí cơ co ngắn (thường thấy khi người full ROM. Mặc dù sự chênh lệch trong kết quả nghiên cứu
tập kết thúc chuyển động bằng cách khóa khớp (lockout) có này hay của Pedrosa et. al. không đáng kể, đây vẫn là một
hiệu quả tăng cơ ở vùng cận tâm của cơ (proximal region) tốt chiến lược khả thi để phát triển sức mạnh. Một đề tài triển
ngang với tập luyện ở vị trí cơ kéo dài, nhưng lại kém phát vọng cho những nghiên cứu tiếp theo là hiệu quả tăng sức
triển cơ ở vùng xa tâm (distal region). Tuy nhiên, hiệu quả mạnh của việc kết hợp tập full ROM và bán ROM đối với
của việc loại bỏ hoàn toàn khoảng CUỐI ROM của chuyển chuyển động khác (vd: kết hợp Deadlift full ROM và các biến
động lên sự phát triển cơ bắp cần thêm nhiều nghiên cứu để thể Block Pull).
xác minh.
Bài tập Leg extension phát triển nhóm cơ Rectus femoris rất
tốt và không thể thiếu để phát triển vùng Đùi trước một cách
hoàn thiện. Nghiên cứu trong quá khứ phát hiện ra rằng các
bài tập đa khớp như Squat phát triển các nhóm cơ Vastus
(medialis, lateralis, intermedius) tốt nhưng kém hiệu quả
trong việc kích hoạt và phát triển Rectus femoris.
35
T3 MONTHLY DIGEST - THE THINKING TRAINER - ISSUE 1
36
T3 MONTHLY DIGEST - THE THINKING TRAINER - ISSUE 1
37
T3 MONTHLY DIGEST - THE THINKING TRAINER - ISSUE 1
Box 1
ĐÁNH GIÁ CHẤT LƯỢNG PROTEIN
Chất lượng protein có thể được đánh giá bằng hai yếu tố sau:
Thành phần amino acid (amino acid composition): Theo tiêu chí này, nguồn protein nào có đầy
đủ các amino acid thiết yếu hơn, nguồn protein đó có chất lượng cao hơn. van Vliet et. al. (2015)
(2) và Gorissen et. al. (2018) (3) là hai nguồn tốt để tham khảo thành phần amino acid của các
nguồn protein phổ biến.
Khả năng tiêu hóa và hấp thụ (digestibility and absorption): hai thang đo phổ biến khả năng
tiêu hóa và hấp thụ của protein là thang PDCAA (protein digestibility-corrected amino acid) và
DIAAS (digestible indispensable amino acid). Trong đó, DIAAS được coi là thang điểm đánh giá
chính xác hơn khả năng hấp thụ của một nguồn protein do mẫu xét nghiệm của DIAAS được lấy
từ ruột non (trong khi PDCAA lấy từ phân) và DIAAS đánh giá khả năng hấp thụ của từng amino
acid đơn lẻ (PDCAA chỉ xét tổng protein được hấp thụ). Hiện tại PDCAA vẫn là thang đo được sử
dụng phổ biến, trong khi DIAAS vẫn đang trong quá trình xây dựng cơ sở dữ liệu.
38
T3 MONTHLY DIGEST - THE THINKING TRAINER - ISSUE 1
Box 2
TRỞ NGẠI CỦA ĂN CHAY KHI MUỐN TĂNG CƠ
Khả năng hấp thụ và tiêu hóa kém: Ngay
Thành phần amino acid không hoàn cả khi mức độ hấp thụ và tiêu hóa tương
chỉnh: Các nguồn protein thực vật thường đương với protein động vật, protein động
có hàm lượng EAA ít hơn so với động vật, vật có hiệu quả kích thích tổng hợp protein
đặc biệt như lysine hay methionine (3). trong cơ bắp với lượng protein cần thiết
thấp hơn so với protein thực vật
Ngay cả mycoprotein mặc dù có thành
phần hoàn chỉnh nhất trong các loại Khi so sánh sản phẩm protein thực vật
protein không có nguồn gốc động vật trộn từ 4 nguồn (đậu Hà Lan, bí ngô, hạt
(41% protein là EAA so với whey là 52%), hướng dương, dừa) với Whey protein
có hàm lượng leucine thiếu hụt (6,2%, so isolate, để đạt được cùng lượng leucine
với 8-13% ở động vật). (2,6g), Whey isolate chỉ cần 24g trong khi
sản phẩm protein thực vật cần 34g (5).
