You are on page 1of 165

MỤC LỤC

TÁC PHẨM “CHIẾC THUYỀN NGOÀI XA” 3


BÀI LÀM SỐ 1 3
BÀI LÀM SỐ 2 7
BÀI LÀM 12
BÀI LÀM 14
BÀI LÀM 18
BÀI LÀM 21
TÁC PHẨM “NGƯỜI LÁI ĐÒ SÔNG ĐÀ” 25
BÀI LÀM 26
BÀI LÀM 30
BÀI LÀM 34
BÀI LÀM 37
TÁC PHẨM “AI ĐÃ ĐẶT TÊN CHO DÒNG SÔNG” 40
BÀI LÀM SỐ 1 41
BÀI LÀM SỐ 2 45
BÀI LÀM 48
BÀI LÀM 52
TÁC PHẨM “VỢ CHỒNG A PHỦ” 57
BÀI LÀM SỐ 1 57
BÀI LÀM SỐ 2 61
BÀI LÀM 65
BÀI LÀM 68
BÀI LÀM 72
TÁC PHẨM “VỢ NHẶT” 76
BÀI LÀM 77
BÀI LÀM 80
BÀI LÀM SỐ 1 85
BÀI LÀM SỐ 2 88
BÀI LÀM 95
TÁC PHẨM “VIỆT BẮC” 98
BÀI LÀM 99
BÀI LÀM 103
BÀI LÀM 107
BÀI LÀM 110
TÁC PHẨM “TÂY TIẾN” 116
BÀI LÀM 116
BÀI LÀM SỐ 1 120
BÀI LÀM SỐ 2 125
BÀI LÀM 130
TÁC PHẨM “ĐẤT NƯỚC” 134
BÀI LÀM SỐ 1 134
BÀI LÀM SỐ 2 139
BÀI LÀM 144
TÁC PHẨM “SÓNG” 148
BÀI LÀM 149
BÀI LÀM 156
TÁC PHẨM KỊCH “HỒN TRƯƠNG BA DA HÀNG THỊT” 159
BÀI LÀM 160
BÀI LÀM 163
BÀI LÀM 167

TÁC PHẨM “CHIẾC THUYỀN NGOÀI XA”


Đề bài: Đọc đoạn trích sau:
“Lão đàn ông lập tức trở nên hùng hổ, mặt đỏ gay, lão rút trong người ra một chiếc
thắt lưng của lính ngụy ngày xưa, có vẻ như những điều phải nói với nhau họ đã nói hết,
chẳng nói chẳng rằng lão trút cơn giận như lửa cháy bằng cách dùng chiếc thắt lưng quật
tới tấp vào lưng người đàn bà, lão vừa đánh vừa thở hồng hộc, hai hàm răng nghiến ken
két, cứ mối nhát quất xuống lão lại nguyền rủa bằng cái giọng rên rỉ đau đớn: “Mày chết đi
cho ông nhờ. Chúng mày chết hết đi cho ông nhờ!”
Người đàn bà với một vẻ cam chịu đầy nhẫn nhục, không hề kêu một tiếng, không chống
trả, cũng không tìm cách trốn chạy.
Tất cả mọi việc xảy đến khiến tôi kinh ngạc đến mức, trong mấy phút đầu, tôi cứ đứng há
mồm ra mà nhìn. Thế rồi chẳng biết từ bao giờ, tôi đã vứt chiếc máy ảnh xuống đất chạy
nhào tới.”
Phân tích đoạn trích trên, từ đó thấy được quan điểm của Nguyễn Minh Châu về tấm
lòng của người nghệ sĩ với cuộc đời.
Họ và tên: Trần Thanh Tâm
Mã học viên: MV037
Điểm: 4.5/5.0

BÀI LÀM SỐ 1
Truyện ngắn “Chiếc thuyền ngoài xa” của nhà văn Nguyễn Minh Châu gây ấn tượng
với tác giả với độc giả ngay từ nhan đề đầy chất thơ, đem tới một hình ảnh ẩn dụ sâu sắc
cho mối quan hệ giữa cuộc đời và nghệ thuật. Nếu ngắm nhìn vẻ đẹp con thuyền ngoài xa,
ta chỉ có thể thưởng thức những nét hào nhoáng, xa vời đến nghệ thuật thị giác. Nhưng phải
tiến đến gần hơn nữa - thực tế gồ ghề của cuộc đời mới dần được bộc lộ. Người nghệ sĩ cần
giữ một khoảng cách nhất định để khám phá nghệ thuật nhưng cũng cần bám sát thực tế để
phát hiện ra những điều không hoàn hảo. Nếu ta chỉ biết ngắm nhìn vẻ đẹp mà lãng quên đi
sự thật, liệu đó có còn là cái đẹp ta tìm kiếm nữa hay không? Qua đoạn trích “Lão đàn ông
lập tức trở nên hùng hổ…chạy nhào tới” của tác phẩm “Chiếc thuyền ngoài xa”, ta sẽ
không những có được câu trả lời cho câu hỏi đầy trăn trở ấy mà còn thấy được quan điểm
sâu sắc của nhà văn Nguyễn Minh Châu vì tấm lòng của người nghệ sĩ với cuộc đời.
Nguyễn Minh Châu là một trong những cây bút tiêu biểu của nền văn học nước nhà
vì những đóng góp to lớn của ông trong những năm chiến tranh oanh liệt và đầu thời kỳ đổi
mới của văn học. Trước năm 1975, ông là một nhà văn mặc áo lính. Vì vậy, tâm niệm sáng
tác của ông lúc này là hướng đến cuộc chiến đấu vì sự sống còn của cả dân tộc, đất nước.
Sau năm 1975, khi chiến tranh đã đi qua, cây bút xứ Nghệ nhận ra nhiều vấn đề thường nhật
khác sẽ xảy đến nên ông hướng ngòi bút về những vấn đề đạo đức, mang triết lý sâu sắc.
Trong những tác phẩm của ông, đích đến luôn là con người, đặc biệt là những phận đời khổ
đau. Ngọn lửa tình yêu thương trong lòng người nghệ sĩ luôn cháy bỏng mãnh liệt. Đó cũng
chính là động lực giúp ông đi tìm “những hạt ngọc ẩn giấu trong bề sâu tâm hồn con
người”. Không những vậy, ông còn là một người gắn liền nghệ thuật văn chương của mình
với cuộc đời. Dù hiện thực ấy có méo mó, xấu xí thì ông luôn nhìn nhận nó mà không hề né
tránh. Tư tưởng sâu sắc đó được thể hiện rõ nét hơn bao giờ hết qua “Chiếc thuyền ngoài
xa” - một tác phẩm được ra đời năm 1983. Với đoạn trích người đàn ông hàng chài đánh
người vợ trên chính bãi biển - nơi mà nhân vật Phùng đã đắm chìm trong vẻ đẹp kỳ ảo, thơ
mộng. Tác giả đã bộc lộ quan điểm sâu sắc và đầy tinh tế của mình về tấm lòng của người
nghệ sĩ với cuộc đời.
Phùng là một nhiếp ảnh gia vô cùng yêu cái đẹp, có lòng khao khát khám phá vô tận,
luôn tôn thờ nghệ thuật để rồi tạo nên những tác phẩm vô cùng sâu sắc. Phải chăng vì lẽ đó,
anh đã được cấp trên giao phó một nhiệm vụ đặc biệt. Đấy chính là chụp một bức ảnh trên
biển vào một buổi sáng có sương để bổ sung vào bộ lịch năm mới. Địa điểm mà người nghệ
sĩ lựa chọn là vùng biển miền Trung đầy nắng và gió - nơi đã từng là chiến trường cũ của
anh và đồng đội của mình đã tham gia chiến trường oanh liệt. Phải một tuần trôi qua, anh
mới chụp được bức ảnh “Chiếc thuyền lưới vó chạm ánh bình minh”. Đấy là một phong
cảnh được ví như “cảnh đắt trời cho” - một phần thưởng quý giá mà thiên nhiên đã ban
tặng cho người say mê cái đẹp như Phùng. Đấy chính là “Chân lý của sự hoàn thiện”, “Cái
khoảnh khắc trong ngần” đã rửa trôi đi những vướng bận trong lòng người nghệ sĩ. Vẻ đẹp
toàn bích của đường nét và ánh sáng đã khiến con tim Phùng xao động, bồi hồi loạn nhịp,
“trong tim như có gì đó bóp thắt vào”. Thế nhưng, mải mê ngắm nhìn vẻ đẹp mờ ảo ấy,
người nghệ sĩ Phùng quên mất đi rằng: Trên đời này làm gì có điều hoàn mỹ đến thế. Phải
chăng phía sau còn những sự thật méo mó, xấu xí chưa được bộc lộ mà cần những người
theo đuổi nghệ thuật như anh khám phá. Và từ đây, tác giả Nguyễn Minh Châu đã trao cho
độc giả một cơ hội để cùng nhân vật được khám phá những sự thật phía sau màn che thơ
mộng, hào nhoáng tưởng chừng như là “chân lý của đạo đức” ấy.
Có cái gì đó vừa xé tan màn sương huyền ảo trước mắt nhân vật Phùng. Đấy chính là
sự thật, là khung cảnh đầy méo mó của một người chồng đánh vợ. Mặc cho những đòn roi
ngày càng đau đớn, người đàn bà ấy vẫn cam chịu đến nghẹn lòng. “Lão đàn ông lập tức…
lính ngụy ngày xưa” Người đàn ông “lập tức” hành động như thể ông đã trực chờ để đánh
người đàn bà. Trên khuôn mặt lộ rõ vẻ dữ dằn, buồn tủi đến “đỏ gay”. Những vẻ ấy trông
xấu xí, dữ tợn như chính cuộc đời đã khắc tạc lên khuôn mặt của người đàn ông đó vậy. Lão
rút ra một “Chiếc thắt lưng” - một vũ khí đã từng được sử dụng trong chiến tranh. Đã tám
năm trôi qua, ta tưởng chừng như cuộc sống bây giờ đã trở nên hòa bình - không bom đạn,
không chết chóc nhưng những gì hiện ra trước mắt, khốn khổ vẫn chưa hề biến mất. Chiếc
thắt lưng là minh chứng cho “vết tích” ấy, khiến người đàn ông quen với cái ác, với cái chết
chóc, đau thương đến chai lì đi cảm xúc. Lão không còn thấy e ngại khi vung những vết roi
đầy đau đớn trên “tấm lưng áo bạc phếch” của vợ mình. “Có vẻ như những điều phải nói
với nhau đã nói hết”. Phùng đâu hề biết rằng họ đã nói với nhau những gì. Phải bất lực đến
chừng nào, không thể thấu hiểu cho nhau đến ra sao, họ mới sử dụng đến bạo lực một cách
thô bạo như vậy. Hai con người ấy đã không thể tìm thấy tiếng nói của nhau bởi sự éo le
cuộc đời đã khiến họ dần trở nên xa cách. “Chẳng nói chẳng rằng…rên rỉ đau đớn”. Cứ
thế, lão hành động như “bản năng”, lão “vừa đánh vừa thở hồng hộc”. Lão là người đánh
nhưng “hàm răng nghiến ken két” như thể cũng đang chịu những lần quất roi đau đớn thay
người đàn bà.
Không những để lại những vết thương rỉ máu, lão còn buông lời nguyền rủa “bằng
cái giọng rên rỉ, đau đớn”. Phải chăng vì chính lão cũng không hề thấy vui vẻ, hả hê khi
trút những cơn nóng giận lên người đầu ấp tay gối với mình? Thế rồi lão thốt ra những ngôn
từ cay nghiệt như những nhát dao đâm thẳng vào lồng ngực người phụ nữ hàng chài “Mày
chết đi cho ông nhờ. Chúng mày chết hết đi cho ông nhờ”. Không gian mờ ảo chan hòa ánh
nắng ban mai đã chính thức bị phá tan bởi từ “giết” đầy bạo lực, khủng khiếp của người đàn
ông. Những ấn tượng đẹp đẽ trong Phùng dường như đang vỡ ra từng mảnh, nhường chỗ
cho những méo mó, xấu xí của cuộc đời. Phùng đâu ngờ được rằng trong những ngày tháng
hòa bình, con người vẫn đối xử với nhau tàn độc đến thế. Huống hồ gì hai con người ấy còn
gọi nhau hai tiếng “vợ-chồng”. Vậy mà, ông lớn tiếng kêu “chết hết đi”. Nếu chết hết đi,
ông sẽ được nhờ, sẽ không còn đau khổ vật lộn với cuộc đời khắc nghiệt này nữa chăng. Ta
tưởng chừng như những gì diễn ra trước mắt đã là một tấn bi kịch nhưng đau đớn hơn, bi
kịch hơn là người đàn bà lại âm thầm nhẫn nhục để cho người đàn ông ấy đánh. Mặc cho
những vết hằn trên thể xác của mình đang rỉ máu, người đàn bà hàng chài vẫn ngồi yêu chịu
đựng “Không hề kêu la, không hề trốn chạy”. Động lực nào khiến người đàn bà ấy cam tâm
chịu những cơn thịnh nộ của chồng mình như vậy? Phải chăng đó là vì chính những đứa con
của bà trên chiếc thuyền xa xa ngoài kia. Có lẽ, bà chấp nhận nỗi đau này vì tình yêu của bà
dành cho con còn lớn hơn gấp bội lần những thống khổ, đau đớn mà bà đang phải chịu
đựng. Sự chấp nhận nỗi đau này như một bản thỏa thuận mà trước đó hai người đã thỏa
thuận với nhau. Bà có kêu la, chống trả hay chạy trốn đi nữa, bà cũng không thể nào chạy
trốn được thực tại đang ghì chặt mình xuống tận cùng. Vì vậy, bà đã chấp nhận tội ác ấy
được “hiên ngang” hiện diện trong cuộc sống của mình.
Những người nghệ sĩ theo đuổi cái đẹp tuyệt mỹ như Phùng có thể hiểu ngay khung
cảnh quái đản ấy. Anh như sững người lại, tim như vỡ ra thành trăm mảnh. Từ đó, anh đã
vỡ lẽ ra bao điều về mối quan hệ giữa nghệ thuật và cuộc đời. “Tất cả mọi việc xảy đến
khiến tôi…ra mà nhìn”. Người nghệ sĩ ấy dường như không kịp trở tay. Anh không ngờ đấy
là sự thật, là những gì ẩn lấp sau màn sương mờ ảo kia. Chúng xấu xí, méo mó, tàn bạo,
khủng khiếp đến không thể nào tưởng tượng nổi. Đấy đâu phải lần đầu anh chứng kiến bạo
lực, đâu phải lần đầu anh nghe đến những sự chết chóc. Bao năm xông pha ở chiến trường,
đã bao lần “đôi mắt của anh nhìn vào cái chết”, tưởng chừng anh đã quen, đã chai lì với
khung cảnh bạo lực, dữ dội, vậy mà bao cảm xúc giờ đây cứ ùa về như thế, đây là lần đầu
tiên. Có lẽ bởi, mặc cho những tội ác bủa vây, anh cũng chưa từng có một giây phút nào để
bản thân thỏa hiệp với cái ác, để những cái gồ ghề, xấu xí đó hiển diện trong cuộc sống của
mình. “Thế rồi chẳng biết…chạy nhào tới”. Chiếc máy ảnh là một công cụ đắc lực để người
nghệ sĩ Phùng làm nên nghệ thuật. Chẳng biết từ lúc nào, anh hành động như bản năng,
xông vào tội ác đang diễn ra trước mắt. Có lẽ, anh luôn mang trên vai trọng trách của một
người lính, anh không thể đứng im để mặc cho cái ác “tung hoành” như vậy. Giây phút
Phùng “vứt chiếc máy ảnh” xuống đất để chạy đến can ngăn tội ác, cũng chính là giây phút
người nghệ sĩ chạy đến cuộc đời, để đấu tranh với hiện thực đầy xấu xa và méo mó kia. Để
sáng tạo nên nghệ thuật, Phùng đã nhìn qua lăng kính của máy ảnh nhưng để chạm vào hiện
thực cuộc đời, anh cần nhìn bằng chính đôi mắt trần trụi của mình, anh cần cảm bằng trái
tim giàu lòng trắc ẩn, bằng tinh thần sẵn sàng bảo vệ những người vô tội. Bởi cuộc đời này
đâu có giản đơn đến thế! Một khoảnh khắc được lưu trong cuốn phim, đâu thể nào nói lên
cả cuộc đời. Một khung cảnh tuyệt đẹp khiến con tim ta loạn nhịp, đâu phải sự thật phía sau
nó cũng hoàn hảo như vậy? Mà ngược lại, chúng còn khiến con tim ta thắt lại vì những tiếng
khổ đau, đang toát lên từ những con người nghèo khổ, đang vật lộn với phong ba bão táp
của cuộc đời kia.
Vì vậy, dù người nghệ sĩ Phùng yêu thương cái đẹp đến nhường nào, quý trọng công
cụ sáng tạo nghệ thuật đến ra sao thì anh vẫn luôn ưu tiên con người, ưu tiên sự thật lên trên
hết những vẻ đẹp nghệ thuật mà mình luôn tìm kiếm. Qua đây, ta phần nào thấy rõ được
quan niệm sâu sắc của nhà văn Nguyễn Minh Châu: “Người nghệ sĩ cần phải gắn nghệ
thuật với cuộc đời, bởi nghệ thuật chân chính luôn được khơi dậy từ cuộc đời và quay trở
lại cuộc đời”. Người nghệ sĩ không được phép nhìn đơn giản, dễ dãi, phải có tấm lòng trăn
trở về con người, phải đào xới vào những tầng sâu của đời sống để làm hé lộ những “hạt
ngọc trong tâm hồn”. Vì vậy, người theo đuổi nghệ thuật cũng chính là người luôn tìm kiếm
những sự thật, mang trong mình trọng trách đi khám phá và ký thác những vẻ đẹp khuất lấp
vào trong những trang bản thảo “lấp lánh chất vàng mười” của chính mình.
Quả nhiên “nhà văn Nguyễn Minh Châu là người kế tục xuất sắc những bậc thầy văn
xuôi Việt Nam. Với ngòi bút đầy sắc sảo của mình, ông đã đem đến cho người đọc một tình
huống truyện vô cùng đắt giá trong “Chiếc thuyền ngoài xa”. Qua những lớp ý nghĩa của
những hình ảnh giàu tính biểu tượng, những quan điểm sống và triết lý nhân sinh của tác giả
đã được bộc lộ một cách sâu sắc. Ngôi kể thứ nhất với điểm nhìn trần thuật đặt vào nhân vật
Phùng cũng là một sự lựa chọn chính xác, giúp độc giả có cơ hội được đồng hành cùng với
nhân vật, để rồi chính ta cũng đã có những bài học chiêm nghiệm cuộc đời đáng giá.
“Người tiền trạm đổi mới” Nguyễn Minh Châu đã thực sự hoàn thành sứ mệnh cao
cả của mình trong cuộc hành trình khám phá những ẩn khuất trong cuộc đời phức tạp.
Những sự thật được hé lộ ở đấy là những câu chuyện trần thuật, đau thương, bi đát nhưng
người nghệ sĩ không được phép né tránh đi sự thật ấy, mà còn phải nhìn sâu, nhìn sâu để
thấy được những vẻ đẹp khuất lấp của những con người bé nhỏ, cam phận. Đây mới đích
thực là vẻ đẹp hoàn mỹ nhất mà người nghệ sĩ luôn muốn kiếm tìm - một vẻ đẹp mặc cho
hoàn cảnh có vùi dập, bao năm tháng có qua đi, chúng vẫn luôn tỏa sáng như những ánh sao
trên bầu trời màn đêm u tối.
Họ và tên: Phạm Thúy Hằng
Mã: MV092
Điểm: 4.5/5.0

BÀI LÀM SỐ 2
Nam Cao đã để lại một câu nói vô cùng sâu sắc và đúng đắn: “Nghệ thuật không
phải là ánh trăng lừa dối, nghệ thuật không nên là ánh trăng lừa dối. Nghệ thuật có thể chỉ
là tiếng đau khổ kia, thoát ra từ những kiếp lầm than...”. Quan niệm ấy của nhà văn Nam
Cao cho chúng ta cảm nhận sâu sắc về mối quan hệ giữa nghệ thuật và cuộc đời. Và để tiếp
nối sự nghiệp “nghệ thuật vị nhân sinh” của tiền bối đi trước, Nguyễn Minh Châu đã thể
hiện vô cùng xuất sắc quan niệm ấy qua tác phẩm “Chiếc thuyền ngoài xa”. Những tưởng
người nghệ sĩ ấy tìm kiếm là vẻ đẹp toàn bích, hào nhoáng, rời xa thực tại nhưng không.
Điều mà ông luôn trăn trở là làm sao để phản ánh được hiện thực tàn khốc qua lăng kính của
nghệ thuật. Qua đoạn trích người đàn ông đánh đập tàn nhẫn người vợ của mình, ta như hiểu
rõ hơn về quan niệm cũng như tấm lòng của Nguyễn Minh Châu với cuộc đời.
Nguyễn Minh Châu quan niệm: “Người viết văn là người rất nặng nợ với đời”. Bản
thân ông cũng cảm thấy mình đang mang trên vai gánh “nặng nợ” ấy. Có người ví ông như
con tằm, bấy lâu cứ chắt chiu, cần mẫn với sự nghiệp dệt gấm trên từng con chữ, nhà thơ
trên từng trang văn. Bằng trái tim đầy lòng thương cảm, luôn dang rộng vòng tay đón lấy
thanh âm vang động của đất trời để “thương thay khóc mướn” cho số phận con người bất
hạnh dù chiến tranh đã được đẩy lùi. Nguyễn Minh Châu ý thức rất rõ sứ mệnh của người
nghệ sĩ trong việc kéo gần khoảng cách giữa nghệ thuật và cuộc đời. Và “Chiếc thuyền
ngoài xa” là một dấu ấn sâu sắc trong quá trình sáng tác nghệ thuật của ông. Tác phẩm
không chỉ để lại những quan niệm nhân sinh vô cùng mới mẻ về cuộc sống mà còn thể hiện
được những tư tưởng nhân văn và lòng thương của nhà văn đối với số phận con người.
Cứ ngỡ, qua lăng kính của người nghệ sĩ Phùng ta sẽ nhìn thấy vẻ đẹp toàn bích của
thiên nhiên miền biển với chiếc thuyền ngư đẹp như mơ đang ẩn hiện sau lớp mù sương.
Thấy được niềm hạnh phúc chân chính của người nghệ sĩ trong quá trình sáng tác và khám
phá ra nghệ thuật. Bức tranh buổi sáng bình minh ấy thực sự làm ta ngỡ như thấy vẻ đẹp
“Chân-Thiện-Mỹ”. Một người đã kinh qua biết bao nhiêu chuyện, thưởng thức biết bao
nhiêu vẻ đẹp như Phùng cũng thấy tâm hồn mình như được gột rửa, trở nên tinh khôi và đẹp
đẽ hơn. Nhưng nào ai biết được đằng sau “cảnh đắt trời cho” ấy là một nghịch lý đầy xấu
xa và tàn nhẫn. Vén bức màn của sương sớm huyền ảo cũng là lúc con thuyền ngư phủ tiến
vào bờ. Trước mắt Phùng hiện ra là những con người thô kệch, xấu xí, lam lũ và bất hạnh.
Cảnh tượng cái ác, cái xấu đang hiện hữu trong chính cái nền mà trước đó Phùng cho là
“toàn bích”. Cùng tại một không gian nhưng sao quá đỗi khác biệt, qua góc nhìn của Phùng
ta thấy được cảnh người đàn ông đánh đập vợ của mình một cách dã man, tàn bạo.
Bức tranh thiên nhiên toàn bích như bị xé rách bởi tiếng thét của người đàn ông đang
bước ra từ lớp mù sương “Cứ ngồi nguyên đấy. Động đậy tao giết cả mày đi bây giờ”.
Trong sự thay đổi chóng mặt ấy, Phùng như chết lặng trước điều mình cho là “đạo đức” nay
chỉ còn lại lời lẽ thật độc ác. Phải chăng sự chuyển động của con người đã dần đưa hiện
thực đến gần hơn với người nghệ sĩ? Còn đâu bức tranh tĩnh lặng với những “bóng người
lớn lẫn trẻ con ngồi im phăng phắc như tượng”, giờ đây những con người ấy đã thành hình,
thành dạng bước xuống từ con thuyền và “xô ngã” tất cả những gì đẹp đẽ trong lòng Phùng.
Trước hết, hiện lên trước mắt Phùng là hình ảnh một người phụ nữ vùng biển đầy vẻ nhọc
nhằn, lam lũ. “Trạc ngoài bốn mươi, một thân hình quen thuộc của đàn bà vùng biển, cao
lớn với những đường nét thô kệch. Mặt thì rỗ mụn, tái ngắt, như đang buồn ngủ” Nguyễn
Minh Châu đã vô cùng tinh tế khi khắc họa hình ảnh giàu sức liên tưởng như vậy. Một
người phụ nữ không được may mắn khi có ngoại hình xấu xí. Thế nhưng, nào có dừng lại ở
đấy, cuộc sống nghèo khổ, tính quẫn đã mài mòn đi hết nét dịu dàng, mảnh mai vốn có của
người phụ nữ ấy. Phía sau mụ là hình ảnh của một người đàn ông “mái tóc tổ quạ, tấm lưng
rộng và cong cong như chiếc thuyền. Lão đi hình chữ bát” và “đôi mắt đầy vẻ độc dữ”.
Dường như Phùng đang đứng chôn chân tại chỗ bởi không thể nào tin được bức tranh giúp
mình gột rửa tâm hồn, thanh lọc trí thức khi đến gần hơn lại thảm hại và mang đầy nghịch lý
như vậy.
Những tưởng bấy nhiêu đó đã đủ khiến Phùng đau đớn nhưng không anh lại phải
chứng kiến một cảnh khiến trái tim người nghệ sĩ như bị bóp nghẹt: người chồng với ánh
mắt độc dữ ra tay tàn bạo với vợ của mình - cảnh mà ta ngỡ như đang còn sống ở thời trung
cổ. “Lão rút trong người ra chiếc thắt lưng da từ thời lính ngụy” quất tới tấp vào “tấm lưng
áo bạc phếch” mà lúc nãy ông cứ dán đôi mắt vào. Dường như đây là một chút xót thương
đối với người phụ nữ “đầu ấp tay gối” với mình? Phải chăng chính trong thân tâm ông cũng
đang suy nghĩ? Phải chăng sâu thẳm trong lòng ông cũng đau đớn và xót xa khi chọn tấm
lưng vợ làm nơi giải tỏa mọi phẫn uất? “Tấm lưng ấy” cũng như một lời nhắc nhở đối với
người đàn ông, nhắc nhở ông đang có một đàn con phải lo, một chiếc thuyền phải chèo
chống và cuối cùng là nhắc nhở ông về sự thảm thương cũng như rách nát của vợ mình.
Dường như mọi thứ đang đẩy ông vào đường cùng tuyệt lộ, áp lực cuộc sống như những
con sóng ngoài khơi cứ hết cơn này đến cơn khác khiến người chồng cảm thấy túng quẫn,
bất lực với thực tại. Theo góc nhìn của bản thân, tôi không bao giờ bênh vực hay cổ súy cho
hành động vũ phu và tàn nhẫn của người chồng dù ở trong hoàn cảnh nào. Đứng ở góc nhìn
của một người ngoài cuộc, ta sẽ vô cùng căm ghét và khinh bỉ trước trận đòn roi đối với
người vợ. Nhưng thực tâm lão không chỉ là nguồn cơn tội ác của bạo lực gia đình mà lão
còn là nạn nhân của cái nghèo, cái đói đang dần “xâu xé” đi nhân hình lẫn nhân tính của con
người. “Có vẻ như những điều phải nói họ đã nói hết với nhau”, dường như chỉ một câu nói
thôi mà Nguyễn Minh Châu đã đâm vào nơi sâu nhất nơi trái tim độc giả. Bởi suy nghĩ ấy
đã phơi bày hiện thực tàn khốc sau thời chiến. Phải chăng chính sự thấu hiểu đã khiến cho
mọi áp lực của gia đình hàng chài được giải quyết bằng bạo lực?
Không chỉ dừng lại ở việc tra tấn về thể xác, mụ còn phải chịu đựng sự hành hạ về
mặt tâm hồn - lão vừa đánh vừa nguyền rủa bằng cái giọng rên rỉ “Mày chết đi cho tao nhờ.
Chúng mày chết hết đi cho tao nhờ”. Có những vết thương trên thân thể sẽ bị phai mờ dần
theo năm tháng nhưng những đau đớn về mặt tâm hồn mà mụ phải chịu đựng không biết
liệu có thể lành lại theo năm tháng? Trái tim mà vụn vỡ thì rất khó có thể chữa lành, bởi có
nhiều vết thương ta cứ ngỡ nó đã đóng vảy, sắp lành lại nhưng chỉ cần cựa nhẹ một chút
cũng có thể đủ khiến nơi đó đau đớn, thương tâm đến cùng cực. Lời nguyền rủa của những
con người có thù, có oán với nhau lại được thốt ra từ chính người chồng “đồng cam cộng
khổ” cùng mình, liệu ai có thể thôi xót xa? Lão không chỉ nguyền rủa người đàn bà “mày
chết đi” mà lão còn nhẫn tâm nguyền rủa cả những đứa con của lão “chúng mày chết hết
đi”. Dường như trên đôi vai của hắn đã phải gánh vác quá nhiều rồi. Gia đình là nơi để
chúng ta trở về nhưng đối với lão gia đình lại là một gánh nặng, là sự áp lực vô hình nhưng
luôn khiến lão rã rời, mỏi mệt. “Lão trút cơn giận như lửa cháy, vừa đánh vừa thở hồng
hộc, hai hàm răng nghiến ken két”, không ngờ hắn có thể tàn nhẫn đến như vậy, tâm trí của
hắn giờ đây đã bị lũ quỷ ngự trị, hắn không thể thoát ra khỏi cơn phẫn uất đến từ áp lực
cuộc sống. Dường như, phương pháp hữu hiệu nhất để ông ta thấy hết khổ, giải tỏa được áp
lực là bằng cách “phát tiết” lên tấm lưng gầy gò, sương gió của vợ. Thật đau lòng biết bao
nhiêu! Chiến tranh đã qua đi hơn tám năm ròng rã nhưng sự thiếu hụt về kiến thức và hiểu
biết đã để lại những hệ lụy vô cùng đau đớn. Giữa con người với nhau và hơn thế họ còn là
một cặp vợ chồng lại không thể dùng cách tâm sự, giãi bày để tìm ra cách giải quyết mà lại
sử dụng phương thức nguyên thủy nhất để giải quyết nỗi khổ.
“Người đàn bà với vẻ mặt cam chịu đầy nhẫn nhục, không hề kêu, không chống trả,
cũng không chạy trốn”, khoảnh khắc này cả Phùng hay những độc giả cũng không thể tin
được. Chính mụ đang thỏa hiệp với cái tàn bạo, vũ phu của chồng. Phải chăng mụ không
biết đau hay bản thân đã quá mệt đến mức chẳng còn thiết tha sự phản kháng? Hành động
này chắc hẳn không phải lần đầu, đó như là một thói quen cả người bạo hành lẫn nạn nhân.
Liệu có phải mụ đang dung túng và tiếp tay cho một tội ác cứ diễn ra như lẽ thường tình? Sự
im lặng, thỏa hiệp trước cái ác và cái xấu của mụ vô hình trung đã đẩy người đàn ông của
mình vào hố sâu của tội lỗi. Cho dù đối với mụ đó là điều mình phải hi sinh vì niềm hạnh
phúc nhỏ nhoi của gia đình, vì những bữa ăn no của các con. Thế nhưng, cái giá đắt đỏ mà
mụ đổi lấy đôi khi đã đẩy người đàn ông vào hố sâu tuyệt vọng. Những áp lực cứ dồn đẩy
nhau biến gã thành một kẻ tàn bạo thật sự. Biết đâu sự thỏa hiệp của mụ lại biến con mình
trở thành “nạn nhân” trong tương lai vì chịu sự tra tấn của bố nó? Phùng sững sờ, kinh ngạc,
anh đứng chôn chân tại chỗ khi chứng kiến câu chuyện quái đản kia. Tất cả như một thước
phim đảo nhanh trước mắt người nghệ sĩ, trái tim đầy sự rung cảm đó như chết lặng vì hình
ảnh trước mắt mình. Anh không màng gì cả “vứt chiếc máy ảnh xuống đất mà nhào tới”.
Chiếc máy ảnh không chỉ là một đồ vật vô tri vô giác, nó trở thành người bạn cùng gắn bó
với Phùng biết bao lâu. Nó là công cụ để anh sáng tạo nghệ thuật và cũng là phương tiện để
ghi lại “cảnh đắt trời cho” ban nãy. Nhưng giờ đây, khi chứng kiến hiện thực trần trụi, anh
không tiếc ném bảo vật mà mình chân quý để chạy đến cùng cuộc đời. Trong vô thức, anh
đã gác lại mục đích kiếm tìm nét đẹp toàn bích, đã đặt xuống cái tôi của người nghệ sĩ để
chạy đến với cuộc đời đầy đau thương và ngang trái này, để đấu tranh cho những kẻ “cùng
đường tuyệt lộ”. Dường như, anh nhận ra, để sáng tạo nghệ thuật, anh phải nhìn qua lăng
kính của máy ảnh để tạo ra kiệt tác nhưng để chạm đến hiện thực đời sống, chạm đến từng
nếp vân trên từng “khúc đời sống” anh cần phải nhìn bằng đôi mắt trần trụi của bản thân.
Không những thế, Phùng còn phải cảm nhận bằng trái tim giàu lòng trắc ẩn và bằng một
tinh thần sẵn sàng chiến đấu bảo vệ những người vô tội khỏi cái ác, cái xấu. Phùng không
chỉ là người nghệ sĩ chân chính trong quá trình sáng tạo nghệ thuật mà anh còn là một người
tràn đầy lòng yêu thương và sẵn sàng chiến đấu cho những điều tốt đẹp của cuộc đời. Giữa
nghệ thuật hào nhoáng, anh đã quyết định chọn cuộc đời với hiện thức xấu xí, méo mó. Và
đang chờ đợi anh lại là một trận chiến dài để bảo vệ nét đẹp trong cuộc sống, đẩy lùi những
gì tàn bạo và nhẫn tâm.
Nguyễn Minh Châu từng nói: “Tôi không thể nào hiểu nổi một nhà văn mà lại không
mang trong mình tình yêu cuộc sống nhất là tình yêu thương con người”, người nghệ sĩ ấy
đã không tiếc bao bút lực để phác họa tấm lòng thương cảm của mình đối với những số
phận bất hạnh.Ông luôn nỗ lực trong cuộc hành trình đãi cát tìm vàng của mình, tinh luyện
những gì sâu sắc và tinh tế nhất để đưa vào từng trang văn. Với trái tim giàu lòng yêu
thương, luôn dang tay đón lấy những vang động của đất trời, Nguyễn Minh Châu đang
thương xót thay cho những con người phải sống trong nghèo khổ, túng quẫn, thiếu giáo dục
dù chiến tranh đã đi xa hơn tám năm. “Người mở đường tinh anh và tài năng” như ông,
luôn tiên phong mở ra ngưỡng cửa mới về nhận thức con người. Chính bản thân nhà văn
luôn tự ý thức rõ ràng về sứ mệnh cầm bút của mình. Ông từng để lại một quan niệm khiến
cả độc giả và các nhà văn cùng thời phải suy ngẫm: “Văn học và đời sống là những vòng
tròn đồng tâm mà tâm điểm là con người”. Nhà văn luôn hướng ngòi bút của mình đến cuộc
sống hiện thực, nỗ lực hết sức để kéo gần khoảng cách giữa nghệ thuật và cuộc đời. Bởi
vậy, “Chiếc thuyền ngoài xa” dù trải qua bao năm tháng vẫn có thể tồn tại trong lòng những
người “đồng sáng tạo” - thật không quá đáng khi nói nó là một tác phẩm “nằm ngoài sự
băng hoại của thời gian”. Những giá trị nhân đạo sâu sắc, có ý nghĩa thức tỉnh và giáo dục
con người hướng tới cái đẹp “Chân-Thiện-Mỹ” mà nhà văn muốn gửi gắm thông qua tác
phẩm như đang giúp con người sống lương thiện hơn, trong sáng hơn và có cái nhìn thật sâu
sắc về cuộc đời. “Chiếc thuyền ngoài xa” chính là tấm gương phản chiếu sâu sắc nhất quan
niệm và tấm lòng của Nguyễn Minh Châu đến với những con người bất hạnh và cuộc sống
hiện thực trần trụi đang bị che phủ bởi lớp vỏ ngoài hào nhoáng.
“Cây bút thế sự” sắc sảo, tinh tế đã đem đến cho người đọc bao sự ngỡ ngàng và bất
ngờ về cuộc đời. Nếu ban đầu, Nguyễn Minh Châu cho chúng ta thấy một vẻ đẹp toàn bích,
nét đẹp trong trẻo, tinh khôi khiến người nghệ sĩ Phùng phải thốt lên “bản thân cái đẹp
chính là đạo đức”. Thì sau khi vén bức màn sương sớm mờ ảo, ta lại thất thần nhận ra: đó là
những méo mó, xấu xí biết bao nhiêu của cuộc đời đầy sóng gió và nghịch lý. Trong xuyên
suốt hành trình dựng xây tác phẩm, ông đã sử dụng nhiều những hình ảnh mang tính biểu
tượng, qua đó gửi gắm những quan niệm nhân sinh vô cùng sâu sắc tới bạn đọc. Dường như
khi lựa chọn ngôi kể thứ nhất, nhà văn đã thể hiện mong muốn độc giả có cơ hội được đồng
hành, cùng trải nghiệm, cùng suy nghĩ và cùng nhận thức ra được mối quan hệ giữa nghệ
thuật trong văn chương và hiện thực đời sống. Nguyễn Minh Châu đã không tiếc những bút
lực xây dựng cho “đứa con tinh thần” của mình một tình huống nhận thức vô cùng độc đáo,
có ý nghĩa khám phá và thấu hiểu hơn về quan niệm nghệ thuật cũng như tấm lòng thương
cảm của ông đối với những số phận bất hạnh thời hậu chiến. Bên cạnh đó, tài hoa của nhà
văn còn được thể hiện ở nghệ thuật xây dựng nhân vật độc đáo, đậm sắc, tâm lí nhân vật
được phát triển tự nhiên và ẩn chứa nhiều bài học chiêm nghiệm.
Nhà văn Nguyễn Minh Châu đã vượt qua được cái nhìn đơn giản, dễ dãi để đem đến
cho ta một truyện ngắn có chiều sâu nhận thức và có giá trị phát hiện bằng những nghịch lý
đời thường. Chiếc thuyền ngư phủ chỉ đẹp khi nó ở ngoài xa trong sương mù bồng bềnh
huyền ảo. Nhưng khi nó tiến gần hơn với bến bờ của cuộc đời thì bên trong lại phô bày hết
những cái thật xấu xa, ngang trái, tàn nhẫn. Dù sống trong hoàn cảnh nghèo khó, thiếu thốn
nhưng người đàn bà hàng chài vẫn ánh lên những nét đẹp của người phụ nữ lao động - cho
dù đó là những nét đẹp của sự âm thầm nhẫn nhục, cam chịu không đáng có và không nên
có của người phụ nữ thời đại ngày nay. Đó chính là cuộc sống thật đang diễn ra đâu đó trên
đất nước ta - một cuộc sống trần trụi, gai góc, nhức nhối nhưng rất dễ bị che lấp bởi một vẻ
đẹp thoáng qua bên ngoài. Và khi nhà văn đã vạch ra cái sự thật của cuộc sống đó, thì cũng
là lúc ông đã đặt ra những câu hỏi bức xúc để góp phần thay đổi cuộc sống, hoàn thiện nhân
cách con người.
Đề bài: Cho đoạn trích sau:
“Khi tôi chạy đến nơi thì chiếc thắt lưng da đã nằm trong tay thằng bé, không biết
làm thế nào nó đã giằng được chiếc thắt lưng, liền dướn thẳng người vung chiếc khóa
sắt quật vào giữa khuôn ngực trần vạm vỡ cháy nắng có những đám lông đen như hắc
ín, loăn xoăn từ rốn mọc ngược lên. Lão đàn ông định giằng lại chiếc thắt lưng nhưng
chẳng được nữa, liền dang thẳng cánh cho thằng bé hai cái tát khiến thằng nhỏ lảo đảo
ngã dúi xuống cát. Rồi lão lẳng lặng bỏ đi về phía bờ nước để trở về thuyền. Không hề
quay mặt nhìn lại, chỉ có tảng lưng khum khum và vạm vỡ càng có vẻ cúi thấp hơn, nom
lão như một con gấu đang đi tìm nguồn nước uống, hai bàn chân chữ bát để lại những
vết chân to và sâu trên bãi cát hoang vắng.”
Nêu cảm nhận của anh/chị về đoạn trích trên, từ đó rút ra nhận xét về ngòi bút
nhân đạo sâu sắc của nhà văn Nguyễn Minh Châu qua truyện ngắn “Chiếc thuyền
ngoài xa”.
Họ và tên: Chou Anh
MHV: MV307
Điểm 4.75/5.0

BÀI LÀM
Không đứa trẻ nào mà không bị tổn thương khi chứng kiến cảnh bạo lực gia đình. Điều
này có thể trở thành bóng ma tâm lý hoặc hình thành nhận thức sai trái cho trẻ. Cậu bé Phác
trong “Chiếc thuyền ngoài xa” của Nguyễn Minh Châu cũng là một nạn nhân như thế, trong
đoạn trích “khi tôi chạy đến nơi…những vết chân to và sâu trên bãi cát hoang vắng…” hành
động trái đạo lý của cậu bé đã đẩy những bất hạnh của gia đình hàng chài thành bi kịch nối
tiếp bi kịch. Qua đoạn trích, ngòi bút nhân đạo sâu sắc của Nguyễn Minh Châu một lần nữa
được khẳng định.
Giữa biển lớn những vấn đề xoay quanh văn học, Nguyễn Minh Châu đã tìm cho mình
ngọn hải đăng, dẫn lối cho sự nghiệp sáng tác của ông: “Nhà văn luôn là người cố gắng đi
tìm những hạt ngọc ẩn giấu trong bề sâu tâm hồn con người”. Chất văn của ông bình dị
nhưng đem lại nhiều giá trị sâu sắc. Trước năm 1975, ông là nhà văn mặc áo lính. Sau năm
1975, ông được coi là “người mở đường tinh anh và tài năng” (Nguyên Ngọc) cho một giai
đoạn chuyển giao văn học. Một trong các tác phẩm sáng giá của ông là truyện ngắn “Chiếc
thuyền ngoài xa”. Tác phẩm được viết vào tháng 8 năm 1983, khi cuộc kháng chiến chống
Mĩ cứu nước đã đi qua được tám năm, cả nước lúc này bước vào giai đoạn xây dựng chế độ
Xã hội chủ nghĩa. Bấy giờ , nhiều vấn đề văn hóa, đời sống nhân sinh dần được bộc lộ. Với
ngòi bút nhạy cảm trước thời cuộc, Nguyễn Minh Châu đã khai thác sâu vào số phận cá
nhân và thân phận con người trong cuộc sống đời thường, điển hình là tác phẩm “Chiếc
thuyền ngoài xa”.
Trong đoạn trích thể hiện tình huống nhận thức thứ hai của nhân vật Phùng, một bức
tranh xấu xí về một gia đình hàng chài hiện lên trước mắt của Phùng. Đó là một khung cảnh
bạo lực đầy xót xa khi người chồng trút mọi bực tức lên người đàn bà bằng cách dùng chiếc
thắt lưng “quật tới tấp”. Sự đay nghiến, hành hạ bằng cả lời nói và hành động của người đàn
ông khiến nhân vật Phùng hết sức kinh ngạc và chết lặng. Nhưng bi kịch của gia đình họ
chưa dừng lại ở đó, đoạn “khi tôi chạy tới nơi…những vết chân to và sâu trên bãi cát hoang
vắng” đã đẩy mạch câu chuyện lên cao trào bằng hình ảnh thằng bé Phác đánh bố.
Hành động của thằng bé Phác trong đoạn trích cho thấy tình yêu của nó dành cho mẹ.
Nó đã sử dụng bạo lực để chấm dứt bạo lực nhưng hành động ấy lại là hành động trái với
luân thường đạo lý đồng thời đẩy nỗi bất hạnh của người mẹ lên thành bi kịch đầy đau đớn.
Thằng bé được gửi cho ở với ông nhưng nó luôn tìm mọi cách trốn về, nó không yên tâm,
sợ mẹ phải khổ, sợ mẹ lại tiếp tục chịu đựng những đòn roi cay nghiệt của người bố. Trong
suy nghĩ của đứa trẻ, ngày nào nó còn ở bên mẹ thì mẹ nó sẽ không phải khổ nữa. Chính vì
thế, Phác luôn cố gắng theo sát mẹ, ngay khi cảnh tượng bạo lực diễn ra thì nó đã lập tực
chạy đến để chấm dứt hành động bạo lực của bố lên người mẹ. Bản thân đứa trẻ đó như một
tờ giấy trắng nhuốm những đốm đen do phải chứng kiến cảnh bạo lực gia đình từ khi còn
nhỏ, ăn sâu vào tiềm thức của nó là việc sử dụng bạo lực để giải quyết vấn đề. Vì thế, phản
xạ đầu tiên của Phác khi giằng được chiếc thắt lưng là “liền dướn thẳng người vung chiếc
khóa sắt quật vào giữa khuôn ngực trần vạm vỡ…”. Hành động xuất phát từ tình thương mẹ
lại trở thành hành động trái luân thường đạo lý- hành động con đánh cha. Đến đây, chắc hẳn
người đọc không khỏi xót xa cho cả ba số phận, sự thỏa hiệp với bạo lực để giúp gia đình có
thể gồng gánh, chịu đựng nỗi bất hạnh của sự vất vả mưu sinh, đói nghèo nay lại là nguyên
nhân gây ra hành động sai trái của con.
Hành động của thằng bé Phác còn chạm vào giới hạn chịu đựng của người mẹ, người
đàn bà có thể chịu được sự đày đọa về mặt thể xác, sự đay nghiến về tinh thần nhưng đối
với hành động sai trái của con, nỗi bất hạnh của bà mới thực sự trở thành bi kịch. Người mẹ
cho rằng thằng bé hành động như vậy là do bản thân mình không lo được cho con cuộc sống
tốt hơn, do sự thỏa hiệp của mình mà bản chất vốn trong sáng của đứa trẻ nay lại có những
biểu hiện méo mó. Người mẹ cúi đầu chấp nhận lựa chọn bạo lực tất cả chỉ vì các con
nhưng điều không ngờ tới vô tình hình thành nên sự bạo lực bên trong con người thằng bé
Phác. Hành động bạo lực của thằng bé thật đáng trách nhưng nhiều hơn cả là sự đáng
thương. Bởi nó cũng là nạn nhân của hoàn cảnh, của bạo lực. Câu hỏi có thể đặt ra là tương
lai thằng bé liệu có giống bố? Bản thân nó là sự khởi đầu của một tương lai mới hay là sự
nối tiếp của một vòng luẩn quẩn?
Người trực tiếp gây ra biểu hiện méo mó của thằng bé Phác là người đàn ông. Nói đến
đây chắc hẳn mọi mũi nhọn chỉ trích đều hướng về nhân vật này. Nếu bản thân chúng ta chỉ
nhìn nhân vật theo một chiều hướng bằng lăng kính cá nhân ta sẽ thấy hành động của người
cha chỉ là chuỗi những bạo lực vô căn cứ. Nhưng khi nhìn sâu hơn ta lại phát hiện phần nào
cảm xúc và bản chất của người đàn ông. Ông ta hẳn cũng phải chịu nỗi đau của một người
cha khi thấy hành động trái đạo lí của con. Nguyên nhân người đàn ông đánh con vì đau về
thể xác, hành động “dang thẳng cánh cho thằng bé hai cái tát” là sự phản kháng dễ hiểu.
Nhưng đằng sau đó là vì nỗi đau về tinh thần, ông đánh con như một sự dạy dỗ, trừng phạt
duy nhất có thể làm. Với một người đàn ông ít học, quả thật không dễ để có thể nói lí với
con nhất là ở trong tình huống bất ngờ như thế này và trong hoàn cảnh mà người đàn ông
cũng không thể giải thích với con. Chuỗi hành động của người đàn ông diễn ra trong không
gian nín lặng. Phải chăng Nguyễn Minh Châu xây dựng không gian ấy để người đọc tập
trung nhìn nhận ra bản chất khác của nhân vật? Người đàn ông lẳng lặng bước đi không
quay mặt lại có lẽ vì muốn trốn tránh sự thật, che giấu đi cảm xúc, nội tâm của mình. Người
cha đó chắc chắn cũng rất thương con, trước hết ông chịu gánh nặng mưu sinh cũng vì con,
tưởng chừng nhật vật có thể sẽ trừng phạt thằng Phác bằng bạo lực tàn bạo hơn thế, bằng
những hành động không thể tưởng tượng nhưng ông không làm vậy. Có lẽ, nhân vật cũng
mường tượng ra nguyên nhân là do mình. Nguyễn Minh Châu đã xây dựng nhân vật thông
qua những hành động xấu xí nhưng cũng để thử thách người đọc có dễ dàng nhận ra bản
chất bên trong nhân vật hay vội vàng đánh giá bằng lăng kính tiêu cực.
Qua đoạn trích rất ngắn, người đọc có cơ hội nhìn nhận lại phần nào bản chất sâu bên
trong nhân vật, đó cũng là thành tựu của ngòi bút nhân đạo sâu sắc của tác giả. Nguyễn
Minh Châu đã thể hiện sự đồng cảm sâu sắc đối với số phận người lao động bất hạnh.
Thông qua chi tiết “chiếc thắt lưng” chính là minh chứng cho những gì còn sót lại của
những năm tháng chiến tranh để từ đó cất lên tiếng nói lên án, phê phán cuộc chiến phi
nghĩa đã khiến nhân dân ta phải hứng chịu nhiều hậu quả nặng nề. Nguyễn Minh cũng luôn
đặt niềm tin vào người lao động, về vẻ đẹp tâm hồn ẩn giấu sau vỏ bọc xấu xí. Thật vậy,
nhờ vào niềm tin của ông, người đọc đã có cơ hội tìm ra và ngợi ca vẻ đẹp từ tình yêu
thương con của những người lao động nghèo khổ, bất hạnh.
Vấn đề bạo lực gia đình được Nguyễn Minh Châu đưa ra không phải là vấn đề mới mẻ
nhưng lại chưa bao giờ cũ cả. Theo số liệu gần đây, tỉ lệ các vụ việc bạo lực gia đình tăng
cao, nhất là trong giai đoạn giãn cách xã hội vì đại dịch Covid 19 khiến ai cũng cần phải suy
nghĩ. Trong đó, trẻ em là nạn nhân bị ảnh hưởng trực tiếp hoặc gián tiếp đáng lo ngại nhất.
Nhiều vụ việc gần đây khiến xã hội bàng hoàng, xót xa: Mẹ kế đánh con gái 8 tuổi tử vong
ở TP Hồ Chí Minh; bé gái 3 tuổi bị cắm 9 cây đinh vào đầu,... Những người làm cha làm mẹ
cần ý thức hơn trách nhiệm của mình trong việc giữ gìn hạnh phúc gia đình, đừng vì bất cứ
lý do gì làm tổn thương những người xung quanh mình.
Truyện ngắn “Chiếc thuyền ngoài xa” là một tác phẩm vô cùng ý nghĩa thông qua
ngôn ngữ kể chuyện đặc sắc, chân thực với những chi tiết nghệ thuật giàu sức gợi để tạo nên
những tình huống đắt giá. Gấp lại trang sách, ta học được những triết lí nhân sinh vô cùng
giá trị và những vấn đề về mưu sinh, miếng cơm manh áo để cho ta có động lực giúp xã hội
trở nên tốt đẹp hơn!
Đề bài:
Về nhân vật Phùng trong truyện ngắn “Chiếc thuyền ngoài xa” của nhà văn Nguyễn Minh
Châu, có ý kiến cho rằng: Nét nổi bật ở người nghệ sĩ này là một tâm hồn nhạy cảm và say
mê cái đẹp. Ý kiến khác lại nhấn mạnh: Vẻ đẹp sâu xa của nghệ sĩ Phùng chính là tấm lòng
đầy trăn trở, lo âu về thân phận con người.
Anh/chị hãy phân tích hai phát hiện của Phùng để làm rõ các ý kiến trên, từ đó nhận
xét quan điểm của Nguyễn Minh Châu về người nghệ sĩ chân chính.
Họ và tên: Đoàn Ngọc Ánh
MV 030
Điểm:4.75/5.0

BÀI LÀM
Nhắc đến hành trình đi tìm “những hạt ngọc ẩn giấu trong bề sâu tâm hồn của con
người”của nhà văn Nguyễn Minh Châu, ta không thể không nhắc đến “Chiếc thuyền ngoài
xa”. Truyện ngắn với cái tên đầy chất thơ nhưng thực tế lại trải ra một nghịch cảnh phũ
phàng và đau đớn về thân phận con người, đồng thời khai mở một hành trình khám phá về
mối quan hệ giữa nghệ thuật và cuộc đời. Nếu như nghệ thuật chỉ là “ánh trăng lừa dối”,
đẹp đẽ mà hào nhoáng, liệu nó có thể ẩn chứa những giá trị sâu sắc đến thế? Ta sẽ được
khám phá câu trả lời khi đồng hành cùng Phùng qua hai phát hiện đầy trớ trêu của anh. Từ
đó, người đọc được chiêm nghiệm về cái đẹp, về giá trị nhân sinh, về người nghệ sĩ chân
chính qua góc nhìn của nhà văn Nguyễn Minh Châu.
Trong những năm chiến tranh Việt Nam và thời kỳ đầu đổi mới, nhắc đến ngòi bút
sắc sảo cùng triết lý sâu sắc, ta không thể không nhắc đến “cây bút thế sự” Nguyễn Minh
Châu. Với phong cách sáng tác đặc biệt, những tác phẩm của “người tiền trạm đổi mới ấy
mang chất văn bình dị, gần gũi nhưng đầy tính nhân văn và lấp lánh những bài học thức
tỉnh con người về nhiều mặt trong cuộc sống. Bản thân ông quan niệm rằng người nghệ sĩ
luôn mang trong mình những sứ mệnh thiêng liêng. Suốt đời, Nguyễn Minh Châu khát khao
kiếm tìm cách để bênh vực và lên tiếng yêu thương” “nâng giấc cho những ngành cùng
đường tuyệt lộ hoặc số phận đen đủi dồn đến chân tường”. Nếu như trước năm 1975, ông
tập trung vào chủ nghĩa anh hùng trong chiến đấu thì sau Giải phóng, Nguyễn Minh Châu
lại ghi dấu ấn với ngòi bút của một người mở đường tinh anh và tài năng trong giai đoạn đổi
mới. Khi đó, con người đối mặt với nhiều vấn đề nhân sinh sâu sắc mà trước đó họ chưa có
thời gian và tâm thế để quan tâm, cảm hứng thế sự ấy đã được khắc họa rõ nét trong truyện
ngắn “Chiếc thuyền ngoài xa” được viết năm 1983 trong hoàn cảnh đất nước đang xây
dựng chế độ xã hội chủ nghĩa. Bằng ngòi bút mang chiều sâu nhân văn, Nguyễn Minh Châu
đã đem đến một tình huống truyện vô cùng éo le, ở đó số phận con người được miêu tả đầy
chân thực và trần trụi trong cuộc sống chiến tranh vất vả, lầm than.
Truyện được mở ra là cuộc hành trình theo chân nghệ sĩ nhiếp ảnh Phùng đến vùng
biển miền Trung để chụp một bức ảnh cảnh biển cho bộ lịch năm mới. Sau bao công sức
kiếm tìm và chờ đợi, cuối cùng anh cũng chụp được một bức ảnh tuyệt tác - một “cảnh đắt
trời cho” khiến anh từ choáng ngợp đến mê mẩn. Thế nhưng bức tranh thiên nhiên càng đẹp
bao nhiêu, càng lộng lẫy bao nhiêu thì khi nó đối nghịch với hiện thực cuộc sống, người
nghệ sĩ càng bàng hoàng, hoang mang bấy nhiêu. Qua hai phát hiện của Phùng, biết bao
nhiêu sự tình éo le đã dần được hé mở.
Nhắc đến Phùng, có ý kiến cho rằng: “Nét nổi bật ở người nghệ sĩ này là một tâm
hồn nhạy cảm và say mê cái đẹp”. Quả đúng là như vậy, hạnh phúc của Phùng là hạnh phúc
của sự khám phá và sáng tạo, của sự cảm nhận cái đẹp tuyệt diệu. Để có được niềm hạnh
phúc ấy, người nghệ sĩ phải kiên trì, vượt khó và đam mê hết mình về nghệ thuật. Cuối
cùng, cái đẹp kì diệu đã đến với người nghệ sĩ vào lúc không ngờ nhất. Sau một tuần kiên trì
kiếm tìm, một “cảnh đắt trời cho” đã xuất hiện như một phần thưởng quý giá mà thiên
nhiên ban tặng cho Phùng. Đó là một “bức tranh mực tàu của một danh họa thời cổ” với
những đường nét đẹp như bức họa thấm đậm vẻ đẹp thơ mộng, cổ điển. Sự đan cài của
những màu sắc tinh khôi, trong veo, trăng trắng, “hồng hồng” đã đem lại một cảm giác đầy
dịu êm, ngọt ngào, mơ mộng như một chốn hư vô. Điểm bất động và tĩnh tại như bị lu mờ
bởi vẻ đẹp đơn giản và “toàn bích” kia. Đứng trước khung cảnh ấy, Phùng cảm thấy thật
bối rối, trong tim như có gì bóp thắt lại. Hình ảnh chiếc thuyền ngoài xa đã đem đến cho
Phùng những rung động mạnh mẽ để anh cảm thấy lòng mình có lẽ lâu rồi mới được một
lần trào dâng trước cái đẹp. Bởi lẽ, Phùng là một người làm công việc sáng tạo, tưởng
chừng như đã quen thuộc với cái đẹp đến chai sạn cảm xúc, thế nhưng anh vẫn xúc động,
bất ngờ trước cảnh vật. Có lẽ, trái tim anh vẫn luôn nhạy cảm, tinh tế và giàu lòng yêu nghệ
thuật, Phùng không chỉ dành vật một tuần để chờ đợi khoảnh khắc này, mà thậm chí là suốt
cuộc đời mình. Phùng quả thực là một người nghệ sĩ nhạy cảm, say mê và biết chớp thời cơ
để sáng tạo nghệ thuật. Thế nhưng cuộc đời phức tạp và đa diện hơn rất nhiều. Ta không thể
nhìn vào một khoảnh khắc mà cho rằng đó là cả một quá trình. Ta không thể nhìn vào một
lát cắt nhỏ bé của cuộc đời để cho rằng đó là tất cả những gì về sự sống…
Sẽ như thế nào khi con người ta chỉ nhìn đời với một con mắt phiến diện? Sẽ như thế
nào nếu ta tin rằng cuộc đời này luôn lấp lánh ánh hồng, ánh trắng của sớm mai? Phùng đã
có thời điểm tin vào điều đó, để rồi hết sức ngỡ ngàng khi thứ nghệ thuật mà anh ấp ủ đối
diện với hiện thực nghiệt ngã của cuộc đời. Qua phát hiện thứ hai của Phùng, người đọc
không chỉ thấy tình yêu nghệ thuật mạnh mẽ trong người nghệ sĩ mà còn cảm nhận được
“vẻ đẹp sâu xa của nghệ sĩ Phùng là tấm lòng đầy trăn trở, lo âu về thân phận con người”.
Sau phút giây được bay bổng cùng cái đẹp, bấy giờ, không còn vào bóng người lớn, trẻ con
im phăng phắc nữa mà là những hành động rõ ràng của một người đàn ông và một người
đàn bà trên chính chiếc thuyền tuyệt bích. Nguyễn Minh Châu đã dựng lên một mâu thuẫn,
bi kịch trong chính “nơi an toàn nhất” để ta thấy được hiện thực phức tạp của cuộc đời. Đó
là ở gia đình thấy được hiện thực phức tạp của cuộc đời. Đó là ở gia đình tưởng chừng là hai
tiếng thiêng liêng, là nơi ta có thể là mình và tận hưởng niềm hạnh phúc ngọt ngào nhất, ấy
vậy mà…Phá vỡ sự ngây ngất của Phùng trước cảnh thiên nhiên, từ chiếc thuyền vọng lại
tiếng quát dữ tợn của người đàn ông: “Cứ ngồi yên đấy. Động đậy tao giết cả mày bây giờ”.
Từ “giết” dường như phá tan đi những ấn tượng đẹp đẽ của Phùng về sự toàn bích của
khung cảnh nghệ thuật, nhường chỗ cho những gì trầm trụi và méo mó nhất. Cảnh bạo lực
gia đình được khắc họa thông qua góc nhìn của Phùng một cách thật tỉ mỉ, chi tiết. Phùng
quan sát nhất cử nhất động của hai người xa lạ kia, có lẽ trong thâm tâm, anh đang dần hình
dung về một điều xấu sắp xảy đến? Và đúng như vậy, gã đàn ông thô bạo, cục cằn, tàn nhẫn
với sức khỏe như gấu, dáng hình to lớn, “trút cơn giận như lửa cháy” vào việc đánh vợ
bằng chiếc thắt lưng to bản. Hăn “vừa đánh, vừa thở hồng hộc, hai hàm răng nghiến ken
két”, vừa đánh vừa nguyền rủa bằng cái giọng rên rỉ đau đớn “Mày chết đi cho ông nhờ.
Chúng mày chết hết đi cho ông nhờ”. Thế nhưng điều kì lạ là người đàn bà đứng yên cho
chồng đánh “Không chống trả cũng không tìm cách chạy trốn”. Liệu có phải tội ác này đã
diễn ra như một thói quen và chính những người trong cuộc đã thỏa hiệp với nó? Tất cả diễn
ra như một vở kịch câm, chứa đựng đầy nghịch lý, không một chút do dự, kịch tính đến
nghẹt thở với những hành động khô khốc, bạo liệt, phi nhân tính. Nó phũ phàng xâm lấn lấy
các phút giây hạnh phúc của người nghệ sĩ, khiến anh không khỏi hụt hẫng, bàng hoàng.
Sau sự sững sờ, kinh ngạc trước “chuyện thật như đùa” của cuộc đời, Phùng không
ngần ngại “vứt chiếc máy ảnh xuống đất chạy nhào tới”. Chiếc máy ảnh là công cụ để
Phùng sáng tạo nghệ thuật, là phương tiện thu lại “cảnh đắt trời cho” đã bị quăng xuống
không chút do dự. Phùng như đã gác lại mục đích tìm kiếm cái đẹp, đã đặt cái tôi nghệ sĩ
xuống để chạy đến với cuộc đời, để đấu tranh cho cái hiện thực xấu xí và móp méo kia. Để
sáng tạo nghệ thuật, Phùng nhìn qua ống kính của máy ảnh nhưng để chạm đến hiện thực
của cuộc đời, anh cần nhìn bằng đôi mắt trần trụi của mình, anh cần cảm nhận bằng trái tim
giàu lòng trắc ẩn, bằng tinh thần sẵn sàng chiến đấu bảo vệ những người vô tội khỏi cái ác
đang lộng hành. Phùng không chỉ là một người nghệ sĩ chân chính, anh còn là một con
người tràn đầy yêu thương, không chịu thỏa hiệp với cái xấu, cái ác ở đời.
Nhà văn Nam Cao từng trăn trở: “Nghệ thuật không cần phải là ánh trăng lừa dối.
Nghệ thuật không nên là ánh trăng lừa dối. Nghệ thuật có thể chỉ là tiếng đau khổ kia thoát
ra từ những kiếp người sống lầm than”. Nghệ thuật và cuộc đời sẽ luôn song hành với nhau,
nghệ thuật sẽ phản ánh hiện thực cuộc đời, từ đó ta mới có thể thấu hiểu, lên tiếng và giúp
đỡ cho những kiếp người khốn khổ ngoài kia. Để làm được điều này, ta cần một người nghệ
sĩ chân chính - người biết đào sâu, tìm tòi để hiểu được cái khổ của cuộc đời. Từ đó, người
nghệ sĩ ấy sẽ tạo nên một tác phẩm không chỉ đẹp về hình thức mà còn chứa đựng những
thông điệp, những giá trị ẩn sâu về tình yêu thương con người, bao bọc và chở che lấy họ,
đồng thời phê phán cái xấu, cái méo mó ở đời. Đó chính là quan điểm mà Nguyễn Minh
Châu theo đuổi và xây dựng lên một nghệ sĩ như Phùng - yêu cái đẹp và giàu lòng yêu
thương.
Qua nghệ thuật xây dựng tình huống truyện độc đáo, đặc sắc, kịch tính, Nguyễn
Minh Châu đã thành công đặt nhân vật vào hành trình đào sâu thay đổi nhận thức về nghệ
thuật và cuộc đời. Cách xây dựng nhân vật đặc sắc, ngôn từ tinh tế, gần gũi đã tạo điều kiện
để ta chạm sâu vào cảm xúc của nhân vật trên hành trình kiếm tìm nghệ thuật- nơi bao hàm
cả cái đẹp được say mê và cái xấu, cái ác cần lo âu, khắc khoải. Qua phát hiện của Phùng, ta
càng rõ hơn mối quan hệ giữa nghệ thuật và cuộc đời cùng sứ mệnh thiêng liêng của người
nghệ sĩ.
Đề bài:
Cho đoạn trích sau:
“Không những trong bộ lịch năm ấy mà mãi mãi về sau, tấm ảnh chụp của tôi vẫn
còn được treo ở nhiều nơi, nhất là trong các gia đình sành nghệ thuật. Quái lạ, tuy là ảnh
đen trắng nhưng mỗi lần ngắm kĩ, tôi vẫn thấy hiện lên cái màu hồng hồng của ánh sương
mai lúc bấy giờ tôi nhìn thấy từ bãi xe tăng hỏng, và nếu nhìn lâu hơn, bao giờ tôi cũng
thấy người đàn bà ấy đang bước ra khỏi tấm ảnh, đó là một người đàn bà vùng biển cao lớn
với những đường nét thô kệch, tấm lưng áo bạc phếch có miếng vá, nửa thân dưới ướt sũng,
khuôn mặt rỗ đã nhợt trắng vì kéo lưới suốt đêm. Mụ bước những bước chậm rãi, bàn chân
giậm trên mặt đất chắc chắn, hòa lẫn trong đám đông...”4
(Trích “Chiếc thuyền ngoài xa” – Nguyễn Minh Châu)
Hãy phân tích đoạn trích trên, từ đó nhận xét quan niệm của tác giả Nguyễn Minh
Châu về hành trình sáng tạo nghệ thuật.
Họ và tên: Phạm Tuấn Thành
MHV: MV497
Điểm: 4.5/5.0

BÀI LÀM
Những ngày sau năm 1975, hơn ai hết, nhà văn Nguyễn Minh Châu là người thực sự
thấu hiểu tình hình văn học nghệ thuật lúc này. Ngay trong bài báo “Hòa đồng cùng nhân
loại”, người mạnh dạn đặt bút viết: “Cuộc sống thoát xác đầy đau đớn, đầy cực nhọc này
liệu chúng ta có thể làm được hay chỉ làm hình thức, làm cho có vẻ, và mãi mãi Việt Nam
vẫn chỉ là một con ngài nằm khoanh tròn trong chiếc kén, đầy bưng bít, để gặm nhấm đồng
thời cả tinh thần tự tin và sự kiêu ngạo”. Và chính ông cũng đã chiến thắng sự cực nhọc và
đau đớn “ấy:, trở thành người tiên phong cho cuộc thay máu của văn nghệ nước nhà. Nỗ lực
đưa văn chương trở về với đời sống thực tại, những trang văn cũ của Nguyễn Minh Châu
giờ đây đã trở thành những trang viết “cận nhân tình”, có những câu chuyện đời rất thực,
những mảnh đời đa dạng. “Chiếc thuyền ngoài xa” là minh chứng cho điều đó. Và trích
đoạn “Không những trong bộ lịch… trong đám đông” dường như là lát cắt tái hiện chân
thực, sâu sắc về những suy nghĩ, cảm nhận về cuộc đời con người đồng thời thể hiện rõ ràng
quan điểm của nhà văn về hành trình sáng tạo.
Nguyễn Minh Châu là cái tên lớn trong nền văn xuôi Việt Nam hiện đại và theo như
Nguyên Ngọc đánh giá, ông “thuộc trong số những nhà văn mở đường tinh anh và tài năng
nhất của văn học ta hiện nay”. Bằng trực quan của mình, Nguyễn Minh Châu nhận ra:
“Những trang viết về kháng chiến chống Mỹ của chúng ta còn thiếu một cái gì thực là giáp
mặt với kẻ thù, với cuộc sống sôi nổi, quyết liệt và khẩn trương, “hình như cuộc chiến đấu
sôi nổi hiện nay đang được văn xuôi và thơ cá tráng lên một lớp men trữ tình dày cho nên
ngắm nó mỏng manh, bé nhỏ và óng chuốt khiến người ta phải ngờ vực”. Qua rồi cái thời
văn nghệ chiến sĩ hồ hởi ngợi ca chiến công, vẻ hào hùng của người lính, ngợi ca “đường ra
trận mùa này đẹp lắm” bằng âm sắc bi tráng. Khép lại một “Mảnh trăng cuối rừng hào sảng
và thơ mộng”, những tác phẩm của Nguyễn Minh Châu trong giai đoạn này đặt ra những
vấn đề nóng rát của xã hội Việt Nam sau ngày đất nước thống nhất, khắc họa sinh động
những xót xa hình ảnh con người bước ra từ cuộc chiến với những nỗi niềm đa mang.
Truyện ngắn “Chiếc thuyền ngoài xa” tiêu biểu cho phong cách, quan điểm của ông - tự sự,
triết lý, mang cái nhìn đa diện, nhiều chiều.
Có thể nói, cái kết của “Chiếc thuyền ngoài xa” là kiểu kết vừa đóng, vừa mở - cái kết
truyện quen thuộc của văn học sau năm 1980. Là cái kết đóng vì cuối cùng nghệ sỹ Phùng
đã có được một tấm ảnh nghệ thuật ưng ý - sự thành công trong cuộc đời nghệ sỹ của anh.
Nhưng đây cũng là cái kết mở vì nhà văn không thể giải quyết được thân phận con người
trong tác phẩm. Không còn những âm thanh ầm ầm tiếng súng, tiếng bom của chiến tranh
nhưng vẫn còn những cuộc tranh đấu khác diễn ra - cái đói, cái nghèo, cái khổ, sự đe dọa
tha hóa nhân phẩm,... Những vấn đề này cần ự nỗ lực to lớn chứ không thể nào một sớm
một chiều giải quyết.
Tấm ảnh trong “bộ lịch năm ấy” không chỉ là chi tiết nghệ thuật thấp thoáng qua trong
tác phẩm mà nó còn là hình tượng mang nhiều tầng nghĩa. Tấm ảnh là cái cớ, sự khởi đầu
hành trình nhận thức, hành trình đó đi tìm cái đẹp của Phùng. Đồng thời, nó cũng mở ra
trăm chiều suy tưởng cho độc giả và chính bản thân Nguyễn Minh Châu.
Trước tiên, tấm ảnh có giá trị đối với công chúng. Đó là bức tranh rất nghệ thuật - một
cảnh đắt trời cho, một vẻ đẹp toàn bích mà có lẽ đời nghệ sỹ không thể gặp lại lần hai. Tấm
ảnh được bổ sung vào bộ lịch năm ấy đã góp phần nâng cao uy tín cho tác giả của tấm ảnh,
khi “trưởng phòng rất bằng lòng”, khi Phùng nhận được lời khen và ự khẳng định của mọi
người xung quanh. tấm ảnh có giá trị nghệ thuật cao, “được trao rất nhiều nơi nhất là những
gia đình sành nghệ thuật”, nó không nằm gọn trong bộ lịch muôn vàn bức ảnh mà ngược lại
nó mang vẻ đẹp toàn bích cùng đồng hành với nghệ thuật vĩnh cửu. Không những thế, nó
còn có giá trị lâu bền “không những cho bộ lịch năm ấy mà còn mãi mãi về sau”. Sự đánh
giá cao của công chúng về tấm ảnh xứng đáng với công sức Phùng bỏ ra sau nhiều ngày
“phục kích”. Nhưng công chúng là người yêu nghệ thuật thuần túy, chỉ cảm nhận được cái
đẹp bên ngoài tấm ảnh, bên ngoài nghệ thuật.
Bên cạnh đó, tấm ảnh có giá trị với người nghệ sỹ. Khác với công chúng, Phùng - tác
giả của bức ảnh không nhìn nhận một cách hời hợt mà luôn băn khoăn, day dứt, suy ngẫm,
trăn trở về bức ảnh: “ngắm kỹ”, “ngắm lâu hơn”. Mỗi lần nhìn kỹ vào tấm ảnh đen trắng,
người nghệ sỹ thấy hiện lên “cái màu hồng hồng của ánh sương mai” đó là chất thơ, là vẻ
đẹp lãng mạn của cuộc đời, cũng là biểu tượng của nghệ thuật. Nhìn lâu hơn, anh thấy hình
ảnh “ người đàn bà hàng chài đang bước ra khỏi tấm ảnh”. Nỗi ám ảnh của người đàn bà, từ
ngoại hình đến số phận: “cao lớn với những nét thô kệch, tấm lưng áo bạc phếch có miếng
vá, nửa thân dưới ướt sũng, khuôn mặt rỗ đã nhợt trắng vì kéo lưới suốt đêm” dường như
luôn thường trực trong Phùng. Người đàn bà kia là hiện thân của những lam lũ, khốn khổ
của cuộc đời. Đằng sau vẻ đẹp lấm láp đời thường, ở chị hiện lên vẻ đẹp tâm hồn giàu lòng
thương con, giàu đức hy sinh, vị tha, sự từng trải sâu sắc, thấu hiểu lẽ đời. Hình ảnh “mụ
bước những bước chân chậm rãi, bàn chân giẫm trên mặt đất chắc chắn hòa vào đám đông”
là biểu hiện của những dòng chảy cuộc sống, số phận của nhân vật trở thành một trong
những mảnh ghép “không ai nhớ mặt đặt tên” của xã hội. Hình ảnh người đàn bà hàng chài
chính là thực tế về con người sau chiến tranh: nghèo đói, lam lũ,... Như vậy, nhận thức của
Phùng rất sâu sắc, rõ nét về thực trạng cuộc sống con người, đồng thời thể hiện những trăn
trở về một giải pháp để thay đổi cuộc sống ấy. Phùng với tư cách là một nghệ sỹ chụp ảnh
đã trưởng thành trong nhận thức. Anh đã đi xa hơn những con người giam mình trong căn
phòng cả một chặng đường dài. Khi nhìn vào bức ảnh, cái gây ấn tượng với anh không còn
là sự hài hòa, toàn bích nữa mà là hình ảnh người đàn bà vùng biển. Anh đã giã từ vị trí của
kẻ đứng ngoài cuộc sống, đứng ngoài sự buồn, vui, sướng, khổ cuộc sống, sống thực tế mà
“xắn quần lội vào cuộc đời”. Anh đã có cái nhìn linh động, đa chiều, nhìn vào bản chất,
không thông qua bất cứ lớp màn che tư tưởng nào. Nói cách khác, anh đã giác ngộ! Qua
đây, ta có thể thấy Nguyễn Minh Châu thực sự cách tân so với quan điểm nghệ thuật đương
thời, nắm bắt hiện thực, cả thứ hư ảo của cuộc sống,...
Qua đoạn trích trên, ta có thể hiểu hơn về quan niệm về hành trình sáng tạo nghệ thuật
của tác giả. Đó là những “lặn lội” đầy gian khổ. Nghệ thuật không thể xa cách hiện thực
nhọc nhằn. Người nghệ sỹ phải giải phóng mình khỏi những tư tưởng chật hẹp, mở lòng
mình đón lấy những va vấp của cuộc đời. Trên hành trình sáng tạo ấy, nhất định phải hiểu rõ
về cuộc sống, con người, khai thác, thể hiện chiều sâu, bản chất hiện thực đằng sau cái vẻ
đẹp đẽ, lãng mạn. Để làm được điều này, anh phải có cái nhìn đa diện, nhiều chiều, sâu sắc,
toàn diện về hiện thực, phải có sự trải nghiệm và quá trình lao động nghiêm túc, gian khổ
như Chế Lan Viên tâm niệm:
“Cuộc sống đánh vào thơ trăm ngàn lớp sóng
Chớ ngồi trong phòng ăn bọt bể anh ơi”
Nhà văn Tô Hoài cho rằng: “Đọc Nguyễn Minh Châu, người ta thấy cuộc đời và trang
sách bên nhau”. Quả thế, cuộc đời và nghệ thuật luôn được Nguyễn Minh Châu đặt cạnh
nhau để soi rọi. “Chiếc thuyền ngoài xa” đã minh chứng cho mối quan hệ tương hỗ ấy một
cách xuất sắc. Bằng tình huống truyện mang ý nghĩa nhận thức, cách xây dựng hình tượng
nhân vật độc đáo, giọng điệu triết lý. “Chiếc thuyền ngoài xa” xứng đáng là tác phẩm tiên
phong cho nền văn học hiện đại.
Như Mikhail Solilloi tâm sự, đã là “vi phân của nhân loại”, trong hệ mạch văn chương,
Nguyễn Minh Châu đã thu sóng tâm hồn và cuộc đời, dũng cảm tự mình bước vào những
dòng mạch sục sôi để nắm bắt và sáng tạo nhân sinh trên giấy. “Chiếc thuyền ngoài xa”
được xem như một tiểu thuyết luận đề, tuyên ngôn về sự thật rằng: “Văn chương phải đi sâu
khai thác những thâm trầm cuộc sống và con người. Nguyễn Minh Châu đã làm rất tốt,
xứng đáng là “người tiên phong” và tác phẩm của ông mang giá trị tích cực, xứng đáng sống
mãi cùng dòng chảy thời gian.
Đề bài:
Cho đoạn trích sau:
“Người đàn bà bỗng chép miệng, con mắt như đang nhìn suốt cả đời mình:
- Giá tôi đẻ ít đi hoặc chúng tôi sắm được một chiếc thuyền rộng hơn, từ ngày cách mạng về
đã đỡ đói khổ chứ trước kia vào các vụ bắc, ông trời làm động biển suốt hàng tháng, cả nhà
vợ chồng con cái toàn ăn cây xương rồng luộc chấm muối...
- Lão ta trước hồi bảy nhăm có đi lính ngụy không? – Tôi bỗng hỏi một câu như lạc đề.
- Không chú à, cũng nghèo khổ, túng quẫn đi vì trốn lính - bỗng mụ đỏ mặt - nhưng cái lỗi
chính là đám đàn bà ở thuyền đẻ nhiều quá, mà thuyền lại chật.
- Vậy sao không lên bờ mà ở - Đẩu hỏi.
- Làm nhà trên đất ở một chỗ đâu có thể làm được cái nghề thuyền lưới vó? Từ ngày cách
mạng về, cách mạng đã cấp đất cho nhưng chẳng ai ở, vì không bỏ nghề được!
- Ở trên thuyền có bao giờ lão ta đánh chị không? - Tôi hỏi.
- Bất kể lúc nào thấy khổ quá là lão xách tôi ra đánh, cũng như đàn ông thuyền khác uống
rượu... Giá mà lão uống rượu... thì tôi còn đỡ khổ… Sau này con cái lớn lên, tôi mới xin
được với lão... đưa tôi lên bờ mà đánh...
- Không thể nào hiểu được, không thể nào hiểu được! - Đẩu và tôi cùng một lúc thốt lên.
- Là bởi vì các chú không phải là đàn bà, chưa bao giờ các chú biết như thế nào là nỗi vất
vả của người đàn bà trên một chiếc thuyền không có đàn ông...
- Phải, phải, bây giờ tôi đã hiểu, – bất ngờ Đẩu trút một tiếng thở dài đầy chua chát, – trên
thuyền phải có một người đàn ông... dù hắn man rợ, tàn bạo?
- Phải – Người đàn bà đáp – Cũng có khi biển động sóng gió chứ chú?
Lát lâu sau mụ lại mới nói tiếp:
- Mong các chú cách mạng thông cảm cho, đám đàn bà hàng chài ở thuyền chúng tôi cần
phải có người đàn ông để chèo chống phong ba, để cùng làm ăn nuôi nấng đặng một sắp
con, nhà nào cũng trên dưới chục đứa. Ông trời sinh ra người đàn bà là để đẻ con, rồi nuôi
con cho đến khi khôn lớn cho nên phải gánh lấy cái khổ. Đàn bà ở thuyền chúng tôi phải
sống cho con chứ không thể sống cho mình như ở trên đất được! Mong các chú lượng tình
cho cái sự lạc hậu. Các chú đừng bắt tôi bỏ nó! – Lần đầu tiên trên khuôn mặt xấu xí của
mụ chợt ửng sáng lên như một nụ cười – vả lại, ở trên chiếc thuyền cũng có lúc vợ chồng
con cái chúng tôi sống hòa thuận, vui vẻ.
- Cả đời chị có một lúc nào thật vui không? - Đột nhiên tôi hỏi.
- Có chứ, chú! Vui nhất là lúc ngồi nhìn đàn con tôi chúng nó được ăn no...”
(Trích Chiếc thuyền ngoài xa, Nguyễn Minh Châu , Ngữ Văn 12 , Tập 2, NXB Giáo dục
Việt Nam , 2015, tr.75,76 )
Phân tích hình tượng nhân vật người đàn bà hàng chài, từ đó nhận xét ngòi bút nhân
đạo của nhà văn Nguyễn Minh Châu.
Họ và tên: Làng Thị Vân Anh
Mã học viên: MV322
Điểm: 4.5/5.0

BÀI LÀM
Muốn biết được ý nghĩa của hòa bình, ta hãy hỏi người chiến binh vừa trở về từ chiến
trận. Muốn biết được giới hạn của thời gian, ta hãy lắng nghe niềm khao khát tự do khi còn
được nhìn thấy ánh bình minh của kẻ đang mang trong mình căn bệnh hiểm nghèo. Vậy
muốn cảm nhận tầm vóc của người nghệ sĩ, ta phải làm như thế nào? Phải chăng là nhìn vào
các tác phẩm của họ? Nguyễn Minh Châu - nhà văn mở đường tinh anh và tài năng của nền
văn học Việt Nam thời kỳ đổi mới, cùng với hình tượng người đàn bà ở tòa án huyện trong
tác phẩm “Chiếc thuyền ngoài xa” đã cho độc giả cảm nhận được vẻ đẹp của người phụ nữ
Việt Nam cùng tình mẫu tử, thiêng liêng, sâu nặng dù trong hoàn cảnh khó khăn, bi đát nhất
của cuộc đời. Để từ đó, ta càng thêm trân trọng ngòi bút thấm đẫm tinh thần nhân đạo của
nhà văn Nguyễn Minh Châu.
Nhà văn Nguyễn Ngọc Anh từng nhận xét rằng “Nguyễn Minh Châu là người mở
đường tinh anh và tài năng của nền văn học Việt Nam thời kỳ đổi mới”. Ông là nhà văn
luôn “cố gắng đi tìm những hạt ngọc ẩn giấu” trong bề sâu tâm hồn con người. Nếu như
trước năm 1975, nhà văn có thiên hướng về đề tài chủ nghĩa anh hùng, chủ yếu tái hiện bức
tranh hiện thực về con người, cuộc sống nhân dân trong cuộc kháng chiến chống Mỹ thì sau
cách mạng, ông hướng ngòi bút của mình đến những con người trên con đường mưu sinh,
hành trình tìm kiếm hạnh phúc và hoàn thiện nhân cách. Điều đó được thể hiện một cách
chân thực qua tác phẩm “Chiếc thuyền ngoài xa” sáng tác năm 1983, khi đất nước bước vào
giai đoạn xây dựng xã hội chủ nghĩa, nhiều vấn đề nhân sinh của đời sống văn hóa nhân dân
trước đây bị lãng quên bắt đầu bộc lộ. Mượn điểm nhìn của nghệ sỹ Phùng, Nguyễn Minh
Châu đã đưa người đọc đi khám phá chân lý mới - những hạt ngọc ẩn giấu trong cát bụi lấm
lem của cuộc đời.
Bàn về tình huống truyện, giáo sư Nguyễn Đăng Mạnh có viết ‘tình huống truyện
giống như một thứ nước rửa ảnh làm nổi hình, nổi sắc nhân vật”,... Nguyễn Minh Châu cho
rằng “Đó là cái tình thế xảy ra câu chuyện góp phần miêu tả tâm lý nhân vật làm nổi bật giá
trị tư tưởng của tác phẩm”. Do đó, nhà văn đã sáng tạo ra tình huống truyện thật độc đáo và
hấp dẫn nhằm truyền tải tư tưởng, phát hiện riêng về cuộc đời và nghệ thuật. Tình huống
trong “Chiếc thuyền ngoài xa” của Nguyễn Minh Châu là một tình huống nhận thức có giá
trị thức tỉnh những suy ngẫm, triết lý nhân sinh, đem tới sự tác động mang tính khám phá
cho nhân vật. Đó là một tình huống thật éo le khi nghệ sĩ Phùng phát hiện đằng sau bức
tranh đẹp tuyệt bích của tạo hóa lại là một khung cảnh bạo lực gia đình quá đỗi thương tâm.
Trong thiên truyện “Chiếc thuyền ngoài xa”, nhà văn Nguyễn Minh Châu đã đi sâu vào
khắc họa những bi kịch của con người trong cuộc sống thời hậu chiến. Khi chiến tranh đã
qua đi nhưng những nỗi xót xa và đau thương vẫn còn ở lại, điều đó đã được thể hiện rất rõ
qua số phận của người đàn bà hàng chài - bà hiện lên với ngoại hình xấu xí, cuộc đời bà quá
lam lũ, vất vả. Người đàn bà đã trạc ngoài bốn mươi. Ở cái độ tuổi trung niên - trong khi
nhiều người phụ nữ khác đã bắt đầu được nghỉ ngơi thì mụ lại không được như vậy, mụ vẫn
phải bươn chải với đời vì miếng cơm manh áo. Người đàn bà xuất hiện với thân hình quen
thuộc của người vùng biển, “cao lớn với những đường nét thô kệch”, mụ còn bị rỗ mặt sau
một bận lên bệnh đậu mùa hồi con bé. Ấy thế mà, cả cuộc đời của người phụ nữ ấy lại gắn
liền với công việc đánh cá ngoài biển khơi - một công việc quá đỗi bấp bênh, nguy hiểm.
Làm ông việc quanh năm suốt tháng phải lênh đênh trên biển, mụ thường xuyên phải thức
trắng đêm để kéo lưới. Mụ làm việc chăm chỉ, quần quật cả ngày lẫn đêm nhưng vẫn nghèo,
vẫn đói, vẫn khổ, Mụ chẳng thể bỏ cái nghề ấy được.
Thế nhưng cuộc đời có lẽ đã quá nhẫn tâm khi trút hết mọi sự bất hạnh lên người đàn
bà ấy: không chỉ xấu xí, nghèo khổ, mụ còn là nạn nhân của bạo lực gia đình. Một cảnh
tượng thật thương tâm khi chồng của mụ đã dùng chiếc thắt lưng của lính ngụy xưa quất tới
tấp vào lưng mụ. Thế nhưng, ông ta không chỉ đánh mà còn kèm theo những lời nguyền rủa
đầy đau đớn “Mày chết đi cho ông nhờ…”. Những vết thương trên thân thể có thể dần tàn
phai theo năm tháng nhưng những đau đớn về tâm hồn mà mụ phải chịu đựng thì liệu có
làm lành được không? Nhưng điều làm ta ngạc nhiên hơn cả là hành động của người đàn bà
khi bị chồng đánh, mụ với “một vẻ cam chịu đầy nhẫn nhục, không kêu la, không chống trả,
cũng không tìm cách chạy trốn”. Cái ác đối với bà dường như đã trở thành một thói quen, có
lẽ cả hai người họ đã thỏa hiệp với cái ác từ lâu lắm rồi.
Mặc dù là một người phụ nữ phải chịu đựng biết bao đắng cay, tủi nhục của cuộc đời
nhưng người đàn bà lại có rất nhiều phẩm chất đáng quý. Trước hết, mụ là một người phụ
nữ tuy thất học nhưng rất thấu hiểu lẽ đời, rất sắc sảo. Phẩm chất đáng quý ấy được thể hiện
rất rõ ở đoạn tòa án huyện, khi Phùng và Đẩu - vị bao công của phố huyện đã cho mời bà
lên về công việc gia đình. Cả Phùng và Đẩu đều cố gắng thuyết phục mụ bỏ lão chồng hành
hạ mụ “ba ngày một trận nhẹ, năm ngày một trận nặng” ấy đi. Thế nhưng, câu trả lời mà họ
nhận được từ bà chỉ là “đừng bắt con bỏ nó” và rồi mụ đã tâm sự rất nhiều về cuộc đời, về lẽ
sống khiến Phùng và Đẩu vỡ lẽ ra nhiều điều.
Mặc dù là nạn nhân trong câu chuyện bạo lực gia đình nhưng mụ không hề oán trách
nửa lời, mụ luôn nhìn nhận trách nhiệm của bản thân, nhận lỗi về phía mình “giá tôi đẻ ít đi,
hoặc chúng tôi sắm được một chiếc thuyền rộng hơn”. Nếu như rất nhiều người trong chúng
ta thường mắc phải tâm lý đổ lỗi, không chịu nhìn nhận trách nhiệm từ phía bản thân mình
thì ngược lại, người phụ nữ ấy luôn cho mình là khởi đầu của bất hạnh, tất cả đều do “đám
đàn bà ở thuyền đẻ nhiều quá, mà thuyền lại chật”. Thế nên, mụ chấp nhận chịu đựng mọi
cơn thịnh nộ, phẫn uất từ chồng. Không những vậy, mụ còn hiểu được cái khổ của những
người làm ăn lam lũ, những người đã trót vướng vào kiếp mưu sinh trên biển. Dù cách
mạng về đã cấp đất cho nhưng chẳng ai ở bởi họ vẫn phải làm cái nghề thuyền lưới vó, “họ
không bỏ nghề được”. Người đàn bà ấy am hiểu sâu sắc về cuộc sống mưu sinh, về nỗi khổ
của người phụ nữ “... chưa bao giờ các chú biết thế nào là nỗi vất vả của người đàn bà trên
một chiếc thuyền không có đàn ông”, “cũng có khi biển động”. Mặc dù Phùng và Đẩu đã
từng chiến đấu ở vùng biển này, dù Phùng đã ngắm nghĩa bãi biển cả tuần để chụp được
“cảnh đắt trời cho” còn Đẩu là chánh án của phố huyện, nhưng họ đâu có hiểu về biển bằng
người phụ nữ thất học ấy, họ đâu có biết về những cơn thịnh nộ không báo trước của thiên
nhiên mà những người dân chài lưới phải đối diện. Đám đàn bà ở thuyền cần phải có người
đàn ông để chèo chống khi phong ba mà quan trọng hơn là để vợ chồng cùng nhau làm ăn,
nuôi nấng một đàn con trên dưới chục đứa trên thuyền. Mụ hiểu rất rõ về quyết định, về sự
lựa chọn của bản thân mình, mụ đã cân nhắc rất kỹ trước khi hành động dù biết sự lựa chọn
ấy như đi lùi lại với xã hội bấy giờ, “mong các chú lượng thứ cho cái sự lạc hậu”. Mụ ý thức
được thế nhưng mụ không còn sự lựa chọn nào khác, mụ buộc phải làm vậy vì con, vì hai
chữ “gia đình”. Mụ vẫn rất trân trọng và mong mỏi về giây phút “vợ chồng con cái chúng
tôi sống hòa thuận, vui vẻ”.
Đâu chỉ có sắc sảo, thấu hiểu lẽ đời, nguwoif đàn bà ấy còn là một người mẹ thương
con và giàu đức hy sinh cao cả. Mụ thương con của mình vô cùng, rất sợ chúng phải chứng
kiến cảnh bố mẹ đánh nhau nên “sau này con cái lớn lên, tôi mới xin được với lão … đưa tôi
lên bờ mà đánh”. Câu nói của bà thật xót xa biết bao, người mẹ thương con ấy có thể chấp
nhận chuyện mình bị đánh, bị hành hạ nhưng mụ nhất quyết không để các con biết được,
bởi trong thâm tâm mụ chỉ mong mỏi một điều rằng các con sẽ được sống trong một môi
trường tốt, có cả mẹ, cả cha, có hạnh phúc gia đình. Khi Phùng đột nhiên hỏi về niềm vui
trong cả cuộc đời mình, mụ ngay lập tức trả lời mà không cần phân vân suy nghĩ “vui nhất
là lúc ngồi nhìn đàn con tôi chúng nó được ăn no”. Dường như, các con là niềm vui, là hạnh
phúc, là động lực lớn lao nhất cho cuộc sống khốn khổ của bà. Về các con mụ có thể đánh
đổi, hy sinh mọi điều.
Đến đây, ta lại càng cảm thấy rõ hơn điểm giống như giữa người đàn bà hàng chài và
nhân vật thị trong tác phẩm “Vợ nhặt” của Kim Lân. Trước hết, họ đều là những người phụ
nữ vô danh, không danh phận trước cuộc đời. Có lẽ, cả mụ và thị đều không chỉ kể câu
chuyện của mình mà họ còn đại diện cho biết bao người phụ nữ khác, Dù họ đều có cuộc
sống nghèo khó, thiếu thốn vì đói nghèo nhưng họ vẫn mang trong mình nhiều vẻ đẹp khuất
lấp mà phải đủ sự nỗ lực, bao dung, thấu hiểu ta mới có thể nhận ra được.
Từ đó, ta càng thấm thía ngòi bút nhân đạo của nhà văn Nguyễn Minh Châu. Viết về
người lao động nghèo khổ, ông bộc lộ niềm cảm thương cho số phận bất hạnh của họ. Ông
thương những người lao động nghèo vì miếng cơm manh áo mà sẵn sàng hy sinh tất cả, vì
cái đói cái nghèo mà tha hóa về mặt lương tâm. Đồng thời, nhà văn còn ngợi ca, trân trọng
vẻ đẹp của những người dân lao động, mặc dù trong hoàn cảnh bi đát nhất của cuộc đời họ
vẫn tiềm tàng những vẻ đẹp vô cùng đáng trân trọng. Đó là sự nhẫn nhục, cam chịu vì tình
thương con vô bờ, đó là đức hy sinh cao cả của người mẹ, là tình yêu và khát vọng bảo vệ
mẹ của thằng bé Phác. Nguyễn Minh Châu đã hoàn thành sứ mệnh của mình cất tiếng
“bênh vực cho những ai không có ai để bênh vực”. Câu chuyện của nghệ sĩ Phùng cũng là
câu chuyện của biết bao người nghệ sỹ khác. Đọc xong câu chuyện, ta nhìn lại bản thân tự
hỏi: “Liệu mình có thật sự hiểu được thế nào là cái đẹp tuyệt bích của cuộc đời hay không?”
Bằng giọng kể thâm trầm, sâu sắc cùng với những miêu tả chi tiết, kỹ lưỡng, nhà văn
đã cho người đọc thấy được góc nhìn thấu đáo hơn về nhân vật, không chỉ là cái nhìn bao
quát bên ngoài mà còn đi sâu khai thác những phẩm chất bên trong. Sự lựa chọn ngôi kể,
điểm nhìn trần thuật tinh tế. Tác giả đặt góc nhìn của người đọc vào nhân vật Phùng để từ
đó ta được cùng trải qua cuộc hành trình nhận thức sâu sắc về cuộc đời và có những “vỡ lẽ”
của riêng mình. Kết hợp cùng với đó là nghệ thuật xây dựng tình huống nhận thức đây độc
đáo với những triết lý nhân sinh sâu sắc đã đem đến thông điệp về cái nhìn đa chiều của
cuộc sống. Làm nên thành công của tác phẩm còn có nghệ thuật xây dựng các chi tiết nghệ
thuật giàu tính gợi hình, gợi cảm.
Sứ mệnh của người nghệ sĩ được Nguyễn Minh Châu hoàn thiện một cách thật trọn
vẹn qua hình tượng nhân vật người đàn bà vô danh nơi biển khơi rộng lớn. Một hiện thực
cuộc sống đen tối sau thời bình của nhân dân ta hiện lên rõ nét hơn bao giờ hết, một góc
nhìn mới mẻ, một bài học mới về nghệ sĩ cho những người nghệ sỹ. Tất cả đều bắt đầu từ
cuộc đời, từ con người. Chính những điều đó đã kết tinh lại thành một nguồn sức mạnh kỳ
diệu, một sức sống mãnh liệt cho tác phẩm trong dòng chảy khắc nghiệt của thời gian, đúng
như lời nhận định rằng “Văn học nằm ngoài quy luật của sự băng hoại, chỉ mình nó không
thừa nhận cái chết”. Chắc chắn rằng, những trang văn đặc sắc của Nguyễn Minh Châu sẽ
sống mãi trong lòng bạn đọc, sẽ luôn là một bài học quý giá đáng để ta suy ngẫm.

TÁC PHẨM “NGƯỜI LÁI ĐÒ SÔNG ĐÀ”


Đề bài: Bàn về hình tượng người lái đò trong tùy bút “Người lái đò sông Đà” của nhà
văn Nguyễn Tuân, có ý kiến cho rằng: “Đó là người lao động đầy trí dũng trên sông
nước Đà giang.” Ý kiến khác lại khẳng định: “Đó là người nghệ sĩ tài hoa trong nghệ
thuật vượt thác leo ghềnh.”
Phân tích đoạn trích sau để làm rõ 2 ý kiến trên:
“...Không một phút nghỉ tay nghi mắt, phải phá luôn vòng vây thứ hai và đổi luôn
chiến thuật. Ông lái đã nắm chắc binh pháp của thần sông thần đá. Ông đã thuộc quy luật
phục kích của lũ đá nơi ải nước hiểm trở này. Vòng đầu vừa rồi, nó mở ra năm của trận, có
bốn cửa tử một cửa sinh, của sinh nằm lập lờ phía tả ngạn sông. Vòng thứ hai này tăng
thêm nhiều cửa tử để đánh lừa con thuyền vào, và cửa sinh lại bố trí lệch qua phia bờ hữu
ngạn. Cưỡi lên thác Sông Đà, phải cưỡi đến cùng như là cưỡi hổ. Dòng thác hùm beo đang
hồng hộc tế mạnh trên sông đá. Nắm chặt lấy được cái bàn sóng đúng luồng rồi, ông đò ghì
cương lái, bám chắc lấy luồng nước đúng mà phóng nhanh vào cửa sinh, mà lái miết một
đường chéo về phía cửa đá ấy. Bốn năm bọn thủy quân cửa ải nước bên bờ trái liền xô ra
định níu thuyền lôi vào tập đoàn cửa tử. Ông đò vẫn nhớ mặt bọn này, đứa thì ông tránh mà
rảo bơi chèo lên, đứa thì ông đè sấn lên mà chặt đôi ra để mở đường tiến. Những luồng tử
đã bỏ hết lại sau thuyền. Chỉ còn vẳng reo tiếng hò của sóng thác luồng sinh. Chúng vẫn
không ngớt khiêu khích, mặc dầu cái thằng đá tướng đứng chiến cửa vào đã tiu nghỉu cái
mặt xanh lè thất vọng thua cái thuyền đã đánh trúng vào cửa sinh nó trấn lấy. Còn một
trùng vi thứ ba nữa... Ít cửa hơn, bên phải bên trái đều là luồng chết cả. Cái luồng sống ở
chặng ba này lại ở ngay giữa bọn đá hậu vệ của con thác. Cứ phóng thẳng thuyền, chọc
thủng cửa giữa đó. Thuyên vút qua cổng đá cánh mở cánh khép. Vút, vút, cửa ngoài, cửa
trong, lại cửa trong cùng, thuyền như một mũi tên tre xuyên nhanh qua hơi nước, vừa xuyên
vừa tự động lái được lượn được. Thế là hết thác. Dòng sông vặn mình vào một cái bến cát
có hang lạnh. Sóng thác xèo xèo tan trong trí nhớ. Sông nước lại thanh bình. Đêm ấy nhà
đò đốt lửa trong hang đá, nướng ống cơm lam và toàn bàn tán về cá anh vũ cá dầm xanh,
về những cái hầm cá hang cá mùa khô nổ những tiếng to như mìn bộc phá rồi cá tủa ra đầy
tràn ruộng. Cũng chả thấy ai bàn thêm một lời nào về cuộc chiến thắng vừa qua nơi cửa ải
nước đủ tướng dữ quân tợn vừa rồi. Cuộc sống của họ là ngày nào cũng chiến đấu với Sông
Đà dữ dội, ngày nào cũng giành lấy cái sống từ tay những cái thác, nên nó cũng không có
gì là hồi hộp đáng nhớ... Họ nghĩ thế, lúc ngừng chèo.”
(Trích “Người lái đò Sông Đà”, Nguyễn Tuân)
Họ và tên: Nguyễn Hải My
Mã học viên: MV 134
Điểm: 4.75/5.0

BÀI LÀM
Trong suốt chiều dài phát triển của văn học, có lẽ chưa có giai đoạn nào hình ảnh
người lao động được tô đậm và ngợi ca cùng cảm hứng lãng mạn, tràn đầy niềm vui và niềm
lạc quan tin tưởng như chặng đường từ năm 1955 đến 1964. Ta say mê hát ca cùng khí thế
phơi phới của người ngư dân trong “Đoàn thuyền đánh cá” của Huy Cận; tràn ngập niềm tin
vào tương lai của người lao động miền núi trong “Mùa lạc” của Nguyễn Khải. Cũng trung
tâm thế đó, Nguyễn Tuân lại có cách xây dựng, khắc họa người lao động vô cùng độc đáo.
Nổi bật là người lái đò sông Đà ở trùng vi hai và ba trong tùy bút cùng tên của nhà văn. Bàn
luận về hình tượng người lái đò sông Đà, có người cho rằng: “Đó là người lao động đầy trí
dũng trên sông nước Đà giang”; ý kiến khác lại khẳng định: “Đó là người nghệ sĩ tài hoa
trong nghệ thuật vượt thác leo ghềnh”. Cả hai nhận định đều vô cùng đúng đắn và bổ sung
hoàn thiện cho nhau thêm đầy đủ, toàn vẹn.
Nguyễn Tuân là nhà văn xuất sắc trong nền văn học hiện đại Việt Nam. Ông luôn
khao khát tìm kiếm cái đẹp. Bước vào phiên chợ văn chương những buổi đầu giao thời, nhà
văn “đam mê xê dịch” đã đem lại nhiều tác phẩm độc đáo mang đậm dấu ấn riêng của một
cái tôi tài hoa, uyên bác. Những tập truyện trước Cách mạng của ông như “Vang bóng một
thời”, ... mang theo nỗi niềm tiếc nuối, sự hoài niệm của ông về một thời vàng son của dân
tộc. Nhưng từ năm 1945 trở đi, tác giả tập trung hướng ngòi bút về vẻ đẹp của con người,
của thiên nhiên đất nước trong thời đại mới. Một trong những thành công của ông phải kể
đến là tùy bút “Người lái đò sông Đà”. Tác phẩm được sáng tác trong thời kỳ xây dựng xã
hội chủ nghĩa ở miền Bắc, là thành quả của chuyến đi thực tế của nhà văn lên miền Tây Bắc
rộng lớn, xa xôi. Qua chuyến đi ấy, tác giả đã tìm thấy “thứ vàng mười” của thiên nhiên và
đặc biệt là “thứ vàng mười đã qua thử lửa” ở tâm hồn con người nơi đây. Tác phẩm là áng
văn đẹp, thể hiện được sự tài hoa của một bậc thầy ngôn ngữ như Nguyễn Tuân.
“Đẹp vậy thay, tiếng hát trên dòng sông” - đó là lời thơ của thi sĩ người Ba Lan và
Nguyễn Tuân đã sử dụng làm lời để tử cho tùy bút của mình. Thật vậy, tiếng hát chính là vẻ
đẹp của người lao động, là lời ca cất lên từ những tâm hồn lạc quan đầy tin tưởng đến tương
lai. Có lẽ, cũng chỉ thế, tiếng hát không chỉ hay mà còn thật “đẹp” - một vẻ đẹp rạng rỡ tràn
trề hi vọng về ngày mai. Thật vậy, nó không chỉ là âm điệu du dương của ca từ mà còn là
niềm say mê, nhiệt huyết của con người khi lao động cùng với thiên nhiên. Đây quả thực là
một nét đẹp đáng quý, đáng trân trọng. Vẻ đẹp đó được khắc họa rõ nét trong hình tượng
người lái đò sông Đà khi ông đối mặt với trùng vi thạch trận thứ hai và thứ ba.
Đến với trùng vi thứ hai, Nguyễn Tuân đã khắc họa thành công người lái đò đầy trí
dũng trên sông nước Đà giang. Vẻ đẹp ấy trước hết được thể hiện ở tài mưu trí của ông lái
đò. Vừa vượt qua trùng vi thứ nhất, ông đã “không một chút nghỉ tay, nghỉ mắt, phải phá
luôn vòng vây thứ hai và đổi luôn chiến thuật”. Câu văn dài với nhiều động từ mạnh tạo nên
một chuỗi những hành động liên tiếp và dồn dập. Câu văn cũng thể hiện sự dứt khoát và đầy
quyết liệt của ông lái đò Lai Châu. Chẳng ai có thể ngờ một ông lão đã trạc bảy mươi tuổi
lại có những quyết định đầy táo bạo như vậy. Sự chủ động của ông cho ta thấy sự nghiêm
túc trong công việc. Nhưng những hành động của ông không nóng vội và liều lĩnh. Bởi lẽ,
“ông lái đò đã nắm chắc binh pháp của thần sông thần đá”. Sông Đà với “Tâm địa của một
thứ kẻ thù số một” luôn tìm cách cuốn trôi con thuyền vào những vòng cuộn xoáy dữ dội
của nó. Vì thế, thất bại ở trùng vi đầu tiên đã khiến con sông thêm thận trọng và hiểm ác.
Lần này, cửa tử tăng lên nhiều so với vòng một, cửa sinh lại bố trí lệch qua phía bờ hữu
ngạn để đánh lừa con thuyền. Tài mưu kế thâm lược của Đà giang quả thật là một thử thách
lớn với bất kỳ người làm nghề sông nước nào. Tuy nhiên, với kinh nghiệm nhiều năm trong
nghề, “ông đã thuộc quy luật phục kích của lũ đá nơi ải nước hiểm trở này”. Từ ấy, ta thấy
được vẻ đẹp mưu trí toát lên từ thái độ chủ động cùng trải nghiệm phong phú của người lái
đò nơi thác ghềnh hiểm trở. Có lẽ cũng nhờ lợi thế ấy, thế trận đang trở về sự cân bằng.
Những câu văn tả Đà giang đã trở nên đan xen, ngang bằng về số lượng với những câu văn
tả người lái đò. Từ ấy, ta hiểu rằng ông lái đang có một vị thế ngang tài ngang sức với con
sông hung bạo. Nhưng không chỉ dừng lại ở thế giằng co, người lao động ấy sẽ tiếp tục thể
hiện nhiều phẩm chất đáng quý để chiến thắng dòng sông trong những câu văn tiếp theo.
Tiếp tục trận chiến ở trùng vi thứ hai, nhà văn đã khắc họa vẻ đẹp đầy quả cảm, dũng
mãnh của người lao động. “Cưỡi lên thác sông Đà phải cưỡi đến cùng như là cưỡi hổ” - câu
văn đó đã bao quát toàn bộ sự khó khăn, thách thức khi đối mặt với trùng vi. Vượt qua thác
sông chưa bao giờ là một điều dễ dàng. Kể cả đối với người giàu kinh nghiệm như ông lái
đò. Nhất là khi “dòng thác hùm beo tế mạnh trên sóng đá”. Hàng loạt những so sánh với hổ,
hùm beo cho thấy mức độ dữ dội của dòng thác. Đứng trước sự mãnh liệt thiên nhiên, phải
là người có lòng dũng cảm, mạnh mẽ mới có thể trấn tĩnh trước hoàn cảnh. Ông vô cùng
bình tĩnh ghì chặt cương lái, phóng nhanh về phía cửa đá ấy. Hành động quyết liệt, dứt
khoát, đầy táo bạo cùng sự quả cảm đầy anh dũng đã giúp ông vượt qua được các cửa tử,
mặc cho bốn năm bọn thủy quân xô ea định níu thuyền lại. Ông đò lại hiên ngang, rảo bơi
chèo mở đường thẳng tiến về phía trước như một vị chiến tướng oai vệ và hùng dũng.
Những thằng đá tướng lúc này chỉ biết tiu nghỉu cái mặt xanh lè thất vọng trước vị chiến
thần anh dũng đã đánh bại nó. Đó là chiến thắng của người lái đò trong ở với thứ hai.
Không chỉ dừng lại ở vẻ đẹp mưu trí, ông lái đò hiện lên như một người nghệ sỹ tài
hoa. Một lần nữa, ở trùng vi thứ ba, con sông thay đổi chiến lược. Đà giang bày ít cửa trận
hơn nhưng nguy hiểm lại bao vây tứ phía. Bên phải, bên trái đều là luồng chết, luồng sống
lại ở chặng ba ngay giữa đá hậu vệ. Những người muốn qua đây phải vô cùng cẩn thận,
cảnh giác, không để mắc mưu dòng sông mới có thể an toàn rời khỏi. Muốn được như vậy,
họ không chỉ cần kinh nghiệm phong phú mà còn cần tay lái dẻo dai, khéo léo. Ông lái đò
chính là một người như thế. Ông phóng thẳng thuyền, chọc thủng cửa giữa đó mà đi. Một
hành động táo bạo nhưng không kém phần uyển chuyển. Đó là sự điêu luyện của một tay lái
ra hoa nhiều năm hành nghề trên sông nước. Thật vậy, con thuyền cứ vậy vút qua cổng đá
cánh mở, cánh khép. Âm thanh “vút, vút” cho người đọc liên tưởng về tốc độ nhanh, xé gió
mà lao tới, không hề do dự, chần chừ. Nhà văn quả thực đã so sánh thuyền như mũi tên tre
xuyên nhanh qua hơi nước. Nhưng không vì thế mà con thuyền mất đi độ linh hoạt, chỉ vừa
tự động lái được, lượn được. Kỹ năng thành thục của một người lành nghề đã giúp ông lái
đò như một người nghệ sĩ vẽ những đường nét mềm mại mà phóng khoáng trên bức tranh
thiên nhiên hùng vĩ. Từ đó, cuối cùng con thác cũng hết. Qua một “khúc vặn mình, sóng
thác xèo xèo tan đi trong trí nhớ tưởng như một giấc chiêm bao”. Câu văn đã khép lại trùng
vi thạch trận thứ ba, cũng kết thúc một trận giao tranh nảy lửa. Từ giọng văn đầy kịch tính
của Nguyễn Tuân, ông lái đò hiện lên với vẻ đẹp tài hoa, nghệ sĩ.
Qua đi cơn thác dữ, người lái đò lại trở về với cuộc sống bình dị. Cũng từ đây, độc
giả thấy được thêm vẻ đẹp mộc mạc nơi người lao động. Cuộc sống trở về bình yên với bao
câu chuyện đời thường. Cũng là những ốm lam nướng trên bếp lửa trong hang đá, cũng là
những câu chuyện về cá dầm xanh, cá anh vũ, ta thấy được vẻ đẹp chân chất của cuộc sống
miền sông nước. Cuộc chiến thắng nơi ải nước dữ tợn qua đi mà không hề nhắc đến như
một chiến tích lừng danh. Hóa ra một vẻ đẹp mạnh mẽ, đầy can đảm phi thường như thế lại
nằm ở con người bình thường, giản dị nhất. Vì cuộc sống của họ là ngày nào cũng giành
giật sự sống từ con thác dữ nên chẳng có gì hồi hộp nữa. Họ nhìn nhận công việc nguy hiểm
một cách bình thản, trở thành một phần của cuộc sống thường nhật. Họ lặng lẽ tạo nên
những kỳ tích, những điều kỳ diệu, chinh phục và chiến thắng cả thiên nhiên trong cuộc
sống hàng ngày. Hình ảnh kỳ vĩ đó sẽ mãi đậm sâu trong tâm trí người đọc.
Trích đoạn là những từ hoa thơm thảo được tác giả kết tinh từ tình yêu con người, đất
nước, quê hương say đắm. Nhà văn đã sử dụng hệ thống từ đắt giá, cô đọng, chắt lọc từ vốn
kiến thức sâu rộng của mình để làm nổi bật vẻ đẹp của người lao động. Bút pháp khắc họa
thiên nhiên và con người độc đáo, sâu sắc, chân thực đã góp phần tạo nên thành công cho
đoạn trích. Đặc biệt, Nguyễn Tuân không viết tên nhân vật như một cách điển hình hóa hình
tượng vô cùng đặc sắc và mang lại hiệu quả nghệ thuật cao. Với khả năng dùng con chữ để
tôi tạo kỳ công của tạo hóa và sự tài ba của con người, Nguyễn Tuân quả thực xứng đáng
với danh hiệu “đấng hóa công thực sự trong nghệ thuật ngôn từ”.
Khéo lại những trang văn ấy, trong lòng bạn đọc vẫn bồi hồi bao cảm xúc dạt dào.
Tác giả đã gieo vào lòng chúng ta nhiều xúc cảm đáng nhớ không chỉ hôm nay mà còn mãi
sau này về hình tượng người lái đò trong tùy bút cùng tên của ông. Vẻ đẹp đầy trí dũng cùng
tài hoa nghệ sĩ của ông lái đò nổi bật trong trùng vi thứ hai và thứ ba chính là sức hút tạo
nên sức sống bất diệt cho tác phẩm của Nguyễn Tuân.
Đề bài: Cho đoạn trích:
“Hùng vĩ của sông Đà không phải chỉ có thác đá. Mà nó còn là những cảnh đá bờ
sông, dựng vách thành, mặt sông chỗ ấy lúc chỉ đúng ngọ mới có mặt trời. Có vách đá
thành chẹt lòng Sông Đà như một cái yết hầu. Đứng bên này bờ nhẹ tay ném hòn đá qua
bên kia vách. Có quãng con nai con hổ đã có lần vọt từ bờ này sang bờ kia. Ngồi trong
khoang đò qua quãng ấy, đang mùa hè mà cũng thấy lạnh, cảm thấy mình như đứng ở hè
một cái ngõ mà ngóng vọng lên một khung cửa nào trên cái tầng nhà thứ mấy nào vừa tắt
phụt đèn điện.
Lại như quãng mặt ghềnh Hát Loóng, dài hàng cây số nước xô đá, đá xô sóng, sóng
xô gió, cuồn cuộn luồng gió gùn ghè suốt năm như lúc nào cũng đòi nợ suýt bất cứ người
lái đò Sông Đà nào tóm được qua đấy. Quãng này mà khinh suất tay lái thì cũng dễ lật
ngửa bụng thuyền ra.
Lại như quãng Tà Mường Vát phía dưới Sơn La. Trên sông bỗng có những cái hút
nước giống như cái giếng bê tông thả xuống sông để chuẩn bị làm móng cầu. Nước ở đây
thở và kêu như cửa cống cái bị sặc. Trên mặt cái hút xoáy tít đáy, cũng đang quay lừ lừ
những cánh quạ đàn. Không thuyền nào dám men gần những cái hút nước ấy, thuyền nào
qua cũng chèo nhanh để lướt quãng sông, y như ô tô sang số ấn ga cho nhanh để vút qua
một quãng đường mượn cạp ra ngoài bờ vực. Chèo nhanh và tay lái cho vững mà phòng
qua cái giếng sâu, những cái giếng sâu nước ặc ặc lên như rót dầu sôi vào. Những bè gỗ
rừng đi nghênh ngang vô ý là những cái giếng hút ấy nó lôi tụt xuống. Có những thuyền đã
bị cái hút nó hút xuống, thuyền trồng ngay cây chuối ngược rồi vụt biến đi, bị dìm và đi
ngầm dưới lòng sông đến mươi phút sau mới thấy tan xác ở khuỷnh sông dưới.”
(Trích “Người lái đò Sông Đà, Nguyễn Tuân)
Phân tích hình tượng Sông Đà trong đoạn văn trên. Từ đó, nhận xét về sự tài hoa
trong cách sử dụng ngôn ngữ của nhà văn Nguyễn Tuân.
Họ và tên: Tạ Phương Quý
MHV: MV440
Điểm: 4.5/5.0