Tuy vậy, những nhược điểm trên có thể khắc phục phần nào. Tốc độ tổng hợp protein tức thì không tiếp tục tăng
theo lượng protein nạp vào. Nghiên cứu chứng minh là tổng hợp protein đạt mức tối đa với khoảng 20 - 40g Whey.
Mặc dù không có nhiều nghiên cứu dài hạn về chế độ ăn chay, nhiều nghiên cứu so sánh sử dụng thực phẩm bổ
sung protein từ nguồn thực vật như đậu nành (6), đậu Hà Lan (7), gạo (8) trong hoặc sau khi tập luyện có chung
kết luận là protein thực vật đem lại hiệu quả tăng cơ không kém Whey protein. Một điều có thể rút ra được từ
những nghiên cứu trên là protein thực vật tiêu thụ với lượng đủ nhiều có thể quân bình bất lợi về khả năng kích
thích protein tức thì so với protein động vật. Bên cạnh đó, thiếu hụt về amino acid có thể được bù đắp. Người tập ăn
chay có thể bổ sung vào chế độ ăn bằng các thực phẩm bổ sung những amino acid cần thiết, hoặc sử dụng kết hợp
các nguồn protein thực vật với thành phần amino acid bổ trợ cho nhau.
Theo đó, một chế độ ăn chay cần tiêu thụ lượng protein nhiều hơn hẳn các chế độ ăn có protein động vật để đạt
được kết quả tăng cơ tốt nhất. Các nghiên cứu hiện tại đặt mức protein để tăng cơ tối ưu cho người tập ăn protein
động vật ở khoảng 1.6 - 2.2g/ kg/ ngày (12). Bên cạnh đó, hiện tại nghiên cứu đang ngả theo quan điểm thời gian
sử dụng protein (protein-timing) không quá quan trọng nếu như tổng protein tiêu thụ trong ngày cao (8). Tốc độ
tổng hợp protein trong cơ bắp (muscle protein synthesis - MPS) đạt ngưỡng tối đa khi sau khi sử dụng 20 đến 40g
Whey protein, tùy vào cường độ tập luyện (10). Theo đó, người tập ăn chay sẽ cần tiêu thụ mức protein cao trong
khoảng 1.6 - 2.2g/ kg/ ngày (hoặc thậm chí nhiều hơn) để tiêu thụ đủ lượng amino acid cần thiết, chia đều vào các
bữa trong ngày để đạt hiệu quả kích thích MPS tốt nhất.
Đạt được lượng protein cao trong chế độ ăn chay sẽ có những trở ngại nhất định. Chế độ ăn chay sẽ có hàm
lượng chất xơ (fiber) (trong nghiên cứu của Monteyne et. al. (2020), 68g/ ngày so với 32g/ ngày) và tinh bột
(carbohydrates) cao hơn so với chế độ ăn sử dụng nguồn đạm động vật. Điều này có thể gây khó khăn cho việc ăn
bulking (ăn đủ calo) hay cutting (khi lượng calo xuống thấp). Một lo ngại khác là ăn nhiều đậu nành có thể gây gia
tăng hormone estrogen; tuy nhiên, điều này cũng không nên là mối bận tâm lớn, trừ khi bạn ăn quá khoảng 39.2 -
78.4g/ ngày (10). Bên cạnh đó, một nguồn protein chất lượng cao dành cho người ăn chay là mycoprotein (protein
từ nấm), tuy nhiên sản phẩm này hiện chưa bày bán ở Việt Nam, nên việc tìm mua sẽ có thể gặp khó khăn.
39
T3 MONTHLY DIGEST - THE THINKING TRAINER - ISSUE 1
40
T3 MONTHLY DIGEST - THE THINKING TRAINER - ISSUE 1
Cơ bắp thường tăng “dung tích” (Volume) hay còn gọi là tăng về “khối lượng” (Mass)
sau một thời gian tập tạ (Strength Training). Trên lý thuyết sẽ có hai con đường có
thể giúp thực hiên điều này :
#1. HyperPlasia
Một số nghiên cứu (1) trên loài gặm nhấm đã chỉ rằng có sự tăng về số lượng các
sợi cơ ở loài chuột, sau khi chung trải qua các kích thích về mặt cơ học. Có nghĩa
là có tồn tại sự phân tách cơ (Ở loài chuột).