BÀI LÀM
“Tây Bắc ư? Có riêng gì Tây Bắc
Khi lòng ta đã hóa những con tàu
Khi Tổ quốc bốn bề lên tiếng gọi
Tâm hồn ta là Tây Bắc chứ còn đâu.”
Đó là những lời thơ tha thiết của thi sĩ Chế Lan Viên khi viết về mảnh đất và con
người Tây Bắc. Vùng đất “sớm sương muối, tối sương mù - Trưa hoe hoe nắng, chiều tà tà
mây” đã trở thành nơi gửi gắm tâm tình của biết bao thi sĩ và một trong số đó có Nguyễn
Tuân. Trong hành trang du kí của mình lên vùng Tây Bắc, nhà văn đã ấn tượng sâu sắc với
vẻ đẹp nơi đây, đứa con tinh thần “Người lái đò Sông Đà” cũng ra đời vì lẽ đó. Tác phẩm
viết về dòng Đà giang hung bạo, dữ dội nhưng cũng rất thú vị, độc đáo. Đặc biệt nhất trong
đoạn trích: “Hùng vĩ của Sông Đà…khuỷnh sông dưới”. Không chỉ làm bật lên sự hùng vĩ,
độc địa của sông Đà, nhà văn còn đem đến cho người đọc thấy được sự tài hoa trong cách
sử dụng ngôn ngữ xứng danh “bậc thầy” đáng ngưỡng mộ.
Nhà văn Trần Dần từng nhận xét về Nguyễn Tuân: “Nhân cách của nhà văn chính là
văn cách của anh ta”. Lời bình ấy quả đúng! Nguyễn Tuân luôn coi trọng nghề viết, coi
trọng độc giả như coi trọng cái tôi của chính mình. Người quen Nguyễn Tuân đều biết ông
rất cầu kỳ, kỹ tính trong từng con chữ bởi như ông từng chia sẻ: “Tôi quan niệm đã viết văn
thì phải cố viết cho hay và phải viết đúng cái tạng của mình. Văn chương cần cần có sự độc
đáo hơn trong bất kì lĩnh vực nào”. Có thể thấy trên trang văn của Nguyễn Tuân chưa bao
giờ tồn tại hai chữ nhạt nhòa cũng vì lẽ đó. Tuy rằng xuất thân trong một gia đình nhà nho
khi Hán học đã tàn, trước Cách mạng Tháng Tám, ông bất mãn với thời thế, chỉ hướng ngòi
bút về quá khứ với những vẻ đẹp “vang bóng một thời” ngày xưa, thế nhưng sau khi cách
mạng thành công, phong cách Nguyễn Tuân đã có nhiều thay đổi. Nhà văn nhận ra chất tài
hoa nghệ sĩ của nhân dân đại chúng, ông thấy ở họ tồn tại những vẻ đẹp đáng quý và bình dị
vô cùng. Ông cũng nhìn ra được mối quan hệ mật thiết giữa quá khứ và tương lai tươi sáng.
Đồng thời giọng văn cũng từ đó trở nên đôn hậu, tin yêu đến lạ thường. Có lẽ, ánh sáng của
cách mạng đã khiến Nguyễn Tuân sống lại một lần nữa, để ông đem đến cho đời những tác
phẩm văn học đong đầy bóng dáng của quê hương. Và tùy bút “Người lái đò Sông Đà” là
một trong số đó. Tác phẩm được in trong tập “Sông Đà” sáng tác năm 1960, là thành quả
của một chuyến đi thực tế lên vùng cao Tây Bắc của “cây bút duy mĩ” đầy tài hoa. Đoạn
trích miêu tả sự hung bạo của Sông Đà là một trong những đoạn trích đắt giá nhất của tác
phẩm.
Để mang đến cho người đọc một con sông với vẻ đẹp độc đáo một cách chân thật và
đầy đủ nhất, Nguyễn Tuân đã dày công tìm hiểu nguồn gốc, lai lịch của dòng Đà giang. Con
sông bắt nguồn từ Trung Quốc, với cái tên khá mĩ miều là Ly Tiên. Qua đến Việt Nam, nơi
chào đón đầu tiên là Mường Tè (Lai Châu) về sau tới ngã ba Trung Hà thì hợp với nước
sông Hồng của Thủ đô. Sở dĩ nói đây là dòng sông độc đáo bởi dòng chảy của nó rất lạ, theo
như lời đề từ thứ hai, Nguyễn Tuân mượn của Nguyễn Quang Bích có viết: “Chúng thủy
giai Đông tẩu - Đà Giang độc Bắc lưu”. Câu thơ chữ Nôm có nghĩa là mọi dòng sông đều
chảy về hướng Đông theo quy luật của tự nhiên, duy chỉ có sông Đà là chảy về hướng Bắc.
Dường như chính con sông đang chống lại tạo hóa của mẹ thiên nhiên để đi theo chất riêng
của mình. Điều này vừa tôn lên vẻ hoang sơ, góc cạnh của nó, đồng thời lại cũng rất phù
hợp với nét bút và thái độ “ngông” của cây bút Nguyễn Tuân.
Mở đầu cho sự hùng vĩ, hung bạo, đó là Sông Đà với cảnh đá bờ sông. Nguyễn Tuân
miêu tả đá ở đây “dựng vách thành” rất kiên cố và vững chắc, vừa rộng lại vừa sâu, thẳng
đứng đến mức “chỉ đúng ngọ mới có mặt trời”. Độ hẹp của con sông cũng được miêu tả rất
độc địa khi “có vách đá thành chẹt lòng Sông Đà như một cái yết hầu. Đứng bên này bờ nhẹ
tay ném hòn đá qua bên kia vách”. Độ hẹp ấy cảm tưởng như là rất nhỏ, giống như ai đang
ghì tay, siết chặt dòng nước không cho chảy nữa. Động từ “chẹt” được sử dụng tạo cảm giác
khó thở và dường như còn thấy chưa đủ, tác giả tiếp tục khắc họa thêm cho người đọc bằng
cách miêu tả “có quãng con nai con hổ đã có lần vọt từ bờ này sang bờ bên kia”. Dù chưa
một lần ngắm nghía hình thù, chứng kiến sự dữ dội của dòng sông, tuy nhiên qua ngôn từ
trên trang giấy của Nguyễn Tuân, ta cũng thấy đây là một quãng vô cùng nguy hiểm cho
thuyền bè qua lại, một quãng hẹp đến mức độ khủng khiếp. Ngồi trên thuyền ở Sông Đà,
“đang mùa hè mà cũng thấy lạnh”. Cái lạnh ở đây vừa là lạnh do không có ánh nắng của
mặt trời chiếu rọi khiến quãng sông lạnh lẽo, u tối, cũng vừa lạnh gáy, sởn gai ốc. Khi đi
thuyền vì nguy hiểm chực chờ như đang trong miệng một con thú dữ, nó có thể vồ lấy
thuyền mà nuốt chửng ta bất cứ lúc nào. Nhà văn Nguyễn Quang Trung từng nhận xét về
bài kí này của Nguyễn Tuân là “Bài kí chật ních so sánh”. Và đúng thế, Nguyễn Tuân không
chỉ so sánh nhiều mà còn so sánh rất độc, rất hay. Ông mô tả cái lạnh “như đứng ở hè một
cái ngõ mà ngóng vọng lên một khung cửa nào trên cái tầng nhà thứ mấy nào vừa tắt phụt
đèn điện”. Con người đứng trước thiên nhiên như một sinh thể nhỏ bé đang chờ mong thứ
“ánh sáng” tươi đẹp của nó mang lại. Nhưng thay vì làm vui lòng du khách, thiên nhiên phũ
phàng “tắt phụt” đi hi vọng nhỏ nhoi ấy khiến bỗng chốc con người thấy lạnh vì lạc lõng, bơ
vơ, run sợ khi bóng tối bao trùm. Phải chăng đây là thứ cảm giác mà Sông Đà muốn đem tới
vài lời thách thức đầy ngạo nghễ mỗi lần có vị khách nào muốn khám phá nó chăng?
Qua góc nhìn của Nguyễn Tuân, sông Đà còn độc địa, nguy hiểm hơn ở quãng mặt
ghềnh Hát Loóng. Ghềnh là nơi nằm ngay dưới chân thác, gồm có phần nổi và phần chìm,
phần nổi là những hòn đá sắc nhọn chồng chất lên nhau như một hàng rào phòng thủ đầy gai
góc và sát thương, phần chìm là nước với độ sâu nông vô cùng khó đoán. Đi thuyền quãng
này phải rất chắc tay nếu không nguy hiểm vô cùng. Bởi vậy mới có câu ca dao mà ông cha
ta truyền dạy:
“Đường lên Mường Lễ bao xa
Trăm bảy cái thác, trăm ba cái ghềnh.”
Ghềnh làm tăng thêm sự hiểm trở cho dòng Đà giang, khiến nó hung bạo lại càng thêm
hung bạo. Ở quãng ghềnh ấy “dài hàng cây số, nước xô đá, đá xô sóng, sóng xô gió” cứ liên
tiếp quăng quật vào nhau. Phép điệp cấu trúc cùng với động từ mạnh “xô” tạo cảm giác xô
đẩy, chen chúc, ào ạt, dồn dập nhau đến hỗn loạn. Nguyễn Tuân dùng hệ thống câu văn
ngắn, thanh trắc và nhiều dấu phẩy liên tiếp khiến câu văn như bị ai bẻ gãy làm đôi, bạo liệt,
cuồng nộ, trắc trở như chính tính cách con sông Đà ngang bướng. Không chỉ có vậy, âm
thanh “gùn ghè” suốt năm cứ “cuồn cuộn” bên tai của gió cũng góp phần đánh đòn tâm lý
đến những ai đi thuyền qua đây. Nhà văn miêu tả dòng sông Đà hung hăng, hằm hặp như
một chủ nợ khó tính và vô lý khi “đòi nợ xuýt” cả những người mà chẳng hề mắc nợ nó.
Chao ôi! Nó sẵn sàng “tóm” lấy bất kỳ ai mà nó không “vừa ý”, một dòng sông bẩn tính
đến khó hiểu! Có lẽ ngàn đời này tính khí của nó vẫn vậy nên là người lái đò ai cũng phải
biết mà cẩn thận tay lái, vì nếu lơ là, khinh suất dù chỉ phút giây thôi “thì cũng đè lật ngửa
bụng thuyền ra” chìm dưới tay của con quái thú sông Đà. Quả thực, Sông Đà qua trang văn
của Nguyễn Tuân nhất là quãng ghềnh chứng tỏ nó là một đối thủ đáng gờm, khó tính, đôi
khi người phải thật bản lĩnh mới có thể đi qua.
Quãng Tà Mường Vát ở dưới Sơn La cũng là một nơi con sông Đà bộc lộ được vẻ
hung dữ, bạo liệt của nó. Ở đây xung quanh là những cái hút nước rất nguy hiểm. Cái hút
nước được miêu tả “giống như cái giếng bê tông thả xuống sông để chuẩn bị làm móng
cầu”. Vừa sâu hun hút, vừa tối tăm như hố đen vũ trụ có thể nuốt tất cả mọi thứ nếu ngay
gần nó. Nguyễn Tuân rất độc đáo khi gợi tả âm thanh của cái hút nước bằng biện pháp nhân
hóa, ‘Nước ở đây thở và kêu như cửa cống cái bị sặc” rồi thì “ặc ặc lên như rót dầu sôi
vào”. Âm thanh hoang dã, ghê rợn đến “đinh tai nhức óc” nghe là đã thấy được dòng sông
ấy có nhiều sự nguy hiểm như nào. Bởi vậy mà “không thuyền nào dám men gần những nơi
hút nước ấy” chỉ muốn “chèo nhanh lướt quãng sông”. Đứng trước mặt của con thủy quái
Sông Đà, nếu nhanh và may mắn thì thoát nạn, còn nếu thuyền bè nào “đi nghênh ngang vô
ý” coi thường nó thì nó sẵn sàng “lôi tuột”, “hút xuống”, khiến thuyền “trồng ngay cây
chuối”, “vụt biến đi”. Một loạt động từ mạnh được sử dụng cho thấy uy lực của một con
sông “ngàn đời làm mình làm mẩy với thiên nhiên và con người Tây Bắc” thật đáng e sợ.
Tác giả dùng từ “tan xác” để chỉ con người. Tuy nhiên sự đáng sợ không hề đơn giản đi mà
ngược lại. Bởi nếu thuyền còn “tan xác” thì số phận con người trên thuyền ấy sẽ ra sao?
Nhà phê bình văn học Nguyễn Đăng Mạnh từng nói về Nguyễn Tuân: “Khi thì trang
nghiêm cổ kính, khi thì đùa cợt bông phèn, khi thì thánh thót trầm bổng, khi thì xô bồ bừa
bãi như là ném ra trong một cơn say chếnh choáng, khinh bạc đấy nhưng bao giờ cũng rất
đời tài hoa”. Vâng! Nguyễn Tuân cực kì tài hoa và sắc sảo trong cách sử dụng ngôn ngữ.
Như ý của Tô Hoài thì ông xứng đáng được mệnh danh là “chuyên viên cao cấp tiếng Việt”,
là “người thợ kim hoàn của chữ”. Ông đã dùng hết bút lực của mình gợi tả con sông Đà
bằng những từ ngữ độc lạ, dường như chưa từng bắt gặp trong trang văn khác như “gùn
ghè”, “đòi nợ xuýt”. Song song với đó, từ ngữ còn được chọn lọc tỉ mẩn để gọi sự vật vừa lạ
mà còn đúng tên, đúng tính chất của nó. Thoạt tiên là “hút nước” tác giả gọi là “cái giếng
sâu”, những chiếc thuyền bị con sông đánh úp thì trông như “trồng ngay cây chuối ngược”.
Sự uyên bác và tài tình như đạt đến đỉnh điểm. Trong đoạn trích miêu tả sự hung bạo, dữ dội
của Đà giang, Nguyễn Tuân còn sử dụng biện pháp nghệ thuật nhân hóa cùng rất nhiều so
sánh, liên tưởng khác nhau để đem đến một góc nhìn ấn tượng cho người đọc. Từ chiều
rộng, chiều sâu, độ hẹp đến cảm giác lạnh gáy, run sợ qua ngòi bút tài hoa của ông đều hiện
rõ đến chân thực. Không chỉ có thế, cách thành lập câu từ cũng rất đắt giá, câu văn thường
ngắn, nhiều dấu phẩy tạo nhịp điệu như dồn dập, liên tục như đang đưa người đọc lên con
thuyền phiêu du lên chính con sông đọc dữ, nham hiểm của rừng núi Tây Bắc. Liệu rằng
con sông Đà cuốn hút người đọc là do chính bản chất tính của nó hay là do cái tài của người
viết lên nó đây?
Nhà thơ Chế Lan Viên từng tâm niệm: “Vạt áo của triệu nhà thơ không bọc hết vàng
mà đời rơi vãi, hãy nhặt lấy chữ của đời mà góp nên trang”. Hiện thực cuộc sống luôn là
mảnh đất màu mỡ cho văn học đâm rễ nảy chồi, chính những chuyến đi thực tế lên vùng cao
Tây Bắc cùng chất tài hoa nghệ sĩ mà Nguyễn Tuân đã mang đến một áng văn thật đẹp, thật
hay cho đời. Đây chắc chắn là “chất vàng mười” của đất nước quê hương mà nhà văn luôn
tìm kiếm. Với những giá trị mang theo bên mình, tác phẩm “Người lái đò Sông Đà” nói
chung và đoạn trích Sông Đà hung bạo nói riêng xứng đáng là một bản trường ca bất hủ,
sống mãi với non sông gấm vóc Việt Nam yêu quý!
Đề bài: Cho đoạn trích sau:
“...Còn một trùng vây thứ ba nữa. Ít cửa hơn, bên phải bên trái đều là luồng chết cả.
Cái luồng sống ở chặng ba này lại ở ngay giữa bọn đá hậu vệ của con thác. Cứ phóng
thẳng thuyền, chọc thủng cửa giữa đó. Thuyền vút qua cổng đá cánh mở cánh khép. Vút,
vút, cửa ngoài, cửa trong, lại cửa trong cùng, thuyền như một mũi tên tre xuyên nhanh qua
hơi nước, vừa xuyên vừa tự động lái được lượn được. Thế là hết thác. Dòng sông vặn mình
vào một cái bến cát có hang lạnh. Sóng thác xèo xèo tan trong trí nhớ. Sông nước lại thanh
bình. Đêm ấy nhà đò đốt lửa trong hang đá, nướng ống cơm lam và toàn bàn tán về cá anh
vũ cá dầm xanh, về những cái hầm cá hang đá mùa khô nổ những tiếng to như mìn bộc phá
rồi cá túa ra đầy tràn ruộng. Cũng chả thấy ai bàn thêm một lời nào về cuộc chiến thắng
vừa qua nơi cửa ải nước đủ tướng dữ quân tợn vừa rồi. Cuộc sống của họ là ngày nào cũng
chiến đấu với Sông Đà dữ dội, ngày nào cũng giành lấy cái sống từ tay những cái thác, nên
nó cũng không có gì là hồi hộp đáng nhớ... Họ nghĩ thế, lúc ngừng chèo.”
(Trích “Người lái đò Sông Đà” – Nguyễn Tuân)
Hãy phân tích hình tượng người lái đò trong trích đoạn trên, từ đó nhận xét góc nhìn
của Nguyễn Tuân về người lao động thời kỳ đổi mới.
Họ và tên: Lăng Thị Vân Anh
MHV: MV322
Điểm 4.5/5.0

BÀI LÀM
Tác giả Nguyễn Ngọc Tư từng tâm sự: “Gì lơ lửng cũng được chỉ tình yêu là
không”. Lời viết ấy khiến cho bao trái tim rung lên những nhịp bồi hồi, tự mình nhìn nhận
lại về tình yêu của chính mình đang giữ. Thế nhưng, đọc dòng viết này trong tôi trào dâng
biết bao suy tư về thế giới văn chương nghệ thuật. Bởi nghệ thuật là lĩnh vực của cái độc
đáo, thế nên người nghệ sĩ trong những sáng tác của mình vốn dĩ không thể lửng lơ trong
những gì mình nghĩ, mình viết. Sứ mệnh của nhà văn chẳng phải là đi đến tận cùng để tìm
ra giọng nói riêng của mình hay sao? Đọc tác phẩm “Người lái đò Sông Đà” của nhà văn
Nguyễn Tuân ta mới thấy được người nghệ sĩ ấy đã dám đi đến tận cùng để người đọc thấy
được sự khác biệt của riêng mình. Sự độc đáo trong ngòi bút của Nguyễn Tuân được thể
hiện rất rõ qua việc xây dựng thành công hình tượng người lái đò sông Đà trong đoạn trích
“...Còn một trùng vây thạch trận thứ ba nữa…Họ nghĩ thế, lúc ngừng chèo”.
Nguyễn Đình Thi từng nói rằng: “Nguyễn Tuân là nhà văn suốt đời đi tìm cái thật và
cái đẹp”. Xuyên suốt chặng đường văn chương của mình, ông đi cùng chủ nghĩa xê dịch,
cùng cái “ngông” độc đáo và sự uyên bác bậc thầy trong quá trình “sáng tạo chữ nghĩa”.
Trước cách mạng, Nguyễn Tuân đi tìm cái đẹp của thời xưa còn vương sót lại mà ông gọi là
“vang bóng một thời”, ông có phần bi quan đối với hiện tại và tương lai bởi xã hội quá
nhiễu lúc bấy giờ. Sau cách mạng, cái “ngông” trong hồn văn Nguyễn Tuân không bị mất
đi nhưng giọng văn đã đậm đà tinh thần dân tộc và lòng yêu nước nồng nàn. Trong chuyến
chu du thăm miền Tây Bắc hùng vĩ gần hai năm, nhà văn đã say cái say dành cho nhân dân,
dành cho người lao động cùng thiên nhiên, núi rừng Tây Bắc, điều đó đã được kết tinh nên
trong thiên tùy bút “Người lái đò Sông Đà” sáng tác năm 1960.
Bản thân Nguyễn Tuân là nhà văn có cái “ngông” độc đáo. Điều này được thể hiện
rõ nhất qua đoạn tác giả miêu tả hình tượng người lái đò vượt qua trùng vi thạch trận thứ ba
cũng như vẻ đẹp tài hoa, nghệ sĩ của ông. Nếu như con sông Đà hiện lên thật dữ dội, mãnh
liệt như “kẻ thù số một” của biết bao người lái đò qua ấy thì hình tượng người lái đò hiện
lên cũng không kém phần oai hùng. Ông như một vị tướng sĩ tài ba, hội tụ đầy đủ cả ba yếu
tố: bản lĩnh phi thường, trí nhớ siêu phàm và trí dũng song toàn. Ông như “nắm chắc binh
pháp của thần sông thần đá” để rồi băng băng vượt qua hết “cạm bẫy chết người” của dòng
sông hung bạo ấy.
Thế rồi, ở trùng vi thạch trận cuối cùng này, tác giả miêu tả không nhiều song vẫn
làm bật lên được tài nghệ trong việc lái đò của ông lão. Ở đoạn sông này, tuy là “có ít cửa
hơn nhưng bên phải bên trái đều là luồng chết cả”. Thật là quá đỗi nguy hiểm! Chèo đò qua
sông hay bản chất ông lái đò đang đánh ván cờ sinh tử của đời mình? Bằng sức khỏe và sự
dẻo dai, sức chịu đựng và đặc biệt là lòng dũng cảm, chủ động, quyết đoán, ông đã vượt qua
tất cả những cái bẫy mà sông Đà đã tung ra. Ông “cứ phóng thẳng thuyền, chọc thủng ở
giữa đò một cách vút vút” thuyền của ông như một mũi tên tre xuyên nhanh qua hơi nước,
vừa xuyên vừa tự động lái được, lượn được. Phải nói rằng, với việc sử dụng những động từ
mạnh giàu chất tạo hình như “vút vút”, “xuyên”, “chọc thủng” và lối so sánh chiếc thuyền
đi nhanh như mũi tên đã khẳng định sức mạnh bền bỉ, kiên cường và tài hoa của ông lái đò.
Cuộc chiến không cân sức giữa một bên là thiên nhiên dữ dội với một bên là ông lái đò đơn
độc chỉ có mái chèo là vũ khí duy nhất. Song bằng tài năng và sức mạnh phi thường, con
người đã chiến thắng được “kẻ thù số một” ấy của thiên nhiên và con người Tây Bắc. Câu
văn “thế là hết thác” như một tiếng thở phào nhẹ nhõm khi ông lái đò đã bỏ lại hết thác
ghềnh ở phía sau lưng. Chiến thắng của ông lái đò trước hết phát ra từ sự ngoan cường,
lòng dũng cảm, ý chí quyết tâm vượt qua những thử thách khốc liệt của cuộc sống. Tác giả
đã sử dụng nghệ thuật “vẽ mây nảy trăng” đưa sông Đà lên một cách hung bạo, dữ dằn để
rồi nó bị chính ông lái đò đánh bại trong sự cường tráng, trí dũng. Con sông Đà hung bạo
bao nhiêu thì người đánh bại nó càng mạnh mẽ và gan dạ bấy nhiêu. Qua đó, nhà văn còn
ngợi ca vẻ đẹp của con người lao động trên trốn sông nước Tây Bắc - đúng là “thứ vàng
mười đã qua thử lửa” mà ông hằng tìm kiếm.
Dưới ngòi bút tài hoa và độc đáo của người nghệ sĩ, người lái đò hiện lên đâu chỉ là
một bậc trí dũng anh tài mà còn quá đỗi tài hoa, nghệ sĩ “tài hoa” là khi con người đạt tới
trình độ điêu luyện, thuần thục trong công việc của mình, đến độ có thể sáng tạo được, có
thể vươn tới tự do. Chính vì vậy, Nguyễn Tuân đã tập trung bút lực ca ngợi hình ảnh ông lái
đò băng băng trên dòng thác sông Đà một cách thật ung dung, bình tĩnh, tự tại trong cách
ông nhìn nhận về công việc của mình, bình thản đến lạ lùng. Khi dòng sông vặn mình hết
thác cũng là khoảnh khắc “sóng thác xèo xèo tan trong trí nhớ”. Những nhà đò ngừng chèo,
đốt lửa nướng ống cơm lam, bàn về cá anh vũ, cá dầm xanh, “về những cái hầm cá, hang cá
mùa khô nổ những tiếng to như mìn bộc phá rồi cá tủa ra tràn đầy ruộng”. Nhưng không kể
về câu chuyện đối đầu dòng sông như một chiến tích mà bình thản coi đó là một câu chuyện
bình thường, đời thường. Chính tinh thần “bình thường hóa” cái phi thường đã tạo nên chất
nghệ sĩ cho những người dân lao động vô danh - những người cống hiến thầm lặng, vẫn nỗ
lực làm giàu cho quê hương, đất nước.
Bằng ngòi bút tài hoa, tinh tế, Nguyễn Tuân đã tạo nên những trang văn đẹp cả về
hình thức và tư tưởng. Tác phẩm được tạo nên từ tình yêu quê hương đất nước tha thiết, sâu
nặng; bằng lòng ngưỡng mộ, yêu mến đối với những con người lao động thầm lặng. Không
chỉ ngợi ca vẻ đẹp hùng vĩ của quê hương đất nước mà còn khẳng định sự lớn lao, sức mạnh
phi thường của những con người bình thường trong hành trình chinh phục thiên nhiên. Qua
đó, ta càng thêm thấm thía góc nhìn của Nguyễn Tuân về người lao động thời kỳ đổi mới.
Ta chợt nhận ra rằng chủ nghĩa anh hùng đâu chỉ có ở chiến trường mà ở ngay trong cuộc
sống cuộc sống của nhân dân ta, trong những con người vẫn đang vật lộn với thiên nhiên vì
miếng cơm, manh áo, vì sự hòa bình và phát triển của đất nước. Trí dũng, tài ba không phải
tìm ở đâu xa mà ở ngay những người dân lao động bình thường - họ chưa bao giờ chịu
khuất phục mà dám đứng lên chiến thắng cả thiên nhiên. Người lái đò sông Đà là biểu tượng
của con người chiến thắng và chinh phục thiên nhiên. Không những thế, Nguyễn Tuân còn
bày tỏ quan niệm về con người rằng con người dù ở bất cứ địa vị hay nghề nghiệp gì, nếu ta
hết lòng và thành thạo với công việc của mình thì bao giờ cũng sẽ trở thành những người
nghệ sĩ. Đó chính là “chất vàng mười” của con người Tây Bắc nói riêng và người lao động
Việt Nam nói chung trong thời kỳ đổi mới, thời kì hàn gắn vết thương chiến tranh, xây dựng
đất nước, xây dựng chủ nghĩa xã hội.
Nếu ai đã từng đọc qua tác phẩm “Chữ người tử tù” mà Nguyễn Tuân viết trước
cách mạng tháng Tám, ta làm sao có thể quên được hình ảnh nhân vật Huấn Cao - một con
người tài hoa, khí phách hiên ngang, bất khuất cùng thiên lương trong sáng. Vẻ đẹp Huấn
Cao là vẻ đẹp lãng mạn, có sức chinh phục, cảm hóa mãnh liệt đối với những con người có
tấm lòng “biệt nhỡn hiền tài”. Ông là người phi thường, hiếm gặp trên trần gian, thế nhưng
đó chỉ là con người trong quá khứ của lịch sử nay chỉ còn “vang bóng một thời”. Khi thời
bình, Nguyễn Tuân lại hướng ngòi bút của mình về những con người bình thường của cuộc
sống thường nhật. Họ là những con người của hiện tại, của hôm nay vẫn đang ngày đêm
đem sức lực và trí tuệ xây dựng quê hương, đất nước. Mặc dù có sự khác biệt trong việc xây
dựng hình tượng nhân vật thế nhưng cả hai tác phẩm “Người lái đò Sông Đà” và “Chữ
người tử tù” đều đã nói lên phần nào đặc điểm phong cách nghệ thuật của Nguyễn Tuân với
sự ổn định lẫn sự vận động trong phong cách ở hai giai đoạn trước và sau cách mạng.
Có thể nói rằng để hình tượng người lái đò hiện lên sinh động, mang vẻ đẹp của
người dân lao động Tây Bắc, Nguyễn Tuân đã rất tài hoa trong nghệ thuật xây dựng nhân
vật người lái đò bằng những cảm hứng đặc biệt đối với những gì gây cảm giác mạnh. Nhà
văn nhìn cảnh vật, con người ở phương diện cái đẹp. Không những thế, bài viết còn đầy ắp
những tri thức của nhiều lĩnh vực khác nhau. Đặc biệt là lối viết phóng túng với vốn ngôn
ngữ giàu có và điêu luyện rất độc đáo cùng thủ pháp nhân hóa sinh động khiến cho hành
trình trên sông nước vùng Tây Bắc trở nên cuốn hút hơn qua mỗi lần độc giả thưởng thức
bài kí.
Sêđrin từng nói rằng: “Văn học nằm ngoài quy luật của sự băng hoại. Chỉ mình nó
là không thừa nhận cái chết”. Tác phẩm văn học đã ghi nhận những sáng tạo của người
nghệ sĩ và khẳng định nó bằng những giá trị bất tử của mình. “Người lái đò Sông Đà” là
một tác phẩm như thế bằng việc xây dựng hình tượng người lái đò sông Đà đặc sắc, Nguyễn
Tuân đã để lại trong lòng người đọc ấn tượng sâu sắc về một nhà văn rất mực tài hoa, uyên
bác chắc chắn rằng tùy bút “Người lái đò Sông Đà” sẽ ngân vang mãi về sau.
Đề bài:
Trong tác phẩm “Người lái đò sông Đà”, có đoạn Nguyễn Tuân viết:
“Đá ở đây từ ngàn năm vẫn mai phục hết trong lòng sông, hình như mỗi lần có chiếc
thuyền nào xuất hiện ở quãng ầm ầm mà quạnh hiu này, mỗi lần có chiếc nào nhô vào
đường ngoặt sông là một số hòn bèn nhổm cả dậy để vồ lấy thuyền. Mặt hòn đá nào trông
cũng ngỗ ngược, hòn nào cũng nhăn nhúm méo mó hơn cả cái mặt nước chỗ này. Mặt sông
rung rít lên như tuyếc bin thủy điện nơi đáy hầm đập. Mặt sông trắng xóa càng làm bật rõ
lên những hòn những tảng mới trông tưởng như nó đứng nó ngồi nó nằm tùy theo sở thích
tự động của đá to đá bé. Nhưng hình như sông Đà đã giao việc cho mỗi hòn. Mới thấy rằng
đây là nó bày thạch trên trên sông....”
Lại có đoạn:
“...Tôi nhìn cái miếng sáng lóe lên một màu nắng tháng ba Đường thi “Yên hoa tam nguyệt
há Dương Châu.” Bờ Sông Đà, bãi Sông Đà, chuồn chuồn bươm bướm trên Sông Đà. Chao
ôi, trông con sông, vui như thấy nắng giòn tan sau kì mưa dầm, vui như nối lại chiêm bao
đứt quãng. Đi rừng dài ngày rồi lại bắt ra Sông Đà, đúng thế, nó đằm đằm ấm ấm như gặp
lại cố nhân, mặc dầu người cố nhân ấy mình biết là lắm bệnh lắm chứng, chốc dịu dàng
đấy, rồi chốc lại bẳn tính và gắt gỏng thác lũ ngay đấy...”
Anh/chị hãy cảm nhận về vẻ đẹp sông Đà qua khắc họa của Nguyễn Tuân, từ đó lý giải
sự khác biệt trong cách miêu tả con sông Đà qua hai đoạn kể trên.
Họ và tên: Nguyễn Thị Yến Thanh
MHV: MHV250
Điểm: 4.5/5.0

BÀI LÀM
Nguyễn Tuân từng muốn mỗi ngày đều có “cái say của rượu tân hôn”, kỳ vọng mỗi
trang đời là một trang nghệ thuật. Luôn luôn đổi mới cảm giác, nhận thức cũng như phương
châm cảm thụ cái đẹp, ông coi đời là những “trang hoa” luôn mở dưới ánh sáng nghệ thuật
mới. Và chuyến đi Tây Bắc của nhà văn sau Cách mạng là một " trang hoa" như thế. Để từ
đây vẻ đẹp thiên nhiên được mở ra “dưới ánh sáng nghệ thuật” của “Người lái đò Sông Đà.
Tác phẩm khắc họa về vẻ đẹp “hung bạo trữ tình” của con sông trong cái nhìn đôn hậu tha
thiết của Nguyễn Tuân.
Nguyễn Tuân là một cây bút độc đáo của văn học hiện đại Việt Nam. Ông luôn tiếp
cận mọi sự vật, hiện tượng, cái nhìn qua lăng kính của cái đẹp, mọi thứ dưới góc độ thẩm
mỹ. Trong "Võng ngô đồng", Nguyễn Tuân từng viết: "Mỗi khi đặt bút lên tờ giấy trắng
trong tinh khiết tôi cảm thấy sung sướng vô vàn, sung sướng đến chảy nước mắt ra". Và nhà
văn luôn đau đáu: " Tưởng như mình có thể chết ngay nếu mất đi quyền viết" bởi sáng tạo
nghệ thuật là giây phút nhà văn được " trút linh hồn " và được sống với tất cả những thiết
tha khát vọng. Mỗi một tác phẩm để có thể chống lại quy định của sự băng hoại thì nhà văn
nhất thiết phải đem đến được tâm hồn, tình cảm của mình qua từng dòng, từng chữ… Xưa
kia, trong hoàn cảnh mất nước, ta có thể thấy được cái tâm trạng bơ vơ, day dứt của con
người “Thiếu quê hương” trong Nguyễn Tuân. Giờ đây, đất trời đã hoàn toàn giải phóng,
nhà văn thoả thuê, thả sức miêu tả, thể hiện quê hương, đất nước với vẻ đẹp như công trình
nghệ thuật thiên tạo và cả: “Sức mạnh của đất nước luôn luôn hiện hình trên từng tấc gang
đường xa”. Thời đại mới đã cho Nguyễn Tuân và văn chương của ông nguồn sống dào dạt ,
để ông thoải mái mà cất tiếng kì diệu "Chỉ trường đời rộng rãi mới dạy cho ta biết những
câu đẹp đẽ". Và " Người lái đò sông Đà" là áng văn viết về thiên nhiên và con người " trên
từng tấc gang đường xa" như thế. Tác phẩm được viết trong thời kì xây dựng CNXH ở miền
Bắc. Đó là kết quả của chuyến đi thực tế của nhà văn đến Tây Bắc, đặc biệt là chuyến đi
thực tế năm 1958. Tác phẩm mang vẻ đẹp vừa kì vĩ, hào hùng vừa trữ tình thơ mộng của
thiên nhiên và nhất là của con người lao động miền Tây Bắc.
Hình tượng dòng sông là một hình tượng giàu xúc cảm, gợi nhiều liên tưởng, là thi
liệu và nguồn cảm hứng dồi dào trong sáng tác của nhiều người nghệ sĩ. Đến với “Tống biệt
hành” của nhà thơ Thâm Tâm, ta bắt gặp một dòng sông như sự ngăn cách giữa người đi và
kẻ ở. Những câu thơ như loang loáng trên mặt nước, vỡ vụn trong hoài niệm, xôn xao bởi
những con sóng lòng tiếc nuối. Còn khi bước chân vào thế giới nghệ thuật của Nguyễn Dữ
qua tác phẩm “Chuyện người con gái Nam Xương”, dòng sông Hoàng Giang nơi Vũ nương
gieo mình để minh oan cho sự thủy chung, son sắt đã bị lòng ghen tuông, nghi ngờ của
chồng vấy bẩn như một sự giải thoát để rửa sạch những bụi bẩn chốn dương gian. Còn với
Nguyễn Tuân, nhà văn “suốt đời đi tìm cái đẹp, cái thật”, tự nhận mình là “người sinh ra để
thờ Nghệ Thuật với hai chữ viết hoa” để đến với sông Đà để kiếm tìm “chất vàng”, vẻ đẹp
tiềm ẩn, quý giá của thiên nhiên Tây Bắc hùng vĩ, thơ mộng.
Nhà phê bình văn học Nguyễn Đăng mạnh từng nhận xét: “Nguyễn Tuân đã sáng tạo
ra một con Sông Đà không phải là thiên nhiên vô tri, vô giác, mà là một sinh thể có hoạt
động, có tính cách, cá tính, có tâm trạng hẳn hoi và khá phức tạp”. Với thiên tùy bút này,
“cây bút duy mĩ” đã khắc họa dáng vẻ dòng Đà giang như một kẻ thù hung tợn, sẵn sàng
nuốt chửng người lái đò trên sông, sẵn sàng tiêu diệt bất cứ ai đi qua con sông này. Bằng thủ
pháp nhân hóa, người đọc nhận ra từng sắc diện người trong những hình thù đá vô tri.
Nguyễn Tuân đã dùng sức mạnh điêu khắc của ngôn từ để thổi hồn vào từng thớ đá: "Cả
một chân trời đá" mặt hòn nào trông cũng "ngỗ ngược", "nhăn nhúm", "méo mó" – đều là
những từ láy khắc họa diện mạo không mấy thiện cảm của con người. Những hòn đá vốn
chẳng có xúc cảm gì nhưng qua cái nhìn của Nguyễn Tuân chúng mang vẻ “du côn” của
thiên nhiên hoang dại và hung dữ với ba vòng trùng vi thạch trận. "Nguyễn Tuân là một
định nghĩa về người nghệ sĩ tài hoa" (Nguyễn Minh Châu). Người ta nói toàn bộ cuộc đời
cũng như gần 5000 trang viết của ông đã tạo nên một "huyền sử" - huyền sử của một người
ưu lối chơi "độc tấu". Và trên trang văn của một người như thế, ta dễ dàng được thưởng lãm
cái độc đáo đến từ nghệ thuật dùng từ, dùng chữ khi nó tái hiện được linh hồn sống động
của vạn vật mà cảm giác như sự mê hoặc đấy có thể làm “rung rinh” cả gỗ đá vô tri. “Mặt
sông rung rít lên như tuyếc bin thủy điện nơi đáy hầm đập. Mặt sông trắng xóa càng làm
bật rõ lên những hòn những tảng mới trông tưởng như nó đứng nó ngồi nó nằm tùy theo sở
thích tự động của đá to đá bé. Nhưng hình như sông Đà đã giao việc cho mỗi hòn. Mới thấy
rằng đây là nó bày thạch trên trên sông…”. Những cách ví von mới lạ cùng ngôn ngữ giàu
sức gợi, để rồi một thoáng giật mình: ta hình như cũng căng thẳng, cũng nín thở, cũng hồi
hộp theo từng dòng từng chữ mà Nguyễn Tuân mô tả, để thấy rằng qua những “dấu triện
riêng” trên trang văn của người nghệ sĩ, người ta dễ dàng hình dung ra được một tài năng
lớn, một tầm vóc lớn.
Dưới trang văn của Nguyễn Tuân, sông Đà hung bạo hiện lên như một thứ kẻ thù
đích thực. Chuyến đi thoả mãn cái khát khao “xê dịch” của nhà văn, trong chuyến đi ấy ông
đã không quên tìm kiếm cả “chất vàng” của cảnh sắc thiên nhiên nơi đây, rất hiểm trở
nhưng cũng mang vẻ đẹp hùng vĩ thơ mộng say đắm lòng người. Cái thiên nhiên như thế, dễ
làm cho lòng người ta có cảm hứng muốn “đề thơ vào sông nước”. Khi bắt gặp ánh nắng
chiếu vào mắt, nhà văn đã phát hiện ra nắng sông Đà đẹp đến mê hồn trong ánh sáng “lóe
lên một màu nắng tháng ba Đường thi “Yên hoa tam nguyệt há Dương Châu”. Mượn một
câu thơ trong bài thơ Đường nổi tiếng “Tại lầu Hoàng Hạc tiễn Mạnh Hạo Nhiên đi Quảng
Lăng” – Nguyễn Tuân dường như đã ngầm khẳng định vẻ đẹp cổ thi của dòng sông Tây
Bắc. Dòng sông ấy trong sự liên tưởng đến thơ Đường đã gợi tả được vẻ đẹp phẳng lặng,
trong sáng, lấp lánh, hồn nhiên thanh bình. Trong cảm nhận của Nguyễn Tuân, gặp lại sông
Đà ông nhận ra “con sông vui như thấy nắng giòn tan sau kì mưa dầm”. Đó là một cảm xúc
rất đỗi đặc biệt khi mà đã lâu lắm rồi ta chưa được đắm mình trong cái nắng giòn tan, đã lâu
lắm rồi bầu trời chỉ được phủ lên bởi những cơn mưa lạnh lẽo, u ám. Hết cơn mưa này đến
cơn mưa khác thay nhau trút xuống mặt đất chẳng để ta gặp lại ánh nắng trên cao cũng như
sự chia xa đầu buồn thương của dòng Đà giang và người nghệ sĩ Nguyễn Tuân. Thế rồi sau
tất cả những kỉ mưa dài đằng đẵng ấy, ánh mặt trời lại lên cao, chiếu xuống và sưởi ấm cho
mọi vật, sinh thể trên mặt đất kể cả niềm thương nỗi nhớ của nhà văn dành cho con sông Đà
tuy hung bạo nhưng cũng rất đỗi trữ tình ấy cũng được nối liền và thêm đậm sâu. Niềm vui
ấy tiếp tục được khắc họa một cách thật tỉ mỉ nhưng cũng thật trừu tượng: “vui như nối lại
chiêm bao đứt quãng’’. “Chiêm bao’’ vốn là những giấc mơ đẹp khiến chúng ta chỉ muốn
đắm mình và sống mãi trong những giấc mơ ấy. Một giấc mơ về hình bóng của ai đó- người
mà mình thương lắm, nhớ lắm và ước muốn được gặp nhiều lắm. Thế nhưng dường như cái
gì đẹp cũng ngắn, cái gì mộng mơ cũng dễ dở dang. Chính vì thế với lối so sánh niềm vui
của con sông Đà như nối lại được chiêm bao đứt quãng, tác giả như nhấn mạnh và tô đậm
sự vui mừng khôn xiết của con sông mang dáng hình một cố nhân. Một cảm giác vui lắm,
mừng lắm mà chỉ những người đã từng một lần nối lại được những giấc mơ đẹp còn dang
dở mới có thể thấy cảm thấu hết. Phải nói rằng đó là hai lối so sánh rất tình! Chính cách so
sánh độc đáo, nhân hóa tinh tế và linh hoạt ấy đã khiến sông Đà hiện lên bởi những xúc cảm
thân thương, phảng phất hơi ấm tình người. Nó trở thành người bạn hiền chung thuỷ, điềm
tĩnh chờ đợi người đi xa trở về, nguyện đợi chờ mà chẳng hề phôi phai nỗi lòng. Với việc sử
dụng hai cặp từ láy đi liền nhau “đằm đằm ấm ấm”, tác giả đã diễn tả một cách thật tinh tế
cái cảm giác hạnh phúc khi được gặp lại một miền ký ức đáng trân trọng mà bản thân vốn dĩ
rất xem trọng và nâng niu. Nguyễn Tuân dường như chấp nhận và thấu hiểu tất thảy những
tính cách của người cố nhân mang tên Đà giang ấy. Dẫu cho nó có hay “cáu gắt và lắm
bệnh, lắm chứng” thì ông vẫn thương, vẫn nhớ và vẫn đợi chờ được gặp lại người cố nhân
ấy lần nữa.
Nhà văn Turgerieo từng khẳng định: “Cái quan trọng trong một tài năng văn học là
tiếng nói của riêng mình, là cái giọng riêng biệt của chính mình, không thể tìm thấy trong
cổ họng của bất kì người nào khác”. Bởi lẽ, “phong cách là người”. Nguyễn Tuân là người
có phong cách độc đáo. Sự độc đáo ấy có lẽ xuất phát từ con người ông, diễn tả bằng một
chữ “ngông” qua cách khắc họa hai thái cực hoàn toàn trái ngược nhau trên một dòng sông.
Khi sáng tác thiên tùy bút này, nhà văn đã quan sát dòng sông ở nhiều góc độ để có được cái
nhìn thấu tỏ, toàn vẹn về “Đà giang độc bắc lưu”. Cái ngông ấy không cho phép ông viết về
những thứ cũ kĩ rồi xào nấu chúng lại. Nguyễn Tuân luôn tìm kiếm vẻ đẹp ẩn sâu, khuất lấp
“khơi những nguồn chưa ai khơi, sáng tạo những gì chưa có” (Nam Cao). Những trang văn
của ông thấm đươm linh hồn quê hương, sự giàu có của tiếng nói dân tộc Việt Nam. Và ở
đó chất chứa một trái tim, bầu máu nóng luôn yêu quý và trân trọng quê hương, xứ sở. Nếu
không có một tình yêu tha thiết, ông không thể cảm nhận hết vẻ đẹp tinh tế trước thiên nhiên
sông Đà để rồi làm nên những áng văn chương bất tử, sống mãi trong lòng người đọc hôm
nay và mai sau.
Nguyễn Tuân quả thực là “người định nghĩa lại thể tùy bút” khi ông không chỉ khắc
họa hình tượng con sông Đà mà còn tạo nên nét hấp dẫn rất riêng trong cách nhìn nhận của
người nghệ sĩ. Điểm cuốn hút người đọc chính là cái tôi tài hoa của cây bút theo chủ nghĩa
duy mĩ này khi ông vận dụng trí tưởng tượng phong phú để biến con sông thành một sinh
thể có cá tính riêng. Bên cạnh đó, xuyên suốt bài ký là hệ thống từ ngữ đắt giá, sáng tạo, cô
đọng, chắt lọc từ vốn kiến thức uyên bác của Nguyễn Tuân khiến người đọc thực sự phải
ngả mũ thán phục. Nhà văn còn sử dụng nhiều phép liên tưởng độc đáo cùng thủ pháp nhân
hóa sinh động khiến cho hành trình trên sông nước vùng Tây Bắc trở nên cuốn hút hơn qua
mỗi lần độc giả thưởng thức bài ký.
Nhà văn Paustovsky đã từng chia sẻ: “Niềm vui của nhà văn chân chính là niềm vui
của người dẫn đường đến xứ sở của cái đẹp”. Nhiệm vụ của người nghệ sĩ là khắc họa
những cảnh sắc của cuộc đời vào tác phẩm một cách sinh động và chân thực. Ngôn từ của
họ được vận dụng khéo léo nhằm giúp người đọc hình dung được vẻ đẹp của đất trời, thiên
nhiên. Bút ký “Người lái đò sông Đà” đã làm được điều ấy. Nhà văn Nguyễn Tuân đã đưa ta
đến với “xứ sở của cái đẹp” bằng lối viết hết mực tài hoa, độc đáo, đồng thời bộc lộ chất
“ngông” hiếm có của một người nghệ sĩ không bao giờ chịu đi vào lối mòn của văn chương.

TÁC PHẨM “AI ĐÃ ĐẶT TÊN CHO DÒNG SÔNG”


Đề bài: Cho đoạn trích sau:
“Từ đây, như đã tìm đúng đường về, sông Hương vui tươi hẳn lên giữa những biền bãi
xanh biếc của những vùng ngoại ô Kim Long, kéo một nét thẳng thực yên tâm theo hướng
tân nam - đông bắc, phía đó, nơi cuối đường, nó đã nhìn thấy chiếc cầu trắng của thành
phố in ngần trên nền trời, nhỏ nhắn như những vành trăng non. Giáp mặt thành phố ở Cồn
Giã Viên, sông Hương uốn một cánh cung rất nhẹ sang đến Cồn Hến; đường cong ấy làm
cho dòng sông mềm hẳn đi, như một tiếng “vâng” không nói ra của tình yêu. Và như vậy,
giống như sông Xen của Pa-ri, sông Đa-nuýp của Bu-đa-pét; sông Hương nằm ngay giữa
lòng thành phố yêu quý của mình; Huế trong tổng thể vẫn giữ nguyên dạng một đô thị cổ,
trải dọc hai bờ sông. Đầu và cuối ngõ thành phố, những nhánh sông đào mang nước sông
Hương tỏa đi khắp phố thị, với những cây đa, cây cừa cổ thụ tỏa vầng lá u sầm xuống
những xóm thuyền xúm xít; từ những nơi ấy, vẫn lập lòe trong đêm những ánh lửa thuyền
chài của một linh hồn mô tê xưa cũ mà không một thành phố hiện đại nào còn nhìn thấy
được. Những chi lưu ấy, cùng với hai hòn đảo nhỏ trên sông đã làm giảm hẳn lưu tốc của
dòng nước, khiến cho sông Hương khi qua thành phố đã trôi đi chậm, thực chậm, cơ đồ chỉ
là một mặt hồ yên tĩnh. Tôi đã đến Lê-nin-grát, có lúc đứng nhìn sông Nê-va cuốn trôi
những đám băng lô xô, nhấp nháy trăm màu dưới ánh sáng của mặt trời mùa xuân; mỗi
phiến băng chở một con hải âu nghịch ngợm đứng co lên một chân, thích thú với chiếc
thuyền xinh đẹp của chúng; và đoàn tàu tốc hành lạ lùng ấy với những hành khách tí hon
của nó băng băng lướt qua trước cung điện Pê-téc-bua cũ để ra bể Ban-tích. Tôi vừa từ
trong khói lửa miền Nam đến đây, lâu năm xa Huế, và chính Lê-nin-grát đã đánh thức
trong tâm hồn tôi giấc mơ lộng lẫy của tuổi dại; ôi, tôi muốn hoá làm một con chim như
đứng co một chân trên con tàu thuỷ tinh để đi ra biển. Tôi cuống quýt vỗ tay, nhưng sông
Nê-va đã chảy nhanh quá, không kịp cho lũ hải âu nói một điều gì với người bạn của chúng
đang ngẩn ngơ trông theo. Hai nghìn năm trước, có một người Hi Lạp tên là Hê-ra-clít, đã
khóc suốt đời vì những dòng sông trôi đi quá nhanh, thế vậy! Lúc ấy, tôi nhớ lại con sông
Hương của tôi, chợt thấy quý điệu chảy lặng lờ của nó khi ngang qua thành phố... Đấy là
điệu slow tình cảm dành riêng cho huế, có thể cảm nhận được bằng thị giác trăm qua trăm
nghìn ánh hoa đăng bồng bềnh vào những đêm hội rằm tháng Bảy từ điện Hòn Chén trôi
về, qua Huế bỗng ngập ngừng như muốn đi muốn ở, chao nhẹ trên mặt nước như những vấn
vương của một nỗi lòng.”
(Trích “Ai đã đặt tên cho dòng sông?”, Hoàng Phủ Ngọc Tường,
Ngữ Văn 12, Tập 1, NXB Giáo dục Việt Nam)
Phân tích hình tượng sông Hương trong đoạn trích, từ đó nhận xét cái tôi trữ tình của
Hoàng Phủ Ngọc Tường.
Họ và tên: Vũ Ngọc Minh Anh
Mã học viên: MV327
Điểm: 4.75/5.0

BÀI LÀM SỐ 1
Đâu là cầu nối giữa quá khứ và tương lai? Đâu là thanh nam châm thu hút mọi thế
hệ? Đó chắc phải là văn học hay sao? Văn học và cuộc đời cao đẹp gắn liền với con người
và quyết định những giọt ngọc của thời đại. Tất cả những giá trị thực đó đã thăng hoa cùng
ngòi bút của nhà văn Hoàng Phủ Ngọc Tường để tác phẩm “Ai đã đặt tên cho dòng sông”
đặc biệt là đoạn trích “ Từ đây… một nỗi lòng” còn vương vấn mãi trong lòng người đọc.
Nó cũng là đoạn trích đã làm bật lên được cái tôi trữ tình của tác giả.
Hoàng Phủ Ngọc Tường là một người tri thức yêu nước với vốn hiểu biết vô cùng sâu
rộng. Ông sinh ra ở Quảng Trị nhưng lại trưởng thành ở nơi cố đô bạt ngàn. Cũng chính vì
lẽ đó, trái tim ông luôn có những rung cảm mãnh liệt về cái lãng mạn, thơ mộng trên đất
Huế. Từ đó, ông hướng ngòi bút trữ tình, trí tuệ của mình về cội nguồn văn hóa cùng linh
hồn xứ sở trong các tác phẩm bút ký. Và thành công nhất trong sự nghiệp của ông có lẽ là
tác phẩm “Ai đã đặt tên cho dòng sông”. Những trang văn được viết vào năm 1981 ấy đã
không chỉ phác họa nên một kỳ quan tuyệt bích của tạo hóa mà ẩn chứa trong đó là hình ảnh
của một cô gái đang đem lòng đắm say người tình của mình - chính là vùng đất Huế mộng
mơ.
Không giống với những nhà văn khác khi tả về sông Hương, Hoàng Phủ Ngọc Tường
đã chọn tả nó từ thượng nguồn từ đó làm bật lên được vẻ oai phong, lẫm liệt đầy mạnh mẽ
của dòng chảy khi đi qua các thác đá gập ghềnh nơi dãy núi Trường Sơn hùng vĩ - cũng
chính là cội nguồn của sông Hương. Men theo con đường nơi đất mẹ quen thuộc, Hương
giang quyết định tìm về với “chốn yêu” của mình, đó là vùng đất Huế thơ mộng. Trên hành
trình dài và rộng, dòng sông như một người thiếu nữ mang theo sự hào hứng, mong đợi khi
sắp được gặp người mình yêu. Cho đến lúc gần như sắp giáp mặt với Huế, trái tim nơi dòng
chảy ấy bồi hồi, tha thiết vì đã lâu không được gặp Huế.
Mở đầu đoạn trích khi đang ở trong lòng thành phố Huế là ánh mắt thương nhớ của
dòng sông. Hương giang đang dần cảm thấy thân thuộc hơn với những cảnh vật xung quanh
mình: “Từ đây, như đã tìm đúng đường về”. Không phải “đường đi” vì rõ ràng ngay từ đầu
Huế chính là đích đến của sông Hương. Nhưng trong góc nhìn độc đáo của nhà văn, Huế
chính là vòng tay sẽ ôm trọn sông Hương vào lòng, là nơi nó có thể sải mình để ngơi nghỉ.
Còn nếu dùng từ “đi” có thể mang lại cảm giác sông Hương đang đến với một vùng đất mới.
Khi bắt đầu nhìn thấy vẻ đẹp nơi cố đô, nó “vui tươi hẳn lên” bởi Hương giang cảm thấy
yên bình, nó đang được nằm trọn trong Huế. Nó yên tâm vì nó tin tưởng vào bất cứ điều gì
ở nơi đây. Hình ảnh “sông Hương uốn một cánh cung rất nhẹ sang đến Cồn Hến” là một
điều có thể lí giải bằng những kiến thức địa lý. Thực chất trong sách vở, nó chỉ đơn giản là
nơi giao nhau giữa sông và thành phố Huế. Nhưng trong đôi mắt của những kẻ lãng du trót
đem lòng say mê xứ Huế thì làm sao có thể chỉ nhìn nhận bằng cách đó. Hoàng Phủ Ngọc
Tường nhìn thấy “dòng sông mềm hẳn đi, như một tiếng “vâng” không nói ra của tình yêu,
nghe sao mà da diết, mặn nồng biết bao. Tiếng “vâng” ấy như thể hiện sự e ấp, ngại ngùng
của một người con gái khi đứng trước người mình yêu. Đâu đó, ta cũng thầm cảm giác như
khi nói ra từ “vâng” ấy trong lòng sông hẳn cũng đang mỉm cười vì hạnh phúc. Đó là tiếng
nói nhẹ nhàng, thanh khiết chỉ mình Huế mới có thể nghe thấy. Và phải chăng qua tiếng
“vâng” ấy, sông Hương đang chấp nhận lời yêu từ vùng đất ấy hay không? Không chỉ nói về
sông Hương, tác giả cũng vận dụng những kiến thức của mình về những dòng sông khác để
tăng sức gợi mở “giống như sông Xen của Pa-ri, sông Đa-nuýp của Bu-đa-pét; sông Hương
nằm ngay giữa lòng thành phố yêu quý của mình”. Tác giả có sự đa dạng trong góc nhìn đối
với các dòng sông khác trong việc miêu tả sông Hương. Qua việc miêu tả sông Hương,
Hoàng Phủ Ngọc Tường cũng đan xen miêu tả vùng đất Huế bằng những hình ảnh “Một đô
thị cổ, trải dọc bờ sông” mang lại cho người đọc cảm giác quang đãng mà bình yên đến lạ
kì. Nét hoài cổ của “đô thị” đã tạo nên một nét đặc trưng vô cùng bình dị nơi cố đô bạt ngàn.
Sông Hương bắt đầu thỏa sức lan rộng tình yêu của mình với Huế bằng những thay
đổi trong chuyển động của mình “mang nước sông hương tỏa đi khắp phố thị”. Dường như
nó đang muốn gửi lời chào đến tất cả những điều nhỏ bé nhất ở nơi đây được điện kiến với
những cảnh vật thân thuộc nhất với mình. Người thiếu nữ ấy đã đi đến mọi ngóc ngách chỉ
để “thắm lại những ký ức đã từng có với người mình yêu’ một cảm xúc bồi hồi đến khó tả.
Nó nghe thấy “những xóm thuyền xúm xít”, đó là tiếng của con người, của những người dân
lao động đang “bàn tán” về những vấn đề thường nhật. Đây cũng chính là một sự yên bình
trên đất huế mà hương giang muốn cảm nhận. Dòng chảy ấy còn nhìn thấy “những ánh lửa
thuyền chài của một linh hồn mô tê xưa cũ mà không một thành phố hiện đại nào còn nhìn
thấy được”. Thành phố huế vẫn còn giữ được nguyên vẹn những giá trị của lịch sử, của
dòng chảy thời gian qua biết bao nhiêu năm tháng. Một vẻ đẹp cổ điển, chậm rãi mà thánh
thuần biết bao. Sông hương chủ động “giảm lưu tốc của dòng nước” như muốn thời gian
ngưng đọng để được cảm nhận huế lâu hơn nữa, nó muốn được ở cạnh người nói yêu lâu
lâu chỉ là một chút nữa.
Đặt trong các dòng sông nổi tiếng trên thế giới, hương giang vẫn nổi bật với vẻ đẹp
khác biệt của nó. Sông neva có lẽ cũng là một dòng sông để thương, để nhớ trong lòng tác
giả bởi cách ông miêu tả nó cũng rất đặc biệt:” cuốn trôi những đám băng lô xô, nhấp nháy
trăm màu dưới ánh sáng của mặt trời mùa xuân”. Nhưng tại sao nó vẫn không thể mang lại
cảm giác như sông hương? Tác giả cũng đã từng có rất nhiều ấn tượng về dòng sông này
đến mức “đã đánh thức trong tâm hồn tác giả giấc mơ lộng lẫy của tuổi dại”. Nhưng thật
đáng buồn trong khi ông “cuống quýt vỗ tay” thì “sông neva đã chảy nhanh quá không kịp
cho lũ hải âu nói một điều gì”. Câu văn ấy mang lại cho tôi cảm nhận rằng dòng sông neva
ấy chỉ đang đi theo hành trình của tạo hóa sắp đặt. Nó sẽ chẳng vì yêu thương mà nán lại ở
một nơi nào đó như sông hương. Tạo cho ta cảm giác dường như vẻ đẹp của cảnh vật thiên
nhiên quá đỗi hào nhoáng sẽ khiến con người ta cảm thấy xa cách và đôi khi những điều ấy
là những cảnh tượng mà ta chỉ có thể ngắm nhìn. Qua đó ta càng bị thuyết phục bởi tình yêu
tác giả dành cho sông hương. Không phải vì kiến thức hạn hẹp, chỉ biết đến sông Hương mà
ông mới đem lòng yêu nó mà là vì ông đã biết quá nhiều dòng sông để có thể coi hương
giang là dòng sông đẹp nhất.
Trong khi những dòng sông tác có chút vô tình, thậm chí đã làm cho một con người
phải khóc vì dòng chảy không đợi chờ của chúng. Thì sông hương vẫn luôn thủy
chung,nặng tình nặng nghĩa với con người, cảnh vật nơi huế đó. Đôi khi hương giang cũng
có những lúc vội vã, thậm chí là cuộn trào mạnh mẽ nhưng khi nhận ra huế, nhận ra những
yêu thương thì từng nhịp chuyển động trong nó đã có sự nấn ná, dần chậm lại những bước
đi của mình để được ở với huế lâu hơn. “điệu slow tình cảm” ấy chỉ dành riêng cho huế bởi
nó đã quá yêu vùng đất này, muốn dành trọn những khoảnh khắc hạnh phúc nhất của mình ở
bên người nó yêu. “trăm nghìn ánh hoa đăng bồng bềnh” đã thắp sáng cõi lòng của người
con gái ấy để những người dân nơi đây càng cảm nhận rõ được tình yêu của nó. Đó là một
bức tranh tuyệt mỹ của biết bao tình cảm được nuôi nấng. Dòng chảy ấy lúc này “muốn đi
muốn ở” ,“vấn vương” như đang băn khoăn, trăn trở về hai sự lựa chọn. “muốn đi” vì nó
còn muốn tiếp tục làm tròn bổn phận của mình, “muốn ở” vì đã quá nặng tình với vùng đất
ấy.
Và trong khi sự vô tình của những dòng sông khác đã để lại những thương tổn cho
con người thì có lẽ sự lặng tờ, nhẹ nhàng, êm ái của dòng sông Hương đã để lại biết bao
những niềm an ủi trong cõi lòng của những kẻ lãng du. Nhà thơ Long Trần đã từng viết
trong tác phẩm: “Lời ru Hương Giang” của mình rằng:
“Em êm đềm tựa như áng mây trôi
Cuốn sạch đi những buồn đau chất chứa
Trả lại tim tôi hơi ấm nồng như lửa
Tan những muộn phiền của phận số chông chênh…!”
Cái tôi trữ tình của Hoàng Phủ Ngọc Tường là sự quyện hòa giữa cái tâm và cái tài.
Những sự am hiểu, vốn kiến thức sâu rộng đã tạo nên một cây bút mẫu mực, uyên bác.
Cùng với đó là một tâm hồn khao khát tình yêu với những sự vật thiên nhiên. Bằng việc hội
tụ đủ những phẩm chất đó, tác giả đã phả vào áng văn của mình những nét độc đáo lạ kỳ.
Góc nhìn của sông Hương đối với Huế cũng chính là tình yêu cháy bỏng của ông đối với
quê hương, xứ sở.
Bằng những miêu tả chân thực, cùng góc nhìn độc đáo và sự nhân hóa hầu như ở toàn
đoạn trích, tác giả đã thổi bùng lên những tình cảm yêu thương, sâu lắng mà ông muốn trao
gửi cho sông hương, cho Xứ Huế. Ngôn ngữ vừa trí tuệ, vừa giàu chất thơ, chất họa quả
thực chỉ có Hoàng Phủ Ngọc Tường mới có thể tạo nên một chất liệu cao cấp đến thế. Cả
đoạn trích đều mang một giọng văn mượt mà, truyền cảm, đúng tính chất mà tác giả mong
muốn được truyền tải.
Khi một thi sĩ nâng bước chân mình tiến vào văn đàn là lại một cuộc giao duyên giữa
người và văn học được tiếp biến. Qua tác phẩm “Ai đã đặt tên cho dòng sông” đặc biệt là
đoạn trích trên nhà văn đã bộc lộ được một tâm sự thầm kín, một thanh âm trong trẻo, sáng
ngời về một tình yêu bất diệt với sông Hương và cố đô Huế. Phong cách ấy, lời văn ấy đủ
chứng tỏ được sự tinh anh của tác giả - một tài năng lớn ẩn giấu sau một hình hài nhỏ, một
kiếp người sống trọn vẹn kiếp đời.
Họ và tên: Trương Khánh Ly
Mã học viên: MV338
Điểm: 4.5/5.0

BÀI LÀM SỐ 2
Chẳng biết từ bao giờ, những dòng sông đã trở thành sợi thương sợi nhớ, nhân lên
thành tình yêu trong mỗi trái tim người nghệ sĩ. Để rồi tình yêu ấy gợi tình, gợi nhạc cho
những câu hát; là dòng sữa ngọt ngào nuôi dưỡng những vần thơ; là làn gió ấm thổi vào
từng áng văn. Và người con của xứ Quảng - Hoàng Phủ Ngọc Tường, một nhà văn được
mệnh danh là “người đi cùng những dòng sông kỷ niệm” cũng bị đắm sau bởi vẻ đẹp của
dòng Hương Giang mà không kìm lòng viết nên tác phẩm “Ai đã đặt tên cho dòng sông”.
Với sở trường về bút ký, nhà văn đã mang tới vẻ đẹp của dòng sông Hương khi chảy trong
lòng Huế một cách rõ nét và ấn tượng qua đoạn trích “Từ đây, như đã… của một nỗi lòng”.
Từ đó, ta cảm nhận được cái tôi trữ tình của tác giả thêm sâu sắc hơn.
Hoàng Phủ Ngọc Tường là một nhà văn chuyên viết về bút ký, nét đặc sắc trong bút
kí của ông là sự kết hợp nhuần nhuyễn giữa chất trí tuệ và chất trữ tình, giữa nghị luận sắc
bén và tư duy đa chiều với một vốn kiến thức tổng hợp từ nhiều lĩnh vực, nhất là lịch sử, địa
lý, văn hóa Huế. Tất cả đều được thể hiện qua lối hành văn hướng nội, súc tích, mê đắm và
tài hoa. Chính vì thế mà Nguyên Ngọc đã không ngần ngại mà nhận xét ông là “một trong
mấy nhà văn viết kí hay nhất của văn học nước ta hiện nay”. Ông được mệnh danh là “nhà
văn của xứ Huế mộng mơ” và tuổi thơ của Hoàng Phủ Ngọc Tường luôn gắn liền với thành
phố huế và dòng Hương Giang lung linh, huyền ảo. Chính nó là nguồn cảm hứng bât staanj,
là mảnh đất màu mỡ cho ngòi bút của ông thỏa sức tung hoành mà viết nên tùy bút “Ai đã
đặt tên cho dòng sông”. Tác phẩm được viết vào năm 1981 ở Huế và in trong tập cùng tên.
Đây được coi là một trong những thiên tùy bút xuất sắc của Hoàng Phủ Ngọc Tường nói
riêng và của thể loại bút ký, tùy bút trong nền văn học nước ta nói chung. Xuyên suốt tác
phẩm, vẻ đẹp đắm say lòng người của sông Hương hiện lên rất rõ nét và chân thực, đặc biệt
là vẻ đẹp của dòng chảy khi trong thành phố.
Qua ngòi bút của Hoàng Phủ Ngọc Tường, sông Hương không phải là một dòng
chảy vô tri, vô giác mà nó có cảm xúc, tình cảm với người tình của mình giống như bao
người. Tâm trạng háo hức và vẻ đẹp tình tứ duyên dáng của sông Hương khi được gặp gỡ
Huế được nhà văn miêu tả chân thực. Thành phố Huế hiện lên là nơi mà sông Hương mong
ngóng được trở về, là người tình mong đợi mà nàng đắm say và muốn ở bên mãi mãi. Vì
vậy khi biết mình đã tìm đúng đường về, nàng ta “vui tươi hẳn lên giữa những bến bãi xanh
biếc của những vùng ngoại ô Kim Long”. Phải trải qua một cuộc hành trình gian truân, đầy
thử thách ở thượng nguồn, từ một cô gái Digan phóng khoáng và man dại rồi đến một người
mẹ của vùng văn hóa xứ sở, cuối cùng, sông Hương mới có thể gặp được Huế. vậy làm sai
mà không vui, không háo hức cho được chứ? Từ “về” được tác giả khéo léo sử dụng như
muốn ngầm khẳng định Huế là bến đỗ thân thương, là nơi duy nhất mà sông Hương thuộc
về. Qua đó, ta càng thêm cảm nhận sâu xa hơn về sự thủy chung của nàng ta với người tình
của mình. Sau khi đã “kéo một nét thẳng thwucj yên tâm theo hướng Tây Nam - Đông
Bắc”, nagf ta dường như vui sướng hân hoan khi nhận ra dầu hiệu của thành phố Huế “chiếc
cầu trắng của thành phố in ngần trên nền trời, nhỏ nhắn như những vành trăng non” ngay
trước mắt. Vậy là sông Hương và Huế đã gặp nhau sau bao vất vả, gian lao. Hoàng Phủ
Ngọc Tường không coi đây là sự sắp đặt ngẫu nhiên của thiên nhiên tạo hóa mà theo ông,
đây chính là sự chủ động của thiếu nữ Hương giang tìm về với thành phố. Tới đây, ta lại
nhớ tới hình ảnh sông qua hai câu thơ của Xuân Quỳnh, biểu trưng cho hình ảnh người phụ
nữ chủ động đi tìm kiếm tình yêu của mình:
“Sông không hiểu nổi mình
Sóng tìm ra tận bể”
Khi giáp mặt tới thành phố, người thiếu nữ ấy dịu dàng hẳn đi; mang đúng tâm
trạng, hành động của người con gái khi yêu. Nàng ta “uốn một cách cung rất nhẹ” làm dòng
chảy mềm mại hẳn đi. Nét duyên dáng, e ngại hiện ra trước mắt Huế - người tình mong đợi
mà nàng muốn gặp bấy lâu nay. Tác giả đã so sánh đường cong mềm mại ấy như một tiếng
“vâng” không nói ra của tình yêu. “Tiếng vâng” này thật sự rất độc đáo và ấn tượng. Đó là
sự e ngại, thẹn thùng của sông Hương hay chính là một lời đồng ý mang bao sự tin tưởng
với tình cảm giữa mình và Huế. Dường như họ quá hiểu lòng nhau nên chỉ cần một tiếng
“vâng” như cái gật đầu cũng đủ biết rằng đối phương mong muốn gì. Đến đây, nhà văn đã
tự hào và đặt dòng sông ngang hàng với những con sông khác. “và như vậy, giống như sông
Seine của Pari, sông Đa Nuýp của Bu - đa - pét”, sông Hương nằm giữa ngay thành phố yêu
quý của mình. Với sự góp mình của dòng Hương Giang, “Huế trong tổng thể vẫn giữ
nguyên dạng một đô thị cổ”, một vẻ đẹp “mô tê xưa cũ” mà không một thành phố hiện đại
nào còn nhìn thấy. “Nước sông Hương tỏa khắp phố thị”, bao trùm nguyên vẹn thành phố,
sông Hương như đang tận dụng hết cơ hội để chảy trôi trong mọi ngóc ngách của Huế để
khám phá sâu hơn nữa người tình của mình. Theo Hoàng Phủ Ngọc Tường, “sông Hương
khi qua thành ohoso đã trôi đi chậm, thực chậm, cơ hồ dư còn là mặt hồ yên tĩnh.” Nêu
snhuw ở thượng nguồn, nàng ta chảy trôi với sự gấp gáp, đổ dồn thì khi về với thành phố,
lưu tốc dòng sông đã thay đổi chậm đi. Không phải ngẫu nhiên mà người con gái duyên
dáng ấy lại thay đổi nhanh chóng như vậy. Tất cả cũng chỉ vì nàng ta muốn ở bên thành phố
Huế lâu hơn một chút nữa. Huế luôn là nơi nàng mong đợi ngày trở về, được thân thiết và
gần gũi hơn nữa. Vì vậy mà sông Hương không nỡ chia xa, chỉ mong giây phút này ngưng
đọng lại để niềm hạnh phúc này còn mãi.
Bên cạnh tâm trạng và vẻ đẹp của dòng sông, Hoàng Phủ Ngọc Tường còn mở ra
cho người đọc góc nhìn riêng của ông về dòng chảy đặc biệt này. Đối với nhà văn, sông Nê-
va mang một vẻ đẹp lộng lẫy, tráng lệ, “nhấp nháy trăm màu dưới sáng sáng mặt trời của
mùa xuân”. Chính chuyến đi này đã đánh thức trong tâm hồn ông :giấc mơ lộng lẫy của tuổi
dại”. Ai cũng có trong mình một giấc mơ ấp ủ thời thuở bé, đó có thể là những mong ước
hồn nhiên, ngây thơ mà khi lớn lên, con người ta thường sẽ quên mất. Và Hoàng Phủ Ngọc
Tường đã thức tỉnh giấc mơ thuở bé của mình “tôi muốn hóa thành một con chim nhỏ đứng
co chân trên con tàu thủy tinh để đi ra biển”. Có lẽ ngay từ bé, nhà văn xứ Quảng đã ấp ủ
giấc mơ khám phá, phiêu lưu, dành một tình yêu nồng nàn cho thiên nhiên là thế! Sông
Neeva đẹp là thế nhưng lại vô tình quá, khiến nhân vật trữ tình cũng hụt hẫng “nhưng sông
Neeva chảy nhanh quá, không kịp cho lũ hải âu nói một điều gì đó với người bạn của chúng
đang ngẩn ngơ trông theo”. Có lẽ hầu hết các dòng sông trên thế giới dẫu đẹp, dẫu lộng lẫy
đến đâu thì cũng không dành riêng cho một nơi nào cả. Cúng thường hối hả, trôi đi rất
nhanh mà chẳng chờ đợi ơi. Chính vì thế mà Hoàng Phủ Ngọc Tường lại nhớ về dòng
Hương Giang và dành tình cảm cho nàng nhiều hơn thế nữa. Có thể sông Hương không lộng
lẫy, tráng lệ như những dòng sông khác nhưng ông vẫn “chợt quý điệu chảy lặng lờ của nó”.
Điều mà ông quý nhất vẫn là sự lặng lẽ, thủy chung không thể trộn lẫn của dòng sông
Hương. Dường như dòng chảy của sông Hương khi đi qua Huế cũng chính là “điệu slow
tình cảm dành riêng cho Huế”, luôn nhẹ nhàng, tinh tế và đầy sâu lắng. Dòng chảy qua Huế
dưới ngòi bút của nhà văn “ngập ngừng như muốn đi, muốn ở, chao nhẹ trên mặt nước như
những vấn vương của một nỗi lòng”. Cái ngập ngừng ở đây có phải chính là tâm trạng tiếc
nuối, không nỡ chia xa người tình mong đợi của mình mà cố “chao nhẹ trên mặt nước” để
níu kéo sự chảy trôi của thời gian? Qua nỗi lòng của sông Hương đối với người tình của
mình, ta cũng nhìn được đó là tình cảm của tác giả với Huế sâu nặng như thế nào.
Qua đoạn trích, ta có thể cảm nhận được cái tôi trữ tình của tác giả nằm ở ba
phương diện: mê đắm, tài hoa, uyên bác. Phải là người có cảm xúc sâu nặng với Huế và
dòng Hương Giang, ông mới có thể viết nên những trang kí giàu tình cảm thân thương như
thế! Để miêu tả dòng sông Hương, vị tác giả tài ba đã vận dụng kiến thức của nhiều lĩnh vực
khác nhau từ địa lý, lịch sử, văn hóa… Ông hiểu được một cách tường tận dòng chảy nên
mới ví đó như là một người thiếu nữ e ấp, dịu dàng và không nỡ rời xa người tình mong đợi.
Bên cạnh đó, để chạm được tới cảm xúc bạn đọc, Hoàng Phủ Ngọc Tường đã vận dụng linh
hoạt các thủ pháp nghệ thuật so sánh, nhân hóa để biến dòng sông có tâm tư , cảm xúc giống
con người, từ đó giúp độc giả tiếp cận với con sông dễ dàng hơn. Với những ngôn từ bình
dị, mộc mạc, giọng văn nhẹ nhàng, từ tốn, sông Hương chảy trong lòng thành phố quả là
một kiệt tác và nghệ thuật.
Với tài năng xuất sắc về bút kí của mình, vẻ đẹp của dòng sông Hương như chiếu
sáng toàn bộ tác phẩm, xứng đáng được góp tên mình vào kho tàng “những dòng sông để
thương để nhớ”. Qua đó, người đọc như được cảm nhận tình yêu da diết của tác giả đối với
quê hương, đất nước. Tùy bút “Ai đã đặt tên cho dòng sông” sẽ sống mãi trong lòng người
đọc và luôn là sư vị khó phai trong kho tàng văn học Việt Nam.
Đề bài: Cảm nhận hình tượng sông Hương trong đoạn trích sau.
Hình như trong khoảnh khắc chùng lại của sông nước ấy, sông Hương đã trở thành
một người tài nữ đánh đàn lúc đêm khuya. Đã nhiều lần tôi thất vọng khi nghe nhạc Huế
giữa ban ngày hoặc trên sân khấu nhà hát. Quả đúng như vậy, toàn bộ nền âm nhạc cổ điển
Huế đã được sinh thành trên mặt nước của dòng sông này, trong một khoang thuyền nào
đó, giữa tiếng nước rơi bán âm của những mái chèo khuya.
Nguyễn Du đã bao năm lênh đênh trên quãng sông này, với một phiến trăng sầu và
từ đó những bản đàn đã đi suốt đời Kiều. Tôi đã chứng kiến một người nghệ nhân già, chơi
đàn hết nửa thế kỷ, một buổi tối ngồi nghe con gái đọc Kiều, “Trong như tiếng hạc bay qua
- đục như tiếng suối mới sa nửa vời”... Đến câu ấy, người nghệ nhân chợt nhổm dậy vỗ đùi,
chỉ vào trang sách Nguyễn Du mà thốt lên: “Đó chính là Tứ đại cảnh!”.
Rời khỏi kinh thành, sông Hương chếch về hướng chính bắc, ôm lấy đảo Cồn Hến
quanh năm mơ màng trong sương khói, đang xa dần thành phố để lưu luyến ra đi giữa màu
xanh biếc của tre trúc và của những vườn cau vùng ngoại ô Vỹ Dạ. Và rồi, như sực nhớ lại
một điều gì chưa kịp nói, nó đột ngột đổi dòng, rẽ ngoặt sang hướng đông - tây để gặp lại
thành phố lần cuối ở góc thị trấn Bao Vinh xưa cổ. Đối với Huế, nơi đây chính là chỗ chia
tay dõi xa ngoài mười dặm trường đình.
Riêng với sông Hương, vốn đang xuôi chảy giữa cánh đồng phù sa êm ái của nó,
khúc quanh này thực bất ngờ biết bao. Có một cái gì rất lạ với tự nhiên và rất giống con
người ở đây; và để nhân cách hóa nó lên, tôi gọi đấy là nỗi vương vấn, cả một chút lẳng lơ
kín đáo của tình yêu. Và giống như nàng Kiều trong đêm tình tự, ở ngã rẽ sông này, sông
Hương đã chí tình trở lại tìm Kim Trọng của nó, để nói một lời thề trước khi về biển cả:
“Còn non - còn nước - còn dài. Còn về - còn nhớ....”. Lời thề ấy vang vọng khắp lưu vực
sông Hương thành giọng hò dân gian; ấy là tấm lòng người dân nơi Châu Hóa xưa mãi mãi
chung tình với quê hương xứ sở.
(Trích “Ai đã đặt tên cho dòng sông”, Hoàng Phủ Ngọc Tường)
Họ và tên: Yên Minh Huy
MHV: MV546
Điểm: 4.5/5.0

BÀI LÀM
Hoàng Phủ Ngọc Tường là một trong số những nhà văn tiêu biểu trưởng thành
trong giai đoạn kháng chiến chống Mỹ. Ông bén duyên với bút ký và là người có những tập
bút ký độc đáo nhất nền văn học nghệ thuật hiện đại Việt Nam . Phong cách của ông là sự
kết hợp giữa chất trí tuệ và trữ tình, giữa nghị luận sắc bén và tư duy đa chiều, tất cả đều
được đúc kết từ vốn hiểu biết sâu rộng về văn hóa, địa lí, lịch sử, triết học của dân tộc.
Không chỉ có vậy, Hoàng Phủ Ngọc Tường còn tạo ấn tượng nơi bạn đọc bởi lối hành văn
hướng nội súc tích, mê đắm và tài hoa. Đoạn trích “Ai đã đặt tên cho dòng sông” là tác
phẩm xuất sắc nhất của ông trích trong tập bút ký cùng tên, được viết tại Huế năm 1981. Bài
bút ký thể hiện ấn tượng vẻ đẹp thơ mộng, đa chiều của dòng sông Hương cũng như từ đó
bộc lộ niềm ngưỡng mộ của nhà văn đối với con người, thiên nhiên xứ Huế. Trong tập bút
ký ấy, nổi bật nhất là hình tượng dòng sông Hương qua đoạn trích: “Hình như trong khoảnh
khắc chùng lại của sông nước ấy…chung tình với quê hương xứ sở”.
Tuy không sinh ra ở Huế nhưng cuộc đời của Hoàng Phủ Ngọc Tường lại gắn chặt
với mảnh đất cố đô thân thương, vì thế mà văn phong và cả cái “tôi” của nhà văn đều là sự
đổ bóng rất độc đáo về phẩm chất, đặc tính và tình cảm của thiên nhiên và con người xứ
Huế. Khi tiếp cận hình tượng sông Hương, Hoàng Phủ Ngọc Tường không khai thác một
cách xuôi chiều, đơn thuần mà đặt sông Hương vào một trường liên tưởng thống nhất độc
đáo: hành trình đi tìm về thành phố tương lai của nó. Ở đoạn văn rời khỏi kinh thành, sông
Hương lại mang một phẩm chất, vẻ đẹp hoàn toàn mới mẻ, thể hiện sâu sắc bút lực tài hoa,
uyên bác của nhà văn Hoàng Phủ Ngọc Tường.
Trong mạch cảm xúc trữ tình đầy bâng khuâng, suy tư của nhà văn, ông đã chùng
lại và cảm nhận dòng sông Hương như một “người tài nữ đánh đàn lúc đêm khuya”. Sự hình
dung độc đáo kết tinh từ tình cảm và niềm rung động mãnh liệt đối với vẻ đẹp thơ mộng, đa
chiều của dòng sông. Phải! Nếu chỉ nói về khả năng tô điểm cho thiên nhiên thì dường như
ta vẫn chưa thể hiểu hết vẻ đẹp của dòng sông, ngay tại chính “mặt hồ tĩnh lặng” ấy là nơi
đã khai sinh ra nền âm nhạc của xứ Huế, là chiếc nôi văn hóa của mảnh đất cố đô nghĩa tình.
Đã có bao lần tác giả thất vọng khi nghe nhạc Huế vào ban ngày hay trong nhà hát, những
nơi rộng lớn, trang nghiêm cũng không thể lột tả hết cái hồn thật chất của bản đàn ca Huế.
Chỉ khi tìm về với dòng sông, lắng nghe âm thanh tiếng đàn du dương cất lên từ khoang
thuyền trộn lẫn cùng với các hợp âm của “tiếng nước rơi bán âm của những mái chèo
khuya”, Hoàng Phủ Ngọc Tường mới có thể cảm nhận được đầy đủ sự trong lành, thanh
khiết của từng giai điệu, tiết tấu mà nó mang lại. Không chỉ là một không gian lý tưởng cho
sự phát triển của nền âm nhạc cung đình, dân ca Huế mà dường như chính dòng sông cũng
có giai điệu, điệu “slow tình cảm mà nó dành riêng cho Huế”. Đó là thứ âm thanh không thể
cảm nhận bằng giác quan, chỉ có thể nghe thấy bằng trái tim, bằng sự cảm nhận tròn vị về
tình cảm mà dòng sông Hương dành riêng cho thành phố Huế thân yêu của nó. Dòng sông
của âm nhạc, dòng sông của những nền văn hóa xứ xở diệu kì, chính nó đã khiến cho những
ai đi qua đây cũng phải đọng lại những nỗi niềm rung cảm mãnh liệt. Chính Nguyễn Du khi
“lênh đênh trên một phiến trăng sầu” cũng đã chiêm nghiệm, thổn thức, từ đó mà bản đàn ca
Huế đi suốt cuộc đời Kiều. Nguồn cảm hứng bất tận khúc xạ qua tài năng và tâm hồn
Nguyễn Du đã nâng giá trị dòng sông Hương thành “tứ đại cảnh”:
“Trong tiếng hạc bay qua
Đục như tiếng suối xa nửa vời”
(Truyện Kiều - Nguyễn Du)
Có thể thấy vẻ đẹp của sông Hương còn được thể hiện qua chiều sâu văn hóa mà nó
mang lại, đặc biệt đối với nền âm nhạc xứ Huế, sông Hương đóng vai trò như một người mẹ
sinh thành và phát triển đứa con tinh thần mà mình tạo ra, chỉ những giai điệu cất lên từ
dòng sông mới gợi cho ta rõ nét cái hồn đặc trưng của xứ Huế mộng mơ. Để lột tả hết
những điều ấy, Hoàng Phủ Ngọc Tường đã vận dụng sáng tạo ngôn ngữ đa nghĩa, câu văn
với nhịp điệu thư thái, êm dịu phù hợp với xúc cảm trữ tình, sâu lắng. Thủ pháp liệt kê và
các hình ảnh so sánh, liên tưởng độc đáo cũng góp phần tạo ấn tượng cho vẻ đẹp đa dạng
của dòng sông.
Rạo rực là thế, say đắm là thế, nhưng không có cuộc hội ngộ nào diễn ra mãi mãi.
Sông Hương cũng phải tuân theo quy luật của tạo hóa, phải rời xa kinh thành và kết thúc
chuyến hành trình gian truân của mình ở cửa biển Thuận An. Trong nhãn quan đầy tinh tế,
lắng đọng của Hoàng Phủ Ngọc Tường, sông Hương khi rời khỏi kinh thành mang phẩm
chất, tính cách thật giống với một người tình dịu dàng và chung thủy. Sông Hương “chếch
về hướng chính bắc, ôm lấy đảo Cồn Hến mơ màng trong sương khói…lưu luyến ra đi giữa
màu xanh biếc của tre trúc và những hàng cau vùng ngoại ô Vĩ Dạ”. Câu văn với giọng điệu
trữ tình, tràn đầy sức sống với sắc xanh mơn mởn của tre trúc, hàng cau thôn Vĩ, gợi nhớ
cho người đọc những áng thơ lắng đọng của thi sĩ đoản mệnh họ Hàn:
“Sao anh không về chơi thôn Vĩ?
Nhìn nắng hàng cau nắng mới lên
Vườn ai mướt quá xanh như ngọc”.
(Đây thôn Vĩ Dạ)
Phải chăng nếu như liên kết với ý thơ của Hàn Mặc Tử, người đọc còn có thể nhận
ra rằng ngoài cái sắc xanh biếc thường ngày, sông Hương còn được điểm tô thêm một màu
nắng rực rỡ, huyền ảo xuyên qua các tán lá hàng cau. Trong cảm nhận của Hoàng Phủ Ngọc
Tường, sông Hương như một người con gái có cảm xúc, có hành động cụ thể: “Ôm”, “lưu
luyến”, “sực nhớ” khiến cho vẻ đẹp mà nó mang lại có hồn, có tình hơn. Cuộc chia tay
không nhuốm màu đau thương, mất mát mà ngược lại, sông Hương còn muốn tận hiến hết
tất cả những nét quyến rũ còn lại của nó cho người tình nhân xứ sở.
Lưu luyến ra đi để rồi sông Hương “sực nhớ ra còn điều gì chưa kịp nói, nó đột
ngột đổi dòng, rẽ ngoặt sang hướng đông tây để gặp lại thành phố ở thị trấn Bao Vinh xưa
cổ”. Đối với Huế, đó là địa điểm chia tay “dõi xa mười dặm trường đình”, là nơi cách xa
cách nhau không hẹn ngày tái ngộ, vì thế cho nên cảm xúc câu văn trở nên chùn lại, bịn rịn,
đầy lưu luyến như chàng Kim Trọng vẫn mãi ở lại đợi chờ nàng Kiều. Đối với sông Hương,
cái “rẽ ngoặt” ấy đột ngột biết bao, có một điều gì đó rất lạ với tự nhiên nhưng lại “giống
với con người”. Có lẽ những cảm hứng đầu tiên của bài tùy bút đã cho thấy nhà văn không
tiếp cận dòng sông theo quy luật địa chất, tự nhiên mà lý giải những nghịch lý của nó bằng
cảm quan của trái tim. Tình yêu sâu nặng mà dòng sông dành cho mảnh đất cố đô được tác
giả đặt trong một phép liên tưởng đặc biệt với Thúy Kiều và Kim Trọng. Sông Hương “chí
tình” trở lại như nàng Kiều vượt qua mọi thăng trầm của mấy mươi năm đoạn trường để cất
lên lời thề nguyền khẳng định tấm lòng sắt son bất biến: “Còn non, còn nước, còn dài…Còn
về, còn nhớ”. Lời thề ấy vang vọng khắp lưu vực sông “thành giọng hò dân gian”, và nó đã
trở thành tình cảm mà người dân Châu Hóa xưa chung tình dành riêng cho mảnh đất cố đô.
Cuộc chia tay của dòng sông thật người, rất người, có địa điểm chia tay, có lời thề hẹn ước,
có bịn rịn lưu luyến, tất cả đều bắt nguồn từ tình cảm sâu nặng mà nó dành cho thành phố
thân yêu, mà như Hoàng Phủ Ngọc Tường đã nhân cách hóa gọi đó là “nỗi vương vấn, cả
một chút lẳng lơ kín đáo của tình yêu”. Trong cái tôi mê đắm và tài hoa của người nghệ sĩ,
sông Hương kết thúc cuộc hành trình mê say của mình bằng một sự cố ý táo bạo và mang
theo mối lương duyên suốt đời suốt kiếp để hòa vào biển cả. Ngôn ngữ của nhà văn hàm
súc, cô đọng mà tinh tế, giàu chất thơ. Âm điệu câu văn say mê, dịu nhẹ phù hợp với mạch
cảm xúc trữ tình. Lối liên tưởng độc đáo về mảnh tình thiên cổ Kim Kiều như khắc họa
thêm cho dòng sông sự cổ kính, thi vị. Cuộc tình mà sông Hương dành riêng cho Huế thật
đẹp, giống như tấm lòng của người dân nơi đây luôn một lòng một dạ thủy chung với mảnh
đất xứ sở.
Bút ký của Hoàng Phủ Ngọc Tường là sự kết hợp độc đáo của cái “tôi” tài hoa, mê
đắm cùng với lòng am hiểu sâu rộng về vốn tri thức của dân tộc. Lựa chọn thể loại “phi hư
cấu” là một sự thách thức lớn đối với mỗi nhà văn đam mê nó, không cốt truyện, không tình
tiết, không cao trào. Nhưng kỳ lạ thay khi đọc văn của Hoàng Phủ Ngọc Tường, người ta
ngỡ như đang đọc thơ, đọc một bản nhạc với giai điệu trữ tình. Ấy là chất thơ của đoạn văn
được thể hiện qua ngôn ngữ chắt lọc, cô đọng, súc tích; Câu văn nhạc điệu nhiều thanh
bằng, thanh trắc đan xen để tạo nhịp nhấn hài hòa; Hình ảnh miêu tả, so sánh giàu chất thơ;
Đặc biệt là nét hình dung độc đáo về truyện tình thiên cổ Thúy Kiều, Kim Trọng. Tất cả đã
góp phần tạo nên thành công cho bút kí “ai đã đặt tên cho dòng sông”.
Đề bài: Cho đoạn trích sau:
“Phải nhiều thế kỉ qua đi, người tình mong đợi mới đến đánh thức người gái đẹp nằm ngủ
mơ màng giữa cánh đồng Châu Hóa đầy hoa dại. Nhưng ngay từ đầu vừa ra khỏi vùng núi,
sông Hương đã chuyển dòng một cách liên tục, vòng giữa khúc quanh đột ngột, uốn mình
theo những đường cong thật mềm, như một cuộc tìm kiếm có ý thức để đi tới nơi gặp thành
phố tương lai của nó. Từ ngã ba Tuần, sông Hương theo hướng nam bắc qua điện Hòn
Chén; vấp Ngọc Trản, nó chuyển hướng sang tây bắc, vòng qua thềm đất bãi Nguyệt Biều,
Lương Quán rồi đột ngột vẽ một hình cung thật tròn về hướng đông bắc, ôm lấy chân đồi
Thiên Mụ, xuôi dần về Huế. Từ Tuần về đây, sông Hương vẫn đi trong dư vang của Trường
Sơn, vượt qua một lòng vực sâu dưới chân núi Ngọc Trản để sắc nước trở nên xanh thẳm, và
từ đó nó trôi đi giữa hai dãy đồi sừng sững như thành quách, với những điểm cao đột ngột
như Vọng Cảnh, Tam Thai, Lựu Bảo mà từ đó, người ta luôn luôn nhìn thấy dòng sông
mềm như tấm lụa, với những chiếc thuyền xuôi ngược chỉ bé vừa bằng con thoi. Những
ngọn đồi này tạo nên những mảng phản quang nhiều màu sắc trên nền trời tây nam của
thành phố, “sớm xanh, trưa vàng, chiều tím” như người Huế thường miêu tả. Giữa đám
quần sơn lô xô ấy, là giấc ngủ nghìn năm của những vua chúa được phong kín trong lòng
những rừng thông u tịch, và niềm kiêu hãnh âm u của những lăng tẩm đồ sộ tỏa lan khắp cả
một vùng thượng lưu “Bốn bề núi phủ mây phong – Mảnh trăng thiên cổ bóng tùng Vạn
Niên”. Đó là vẻ đẹp trầm mặc nhất của sông Hương, như triết lí, như cổ thi, kéo dài mãi đến
lúc mặt nước phẳng lặng của nó gặp tiếng chuông chùa Thiên Mụ ngân nga tận bờ bên kia,
giữa những xóm làng trung du bát ngát tiếng gà...”
(Trích Ai đã đặt tên cho dòng sông - Hoàng Phủ Ngọc Tường)
Phân tích hình tượng sông Hương trong đoạn trích trên, từ đó nhận xét về tính trữ
tình của bút kí Hoàng Phủ Ngọc Tường.
(Đề minh họa của Bộ Giáo dục và Đào tạo năm 2021)
Họ và tên: Ngọc Anh
MHV: K23090
Điểm: 4.75/5.0

BÀI LÀM
“Sao thèm hát một điều gì xưa lắm
Thèm đọc một đoạn văn Hoàng Phủ Ngọc Tường
Có ai đó rót chiều vào chén ngọc
Huế dịu dàng xây bằng khói và sương”
Không chỉ có nhà thơ Nguyễn Trọng Tạo từng chia sẻ sự say mê với trang văn Hoàng
Phủ Ngọc Tường trong “Vọng Huế”, mà Nguyễn Tuân cũng dành lời ca ngợi: “Ký của
Hoàng Phủ Ngọc Tường có rất nhiều ánh lửa”. Ánh lửa ở đây có lẽ chính là cái ấm áp trong
trái tim, là nhiệt huyết và nồng nàn nơi ngòi bút hòa quyện với tình yêu mê đắm dành cho
thiên nhiên, đất trời. Đặc biệt, với “Ai đã đặt tên cho dòng sông”, tình cảm ấy của người
nghệ sĩ càng được bộc lộ sâu sắc hơn bao giờ hết. Có lẽ bởi cố đô Huế và dòng sông Hương
êm ả đã trở thành điểm nhấn khó quên qua ngòi bút của Hoàng Phủ Ngọc Tường. Ông đã vẽ
nên dòng Hương giang độc lạ nơi thượng nguồn với sự mãnh liệt, phóng khoáng nhưng khi
chảy về đồng bằng và ngoại vi thành phố Huế lại trở nên e ấp, lãng mạn như gặp “người
tình tương lai”. Từ đó, ta thấy được tính trữ tình trong bút kí của Hoàng Phủ Ngọc Tường.
Hoàng Phủ Ngọc Tường là một người tri thức yêu nước với vốn am hiểu sâu rộng
trên nhiều lĩnh vực cùng một trái tim nhạy cảm, tinh tế. Dù sinh ra ở Quảng Trị, nhưng ông
có khoảng thời gian dài sinh sống, học tập và trưởng thành ở cố đô Huế- thành phố thơ
mộng vẫn lưu giữ bao vẻ đẹp cổ xưa. Chính những năm tháng ấy đã khiến trái tim người
nghệ sĩ gắn bó với đất và người nơi đây để rồi hướng ngòi bút của mình về cội nguồn văn
hóa cùng linh hồn xứ sở trong các tác phẩm bút kí. Bàn về phong cách nghệ thuật của
Hoàng Phủ Ngọc Tường, nhà phê bình văn học Trần Đình Sử chia sẻ: “Bút ký của Hoàng
Phủ Ngọc Tường là một cuộc đi tìm về cội nguồn, một sự phát hiện bề dày văn hóa và lịch
sử. Văn anh giàu những tư liệu lấy từ sách tri thức khoa học và huyền thoại, ký ức cá nhân
lóe lên những ánh sáng bất ngờ. Cái mới của Hoàng Phủ Ngọc Tường là khám phá bình
diện văn hóa với tư liệu lịch sử phong phú và một tâm hồn Huế nồng nàn.” Năm 1981,
Hoàng Phủ Ngọc Tường đã viết “Ai đã đặt tên cho dòng sông?”- một trong những tác phẩm
thành công nhất trong sự nghiệp cầm bút của ông. Ngay từ nhan đề giàu chất thơ, tác giả đã
gợi lên trong bạn đọc nhiều suy tư, trăn trở, đồng thời bộc lộ sự quan tâm và thái độ trân
trọng dành cho dòng sông mang cái tên thơ mộng như một người con gái xứ Huế.
Nhắc đến sông Hương, người ta nghĩ ngay đến con sông của thi ca, nhạc, họa. Và
chính dòng sông này đã chở biết bao hứng khởi từ những tầm hồn lãng mạn. Đến với trang
văn của Hoàng Phủ Ngọc Tường, ta lại thấy được “cuộc hành trình gian truân” mà dòng
sông đã đi qua để được gặp “người tình” của mình. Ở thượng nguồn, sông Hương là bản
trường ca của rừng già nhưng khi ở ngoại vi thành phố Huế, trên đường tìm về thành phố
tương lai của mình thì sông Hương đã biến hóa thành người con gái đẹp của cánh đồng
Châu Hóa đầy hoa dại, mang vẻ đẹp trầm mặc như triết lí, như cổ thi. Lai lịch của sông
Hương cũng rất thú vị. Được hợp thành từ hai con sông Tả Trạch và Hữu Trạch. Sông
Hương như một dải lụa mềm mại, dài miên man, uốn lượn chảy qua bao cảnh đẹp xứ kinh
kỳ mộng mơ, từ khu vườn Vĩ Dạ với những thảm cỏ xanh tươi, qua ngôi chùa Thiên Mụ cổ
kính văng vẳng tiếng chuông ngân nga, rồi rẽ vào sông Bạch Yến để lãng đãng phiêu du
cùng mây gió. Trên hành trình ngao du ấy, dòng sông quyện mình vào những mùi vị và
hương thơm của muôn vàn cỏ cây hoa lá và thảo mộc nhiệt đới, tạo nên mùi thơm ngát đặc
trưng cho dòng sông. Qua đó, cũng phần nào lý giải được cho cái tên đầy mềm mại, nữ tính-
“sông Hương”
Từ góc nhìn nơi đại ngàn hùng vĩ, tác giả đã thu ánh mắt quan sát của mình để khắc
họa hình ảnh sông Hương khi ở đồng bằng và ngoại vi thành phố. Dưới ngòi bút tài hoa của
nhà văn, sông Hương như “người con gái nằm ngủ mơ màng”. Cách vi von này khiến ta nhớ
đến câu chuyện cổ tích “Công chúa ngủ trong rừng”, một câu chuyện xưa mà bà thường hay
kể về một người con gái đẹp tuyệt trần đang chìm đắm trong giấc ngủ và chờ đợi một tình
yêu đích thực, một nụ hôn nồng thắm từ hoàng tử mà mình mong đợi đến đánh thức. Với
sông Hương thì “người tình mong đợi” ấy chính là xứ Huế mộng mơ. Một thành phố được
sinh ra bởi bàn tay của tạo hóa nay đã được Hoàng Phủ Ngọc Tường khoác chiếc áo của
một chàng hoàng tử với bến đỗ bình yên, hạnh phúc cho nàng công chúa duyên dáng, e thẹn
mang tên Hương giang. Từng cách gọi “người con gái”, “người mẹ phù sa” với lối so sánh
độc đáo đã bộc lộ rõ nét tài hoa của cây bút đa tài. Ông không xem dòng sông là một vật vô
tri vô giác mà nó đã trở thành một sinh thể lôi cuốn, một người con gái xinh đẹp, rực rỡ.
Trên thủy trình của sông Hương, hoa thơm đua nhau khoe sắc thắm. Tựa như giữa hành
trình đi tìm tình yêu, cánh rừng, hàng cây, hoa thơm cỏ ngọt đều chuyển mình đưa đón,
ngắm nhìn dòng sông bằng tất cả sự ngưỡng mộ và yêu mến:
“Mỗi lần anh đến Huế thơ
Gặp cô gái đẹp say mơ giấc nồng
Sông Hương quyến rũ lạ lùng
Em choàng tỉnh giấc ngượng ngùng nhìn tôi”
(“Huế thương”- Vũ Dung)
Ngân nga những cảm xúc theo dòng bút kí, ta tưởng như nhìn thấy một Hương giang
nồng nàn, ngượng ngùng nhìn độc giả và giấu đi một trái tim đang tha thiết tình yêu xứ Huế.
“Ngay từ đầu vừa ra khỏi vùng núi, sông Hương đã chuyển dòng một cách liên tục, vòng
giữa khúc quanh đột ngột, uốn mình theo những đường cong thật mềm, như một cuộc tìm
kiếm có ý thức để đi tới gặp thành phố tương lai của nó”. Một câu văn dài được tạo nên bởi
nhiều vế câu nhỏ đã cho thấy sự vận động linh hoạt, uyển chuyển và chủ động của Hương
giang trên hành trình tìm về với người thương của mình. Hoàng Phủ Ngọc Tường đã gọi đó
là “một cuộc tìm kiếm có ý thức” khi sông Hương đã xác định được đích đến hạnh phúc cho
riêng mình. Sự chủ động tìm đến với người tình xứ Huế của người con gái đẹp Hương giang
khiến ta nhớ đến sự chủ động tìm kiếm, vượt qua mọi rào cản và định kiến cổ hủ của người
con gái khi yêu trong trang thơ của Xuân Quỳnh:
“Sông không hiểu nổi mình
Sóng tìm ra tận bể”
(“Sóng”- Xuân Quỳnh)
Lâu nay ta vẫn tưởng rằng “em” bị áp đặt bởi tư tưởng cha mẹ đặt đâu con ngồi đấy,
hay sóng và sông Hương cũng bị thiên nhiên, tạo hóa điều khiển, kìm hãm và chế ngự dòng
chảy, đặc tính của mình thì dưới con mắt của những người nghệ sĩ lắm tình yêu với cuộc
đời, tất cả những đặc tính và suy nghĩ của thiên nhiên đều được chính nó quyết định, lựa
chọn với chủ ý riêng. Cũng như người con gái xinh đẹp Hương giang với “những đường con
thật mềm” đã nguyện dành trọn nỗi nhớ thương và sự thủy cho cho thành phố tương lai của
mình. Không “xăm xăm băng lối vườn khuya một mình”, nàng Hương giang chọn một cuộc
tìm kiếm nhẹ nhàng nhưng vô cùng bản lĩnh và khéo léo.
Bằng sự am hiểu sâu sắc về thủy trình của Hương giang, nhà văn đã tái hiện sống
động đường đi mà “người gái đẹp” phải vượt qua để đến với người yêu thương. Cuộc hành
trình này được khắc họa qua phép liệt kê các địa danh mang đến cho người đọc hình dung
về vẻ đẹp của danh lam thắng cảnh cố đô Huế đã đi vào dư chí sông Hương bắt đầu “từ ngã
ba Tuần, theo hướng nam bắc qua điện Hòn Chén; vấp Ngọc Trản, nó chuyển hướng sang
tây bắc, vòng qua thềm đất bãi Nguyệt Biều, Lương Quán rồi đột ngột vẽ một hình cung
thật tròn về phía đông bắc, ôm lấy chân đồi Thiên Mụ, xuôi dần về Huế”. Đây là cuộc hành
trình dài, quanh co, gấp khúc kết hợp với các từ ngữ được mềm mại hóa để tái hiện chuyển
động cho ta thấy được sự uyển chuyển, nhẹ nhàng có phần chủ động của dòng Hương giang
trên cuộc hành trình tìm về bến đỗ thân thương. Với cách thể hiện sống động, nhà văn ghi
lại dòng chảy của sông Hương như cuộn phim tư liệu sống động, thể hiện cách nhìn, sự
quan sát tỉ mỉ của nhà văn trong thời gian gắn bó với khúc sông tha thiết này.
Sông Hương tiếp tục cuộc hành trình “từ Tuần về đây, sông Hương vẫn đi trong dư
vang của Trường Sơn, vượt qua một lòng vực sâu dưới chân núi Ngọc Trản để sắc nước trở
nên xanh thẳm”. Ở đây, sông Hương như đang tự làm mới mình trong bể lọc lớn, như trút
hết những u uất của thời gian mà khoác lên mình tấm áo choàng mềm mại. Thế nhưng, dòng
sông ấy vẫn luôn mang trong mình câu chuyện của rừng già, tinh thần mạnh mẽ của dãy núi
Trường Sơn. Bên trong nó vẫn luôn mang theo nội lực tiềm tàng mãnh liệt nơi núi rừng.
Nhưng khi về đến Vọng Cảnh, Tam Thai, Lựu Bảo, sông Hương như kiềm chế sức mạnh
của mình, kiểm soát lưu tốc dòng chảy, nhẹ nhàng thả lỏng “trôi đi giữa hai dãy đồi sừng
sững”. Từ đó, người ta luôn nhìn thấy “dòng sông mềm như tấm lụa”, như thể nàng Hương
giang đã thay một tấm áo mới, trong cả sắc nước xanh thẳm hiền hòa và trong chuyển động
nơi dòng chảy của nó. Sự dịu dàng, duyên dáng, nhẹ nhàng ấy như một người thiếu nữ đang
xúng xính chuẩn bị gặp người yêu. Sự thay đổi làm mới mình của nàng Hương giang để
được gặp chàng hoàng tử Huế của mình phải chăng là sự hy sinh của một tình yêu đằm
thắm, thủy chung, chấp nhận thay đổi bản thân, dám bước ra khỏi giới hạn của mình để hòa
hợp với người tình mong đợi bấy lâu nay?
Qua lăng kính của Hoàng Phủ Ngọc Tường, hành trình tìm về tình yêu của mình,
nàng Hương Giang đã góp mình vào vỉ điện của cố đô Huế một cách thật dịu dàng tinh tế.
Khi uốn mình qua hai dãy đối xứng như thành quách, những ngọn đồi này tạo nên những
mảng vậy phản quang nhiều màu sắc trên nền trời tây nam thành phố màu, nước biển biến
ảo “Sớm xanh, trưa vàng, chiều tím” phía sông Hương như được dịp khoác lên bộ xiêm váy
lộng lẫy, xinh đẹp và rực rỡ. Ta nhớ đến một sông Đà, mỗi mùa mang một nét đẹp riêng,
say đắm và tình tứ. Màu sắc dòng sông thay đổi theo mùa “Mùa xuân xanh màu ngọc bích”,
khác với sông Gâm, sông Lô “màu xanh canh hến”. Mùa thu nước sông “lừ chín đỏ như da
mặt một người bầm đi vì rượu bữa” Thế nhưng cái màu tím trong chữ “chiều tím” của nhà
văn xứ Huế mộng mơ ấy chính là màu sắc đặc trưng của không gian Huế mà chẳng nơi nào
có được. Màu tím ấy phải chăng là màu tím của:
“Mọc giữa dòng sông xanh
Một bông hoa tím biếc”
(“Mùa xuân nho nhỏ”-Thanh Hải)
hay là màu hoa lục bình trong thơ của Lê Anh Xuân:
“ Con sông nhỏ tuổi thơ ta tắm
Vẫn còn đây nước chẳng đổi dòng
Hoa lục bình tím cả bờ sông”
Những âm hưởng và màu sắc của từng con sông đã neo đậu và lòng người đọc một
thứ rực rỡ kỳ lạ. Sự biến đổi diệu kỳ của dòng sông tựa như cuộc sống của con người, ta hòa
mình trong những gam màu nóng, lạnh của đời sống, ta đốt cháy mình trong cuộc tìm kiếm
ước mơ tình yêu và hạnh phúc. Rõ ràng chẳng ai chọn sống đơn điệu và tẻ nhạt, ta đều
mang một màu sắc riêng, đó chính là ta tạo ra con người giống như cửa sổ kính nhuộm màu.
Họ bừng sáng và lấp lánh khi trời nắng và sáng sủa nhưng khi mặt trời lặn vẻ đẹp thực sự
của họ chỉ lộ ra nếu có ánh sáng từ bên trong. Nàng Hương giang xinh đẹp ấy đã được nhà
văn Hoàng Phủ Ngọc Tường ưu ái khi nàng có cả vẻ đẹp ở ngoại hình và tính cách, tâm hồn
đẹp đẽ. Ông đặc tả về nàng Hương khi nàng trầm mặc “như triết lý, như cổ thi” lúc đi qua
những đồi thông u tịch nơi phong kín giấc ngủ ngàn năm của những vị vua chúa và niềm
kiêu hãnh âm u của những lăng tẩm đồ sộ, tỏa lan khắp một vùng thượng lưu,mới chính là
vẻ đẹp tính cách đáng trân trọng của nàng thơ này. Đó là vẻ đẹp vừa tri thức, giàu trải
nghiệm lại vừa giàu cảm xúc, đậm chất thơ. Có lẽ việc tác giả đề cập đến các vị vua chúa
nhằm thể hiện lòng biết ơn và sự tôn kính tới quá khứ, tới những vị vua có công với đất
nước và những vĩ nhân đã bảo vệ, gìn giữ xứ Huế mộng mơ. Từ đó, nhà văn muốn nhắc nhở
chúng ta phải luôn biết ơn và lưu truyền nét đẹp này.
Hành trình để được gặp chàng trai dấu yêu của nàng Hương giang đã đến hồi kết khi
nó gặp tiếng chuông chùa Thiên Mụ ngân nga vang lên tận bờ bên kia giữa những xóm làng
trung du bát ngát tiếng gà. Tiếng chuông đó như sự báo hiệu rằng dòng sông sắp được thành
phố của mình, tâm trạng Hương giang như phấn khởi và háo hức hẳn lên bởi khoảnh khắc
nó chờ đợi đã gần tới. Tâm trạng lúc này của nàng dường như chỉ có nghĩ đến việc được gặp
người tình Huế, tất cả các giác quan chi tập trung để lắng nghe tiếng chuông báo hiệu ấy dù
nó ở tận bên kia bờ và bị hòa lẫn bởi những tiếng gà gáy khắp trời bao la. Cả cuộc hành
trình gian truân nơi thượng nguồn đã lùi lại phía sau, những chặng đường dài qua biết bao
địa danh đều đã vượt qua hết, chỉ còn lại một trái tim bồi hồi, háo hức, chuẩn bị được gặp
Huế.
Nhà phê bình Hoàng Cát từng nhận xét: “Hoàng Phủ Ngọc Tường có một phong cách
viết bút kí văn học của riêng mình. Thế mạnh của ông là tri thức văn học, triết học, lịch sử,
địa lí sâu và rộng, gần như đụng đến vấn đề gì, ở thời điểm nào và ở đâu thì ông vẫn có thể
tung hoành thoải mái ngòi bút được”. Phong cách viết bút kí ấy chính là tính trữ tình của
ngòi bút tác giả. Trước hết, trữ tình là nội dung phản ánh hiện thực bằng cách biểu hiện ý
nghĩa, cảm xúc, tâm trạng riêng của con người nghệ sĩ trước cuộc sống. “Tính trữ tình”
được biểu hiện ở tâm trạng, cảm nhận riêng của tác giả trước hiện thực khách quan. Ở tác
phẩm “Ai đã đặt tên cho dòng sông”, tính trữ tình thể hiện ở cái “tôi” mê đắm tài hoa. Ông
đã không miêu tả sông Hương như một dòng chảy thông thường, tuân theo góc độ địa lí mà
ông nhìn nó như hành trình trưởng thành của người con gái từ “cô gái Di-gan man dại và
khoáng khoáng đến người mẹ phù sa của một vùng văn hóa xứ sở”. Và đó còn là hành trình
đi tìm tình yêu đích thực của nàng Hương, tác giả không chỉ đặt Hương giang trong dòng
chảy văn hóa, lịch sử của Huế, mỗi lần sông Hương uốn mình, chuyển dòng là một lần sông
Hương mang vẻ đẹp riêng. Hơn nữa, đó còn là cái “tôi” lịch lãm, uyên bác. Nhà văn đã
khám phá những đặc điểm độc đáo của sông Hương trên phương diện địa lí, văn hóa, hội
họa và thi ca…Tất cả những điều đó đều là minh chứng cho niềm tự hào, một tình yêu quê
hương đất nước nồng nàn, tha thiết, sâu lắng.
Pôlevoi từng nói: “Kí có địa chỉ chính xác của nó”. Thể loại bút kí mà Hoàng Phủ
Ngọc Tường đã vận dụng để khắc họa dòng sông Hương đã cho thấy được tính chân thực,
sinh động và tài năng quan sát, cảm xúc của nhà văn kết hợp với ngôn ngữ phong phú, giàu
hình ảnh, chất thơ, sử dụng nhiều phép tu từ như so sánh, nhân hóa, ẩn dụ…Ta còn thấy
được chất trí tuệ và chất trữ tình hài hòa thống nhất, cảm xúc dạt dào, tha thiết đã bộc lộ tình
yêu của tác giả với non sông, đất nước, cụ thể hơn là với xứ Huế thân hương. Ông đã vẽ lại
bức tranh nàng Hương giang kiều diễm của miền đất cố đô, một người con gái mang linh
hồn xứ sở sẽ còn mãi với thời gian.
Gấp lại trang văn “Ai đã đặt tên cho dòng sông?”, dường như trong lòng mỗi người
đọc vẫn còn vương vấn hình bóng dòng nước mênh mang trầm mặc nơi miền đất cố đô xinh
đẹp. Hoàng Phủ Ngọc Tường đã dùng ngòi bút phác họa nên hình dáng một dòng Hương
giang trữ tình, thể hiện trọn vẹn khả năng quan sát đa chiều của mình trên từng dòng chảy,
chuyển động. Bao nhiêu năm đã trôi qua, thiên bút kí vẫn ở đó, vẹn nguyên cả về giá trị tư
tưởng, tinh thần, là bản ca đẹp về dải đất Huế mộng mơ:
“Huế vẫn thế, bao đời nay vẫn thế
Hương giang trôi, còn trôi mãi ngàn năm”

TÁC PHẨM “VỢ CHỒNG A PHỦ”


Đề bài: Đọc đoạn trích sau:
“Ðám than đã vạc hẳn lửa. Mị không thổi cũng không đứng lên. Mị nhớ lại đời
mình. Mị lại tưởng tượng như có thể một lúc nào, biết đâu A Phủ chẳng đã trốn
được rồi, lúc đó bố con thống lý sẽ đổ là Mị đã cởi trói cho nó, Mị liền phải trói
thay vào đấy. Mị chết trên cái cọc ấy. Nghĩ thế, nhưng làm sao Mị cũng không
thấy sợ...
Trong nhà tối bưng, Mị rón rén bước lại, A Phủ vẫn nhắm mắt. Nhưng Mị
tưởng như A Phủ đương biết có người bước lại... Mị rút con dao nhỏ cắt lúa, cắt
nút dây mây. A Phủ thở phè từng hơi như rắn thở, không biết mê hay tỉnh. Lần
lần, đến lúc gỡ được hết dây trói ở người A Phủ thì Mị cũng hốt hoảng. Mị chỉ
thì thào được một tiếng "Ði đi..." rồi Mị nghẹn lại. A Phủ khuỵu xuống, không
bước nổi. Nhưng trước cái chết có thể đến nơi ngay, A Phủ lại quật sức vung
lên, chạy.
Mị đứng lặng trong bóng tối.
Trời tối lắm. Mị vẫn băng đi. Mị đuổi kịp A Phủ, đã lăn, chạy, chạy xuống tới
lưng dốc.
Mị nói, thở trong hơi gió thốc lạnh buốt:
- A Phủ cho tôi đi.
A Phủ chưa kịp nói, Mị lại nói:
- Ở đây thì chết mất.”
(Trích “Vợ chồng A Phủ” – Tô Hoài)
Phân tích diễn biến tâm trạng nhân vật Mị trong trích đoạn trên, từ đó nhận xét về sự
hồi sinh của Mị.
Họ và tên: Đoàn Thị Linh Tâm
MHV: MV035
Điểm: 4.5/5.0