Một nghiên cứu khác (2) cũng cho ra kết quả tương tự.
Đối với người, các nhà nghiên cứu đã quan sát thấy “Dấu hiệu” sợi cơ có sự tách
rời (3) (Hyperplasia) sau các chương trình tập tương đối nặng (Đó có thể là dấu
hiệu của quá trình phục hồi cơ bắp). Cho đến nay, các dấu hiệu đó vẫn chưa
được củng cố chắc chắn rằng nó sẽ làm tăng số lượng sợi cơ ở người sau quá
trình tập luyện dài hạn (4)
Với hiện tượng HyperPlasia ở trên cơ thể người, đến hiện nay vẫn chưa có nhiều
bằng chứng mạnh mẽ ủng hộ cho điều này.
41
T3 MONTHLY DIGEST - THE THINKING TRAINER - ISSUE 1
Sự phì đại cơ bắp sẽ giúp gia tăng các thành phần Protein trong sợi cơ, từ đó giúp
tăng dung tích sợi cơ, việc này có thể xảy ra theo 2 cách :
(1) Các sợi cơ tăng diện tích bề mặt cắt ngang (Cross-Sectional Area)(Tăng chu vi sợi
cơ). Ở cách này sợi cơ sẽ tăng số lượng Sarcomeres nằm song song với nhau
(2) Các sợi cơ tăng theo chiều dài. Ở cách này, sợi cơ sẽ tăng số lượng Sarcomeres
theo chiều ngang, hay nói cách khác là theo các đoạn nối tiếp nhau.
Khi sợi cơ tăng theo chiều dài, cụ thể nó sẽ có hiện tượng phình ở phần giữa
(Chứ không phải đẩy 2 đầu bám của cơ bắp ra xa nhau).
Có rất nhiều các nghiên cứu trên cơ thể người đã chỉ ra rằng, chiều dài các bó cơ
(Fascicle) tăng lên sau thời gian dài tập luyện. Điều này chủ yếu xuất hiện ở
nhưng chương trình tập chỉ bao gồm sự co cơ dạng (Eccentric Contraction).
Tương tự, có rất nhiều các nghiên cứu cũng chỉ ra rằng sợi cơ tăng lên theo chu
vi sau một thời gian dài tập luyện. Và sự gia tăng này chủ yếu xuất hiện ở cac sợi
cơ loại II (Type II Fibers) (5).
Trên thực tế, Việc tăng cơ Hypertrophy sẽ chủ yếu diễn ra với việc sợi cơ tăng về
chu vi, và một phần nhỏ là tăng theo chiều dài.
42
T3 MONTHLY DIGEST - THE THINKING TRAINER - ISSUE 1
ĐIỀU GÌ KHIẾN
CƠ BẮP PHÁT TRIỂN?
Có 3 giai đoạn chính xảy ra trong quá trình tăng cơ (Hypertrophy) thông qua việc
luyện tập kháng lực (Resistance Training) hay tập sức mạnh (Strength Training).
Giai đoạn đầu tiên được gọi là “Initial Stimulus” (Kích thích ban đầu), giai đoạn này
thường coi là cơ chế chính (Primary Mechanism) giúp quá trình tăng cơ diễn ra.
Giai đoạn tiếp theo được gọi là “Molecular Signaling”. Ở giai đoạn này, khi các thụ
thể (Receptor) trong mỗi sợi cơ nhận biết được các kích thích ban đầu (Initial
Stimulus), chúng sẽ tạo ra các tín hiệu phân tử (Molecular Signaling) bên trong sợi
cơ.
Giai đoạn cuối được gọi là “Muscle Protein Synthesis”. Quá trình tăng tốc độ tổng
hợp và tích tụ Protein trong cơ bắp (Giúp kích thước sợi cơ tăng lên) được kích hoạt
bởi chính những “Tín hiệu phân tử” trong cơ bắp ở giai đoạn trước. (1)
Initial Stimulus sẽ là giai đoạn chúng ta cần quan tâm nhất, vì đây là giai đoạn
chúng ta áp dụng để giúp kích thích phát triển cơ bắp.
Các nhà nghiên cứu đã phát hiện ra 3 cơ chế chính (2) trong giai đoạn Initial
Stimulus có thể giúp kích thích việc cơ bắp phát triển bao gồm :
43
T3 MONTHLY DIGEST - THE THINKING TRAINER - ISSUE 1
Mechanical Tension (Sức căng cơ học) : Được hiểu là sức căng/lực mà cơ bắp
tạo ra. Sẽ có hai cách để giúp cơ bắp tạo ra nhiều lực hơn trong khi thực hiện bài
tập : (1) Tăng số lượng sợi cơ được kích hoạt để tham gia vào chuyển động. (2)
Tăng độ lớn lực kéo tạo ra trên mỗi sợi cơ. (3)
Metabolic Stress (Áp lực chuyển hóa) : Được biết đến với cảm giác
nóng/cháy/pump trong cơ bắp . Cảm giác này gây ra bởi sự tích tụ các các chất
chuyển hóa được cho là tạo ra thông qua quá trình “Metabolic Stress” trong sợi
cơ trong quá trình tập luyện, và sự tích tụ này giúp kích thích các tín hiệu đồng
hóa giúp cơ bắp phát triển. (4)
Muscle Damage (Tổn thương cơ bắp) : Khi cơ bắp lặp đi lặp lại việc co bóp
(Contraction), cơ bắp thường sẽ bị tổn thương. Khi cơ bắp bị tổn thương sau quá
trình tập luyện, điều này sẽ giúp kích hoạt việc tăng tốc độ tổng hợp Protein
trong sợi cơ, tăng sự hoạt động của các tế bào vệ tinh (Satellite Cell) và gia tăng
sự thích nghi của cấu trúc sợi cơ, những điều này sẽ giúp cơ bắp phát triển. (5)
(Ở các số tập san sau sẽ có những bài nói cụ thể hơn về những cơ chế này)
Mỗi cơ chế trên sẽ tạo ra một môi trường, mà ở đó mỗi sợi cơ sẽ có những phản ứng
kích thích các tín hiệu phân tử khác nhau, giúp làm tăng tốc độ tổng hợp Protein và
sau đó gây ra sự tích tụ Protein trong mỗi sợi cơ riêng biệt.
Hiện tại chúng ta đã có mô hình khá rõ ràng về cách cơ chế “Mechanical Tension”
kích thích sự phát triển của cơ bắp, mặc dù chúng ta chưa biết chính xác vị trí và
danh tính của các thụ thể “Mechanoreceptors” giúp tạo ra cơ chế này (Hiểu đơn
giản Mechanoreceptors là các thụ thể giúp biến đổi các kích thích “Vật lý” thành các
kích thích “Sinh hóa” giúp cơ bắp phát triển).
Ngược lại, vai trò kích thích phát triển cơ bắp của 2 cơ chế “Metabolic Stress” và
“Muscle Damage” chưa thật sự rõ ràng. Bởi vì rất khó để có thể đánh giá sự ảnh
hưởng độc lập của 2 cơ chế “Metabolic Stress” và “Muscle Damage” tới sự kích
thích phát triển cơ bắp, nếu như thiếu đi cơ chế “Mechanical Tension” xuất hiện
cùng một thời điểm.
44
T3 MONTHLY DIGEST - THE THINKING TRAINER - ISSUE 1
Có một số nhà nghiên cứu đưa ra giả thuyết rằng, cơ chế chính cho sự kích thích
phát triển cơ bắp đến từ việc “Các sợi cơ được kích hoạt” thông qua việc kêu gọi các
Motor Unit (Đơn vị vận động) làm việc, hay nói cách khác là càng nhiều sợi cơ được
gọi ra làm việc sẽ là cơ chế chính cho việc phát triển cơ bắp (6). Ý này không sai,
nhưng chưa đủ, có thể lấy ngay ví dụ về các bài tập với vận tốc co cơ cao như các bài
bật cao và bật xa, những bài tập có thể huy động rất nhiều các Motor Unit tham gia,
nhưng nó chỉ khiến cơ bắp phát triền một chút (7).
Hơn nữa, khi cơ bắp đang được “kích hoạt” ở mức độ cao, việc tăng tốc độ co cơ
(Contraction) sẽ khiến sự tăng cơ (Hypertrophy) giảm đi. Điều này xảy ra bởi vì khi
vận tốc co cơ nhanh hơn thì sẽ làm giảm kích thích cơ học (Mechanical Tension) ở
mỗi sợi cơ (8). Độ lớn của các kích thích cơ học sẽ được xác định bởi các thụ thể
Mechanoreceptors của mỗi sợi cơ (9).
(Chúng ta sẽ đi vào sâu vào cơ chế Mechanical Tension ở những bài viết sau).
05