BÀI LÀM SỐ 1
Bêlinxki đã từng nói rằng: “Nghệ thuật sẽ chết nếu nó miêu tả cuộc sống chỉ để miêu
tả cuộc sống chỉ để miêu tả”. Thật vậy, suy cho cùng thì bất cứ tác phẩm nghệ thuật nào
cũng sẽ hướng tới một đối tượng duy nhất, đó chính là con người. Phải chăng vì lẽ ấy nên
khi viết về đề tài này, các nhà văn luôn luôn phải lắng nghe, nỗ lực hiểu được cái thế giới
nội tâm đầy phức tạp của nhân vật chứ không chỉ đơn giản là khắc họa hoàn cảnh bên ngoài.
Nếu như Nam Cao khiến chúng ta đau đớn, xót xa trước bi kịch thảm khốc của Chí Phèo,
Thạch Lam thủ thi cho chúng ta nghe về mong muốn thoát ra khỏi vũng lầy buồn tẻ, nhàm
chán của những con người nơi phố huyện thì Tô Hoài lại mở ra trước mắt người đọc về cuộc
đời của cô gái mang trong mình thân phận của một “nàng dâu gạt nợ” với “Vợ chồng A
Phủ”, có lẽ mỗi người chúng ta đều có ấn tượng sâu sắc về quá trình hồi sinh của nhân vật
Mị, nhưng đỉnh cao nhất thì chắc phải là đoạn Mị quyết định bỏ trốn cùng với A Phủ. Tô
Hoài thật sự đã tạo ra một tác phẩm như thế, chứng minh cho độc giả thấy rằng lòng khát
sống của con người chỉ có thể tiềm ẩn đi chứ không thể nào biến mất.
Với hơn một trăm năm mươi đầu sách ở các thể loại khác nhau từ tiểu thuyết, truyện
ngắn, tiểu luận cho tới ký, không lạ khi Tô Hoài được mệnh danh là “hạt ngọc quý” của
giới văn chương, là “cây đại thụ” của nền văn học. Dường như Tô Hoài được sinh ra với sứ
mệnh của người cầm bút. Ông đã dành cả đời mình để cần mẫn đi và viết “sống đến đâu,
viết đến đó”. Chính ông từng chia sẻ rằng: “Viết văn quan trọng nhất là chi tiết, mà chi tiết
thì không thể bịa ra được, phải chịu khó quan sát, ghi chép, đọc và tiếp xúc càng nhiều
càng tốt”. Văn chương Tô Hoài là sự cân bằng giữa cảm hứng và kỉ luật, là sự phối hợp
nhuần nhuyễn giữa cảm xúc và thăng hoa. Hơn tất cả, đó còn là sự chân thực, bình dị hiện
lên trong từng câu từng chữ. Vào năm 1952, Tô Hoài có cơ hội cùng bộ đội giải phóng lên
Tây Bắc. Chính chuyến đi này đã giúp ông hiểu thêm về sự hùng vĩ của thiên nhiên cũng
như vẻ đẹp tâm hồn của người dân miền núi, từ đó thôi thúc ông viết nên tập “Truyện Tây
Bắc”. “Vợ chồng A Phủ” chính là tác phẩm đặc sắc nhất, tiêu biểu cho ngòi bút Tô Hoài,
vừa phản ánh đời sống cơ cực của người dân dưới ách thống trị phong kiến, vừa ca ngợi
khát khao tự do trong tâm hồn họ.
Đó là câu chuyện về một cô gái bất hạnh khi phải về làm dâu nhà quan lại. Nhìn Mị
lầm lì, lúc nào cũng “lùi lũi như con rùa nuôi trong xó cửa”, chẳng ai nghĩ rằng trước đây,
Mị cũng từng đẹp như một bông hoa rừng. Mị có tài năng, có nhan sắc, “thổi lá cũng hay
như thổi sáo”, biết bao nhiêu người con trai vì mê đắm mà ngày đêm thổi sáo đi theo Mị.
Không những thế, Mị còn là một cô gái giàu lòng hiếu thảo, chăm chỉ làm lụng và hơn hết,
cô mang trong mình một tâm hồn khao khát sự sống, khao khát tình yêu mãnh liệt. Tưởng
chừng với những vẻ đẹp đó Mị sẽ có được cuộc sống mà cô hằng mong ước. Thế nhưng, chỉ
vì món nợ truyền kiếp, món nợ từ hồi cha mẹ Mị lấy nhau mà Mị phải chấp nhận trở thành
một “nàng dâu gạt nợ”. Ôi, chúng nó lừa gạt, chúng nó bắt cóc cô về một cách trắng trợn.
Sau nhiều tháng đầu, Mị không tài nào chịu đựng nổi nữa, Mị bỏ về nhà, đem theo nắm lá
ngón hái được trong rừng, quyết định tự tử. Nhưng trớ trêu thay, lòng hiếu thảo không cho
phép Mị chết đi, sợi dây gắn kết Mị với cuộc đời đã không còn thì Mị cũng chẳng nghĩ tới
việc tự tử được nữa. Cứ thế, cứ thế, cuộc đời tăm tối và luẩn quẩn đã tàn nhẫn cướp đi tất cả
những gì tươi đẹp nhất, đẹp đẽ nhất bên trong tâm hồn Mị. Đêm tình mùa xuân năm trước,
đã có những phút giây khát vọng sống trong Mị tỉnh giấc nhưng rồi cũng lại tàn dần đi. Và
thế là Mị lại quay về vị trí cũ. Bấy giờ đã là mùa đông, Mị phải sưởi lửa, hơ tay mỗi đêm
mấy bận như thế, vừa là để giữ ấm cơ thể, vừa là để giữ ấm tâm hồn. Thế rồi, trong màn
đêm tối, Mị đối diện với A Phủ - một chàng trai cũng chịu cái số phận đau khổ tương tự như
Mị. Rồi sẽ ra sao, Mị sẽ cứu A Phủ hay là để mặc tất cả? Mị sẽ vùng lên hay là tiếp tục lựa
chọn việc sống kiếp làm trâu làm ngựa?
Bấy giờ, đám than trước mặt đã vạc hẳn lửa, chỉ còn lại là sắc ửng hồng. Kỳ lạ thay,
Mị không còn buồn thổi lại nữa. Nếu như trước đây, Mị không thể nào rời khỏi ngọn lửa ấy,
Mị sợ rằng hơi ấm và khát khao sự sống trong chính trái tim mình cũng sẽ lụi tàn dần theo.
Bởi lẽ, đó chính là ngọn lửa đã sưởi ấm cho cô, đã nuôi dưỡng tâm hồn cô bấy lâu nay. Thế
nhưng giờ đây, ngọn lửa bên trong cô còn lớn hơn cả thế, nỗi sợ không sao sánh bằng tình
thương và lòng trắc ẩn. Có lẽ, đây mới chính là cái bếp lửa mạnh mẽ nhất, đây mới chính là
cái ánh lửa rực rỡ nhất. Đột nhiên, Mị nghĩ đếm năm trước, chợt nhớ lại A Sử cũng từng trói
đứng Mị thế kia, Mị cũng từng khóc, nước mắt chảy xuống cằm, xuống cổ nhưng không
làm sao lau đi được. Hóa ra, là vì mình cũng từng đau khổ nên mới thấu được người ta cũng
khổ giống mình.
Từ trước đến nay, Mị chưa bao giờ thật sự nhận ra được cái tàn bạo và độc ác bên
trong căn nhà ấy. Hay nói đúng hơn, là Mị cúi đầu, Mị chấp nhận. Có lẽ ở lâu trong cái khổ,
ở lâu trong cái ác, dần dà Mị cũng coi đó là một lẽ đương nhiên. Đó là lý do mà ban đầu, A
Phủ hoàn toàn không phải mối ưu tiên trong Mị. Nhưng cũng phải thôi, làm sao mà con
người ta có thể để tâm tới người khác khi mà họ còn đang phải lo cho mình “cái chân đau”
của mình. Thế nhưng giờ đây thì không vậy nữa. Mị nghĩ tới A Phủ, nghĩ tới người đàn bà
bị trói đến chết ở cái nhà này khi xưa và Mị nhận ra “chúng nó thật độc ác. Ôi, chúng nó
bắt trói đứng con người ta đến chết”. Một sinh mạng, một cuộc đời, sau cùng cũng chỉ là
cái rác trong mắt chúng nó. Mị nghĩ lại đời mình nhưng chỉ thấy tủi thân khôn xiết. Đã làm
con dâu, bị cúng trình ma thì đâu còn có thể nhìn thấy tự do được nữa, có trốn đi đâu thì vậy
mà thôi, rồi con ma ấy sẽ đi theo và bất Mị về. Nhưng A Phủ làm gì mà phải chết, người
con trai mang trong mình cả một tương lai tươi sáng thế kia thì sao mà phải chết? Không,
Mị không muốn như thế! Đến một lúc nào đó, A Phủ tự trốn ra được, Mị cứ tưởng tượng
như thế rồi như nhìn trước được tương lai. Thế nào bố con Pá Tra cũng cho rằng Mị cởi trói
giúp A Phủ và Mị sẽ là người bị trói thay vào đấy, chết trên cái cọc ấy. Nhưng trong tình
cảnh này, làm sao Mị có thể sợ được nữa.
Mị rón rén bước chân giữa màn đêm, rút con dao găm, cắt nút dây mây, giải cứu cho
A Phủ. Ôi từng tầng từng tầng dây mây, chúng nó đã kìm kẹp, giam giữ A Phủ, Mị và biết
bao con người bất hạnh khác. Dây mây được gỡ hết thì cũng là lúc Mị hoảng hốt nhưng
cũng chỉ kịp thì thào được một tiếng “Đi đi…” rồi cổ họng lại ngay lập tức nghẹn lại,
dường như vẫn chưa dám tin những gì mình vừa mới làm. Đó không chỉ là sự hoảng hốt của
lòng thương người mà còn là sự hoảng hốt cho việc thương chính mình, thương cho tương
lai tiếp tục bị đày đọa, bị chôn chân đến chết thì thôi. Hơn tất cả, đó còn là sự hoảng hốt của
một con người khát khao sự sống, khát khao tự do mãnh liệt.
A Phủ đã quật sức chạy đi, nhưng Mị thì vẫn đứng lặng trong bóng tối. Bóng đen vây
lấy Mị, như một sự đe dọa dành cho những khát khao vừa mới trỗi dậy. Phút lặng yên của
Mị là phút lặng yên của con người đứng trước bão tố cuộc đời. Đó là cái khoảng trống
không lời nhưng thực chất lại được nói nhiều nhất. Giờ đây, Mị đang đứng giữa hai bên,
một bên là tiếng gọi của sự tự do, một bên là nỗi sợ trước cường quyền, thần quyền. Thế rồi,
Mị chạy vụt đi, trời tối lắm nhưng Mị vẫn chạy. Bởi lẽ, nếu cứ chôn chân ở đây, thì dù sớm
hay muộn Mị cũng sẽ chết héo mà thôi. Chạy theo A Phủ cũng là chạy theo tiếng gọi của sự
sống. Chị Dậu của Ngô Tất Tố cũng từng chạy ra khỏi bóng đêm để cứu lấy đời mình,
không biết đi đâu về đâu với A Phủ nhưng cứ phải rời khỏi nơi này trước đã. Trốn ra khỏi
đây là trốn khỏi chỗ chết, chắc chắn sẽ tìm được đường sống và rồi sau suốt bao nhiêu năm
tuyệt vọng, lần đầu tiên Mị thẳng thắn nói ra chữ “chết”. Bấy lâu nay, cái việc “chết” ấy
chỉ xuất hiện trong tâm tưởng Mị mà thôi. Giờ đây, Mị đã nói nó thành lời, và đó là một nỗi
sợ. Chưa bao giờ khát vọng sống lại mãnh liệt tới như thế. Chính nó đã thôi thúc Mị đi và
cứu lấy đời mình.
Có thể nói, quá trình hồi sinh của Mị là một sự kỳ diệu. Nó vừa mang tính tự phát,
vừa mang tính tự giác. Ban đầu, Mị đâu nghĩ mình sẽ cứu A Phủ, Mị chưa bao giờ dám nghĩ
mình sẽ làm như thế. Thế nhưng, để có thể tìm được đường sống, Mị đã phải trải qua một
cuộc đấu tranh nội tâm vô cùng mạnh mẽ. Để rồi sau cùng, khát khao tìm về với bản thân đã
chiến thắng tất cả. Vậy mới nói, sự hồi sinh của Mị quả thực là một cuộc hành trình đi từ
bóng tối ra ánh sáng.
Quả nhiên, văn chương Tô Hoài bao giờ cũng sâu sắc và tinh tế như thế. Ông khắc
họa quá trình hồi sinh của Mị đặc sắc biết bao nhiêu, đặt nó trong tình thế đột ngột nhưng
không hề qua loa, vô lý. Bằng ngôi kể thứ ba, dưới góc nhìn khách quan, toàn diện, tác giả
đã khiến câu chuyện mang dáng dấp của một câu chuyện cổ tích. Hơn thế, việc đan xen
những câu miêu tả và câu trần thuật đã giúp độc giả hiểu thêm về tâm lí nhân vật, cảm nhận
được những rung động từ tận sâu bên trong. Phải hiểu, phải yêu những con người miền núi
nhiều ra sao, nhà văn mới có thể xây dựng tâm lý nhân vật một cách chân thực và tinh tế
đến như thế. Quả nhiên, “hơi thở cuộc sống luôn đầy ắp trong trang viết của nhà văn Tô
Hoài”.
Tô Hoài có biết bao đóng góp cho nền văn học Việt Nam, nhưng “Vợ chồng A Phủ”
vẫn cứ đặc sắc như thế, lấp lánh như thế. Đó không phải là câu chuyện của một mình Mị
hay A Phủ mà hơn hết, đó là câu chuyện viết về nỗi đau của đồng bào. Đó không phải nỗi
đau của một mình ai, đó là nỗi đau của nhiều người gộp lại, một nỗi đau “có thật”. Và
chính điều ấy đã khiến tác phẩm trở nên có giá trị. “Vợ chồng A Phủ” - một tác phẩm được
viết lên để chứng minh rằng: con người ta vẫn sẽ sống, sống bằng tất cả thảy sự tiềm tàng,
sự mãnh liệt và không thế lực tội ác nào có thể hủy hoại đi được.
Họ và tên: Trần Thanh Tâm
Mã: MV037
Điểm: 4.5/5.0

BÀI LÀM SỐ 2
Nói về sự nghiệp cầm bút của “cây đại thụ văn chương” Tô Hoài, nhà thơ Phan Anh
Dũng đã từng chia sẻ: “Hơn cả một nhà văn, Tô Hoài đã đang và sẽ luôn là người bạn
đường thân thiết của độc giả thuộc mọi lứa tuổi, trên con đường đưa họ đến với thế giới
động vật tưởng tượng thuở nhỏ, hay đến với những mảnh đất mới, đến với con đường đời
dài rộng khi đã trưởng thành”. Thật vậy, nếu như tuổi thơ ta gắn liền với hành trình của chú
Dế Mèn và học được thêm nhiều bài học cuộc đời quý giá thì quá trình trưởng thành của ta
lại được đồng hành với Mị, với A Phủ cùng những thông điệp bình dị và sâu sắc về giá trị
tồn tại của mỗi con người. Truyện ngắn “Vợ chồng A Phủ” cùng sự hồi sinh của nhân vật
Mị được thể hiện ở đoạn trích Mị cắt dây cởi trói cho A Phủ đã đem đến cho ta thật nhiều
chiêm nghiệm về những đấu tranh trong cuộc đời.
Nhà văn Tô Hoài được xem là một hạt ngọc quý, một cây đại thụ của nền văn học
Việt Nam. Suốt đời ông cần mẫn đi và viết, thể hiện qua khối lượng tác phẩm đồ sộ gần như
kỷ lục. Vượt ra khỏi phạm vi sáng tác văn học, tác phẩm của Tô Hoài trở thành kho dữ liệu
lịch sử quý giá dù đang phủ lớp bụi thời gian và trở nên mơ hồ như những câu chuyện dã sử.
Trước cách mạng Tháng Tám, Tô Hoài chủ yếu viết về loài vật, về đời sống người dân trong
cảnh nông thôn nhiều thiếu thốn. Tiêu biểu nhất là cuốn truyện đã lớn lên cùng tuổi thơ của
rất nhiều độc giả Việt Nam: “Dế mèn phiêu lưu ký”. Sau cách mạng, Tô Hoài có nhiều
chuyển biến mạnh mẽ về phong cách và tư tưởng sáng tác với những tác phẩm phản ánh
cuộc sống cơ cực dưới ách thống trị tàn bạo của giặc xâm lược và con đường tự giải phóng
của nhân dân. Năm 1952, Tô Hoài có chuyến đi thực tế cùng bộ đội lên giải phóng Tây Bắc
và hiểu hơn về đời sống và vẻ đẹp tâm hồn người dân nơi đây. Chính cuộc sống của đồng
bào đã khơi nguồn cảm hứng sáng tác cho nhà văn “sống đến đâu viết đến đó”. Tiêu biểu
cho giai đoạn này chính là truyện ngắn “Vợ chồng A Phủ” với thông điệp về tình yêu tha
thiết và khát vọng sống tự do mãnh liệt của con người. Đặc biệt, với đoạn trích cuối của tác
phẩm, hành trình của nhân vật Mị cùng A Phủ đã bộc lộ ngòi bút nhân đạo sâu sắc của nhà
văn, đồng thời, nó minh chứng cho những nét tiến bộ và mới mẻ trong văn phong Tô Hoài.
Nếu như nói “Nhân vật là ngọn đèn của tác phẩm” thì nhân vật Mị chính là ngọn
đèn soi sáng cho những tư tưởng nhân đạo của nhà văn Tô Hoài. Với vẻ xinh đẹp, trẻ trung,
Mị là một bông hoa rực rỡ của núi rừng Tây Bắc hùng vĩ. Cô có tài thổi sáo làm say mê
lòng người, khiến biết bao chàng trai suốt ngày đi theo mình. Cô gái người Mèo ấy còn là
một người phụ nữ khao khát tự do và ao ước có được một cuộc sống hạnh phúc cháy bỏng.
Niềm khao khát sống trong cô như một ngọn lửa sống, luôn bùng cháy mãnh liệt. Tưởng
chừng với “hồng nhan” đằm thắm cùng khao khát ấy, cô sẽ sống một cuộc đời thật hạnh
phúc và mãn nguyện. Thế nhưng, bao niềm ước ao kia dường như đổ vỡ kể từ khi cô bị bắt
về làm dâu nhà thống lí. Mang tiếng là con dâu nhà giàu, nhưng cách căn nhà đó đối xử với
Mị lại chẳng bằng con trâu, con ngựa. Hằng ngày cô phải làm việc quần quật từ sáng đến tối
không ngơi nghỉ. Mị đã tủi thân, đau đớn và tuyệt vọng đến mức muốn buông xuôi tất cả, để
mặc cho sự đời. Chính cái ác trong căn nhà ấy đã thống trị lòng khao khát của Mị, khiến cô
trở nên vô tâm với đời, với chính mình. Thế rồi, đêm tình mùa xuân đến, nó đem lại bao
niềm say mê tuổi trẻ, những năm tháng đẹp đẽ đến với Mị. Cô gái ấy như được sống lại
những tháng ngày mình xinh đẹp, rực rỡ nhất. Thế nhưng, hiện thực một lần nữa gõ cửa,
đưa cô trở lại thực tại phũ phàng, bội bạc, cũng chính nhờ dư vị của đêm tình nồng nàn ấy
đã nhen nhóm trong lòng Mị trở lại niềm khao khát sống, giúp cô có những hành động mang
tính quyết định sau này.
Trong đêm đông giá rét, Mị đã bất chấp tất cả những nỗi đau để được sưởi lửa, để giữ
mãi ngọn lửa ngoại cảnh cũng như ngọn lửa bên trong mình. Thế nhưng, sau khi thấy những
dòng nước mắt lấp lánh của A Phủ, Mị không còn thiết tha ngọn lửa ấy nữa, cô đã rung lên
những cảm xúc bồi hồi, thương cảm, xót xa cho thân phận người đàn ông xa lạ ấy. “Đám
than đã vạc…cũng không thấy sợ” cô Mị của thường ngày dường như đã quá quen thuộc
với cái ác trong căn nhà ấy. Chứng kiến A Phủ bị trói, đau đớn, day dứt đến nhường nào, Mị
vẫn thờ ơ, bỏ mặc vì cô còn phải lo cho “cái chân đau của mình”. Vậy mà giờ đây, cô đã
bắt đầu suy nghĩ cho người khác, cho cái chân đau của họ. A Phủ đâu có tội tình gì đâu mà
phải chịu chết trong căn nhà thối nát này, cuộc sống bất công với cô chưa đủ hay sao mà
còn tàn nhẫn với những người xa lạ ấy. Niềm trắc ẩn bên trong cô đã được gọi dậy bởi dòng
nước mắt của A Phủ. Chính dòng nước mắt lấp lánh ấy đã làm tan chảy lớp băng giá lạnh
trong Mị, khiến Mị cảm thấy được nỗi khổ, nỗi cùng quẫn của mọi kiếp người. Giọt nước
mắt ấy đưa cô về với chính mình của ngày trước. Mị đã giằng xé dữ dội giữa mạng sống của
mình và người cùng cảnh ngộ. Có thể cứu được A Phủ nhưng lại chết thay A Phủ trên cái
cọc ấy. Lạ thay, lúc đấy Mị lại chẳng hề sợ hãi. Có lẽ bởi, những hành động chính đáng
không việc gì khiến con người ta phải sợ, phải chùn bước. Và cũng có lẽ bởi, lòng trắc ẩn và
tình yêu thương bên trong trái tim của cô đang bùng cháy mãnh liệt, thiêu rụi đi cả những
nỗi sợ vô hình ấy.
Mị dường như không còn nghĩ ngợi. Lòng thương cảm đã thúc giục cô hành động mà
không một giây do dự. “Trong nhà tối bưng, Mị rón rén…cắt nút dây mây” Mị lấy hết can
đảm cắt đi nút dây mây - sợi dây tượng trưng cho cái ác đã kìm hãm, bóp nghẹt khao khát
sống chính đáng của những con người vô tội. Với Mị đấy không chỉ là sự giải thoát cho A
Phủ mà còn là giải thoát cho chính mình. Tuy đó chưa phải là sự giải thoát thể xác nhưng
chính tâm hồn của cô giờ đây như vơi bớt phần nào một áp lực, một nỗi sợ cô đơn. Phải
chăng cô cũng hy vọng, mình sẽ được ai đó giải cứu? “Lần lần, đến lúc gỡ…Mị cũng hoảng
hốt” Mị đã hành động trước, nỗi sợ theo sau. Sức mạnh của tình yêu thương dẫn lối đã
khiến Mị quên đi cái bóng tối của tội ác, của những thế lực tàn độc có thể giết chết cô bất cứ
lúc nào. “Mị chỉ thì thào…nghẹn lại” những tiếng thì thào, những câu nói lưng chừng mà
cô chẳng thể nào nói hết. Mị nghẹn ngào, có cái gì khiến cô nghẹn ứ ở cổ họng. Có lẽ, đó là
sự tủi hờn. “Mị đã cứu A Phủ thì giờ đây, ai sẽ cứu cô Mị của chúng ta đây.Liệu cô sẽ một
lần nữa can đảm, có quyết định thay đổi cả phận đời còn lại của mình?” Chứng kiến bóng
hình của A Phủ dần khuất xa, cô dường như thúc giục chính mình: Không là lúc này, sẽ
chẳng còn lúc nào cô có được cơ hội được giải thoát nữa.
Một phần đời của cô Mị đã chìm trong bóng tối - bóng tối của tội ác và cả bóng tối
trong tâm trí mình. Và đây, chính là cơ hội duy nhất để Mị tìm về ánh sáng. Mị có phút giây
do dự, lo sợ, lùi bước nhưng rồi niềm khao khát trong cô đã trở thành ngọn đèn soi đường
dẫn lối cho Mị. “Mị đứng lặng trong…chết mất” tác giả đã tách riêng câu văn thành một
đoạn riêng biệt. Đấy như là một bản lề cuộc đời Mị, như ranh giới mong manh giữa sự sống
và cái chết mà giờ đây, cô buộc phải chọn lựa. Nếu ở lại, cô sẽ dần chết mòn trong chính
căn nhà mà không để lại điều gì cho đời. Nhưng cô gái ấy đã từng là một người yêu tự do,
yêu cuộc sống này lắm! Thế nên một lần nữa - cũng là lần cuối cùng cô lấy can đảm vùng
lên, chạy theo gót chân A Phủ mà tìm lấy hy vọng trong đời mình. Trong đêm đen nhưng
tâm của cô sáng, sáng như một ngọn đèn đủ sức xua tan đi nỗi sợ mà bấy lâu nay, cô luôn
chìm đắm trong đó. “Mị thở…A Phủ cho tôi đi” một lời van xin, nài nỉ thật tha thiết và tràn
đầy khát vọng. Mị lúc này đã sợ chết, đã thực sự sống lại niềm khao khát mãnh liệt. “Ở đây
thì chết mất” đây là tiếng nói của niềm khao khát sống, khao khát tự do đến mãnh liệt.
Tiếng gọi tự do vẫn đang vẫy gọi họ ở phía trước, nơi họ đến là Phiềng Sa - vùng đất mới,
vùng đất hứa còn Hồng Ngài phải chăng chỉ còn là những ngày buồn đau và tủi nhục. Mị
lần đầu nói ra thành lời về nỗi sợ chết. Cô gái ấy còn rất nhiều những hy vọng, ước ao dang
dở, cô còn muốn xây dựng một cuộc sống hạnh phúc, một mái ấm như bao người khác. Vì
vậy, Mị không muốn chết! Cô muốn tìm mọi cách để được sống. Và cuối cùng, qua một quá
trình đấu tranh với những suy nghĩ giằng xé mình, Mị đã chiến thắng được nỗi sợ và tìm
được hạnh phúc thật sự.
Sự hồi sinh của nhân vật Mị là một hành trình vừa mang tính tự phát, vừa mang tính
tự giác. Mị không có một sự chuẩn bị trước nào mà hoàn toàn là những diễn biến tự nhiên.
Đấy là một kết quả tất yếu của hành trình đấu tranh nội tâm sâu sắc, mạnh mẽ, khao khát
tìm về những giá trị của bản thân mình. Trên chặng đường ấy, nếu không có nhân vật A
Phủ, có lẽ chúng ta đã không thể thấy cô Mị can đảm, dũng cảm, chiến thắng nghịch cảnh
để tìm lại chính mình như thế. Qua tác phẩm, ta cũng phần nào thấu hiểu được tư tưởng
nhân đạo sâu sắc của nhà văn. Nếu không có sự yêu thương, giúp đỡ của những người cùng
cảnh ngộ, con người ta sẽ không thể nào có sức mạnh để vượt qua tất cả. Điều đó ta có thể
thấy rõ qua hiện thực đầy xót xa, ám ảnh mà nhà văn Nam Cao đã đem lại. Với tác phẩm
Lão Hạc, ngày từ nhan đề ta đã thấy được sự trống vắng, cô đơn khi nhân vật chỉ có một
mình mà đương đầu với nghịch cảnh. Cuối cùng, lão phải nhận lấy đau thương và không thể
nào chiến thắng được thử thách của cuộc đời. Không chỉ vậy, qua thiên truyện “Vợ chồng A
Phủ”, ta còn thấy được sức sống tiềm tàng, khao khát sống đáng trân trọng của Mị. Dù bị
nghịch cảnh vùi dập, tội ác chà đạp, cô vẫn luôn giữ cho mình niềm khao khát cao đẹp sâu
trong tâm hồn. Đấy không phải là điều mà ai cũng có thể làm được. Con người ta rất dễ
đánh mất đi chính mình, họ đã đánh mất cả những niềm ước ao, khao khát từ thuở nào.
Chính vì vậy, đôi khi giữa dòng đời hối hả, ta hãy dừng lại một phút giây nào đó, tự hỏi
rằng: Mình có vô tình đánh mất đi chính mình vì guồng quay của cuộc sống này hay không?
Để từ đó có những bài học chiêm nghiệm đáng giá như những gì mà nhà văn Tô Hoài đã
mang lại cho các bạn đọc.
Thông qua nghệ thuật kể chuyện bậc thầy của nhà văn Tô Hoài, hành trình của Mị và
A Phủ đã trở nên thật thuyết phục và đáng nhớ. Với cách kể nửa trần thuật, nhà văn đã thực
sự đem đến những điểm nhìn hết sức linh hoạt cho bạn đọc. Có khi, ta đứng ở bên ngoài để
quan sát, có khi ta được chạm vào những suy nghĩ tình cảm, những nỗi lòng sâu kín của
nhân vật. Bằng cách đặt nhân vật vào những tình cảnh trớ trêu nhất, Tô Hoài đã thực sự tạo
nên một “đòn bẩy” để nhân vật bộc lộ những thay đổi trong tình cảm, nhận thức. Không thể
không kể đến ngòi bút miêu tả sâu sắc cùng ngôn ngữ giàu chất thơ, kết hợp với ngôi kể thứ
ba mang đến một góc nhìn khách quan, toàn diện, cùng hệ thống các chi tiết nghệ thuật giàu
biểu tượng, tất cả đã mang đến cho ta một thiên truyện ngắn với sức sống lâu dài.
Hành trình tự giải cứu bản thân khỏi “ngục thất tinh thần” của nhân vật Mị đã thực
sự truyền cảm hứng sâu sắc tới cá nhân tôi, Mị đã từng có lúc lãng quên khát vọng sống, Mị
đã từng buông xuôi và bỏ mặc mọi thứ cho dòng đời, Mị đã từng quen với cái khổ để rồi
chấp nhận chôn vùi thanh xuân. Thế nhưng, cô Mị của nhà văn Tố Hữu cuối cùng đã không
bỏ cuộc. Có lẽ, giá trị lớn nhất của mỗi chúng ta chính là niềm tin vào bản thân, là khát
vọng sống mãnh liệt để ta luôn vươn về phía trước. Không chấp nhận từ bỏ khát vọng ấy,
đồng nghĩa với việc không đánh mất chính mình, không đánh mất cơ hội sống một cuộc đời
ý nghĩa.
Đề bài: Cho đoạn trích sau:
Những đêm mùa đông trên núi cao dài và buồn, nếu không có bếp lửa sưởi kia thì Mị
cũng đến chết héo. Mỗi đêm, Mị đã dậy ra thổi lửa hơ tay, hơ lưng, không biết bao nhiêu
lần.
Thường khi đến gà gáy Mị ngồi dậy ra bếp sưởi một lúc thật lâu thì các chị em trong
nhà mới bắt đầu ra dóm lò bung ngô, nấu cháo lợn. Chỉ chợp mắt được từng lúc, Mị lại
thức sưởi lửa suốt đêm.Mỗi đêm, nghe tiếng phù phù thổi bếp, A Phủ lại mở mắt. Ngọn lửa
sưởi bùng lên, cùng lúc ấy thì Mị cũng nhìn sang, thấy mắt A Phủ trừng trừng, mới biết A
Phủ còn sống. Mấy đêm nay như thế. Nhưng Mị vẫn thản nhiên thổi lửa, hơ tay. Nếu A Phủ
là cái xác chết đứng đấy, cũng thế thôi. Mị vẫn trở dậy, vẫn sưởi, chỉ biết chỉ còn ở với
ngọn lửa. Có đêm A Sử chợt về, thấy Mị ngồi đấy, A Sử đánh Mị ngã ngay xuống cửa
bếp.Nhưng đêm sau Mỵ vẫn ra sưởi như đêm trước. Lúc ấy đã khuya. Trong nhà ngủ yên thì
Mị trở dậy thổi lửa. Ngọn lửa bập bùng sáng lên, Mị lé mắt trông sang thấy hai mắt A Phủ
cũng vừa mở, một dòng nước mắt lấp lánh bò xuống hai hõm má đã xám đen lại. Nhìn thấy
tình cảnh như thế, Mị chợt nhớ lại đêm năm trước, A Sử trói Mị, Mị cũng phải trói đứng thế
kia. Nhiều lần khóc, nước mắt chảy xuống miệng, xuống cổ, không biết lau đi được. Trời ơi,
nó bắt trói đứng người ta đến chết,nó bắt mình chết cũng thôi,nó bắt trói đến chết người
đàn bà ngày trước cũng ở cái nhà này. Chúng nó thật độc ác. Cơ chừng này chỉ đêm mai là
người kia chết, chết đau, chết đói, chết rét, phải chết. Ta là thân đàn bà, nó đã bắt về trình
ma rồi thì chỉ còn biết đợi ngày rũ xương ở đây thôi... Người kia việc gì mà phải chết. A
Phủ ... Mị phảng phất nghĩ như vậy.
(Trích Vợ chồng A Phủ - Tô Hoài, Ngữ văn 12, tập hai, Nxb GD,2008, tr 13)
Phân tích nhân vật Mị trong đoạn trích trên, từ đó nhận xét ngòi bút nhân đạo của
nhà văn Tô Hoài.
Họ và tên: Mai Kim Khoa
Mã học viên: MV146
Điểm NLVH: 4.75/5.0
BÀI LÀM
Trong suốt những biên niên kỷ dài đằng đẵng của cuộc đời, thời gian chưa bao giờ
ngừng chảy trôi mạnh mẽ, nó xáo trộn đi những dĩ vãng nhạt nhòa, xô lệch đi những lằn
ranh thực tại. Thế nhưng, vượt qua sự băng hoại vốn tuần hoàn như vậy, những tác phẩm
văn học vẫn trường tồn và thi hành sứ mệnh của nó - tố cáo hiện thực xã hội, bảo vệ vẻ đẹp
chân chính của con người và trao cho con người một khát vọng sống mãnh liệt hơn bao giờ
hết. Phải chăng, đó là lý do mà đi qua những biến động thế thời, “Vợ chồng A Phủ” vẫn neo
đậu trên văn đàn và tâm hồn người như một minh chứng chất diệt, rằng nếu cốt tử của một
tác phẩm văn học là giá trị nhân đạo sâu sắc thì không thế lực nào có thể triệt tiêu được sự
hiện diện của nó. Thật vậy, “Vợ chồng A Phủ” tuy là truyện ngắn với dung lượng nhỏ
nhưng vẫn hàm ẩn bao giá trị nhân sinh sâu sắc. Đặc biệt, đoạn trích “Những đêm mùa
đông…Mị phảng phất nghĩ như vậy” đã làm nổi bật hình ảnh cô Mị giàu lòng thương người
và khát vọng sống mãnh liệt; đồng thời thể hiện ngòi bút nhân đạo sâu sắc của nhà văn Tô
Hoài.
Tô Hoài là một nhà văn lớn, một “cây đại thụ văn chương” của nền văn học Việt
Nam. Ông là người sinh ra để viết với quan niệm “sống đến đâu, viết đến đó”.Điều này thể
hiện qua số lượng tác phẩm rất đồ sộ và gần như kỷ lục. Những sáng tác của ông luôn
hướng ngòi bút về “diễn tả sự thật đời thường” một cách rất chân thực và gần gũi. Nhà văn
quan niệm rằng “Viết văn là quá trình đấu tranh nói ra sự thật. Đã là sự thật thì không tầm
thường, dù cho phải đập vỡ những thần tượng trong lòng bạn đọc”. Quan điểm sáng tác của
ông cũng từ đó mà cũng có sự biến đổi qua từng thời kỳ. Nếu như trước Cách mạng tháng
Tám, ông hướng ngòi bút tới các loài vật và cuộc sống nông thôn nhiều thieeus thốn ở làng
quê, đất Việt thì sau cách mạng tháng Tám, “nhà văn lớn lại biến ngòi bút của mình thành
cây gươm sắc nhọn để phê phán cuộc sống cơ cực của nhân dân dưới ách thống trị tàn bạo
của bọn đế quốc xâm lược và con đường tự đứng lên tự giải phóng. Chuyến đi thực tế lên
vùng cao Tây Bắc chính là bước ngoặt lớn cho ông sáng tác “Vợ chồng A Phủ”. Những trải
nghiệm thực tế và sự gắn bó gần gũi với người dân trung du miền núi Bắc Bộ đã cho ông
những cái nhìn mới, phong phú và cũng phức tạp trong ngòi bút của mình. Tác phẩm là
thông điệp rằng đằng sau những tuyệt vọng tha hóa của con người bao giờ cũng len lỏi
những hy vọng trở mình sống dậy, rằng có áp lúc sẽ có đấu tranh. Thiên truyện một lần nữa
góp giọng vào bản trường ca hùng hồn của dân tộc.
Mị là nhân vật trung tâm của tác phẩm, cô hiện lên là một cô gái miền cao lương
thiện, xinh đẹp, tài hoa những điều bất hạnh. Mị xuất hiện với hình ảnh mở đầu đầy u ám:
“Ai ở a về, có việc vào nhà thống lí Pá Tra thường trông thấy có một cô con gái ngồi quay
sợi gai bên tảng đá trước cửa cạnh tàu ngựa. Lúc nào cũng vậy, dù quay sợi, thái cỏ ngựa,
dệt vải, chẻ củi cũng cúi mặt, mặt buồn rười rượi”. Đó cũng chính là phong cách của nhà
văn Tô Hoài, đi thẳng vào vấn đề nêu ngay vị trí của nhân vật. Sự xuất hiện u buồn báo hiệu
một thực tại không tươi sáng. Cái thực tại xám xịt này là hệ lụy của chế độ phong kiến thối
tha, là kết cục bi thương của một con người lương thiện. Mị - một cô gái miền cao đang tràn
bung sức trẻ, ngay trong đêm hội mùa xuân nồng nàn thì cuộc đời màu hồng chấm dứt. Cô
bị trói như súc nô, bắt về, nhà thống lí Pá Tra, “cúng trình ma” như một món hàng. Để rồi
sau bao nhiêu dày vò từ tinh thần đến thể xác, ngay trong đêm tình mùa xuân của nhiều năm
sau, cô như được tỉnh giấc, cô Mị ngày xưa quay trở lại đánh thức trong cô bao khát khao
của sự sống. Thế rồi ngay trong đêm đông lạnh giá nhà thống lí, sự sống mãnh liệt cùng
lòng thương xót, đồng cảm với A Phủ. Mị đã có những hành động mang tính bước ngoặt,
mở ra một trang mới trong cuộc đời.
Sau khi đêm xuân tình diễn ra, Mị trở về lùi lũi như những ngày đã từng, có điều, giờ
đây trong thâm tâm của Mị đã có những hy vọng được đánh thức. Ngay trong mở đầu đoạn
trích, ta đã được thực tại đầy u ám “những đêm đông trên núi cao dài và buồn”. Mùa đông
này không giống bao mùa đông khác, nó “dài và buồn”. Dường như màu đông được miêu tả
trong góc nhìn chủ quan của Mị. Chắc hẳn, đây là tâm trạng vẫn thường tồn đọng trong Mị,
buồn và cô đơn trước cuộc sống tẻ nhạt, nhàm chán cứ lặp đi lặp lại như một vòng tuần
hoàn. Thế nhưng, trong Mị lúc này dường như có sự đánh thức về sự sống, cô không vô cảm
buông xuôi trước số phận mà bắt đầu có sự chủ động “mỗi đêm Mị dậy ra thổi lửa hơ tay,
hơ lưng, không biết bao nhiêu lần”. Điều này chứng tỏ rằng, dư âm của đêm xuân tình vẫn
còn đọng lại, nó không hề mất đi mà vẫn luôn ở lại trong tâm thức của Mị, đánh thức cô về
niềm tin của sự sống. Mị thổi lửa hơ tay không chỉ để giữ cho mình không “chết héo” mà
còn để giữ ngọn lửa tinh thần đang từ từ nhen nhóm trong lòng Mị. Ngọn lửa không chỉ
mang theo hơi ấm mà còn làm tan chảy trái tim vốn khô cằn, lạnh lẽo của Mị, mang theo
ánh sáng dẫn lối cho Mị sau này. Thế rồi, Mị ngồi đây, A Sử ngứa tay đánh Mị ngã xuống
bếp. “Dường như, cái ác vẫn luôn hiện diện để phá phách niềm tin của con người. Ngay lúc
Mị đang từ từ được hồi sinh trở lại, cái ác lại xuất hiện, sợ rằng Mị một lần nữa bị đánh ngã
vào trong tăm tối một lần nữa. Bởi lẽ, nếu niềm tin của con người không đủ lớn, nó sẽ dễ
dàng bị cái ác vùi dập, và nuốt chửng lúc nào chẳng hay chẳng biết. Nếu lúc này đây, Mị
không vững lòng, thực tại có lẽ sẽ làm cô nguôi đi ý định đấu tranh đứng dậy. Thế nhưng,
Mị lúc này mạnh mẽ hơn bao giờ hết. Hành động thổi lửa hơ tay chính là một minh chứng
cho thấy cô rất muốn duy trì và bảo vệ sự sống của mình. A Sử dường như chỉ là cái bóng
vô hình mà Mị chẳng mảy may quan tâm. Giờ đây, điều làm Mị quan tâm duy nhất là sự
sống của chính mình.
Tội ác trong căn nhà này vốn không phải chỉ có Mị là nạn nhân, mà còn có A Phủ.
Ngày đêm thổi lửa hơ tay, Mị đều thấy A Phủ bị trói đứng vào cột nhà. Không phải Mị cố
tình quên mà là vì Mị đã khổ quá rồi! Cô chẳng còn hơi, còn sức để bận tâm đến điều gì
khác. Như Nam Cao cũng từng đau đáu: “Một người đau chân có lúc nào quên được cái
chân đau của mình để nghĩ đến cái gì khác đâu”. Khi người ta đã quá khổ, quá tuyệt vọng
trong nỗi đau của chính mình, chẳng điều gì làm ta khác đi được. Mị lúc này đây chính là
như thế. Mị chẳng phải ích kỷ, nhỏ nhen mà vì nỗi đau Mị là quá lớn, khi cô đã chứng kiến
bao cảnh hèn hạ, độc ác, trái tim cô đã dần khô cạn với tình thương con người. Thế rồi, Mị
lại trở dậy thổi lửa hơ tay, Mị trông thấy A Phủ “dòng nước mắt lấp lánh bò xuống hai hõm
má đã xám đen”. Tình thế này khiến Mị nhớ lại mình của ngày trước “A Sử trói Mị, Mị
cũng phải trói đứng thế kia”. Dường như Mị tìm thấy chính mình trong đó, cũng đau khổ,
cũng xót xa như thế. Giọt nước mắt của A Phủ đã làm Mị thức tỉnh một lần nữa. Mị nghĩ
đến mình, nhớ đến mình và thương cho mình, càng đau xót, Mị càng phẫn nộ trước sự độc
ác của nhà thống mí “nó bắt mình chết cũng thôi… chúng nó thật độc ác”. Mị lầm mì không
nói, Mị chỉ lùi lũi một mình, buông xuôi cho số phận nhưng không có nghĩa Mị không căm
hận. Mị hiểu rõ hơn ai hết mình đã phải trải qua những gì, đau đớn bao nhiêu cũng tủi nhục
bao nhiêu. Thế rồi, Mị lo cho A Phủ phải chết “chết đau, chết đói, chết rét, phải chết”. Dù
chưa có hành động rõ ràng nhưng ngay trong tâm thức của Mị đã có sự đấu tranh rất rạch ròi
“Người kia việc gì phải chết”. Điều này cho thấy, Mị không hoàn toàn vô cảm, trong sâu xa,
Mị vẫn có tình thương, nhất là đối với những người cùng cảnh ngộ như thế.
Mị là hình ảnh đại diện tiêu biểu của đồng bào miền núi Tây Bắc sống kiếp nô cầm
trong xã hội thực dân phong kiến, cũng như đồng bào miền xuôi hay khắp mọi miền đất
nước khia ánh sáng cách mạng chưa soi sáng. Mị cũng có tự tôn của chính mình, có niềm
tin và khát vọng sống mãnh liệt. Tô Hoài chính là nhà văn của nhân dân, khi ông đã lên
tiếng bênh vực cho số phận con người. Ngòi bút ấy đã đau khổ cho nỗi bất hạnh của những
người dân bị đàn áp bóc lột. Thế nhưng, càng bị bạo hành, vẻ đẹp tâm hồn của họ càng được
soi chiếu. Dẫu cho Mị bị đẩy vào bước đường cùng tăm tối nhưng trái tim vẫn dạt dào sức
sống của niềm tin của sự hồi sinh trở lại. Chính những hoàn cảnh khổ đau ấy trở thành dấu
hiệu báo động cho sự khẩn thiết, cầu cứu của đồng bào miền núi đối với cách mạng còn quá
xa và cũng chính là giá trị nhân đạo cao đẹp mà tác giả muốn gửi gắm đến chúng ta qua hồn
thiên gió núi của đại ngàn Tây Bắc xa xăm.
Chính sự gắn bó gần gũi với nhân dân miền cao đã cho Tô Hoài những góc nhìn mới
mẻ về cuộc sống và con người nơi đây. Từ đó, nhà văn đã dùng ngòi bút của mình để len lỏi
vào phần sâu thẳm thế giới nội tâm nhân vật, trở thành chất liệu đầy mới mẻ trong ‘Vợ
chồng A Phủ”. Truyện biến tâm lí của Mị rất đỗi tài tình. Ông tỏ ra rất am hiểu với những
xúc cảm vô hình của Mị. Nhà văn trân trọng từng nỗi đau con người ,thấu hiểu những gì họ
đã trải qua và khắc tạc trên trang viết của mình.Truyện cũng được Tô Hoài bộc lộ nhiều chất
nhạc, chất thơ làm câu văn không gò bó, cứng nhắc mà cũng rất trữ tình, đậm chất “núi”.
Phải là người am hiểu và có tấm lòng sâu sắc mới viết được hay đến vậy.
Nhà văn Tô Hoài khi viết về các dân tộc miền núi phía Bắc là quá trình trải nghiệm
nỗi đau của quần chúng, hướng tới lẽ sống của nhân dân. Ông từng tâm sự “Đất nước và
người miền Tây đã để thương để nhớ trong tôi nhiều, không thể bao giờ quên… Hình ảnh
Tây Bắc đau thương và dũng cảm lúc nào cũng thành nét, thành người, thành việc trong tâm
trí tôi”. Và mỗi lần nhớ đến “Vợ chồng A Phủ” là một lần hiểu thêm về con người miền núi
với khát vọng sống, khát vọng tự do mãnh liệt, mỗi lần đến với :Vợ chồng A Phủ” là nhớ về
một nhà văn luôn yêu thương và nặng lòng với Tây Bắc. Xin mượn mấy câu thơ của Trần
Đông Phong để bày tỏ lòng trân quý đến nhà văn Tô Hoài - một trong những người đã làm
nên “mùa gặt ngoạn mục nhất của văn học Việt Nam thế kỷ XX”:
“Sông Tô một thoáng mây mờ
Phủ Hoài lặng tiếng vẫn chờ đợi ai
Truyện Tây Bắc mãi nguôi ngoai
Vợ chồng A Phủ nhớ ai bên đời.”

Đề bài: Chất thơ trong khung cảnh thiên nhiên mùa xuân Hồng Ngài cùng sự khắc
khoải nơi tâm hồn Mị

Họ và tên: Trịnh Thị Diệu Linh

MHV: MV250

Điểm: 4.5/5.0

BÀI LÀM
Bàn về sự sâu sắc của văn chương, nhà thơ Bằng Việt từng viết :

“Những trang sách suốt đời đi vẫn nhớ

Như đám mây ngũ sắc ngủ trong đầu”

Có những tác phẩm vừa ra đời đã bị chìm khuất trong sự ồn ào, náo nhiệt của “phiên
chợ văn chương”, nhưng cũng có những tác phẩm lại trở thành những “bản trường ca” của
thời đại. Đó phải chăng là những tác phẩm nằm ngoài quy luật “băng hoại” của thời gian.
Một trong số đó phải kể đến “Vợ chồng A Phủ” của nhà văn Tô Hoài – một thiên truyện
xuất sắc về người nông dân nghèo miền núi cùng cuộc sống tăm tối của họ nơi đây. Truyện
ngắn xoay quanh nhân vật Mị - một cô gái trẻ trung, yêu đời, dám đứng lên chống lại cường
quyền, thần quyền để giải thoát bản thân. Đặc biệt, gây ấn tượng mạnh mẽ trong lòng người
đọc là chất thơ trong khung cảnh thiên nhiên mùa xuân Hồng Ngài cùng sự khắc khoải nơi
tâm hồn Mị qua đoạn trích : “Trên đầu núi....người yêu”

Tô Hoài là một trong những cây bút xuất sắc của nền văn học Việt Nam. Trước 1945,
ông chủ yếu viết về cuộc sống người dân trong cảnh nông thôn thiếu thốn mà tiêu biểu là
cuốn truyện tuổi thơ : “Dế mèn phiêu lưu kí”. Sau 1945, ông có sự thay đổi trong phong
cách cùng tư tưởng sáng tác khi tập trung khai thác về cuộc sống cơ cực của người dân dưới
ách thống trị của giặc xâm lược. Truyện ngắn “Vợ chồng A Phủ” là một minh chứng rõ nét
cho tài năng ấy. Tác phẩm được sáng tác năm 1952, là kết quả của chuyến đi cùng bộ đội
lên giải phóng miền Tây Bắc của tác giả. Thực tiễn cuộc sống vùng cao đã đem đến cho ông
nguồn cảm hứng sáng tạo và cho ra đời tác phẩm để lại ấn tượng trong lòng bạn đọc.
Ở đây, ta hiểu “chất thơ” là một khía cạnh của cảm hứng thẩm mĩ, nó xuất phát từ
bản chất thơ ca, vừa tạo ra cảm giác dễ chịu cho người đọc vừa nói lên cảm xúc cùng tâm
trạng của người viết. Vẻ đẹp bay bổng lãng mạn ấy được khắc họa rõ nét trong đời sống
thực tại. Nói về một tác phẩm văn xuôi có chất thơ tức là những ý văn tạo nên sự truyền đạt
sâu sắc với người viết, cho ta cảm nhận một cách toàn diện và bao quát hơn về tác phẩm.
Đặc biệt trong truyện ngắn, chất thơ thể hiện ở cảm xúc nhân vật và những rung động của
chính tác giả. Trong “Vợ chồng A Phủ”, Tô Hoài đã mang đến “chất thơ” thông qua việc
miêu tả tranh thiên nhiên mùa xuân cùng diễn biến tâm lí nhân vật Mị một cách tinh tế và
sâu sắc.

Dưới ngòi bút tài hoa của Tô Hoài, thiên nhiên Tây Bắc hiện lên một cách vô cùng
bình yên và êm ấm : “Trên đầu núi, các nương ngô, nương lúa đã gặt xong, ngô lúa đã xếp
yên đầy cái nhà kho”. Dường như đây là khung cảnh của ngày thu hoạch – thời điểm vui vẻ
nhất trong năm khi người dân nơi đây được gặt hái thành quả lao động sau những ngày
tháng vất vả. Và ngày thu hoạch càng trở nên đặc biệt hơn khi nó báo hiệu một dịp Tết năm
mới sắp đến. Phải chăng, Tô Hoài chọn mùa xuân để dẫn tới tâm trạng nhân vật Mị bởi lẽ
đó là mùa đầu tiên trong năm, là khởi đầu cho mọi hành trình cùng kế hoạch sắp tới – một
thời điểm thật tinh tế cho sự thay đổi của con người dù chỉ là những bước đầu tiên. Ngoài
sân, đám trẻ con tinh nghịch “đốt lên những lều quanh nương để sưởi lửa”, một đám khác
đang “chơi quay” và cười ầm ầm, thứ âm thanh hồn nhiên mà trong sáng, vui vẻ vô cùng.
Dẫu thời tiết có giá rét đên đâu cũng không thể ngăn cản niềm vui cùng sự hạnh phúc, sự
háo hức của con người trước thềm năm mới. Dường như chính cái ấm áp trong cõi lòng đã
sưởi ấm họ đi qua những ngày “gió và rét rất dữ dội”, thời tiết giờ đây chỉ là yếu tố chủ
quan khiến họ nhận ra Tết đang đến rất gần, người người nhà nhà nô nức chuẩn bị đón xuân.
Trên những mỏm đá, các cô gái Mèo Đỏ đem những chiếc váy hoa sặc sỡ của mình đi phơi
để đón chờ đêm tình mùa xuân – những đêm hội nồng nàn tha thiết mang nét riêng của
người dân miền núi. Kết hợp “tiếng sáo đầu núi” lấp ló đã tạo nên âm thanh trong trẻo cho
mùa lễ hội, đem đến luồng không khí nhộn nhịp, vui tươi. Nhưng có lẽ sự náo nhiệt ấy lại
càng khiến cô Mị thêm tách biệt và người đọc càng thêm xót xa, bởi biết bao người đang nô
nức đón Tết, còn Mị chẳng còn ý niệm rõ ràng nào về thực tại.

Vốn là một cô gái trẻ trung, xinh đẹp và giàu lòng tự trọng, Mị bỗng trở thành một
“nàng dâu gạt nợ” cho nhà thống lí chỉ vì món nợ truyền kiếp từ đời cha mẹ cô. Chính cuộc
sống tẻ nhạt, nhàm chán “chốn ngục tù” ấy đã khiến một người sẵn sàng chết để được làm
chính mình như Mị trở nên vô cảm, thờ ơ với mọi việc xung quanh, lúc nào cô cũng làm
việc và lầm lũi như “con rùa nuôi trong xó cửa”. Ta cứ tưởng đây là dấu chấm hết cho cuộc
đời cô Mị đáng thương, nhưng đằng sau đống tro tàn ấy là khát khao sống mãnh liệt đang
chờ nhen nhóm. Và khung cảnh mùa xuân Hồng Ngài kia đã đem đến sự thay đổi tích cực
cho Mị, đặc biệt thông qua “tiếng sáo” gọi bạn tình. Đây cũng chính là chất thơ mà Tô Hoài
miêu tả, chất thơ trong sự khắc khoải của tâm hồn Mị.

Sức sống nội tâm của Mị bắt đầu được hồi sinh khi cô nghe thấy “tiếng sáo” gọi bạn
đi chơi. Giữa núi rừng hoang vu lạnh giá thì “tiếng sáo” là cầu nối duy nhất giữa những tâm
hồn đang yêu, nó vượt qua cả không gian và vòng vào vách núi như tiếng lòng thổn thức.
Tiếng sáo bất chợt đánh thức trái tim tưởng như đã chai sạn của Mị, nó như một sợi dây vô
hình nối Mị về với quá khứ tươi đẹp, khiến Mị “tha thiết bổi hổi” lần đầu tiên sau bao năm
dài câm nín. Tiếng sáo thôi thúc Mị, nó như một luồng gió cuốn đi lớp tro tàn trong lòng Mị
và nhen nhóm lên một chút ánh lửa của hi vọng. Phải chăng do sống quen trong “cái khổ”
làm Mị tưởng mình đã hoàn toàn lãng quên những điều cũ và đánh mất chính mình của ngày
xưa. Thế nhưng có những hoài niệm sẽ mãi in sâu trong tâm trí, có những câu chuyện chỉ
cần một tác nhân nhỏ cũng có thể gọi dậy. Tiếng sáo là một minh chứng rõ ràng như vậy, nó
gợi lại những kỉ niệm gắn bó với Mị khi còn tự do, khiến Mị nhẩm thầm theo lời bài hát:

“Mày có con trai con gái rồi

Mày đi làm nương

Tao chưa có con trai con gái

Tao đi tìm người yêu”

Lời bài hát giản dị, mộc mạc nhưng ẩn chứa một ngọn lửa đang bùng cháy. Dường
như trong vô thức, Mị vẫn ghi lại những gì sôi nổi nhất ở những năm tháng đã qua. Đó là
khao khát tự do, yêu đời, được kiếm tìm hạnh phúc lứa đôi và làm chủ cuộc đời mình. Lời
bài hát làm rung động cảm xúc nơi Mị vô cùng tha thiết, nó làm lớp băng lạnh nơi tâm hồn
Mị vơi dần đi, khiến lòng người con gái ấy len lỏi một vài tia nắng ấm áp mà tràn đầy hạnh
phúc.

Qua đoạn trích, ta thấy được ngòi bút thấm đẫm tinh thần nhân đạo của nhà văn Tô
Hoài. Đó là sự thương xót, đồng cảm với số phận bất hạnh của người lao động nghèo dưới
ách thống trị của bọn xâm lăng. Nhân vật Mị phải chịu sự áp bức, bất công trước thế lực
cường quyền mà không có sự lựa chọn hay bất kỳ phản kháng nào. Hơn nữa, tác giả còn
ngợi ca những vẻ đẹp bên trong con người họ. Dù cho bị dồn vào chân đường cùng, dù bị
tước đoạt mọi thứ hay bị đẩy vào hố sâu tuyệt vọng, họ vẫn giữ cho mình những phẩm chất
vô cùng đáng quý. Nhân vật Mị trong tác phẩm có khao khát sống tiềm tàng và mãnh liệt,
chẳng qua do sống quá lâu với cái khổ cực, vất vả khiến cô tưởng mình đã đánh mất. Nhưng
chính trong đêm tình mùa xuân, khát vọng ấy lại trỗi dậy và khiến cô thay đổi. Không chỉ có
vậy, nhà văn còn đồng tình với khát vọng giải phóng của người dân nghèo và ông tin rằng
chính khát khao ấy sẽ soi đường chỉ lối cho họ. Sức sống của Mị trong đêm tình mùa xuân
tuy tự phát nhưng nó là cơ sở để Mị đưa ra những quyết định quan trọng và hướng đến cuộc
sống tốt đẹp hơn.

Thông qua nghệ thuật kể chuyện bậc thầy của cây bút cả đời đi và viết, hành trình tìm
về ánh sáng của Mị càng trở nên chân thực và sống động hơn bao giờ hết. Với ngôi kể thứ
ba đan xen suy nghĩ nội tâm, ta được cảm nhận một cách toàn diện và bao quát nhân vật Mị.
Kết hợp chất thơ trong ngòi bút tinh tế của Tô Hoài đã khiến bức tranh núi rừng Tây Bắc
trở nên hùng vĩ và rực rỡ hơn. Đặc biệt, nghệ thuật miêu tả tâm lí nhân vật đặc sắc đã thể
hiện sự trân trọng, thấu hiểu ông dành cho nhân vật, từ đó tạo niềm tin nơi người đọc về
nhân vật, không chỉ trong tác phẩm mà còn ở đời sống hiện thực.

Truyện ngắn “Vợ chồng A Phủ” là một thành công về nghệ thuật và nội dung trong
phong cách sáng tác của Tô Hoài, quả thực đây là một tác phẩm đã vượt qua “sự băng hoại”
của thời gian để trở thành “một bản trường ca” hùng vĩ. Qua hành trình tự giải cứu bản thân
khỏi ngục thất tinh thần, ta càng trân trọng và ngợi ca vẻ đẹp sáng ngời nơi nhân vật Mị.

Đề bài: Trong truyện ngắn “Vợ chồng A Phủ” (Tô Hoài), nhân vật Mị đã hai lần
nghĩ đến việc ăn lá ngón:
“Một hôm, Mị trốn về nhà, hai tròng mắt còn đỏ hoe. Trông thấy bố Mị quỳ lạy, úp mặt
xuống đất, nức nở. Bố Mị cũng khóc, đoán biết lòng con gái:
- Mày về lạy tao để mày đi chết đấy à? Mày chết nhưng nợ tao vẫn còn, quan lại bắt tao trả
nợ. Mày chết rồi thì không còn ai làm nương ngô trả nợ người ta, tao thì ốm yếu quá rồi.
Không được, con ơi! Mị chỉ bưng mặt khóc. Mị ném nắm lá ngón xuống đất, nắm lá ngón
Mị đã tìm hái trong rừng, Mị vẫn giấu trong áo. Thế là Mị không đành lòng chết.”
“Bao nhiêu người có chồng vẫn đi chơi ngày Tết. Huống chi A Sử với Mị, không có lòng
với nhau mà vẫn phải ở với nhau! Nếu có nắm lá ngón trong tay lúc này, Mị sẽ ăn cho chết
ngay, chứ không buồn nhớ lại nữa...”
Anh/chị hãy phân tích chi tiết nắm lá ngón trong hai hoàn cảnh trên, từ đó nhận xét
ngòi bút xây dựng nhân vật của nhà văn Tô Hoài.
Họ và tên: Nguyễn Thị Yến Thanh
MHV: MV250
Điểm 4.5/5.0
BÀI LÀM
J.K. Rowling - tác giả của bộ tiểu thuyết phù thủy Harry Potter đã từng viết: “Tôi
không tin vào điều kỳ diệu trong sách của tôi, nhưng tôi tin vào điều kỳ diệu mà văn chương
đem lại”. Để nói rằng văn chương nghệ thuật luôn ẩn chứa những bí ẩn nhiệm màu, đặc biệt
có ý nghĩa với cuộc đời, mà chúng ta nên dành thời gian và tâm huyết khám phá. Và trong
những giây phút được đến với những số phận con người nơi miền núi Tây Bắc trong trang
văn “Vợ chồng A Phủ” của Tô Hoài, ta mới hiểu hơn về “điều kỳ diệu mà văn chương đem
lại ấy”. Hóa ra ở nơi rẻo cao lặng im và nhàm tẻ, có con người vẫn đang lấp đầy cuộc sống
bằng khát vọng tự do và hạnh phúc tha thiết như Mị, trong một đêm tình mùa xuân thiết tha
rạo rực.
Tô Hoài được mệnh danh là người sinh ra để viết với sự nghiệp sáng tác đồ sộ hơn
200 tác phẩm. Khi nhà văn ra đi, tưởng như một ngôi sao sáng đã vụt tắt trên bầu trời văn
học. Ông có tên khai sinh là Nguyễn Sen, sinh ra trong một gia đình làm nghề thủ công tại
Hà Nội. Thời trẻ ông phải làm nhiều nghề và sống cuộc sống khá vất vả. Những chính giai
đoạn này đã khơi mạch cho vốn sống phong phú, tuôn trào trên những trang văn. Tô Hoài đi
nhiều, mỗi mảnh đất mà ông d qua, mỗi con người mà ông có duyên gặp gỡ đều để lại
nguồn cảm hứng sáng tác dồi dào. Nếu như trước Cách mạng tháng Tám, ông hay viết về
loài vật, về cuộc sống của những người lao động nghèo khổ thì sau kháng chiến ông lại
hướng ngòi bút của mình vào người nông dân đang bị ách thống trị của giặc ngoại xâm. Và
đặc biệt ông tái hiện con đường giải phóng của họ. Trong nỗ lực tìm tòi và khám phá nghệ
thuật, nhà văn Nguyễn Minh Châu đã từng viết như một sẻ chia: “Nhà văn phải là một thứ
côn trùng lấy cái râu mà thăm dò không khí thời đại. Nhưng nhà văn muốn có tầm cỡ thời
đại thì phải ngụp sâu vào dân tộc mình, nhân dân mình”. Và cũng bắt nguồn từ sự “ngụp lặn
sâu” vào đời sống của dân tộc và nhân dân như thế, trong chuyến đi thực tế dài 8 tháng,
tham dự chiến dịch giải phóng Tây Bắc cùng bộ đội mà nhà văn Tô Hoài đã viết nên “Vợ
chồng A Phủ” được trích trong tập “Truyện Tây Bắc” (1953). Tác phẩm là kết quả của suốt
khoảng thời gian mà nhà văn “sống toàn tim, toàn trí, sống toàn hồn” với đồng bào dân tộc
miền núi Tây Bắc.
Trước khi về làm dâu nhà thống lí Pá Tra, Mị vốn là cô gái người Mèo tài năng, xinh
đẹp, tươi mới sắc xuân và sức sống của tuổi trẻ đến nỗi “trai đứng nhẵn cả chân vách đầu
buồng Mị”, vì vậy cô xứng đáng có được hạnh phúc. Nhưng sau khi bị A Sử - con trai của
thống lí Pá Tra cướp về làm vợ, hắn nhanh nhẹn như quẳng một vật phẩm vào cái hòm
thiêng nhờ thần linh khóa chặt, Mị đã bị ném vào kiếp sống “con dâu gạt nợ” ở nhà thống lí.
Nếu như con dâu là người được cưới hỏi một cách trịnh trọng và đàng hoàng, trở thành một
thành viên của gia đình chồng thì “con dâu gạt nợ” lại mang nhiều éo le, trắc trở và đắng
cay trong cuộc đời của mình. Nếu như con nợ có thể vin vào niềm hy vọng được tự do vào
một ngày trả xong nợ thì “con dâu gạt nợ” lại tối tăm và mù mịt trong con đường tự do ấy.
Trong Mị luôn ám ảnh một bóng ma nhẫn nhục, an phận “Ta là thân đàn bà, nó đã bắt ta
trình ma nhà nó rồi thì chỉ còn biết đợi ngày rũ xác ở đây thôi”. Hủ tục đã giết chết hạnh
phúc của Mị. “Vợ chồng A Phủ” chính là bản cáo trạng hùng hồn về những nỗi thống khổ
của người phụ nữ miền núi – những người vừa phải chịu gánh nặng của chế độ phong kiến,
vừa bị trói chặt trong xiềng xích của thần quyền.
Khi mới về nhà thống lý, “có đến mấy tháng, đêm nào Mị cũng khóc”. Mị trốn về
nhà với nắm lá ngón trong tay, nghĩ rằng mình có thể tự giải thoát cho bản thân mình. Thế
nhưng, vì thương cha, Mị lại ném lá ngón đi như ném đi khát vọng sống vẫn cháy bỏng bên
trong mình, như chôn vùi đi những tự do mà cô vẫn luôn luôn ấp ủ. Cô đã chấp nhận kiếp
con trâu, con ngựa trong căn nhà lạnh lẽo và tàn độ áy để rồi lần lần qua mấy mùa, mấy
năm, bố Mị mất nhưng Mị cũng thể nghĩ Mĩ có thể ăn lá ngón tự tử nữa. Thời gian đã làm
thay đổi mọi thứ, đã làm lụi tàn khát vọng sống tưởng chừng vô cùng mãnh liệt bên trong
Mị. Lúc này, bố Mị đã mất, sợi dây duy nhất gắn kết Mị với cuộc đời không còn nữa nhưng
cô không buồn nghĩ tới nắm lá ngón. Điều này chứng tỏ rằng, Mị không còn muốn chết để
giải thoát cho bản thân nữa rồi. Đối với cô, sống chết chẳng có ý nghĩa gì, bởi “ở lâu trong
cái khổ, Mị quen khổ rồi”. Phải chăng nắm lá ngón ấy, mặc dù gắn liền với cái chết nhưng
lại tượng trưng cho khát vọng sống bên trong Mị.
Khi Mị dám ăn lá ngón là Mị còn muốn sống. Nhưng khi Mị không còn nghĩ tới nắm
lá ngón cũng là lúc khát vọng sống bên trong mình đã lụi tàn dần. cái cảm giác quen thuộc
trong câu “Mị quen khổ rồi” là cảm giác thật đáng sợ. Nếu trước đây, người con gái ấy từng
có ý định tự tử bằng lá ngón, chấp nhận sự đày đọa, đau khổ về thể xác lẫn tinh thần để đổi
lấy sự bình yên cho bố mình thì giờ đây, người con gái ấy “quen khổ” tới mức chai sạn,
không còn tưởng đến việc ăn lá ngón tự tử nữa. Thứ độc dược của rừng xanh ấy không còn
là thứ cứu cánh cho cuộc đời đầy đau khổ và bế tắc của Mị ở giây phút hiện tại, cô chấp
nhận chuỗi bi kịch cứ mãi đeo bám tâm hồn và thể xác của mình. Mị sống mà như đã chết,
cuộc sống chỉ như là sự kéo dài của những ngày đã chết mà thôi. Đọc áng thơ của Nguyễn
Trọng Tạo trong “Đồng dao cho người lớn” thấy vô cùng đồng cảm:
“Có cánh rừng chết vẫn xanh trong tôi
Có con người sống mà như qua đời”.
Còn gì đáng sợ hơn trong cuộc đời là khi bóng đêm bên ngoài bao phủ nhưng lòng
con người ta lại là một vực thẳm không đáy? Mị sống trong nhà thống lí trong một trạng
thái vô cảm và vô hồn, con người ấy không còn có bất kỳ sự nối kết nào với cuộc sống này
cả, cuộc sống chỉ như là những chuỗi ngày đã chết mà thôi. Hình ảnh một cô gái tràn đầy
sức sống dường như chỉ còn là dĩ vãng, Mị bị bóc lột sức lao động một cách nặng nề. Sống
trong căn nhà man rợ ấy, cô cảm thấy bản thân mình không bằng kiếp con trâu, con ngựa,
“ngựa chỉ biết việc ăn cỏ, biết đi làm mà thôi”. Mị tự đánh giá thấp bản thân, Mị không còn
tôn trọng và trân quý những gì mà mình có. Dường như, Mị đang dần đánh mất đi một trong
những tài sản quý giá nhất của con người, đó là tình yêu, lòng tự tôn, là niềm kiêu hãnh ta
dành cho bản thân mình. Căn nhà ấy đã bóc lột Mị cả về thể xác lẫn tinh thần, đá “nuốt” mất
cái khát vọng sống vốn sôi sục của cô gái trẻ năm nào. Quả đúng như vậy, mỗi lần Mị nghĩ
tới cái chết là lúc khát vọng sống của Mị trỗi dậy mãnh liệt nhất.
Tưởng chừng cô gái tội nghiệp ấy đã đánh mất đi chính mình nhưng ít ai ngờ rằng ở
sâu thẳm trong tâm hồn cô vẫn là những đốm lửa nhỏ của lòng ham sống mãnh liệt. Dường
như nó đã được thổi bùng lên trong đêm tình mùa xuân. Ở Hồng Ngài, không khí mùa xuân
rộn rã trên khắp làng Mèo Đỏ, xen vào đó là những váy hoa sặc sỡ, tiếng nô đùa của đám trẻ
con xung quanh, của đám trai gái đánh pao, thổi sáo. Đặc biệt hơn, những đêm tình mùa
xuân, đêm của tình yêu, của uyên ương đã đến. Dù đó chỉ là yếu tố ngoại cảnh nhưng chúng
đã tác động sâu sắc tới tâm hồn chai sạn của Mị. Trong ngày xuân, Mị cũng lén uống rượu,
rượu là men say, là chất xúc tác của tâm hồn. Nó làm mờ đi thực tại, dẫn lối Mị về với xưa
cũ. Cô “uống ừng ực từng bát” như để quên đi cái khổ, cho vơi đi nỗi uất hận trong lòng.
men rượu cay nhưng lòng Mị còn đắng hơn nữa. Tiếng sáo của đêm tình mùa xuân ở Hồng
Ngài đã làm hồi sinh con người Mị, thức dậy cả một kí ức tươi đẹp và trỗi dậy lòng ham
sống đến cuồng nhiệt trong người con gái ấy. Chính cái tiếng sáo gọi bạn tình tha thiết,
mạnh mẽ đã dìu bay lên trên hoàn cảnh, nó là biểu tượng của niềm khao khát sống, khát
khao hạnh phúc. Từ “tiếng sáo gọi bạn yêu lửng lơ bay ngoài đường” trong áng văn Tô Hoài
làm tôi mơ màng nhớ đến “Tiếng sáo Thiên Thai” mà Thế Lữ viết trong Thơ Mới. Đó là cái
thanh âm vừa êm nhẹ như một lời tỏ tình vừa êm dịu như một vũ điệu trong thế giới thần
tiên:
“Khi cao, vút tận mây mờ,
Khi gần, vắt vẻo bên bờ cây xanh,
Êm như lọt tiếng tơ tình,
Đẹp như Ngọc Nữ uốn mình trong không”
Và cũng chính tiếng sáo mê hoặc trong đêm tình mùa xuân ấy đã khiến Mị “phơi
phới trở lại, trong lòng đột nhiên vui sướng như những đêm Tết ngày trước”. Một cảm giác
thực sự xa xỉ với Mị trong những năm tháng qua, khi cô luôn tự cho mình là con trâu, con
ngựa nhà thống lý, cô tự xem mình như con rùa lùi lũi nuôi nơi xó cửa. Dường như, từng
bước một, Mị đang đưa tâm tưởng mình quay trở về những năm tháng cũ. Mị nhận ra mình
“vẫn còn trẻ. Mị muốn đi chơi”. Cô bắt đầu nhận thức lại về giá trị của bản thân mình - đây
chính là một trong những niềm tin quan trọng, tạo nền tảng cho những suy ngẫm và hành
động đầy quyết liệt của Mị sau này. Cái khao khát được sống trong yêu thương đã bùng
cháy trong lòng Mị. Cô là một con người bằng xương bằng thịt chứ không phải cỗ máy, cô
cũng có những đòi hỏi về tinh thần. Mị so sánh mình với bao người phụ nữ xkhacs: “Bao
nhiêu người có chồng cũng đi chơi ngày Tết”. Sự so sánh cho thấy, Mị đã bắt đầu sáng suốt
trở lại, cô đã bắt đầu có sự đòi hỏi về quyền lợi của mình, cô đã bắt đầu nhận ra sự bất công.
Trước đó, Mị quen khổ, Mị chấp nhận thực tại. Còn giờ đây Mị đau đớn nhận ra mình
không đáng phải chịu cái hoàn cảnh ấy. “Hướng chi A Sử với Mị, không có lòng với nhau
mà vẫn phải ở với nhau!” Nhắc lại tới điều ấy, cái ý muốn tự tử của Mị lại quay trở lại:
“Nếu có nắm lá ngón trong tay lúc này, Mị sẽ ăn cho chết ngay, chứ không buồn nhớ lại
nữa”. Một lần nữa, chi tiết nắm lá ngón lại xuất hiện. Khác với lần trước khi Mị không nghĩ
tới việc ăn lá ngón tự tử thì giờ đây trước cái thực tại phũ phàng này, cô đã thay đổi suy
nghĩ của mình để nhận ra được khát vọng vẫn luôn ngủ quên. Điều đó chứng tỏ khát vọng
sống trong Mị đã quay trở lại và thậm chí còn mãnh liệt hơn nữa. Cô nhận ra cuộc sống cay
nghiệt mà mình đang phải chịu đựng. Nếu tiếp tục sống nhàm chán như vậy, cô thà chết còn
hơn. Tuy nhiên, khát vọng đó chưa đủ mạnh mẽ để phá tan sợi dây trói uy quyền của A Sử,
của nhà thống lí. Thế nhưng nó chính là động lực to lớn thôi thúc Mị có những hành động tự
giải thoát mình trong đêm đông cứu A Phủ.
Đây là đoạn văn thật đẹp và thơ mộng. Nó chẳng những khắc họa được cái sức sống
mãnh liệt không gì dập tắt được của tuổi trẻ mà còn làm sống lại không khí văn hoá ngày
hội đẹp đẽ, đắm say của người dân tộc đã chuyển thành đời sống tâm hồn của nhân vật.
Đồng thời đoạn văn cũng thấm đượm một niềm xót thương vô hạn cho số phận người con
dâu trừ nợ, và nâng niu những giấc mơ tình tứ đẹp đẽ của một con người. Ngòi bút của tác
giả quả đã thâm nhập sâu sắc vào những biến hóa. Ngòi bút của tác giả quả đã thâm nhập
sâu sắc vào những biến hóa, đổi thay tinh vi của tình cảm nhân vật, biểu hiện một tấm lòng
nhân đạo tha thiết, hiểu thấu những đường nét quanh co, bí ẩn của nó.
Tô Hoài đã dành khá nhiều tâm huyết trong việc miêu tả tâm lí, tính cách nhân vật.
Đặt nhân vật trong những hoàn cảnh thích hợp, tác giả đã miêu tả được bước chuyển sinh
động của tâm lí nhân vật trong sự phát triển từ tiệm tiến đến đột biến, bất ngờ hợp lý và hấp
dẫn. Nhân vật Mị từ chỗ cúi đầu, buồn câm lặng đến muốn đi chơi xuân. Nhà văn đã nhìn
nhân vật Mị bằng cái nhìn đầy trìu mến, yêu thương. Tuy nghèo khổ nhưng cô là những
người đẹp người đẹp nết, dũng cảm, yêu đời, yêu lao động, khỏe mạnh. Có thể dễ thấy điều
này qua những từ ngữ đầy ưu ái Tô Hoài dành cho Mị: “Mị thổi sáo giỏi”, “Có biết bao
người mê, ngày đêm thổi sáo đi theo Mị hết núi này sang núi khác”, “Trai đến đứng nhẵn cả
chân vách đầu buồng Mị”, Không dừng lại ở những đặc điểm bên ngoài, nhà văn tìm thấy ở
họ những phẩm chất tốt đẹp. Mị thà phải lao động vất vả hơn làm con dâu nhà giàu. Bên
ngoài cái xác không hồn khô cứng của Mị, Tô Hoài nhận thấy tiềm tàng một sự phản kháng,
một sức mạnh kì diệu, một ngọn lửa tự do vẫn còn âm ỉ.
Thông qua cách kể chuyện bậc thầy của nhà văn Tô Hoài, diễn biến tâm lý của nhân
vật Mị để lại bao dư vị khó phai trong lòng người đọc. Với cách kể nửa trần thuật, lời của
tác giả như nói lên gan ruột, vô thức của nhân vật, đã vẻ lên đủ loại cung bậc trong tình cảm
Mị: lúc tự tin, lúc ai oán, lúc dằn dỗi, uất ức, lúc cả quyết.... Không thể không kể đến ngòi
bút miêu tả sâu sắc cùng ngôn ngữ giàu chất thơ, kết hợp với ngôi kể thứ ba mang đến một
góc nhìn khách quan. Bên cạnh đó, các chi tiết cũng được lựa chọn rất công phu, chúng
được miêu tả như khêu gợi, đan cài, cái này gợi ra cái kia, một cách tự nhiên. Chi tiết của
Vợ chồng A Phủ giàu chất tạo hình của điện ảnh và giàu chất thơ. Đây đúng là một tác
phẩm tiêu biểu cho thành tựu văn xuôi của văn học cách mạng.
Hành trình thay đổi trong diễn biến tâm lý của nhân vật Mị đã thực sự truyền cảm
hứng sâu sắc tới cá nhân tôi. Mị đã từng có lúc lãng quên khát vọng sống, Mị đã từng buông
xuôi và phó mặc mọi thứ cho dòng đời, Mị đã từng quen với cái khổ để rồi chấp nhận chôn
vùi thanh xuân. Thế nhưng cô Mị của nhà văn Tô Hoài cuối cùng đã không bỏ cuộc. Có lẽ,
giá trị lớn nhất của mỗi chúng ta chính là niềm tin vào bản thân, là khát vọng sống mãnh liệt
để ta luôn vươn veefphias trước. Không chấp nhận từ bỏ khát vọng ấy, đồng nghĩa với
không đanh smaats chính mình, không đánh mất cơ hội sống một cuộc đời có ý nghĩa. Và
nhân đây, tôi xin mượn mấy vần thơ của Trần Đông Phong để bày tỏ lòng trân quý với nhà
văn Tô Hoài - một trong những người đã làm nên “mùa gặt ngoạn mục nhất của văn học
Việt Nam thế kỷ 20”:
“Sông Tô một thoáng mây mờ
Phủ Hoài lắng tiếng vẫn chờ đợi ai
“Truyện Tây Bắc” mãi nguôi ngoai
“Vợ chồng A Phủ” nhớ ai bên trời”.

TÁC PHẨM “VỢ NHẶT”


Đề bài : Cho đoạn trích sau:
“...Hôm nay thị rách quá, áo quần tả tơi như tổ đỉa, thị gầy sọp hẳn đi, trên cái mặt lưỡi
cày
xám xịt chỉ còn thấy hai con mắt.
– Hôm ấy leo lẻo cái mồm hẹn xuống, thế mà mất mặt. À, hắn nhớ ra rồi, hắn toét miệng
cười.
– Chả hôm ấy thì hôm nay vậy. Này, hẵng ngồi xuống ăn miếng giầu đã.
– Có ăn gì thì ăn, chả ăn giầu.
Thị vẫn đứng cong cớn trước mặt hắn.
– Đấy, muốn ăn gì thì ăn.
Hắn vỗ vỗ vào túi.
– Rích bố cu, hở !
Hai con mắt trũng hoáy của thị tức thì sáng lên, thị đon đả :
– Ăn thật nhá ! Ừ ăn thì ăn sợ gì.
Thế là thị ngồi sà xuống, ăn thật. Thị ăn một chặp bốn bát bánh đúc liền chẳng chuyện trò
gì. Ăn xong, thị cầm dọc đôi đũa quệt ngang miệng, thở :
– Hà, ngon ! Về chị ấy thấy hụt tiền thì bỏ bố.
Hắn cười :
– Làm đếch gì có vợ. Này nói đùa chứ có về với tớ thì ra khuân hàng lên xe rồi cùng về.
Nói thế Tràng cũng tưởng là nói đùa, ai ngờ thị về thật. Mới đầu anh chàng cũng chợn,
nghĩ thóc gạo này đến cái thân mình cũng chả biết có nuôi nổi không, lại còn đèo bòng. Sau
không biết nghĩ thế nào hắn tặc lưỡi một cái :
– Chậc, kệ!
( Vợ nhặt – Kim Lân, SGK Ngữ Văn 12, NXB Giáo dục )
Phân tích đoạn trích trên, từ đó nhận xét giá trị nhân đạo trong ngòi bút của Kim Lân.
Họ và tên: Vũ Thị Lê Phương
Lớp: Cấp tốc 2k4
Điểm: 4.5/5.0

BÀI LÀM
Bản chất của văn học là phản ánh hiện thực cuộc sống thông qua lăng kính chủ quan
của tác giả. Hiện thực ấy không trần trụi, xơ xác, không chỉ để nhìn thấy, nghe thấy mà còn
tìm được sự đồng cảm sâu sắc nơi trái tim bạn đọc. Một tác phẩm mang đúng bản chất văn
học phải là một tác phẩm có tình huống truyện và nhân vật đặc sắc, nơi hội tụ những khía
cạnh tinh hoa, từ hiện thực đời sống đến tư tưởng nhân đạo và tài năng của người nghệ sĩ.
“Vợ nhặt” của Kim Lân là một tác phẩm như thế. Đặc biệt thông qua đoạn trích: “Hôm nay
trông thị rách quá… Hắn tặc lưỡi một cái: “Chậc, kệ!”, ta vừa thấy hiện thực tăm tối của dân
tộc vào những năm 1945 xảy ra nạn đói khủng khiếp, vừa thấm thía tình cảm, tư tưởng nhân
đạo tác giả muốn gửi gắm, lại càng nể phục tài năng xây dựng nhân vật, tình huống tinh
xảo, đặc sắc của “cây bút làng quê”.
Nhận xét về phong cách sáng tác của Kim Lân, nhà văn Nguyên Hồng từng ngả bút:
“Kim Lân là nhà văn một lòng một dạ về với đất, với người, với thuần hậu nguyên thủy của
cuộc sống nông thôn”. Ông gửi hồn mình vào những kiếp người nhỏ bé, lam lũ, gửi ngòi bút
mình vào những niềm đau, nỗi bất hạnh của người nông dân để lắng nghe, sẻ chia và thấu
hiểu. Kim Lân viết ít nhưng viết kỹ lưỡng, thuộc lớp nghệ sĩ “quý hồ tinh, bất quý hồ đa”.
Mỗi tác phẩm của Kim Lân đều như viết từ ruột gan của mình. Thấu hiểu sâu sắc tâm lý và
cảnh ngộ của người nông dân, ngòi bút Kim Lân bao giờ cũng toát lên vẻ đôn hậu, gần gũi
lại chân thực vô cùng. Truyện ngắn “Vợ nhặt”là một thiên truyện xuất sắc không chỉ trong
sự nghiệp cầm bút của nhà văn mà còn của cả nền văn học Việt Nam hiện đại sau cách
mạng. Tác phẩm có tiền thân là tiểu thuyết “Xóm ngụ cư” được viết ngay sau cách mạng
tháng Tám thành công nhưng còn dang dở và bị mất bản thảo. Hòa bình lập lại, dựa vào một
phần cốt truyện cũ, tác giả đã viết nên thiên truyện ngắn “Vợ nhặt” - là linh hồn của tập
truyện “Con chó xấu xí”, xuất bản năm 1962. Tác phẩm không chỉ phản ánh hiện thực thê
thảm, tối tăm trong nạn đói 1945, khi nhân dân ta phải đứng trên bờ vực của cái chết, sự
sống lay lắt và giá trị con người trở nên rẻ rúng, tầm thường. Nhưng ta vẫn thấy sáng lên vẻ
đẹp của tình người, khát khao về một mái ấm hạnh phúc trong sâu thẳm những trái tim khốn
khổ. Dẫu khó khăn là thế, họ vẫn sẵn sàng yêu thương và đùm bọc lẫn nhau. Đặc biệt qua
đoạn trích “Hôm nay trông thị rách quá… Chậc, kệ!”, những giá trị hiện thwucj và tư tưởng
nhân đạo nhà văn gửi gắm đã đi sâu vào lòng bạn đọc và tạo nên thành công cho thiên
truyện.
Hiện thực đau thương đã được thể hiện ngay ở nhan đề tác phẩm “Vợ nhặt”. Xưa
nay, lấy vợ gả chồng là chuyện trọng đại, để lấy người phụ nữ về, kẻ phải có sính lễ “voi
chín ngà gà chín cựa”, người lại tốn “trăm đồng bạc trắng”. Vậy mà ở đây lại là “Vợ nhặt”.
“Nhặt” là động từ chỉ hành động lấy một vật thường là rẻ mạt, tầm thường thế nhưng nó lại
đi với một danh phận cao quý. Điều này đã trực tiếp nói lên cái rẻ rúng, giá trị con người bị
chà đạp như cho không trong nạn đói. Nhan đề thôi thúc người đọc về một tình huống
truyện đặc sắc đầy thú vị nhưng không kém triết lý nhân sinh về tình người, tình đời trong
xã hội cũ.
Cái đói thê thảm đã bào mòn không chỉ ngoại hình mà cả nhân cách của nhân vật thị.
Ở lần đầu tiên gặp Tràng, thị là người con gái tốt bụng, giúp đỡ anh đẩy xe bò, nụ cười của
nàng đã khiến Tràng rung động. Vậy mà giờ đây, ở lần gặp thứ hai này, cái đói bào mòn thể
xác thị, khiến cô như một “thây ma” biết đi, “quần áo rách tả tơi”, “gầy sọp hẳn đi”, “mặt
lưỡi cày xám xịt”, “hai con mắt trũng hoáy”. Cô cũng là nạn nhân trôi dạt trong cơn lũ đói
khát giữa cơn bỉ cực này. Cái đói không chỉ làm thay đổi diện mạo của người con gái tội
nghiệp mà nó còn biến thị trở thành người đàn bà chao chát, bất chấp sĩ diện vì miếng ăn.
Điều đó thể hiện từ lời nói đến hành động. Trước hết, trong lời nói, thị trở nên “chao chát”,
“chỏng lỏn”, “cong cớn” khi giao tiếp mà quên đi lòng tự trọng, sự ý nhị của người con gái.
Thị cũng biết câu hò trước đây Tràng hát là hò vui, vì thời buổi đói khát ấy, anh nông dân
đẩy xe bò thuê thì lấy đâu “cơm trắng mấy giò”, cô giúp đỡ cũng vì cái nghĩa tình nên cười
với anh tít cả mắt. Thế nhưng, bây giờ cô đã đói quá rồi, nhìn bộ dạng thảm thương của cô
có lẽ cũng mấy ngày chẳng được ăn chút gì. Câu hò hôm ấy nay thành cái cớ để cô được ăn
và cô phải đòi cho được để có thể được sống. Cô đòi hỏi “ăn gì chứ chả ăn giầu”, rồi “sà
xuống ăn một chập bốn bát bánh đúc”. Sự ý tứ bây giờ là vô nghĩa, cái quan trọng trước mắt
cô là sống. Ăn không chỉ no mà ăn cho cả những bữa sau, dè chừng cho cái đói của những
ngày tiếp đến. Hành động “cầm dọc đôi đũa quẹt ngang miệng” như cố gắng bòn vén chút
vụn còn sót lại trên đôi đũa ấy, tiếc từng miếng ăn. Với chúng ta, đó chỉ là món bánh đúc
dân dã đời thường. Với thị, đó là cả sự sống. Sự vô sĩ diện lên đến đỉnh điểm khi thị sẵn
sàng theo không Tràng về làm vợ. Trong cơn lũ của nạn đói, thị là người đang chết đói, vớ
được cái cọc là Tràng, thị đã bấu víu lấy để duy trì sự sống. Thân phận người phụ nữ thật rẻ
rúng bởi chỉ bằng bốn bát bánh đúc, một câu nói đùa, hai hào dầu, một cái thúng con,... đã
thành vợ người ta rồi.
Nhưng ẩn sau những hành động bất chấp sĩ diện đó, là vẻ đẹp của người phụ nữ với
khát khao sống và khát khao hạnh phúc. Bất chấp đòi ăn cũng chỉ để kéo bản thân ra khỏi
cửa tử thần. Dẫu trong bờ vực cái chết, cô vẫn hướng về sự sống, không chấp nhận gục ngã,
từ bỏ cơ hội sống của chính mình. Không những thế, thị còn là người tràn đầy khao khát
hạnh phúc, có lẽ cô cũng thấy được sự phúc hậu, nghĩa tình ở anh cu Tràng mà chấp nhận
giao nửa đời còn lại cho anh.
Pautopxki từng nói: “Truyện ngắn là một truyện viết rất ngắn gọn, trong đó cái không
bình thường hiện ra như một cái gì đó bình thường”. Thật vậy, hành động cho thị ăn những
bốn bát bánh đúc tưởng chừng bình thường đó lại làm hiện lên một nhân cách cao đẹp của
chàng ngốc Tràng. Tràng làm nghề đẩy xe bò, gia cảnh lại nghèo khổ, bữa cơm hôm ấy anh
còn chưa biết lo nổi không, lại sẵn sàng mời cô nàng xa lạ một bữa ra trò. Có thể thấy,
Tràng mời là xuất phát từ tình thương người, từ nỗi xót xa cho cảnh đói của thị chứ không
phải xuất phát từ ý định chọc ghẹo nàng. Còn hành động “nhặt vợ” nhìn có vẻ “không bình
thường” ấy lại hóa “bình thường” vì tất cả bắt nguồn từ khát khao mái ấm gia đình chân
chính. Tình cảnh Tràng nhặt thị là giữa nạn đói, lúc cho nhau miếng ăn là cho nhau mạng
sống. Vậy mà Tràng gạt qua tất cả vì hai tiếng “gia đình”. Tất nhiên ban đầu, anh cũng
“chợn”, nhưng khao khát tình cảm lứa đôi trong anh đã chiến thắng tất cả để anh “Chậc,
kệ!”. Cái tặc lưỡi cho qua đó là đón đồng thời cả “thần hạnh phúc” lẫn “thần chết” vào ngôi
nhà của mình.
“Cốt lõi của nhà văn là nhà nhân đạo từ trong cốt tủy”. Sự nhân đạo của một cây bút
được ghi tạc rất rõ qua tác phẩm của họ. Tác giả đã dành sự đồng cảm sâu sắc cho nhân vật,
đồng thời phát hiện và ngợi ca những giá trị tốt đẹp của họ, giúp cho những thân phận bé
nhỏ nói lên ước nguyện và có cơ hội đấu tranh cho những ước nguyện ấy. Không những thế,
tác phẩm nói chung và đoạn trích nói riêng sẽ lên án, tố cáo mạnh mẽ tội ác của phát xít
Nhật, thực dân Pháp và lũ tay sai đẩy dân ta vào đau thương.
Leptonxtoi từng nói: “Mỗi tác phẩm nghệ thuật là kết quả của tình yêu. Tình yêu con
người, ước mơ cháy bỏng về một xã hội công bằng, bình đẳng, bác ái, thôi thúc các nhà văn
sống và viết, vắt kiệt những dòng suy nghĩ và hiến dâng bầu máu nóng của mình cho nhân
loại”. Kim Lân đã “hiến dâng bầu máu nóng” để cất lên lời ca về vẻ đẹp tình người, để cất
lên tiếng nói tôn vinh những khát khao chân chính của con người. Nếu nhà văn không đặt
niềm tin nơi những số phận như Tràng, như thị thì có lẽ tác phẩm đã không sâu sắc đến thế.
Ông đã xây dựng tình huống truyện đầy bất ngờ, giàu kịch tính lại rất đời, rất độc đáo. Giữa
cái nền hiện thực của cảnh đói khát, phận người lay lắt, ta vẫn thấy sáng lên một niềm khao
khát, hạnh phúc mãnh liệt, vẫn thấy ánh lên vẻ đẹp tình người qua những hành động bình dị
mà thấm thía. Kim Lân đã làm tròn nhiệm vụ của nhà văn chân chính là “đưa ánh sáng vào
trái tim người đọc” (George Sand). Không chỉ thế, Kim Lân còn khám phá và miêu tả nhân
vật một cách tài tình. Từ tâm lý, điệu bộ, lời nói đều phù hợp với hoàn cảnh những người
dân nghèo trong nạn đói. Giọng kể mộc mạc, hóm hỉnh, ngôn ngữ đời sống gần gũi được
gạn lọc tài tình, tinh tế. Tất cả đã góp phần tạo nên sự đặc sắc cho thiên truyện.
Tác phẩm “Vợ nhặt” đã đến và để lại trong chúng ta một thứ thanh âm diệu kỳ. Để
chúng ta khám phá, hiểu biết thực tại, để ta đi sâu và len lỏi vào trong trái tim mình, để cùng
thở, cùng đập, cùng giao thoa. Nếu coi cả tác phẩm là dòng sông, thì đoạn trích là con xoáy
nước làm cuộn trào những giá trị tư tưởng nhà văn muốn gửi gắm. Đó là tố cáo những gì
đáng tố cáo, ngợi ca những điều đáng ngợi ca và làm bất tử những điều đáng bất tử trong
lòng bạn đọc cũng như trong cuộc đời này.
Đề bài: Đọc đoạn trích sau
"Bữa cơm ngày đói trông thật thảm hại. Giữa cái mẹt rách có độc một lùm
rau chuối thái rối, và một đĩa muối ăn với cháo, nhưng cả nhà đều ăn rất ngon
lành. Bà cụ vừa ăn vừa kể chuyện làm ăn, gia cảnh với con dâu. Bà lão nói toàn
chuyện vui, toàn chuyện sung sướng về sau này:
- Tràng ạ. Khi nào có tiền ta mua mua lấy đôi gà. Tao tính rằng cái chỗ đầu bếp
kia làm cái chuồng gà thì tiện quá. Này ngoảnh đi ngoảnh lại chả mấy chốc mà
có ngay đàn gà cho mà xem...
Tràng chỉ vâng. Tràng vâng rất ngoan ngoãn. Chưa bao giờ trong nhà này mẹ
con lại đầm ấm, hòa hợp như thế. Câu chuyện trong bữa ăn đang đà vui bỗng
ngừng lại. Niêu cháo lõng bõng, mỗi người được có hai lưng bát đã hết nhẵn.
Bà lão đặt đũa bát xuống, nhìn hai con vui vẻ:
- Chúng mày đợi u nhá. Tao có cái này hay lắm cơ.
Bà lão lật đật chạy xuống bếp, lễ mễ bưng ra một cái nồi khói bốc lên nghi ngút.
Bà lão đặt cái nồi xuống bên cạnh mẹt cơm, cầm cái môi vừa khuấy khuấy vừa
cười:
- Chè đây. - Bà lão múc ra một bát - Chè khoán đây, ngon đáo để cơ.
Người con dâu đón lấy cái bát, đưa lên mắt nhìn, hai con mắt thị tối lại. Thị điềm
nhiên và vào miệng. Tràng cầm cái bát thứ hai mẹ đưa cho, người mẹ vẫn tươi
cười, đon đả:
- Cám đấy mày ạ, hì. Ngon đáo để, cứ thử ăn mà xem. Xóm ta còn khối nhà chả
có cám mà ăn đấy.”
(Trích “Vợ nhặt” – Kim Lân)
Phân tích đoạn trích trên, từ đó nhận xét ngòi bút nhân đạo sâu sắc của nhà văn Kim
Lân khi khắc họa hình tượng người mẹ.
Họ và tên: Phạm Thúy Hằng
MHV: MV092
Điểm: 4.75/5.0

BÀI LÀM
Nhà văn Nga I. Bônđarep từng viết: "Nghệ thuật được sinh ra từ những thái cực và
xung đột". Ý kiến này quả thật sâu sắc và đúng đắn khi nói về tác phẩm “Vợ nhặt” của Kim
Lân. Với thiên truyện này, người nghệ sĩ ấy đã mở đường đưa bạn đọc quay về với bối cảnh
nạn đói năm 1945. Cái đói năm ấy day dứt ám ảnh và đã trở thành nỗi ghê sợ đối với tất cả
những con người trải qua nó, ông gợi mở về bức tranh hiện thực đầy thê thảm, tang thương
của những người nông dân nghèo khổ, bần cùng. Số phận của họ bây giờ chỉ mong manh lẻ
loi như cánh diều gặp phải cơn bão dữ tợn, ghê gớm. Nhưng thật lạ thay, trong cái day dứt,
ám ảnh về những chiếc bụng lép kẹp những khuôn mặt bủng beo, hao mòn, Kim Lân lại
không nói về cái chết cái ghê rợn hay đau đớn. Phải chăng có ánh hào quang nào đó đã dọi
chiếu vào “đứa con tinh thần” của người nghệ sĩ? Ngoài cái đói, nhà văn đã phát hiện ra tình
thương người cũng như nổi bật hơn cả là tấm lòng thương con của người mẹ trong cái ngặt
nghèo của cuộc sống. Qua đoạn trích, ở cảnh buổi sáng hôm sau, nhà văn Kim Lân đã cho
chúng ta cái nhìn sâu sắc về hình tượng người mẹ cũng như ngòi bút nhân đạo sâu sắc của
ông.
Tố Hữu từng nói: “Văn học thực chất là cuộc đời. Văn học sẽ không là gì cả nếu
không vì cuộc đời mà có. Cuộc đời là nơi xuất phát cũng là nơi đi đến của văn học.” Và ở
trong văn chương của Kim Lân, ta thấy được những điều giản dị ấy của cuộc sống. Nhà văn
luôn đem đến điều chân thật, mộc mạc, đời thường nhưng để lại dấu ấn vô cùng sâu đậm
trong tâm hồn bạn đọc. Sổ tác phẩm ông viết không nhiều nhưng chất lượng lại vô cùng
đáng nể phục. Nhà văn ấy không sáng tác bằng ánh nhìn của một người ngoài cuộc mà ông
viết bằng chính những trải nghiệm chân phương của mình. Kim Lân không hổ danh là nhà
văn đi “về với đất, người,với thuần hậu nguyên thủy của cuộc sống nông thôn”, như “người
thư ký trung thành của thời đại” đã chép lại bức tranh làng quê năm 1945 trên mỗi trang văn
của mình. Với “Vợ nhặt”, tác phẩm chính là kết quả của hai lần cầm bút của người nghệ sĩ
có phần khiêm tốn ấy. Trước Cách mạng tháng Tám, ông viết truyện ngắn “Xóm ngụ cư”
nhưng lại bị dang dở, mất bạn thảo. Sau khi hòa bình trở lại, ông đã dựa vào một phần tích
truyện cũ để viết tiếp tác phẩm.
Trong bức tranh làng quê đang tối sầm lại vì đói khát ấy, vẫn có một thứ luôn sáng
lấp lánh đó là tình yêu thương giữa con người với nhau và nổi bật hơn cả là tình yêu thương
của người mẹ dành cho những đứa con của mình. Dù là tình yêu đối với đứa con trai trẻ con
ngờ nghệch hay là tình thương đối với nàng dâu mới khốn khổ, bần cùng vì đói khát, tất cả
đều đang đáng quý, đáng trân trọng cuộc sống. Cho dù cái đói đã dồn ép họ vào chân tường
của sự tuyệt vọng thì tình yêu thương ấy vẫn còn, họ sẵn sàng sẻ chia, đồng cảm, cưu mang
lẫn nhau để cùng nhau vượt qua nạn đói đầy ám ảnh và tang thương đó.
Bà cụ Tứ chính là bức chân dung rõ nhất con người trong cái đói heo hắt, ám ảnh ấy.
Cái đói tràn về không chỉ làm héo mòn thân xác của người phụ nữ già cả mà còn vắt kiệt
niềm tin, niềm hy vọng vào cuộc sống của bà cụ. Với gia cảnh đã không mấy no đủ bà con
phải gánh thêm cái mác “dân ngụ cư” và số phận còn trêu đùa người phụ nữ khốn khổ khi
chẳng còn chồng ở bên gánh vác trách nhiệm chăm lo cho gia đình, con cái. Tuy chịu cảnh
mẹ góa con côi với trăm ngàn khốn khổ nhưng với lòng ham sống và trách nhiệm với đứa
con nên gia đình bà đã dắt díu nhau lên vùng này để kiếm cái ăn, để không phải trơ mắt nhìn
cái đói lũ lượt cướp đi sinh mạng của bản thân và đứa con trai giữa cái bối cảnh tối lại vì đói
khát. Giữa những ngày tháng ngặt nghèo khốn khổ nhất của cuộc đời thì đứa con trai của bà
lại dẫn về một người phụ nữ xa lạ, thông báo rằng: “Nhà tôi nó mới về làm bạn với tôi đấy u
ạ”. Khi đứng giữa ranh giới buộc phải lựa chọn một bên là cái đói khiến cạn dần đi chút
sinh khí cuối cùng và một bên là niềm hạnh phúc mới chớm nở của người con trai, người
mẹ ấy vẫn dành sự ưu tiên cho đứa con. Bà chấp nhận nàng dâu mới trong bao nỗi niềm cơ
sự, dù thương người con gái sa cơ lỡ bước đến cảnh này, thương nàng dâu mới nhưng trong
lòng bà vẫn không khỏi lo lắng, đau khổ trước hiện thực phũ phàng tàn khốc đang bám riết.
Vào buổi sáng hôm sau, bà cụ Tứ với dáng vẻ tươi tỉnh, nhẹ nhõm cùng thị dọn dẹp
và sửa soạn lại nhà cửa. Khi anh cu Tràng thức dậy cũng là lúc cả nhà cùng quây quần bên
mâm cơm đón người con dâu mới “giữa cái mẹt rách có độc một lùm rau chuối thái rối, và
một đĩa muối ăn với cháo” nhưng ai cũng thấy vui vẻ vì một bữa cơm hạnh phúc. Có lẽ, đó
là niềm vui hiếm hoi giữa khung cảnh đang tối sầm lại vì đói khát này, đó cũng chính là
chút thoải mái hiếm hoi mới xuất hiện lại trong căn nhà đã từ lâu bị bỏ bê, quên lãng. Bà cụ
Tú luôn tươi cười, chuyện trò rôm rả, thân mật và trìu mến. Với cả hai đứa con của mình,
người mẹ ấy muốn gợi lên không khí đầm ấm, gợi lên niềm vui vẻ, sung sướng và niềm tin
vào tương lai tươi sáng hơn ở phía trước. Phải chăng đây chính là khát vọng, niềm mơ ước
duy nhất của bà ngay trong thời điểm hiện tại. Bà mẹ mơ về một niềm hạnh phúc no đủ với
sự ấm áp của một gia đình trọn vẹn. Những tưởng người đã có tuổi sẽ có xu hướng nói về
quá khứ, về những điều đã qua trong suốt cuộc đời mình nhưng bà cụ Tứ không làm vậy và
hơn thế bà không dám làm bởi bà thương những đứa con đang còn non nớt, không muốn
dập tắt đi niềm hân hoan mới chớm nở của đôi vợ chồng trẻ. Người mẹ thắp lên niềm hy
vọng cho những đứa con bằng những câu chuyện đầy hy vọng vào tương lai “Tràng ạ, khi
nào có tiền ta mua lấy đôi gà. Tao tính rằng cái chỗ đầu bếp kia làm cái chuồng gà thì tiện
quá. Này ngoảnh đi ngoảnh lại chả mấy mà có ngay đàn gà cho xem” chỉ bấy nhiêu chuyện
nuôi đàn gà, chăm sóc và chỉ nhìn chúng lớn lên cũng đủ soi sáng căn nhà vốn đã tối tăm lại
càng u uất hơn vì nạn đói này. Kim Lân đã sử dụng ngòi bút đầy tinh tế và sắc sảo của mình
để thương thay khóc mướn cho những người dân cơ cực và đặc biệt là những người phụ nữ
tần tảo thương con hy sinh vì con như bà cụ Tứ. Người mẹ già nua khốn khổ chỉ vui trọn
niềm hạnh phúc của những đứa con và đau khổ khi chúng chịu đau đớn, bất hạnh, tổn
thương
Dù bà cụ Tứ đã cố gắng hết sức để giữ lại những khoảnh khắc tươi đẹp trong bữa
cơm đầu tiên nhưng hiện thực lại một lần nữa gõ cửa “niêu cháo lõng bõng mỗi người được
lưng lưng hai bát đã hết nhẵn”, một lần nữa tất cả những gì mà bà nỗ lực vẽ ra, những mộng
tưởng về tương lai tốt đẹp bị dập tắt không thương tiếc. Họ lại phải đối mặt với thực tế tàn
khốc, ghê sợ, dù cho muốn trốn tránh nhưng chính sự hiện diện của niêu cháo đã cạn kiệt
dần khiến họ không thể quên đi sự thật là cái đói đang nuốt chửng từng căn nhà nơi xóm
ngụ cư nghèo khổ. Thế nhưng bà lão lại lật đật chạy xuống bếp để lại hai đứa con bằng cái
giọng dặn dò “Chúng mày đợi u nhé, tao có cái này hay lắm cơ”, niềm hân hoan, xởi lởi
không thể giấu nổi qua câu nói của bà mẹ . Một lát sau, bà bưng ra một cái nồi khói bốc lên
nghi ngút và vui vẻ giới thiệu là chè khoán, những tượng đó là thức trẻ ngon ngọt được
nhiều người yêu thích và cũng là thứ xa xỉ trong hoàn cảnh lúc bấy giờ. Nhưng thực chất đó
lại là nồi cháo cám, thứ đồ ăn chỉ dành cho động vật, là tập hợp của tất cả những đồ ăn thừa
thãi mà tạo thành. Tấm lòng người mẹ ấy không biết đã giấu nhẹm đi biết bao cơ sự lắng lo.
Đối với hai đứa con của mình, bà muốn giữ lại chút niềm hy vọng bé nhỏ, không nỡ dập tắt
đi chút ánh sáng mong manh vừa được thắp lên. Bà mong thấy được nụ cười vui vẻ của đôi
vợ chồng mới cưới. Lòng người mẹ ấy chỉ mong con mình được hạnh phúc chứ chưa một
lần khao khát điều gì cho riêng mình.
Giống như người đàn bà hàng chài trong “Chiếc thuyền ngoài xa” của Nguyễn Minh
Châu, mụ đã hy sinh tất cả cam chịu nhẫn nhục, sự tra tấn về cả thể xác lẫn tinh thần để bảo
vệ đàn con của mình. Mụ làm tất cả chẳng phải vì sợ sệt ánh mắt của người khác bởi mụ
không coi trọng cả thân thể hay danh dự của bản thân. Người đàn bà hàng chài đáng thương,
tội nghiệp nhẫn nhịn tất cả đều là vì muốn bảo vệ gia đình, muốn các con được lớn lên trong
môi trường lành mạnh, muốn chúng trưởng thành một cách trọn vẹn nhất. Hình ảnh người
mẹ lam lũ, khốn khó nhưng luôn bất chấp mọi giá để đổi lấy nụ cười tươi tắn của đàn con
thơ.
Lời nói của bà cụ Tứ gợi về hiện thực đầy đau đớn, mất mát về cuộc đời “Cảm đấy
mày ạ. Xóm ta còn khối nhà chả có cám mà ăn”. Dù cố gắng, nỗ lực bao nhiêu thì cái đó
vẫn như chực chờ để nuốt chửng ngôi nhà rúm ró của họ và tất cả những gì người mẹ ấy có
thể làm là động viên, tiếp thêm sức mạnh tinh thần để những đứa con vượt qua cái tao đoạn
khốn khổ, ngặt nghèo này. Thương thay cho số phận con người và nhất là những người mẹ
luôn làm tròn bổn phận và trách nhiệm đối với những người con.
Cảm hứng nhân đạo đã chi phối ngòi bút của Kim Lân nên từng chi tiết sự kiện trong
tác phẩm đều thể hiện được sự thương yêu, đồng cảm cũng như lòng trân trọng của tác giả
đối với số phận của con người. Truyện ngắn “Vợ nhặt” đã thể hiện cái đói đầy chân thực,
ám ảnh, day dứt trong lòng mỗi người. Không gian của nạn đói cũng thật khủng khiếp với
những người sống nằm ngổn ngang khắp lều chợ, người chết đói như ngả rạ, mùi gây của
xác người tràn ngập trong không gian. Mỗi trang văn như tiếng nói đầy thương cảm trước
tình cảnh khốn khổ của những con tội nghiệp. Con người lao động bị đẩy đến chốn sức cùng
lực kiệt khiến ai trong chúng ta cũng phải cảm thương. Đó còn là bài ca sâu sắc về tình mẫu
tử thiêng liêng của bà cụ Tứ, không chỉ dừng lại ở tình máu mủ ruột già mà mà bà đã mở
rộng tấm lòng với người con gái xa lạ nhưng lại “phải duyên phải kiếp” với con mình. Và
đây cũng là lời khẳng định, đề cao khát vọng, niềm tin vào cuộc sống của con người. Dù bị
vùi dập trong đói khổ thì trái tim nhiệt huyết ấy vẫn cháy bùng lên vì ước mơ vào một ngày
mai tươi sáng. Hơn thế, trong khung cảnh chết chóc ta càng quý trọng thêm những phẩm
chất tốt đẹp của người lao động luôn chia sẻ và thương cảm đối với số phận đồng cảnh ngộ
Cái hay trong truyện ngắn “Vợ nhặt” của nhà văn Kim Lân nằm ở ngay tình huống
truyện vô cùng độc đáo, thể hiện góc nhìn đầy mới mẻ và đậm chất nhân đạo của cây bút
đồng quê. Khi viết về một đề tài tưởng chừng đã quá quen thuộc- nạn đói năm 1945, bằng
lối kể chân thực, tự nhiên, nửa trực tiếp đan xen suy nghĩ nội tâm của nhân vật với giọng kể
trần thuật cùng ngôn ngữ bình dị, đời thường, đậm chất thôn quê Bắc Bộ. Kim Lân đã thực
sự đưa người đọc về với làng quê Việt Nam, về với những năm đất nước còn nhọc nhằn, vất
vả đặc biệt nghệ thuật xây dựng tâm lý nhân vật đặc sắc đã giúp nhà văn tạo niềm tin nơi
người đọc và sự tồn tại của nhân vật không chỉ là trong tác phẩm mà trong chính cuộc sống
đời thường. Đọc truyện ta đem lòng thương mến và cảm phục tình yêu thương và khát vọng
sống mà bà cụ Tứ đã cất công nuôi dưỡng và gìn giữ.
Kim Lân từng chia sẻ: “Khi viết về nạn đói người ta thường viết về sự khốn cùng và
bi thảm, tôi muốn viết một truyện ngắn với ý khác”. Những giá trị chân phương và sâu sắc
mà nhà văn muốn truyền tải đều được cô đọng trong “Vợ nhặt”, ngay cả khi bóng tối bao
trùm lên tất cả, thì tình yêu thương giữa những người cùng cảnh ngộ ấy vẫn đang dần lan
tỏa giúp họ cùng nhau bước tiếp tạo nên một tấm khiên bằng tấm lòng yêu thương, để đẩy
lùi cái đói, cái xấu xa, cái rẻ rúng. Dường như trong họ đã nhen nhóm lên ngọn lửa của hy
vọng sống tiếp, khôi phục những phẩm chất cao đẹp mà tưởng như đã bị vùi lấp và nổi bật
hơn cả là tình cảm mẫu tử thiêng liêng của bà cụ Tứ dành cho đứa con trai ngờ nghệch và
nàng dâu mới, đó chính là điều mà nạn đói hay bất cứ điều gì cũng không thể lu mờ.
Đề bài:
“Sáng hôm sau, mặt trời lên bằng con sào, Tràng mới trở dậy. Trong người êm ái
lửng lơ như người vừa ở trong giấc mơ đi ra. Việc hắn có vợ đến hôm nay hắn vẫn còn ngỡ
ngàng như không phải. Hắn chắp hai tay sau lưng, lững thững bước ra sân. Ánh nắng buổi
sáng mùa hè sáng lóa xóa và hai con mắt còn cay sè của hắn. Hắn chớp chớp liên hồi mấy
cái, và bỗng vừa chợt nhận ra, xung quanh mình có cái gì vừa thay đổi mới mẻ, khác lạ.
Nhà cửa, sân vườn, hôm nay đều được quét tước, thu dọn sạch sẽ gọn gàng. Mấy chiếc
quần áo rách như tổ đỉa vẫn vắt khắp mươi niên ở một góc nhà đã thấy đem ra sân hong.
Hai cái ang nước vẫn để khô cong ở dưới gốc ổi đã kín nước đầy ăm ắp. Đống rác mùn
tung bành ngay lối đi đã hót sạch.
Ngoài vườn người mẹ đang lúi húi giẫy những búi cỏ mọc nham nhở. Vợ hắn quét lại
cái sân, tiếng chổi từng nhát kêu sàn sạt trên mặt đất. Cảnh tượng thật đơn giản, bình
thường nhưng đối với hắn lại rất thấm thía cảm động. Bỗng nhiên hắn thấy hắn thương yêu
gắn bó với cái nhà của hắn lạ lùng. Hắn đã có một gia đình. Hắn sẽ cùng vợ sinh con đẻ cái
ở đấy. Cái nhà như cái tổ ấm che mưa che nắng. Một nguồn vui sướng phấn chấn đột ngột
tràn ngập trong lòng. Bây giờ hắn mới thấy hắn nên người, hắn thấy hắn có bổn phận phải
lo lắng cho vợ con sau này. Hắn xăm xăm chạy ra giữa sân, hắn cũng muốn làm một việc gì
để dự phần tu sửa lại căn nhà.”
(Trích “Vợ nhặt”, Kim Lân, Ngữ văn 12, Tập hai, NXB Giáo dục, tr. 30)
Phân tích diễn biến tâm trạng của nhân vật Tràng trong đoạn trích trên. Từ đó, hãy
nhận xét về sức mạnh của tình yêu thương qua ngòi bút của nhà văn Kim Lân.

BÀI LÀM SỐ 1
Họ và tên: Trần Thanh Tâm
MHV: MV037
Điểm: 4.5/5.0
Nhà văn Nguyễn Khải - một cây bút tiêu biểu của nền văn học đương đại Việt
Nam từng bày tỏ: “ Về văn xuôi, đó là nghề của tôi, trước sau tôi thuần phục có ba
này, viết lách được cái gì thường cũng lấy văn của ba ông làm chuẩn”. Nếu như
Nguyễn tuân ghi dấu ấn và phong cách “ ngông” đầy độc đáo, Nam cao đem tới bức
tranh chân thực đến xót xa về số phận con người với những bi kịch không lối thoát,
thì ngòi bút của kim lân hướng về tia hy vọng mong manh le lói từ những mảnh đời
chịu nhiều tổn thương. Điều này được khắc họa rõ nét qua tác phẩm “ Vợ nhặt” của
nhà văn. Bằng sự đồng cảm thấu hiểu của mình Kim Lân đã đem đến cho ta một câu
chuyện vừa xúc động, day dứt, vừa tràn ngập niềm tin về vẻ đẹp của con người trong
nghịch cảnh. Với đoạn trích “ sáng hôm sau… sửa lại căn nhà” tác giả đã thổi hồn
văn chương vào trong từng diễn biến tâm trạng của nhân vật Tràng. Từ đó sức mạnh
của tình yêu thương dưới ngòi bút của Kim Lân cũng đã được thể hiện rõ nét.
Kim Lân là một nhà văn trải qua nhiều biến cố của lịch sử dân tộc và chứng
kiến cả hai giai đoạn lớn của nền văn học nước nhà. Ông là một trong số ít những cây
bút truyện ngắn dù để lại số lượng tác phẩm không nhiều nhưng sáng tác nào của ông
cũng để lại rất nhiều ý nghĩa. Ông viết về đề tài nông thôn với những con người bé
nhỏ, những vẻ đẹp chân quê, bình dị và những phong tục tập quán độc đáo của làng
quê Bắc Bộ. Bằng giọng văn chân thực và giản dị kim lân đã đưa cả làng quê và con
người Việt Nam vào những câu chuyện của mình cùng một tâm hồn đầy tình cảm gắn
bó với quê hương đất nước. Từ bóng tối năm tháng quá khứ nhà văn đồng quê muốn
làm tỏa sáng chất thơ của hồn người. Ánh sáng của tình người tỏa ra hào quang đặc
biệt của chủ nghĩa nhân văn đầy thiết tha và xúc động. Tư tưởng này đã xuyên suốt
trong tác phẩm “Vợ nhặt” một trong những tác phẩm xuất sắc được viết sau Cách
mạng tháng Tám. Sau khi hòa bình lập lại năm 1954, dựa trên một phần cốt truyện cũ
tác giả đã sáng tác nên thiên truyện “Vợ nhặt” với tình huống vô cùng đặc biệt xảy ra
giữa hai con người xa lạ.
Lấy bối cảnh nạn đói khủng khiếp năm 1945 tác giả đã khắc họa những ngày đói
khổ cùng tận của dân tộc ta. Năm ấy bọn thực dân họ tàn độc bắt nhân dân phải nhổ
lúa trồng đay, lao động cực nhọc để phục vụ nhu cầu chiến tranh ác liệt của chúng.
Chính sự vô tâm và ác độc ấy đã gây ra nạn đói cướp đi hơn 2 triệu sinh mạng của đất
nước Việt Nam. Cái đói càn quét khắp mọi lối xóm “ người chết như ngả rạ” . Nó
nhiều đến nỗi những người dân nơi đây không còn cảm thấy xa lạ khi phải chứng
kiến cái chết mỗi ngày. Sự đói khổ còn rút cạn kiệt niềm tin và hy vọng bên trong họ,
khiến những con người ấy “xanh xám như những bóng ma” “với những cặp mắt vô
hồn đến xót thương”. Không khí luôn vẩn lên mùi hôi thối của rác rưởi, rồi mùi gây
của xác người. Đâu đâu cũng bao trùm lên sự tang thương, chết chóc. Nó còn tàn
khốc hơn chiến tranh! Trong bối cảnh tối sầm vì đói khát ấy con người ta đâu còn sức
để nghĩ tới hay kiếm tìm niềm hạnh phúc một mái ấm gia đình. Thế dư suy nghĩ ấy
quả thật sai lầm kể từ khi ta bắt gặp anh cu Tràng. Anh sống cùng mẹ già trong một
ngôi nhà xiêu vẹo trên bãi đất hoang mọc lổn nhổm những bụi cỏ dại. Như bao người
khác anh cũng phải đang gồng mình chống chọi với cái đói mỗi ngày. Tưởng chừng
như Tràng chỉ biết lo cái chân đau của mình mà không quan tâm đến sự sống chết của
ai khác. Cho đến một ngày anh gặp Thị người con gái với dáng vẻ xấu xí, chỏng lỏn
ấy đã khơi dậy trong anh nhiều khát khao về tổ ấm gia đình. Chỉ sau hai lần gặp mặt
chóng vánh họ đã nên duyên vợ chồng. Được sự chấp thuận của mẹ là bà Cụ Tứ anh
vui mừng, sung sướng khôn nguôi. Buổi sáng đầu tiên khi anh lấy được vợ mọi thứ
trong anh thật khác.
Thị đã mang lại một luồng gió mới cho căn nhà nghèo đói này. Sáng hôm sau
trong thân phận của một người chồng, Tràng cảm thấy lạ lẫm, tươi mới đến lạ vì
những sự thay đổi quanh mình. “Sáng hôm sau mặt trời lên bằng… đã hót sạch”. Nếu
như khung cảnh trước kia bị nhấn chìm trong màn đêm tăm tối của hiện thực thì nay
ta bắt đầu nhìn những tia ánh sáng len lỏi vào từng ngõ ngách của căn nhà. “Mặt trời
lên bằng con sào”. Tia sáng ấy đang dần mở ra trước gia đình ấy một cuộc sống mới
đầy hứa hẹn và tràn ngập ánh sáng. Tràng thức dậy sau một đêm đắm chìm trong
hạnh phúc “ Trong người êm ái, lửng lơ như người từ trong giấc mơ đi ra”. Có lẽ với
Tràng mọi sự đã xảy ra như một giấc mộng và đến bây giờ chính anh cũng không thể
nào ngờ rằng mình đã lấy được vợ. Vậy mà như thể duyên trời đã định Tràng và Thị
nên vợ, nên chồng chỉ sau từ những lời nói bông đùa của Tràng.
Tràng “ Hai tay chắp sau lưng lững thững bước ra sân”. Từ láy “ lững thững”
cho thấy Tràng vẫn còn mơ màng trong giấc mơ có thực này. “Ánh nắng buổi sáng
mùa hè sáng tới”. Có lẽ đó không chỉ là ánh sáng của ngoại cảnh mà đó còn là những
tia sáng niềm tin, hy vọng đang được thắp lên trong lòng Tràng. Tia ánh sáng bình
minh ấy dù không thể khẳng định ta sẽ có một ngày thật đẹp, thật rạng rỡ nhưng ít
nhất nó gieo hy vọng trong lòng Tràng muốn tin vào một ngày không tệ. Dường như
Tràng vẫn chưa thể tin, “ Hắn liền chớp chớp liên hồi mấy cái” và chợt nhận ra “
xung quanh mình có cái gì vừa mới mẻ khác lạ” . Và không ai khác, chính Thị đã
đem lại sự mới mẻ ấy cho căn nhà bao lâu chìm trong ngục tối này. “Mấy chiếc quần
áo”, “ hai cái ang nước”, “ Đống lá mùn “. Từng thứ từng thứ trong gia đình lần lượt
được thay mới quét dọn lau rửa sạch sẽ. “Ngoài vườn người mẹ đang lúi húi dãy
những búi cỏ”, “ vợ hắn quét lại cái sân”. Trong lòng Tràng chắc chắn phấn khởi
khôn xiết. Ngôi nhà này như đang được khoác lên một màu áo mới tâm hồn Tràng
cũng được đổi thay bởi lớp màu rạng rỡ của cảm xúc tươi mới. Họ đều đang cố gắng
dọn dẹp mọi thứ cũng như đang nỗ lực gói gọn những ngổn ngang ưu phiền trong
lòng nhau suốt thời gian qua để tiếp sức cho nhau vẽ nên những trang sách mới của
cuộc đời. Từ đây Tràng bỗng thấy mình nên người và dần có trách nhiệm hơn với tổ
ấm của mình.
Nhìn thấy mọi thứ đổi thay tích cực, Tràng thấm thía cảm động vô cùng. Dường
như ánh sáng niềm tin và hy vọng đang ngày càng lớn hơn trong lồng ngực anh
chàng. “Bỗng nhiên hắn thấy thương yêu… tu sửa lại căn nhà”. Bao lâu nay có lẽ
điều thống trị tâm hồn và suy nghĩ của Tràng là cơm áo gạo tiền, là miếng ăn, là làm
sao để sống sót qua ngày. Ánh sáng mà Thị mang lại lần đầu tiên dẫn lối cho Tràng
đến một con đường khác, con đường ấy tràn ngập ánh sáng, niềm tin. Nơi ấy chính là
gia đình. Là lúc này đây điều quan trọng nhất đối với anh là tổ ấm là những điều bình
dị, bé nhỏ mà hạnh phúc chứ không phải là nỗi lo về cái đói nữa. Kim lân đã khiến ta
tạm quên đi sự khắc nghiệt của nạn đói, tạm gác lại những niềm đau thương, mất mát
để hòa vào niềm vui nhỏ nhoi mà thiêng liêng của anh cu Tràng . Và “Hắn đã có một
gia đình”, “ Hắn sẽ cùng vợ sinh con đẻ cái ở đấy”. Ở chính nơi cái chết chóc tang
thương bao trùm. Giờ đây lại gieo lên những niềm sống mới. Quả thực nếu chúng ta
không thể thay đổi hiện thực ta hoàn toàn có thể thay đổi cái cách nhìn hiện thực như
anh cu Tràng. Điều ấy đã tiếp thêm niềm động lực giúp anh mạnh mẽ hướng về tương
lai: “ cái nhà như tổ ấm che mưa che nắng. Một nguồn vui sướng, phấn chấn đột ngột
tràn ngập trong lòng. Hai từ láy được tác giả sắp xếp cần kề nhau khiến niềm vui như
được tăng lên gấp bội. Một niềm vui sướng mãnh liệt đủ sức xua tan đi sự chết chóc
đau thương của hiện thực khốc liệt. “ bây giờ hắn mới thấy hắn nên người”. Có lẽ bởi
giờ đây anh đã có mục tiêu lý tưởng sống cho riêng mình không còn chuỗi ngày chơi
vơi, không biết làm gì để rồi chết đi vì cái đói cái nghèo. Từ nay Tràng cũng đã gánh
vác trên vai trách nhiệm bổn phận của một người chồng, một người trụ cột trong gia
đình. Thế nhưng anh không cảm thấy đây là một gánh nặng mà ngược lại Tràng vô
cùng hạnh phúc, sung sướng và “ xăm xăm chạy ra giữa sân” để giúp đỡ mẹ và vợ
mình vô sửa lại căn nhà. Tràng đang nỗ lực hết mình để không chỉ tiếp tục giữ ngọn
lửa khát vọng sống ở bên trong mình mà còn tiếp thêm động lực cho hai người phụ
nữ mà mình yêu nhất trên đời.
Nhà văn Kim Lân một người nhân đạo từ trong cốt tủy, luôn mang nặng trong
mình tình yêu thương con người da diết và sâu nặng. Điều đó cũng đã được thể hiện
qua đoạn trích trên. Hơn hết ông hiểu sức mạnh của tình yêu thương lớn mạnh đến
như thế nào, nó có thể cưu mang những con người cùng đường tuyệt lộ tưởng chừng
như chỉ có con đường chết, họ lại vực dậy trở lại từ ngục tù tăm tối. Tình yêu thương
cũng chính là một sợi dây gắn kết giữa người với người. Dù đây chỉ là một sợi dây vô
hình nhưng sự liên kết gắn bó bền chặt của nó không một điều gì có thể phá vỡ. Như
chính tình thương người sâu nặng của nhân vật Mị đối với anh chàng A Phủ trong tác
phẩm “Vợ chồng A Phủ” của nhà văn Tô hoài. Chính sự gắn bó yêu thương giữa
người với người ấy đã giúp Mị tìm kiếm được con đường giải thoát cho mình, khiến
cho họ vượt qua được nghịch cảnh và tiếp tục thắp sáng lên con đường tương lai rộng
mở phía trước. Và tình thương của anh cu Tràng cũng đã cưu mang cô Thị, thắp lên
ngọn lửa hy vọng cho bà Cụ Tứ và những người dân xóm ngụ cư. Nhà văn Kim Lân
đã thật tài tình khi xây dựng một tình huống truyện vô cùng độc đáo, đặt nhân vật vào
một hoàn cảnh trớ trêu từ đó nhân vật bộc lộ phẩm chất của mình. Ngôn ngữ miêu tả
tinh tế, sinh động đan xen giữa kể và tả một cách linh hoạt để tái hiện chân dung nhân
vật Tràng một cách chân thực và rõ nét nhất. Thêm vào đó không thể không kể đến
nghệ thuật miêu tả tâm lí nhân vật vô cùng tỉ mỉ và tinh tế của tác giả. Tất cả đã mang
lại cho người đọc một thiên truyện với sức sống lâu dài.
Truyện ngắn “Vợ nhặt” được chấp bút trong bối cảnh tăm tối, ám ảnh khủng
khiếp của nạn đói thế nhưng cái mà nhà văn Kim Lân hướng đến không phải phản
ánh hiện thực thê thảm của con người mà ông hướng đến những ánh sáng đẹp đẽ,
cảm thông của tình yêu thương. Trong nạn đói khi cái chết chực chờ để rút sạch sự
sống, cướp đi tất cả của những con người khốn khổ thì những phẩm chất tốt đẹp của
họ vẫn luôn còn đó, sâu bên trong những tâm hồn tràn đầy nhựa sống, sáng lấp lánh
như những vì sao trên bầu trời màn đêm u tối.

BÀI LÀM SỐ 2
Họ và tên: Châu Anh
Mã học viên: MV307
Điểm: 4.5/5.0
Hà Minh Đức trong “nhà văn nói về tác phẩm” đã viết: “ Kim Lân là một trong
những cây bút truyện ngắn xuất sắc của văn học Việt Nam hiện đại. Kim Lân viết không
nhiều nhưng tác phẩm của ông đã gây ấn tượng với bạn đọc.” Một trong những ấn tượng
của độc giả đối với truyện ngắn nhà văn Kim Lân là niềm tin của ông dành cho những số
phận cùng khổ. Những số phận ấy trong bất kể hoàn cảnh nào cũng trân trọng những hạnh
phúc bình dị và hướng tới tương lai. Diễn biến tâm trạng của nhân vật Tràng trong đoạn
trích: “ sáng hôm sau… tu sửa lại căn nhà” ỏ tác phẩm “Vợ nhặt” của Kim Lân là một minh
chứng sáng giá cho điều này. Qua đó ta còn thấy được sức mạnh to lớn của tình yêu thương
qua ngòi bút của nhà văn Kim Lân.
Nhà văn Kim Lân được coi là cây bút độc đáo của làng quê Việt Nam, là nhà văn
một lòng đi về với đất, với người, với thuần hậu nguyên thủy của cuộc sống nông thôn. Sự
nghiệp văn chương của ông khiêm tốn nhưng vô cùng đặc sắc. Nhà văn từng tâm sự: “Viết
văn trước tiên tôi viết cho mình, cho những mơ ước gửi gắm của mình. Sau nữa đó là những
lời bộc bạch tâm sự với bạn đọc những điều đau nhức nhối đang thôi thúc.” Truyện “Vợ
nhặt” có tiền thân là tiểu thuyết xóm ngụ cư - tác phẩm được viết dở dang và bị mất bản
thảo. Sau khi hòa bình lập lại dựa vào một phần cốt truyện cũ Kim Lân đã viết truyện vợ
nhặt. Tác phẩm được in trong tập “Con chó xấu xí” năm 1962.
Truyện ngắn lấy bối cảnh là nạn đói năm 1945. Tràng là một thanh niên nghèo, xấu xí
lại là dân ngụ cư nên không có khả năng lấy được vợ. Tuy nhiên trong một lần đẩy hàng anh
đã tình cờ có vợ. Cô “vợ nhặt” đã tình nguyện theo Tràng chỉ sau một câu nói đùa và bốn
bát bánh đúc. Giữa hoàn cảnh nạn đói càn quét khốc liệt, sự đèo bòng ấy lại vô tình đem tới
nguồn sinh khí mới cho gia đình Tràng. Điều đó dẫn đến những xúc cảm mới lạ, niềm hạnh
phúc, động lực sống cho nhân vật Tràng vào buổi sáng hôm ngày hôm sau.
Tâm trạng đầu tiên của nhân vật Tràng vào buổi sáng ngày đầu có vợ là sự ngỡ ngàng
lượng lớn trước thay đổi của mọi thứ xung quanh. “Sáng hôm sau mặt trời lên bằng con sao
Tràng mới trở dậy”. Có lẽ đã rất lâu rồi Tràng mới có một giấc ngủ ngon đến vậy. Mong
muốn có vợ, khao khát có được niềm hạnh phúc riêng là mơ ước thầm kín trong anh. Trước
thân phận và hoàn cảnh xấu xí của mình Tràng biết rõ đó là điều không tưởng. Nay anh lại
vô tình có được vợ, dường như nút thắt ấy mới được gỡ bỏ. Niềm hạnh phúc ấy đến bất ngờ
quá anh vẫn không dám tin là sự thật: “ trong người êm ái, lửng lơ như người ở trong giấc
mơ đi ra”, “việc hắn có vợ đến hôm nay hắn vẫn còn ngỡ ngàng như không phải”. Anh chắp
hai tay sau lưng, lững thững ra sân như thể khẳng định niềm vui trong mơ ấy đã trở thành sự
thật. Ánh sáng nắng buổi sáng cũng là một chi tiết đầy dụng ý của tác giả. Câu chuyện mở
ra lúc chiều muộn và kết thúc vào đầu buổi sáng ngày hôm sau. Đây là một bước chuyển
động thời gian ngắn nhưng mà bước chuyển động từ bóng tối đến ánh sáng. Đồng thời đó
cũng là tín hiệu dự báo cho sự vận động mạnh mẽ bên trong tâm hồn con người.
Ánh nắng buổi sáng mùa hè “ xói vào hai con mắt cay xè của hắn”. Đưa Tràng từ
trạng thái lửng lơ trở về hiện thực. “Hắn chớp chớp liên hồi mấy cái và bỗng chợt nhận ra,
xung quanh mình có cái gì vừa thay đổi, mới mẻ, khác lạ”. Điều khác lạ ấy do chính Thị
mang lại. “Nhà cửa, sân vườn đã hót sạch”. Thị đã mang tới cơn gió mới lạ cho gia đình
này. Bấy lâu nay căn nhà vẫn luôn chìm trong u tối. Có lẽ nạn đói kéo dài không dứt nó sẽ
khiến con người chết dần, chết mòn. Dưới bàn tay của Thị tất cả mọi thứ được thu dọn sạch
sẽ, gọn gàng. Căn nhà như được hồi sinh, khoác lên mình chiếc áo mới. Không gian chìm
trong đêm tối nay được điểm tô những gam màu rực rỡ. Những gì mới mẻ ấy được thu vào
tầm mắt của Tràng rồi làm dâng lên trong lòng anh sự phấn khởi khôn xiết. Vợ hắn quét lại
cái sân, tiếng chổi từng nhát kêu sàn sạt trên mặt đất. Bà mẹ đã sống cả đời mình trong căn
nhà được bao trùm bóng tối ấy, ngày ngày trở về căn nhà khuôn mặt bà chỉ toát lên sự mệt
mỏi, buồn bã. Nhưng nay bà lại vui vẻ dọn dẹp những bụi cỏ nham nhở. Có lẽ trong bà cũng
đang chứa đựng những niềm tin về một tương lai mới. Bây giờ không gian trở nên sinh
động với hình ảnh và cả âm thanh: “Tiếng chổi từng nhát kêu sàn sạt”.
Từ sự ngỡ ngàng tâm trạng của Tràng trở nên thấm thía cảm động. Những con người
mà anh yêu thương đang cố gắng xây dựng tổ ấm với niềm tin về một tương lai mãnh liệt.
Đây là điều mà chính một thanh niên trai tráng như Tràng chưa bao giờ làm được. Niềm tin
của những con người ấy chuyển cho anh động lực tình yêu gia đình: “ Hắn thương yêu gắn
bó với cái nhà của hắn lạ lùng”. Tràng đã có gia đình. Căn nhà không chỉ là nơi trú ngụ trưa
nắng mà còn là tổ ấm. Tràng nhận ra tình cảm gia đình, ý thức trách nhiệm chăm lo cho
những người thân trong gia đình. Tràng đã thấy mình nên người. Anh có động lực sống và
làm việc được thực hiện trách nhiệm thiêng liêng của mình trở thành trụ cột trong gia đình.
Trong niềm vui sướng ngập tràn trong lòng vì tưởng tượng sau này được làm chồng, làm
cha chàng ngay lập tức thực hiện những việc làm cho gia đình mình. Niềm vui ẩn chứa với
sự lúng túng: “ hắn xăm xăm chạy ra giữa sân hắn cũng muốn làm một việc gì đó để tu sửa
cho căn nhà”…
Tổ ấm của Tràng trở thành ngọn đèn rực sáng đầy sinh khí giữa không gian tang
thương của chết chóc. Kim Lân đã khiến không chỉ ba con người nhỏ bé kia mà chính chúng
ta quên đi sự khốc liệt của nạn đói. Bên cạnh đó,Kim Lân đã thể hiện sức mạnh của tình yêu
thương qua đoạn trích trên. Tình yêu thương trong tác phẩm của ông chính là sự kết nối
giữa người với người, giúp con người có động lực sống. Tình người có thể cưu mang những
con người cùng đường tuyệt lộ hướng tới tương lai. Những số phận bất hạnh tìm thấy nhau,
trở thành chỗ dựa cho nhau để bước qua bóng tối. Tình yêu thương giữa người với người
cũng chính là động lực để nhân vật Mị trong “Vợ chồng A Phủ” quyết định cởi trói cho A
Phủ. Sự giải thoát cho một người xa lạ vô tình trở thành sự giải thoát cho chính nhân vật Mị.
Do tình thương họ tìm thấy nhau, dìu dắt nhau qua nghịch cảnh hướng đến tương lai. Tình
thương người giữa mẹ con anh cu Tràng dành cho Thị đã thắp lên hy vọng cho một gia đình
và gieo những động lực sống mới.
Việc anh cu Tràng nhặt được vợ giữa nạn đói đã tạo nên một đám cưới nhỏ giữa một
“đám tang” lớn. Bằng tình yêu thương họ đã trở thành một gia đình. Dưới những hy vọng
được thắp sáng lên trong căn nhà ấy chúng ta có quyền mong đợi một tương lai tốt đẹp hơn
cho họ. Sức mạnh của tình yêu thương thật lớn lao tác giả đồng thời cũng muốn gửi gắm
cho người đọc thông điệp trao đi yêu thương nhận lại hạnh phúc.
Phân tích đoạn trích sau:
“Bữa cơm ngày đói trông thật thảm hại. Giữa cái mẹt rách có độc một lùm rau chuối thái
rối, và một đĩa muối ăn với cháo, nhưng cả nhà đều ăn rất ngon lành. Bà cụ vừa ăn vừa kể
chuyện làm ăn, gia cảnh với con dâu. Bà lão nói toàn chuyện vui, toàn chuyện sung sướng
về sau này:
-Tràng ạ. Khi nào có tiền ta mua lấy đôi gà. Tao tin rằng cái chỗ đầu bếp kia làm cái
chuồng gà thì tiện quá. Này ngoảnh đi ngoảnh lại chả mấy mà có ngay đàn gà cho mà
xem...
Tràng chỉ vâng. Tràng vâng rất ngoan ngoãn. Chưa bao giờ trong nhà này mẹ con lại đầm
ấm, hòa hợp như thế. Câu chuyện trong bữa ăn đang đà vui bỗng ngừng lại. Niêu cháo lõng
bõng, mỗi người được có lưng lưng hai bát đã hết nhẵn.
Bà lão đặt đũa bát xuống, nhìn hai con vui vẻ:
-Chúng mày đợi u nhá. Tao có cái này hay lắm cơ.
Bà lật đật chạy xuống bếp, lễ mễ bưng ra một cái nồi khói bốc lên nghi ngút. Bà lão đặt cái
nồi xuống bên cạnh mẹt cơm, cầm cái môi vừa khuấy khuấy vừa cười:
-Chè đây. - Bà lão múc ra một bát - Chè khoán đây, ngon đáo để cơ.
Người con dâu đón lấy cái bát, đưa lên mắt nhìn, hai con mắt thị tối lại. Thị điềm nhiên và
vào miệng. Tràng cầm cái bát thứ hai mẹ đưa cho, người mẹ vẫn tươi cười, đon đả:
-Cám đấy mày ạ, hì. Ngon đáo để, cứ thử ăn mà xem. Xóm ta khối nhà còn chả có cám mà
ăn đấy.
Tràng cầm đôi đũa, gợt một miếng bỏ vội vào miệng. Mặt hắn chum ngay lại, miếng cám
đắng chát và nghẹn bứ trong cổ. Bữa cơm từ đấy không ai nói câu gì, họ cắm đầu ăn cho
xong lần, họ tránh nhìn mặt nhau. Một nỗi tủi hờn len vào tâm trí mọi người.
Ngoài đình bỗng dội lên một hồi trống, dồn dập, vội vã. Đàn quạ trên những cây gạo cao
chót vót ngoài bãi chợ hốt hoảng bay vù lên, lượn thành từng đám bay vần trên nền trời
như những đám mây đen.Người con dâu khẽ thở dài, thị nói lí nhí trong miệng:
-Trống gì đấy, u nhỉ?
-Trống thúc thuế đấy. Đằng thì nó bắt gồng đay, đằng thì nó bắt đóng thuế. Giời đất này
không chắc đã sống qua được đâu các con ạ... - Bà lão ngoảnh vội ra ngoài. Bà lão không
dám để con dâu nhìn thấy bà khóc.
Người con dâu có vẻ lạ lắm, thị lầm bầm:
- Ở đây vẫn phải đóng thuế cơ à?
Im lặng một lúc thì lại tiếp:
-Trên mạn Thái Nguyên, Bắc Giang người ta không chịu đóng thuế nữa đâu. Người ta còn
phá cả kho thóc của Nhật, chia cho người đói nữa đấy.
Tràng thần mặt ra nghĩ ngợi. Cái mặt to lớn bặm lặi, khó đăm đăm. Miếng cám ngậm trong
miệng hắn đã bã ra chát xít... Hắn đang nghĩ đến những người phá kho thóc Nhật.Tràng
hỏi vội trong miếng ăn:
-Việt Minh phải không?
-Ừ, sao nhà biết?
Tràng không trả lời. Trong ý nghĩ của hắn vụt hiện ra cảnh những người nghèo đói ầm ầm
kéo nhau đi trên đê Sộp. Đằng trước có lá cờ đỏ to lắm.
Hôm ấy hắn láng máng nghe người ta nói họ là Việt Minh đấy. Họ đi cướp thóc đấy. Tràng
không hiểu gì sợ quá, kéo vội xe thóc của Liên đoàn tắt cánh động đi lối khác.À ra họ đi
phá kho thóc chia cho người đói. Tự dưng hắn thấy ân hận, tiếc rẻ vẩn vơ, khó hiểu. Ngoài
đình tiếng trống thúc thuế vẫn dồn dập. Mẹ và vợ Tràng đã buông đũa đứng dậy. Trong óc
Tràng vẫn thấy đám người đói và lá cờ đỏ bay phấp phới…”
Họ và tên: Yên Minh Huy
Mã học viên: MV546
Điểm: 4.5/5.0
BÀI LÀM
Kim Lân là một nhà văn hiện thực, cây bút chuyên viết truyện ngắn của nền văn học
hiện đại Việt Nam. Ông viết không nhiều, là một kiểu nhà văn “quý hồ tinh, bất quý hồ đa”,
nhưng những tác phẩm của ông đều đọng lại nhiều giá trị trong lòng người đọc. Đề tài Kim
Lân lựa chọn chủ yếu là nông thôn và người nông dân ở vùng đồng bằng Bắc Bộ, bao gồm
những khám phá về số phận và vẻ đẹp của họ, được thể hiện sinh động qua lối viết giản dị,
chân thực và xúc động. “Vợ Nhặt” trích trong tập truyện “Con chó xấu xí” là truyện ngắn
xuất sắc của Kim Lân được lấy cảm hứng từ cốt truyện cũ của tiểu thuyết xóm ngụ cư.
Truyện ngắn là một thước phim chân thực, sống động về bối cảnh nạn đói khốc liệt năm Ất
Dậu đã hủy hoại thể xác và tinh thần của con người. Đồng thời thông qua đó thể hiện sự trân
trọng và tin tưởng vào khát vọng sống của họ. Trong thiên truyện ấy, nổi bật nhất phải kể
đến chính là không khí bữa cơm ngày đói ra mắt nàng dâu mới qua đoạn trích “Bữa cơm
ngày đói…bay phấp phới”.
“Vợ Nhặt” là một tình huống bi hài, éo le về thân phận rẻ rúng của con người cũng
như là quá trình đeo bám, tìm kiếm hạnh phúc của họ. Cái đói luôn hiện hữu trong từng
nhận thức của con người nhưng anh cu Tràng - một gã trai thô kệch, ế vợ lại dễ dàng nhặt
được vợ trong nạn đói. Sự kiện ấy đã đánh dấu cho bước ngoặt về những sự thay đổi tích
cực trong gia đình họ, giúp họ bước ra ánh sáng và tiếp tục hi vọng vào tương lai. Đoạn
trích bữa cơm ngày đói nằm ở phần cuối của tác phẩm, là tình huống hay nhất và truyền tải
nhiều thông điệp nhân đạo cũng như chủ đề tư tưởng của tác phẩm.
Đoạn trích tập trung chủ yếu trong việc xây dựng không gian bữa cơm ngày đói ra
mắt nàng dâu mới vô cùng thê thảm, tội nghiệp nhưng lại mang không khí đầm ấm, vui tươi
của gia đình. Bữa cơm đầu tiên ba con người họ quay quần bên nhau nhưng cũng thật tàn tạ:
“giữa cái mẹt rách có đụm một chùm rau chuối thái rối”, “đĩa muối ăn cùng với niêu cháo
lõng bõng”, dẫu vậy nhưng ít ra đó vẫn là thứ thức ăn dành cho con người. Họ vẫn ăn rất
nhiệt tình, vui vẻ, “chưa bao giờ bữa cơm gia đình đầm ấm đến như thế”. Bữa cơm ấy còn là
nơi họ trao nhau niềm tin, những câu chuyện vui, chuyện mai sau về một đàn gà sẽ đổi vận
cho gia đình họ. Chính bà cụ vừa là người đạo diễn, là diễn viên, vừa là người cổ vũ đã gieo
vào trong tâm thức con trai mình niềm hi vọng ở tương lai. Điều ấy cũng thật tương đồng
với những câu ca dao mà ông cha ta vẫn thường truyền dạy, động viên nhau trong những lúc
cùng cực, thống khổ:
“ Chớ than phận khó ai ơi
Còn da lông mọc, còn chồi nảy cây”.
Người mẹ già ấy không để cho niềm vui của các con dừng lại như sự ít ỏi của bữa ăn,
bà đã kéo dài niềm vui cho các con bằng cách “lật đật” xuống bếp, “lễ mễ” bưng lên nồi
cháo cám nghi ngút khói mà bà gọi đó là chè khoán. Miếng ăn ấy không phải dành cho
người ăn, nó đã lột trần ra cái đói và hiện thực hết sức thê thảm, nhưng sự đấu tranh của
người mẹ già ấy đã chuyển hóa thứ thức ăn cho loài vật đến nồi cám mang đậm chất người
và tình người, làm vơi đi phần nào đắng cay, xót tủi trong lòng con trẻ khi đã thấu hiểu cho
tình thương và sự hi sinh của người mẹ. Bà tiếp thêm động lực cho họ vượt lên trên cả cái
đói để mà vui, để mà hi vọng.
Tuy nhiên, hiện thực tàn khốc vẫn ở đó, chực chờ cơ hội để bủa vây, hủy hoại hạnh
phúc gia đình của ba con người tội nghiệp. Miếng ăn ấy là tấm lòng, là tình cảm của bà cụ
Tứ. Song cũng không thể không đau đớn vì sự đắng chát nghẹn bứ ở cổ họng. Người vợ
nhặt đón lấy bát cháo từ tay mẹ chồng, “mắt thị tối lại”, đôi mắt chất chứa sự do dự và thất
vọng, nhưng thị vẫn “điềm nhiên và miếng cám vào miệng”. Thái độ cư xử của thị rất tinh
tế, như một cách để thị đền đáp cho lòng thành của người mẹ đáng kính đã vượt lên trên
ngưỡng cửa đói khát để cưu mang thị. Chi tiết ấy còn thể hiện rõ nét việc vượt lên trên bản
năng tầm thường để sống cho ra một con người, chấp nhận mọi khổ đau với những người
mà giờ đây thị đã xem như là gia đình.
Khác với sự tinh tế của thị, Tràng khi nuốt miếng ăn ấy xuống, “mặt chun lại” vì quá
đắng, nhưng anh vẫn cố nuốt xuống.Cái đói len lỏi trên từng đầu lưỡi, kèm theo tiếng trống
thúc thuế vang bên tai, hiện thực bủa vây khắp không gian, bao trùm lên niềm hạnh phúc bé
nhỏ của ba con người tội nghiệp, khiến cho người mẹ già dẫu cho đã cố gắng chống đỡ
nhưng vẫn không kìm nén được mà bật khóc. Bữa ăn bỗng chốc im lặng, họ chỉ biết cắm
đầu ăn cho thật nhanh, “gợt vội miếng cám vào miệng”, họ tránh nhìn mặt nhau, một nỗi tủi
hờn len vào tâm trí mọi người. Kim Lân là một nhà văn tôn trọng hiện thực, cho nên niềm
hạnh phúc của con người lúc ấy tuy thật đáng giá, song cũng không thể mãi duy trì, mãi tồn
tại mà không có bất cứ sự hòa trộn nào của nỗi sợ hãi, đau khổ và lo âu. Cái chết luôn kề
cận bên họ, nhưng ít ra họ cũng đã được sống, sống cho ra một con người.
Tuy nhiên, giá trị nhân đạo của đoạn trích lại nằm ở sự dịch chuyển từ bóng tối đến
ánh sáng. Những con người tưởng như khốn cùng ấy lại dám vượt lên trên cả cái bi hài của
cảnh ngộ để tiếp tục hi vọng, tiếp tục hướng đến tương lai. Mà yếu tố để khởi đầu của điều
đó chính là câu chuyện phá kho tho của thị. Người vợ nhặt rất ngạc nhiên khi ở đây còn
đóng thuế:”Trên mạn Thái Nguyên - Bắc Giang, người ta không chịu đóng thuế nữa đâu.
Người ta còn phá cả kho thóc của Nhật chia cho người đói”. Lời kể của thị chợt khiến Tràng
nhớ đến đoàn người khi xưa cầm lá cờ đỏ anh từng gặp, nhưng hắn lại không gia nhập mà
lại rẻ theo con đường khác, Tràng cảm thấy “ân hận”, “tiếc rẻ”. Từ lúc đó đến khi kết thúc
tác phẩm, tâm trí của Tràng chỉ nghĩ đến “đoàn người đói” và “lá cờ đỏ bay phấp phới”.
Điều đó cho chúng ta trông đợi một điều rằng trong tương lai, Tràng sẽ gia nhập cách mạng,
sẽ tìm thấy niềm hi vọng và lối thoát, đấu tranh cho tổ quốc, cho mình và cả gia đình.
Hình ảnh “lá cờ đỏ bay phấp phới” có ý nghĩa ẩn dụ, như một tia sáng phía cuối
đường hầm tăm tối, soi rọi cho số phận đói nghèo của họ. Phải, chỉ có cách mạng, đó là con
đường duy nhất mà họ có thể tìm đến để thay đổi vận mệnh của mình. Khác với các tác
phẩm hiện thực phê phán, Kim Lân, một “người dẫn đường đến xứ sở cái đẹp” đã trăn trở
tìm cho ba con người ấy một lối thoát, một kết thúc mới, không khép lại mà mở ra thêm
nhiều tia hi vọng và bài học cho các nhân vật, thoát khỏi bế tắc, đường cùng.
“Vợ Nhặt” là một thiên truyện sống động về nạn đói năm Ất Dậu năm 1945, được
tái hiện chân thật thông qua lối trần thuật giản dị, chân thành, xúc động của nhà văn Kim
Lân. Nhà văn đã xây dựng thành công cốt truyện và tình huống độc đáo, làm nổi bật chủ đề
tư tưởng của tác phẩm. Thủ pháp miêu tả diễn biến tâm lý sắc sảo, chân thực, tinh tế.
Truyện ngắn đã truyền đạt thành công những thông điệp giàu giá trị nhân văn của nhà văn
Kim Lân, thể hiện niềm đồng cảm, trân trọng và đứng về phía con người để đấu tranh, nêu
lên khát vọng sống, trăn trở tìm kiếm cho họ lối thoát.
“Hành trình của văn chương chỉ thật sự bắt đầu khi trang sách khép lại, đó là lúc nó
thật sự đã sống trong lòng người đọc”. Nhà văn tồn tại với sứ mệnh “nâng giấc cho những
người không ai nâng giấc”, đứng về phía con người để cất lên tiếng nói tự do, hạnh phúc.
Kim Lân là một nhà văn như thế khi ông đã “tự giết mình” để thâm nhập, sống trọn vẹn
cuộc đời của cả ba nhân vật, phát hiện trong họ những vẻ đẹp đáng quý của tình người. “Vợ
Nhặt” sẽ luôn là một chiếc lá chảy trôi giữa dòng thời gian miên viễn của thời gian, trở
thành thứ nghệ thuật “chỉ mình nó không thừa nhận cái chết”.

Đề bài: Cho 2 đoạn trích sau:


“Mị đứng lặng trong bóng tối.
Rồi Mị cũng vụt chạy ra. Trời tối lắm. Nhưng Mị vẫn băng đi. Mị đuổi A
Phủ đã lăn, chạy, chạy xuống tới lưng dốc. Mị nói, thở trong hơi gió thốc
lạnh buốt:
- A Phủ cho tôi đi.
A Phủ chưa kịp nói, Mị lại nói:
- Ở đây thì chết mất.
A Phủ chợt hiểu.
Người đàn bà chê chồng đó vừa cứu sống mình.
A Phủ nói: “Đi với tôi”. Và hai người lẳng lặng đỡ nhau lao chạy xuống
dốc núi.”
(Trích “Vợ chồng A Phủ” – Tô Hoài)
“Thế là thị ngồi sà xuống, ăn thật. Thị cắm đầu ăn một chặp bốn bát bánh
đúc liền chẳng chuyện trò gì. Ăn xong thị cầm dọc đôi đũa quệt ngang
miệng, thở:
- Hà, ngon! Về chị ấy thấy hụt tiền thì bỏ bố.
Hắn cười:
- Làm đếch gì có vợ. Này nói đùa chứ có về với tớ thì ra khuân hàng
lên xe rồi cùng về.
Nói thế Tràng cũng tưởng là nói đùa, ai ngờ thị về thật. Mới đầu anh
chàng cũng chợn, nghĩ: thóc gạo này đến cái thân mình cũng chả biết có
nuôi nổi không, lại còn đèo bòng. Sau không biết nghĩ thế nào hắn tặc lưỡi
một cái:
- Chậc, kệ!”
(Trích “Vợ nhặt” – Kim Lân)
Cảm nhận của anh/chị về hành động Mị chạy theo A Phủ và thị theo không Tràng về
làm vợ, từ đó nhận xét ngòi bút nhân đạo của các nhà văn.
Họ và tên: Yên Minh Huy
MHV: MV546
Điểm 4.75/5.0

BÀI LÀM
Bàn về giá trị của văn học, nhà văn Nam Cao từng tâm đắc: “Một tác phẩm thật giá
trị phải vượt lên trên tất cả bờ cõi và giới hạn, phải là một tác phẩm chung cho cả loài
người…Nó ca ngợi lòng thương, tình bác ái, sự công bình. Nó làm cho người gần người
hơn”. Văn chương luôn là một phương tiện đắc lực để phản ánh cuộc sống và các giá trị đẹp
đẽ của con người. Chân lý ấy càng trở nên sâu sắc khi ta soi rọi vào hai truyện ngắn “Vợ
chồng A Phủ” và “Vợ nhặt” của hai nhà văn tài ba Tô hoài và Kim Lân. Đặc biệt trong cách
mà nhà văn khai thác niềm ham sống của các nhân vật, đó là một cô Mị táo bạo, tự tìm
đường thoát thân qua đoạn trích “Mị đứng lặng trong bóng tối…chạy xuống dốc núi” và
hình ảnh người vợ nhặt liều lĩnh theo không người đàn ông xa lạ về làm vợ: “Thế là thị…
Chậc kệ!”. Từ đó, ta thấy những nét độc đáo trong ngòi bút nhân đạo của hai nhà văn.
“Văn học là nhân học” (M.Gorki) hay chính nhà văn phải đồng thời là “nhà nhân đạo
từ trong cốt tủy” với sứ mệnh cao cả là nâng đỡ cho những số phận lầm than. Văn chương
luôn trân trọng và mong muốn khai thác các giá trị đẹp đẽ của con người, hướng họ đến
những cái chân- thiện- mỹ của cuộc đời. Vì thế các nhà văn Tô Hoài và Kim Lân dẫu cho có
sự khác biệt về mặt phong cách nhưng vẫn gặp gỡ nhau trong cách khám phá “hạt ngọc ẩn
giấu của con người”. Qua nhân vật Mị hay người vợ nhặt, ta lại càng có thể tin rằng không
có gì có thể hủy diệt được khát vọng sống của con người lầm lũ, đói nghèo, họ phải phải
sống, sống cho ra con người.
Tô Hoài là một nhà văn cần mẫn và giàu sức sáng tạo của nền văn học hiện đại Việt
Nam. Sau cách mạng tháng tám, ông hướng ngòi bút của mình vào đại chúng, tiếp cận và
đào sâu hơn vào cuộc sống đời thường của họ. Bằng lối trần thuật hóm hỉnh, giản dị và từng
trải, các tác phẩm của Tô Hoài cứ thế mà len lỏi vào tâm hồn người đọc bao thế hệ vẫn mãi
thổn thức, xúc động. Truyện ngắn “Vợ chồng A Phủ” trích trong tập “Truyện Tây Bắc” là
kết quả của chuyến đi thực tế lên miền núi Tây Bắc của nhà văn. Giá trị của tác phẩm nằm ở
chỗ nó ca ngợi vẻ đẹp sức sống tiềm tàng của con người, của một cô Mị đau khổ, bế tắc
trong kiếp sống con dâu gạt nợ nhưng lại quyết liệt hành động cứu người khi chứng kiến
giọt nước mắt thống khổ lấp lánh trong ánh lửa. Đoạn trích đêm mùa đông là một tình
huống giá trị đánh dấu cho quá trình chối bỏ gông cùm để vươn đến sự tự do của nhân vật
Mị.
Mị chứng kiến nỗi đau của A Phủ, bất bình thay cho anh và cuối cùng là cắt dây trói
giúp A Phủ chạy trốn. Nhưng ngay sau đó Mị không chạy theo mà lại sợ hãi, do dự “đứng
lặng trong bóng tối”. Câu văn đặc biệt đến nỗi Tô Hoài đã tách cho nó thành một đoạn văn
riêng, chứng tỏ rằng câu văn ấy có sức gợi và chứa đầy dụng ý của tác giả. Cái “đứng lặng”
của Mị đủ cho ta thấy nội tâm của nhân vật đã đấu tranh mạnh mẽ ra sao. Trước đó, vì
thương người mà khi nghĩ đến cái chết Mị cũng không thấy sợ nhưng bây giờ A Phủ đã
được giải thoát, chỉ còn Mị ở lại đối diện với nỗi thương mình trong bóng tối thứ đã bao vây
cả cuộc đời của Mị khi làm con dâu gạt nợ. Có lẽ Mị sợ, cái chết dần dần ấp đến khiến cho
nhân vật bừng tỉnh về giá trị của bản thân mình. Mị đã trình ma như A Phủ cũng đã trình
ma, A Phủ đã chạy thoát thì Mị cũng có thể chạy thoát. Chính A Phủ đã gián tiếp cho Mị
một con đường sáng để đi. Nếu Mị ở lại, chắc chắn sẽ chết, nhưng nếu Mị chạy đi thì sẽ
phải đi về đâu? Con mà nhà thống lý sẽ làm gì Mị? Nhưng cái chết đến gần khiến Mị không
thể nghĩ nhiều nữa. Chỉ một câu văn thôi nhưng nội tâm nhân vật lại hiện lên vô cùng tinh
tế, sinh động cho thấy biệt tài miêu tả tâm lý của Tô Hoài.
Mị liều lĩnh chạy theo A Phủ, đi theo người đàn ông mà chính Mị cũng không biết
nhiều về hắn. “Trời tối lắm nhưng Mị vẫn băng đi”, ánh sáng trong tim đã dẫn lối để nhân
vật đi gần hơn đến sự tự do. Một người đàn bà lầm lũi, tự ti cúi mặt bây giờ lại hối hả, giục
giã chạy trốn. Một người phụ nữ câm lặng bây giờ lại cất lên tiếng nói cầu cứu: “A Phủ cho
tôi đi với”. Một con người đau khổ từng hơn một lần muốn chết bây giờ lại tha thiết, bám
víu lấy sự sống: “Ở đây thì chết mất”. Có lẽ bây giờ Mị mới thật sự là chính mình khi đã
thành công cứu người và giải thoát cho cả mình và sợi dây trói cường quyền và thần quyền
của thế lực thống trị. Chính hành động của Mị đã mang tâm hồn cô trở lại, giờ đây Mị đã
thật sự tự do, không còn là con trâu, con ngựa nữa. Có thể thấy rằng Tô Hoài rất tinh tế khi
để cho nhân vật Mị tự quyết định vận mệnh của mình chứ không hề có tác nhân nào hỗ trợ
và cô đã lựa chọn sự sống.
Giữ gìn những giá trị tốt đẹp của con người là thiên chức của nhà văn khi đến với
sáng tạo nghệ thuật. Không chỉ Tô Hoài mà Kim Lân cũng đã dùng chân lý ấy để định
hướng cho ngòi bút của mình. Kim Lân được mệnh danh là con đẻ của đồng ruộng, nhà văn
một lòng đi về với đất, với người, với thuần hậu nguyên thủy của cuộc sống nông thôn. Ông
sáng tác không nhiều, là kiểu nhà văn “quý hồ tinh bất quý hồ đa” nhưng các sáng tác của
ông lại chân thành, xúc động và giản dị, đọng lại nhiều giá trị sống trong lòng người đọc.
Truyện ngắn “Vợ nhặt” trích trong tập “Con chó xấu xí” lấy bối cảnh nạn đói 1945 để phản
ánh sâu sắc số phận bần cùng, tuyệt vọng của con người trong cái đói, đồng thời bày tỏ
niềm trân trọng và tin tưởng vào sức sống của con người. Thị là một nhân vật không tên,
không quê quán, không gia đình, lại bị cái đói hủy hoại về ngoại hình và nhân cách. Thế
nhưng ngỡ như người đàn bà ấy chỉ có thể chết đói, thị lại trở thành một biểu tượng sống
động cho khát vọng sống của con người. Qua tình huống người vợ nhặt theo anh cu Tràng
về làm vợ, ta lại càng có thể tin tưởng rằng trong cái không khí “tối sầm vì đói khát ấy vẫn
còn những tia sáng lấp lánh mang tên tình người”.
Thị và Tràng gặp nhau một cách tình cờ trên phiên chợ tỉnh với món nợ đùa vui “cơm
trắng mấy giò” lúc trước. Bấy giờ thị đã rách quá, thần chết đã vẽ thêm những đường nét
đầu tiên trên ngoại hình người đàn bà tội nghiệp. Ngoài miếng ăn ra thị không còn bận tâm
bất cứ điều gì khác nữa. Thị đánh mất ý tứ của một người phụ nữ, gạt qua miếng trầu lễ nghi
để đi thẳng đến miếng ăn. Từng hành động “sà xuống”, “ăn một chặp”, “quệt ngang đôi
đũa” đều thể hiện sự kém duyên của nhân vật, nhưng trong cái thời khắc mấp mé bên bờ cái
chết cũng chẳng ai muốn câu nệ. Thị đã nhanh chóng vịn vào câu nói đùa của Tràng để theo
hắn làm vợ thật. Có lẽ nếu như đọc đến đây thôi ta có thể thấy người phụ nữ ấy dường như
chẳng còn gì cả, một số phận bất hạnh đang ngày một lụi tàn trong cái đói.
Thế nhưng điều mà Kim Lân muốn nhấn mạnh ở nhân vật của mình, người đàn bà
đầy bất hạnh ấy lại chính là ở khao khát sống mạnh mẽ. Thị theo không Tràng về làm vợ,
chấp nhận từ bỏ mọi lễ nghi cưới hỏi để đồng hành cùng người đàn ông xa lạ, bởi vì đói
quá. Cái đói đã khiến cho giá trị của con người bị hủy hoại nhưng nó không thể cản bước
con người vươn đến sự sống. Thị nào đã yêu Tràng đâu nhưng thị theo hắn về với thái độ
bằng lòng chấp nhận chứ không đòi hỏi hay tỏ ra kênh kiệu, chê bai hoàn cảnh của anh cu
Tràng nghèo khổ, thiếu thốn. Phải chăng ngoài mong muốn được sống ra, người đàn bà ấy
còn khao khát có một mái ấm gia đình, một thứ được coi là xa xỉ trong nạn đói năm ấy. Từ
nhân vật thị, Kim Lân cho chúng ta thấy rằng dù có ở trong ngưỡng cửa của cái chết, con
người vẫn không ngừng hy vọng và tìm kiếm hạnh phúc cho chính mình. Họ sẵn sàng vươn
lên trên cả nghịch cảnh để sống, sống cho ra một con người.
Cả hai nhân vật Mị và thị tuy xuất thân khác nhau, hoàn cảnh khác nhau nhưng cả hai
đều là nạn nhân của hoàn cảnh nghiệt ngã với số phận bất hạnh. Họ đều đã từng nếm trải
cảm giác cận kề cái chết, nên khát vọng sống khi trỗi dậy lại vươn lên vô cùng quyết liệt, dữ
dội, liều lĩnh dám trả giá để theo đuổi sự sống đến cùng. Để từ đó làm nên giá trị nhân đạo
sâu sắc cho cả hai tác phẩm. Tô Hoài và Kim Lân đều là những “người cho máu” trên sự
nghiệp sáng tác của mình, vì thế mà họ luôn dành cho những số phận bất hạnh một tình yêu
thương sâu sắc và lòng đồng cảm chân thành. Họ đã dũng cảm đứng lên đấu tranh cho cái
thiện để chống lại cái xấu, cái ác, bài trừ tệ nạn cũng như phản ánh chân thực nạn đói kinh
hoàng. Không chỉ có vậy mà họ đều dày công đào sâu, khám phá, tìm kiếm trong mọi ngóc
ngách của cái bình thường, của nỗi đau những phẩm chất khuất lấp, đẹp đẽ. Một điểm tiến
bộ mà chúng ta ghi nhận trong giai đoạn văn học sau cách mạng đó là các nhà văn dần tìm
thấy con đường giải thoát cho nhân vật. Vì thế mà cái kết của “Vợ chồng A Phủ” và “Vợ
nhặt” luôn hướng chúng ta đến sự hi vọng, mong chờ họ sẽ hoàn lương, thay đổi. Rõ ràng
chính Kim Lân và Tô Hoài đều lấy chất liệu từ đời sống để xây đắp nên nhân vật nhưng
nhân vật của họ không tầm thường mà lại mang giá trị nhân văn sâu sắc, cảm hóa và hướng
thiện người đọc. Mị và người vợ nhặt đều thay chúng ta đi sâu vào phần đời sống động, dám
sống hết mình với khao khát và sẵn sàng trả giá cho những lựa chọn, hành động của mình.
Dù cho Tô Hoài và Kim Lân có những cách nhìn nhận và khai thác tình huống truyện khác
nhau, nhưng giá trị nhân đạo của cả hai tác phẩm đều vô cùng sâu sắc, đều một lòng hướng
đến sự nghiệp phục vụ và nâng đỡ các giá trị của con người.
Giá trị tư tưởng sẽ khô khan nếu không có sự kết hợp hài hòa về mặt hình thức. Vì
thế mà đoạn trích Mị chạy theo A Phủ hay đoạn trích người vợ nhặt theo Tràng về đều được
tái hiện sinh động thông qua hai ngòi bút đầy từng trải. Trong phân cảnh Mị chạy theo A
Phủ, Tô Hoài đã vận dụng tài tình thủ pháp miêu tả tâm lí nhân vật, khiến cho nội tâm nhân
vật lấp đầy những khoảng lặng, gợi nhiều tầng nghĩa. Ngoài ra, tác giả còn đặc biệt chú
trọng nghệ thuật xây dựng tình huống truyện độc đáo, giúp nhân vật mạnh mẽ, quyết liệt
hành động. Còn về tình huống thị theo Tràng về làm vợ, ta lại thấy ấn tượng với ngôn ngữ
kể chuyện của Kim Lân vô cùng dân dã, bình dị, khắc họa sống động bối cảnh nông thôn
miền Bắc Bộ. Ngoài ra, còn có thủ pháp miêu tả nhân vật, xây dựng tình huống éo le,
nghịch lý nhưng đầy cảm động nhằm làm nổi bật chủ đề, tư tưởng của tác phẩm. Có thể
thấy rằng khi viết về con người, cả hai nhà văn đều hết sức nỗ lực, tỉ mỉ, càng cho chúng ta
tin rằng: “văn học sẽ làm giàu đẹp cho tâm hồn con người”.
Văn chương đích thực không có tuổi, bởi lẽ hành trình đối thoại giữa nó với cuộc đời
sẽ không bao giờ kết thúc. Một tác phẩm vĩ đại luôn có sức hút vượt xa thời đại mà nó đang
sống, để dẫu cho hàng ngàn năm sau, những con chữ vẫn còn nguyên vẹn trong lòng người
đọc. “Vợ chồng A Phủ” hay “Vợ nhặt” cũng sẽ trở thành một tác phẩm như thế, để rồi dẫu
cho có ở bất cứ thời đại nào, ta cũng sẽ nhớ về lòng ham sống của cô Mị, nhớ về vẻ đẹp tâm
hồn của người vợ nhặt, để từ đó tâm hồn ta lớn lên qua những câu chuyện từ cuộc đời người
khác và của chính mình.

TÁC PHẨM “VIỆT BẮC”


Đề bài: Đọc đoạn trích sau:
- Mình về mình có nhớ ta?
Mười lăm năm ấy thiết tha mặn nồng.
Mình về mình có nhớ không
Nhìn cây nhớ núi, nhìn sông nhớ nguồn?
- Tiếng ai tha thiết bên cồn
Bâng khuâng trong dạ, bồn chồn bước đi
Áo chàm đưa buổi phân ly
Cầm tay nhau biết nói gì hôm nay...
(“Việt Bắc” – Tố Hữu)
Phân tích đoạn thơ trên, từ đó nhận xét ngòi bút trữ tình chính trị của nhà thơ.
Họ và tên: Hoàng Bảo Ngọc
Lớp: Cấp tốc 2k4
Điểm: 4.75/5
BÀI LÀM
Trong bài thơ “Tạm biệt”, Tố Hữu viết:
“Xin tạm biệt đời yêu quý nhất
Còn mấy vần thơ một nắm tro
Thơ gửi bạn đường tro gửi đất
Sống là cho, chết cũng là cho”
Phải chăng, đó là tâm nguyện của những nhà thơ, nhà văn, người trọn đời đã hiến
dâng tài năng cho Tổ quốc, cho Đảng và nhân dân? Văn chương, thơ ca chính là sự kết tinh
vẻ đẹp của thời đại. Âm vang của lịch sử dường như đọng lại đẹp nhất, rực rỡ nhất qua
những trang văn, trang thơ. Chiến tranh đã qua đi, bụi thời gian phủ dày lên chiến trường,
lên bia mộ những anh hùng. Nhưng văn học nghệ thuật bằng sứ mệnh thiêng liêng của mình
đã tái hiện và khắc sâu những hình ảnh oanh liệt thời khói lửa ấy. Mỗi thời kỳ lịch sử, mỗi
sự kiện cách mạng qua đu lại để lại vô số hoài niệm, lưu luyến cho các tác phẩm văn
chương. Và khi nhắc đến nhà thơ của thời đại, của cách mạng ta phải nhắc đến tên tuổi của
Tố Hữu. Hầu hết các tác phẩm của ông luôn song hành cùng cách mạng. Một trong những
tác phẩm tiêu biểu nhất của ông là bài thơ “Việt Bắc”. Bài thơ đã tái hiện chân thực kỷ niệm
cách mạng và nỗi nhớ da diết của kẻ ở người đi qua những lượt lời hỏi đáp giữa cán bộ về
xuôi và nhân dân Việt Bắc. Nỗi nhớ ấy đặc biệt được thể hiện qua đoạn thơ như một lời
nhắc nhở ở đầu tác phẩm, qua đó ta thấy được ngòi bút trữ tình chính trị sâu sắc của nhà
thơ:
“- Mình về mình có nhớ ta?
Mười lăm năm ấy thiết tha mặn nồng
……
Áo chàm đưa buổi phân li
Cầm tay nhau biết nói gì hôm nay…?”
Thơ Tố Hữu là dòng thơ trữ tình chính trị. Cái tôi trữ tình trong thơ ông ngay từ đầu
đã là cái tôi chiến sĩ (Từ ấy), càng về sau càng xác định là cái tôi nhân danh đảng, nhân
danh dân tộc (Ta đi tới). Việt Bắc là quê hương cách mạng, là căn cứ vững chắc của bộ đội
ta trong kháng chiến chống Pháp. Tại nơi đây,người dân Việt Bắc đã che chở. đùm bọc cho
Đảng, kề vai sát cánh cùng bộ đội ta. Sau chiến thắng lịch sử Điện Biên Phủ (1954), hiệp
định Giơnevơ được ký kết, một trang sử mới của đất nước được mở ra. Tháng 10/1954, các
cơ quan của trung ương Đảng và chính phủ rời chiến khu Việt Bắc trở về Hà Nội. Cuộc
sống thay đổi có tính bước ngoặt: từ chiến tranh sang hòa bình, từ núi rừng về thành thị.
Biết bao băn khoăn, trăn trở về tấm lòng son sắt, thủy chung nơi những người từng được
đùm bọc, che chở, bao lưu luyến với những tấm lòng “đồng cam cộng khổ”, “chia ngọt sẻ
bùi”, những bâng khuâng thương nhớ của kẻ ở người đi đã tuôn trào ra.
Khổ thơ đầu tiên của Việt Bắc là một bằng chứng trong thơ ca có họa (thi trung hữu
họa). Bốn câu thơ trong khổ thơ chính là lời nhắn nhủ của người ở lại, khơi gợi những kỉ
niệm nghĩa tình. Trong đó, ở hai câu thơ đầu tiên ta bắt gặp những nỗi nhớ về thời gian:
“- Mình về mình có nhớ ta?
Mười lăm năm ấy thiết tha mặn nồng”
Dấu “-” ở đầu đoạn trích như đánh dấu lượt lời mới, mở đầu cho cuộc đối thoại của
kẻ ở người đi. Nó khiến lời thơ như có chất văn xuôi, như một câu chuyện kể tuần tự từng
lượt thoại của các nhân vật. Trước khoảnh khắc chia tay đầu lưu luyến ấy, đồng bào đã
không thể kiềm nổi mà kết thành một câu hỏi. Đó là một câu hỏi tu từ, một câu hỏi như sự
trăn trở không biết rằng cán bộ khi về tới thủ đô rồi liệu có nhớ đến họ hay không. Câu hỏi
này vốn dĩ đã không cần câu trả louwf. Nó như một cách để nhân dân Việt Bắc bày tỏ nỗi
nhớ nhưng, quyến luyến một đoạn tình cảm sắp rời xa. Tác giả tiếp tục đề cập đến nỗi nhớ
qua cụm từ chỉ thời gian “Mười lăm năm ấy”, vừa là một danh từ chỉ thời gian vừa là một
cụm danh từ để ấp êm những hoài niệm. Mười lăm năm là một con số cụ thể, ấy vậy mà Tố
Hữu lại dùng nó với từ ngữ mang tính phiếm chỉ “ấy”. Đó là khoảng thời gian gắn bó với
biết bao ân tình của nhân dân Việt Bắc và cán bộ cách mạng (từ 19401954). Từ “ấy” như
mở ra một miền cảm xúc dạt dào khiến con người trở nên mơ hồ và xúc động trước sự chảy
trôi vô tình của thời gian, khiến cho khoảng thời gian vốn đã gắn bó nay càng trở nên lãng
mạn. Và dường như con số “mười lăm năm” không khó để chúng ta có thể bắt gặp trong
văn chương:
“Những là rày ước mai ao
Mười lăm năm ấy biết bao nhiêu tình”
Con số ấy đã từng được nhắc đến trong “Truyện Kiều”. Cũng là mười lăm năm, cũng
biết bao tình nghĩa, các tác giả đều muốn nhắn nhủ rằng: càng gắn bó lâu, con người ta càng
day dứt khi phải nói lời tạm biệt
Ở hai câu tiếp theo, nhân dân dường như muốn nhắc đến cảm xúc gắn bó và nỗi nhớ
trong không gian thiên nhiên Việt Bắc:
“Mình về mình có nhớ không
Nhìn cây nhớ núi, nhìn sông nhớ nguồn”
Tác giả sử dụng điệp từ “nhìn”, “nhớ” thể hiện nỗi nhớ bao trùm cả không gian luôn
tha thiết, thường trực trong lòng người ở lại. Vẫn là câu hỏi tu từ nhắc nhở người đi về tình
cảm của người ở lại. Liệu về với Hà Nội của đèn đường, của phố thị, những cảnh sắc thiên
nhiên của Việt Bắc nơi đây liệu có khiến người quên đi không? Với những hình ảnh được
liệt kê “cây”, “núi”, “sông”, “nguồn”,.. Tố Hữu như lồng vào đó ý tứ của câu tục ngữ “Uống
nước nhớ nguồn” bên cạnh việc khắc họa hình ảnh núi rừng thân thương nơi Việt Bắc.
Qua bốn câu thơ đầu tiên, người đọc thấy được cách sử dụng linh hoạt, nhuần nhuyễn
lối xưng hô mình ta của tác giả. Trong ca dao Việt Nam, “mình ta” như kucs hát ví dặm của
người ở người về, tuy hai mà một, tuy một mà hai. Ta có thể bắt gặp lối xưng joo này trong
rất nhiều ca dao Việt Nam:
“Mình nhớ ta như cà nhớ muối
Ta nhớ mình như cuội nhớ trăng”
Hay:
“Mình về ta chẳng cho về
Ta níu vạt áo ta đề câu thơ”
Sáng tạo của Tố Hữu đã diễn tả tình cảm cách mạng cho mối quan hệ trở nên gần gũi
thân thiết. Cũng bởi quá thân thiết nên những người ở lại nơi núi rừng ai cũng bồi hồi, lo
lắng mình sẽ bị lãng quên giữa muôn vàn niềm vui nơi thủ đô hoa lệ kia. Đó có lẽ cũng là
câu trả lời cho câu hỏi vì sao “Việt Bác” bắt đầu bằng lời của người ở lại chứ không phải
của người ra đi? Phải chăng là người ra đi sẽ ít day dứt hơn khi bước về phía trước với bao
điều mới mẻ đang chờ đón, còn người ở lại sẽ khắc khoải nơi chốn cũ, sẽ mãi ôm bóng hình
của những khung cảnh cũ, đau đớn khôn nguôi. Hay người ở mở lời trước vì họ sợ bị lãng
quên, khi thời gian qua đi, người vì niềm vui chốn xa kia mà bỏ lại ta ở ngày xưa cũ. Ta
từng bắt gặp sự lãng quên ấy trong thơ của Nguyễn Duy:
“Từ hồi về thành phố
Quen ánh điện cửa gương
Vầng trăng đi qua ngõ
Như người dưng qua đường”
Khi con người trở về với phố thị, ánh trăng thủy chung, cái ánh trăng “hồn nhiên như
cây cỏ” cũng hóa “người dưng qua đường”. Nỗi lo lắng của người ở không phải không có
căn cứ; thậm chí nó còn là một biểu hiện tâm lí thường gặp: nỗi lo âu bị quên lãng khi ly
biệt.
Tố Hữu từng nói: “Thơ chỉ bật ra khi trong tim anh mọi thứ đã thật ứ đầy”. Tác giả là
người mang tâm trạng của người ra đi, chính từ những niềm thương, những lưu luyến với
đồng bào Việt Bắc đã trào ra trong tim mà thi nhân đã viết nên những lời đáp của cán bộ về
xuôi ở khổ thơ thứ hai:
“Tiếng ai tha thiết bên cồn
Bâng khuâng trong dạ bồn chồn bước đi”
“Đi” chính là người ở lại. Với đại từ phiếm chỉ “ai”, tác giả như xóa mờ đôi chút
bóng hình người ở lại. Dụng ý nghệ thuật ấy đã tô đậm thêm nỗi nhớ nhung, luyến tiếc trong
lòng người cán bộ về xuôi. Ta còn bắt gặp được điểm sáng nghệ thuật qua từ láy “tha thiết”.
Ông đảo lại từ
“Áo anh rách vai
Quần tôi có vài mảnh vá
Miệng cười buốt giá
Chân không giày
Thương nhau tay nắm lấy bàn tay”
Họ cầm tay nhau trong không khí bịn rịn, nghẹn ngào mà “không nói nên lời”. “Biết
nói gì hôm nay” không phải là không có gì để nói mà là có quá nhiều điều nhưng lại như
nghẹn lại, như bất hữu trước tình cảm trào dâng mãnh liệt. Dấu ba chấm cuối khổ thơ xuất
hiện như một nốt nhạc ngân dài sự lưu luyến, tình cảm cứ nối tiếp tình cảm…
“Các anh đi ngày ấy đã lâu rồi
Xóm làng tôi còn nhớ mãi
Các anh đi bao giờ trở lại
Xóm làng tôi trai gái vẫn chờ mong”
(“Bao giờ trở lại “- Hoàng Trung Thông)
Trong những bài thơ về kháng chiến, chúng ta bắt gặp không ít những dòng thơ thấm
đẫm tình quân dân. Tố Hữu một chiến sĩ cách mạng luôn lồng ghép vào thơ ông không khí
cách mạng và những sự kiện lịch sử. Song chúng không khô khan mà lại vô cùng tha thiết,
dịu dàng. Tố Hữu với ngòi bút trữ tình chính trị đã biến sự kiện lịch sử năm 1954 ấy thành
một thời khắc sâu sắc và quyến luyến giữa quân và dân. Thơ ca chính là nơi nuôi dưỡng tình
cảm, giáo dục luân lí và truyền tụng đạo đức. “Việt bắc” bằng ngòi bút trữ tình chính trị của
nhà văn đã thành công mang đến cho người đọc kiến thức lịch sử, chính trị thời cuộc mà
thắm tình, đẫm lệ vô cùng.
Bài thơ “Việt Bắc” để lại ấn tượng bởi bức tranh thiên nhiên con người Việt Bắc.
Bằng cách sử dụng thể thơ lục bát mang âm hưởng sâu lắng, giọng điệu thủ thỉ tâm tình
cùng các biện pháp tu từ hoán dụ, điệp ngữ,... Tố Hữu đã mang đến cho người đọc sự khâm
phục tinh thần bất khuất, đoàn kết giữa một thời khói lửa hào hùng đã qua. Quả thật không
sai “Thái độ toàn tâm toàn ý với Cách mạng là nguyên nhân chính làm nên thành công của
nhà thơ Tố Hữu”.
Chế Lan Viên từng nhận xét thơ Tố Hữu: “Thơ anh mà ru người trong nhạc, vừa thức
người bằng ý”. Những trang thơ “Việt Bắc” không chỉ thu hút chúng ta bởi sắc điệu trữ tình
mà còn chín bằng tình cảm con người trong chiến tranh bom đạn. Tố Hữu vừa làm cách
mạng, vừa làm thư. Làm thơ để phục vụ cách mạng, làm cách mạng để làm giàu nguồn cảm
hứng cho thơ. Trong thời kì kháng chiến chống Pháp, Tố Hữu đã tạo nên một thế giới trong
kiệt tác của mình. Những vần thơ ấy biết bao gian khổ, nhưng rất đời, rất tình ở Việt Bắc.
Mà nói như Hoài Thanh “văn chương gây cho ta những tình cảm ta không có và luyện
những tình cảm ta sẵn có”
Đề bài:
Nhà thơ Chế Lan Viên từng nhận định: “Nhà thơ này sử dụng đôi mắt tinh tường, nhà
thơ khác sử dụng bộ óc kì ảo, còn Tố Hữu, anh chỉ sử dụng tình cảm và trái tim trần.”
Hãy phân tích 8 câu thơ đầu bài thơ “Việt Bắc” (Tố Hữu) để làm rõ nhận định trên.
Họ và tên: Ngọc Minh
MHV: S23017
Điểm: 4.5/5.0

BÀI LÀM
Khi bàn về thơ, Tố Hữu đã bày tỏ quan điểm của mình: “Thơ chỉ bật ra khi trong tim
ta cuộc sống đã tràn đầy”. Đúng vậy, thơ là nơi dừng chân của tâm hồn thi sĩ, nó phản ánh
cuộc sống, con người để qua đó người nghệ sĩ bộc bạch nỗi lòng của mình. Hay nói cách
khác mỗi bài thơ như tấm gương phản chiếu tâm hồn thi sĩ. Ta biết đến Tố Hữu với phong
cách thơ khác lạ mà như Chế Lan Viên cho rằng: “Nhà thơ này sử dụng đôi mắt tinh tường,
nhà thơ khác sử dụng bộ óc kì ảo, còn Tố Hữu, anh chỉ dụng dụng tình cảm và trái tim trần”.
Được mệnh danh là “cánh chim đầu đàn của thơ ca Cách mạng Việt Nam”, “Việt Bắc” là
một thi phẩm đặc biệt trong sự nghiệp sáng tác của Tố Hữu và là một minh chứng tiêu biểu
cho nhận định của Chế Lan Viên, đặc biệt ở 8 câu thơ đầu:
“Mình về mình có nhớ ta?
Mười lăm năm ấy thiết tha mặn nồng
Mình về mình có nhớ không?
Nhìn cây nhớ núi nhìn sông nhớ nguồn
Tiếng ai tha thiết bên cồn
Bâng khuâng trong dạ, bồn chồn bước đi
Áo chàm đưa buổi phân li
Cầm tay nhau biết nói gì hôm nay…”
Trong lời nhận định của Chế Lan Viên, ông nói về sự đa dạng trong phong cách sáng
tác của mỗi người nghệ sĩ. “Nhà thơ này sử dụng đôi mắt tinh tường, nhà thơ khác sử dụng
bộ óc kì ảo”. Nhưng có lẽ, mục đích chính là Chế Lan Viên muốn đề cao phong cách độc lạ
của Tố Hữu, khi tác giả này làm thơ “chỉ sử dụng tình cảm và trái tim trần”. Nhận định của
Chế Lan Viên muốn khen ngợi con người nội tâm của Tố Hữu- sống tình cảm và điều đó
được thể hiện ngay trong các tác phẩm của ông. “Nghệ thuật nằm ngoài quy luật của sự
băng hoại. Chỉ mình nó không thừa nhận cái chết (Saltykov Shchedrin). Vậy điều gì đã làm
cho các tác phẩm văn học nói chung và thơ ca nói riêng trở nên bất tử, ở tài năng hay tấm
lòng của người cầm bút? Và phải chăng yếu tố cốt lõi để thi sĩ viết nên một tác phẩm nghệ
thuật chính là bắt nguồn từ tình cảm chân thành của tác giả. Thi sĩ không thể làm thơ khi
trong tâm không có cảm xúc, đó phải là một thứ tình cảm mạnh mẽ thôi thúc họ viết nên con
chữ để gửi gắm những tâm tư, tình cảm của mình. Cảm xúc trong thơ phải chân thành, sâu
lắng để độc giả có thể đồng cảm được, khi đó những vần thơ mới thực sự giá trị. “Việt Bắc”
của Tố Hữu chính là một tác phẩm như thế.
Tố Hữu là một người thi sĩ làm cách mạng, một nhà cách mạng làm thơ. Khi được
giác ngộ lí tưởng cách mạng, ông đã thực sự xác định được hướng đi cho mình. Tố Hữu như
một “thư kí trung thành của thời đại” bởi những chặng đường thơ của ông đều gắn với
những sự kiện cách mạng lịch sử. Ông đã dành cả đời mình để phục vụ cho công cuộc cách
mạng. “Việt Bắc” là kết quả của những cảm xúc lưu luyến khi Tố Hữu cùng cán bộ cách
mạng rời xa căn cứ Việt Bắc về Hà Nội sau mười lăm năm gắn bó. Đó là khi cuộc kháng
chiến chống Pháp kết thúc thắng lợi, hiệp định Giơ-ne-vơ được kí kết và hòa bình được lập
lại ở miền Bắc. Bằng tình cảm mến thương của mình, Tố Hữu đã cho ra đời “Việt Bắc” để
lưu lại những kỉ niệm đẹp suốt quãng thời gian gắn bó. Trong đó 8 câu thơ đầu là khung
cảnh chia tay giữa người dân Việt Bắc và các cán bộ cách mạng với nhiều cung bậc cảm xúc
đan xen lẫn lộn.
Việt Bắc là căn cứ địa cách mạng đã đồng hành, giúp đỡ những cán bộ và chiến sĩ
trong thời kì chống Pháp. Mảnh đất ấy tuy vất vả, nghèo khó nhưng giàu tình nghĩa, nơi đây
đã đùm bọc và che chở cho bộ đội, cán bộ trong suốt những năm tháng kháng chiến gian
nan. Chính vì thế mà khi phải rời xa vùng đất đã gắn bó và thân thuộc, một loạt câu hỏi
được đặt ra rằng liệu những người ở lại có nhớ những ngày tháng đồng cam cộng khổ trong
kháng chiến? Liệu những người ra đi về với nơi phồn hoa đô hội có còn giữ tấm lòng thủy
chung với Việt Bắc hay không? Mở đầu bài thơ, người ở lại cất lên câu hỏi băn khoăn để
khơi gợi lại những năm tháng gắn bó đã qua trong khung cảnh chia tay bịn rịn:
“Mình về mình có nhớ ta?
Mười lăm năm ấy thiết tha mặn nồng”
Đọc những câu thơ đầu tiên, ta đã thấy phảng phất âm hưởng của câu ca dao tình yêu
thuở trước:
“Mình về ta chẳng cho về
Ta nắm vạt áo ta đề câu thơ”
Hay:
“Mình về có nhớ ta chăng
Ta về nhớ nhớ hàm răng mình cười”
Tố Hữu đã rất tinh tế khi mượn lời đối đáp quen thuộc mình-ta của ca dao dân gian
để thể hiện tình nghĩa đong đầy của người ở lại. Trong câu hỏi thứ nhất “Mình về mình có
nhớ ta”, “mình” chỉ người ra đi, “ta” chỉ người ở lại. Liệu mình đi rồi có còn nhớ đến những
người ở lại, có còn nhớ “mười lăm năm ấy”. Đó là mười lăm năm “Mình đây ta đó đắng cay
ngọt bùi”, là quãng thời gian ta với mình “Thương nhau, chia củ sắn lùi/ Bát cơ sử nửa,
chăn sui đắp cùng”. Từ “ấy” được tác giả sử dụng đã làm tăng thêm tính cá nhân hóa của kỉ
niệm, những cảm xúc “thiết tha mặn nồng” của khoảng thời gian ấy càng nhấn mạnh thêm
tình cảm keo sơn giữa người dân Việt Bắc với cán bộ cách mạng.
Câu hỏi thứ hai của người ở lại đã hướng tới không gian nguồn cội:
Mình về mình có nhớ không?
Nhìn cây nhớ núi nhìn sông nhớ nguồn”
Câu thơ tám chữ đan xen hình ảnh cây- sông của miền xuôi và hình ảnh núi- nguồn
của miền núi. Người ở lại băn khoăn rằng khi cán bộ về xuôi nhìn cây liệu có nhớ đến núi
Việt Bắc, nhìn sông có nghĩ về cội nguồn hay không? Điệp từ “nhìn”, “nhớ” được nhắn lại
hai lần muốn nhắc nhở đạo lí “Uống nước nhớ nguồn”. Cho dù hoàn cảnh có đổi thay thì
tấm lòng sắt son, thủy chung cũng không thể phai mờ. Người ra đi khi về miền xuôi xin
đừng quên Việt Bắc- “Quê hương cách mạng dựng nên Cộng hòa”.
Người ra đi không trực tiếp trả lời câu hỏi của người ở lại nhưng bao cảm xúc của họ
đã được giãi bày qua bốn câu thơ tiếp:
“Tiếng ai tha thiết bên cồn
Bâng khuâng trong dạ, bồn chồn bước đi
Áo chàm đưa buổi phân li
Cầm tay nhau biết nói gì hôm nay…”
Đại từ phiếm chỉ “ai” làm cho câu thơ có chút mơ hồ, không rõ đối tượng được nhắc
đến, “tiếng ai” phải chăng là tiếng lòng của người ở lại nhưng cũng chính là sự đồng vọng
trong tâm tư người ra đi. Âm thanh “tha thiết” gợi ra bao ân tình, trìu mến, đó là thứ cảm
xúc cánh cánh trong lòng, là sự khắc khoải khôn nguôi. “Bâng khuâng” , “bồn chồn” hai từ
láy gợi tả trạng thái cảm xúc hỗn độn với một chút thương, một chút nhớ, một chút bồi hồi,
một chút bịn rịn. Tất cả những cảm xúc ấy dường như đều đang chồng lấn lên nhau trong
lòng người ra đi. Lòng người “bâng khuâng”, “bồn chồn” khiến bước chân đi cũng trở nên
lưu luyến chẳng muốn rời. Hình ảnh “áo chàm” ở câu thơ tiếp theo là hình ảnh hoán dụ kéo
lấy dấu hiệu của sự vật để chỉ sự vật, lấy bộ phận để chỉ toàn thể. “Áo chàm” là trang phục
đặc trưng của người dân Việt Bắc, là đại diện cho những người ở lại. Màu áo chàm là màu
của những con người Việt Bắc mộc mạc, giản dị, lam lũ và cũng rất thủy chung, nghĩa tình
với cách mạng và với kháng chiến.
Trước giây phút chia li, họ chỉ biết “cầm tay nhau” xao xuyến trong không khí lặng
im “biết nói gì hôm nay”. Không phải họ không có gì để nói mà là có quá nhiều điều muốn
nói cho nên giây phút ấy mới nghẹn ngào không biết bắt đầu mở lời từ đâu. Quãng thời gian
mười lăm năm không phải ngắn, giữa họ có biết bao kỉ niệm không thể kể hết. Ngôn từ bất
lực trước giây phút cảm xúc dâng trào và chỉ “cầm tay” thôi là đủ rồi. Cái cầm tay ấy là biểu
hiện cho tình keo sơn bền chặt, để truyền cho nhau tình cảm. Ta cũng bắt gặp cái nắm tay
nhau của những người lính để truyền cho nhau hơi ấm và gắn kết tình đồng đội:
“Áo anh rách vai
Quần tôi có vài mảnh vá
Miệng cười buốt giá
Chân không giày
Thương nhau tay nắm lấy bàn tay”
(“Đồng chí”- Chính Hữu)
Người lính Cụ Hồ nắm tay nhau để truyền động lực vượt qua khó khăn, khắc nghiệt.
Còn người dân Việt Bắc và các cán bộ cách mạng cầm tay nhau để gắn kết tấm lòng son
sắc, thủy chung đầy xúc động , xao xuyến. Dấu ba chấm cuối câu như một nốt nhạc ngân
dài cho cảm xúc lưu luyến trào dâng trong lòng cứ thế kéo dài mãi.
Mạch cảm xúc xuyên suốt đoạn trích là nỗi xao xuyến, bồn chồn không nỡ rời xa
giữa cán bộ cách mạng và người dân Việt Bắc nghĩa tình mộc mạc. Để có được những vần
thơ đong đầy cảm xúc như thế, không thể không xuất phát từ những cảm xúc chân thành của
Tố Hữu, đó chính là “tình cảm và trái tim trần” mà Chế Lan Viên muốn nói tới. Tuy nhiên,
cái tâm luôn phải đi đôi với cái tài mới có thể làm nên giá trị đích thực cho một tác phẩm.
Cái tâm của Tố Hữu đã được tô điểm thêm bằng tài năng qua cách ông sử dụng từ ngữ cô
đọng, kết hợp với các biện pháp tu từ, đặc biệt là thể thơ lục bát truyền thống cùng lối đối
đáp mình-ta làm cho cuộc chia tay chính trị lưu luyến như cuộc chia tay của lứa đôi, qua đó
nhấn mạnh sự khăng khít, mặn nồng giữa người đi và kẻ ở.
Nhà thơ Bằng Việt cho rằng: “Tiêu chuẩn vĩnh cửu của nhà thơ là tình cảm”. Để làm
nên một tác phẩm chân chính, chắc chắn người nghệ sĩ phải có cảm xúc xuất phát từ trái
tim. Và Tố Hữu là một người như vậy, ông dồn bút lực của mình chỉ để “viết cho hết cái lí
tưởng cộng sản” bằng một tấm lòng yêu nước thiết tha. Với giọng điệu tâm tình và cảm
hứng lãng mạn, “Việt Bắc” sẽ sống mãi trong lòng người đọc, gợi về một thời kì lịch sử với
biết bao kỉ niệm gắn bó giữa người đi, kẻ ở nơi căn cứ địa kháng chiến chống Pháp hào
hùng.
Đề bài: Nêu cảm nhận của anh/chị về đoạn thơ sau:

“Nhớ gì như nhớ người yêu

Trăng lên đầu núi, nắng chiều lưng nương

Nhớ từng bản khói cùng sương

Sớm khuya bếp lửa người thương đi về”

(Việt Bắc – Tố Hữu)

Từ đó, liên hệ với đoạn thơ trong “Tây Tiến" (Quang Dũng):

“Sông Mã xa rồi Tây Tiến ơi!

Nhớ về rừng núi, nhớ chơi vơi

Sài Khao sương lấp đoàn quân mỏi

Mường Lát hoa về trong đêm hơi”

Họ và tên: Hoàng Thị Thu Huệ

MHV: MV428

Điểm: 4.25/5.0

BÀI LÀM
Chế Lan Viên từng viết :

“Nhớ bản sương giăng, nhớ đèo mây phủ

Nơi nào qua, lòng lại chẳng yêu thương


Khi ta ở, chỉ là nơi đất ở

Khi ta đi, đất bỗng hóa tâm hồn!”

Từ xưa đến nay, “nỗi nhớ” luôn là nguồn cảm hứng mãnh liệt của biết bao thi nhân.
“Nỗi nhớ” chính là tác nhân thúc đẩy những cảm xúc, những rung động mạnh mẽ từ sâu bên
trong trái tim. Đúng như Tố Hữu từng nói: “Thơ chỉ trào là khi trong tim cuộc sống đã ứ
đầy”. Chính nỗi nhớ làm đầy ắp , thậm chí tràn ngập những tình cảm bên trong những người
nghệ sĩ để họ tạo nên những công trình vĩ đại. Và có lẽ vì thế mà Tố Hữu đã gửi gắm hết
những tâm tư, tình cảm và nỗi nhớ của mình đối với chiến khu Việt Bắc qua bài thơ “Việt
Bắc”. Đặc biệt, nỗi nhớ đong đầy, mãnh liệt nhất được thể hiện qua khổ thơ sau :

“ Nhớ gì như nhớ người yêu

Trăng lên đầu núi, nắng chiều lưng nương

Nhớ từng bản khói cùng sương

Sớm khuya bếp lửa, người thương đi về .”

Tố Hữu được coi là “ cánh chim đầu đàn “ của nền thơ ca cách mạng Việt Nam. Ông
dùng ngòi bút của mình như thứ vũ khí để chiến đấu và “bay theo đường dân tộc đang bay”
( Chế Lan Viên ). Là một nhà thơ luôn hướng đến “ lẽ sống lớn, tình cảm lớn”, cống hiến
hết mình vì sự nghiệp của dân tộc. Thơ của Tố Hữu chủ yếu khai thác các vấn đề chính trị
nhưng không chỉ là các sự kiện lịch sử khô khan mà còn là “ tiếng lòng của người cầm bút”.
Vì thế, Xuân Diệu mới cho rằng “Tố Hữu đã đưa thơ chính trị lên rất đỗi trữ tình”. Và “Việt
Bắc” là một tác phẩm như thế. Bài thơ được sáng tác năm 1954, khi các cơ quan, cán bộ rời
khỏi thủ đô gió ngàn để trở về thủ đô ánh sáng, Hà Nội. Thi nhân viết tác phẩm để lưu giữ
lại khoảnh khắc đáng nhớ. Đồng thời bày tỏ tình cảm, nỗi nhớ với chiến khu thân thương đã
gắn bó bấy lâu. “Việt Bắc” còn là một thước phim quay chậm mang ta trở về với quá khứ
nghĩa tình, chạm vào một mảng kí ức, một góc nhỏ trong tim của cán bộ về xuôi cũng như
nhân dân Việt Bắc.

Khổ thơ trên như một bức tâm thư của thi nhân về nỗi nhớ dành cho thiên nhiên nơi
thủ đô gió ngàn lắm vất vả nhưng chan chứa tình nghĩa. “Nỗi nhớ người yêu” là nỗi nhớ vô
cùng khắc khoải, thường trực trong trái tim mỗi người đang yêu. Có lẽ vì thế mà Xuân
Quỳnh cũng từng tâm sự rằng :

“ Ôi con sóng nhớ bờ

Ngày đêm không ngủ được

Lòng em nhớ đến anh

Cả trong mơ còn thức “

Đó là một nỗi nhớ khiến con người ta thao thức, đắm say. Nhà thơ Tố Hữu đã rất
khéo léo khi so sánh nỗi nhớ của mình với nỗi nhớ người yêu để làm bật lên những xúc cảm
mạnh mẽ. Qua đó, ông cho người đọc thấy được tình cảm sâu đậm mà ông dành cho mảnh
đất đau thương nhưng anh dũng vô ngần này. Nỗi nhớ không chỉ trở nên sâu đậm mà còn
thiêng liêng, cao cả. Những người dân Việt Bắc luôn luôn giúp đỡ, sẵn sàng chia sẻ miếng
cơm, manh áo cho bộ đội. Có thể nói, câu thơ “Trăng lên đầu núi, nắng chiều lưng nương”
tác giả đã sử dụng phép tiểu đối giữa khung cảnh cao vút của bầu trời và ánh nắng vàng
dưới nương ngô. Điều đó làm bật lên nỗi nhớ da diết, kéo dài cả ngày lẫn đêm. Ánh trăng là
biểu hiện của ánh sáng nghĩa tình, gắn bó, mang đến cho người đọc cảm giác bồi hồi, nhớ
thương. Ta cảm giác được hòa mình vào cảnh sắc nơi đây để tận hưởng, cảm nhận về miền
kí ức đã xa. “Nắng chiều lưng nương” là màu vàng óng ả của những ruộng lúa, bã ngô. Thể
hiện một vụ mùa bội thu, một năm sản xuất thành công. Mặt khác, những hình ảnh “trăng”
và “nắng” ấy cũng gợi lên một không khí bình yên, êm ả, ấm áp khiến ta có thể sống chậm
lại để trân trọng từng khoảnh khắc của hiện tại. Tất cả hòa quyện tạo nên một nỗi nhớ lớn
lao, sâu sắc vượt lên cả không gian, thời gian thậm chí vượt qua cả quy luật của tạo hóa

Nỗi nhớ khắc khoải ấy không chỉ tồn tại cùng với ánh “trăng” và “nắng chiều” mà
còn gắn với “những bản khói cùng sương”. Điều đó tạo nên một không gian bình dị, thơ
mộng khiến ta đắm say. Nhà thơ da diết nhớ về từng chi tiết, từng sự vật, con người nơi đây.
Mọi thứ đều như khắc sâu trong tâm thức của thi nhân để rồi trào ra qua những vần thơ đầy
lưu luyến, bịn rịn. Câu thơ còn tạo nên một bức tranh đồng quê chân thực, mộc mạc. Tác giả
như dẫn người đọc đi tham quan vùng đất mà ông đã gửi gắm biết bao niềm thương, nỗi
nhớ. “Việt Bắc” trong Tố Hữu còn hiện lên qua hình ảnh bếp lửa. “Bếp lửa” là biểu tượng
cho những gia đình Việt Nam, những gì thân thuộc, gần gũi nhất. Nó là thứ đã sưởi ấm con
người trong những đêm đông giá rét nơi thiên nhiên hùng vĩ nhưng có phần khắc nghiệt. Ta
cũng từng bắt gặp hình ảnh này trong lời thơ da diết của Bằng Việt. Bếp lửa là nơi ấm cúng,
chứa chan tình cảm gia đình, là tình yêu thương thắm thiết giữa người với người. Những lúc
các cán bộ và người dân Việt Bắc cùng quây quần bên bếp lửa và những cuộc trò chuyện
thân mật có lẽ đó là kí ức tươi đẹp mà ai dù đã rời xa chốn cũ cũng sẽ không bao giờ quên.
Nỗi nhớ luôn thường trực từ sáng sớm đến tận khuya, hiện hữu trong bóng dáng người
thương nồng đậm, ân tình.

Cùng viết về nỗi nhớ nơi chiến trường xưa cũ, Quang Dũng cũng có đoạn thơ sau :

“Sông Mã xa rồi Tây Tiến ơi !

Nhớ về rừng núi nhớ chơi vơi

Sài Khao sương lấp đoàn quân mỏi

Mường Lát hoa về trong đêm hơi”

Đều là những nỗi nhớ khắc khoải về thiên nhiên Tây Bắc. Một thiên nhiên hùng vĩ,
tráng lệ nhưng cũng nguy hiểm vô lường. Giống với Tố Hữu, Quang Dũng cũng khắc ghi
từng khung cảnh, địa điểm mà nhà thơ đã từng đi qua. Là nỗi nhớ luôn trực chờ, tha thiết.
Từ “ơi” thể hiện tiếng gọi đầy xúc cảm và tràn trề như “nỗi nhớ người yêu” trong Việt Bắc.
Chỉ với một từ ngữ, nhà thơ đã bộc lộ hết cả tấm lòng của mình dành cho thiên nhiên nơi
đây. Một nỗi nhớ “chơi vơi”, vô định. Có lẽ vì nỗi nhớ quá lớn đến nỗi không thể diễn tả
bằng lời. Nhà thơ Quang Dũng cũng đã tái hiện cho bạn đọc về cảnh sắc đẹp đẽ trên con
đường hành quân “Mường Lát hoa về trong đêm hơi”. Cuộc hành quân không chỉ có những
khó khăn gian khổ mà còn có những giây phút bình yên ngắm nhìn trong cảnh xung quanh.

Bằng tài năng và tình cảm sâu sắc dành cho vùng đèo cao Tây Bắc, Tố Hữu đã vẽ lên
bức tranh thiên nhiên Tây Bắc mộc mạc, giản dị, gần gũi. Giọng thơ ngọt ngào, tha thiết,
tâm tình mang đến cảm giác thân thuộc, gắn bó và khơi gợi nguồn cảm xúc nơi độc giả. Thi
phẩm là khúc tình ca về nỗi nhớ mà nhà thơ gửi gắm đến chiến khu Việt Bắc và người dân
nơi đây. Đồng thời, thi nhân muốn bày tỏ tấm lòng, sự hiến dâng cho Tổ quốc cách mạng.

Khép lại tác phẩm nhưng những dư âm về nỗi nhớ vẫn còn mãi trong lòng bạn đọc.
Từ đó, tác phẩm nhắc nhở thế hệ mai sau phải luôn biết khắc ghi, nhớ ơn những công lao to
lớn của ông cha ta. “Việt Bắc” sẽ luôn sống mãi với thời gian và ghi dấu ấn đậm nét với
mỗi thế hệ bạn đọc. Đặc biệt, tác phẩm một lần nữa khẳng định tấm lòng kiên trung với
Đảng và sẵn sàng hi sinh vì độc lập, tự do của dân tộc. Đúng như nhà thơ từng nhận định :

“Trái tim anh chia ba phần tươi đỏ

Anh dành riêng cho Đảng phần nhiều

Phần cho thơ và phần để em yêu.”

Đề bài: Cho đoạn thơ sau:

“-Mình về mình có nhớ ta

Mười lăm năm ấy thiết tha mặn nồng.

Mình về mình có nhớ không

Nhìn cây nhớ núi, nhìn sông nhớ nguồn?

- Tiếng ai tha thiết bên cồn

Bâng khuâng trong dạ, bồn chồn bước đi

Áo chàm đưa buổi phân ly

Cầm tay nhau biết nói gì hôm nay...”

("Việt Bắc" - Tố Hữu)

Phân tích đoạn thơ trên, từ đó nhận xét về tính dân tộc trong thi phẩm của Tố Hữu.

Họ và tên: Lê Thị Phương Thảo


MHV: K23234

Điểm: 4.75/5.0

BÀI LÀM

“Chín năm làm một Điện Biên


Nên vành hoa đỏ, nên thiên sử vàng”
Trong dòng lịch sử, mảnh đất Tây Bắc- Điện Biên được coi là quê hương của những
cuộc kháng chiến cứu quốc, quê hương của biết bao người anh hùng, mảnh đất trung du và
miền núi phía Bắc trĩu nặng ân tình, khiến ai từng đặt chân đến đều cảm mến, bồi hồi, đều
để đau đáu niềm thương, nỗi nhớ khi phải nói lời tạm biệt. Tố Hữu cũng không phải là
ngoại lệ. Đã có khoảng thời gian gắn bó sâu sắc với chiến khu Việt Bắc, nhà thơ mặc áo
lính đã không khỏi bịn rịn trong giờ phút chia tay, để rồi thi phẩm “Việt Bắc” ra đời như
đặt trọn nỗi niềm trong từng lời thơ, con chữ. “Việt Bắc” không chỉ thấm đẫm nghĩa tình mà
còn là bản hùng ca bi tráng về những con người hiên ngang, bất khuất, luôn hết lòng vì lý
tưởng vĩ đại của dân tộc. Đoạn trích dưới đây không chỉ khắc họa khoảnh khắc chia ly đầy
lưu luyến mà còn thể hiện được rõ tính dân tộc trong thi phẩm của nhà thơ:
“-Mình về mình có nhớ ta
Mười lăm năm ấy thiết tha mặn nồng.
Mình về mình có nhớ không
Nhìn cây nhớ núi, nhìn sông nhớ nguồn?
- Tiếng ai tha thiết bên cồn
Bâng khuâng trong dạ, bồn chồn bước đi
Áo chàm đưa buổi phân ly
Cầm tay nhau biết nói gì hôm nay...”
Trong thời kì văn học cách mạng, nhà thơ Tố Hữu là “lá cờ đầu của thơ ca cách
mạng Việt Nam”. Ông là nhà thơ mặc áo lính với những lý tưởng cao đẹp, hồn thơ luôn
hướng về cái ta chung với lẽ sống lớn, niềm vui lớn của con người, cách mạng và cả dân
tộc. Tố Hữu còn là nhà thơ “trữ tình chính trị” , hai kiểu thơ này vốn ngược nhau nhưng
khi được ông quyện hòa với nhau nó đã tạo nên những áng thơ lay động trái tim bao độc
giả qua từng thế hệ. Như Xuân Diệu đã từng nói “Tố Hữu đã đưa thơ chính trị lên rất đỗi
trữ tình”. Bài thơ “ Việt Bắc” là tiêu biểu cho phong cách sáng tác đó. Thi phẩm được sáng
tác vào năm 1954 khi hiệp định Giơ-ne-vơ được ký kết, Trung ương Đảng và Chính Phủ
dời chiến khu Việt Bắc để về với thủ đô ánh sáng.“ Việt Bắc” còn là một thước phim quay
chậm mang con người ta trở về , chạm vào một mảng ký ức, trong tim với những kỉ niệm
gian khổ mà nghĩa tình nơi “thủ đô gió ngàn” của cách mạng, của kháng chiến- nó đã chiếu
những nỗi nhớ da diết của kẻ ở, người đi với nhiều bịn rịn, nhớ thương. Tám câu thơ đầu là
giây phút đầu khi nói những lời tạm biệt đầy lưu luyện qua đó ta thấy được tính dân tộc
được thể hiện rõ qua thơ Tố Hữu.
Bốn câu thơ đầu là những lời chân tình của người ở lại trong khoảnh khắc ly biệt:
“-Mình về mình có nhớ ta
Mười lăm năm ấy thiết tha mặn nồng.
Mình về mình có nhớ không
Nhìn cây nhớ núi, nhìn sông nhớ nguồn?”
Một cuộc chia ly thông thường sẽ có người đi và kẻ ở. Dẫu nhân vật trữ tình đang là
những người chuẩn bị ra đi, chào tạm biệt “Thủ đô gió ngàn”, nhưng Tố Hữu lại bắt đầu
cuộc trò chuyện với lời của người ở lại. Đó là một sự tinh tế trong trái tim của người cầm
bút, ông không chỉ thấu hiểu nỗi lòng của người đi mà còn thấm thía những rung động sâu
xa bên trong tâm hồn người ở lại. Người ở lại sẽ tiếp tục sống trong không gian hoài niệm,
nơi cất giữ bao hồi ức của “mười lăm năm ấy thiết tha mặn nồng; có lẽ vì vậy mà nỗi nhớ
của họ thường sẽ day dứt hơn. Trong khi đó, người ra đi sẽ thường bắt đầu một hành trình
mới, đến chân trời mới, có thể lãng quên những gì đã từng có ở nơi chiến khu nghĩa tình.
Như trong bài thơ “Ánh trăng” nhà thơ Nguyễn Duy cũng đã nói về sự lãng quên này:
“Từ hồi về thành phố
quen ánh điện cửa gương
vầng trăng đi qua ngõ
như người dưng qua đường”
Nỗi lo lắng của người ở lại không phải không có căn cứ; thậm chí nó còn là một
biểu hiện tâm lý thường gặp: đó là nỗi lo âu bị quên lãng khi phải nói lời ly biệt. Từ ngữ
mang hình thức của một lời ướm hỏi nhẹ nhàng, tinh tế, hoàn toàn không mang hàm ý
trách móc. Người ở lại sợ mình sẽ bị quên lãng, sợ “ta” sẽ chỉ còn là trong hoài ức của
người về xuôi... Họ đặt câu hỏi nhưng không yêu cầu người ra đi phải đáp lại. Câu hỏi ấy
như để bộc bạch những trăn trở rất thường tình của người ở lại mà thôi. Tuyệt nhiên, cuộc
chia ly không hề có sự níu kéo, không phải vì nỗi nhớ thương không đủ mạnh mẽ, mà là
bởi người ở hiểu rõ lý do phải nói lời tạm biệt. Đại từ “ mình- ta” là cách xưng hô khá
quen thuộc trong các câu thơ giao duyên:
“Mình nhớ ta như cà nhớ muối
Ta nhớ mình như cuội nhớ trăng”
Cách nói ngọt ngào của ca dao đã thấm vào thơ Tố Hữu tạo nên giọng đằm thắm, gợi
nghĩa tình thủy chung. Hai từ “mình-ta” được đặt ở hai đầu câu thơ đã gợi nỗi ly biệt, gợi
cảm giác chia xa. “Ta” là người ở lại là nhân dân Việt Bắc; “mình” là người đi, là các cán
bộ kháng chiến, trung ương Đảng, Chính phủ. Cuộc chia ly mang ý nghĩa lịch sử, mang
màu sắc chính trị bỗng được khoác lên bộ áo dẫm ca dao, dân ca để trở thành cuộc biệt ly
của tình yêu đôi lứa. Đại từ “mình-ta” gợi sự thống nhất hài hòa giữa cái riêng và cái
chung, giữa nỗi niềm cá nhân và nỗi niềm tập thể. Chính vì vậy nó đã thể hiện được tính
dân tộc trong thơ Tố Hữu-đây là nét độc đáo trong cảnh chia ly của Việt Bắc giúp cho tình
cảm của kẻ ở người đi trong tứ thơ này trở nên lớn lao cao cả mà sâu sắc thấm thía. Từ chỉ
thời gian cụ thể “mười lăm năm” kết hợp với đại từ phiếm chỉ mơ hồ “ấy” tạo nên sự bay
bổng, lãng mạn rất riêng của câu thơ. Khoảng thời gian lịch sử bỗng trở nên thiêng liêng
trong trái tim của người ở. Có lẽ, đối với những người dân Việt Bắc, đó là khoảng thời gian
thật đáng nhớ- đáng trân trọng. Mười lăm năm đó chắc hẳn đã đem đến nhiều xúc cảm,
nhiều gắn bó, giúp họ trở thành một phần quan trọng trong trái tim nhau. Thời gian ấy là
thời gian tâm trạng, thời gian của biết bao kỉ niệm vì thế mà “thiết tha mặn nồng”. Tác giả
đã dùng hai tính từ liên tiếp nhau thể hiện tình cảm sâu đậm, khẳng định chiều sâu của nỗi
nhớ.
Những kỉ niệm về núi rừng nơi thủ đô gió ngàn vẫn còn trong lời gợi nhắc của người
ở:
“Mình về mình có nhớ không
Nhìn cây nhớ núi, nhìn sông nhớ hồ”
Câu hỏi tu từ thứ hai cũng là một câu hỏi khơi gợi cảm xúc, nó như một lời thăm dò,
hỏi han và nhắc nhở rằng người ra đi liệu có còn nhớ kẻ ở lại hay không. Câu hỏi này cũng
đồng thời bộc lộ nỗi lo âu mà ta có cảm nhận được ngay từ khi người ở lại cất lời. Điệp từ
“nhớ” vang lên như một điệp khúc thể hiện niềm băn khoăn, day dứt khôn nguôi. Trong
những cuộc ly biệt xưa nay, người ở lại bao giờ cũng thấp thỏm, lo âu sợ người ra đi sẽ
quên mình, giống như trong thơ ca truyền thống
“Thuyền về có nhớ bến chăng
Bến thì một dạ khăng khăng đợi thuyền”
Khi xa cách, nỗi nhớ chính là sợi dây gắn kết bền chặt nhất, là cách để những người
thương nhau chiến thắng được khoảng cách của địa lý – để trái tim luôn gần nhau. Có lẽ đó
là lý do mà người ở lại nhắc đến niềm nhớ nhiều như vậy. Chữ “nhớ” tạo nên linh hồn của
đoạn thơ, bộc bạch nỗi lòng của người ở lại. Với những hình ảnh được liệt kê: “cây” ,” núi”,
“ sông”,” nguồn” – Tố Hữu đã thể hiện sự vận dụng linh hoạt , tài tình câu tục ngữ “ uống
nước nhớ nguồn” đồng thời khắc họa bức tranh cảnh vật nơi núi rừng Việt Bắc thân
thương. Qua hình ảnh này, dường như tác giả cũng ngầm khẳng định lòng biết ơn vô hạn
với nhân dân Việt Bắc, với Thủ đô gió ngàn; khẳng định rằng người về xuôi sẽ không bao
giờ lãng quên những ân tình đã có. Bên cạnh đó, khổ thơ còn sử dụng lối ngắt nhịp chẵn :
đây là cách ngắt nhịp thông thường của thơ lục bát cũng là một trong yếu tố để cấu thành
nên xúc cảm dạt dào cho câu thơ. Bốn câu thơ đầu như lời nhắc nhở, hỏi thăm rằng những
người cán bộ về xuôi có còn nhớ vùng đất và con người Việt Bắc nghĩa tình. Đây cũng là
bước đệm để sau đó – người ở lại cất lời, đáp lại tình cảm cùng sự lo lắng của những người
dân nơi Thủ đô gió ngàn.
Bốn câu thơ này là lời của kẻ ra đi trong cuộc chia tay lịch sử, vang lên cùng với
giọng điệu thiết tha, bồi hồi, lưu luyến.
“ - Tiếng ai tha thiết bên cồn
Bâng khuâng trong dạ , bồn chồn bước đi
Áo chàm đưa buổi phân ly
Cầm tay nhau biết nói gì hôm nay...”
Dòng thơ đầu tiên gián tiếp thể hiện tâm trạng của người đi. “Tiếng ai” hay chính là
tiếng nói, tiếng cười, tiếng hát ... của người ở lại vọng đến nỗi lòng của người đi. Một tiếng
“ai” gợi sự gắn bó của người trong cuộc, như lời giã từ người yêu với người yêu. “Ai” vừa
xóa nhòa đi hình bóng, lại vừa khắc ghi sâu những kỉ niệm. Sau khi chia ly, họ có thể
không còn nhìn thấy nhau, nhưng những thanh âm, những hoài niệm thì sẽ còn mãi mãi.
Đại từ phiếm chỉ “ai” không chỉ một cá nhân cụ thể, mà có thể chỉ tất cả những người đang
chung nỗi nhớ thương. “Thiết tha” để bộc bạch nỗi lòng của người ra đi cũng sâu nặng như
người ở lại. Như một cách để khẳng định rằng họ sẽ không bao giờ quên những gì đã từng
có. Nhà thơ đã sử dụng các từ láy để khắc họa tâm trạng của người ra đi “bâng khuâng” và
“bồn chồn”. “Bâng khuâng” là sự chênh vênh của nỗi lòng, sự xao xuyến của tâm hồn khi
phải nói lời tạm biệt khi bản thân chưa sẵn sàng. Tuy nhiên có ai đủ sẵn sàng để nói lời
tạm biệt nơi mình từng gắn bó đâu? “Bồn chồn” thể hiện sự ngập ngừng trong bước chân,
tạo sự bối rối, phân vân, luyến lưu của người ở lại; dẫu biết mình phải ra đi – nhưng con
tim vẫn để lại một phần nơi mảnh đất ấy. Nghệ thuật tiểu đối diễn tả thật đầy đủ những
cảm xúc không chỉ hiện hữu trong những thế giới tâm hồn mà còn hiện hữu thật cụ thể
trong dáng đứng, bước đi, nó cho thấy tình cảm sâu sắc, chân thành của người ra đi. Câu
thơ ngắt nhịp 4/4 như cái phập phồng của trái tim đang loạn nhịp bởi nhiều cung bậc cảm
xúc. Nó gợi ta đến nỗi lòng của người ra đi trong “Đất nước” của Nguyễn Đình Thi:
“Người ra đi đầu không ngoảnh lại
Sau lưng thềm nắng lá rơi đầy”
Đầu không ngoảnh lại nhưng bước chân lưu luyến, vấn vương, cả cõi lòng như lá úa
chiều thu. Ấn tượng sâu sắc hình ảnh “áo chàm” là màu áo bình dị , mộc mạc , phảng phất
màu gian khó của nhân dân Việt Bắc. Chính vì thế nó hoán dụ cho nhân dân Việt Bắc –
những con người luôn mang trong mình ân nặng, nghĩa tình, luôn san sẻ, gánh vác những
khó khăn , nguy hiểm với các cán bộ cách mạng nói chung và những người lính ở đây nói
riêng. Màu áo chàm đã trở thành một dấu hiệu đặc biệt để cán bộ về xuôi nhận diện hay
nghĩ về người dân Việt Bắc, “nhìn vật nhớ người”. Tin rằng, kể cả sau này khi đã cách xa
nhau, màu áo chàm ấy vẫn luôn là một tín hiệu riêng mang theo nỗi nhớ về Việt Bắc trào
dâng trong trái tim mỗi người về xuôi hôm ấy – bởi họ sẽ không bao giờ quên hình ảnh
người dân Việt Bắc yêu thương. Nếu tác giả sử dụng từ “chia ly” hay “chia tay” để thế chỗ
từ “phân li” thì nội dung câu thơ vẫn không thay đổi. Thế nhưng ông sử dụng từ “phân li”
(từ cổ) còn một ý nghĩa khác đó là vì để khoảnh khắc chia ly giữa kẻ ở người đi trở thành
một nỗi niềm hoài cổ, trở thành một khoảnh khắc thiêng liêng vô cùng. Và dường như từ
“phân li” cũng gợi cảm giác buồn hơn , sâu lắng và “ tình” hơn rất nhiều bởi sự chia đôi rẻ
ngã của người ở kẻ đi trong nhớ thương, luyến tiếc mà không gì có thể diễn tả hết. Người ra
đi không nói lên lời, chỉ thầm lặng cầm tay nhau nghẹn ngào “Cầm tay nhau biết nói gì
hôm nay”. Ta cũng chẳng nghe tiếng họ nói gì với nhau, chỉ có bàn tay nắm lấy bàn tay nói
lên tất cả. Bao cảm xúc, bao nhớ thương đã dồn tụ trong bàn tay ấy. Người ra đi không đáp
lại câu hỏi của người ở lại mà bằng sự im lặng, bằng cái nắm tay để lắng nghe tiếng lòng
đang thổn thức. Đôi bàn tay ấy khiến ta nhớ đến cái cầm tay đầy bịn rịn trong “Chinh phụ
ngâm”
“Thủ rồi tay lại cầm tay
Bước đi một bước, giây giây lại dừng”
Đoạn thơ khép lại bằng dấu “...” tạo nên một khoảng lặng trong xúc cảm, thể hiện
những nỗi niềm như còn miên man kéo dài mãi không dứt. Cả người ở và kẻ đi đều chẳng
thể bộc bạch hết nỗi lòng họ dành cho nhau. Đôi khi, sự lặng im cũng là một hình thức
biểu hiện xúc cảm, có lúc còn mạnh mẽ hơn cả những từ ngữ trực tiếp. Ý thơ đã khép lại,
nhưng tình thơ dường như vẫn còn mãi.
Bằng ngòi bút trữ tình chính trị, Tố Hữu đã cho thấy tính dân tộc thấm đượm vào
từng ý thơ trong Việt Bắc. Nhà thơ đã sử dụng thể thơ lục bát truyền thống, tha thiết dễ đi
vào lòng người để diễn tả sự thủy chung và nghĩa tình sâu nặng. Lối đối đáp đầy tình tứ tạo
nên giọng điệu ngọt ngào cho đoạn thơ. Lối xưng hô “mình - ta” ấy bắt nguồn những câu
ca dao, dân ca mang đậm phong vị quê hương vô cùng quen thuộc thuở thơ ấy. Bên cạnh
đó, lời thơ mộc mặc với ngôn từ giản dị, gần gũi, chân phương đã tạo nên một Việt Bắc
không chỉ đậm đà tính dân tộc về cả hình thức lẫn nội dung. Đề tài quen thuộc, xoay
quanh sự kiện đã xảy ra trong lịch sử dân tộc với những biến đổi trong tình hình chính trị
của đất nước nhằm ca ngợi lòng yêu nước và khẳng định tính dân tộc đã biến thi phẩm
“Việt Bắc” trở thành một khúc tình ca kháng chiến mang đậm tính dân tộc và những
những ý vị.
Tóm lại, đoạn trích trên đã thể hiện được những giây phút lưu luyến, nghẹn ngào
trong những giây phút đầu của buổi chia ly từ đó ta cảm nhận được sâu sắc tính dân tộc
trong thơ của Tố Hữu. Xuân Diệu đã từng nói: “Với Việt Bắc, hồn thơ cũng như nghề thơ
Tố Hữu chín rộ,...,không phải là một cây bút trong tay Tố Hữu nữa mà là nhiều ngòi bút nở
cùng một lúc, bút tả tình, bút tả cảnh, bút tả người. Người ta thấy văn chương cách mạng
chí nghĩa, chí tình, cái văn chương nên thơ, nên nhạc...”.
Qua bao năm tháng, biến động của lịch sử, bài thơ “Việt Bắc” như tiếng nói thiết tha
vẫn rung cảm lòng người. Việt Bắc của ngày xưa vẫn nguyên vẹn trong lòng của người
hôm nay. Tiếng lòng ân tình thủy chung ngày ấy phải chăng, đã thấm sâu vào ân tình thủy
chung của thi ca dân tộc, cho nên khoảng cách thời gian không làm nhạt nhòa đi ấn tượng
về một vùng đất hào hùng chiến đấu đầy gian lao, nguy hiểm về những anh bộ đội Cụ Hồ
vẫn chiến đấu kiên cường để dành được độc lập cho Tổ quốc. Nếu thơ ca là những dòng
sông thì thơ của Tố Hữu là một dòng sông trong xanh mà ta thương mến, dòng sông ấy
đang hợp lưu trong lòng thế hệ bạn đọc hôm nay và mai sau.

TÁC PHẨM “TÂY TIẾN”


Đề bài
“Nếu như Chính Hữu viết về những chàng vệ quốc bằng bút pháp hiện thực thì Quang
Dũng đã tái hiện vẻ đẹp người lính bằng đôi cánh lãng mạn đem đến men say cho thi tứ,
sự bay bổng của hình tượng... Nếu thiếu đi cái chất lãng mạn, “Tây Tiến” cơ hồ sẽ mất
đi vẻ đẹp toàn bích của nó.” (Nguyễn Đăng Điệp)
Hãy phân tích khổ thơ sau để làm rõ bút pháp hiện thực và “đôi cánh lãng mạn” trong
hình tượng người lính của Quang Dũng.
“Tây Tiến đoàn binh không mọc tóc
Quân xanh màu lá dữ oai hùm
Mắt trừng gửi mộng qua biên giới
Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm
Rải rác biên cương mồ viễn xứ
Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh
Áo bào thay chiếu anh về đất
Sông Mã gầm lên khúc độc hành”
(Trích “Tây Tiến”)
Họ và tên: Văn Thị Thu Hà
MHV: MV081
Điểm 4.5/5.0

BÀI LÀM
Từng nhớ Hàn Mặc Tử năm xưa đã từng tâm niệm “Máu đã khô rồi, thơ cũng khô-
Tình ta chết yểu tự bao giờ”. Nếu với thi sĩ đau thương, máu là sự sống của thơ ca, của văn
chương thì tôi tin những trang viết của Quang Dũng trong “Tây Tiến” sẽ mãi bất tử với thời
gian. Bởi đó là những trang viết với những vần thơ được thể hiện tài tình qua bút pháp hiện
thực và “đôi cánh lãng mạn” trong hình tượng người lính của Quang Dũng. Nói như
Nguyễn Đăng Điệp: “Nếu như Chính Hữu viết về những chàng vệ quốc bằng bút pháp hiện
thực thì Quang Dũng đã tái hiện vẻ đẹp người lính bằng đôi cánh lãng mạn đem đến men
say cho thi tứ, sự bay bổng của hình tượng... Nếu thiếu đi cái chất lãng mạn, “Tây Tiến” cơ
hồ sẽ mất đi vẻ đẹp toàn bích của nó”. Những điều đó được minh chứng rõ nét qua những
vần thơ sau:
“Tây Tiến đoàn binh không mọc tóc
Quân xanh màu lá dữ oai hùm
Mắt trừng gửi mộng qua biên giới
Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm
Rải rác biên cương mồ viễn xứ
Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh
Áo bào thay chiếu anh về đất
Sông Mã gầm lên khúc độc hành”
(Trích “Tây Tiến”)
Platon đã nói: “Thơ là thần hứng” – thơ chỉ ra đời trong những giây phút thăng hoa
của người nghệ sĩ. Quang Dũng đã có được giây phút ấy khi viết Tây Tiến. Từ xa xưa đến
nay, thơ phải là tiếng hát thật sự của tâm hồn, khi tâm hồn lên tiếng, thì nhà thơ không cần
lý luận. Có lẽ vì thế mà Nguyễn Đăng Điệp mới đưa ra lời nhận xét như vậy. Cái chất lãng
mạn trong bài thơ được thể hiện thông qua nỗi nhớ da diết của tác giả, của khung cảnh thiên
nhiên Tây Bắc nên thơ, hùng vỹ và cảnh sinh hoạt của nguời dân qua con mắt nghệ sĩ của
người lính. Hay trong bút pháp hiện thực, cái khó khăn, cái khắc nghiệt, chông gai luôn hiện
hữu thế nhưng trong cái khó khăn, gian khổ, khắc nghiệt, những người lính Tây Tiến vẫn
hướng đến những điều tốt đẹp. Và ta bắt gặp hình tượng người chiến sĩ bất khuất, oai
phong, lẫm liệt, những điều trên không hề bi lụy mà lại mang tinh thần bi tráng vô cùng
Có lẽ khi nhắc đến một nhà thơ trẻ ở miền Bắc, trưởng thành trong kháng chiến
chống Pháp mang hồn thơ phóng khoáng, lãng mạn, tài hoa và “đứng riêng một cõi” thì
chắc chắn ai cũng sẽ nghĩ đến Quang Dũng. Quả thực đúng như vậy, Quang Dũng một nghệ
sĩ rất đa tài, ngoài là một nhà thơ, nhà văn xuất sắc ông còn là một họa sĩ, nhạc sĩ rất nổi
tiếng. Từ xưa đến nay, vạn vật trong kí ức vốn chỉ như những tĩnh vật trong bảo tàng, dù là
kí ức của một thời chưa xa. Nếu không có thần sắc của cảm xúc thổi vào, vạn vật dù có mĩ
lệ trữ tình đến mấy cũng chỉ là hóa thạch. Và kí ức "Tây Tiến" trong Quang Dũng cũng thế,
nó được xây đắp nên từ sự chân thành trong xúc cảm của tác giả vào năm 1948 khi nhà thơ
rời xa đơn vị Tây Tiến, nhớ về một thời chiến đấu gian khổ trong đoàn quân. Trong lúc ấy,
ông đã “ xuất thần trên đầu ngọn bút”, một mạch viết nên bài thơ này từ những nỗi nhớ cuộn
trào như thác lũ trong tâm trí. Đó là “thần hứng”, một niềm cảm hứng sâu sắc và dồn dập,
cho ra đời những vần thơ bồi hồi trở thành bất tử. Thế mới biết, dù là một bài thơ chỉ được
làm vỏn vẹn trong vài mươi phút, nhưng nó đủ sức gợi, đủ sức ngân vang trong suốt vài
mươi năm, hay thậm chí vài mươi thế kỉ. Đó là sự bất diệt của thi hứng, của thơ ca, những
“nguyên liệu” góp vào sự vĩnh cửu của Tây Tiến không gì khác
Đoàn quân Tây Tiến được thành lập vào đầu năm 1947, có nhiệm vụ phối hợp với bộ
đội Lào tiêu hao sinh lực địch và bảo vệ biên giới Tây Bắc của tổ quốc. Các anh chủ yếu là
thanh niên Hà Nội , những chàng trai hào hoa phong nhã, vừa gác bút nghiên đi theo tiếng
gọi của kháng chiến. Họ ra đi với một quyết tâm cao độ: “Tây Tiến người đi không hẹn
ước". Nếu như ở các đoạn thơ trước đó, nhà thơ tập trung bút lực khắc hoạ lại chặng đường
hành quân đầy kỉ niệm vừa thơ mộng, lại vừa thấm đẫm vết hằn tháng năm. Thì ở đoạn thơ
này, Quang Dũng đưa ta trở lại với lăng kính hiện thực nhằm tôn vinh vẻ đẹp của người lính
kiêu hùng. Đoạn thơ đã trở thành một bức tượng đài về hình ảnh người chiến sĩ với vẻ đẹp
hào hùng của lí tưởng cao cả, của ý chí kiên cường, của sự gan góc, hy sinh dũng cảm cùng
với vẻ đẹp hào hoa lãng mạn của tâm hồn đằm thắm mộng mơ:
Tây Tiến đoàn binh không mọc tóc
Quân xanh màu lá dữ oai hùm
Mắt trừng gửi mộng qua biên giới
Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm.
Những tháng năm “hoa lửa", những cuộc chiến khắc nghiệt, những thiếu thốn vất vả
đều là những sự thật không thể chối bỏ. Quang DŨng không những không trốn tránh những
vất vả, những gian lao ấy, ngược lại ông đã tái hiện cuộc sống chiến đấu gian khổ, hào hùng
của chiến sĩ Tây Tiến bằng bút pháp hiện thực đậm nét qua bốn câu đầu của khổ ba. Thế
nhưng không vì vậy mà ông khiến cho bài thơ ảm đạm một màu đau đớn, chính chất lãng
mạn của những chàng trai Hà Thành năm ấy đã thực khiến cho sức mạnh niềm tin trở nên
mãnh liệt đến phi thường, vượt qua cả những gian khó chồng chất trước mặt, để lý tưởng
một thời hoa lửa cứ rực cháy trên bầu trời mong mỏi màu xanh hoà bình. Quả thực, nó
không khiến cho bài thơ ủy mị hay khiến con người ta nản chí, nhụt lòng mà trái lại, nó trở
thành đôi cánh nâng đỡ người lính vững bước bảo vệ Tổ quốc.
Ngay từ những dòng đầu, người đọc đã ấn tượng với hình ảnh “đoàn binh không mọc
tóc” Hình ảnh đó phản ánh trận sốt rét rừng trong hoàn cảnh chiến đấu gian khổ, thiếu thốn.
Những cơn sốt rét đã làm tóc các anh rụng nhiều, nên có người gọi người lính thời kì này là
những anh vệ trọc. Không chỉ vậy, nhà thơ còn sử dụng phép đảo ngữ, đảo “Tây Tiến đoàn
binh” lên đầu đã góp phần tô đậm chân dung hình ảnh những người chiến sĩ. Tiếp đến câu
thơ sau với ý đối lập nhau: hình ảnh “quân xanh màu lá” vừa gợi lại trang phục người lính,
đó là màu xanh của lá ngụy trang. Nhưng có lẽ ấn tượng sâu sắc hơn vẫn là màu da xanh
xao vì bệnh tật, mặc dù vậy người lính vẫn tràn đầy dũng khí, vẫn “dữ oai hùm”. Với hình
ảnh đối lập đó, tác giả đã tạo sự tương phản giữa ngoại hình và tính chất, giữa hình thức bên
ngoài có phân xanh xao với phẩm chất kiên cường đầy dũng khí của người lính Tây Tiến.
Nỗi nhớ của nhà thơ Quang Dũng mỗi lúc một cao vút lên, nhớ một dáng hình, một ánh mắt
kiên quyết, căm thù. Đồng thờ nhớ lại cả tâm tư, tình cảm của người lính. Có lẽ đặc điểm
của người lính Tây Tiến được tập trung thể hiện rõ nhất ở hai câu thơ:
Mắt trừng gửi mộng qua biên giới
Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm.
Hình ảnh mắt trừng gửi mộng biểu hiện ý chí quyết tâm, một lòng căm thù cao độ,
một hoài bão lớn sẵn sàng tiêu diệt kẻ thù, bảo vệ biên cương tổ quốc. Nhưng nếu như viết
về một người lính mà chỉ có được cái hào hùng dũng cảm, cái quyết tâm chiến đấu thì
dường như chúng ta vẫn chưa hiểu rõ về tâm hồn họ. Bởi ở họ còn có tình cảm nhớ thương ,
biểu hiện một nét đẹp trong trái tim người lính. Điều đó cũng được nhiều nhà thơ khắc họa ,
trong thi ca kháng chiến chống Pháp , người lính trong bài thơ "Đồng chí" của Chính Hữu ra
đi từ những miền quê nghèo khó thì nỗi nhớ của họ cũng thật chân thực, mộc mạc. Đó là
nhớ quê nhà, nhớ về những miền quê "nước mặn đồng chua" hay đất cày lên sỏi đá, hoặc có
lãng mạn hơn một chút là nhớ về giếng nước gốc đa- nơi đã từng hẹn hò, tâm sự. Còn người
lính trong bài "nhớ" của Hồng Nguyên là những người tứ xứ: "gặp nhau hồi chưa biết chữ,
quen nhau từ thuở một hai". Nỗi nhớ của họ vẫn là nhớ quê nhà:
Ít nhiều người vợ trẻ
Mòn chân bên cối gạo canh khuya"
Còn người lính Tây Tiến ra đi từ Hà Nội, dĩ nhiên nỗi nhớ của họ là nhớ về Hà Nội
thân yêu. Nhưng nỗi nhớ của họ đâu chỉ là "hương cốm mới", hay "những phố dài xao xác
hơi may" mà rất lãng mạn trong giấc mơ về những cô gái hà thành: 'đêm mơ Hà Nội dáng
kiều thơm" Quang Dũng đã thật sự khái quát lên được chất lính của người lính Tây Tiến: đó
là người lính thật hào hùng, dũng cảm nhưng rất hào hoa lãng mạn, cái lãng mạn đó không
hề hạn chế hay làm giảm đi nhiệt tình của tuổi trẻ mà trái lại đó là biểu hiện của tâm hồn
mang nặng tình nghĩa tình cảm. Đó sẽ là động lực để người lính Tây Tiến nói riêng và
người lính thời kì kháng chiến chống Pháp nói chung vượt lên trên mọi thử thách để chiến
thắng kẻ thù.
Quang Dũng như dõi theo từng bước chân của người lính tây tiến, nhớ lại những
cảnh rùng rợn, những tâm sự, những nỗi niềm xót xa của đồng đội trước những nấm mồ
viễn xứ. Nhưng cảm hứng chung của bài thơ nhưng vẫn là cảm hứng chung mạnh mẽ, bi
tráng. Họ sẵn sàng hi sinh tuổi trẻ cho sự nghiệp đấu tranh của đất nước: 'chiến trường đi
chẳng tiếc đời xanh". Câu thơ nổi lên một phương châm, một triết lí sống đẹp của tuổi trẻ.
Đã nhiều lần Quang Dũng không dấu diếm sự thật, thậm chí là sự mất mát hi sinh. Chính vì
vậy, khi nhắc đến điều này nhà thơ đã thể hiện được sự bi tráng, thiêng liêng:
Áo bào thay chiếu anh về đất
Sông Mã gầm lên khúc độc hành
Hình ảnh “áo bào thay chiếu” một lần nữa gợi lên sự thiếu thốn của người lính,
nhưng nhà thơ đã dùng từ “áo bào” đầy trân trọng để nâng cao giá trị, nâng cao ý nghĩa của
sự hi sinh. Người lính nằm xuống: "anh về đất" là về với đất mẹ, về với non sông tổ quốc,
về với sự trường tồn. Sự mất mát của người lính nơi biên cương, chẳng những làm xúc động
đồng đội mà dường như còn làm động đến cả đất trời , tiếng thác dữ gầm lên như tiếng kèn
bi tráng, tiễn đưa người lính về nơi vĩnh cửu với bao tiếc thương.
Có thể thấy, cảm hứng lãng mạn và bi tráng luôn đi liền với nhau trong suốt tác
phẩm. Nhờ có hai nguồn cảm hứng như vậy mà Quang Dũng đã có thể tạc nên bức tượng
đài bất tử về người lính trên nền thiên nhiên với nhiều màu sắc đẹp đẽ. Cả nội dung và nghệ
thuật của bài thơ một lần nữa lại được in đậm.
Quả thật bài thơ “Tây Tiến” đã ghi lại một cách chân thực và cảm động về hình ảnh
người lính Tây Tiến. Với “Tây Tiến”, Quang Dũng đã thật sự gửi vào thơ ca kháng chiến
chống Pháp một bức tranh chung về người lính trong những năm đầu kháng chiến chống
Pháp. Gương mặt người lính thủ đô dũng cảm, hào hoa thật sự chiếm được cảm tình người
đọc. Hình ảnh đó sẽ mãi mãi đẹp trong lòng mọi người để nhớ mãi quân Tây Tiến, khúc độc
hành ca của một thời. Quả thật, nhận xét trên của Nguyễn Đăng Điệp là vô cùng xác đáng
nếu như “Tây Tiến"- Quang Dũng thiếu đi cái chất lãng mạn thì nó thật sự đánh mất đi vẻ
đẹp toàn bích và những giá trị nhân văn, nhân bản mà nó đã và luôn đem lại, khích lệ tinh
thần người chiến sĩ.
Đề bài:
Nhà phê bình Vũ Thu Hương từng nhận định: “Tây Tiến là tượng đài bất tử về người lính
vô danh”.
Bằng việc cảm nhận đoạn thơ sau trong thi phẩm “Tây Tiến” của nhà thơ Quang
Dũng, anh/chị hãy chứng minh nhận định trên.
“...Tây Tiến đoàn binh không mọc tóc
Quân xanh màu lá dữ oai hùm
Mắt trừng gửi mộng qua biên giới
Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm
Rải rác biên cương mồ viễn xứ
Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh
Áo bào thay chiếu anh về đất
Sông Mã gầm lên khúc độc hành...”

BÀI LÀM SỐ 1
Họ và tên: Hồ Thị Bảo Quỳnh
MHV: K23076
Điểm: 4.75/5.0
“Trong bốn ngàn lớp người giống ta lứa tuổi
Họ đã sống và chết
Giản dị và bình tâm
Không ai nhớ mặt đặt tên
Nhưng họ đã làm ra đất nước”
Những vấn thơ trên trong tác phẩm “Đất nước” của nhà thơ Nguyễn Khoa Điềm đã
bày tỏ niềm biết ơn cao cả đối với những người lính vô danh. Trong lịch sử bốn ngàn năm
hào hùng của dân tộc, mảnh đất hình chữ S của ta đã ghi danh biết bao bậc anh hùng can
trường, kể cả những người lính mà không ai nhớ mặt, cũng chẳng biết tên. Vì họ là một
phần của lịch sử, là đồng bào máu mủ ruột thịt và vì họ đã cống hiến cả đời cho nền độc lập
quý giá. Với nền văn học Việt Nam, đề tài về người lính luôn được các nhà thơ chú trọng
đào sâu và để lại những dấu ấn đặc biệt. Trong đó có bài thơ “Tây Tiến”, mà theo nhà phê
bình Vũ Thu Hương cho rằng: “Tây Tiến là tượng đài bất tử về người lính vô danh”. Đoạn
thơ dưới đây đã khắc họa chân thật hình ảnh của “người lính vô danh” ấy:
“...Tây Tiến đoàn binh không mọc tóc
Quân xanh màu lá dữ oai hùm
Mắt trừng gửi mộng qua biên giới
Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm
Rải rác biên cương mồ viễn xứ
Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh
Áo bào thay chiếu anh về đất
Sông Mã gầm lên khúc độc hành...”
Quang Dũng- một nhà thơ khoác áo lính vốn là sinh viên của vùng đất thủ đô Hà Nội,
là người từng lăn xả dưới mưa bom bão đạn, ông đã chứng kiến biết bao đau thương và mất
mát của chiến tranh. Vì vậy, trong từng con chữ ông viết ra đều mang đậm nét hiện thực.
Không những thế, ông còn là một chàng nghệ sĩ đa tài, trước khi gác bút ra trận, ông vừa là
họa sĩ, nhạc sĩ và cả thi sĩ. Trong những áng thơ nhuốm màu hiện thực ấy, luôn ẩn hiện chất
nhạc, chất họa vừa lãng mạn, vừa tinh tế. Quang Dũng mang trong mình một hồn thơ phóng
khoáng cùng với những cảm xúc bay bổng mà chân thành. Thơ của ông mở ra một thế giới
mới có sự độc đáo, phá cách bởi tài hoa nghệ sĩ, mà nói như Đại tướng Võ Nguyên Giáp:
“Một người chiến sĩ trẻ, tài hoa trong đoàn quân Tây Tiến ngày đó, sau này là nhà thơ
Quang Dũng”. Dẫu các sáng tác của ông không nhiều nhưng “nhà thơ xứ Đoài mây trắng”
vẫn ghi dấu ấn đậm nét với ngòi bút sắc bén, đặc biệt là ở đề tài người lính. Tác phẩm “Tây
Tiến” chính là nét điển hình cho đề tài ấy. Bài thơ “Tây Tiến” được viết năm 1948 tại Phù
Lưu Chanh khi rời đơn vị cũ không lâu thế nhưng kỉ niệm về binh đoàn Tây Tiến vẫn cứ
mãi vấn vương trong lòng người đại đội trưởng. Nỗi nhớ tha thiết về những người đồng đội,
những ngày hành quân gian khổ đã thôi thúc thi sĩ áo lính đặt bút.
“Tây Tiến” không chỉ là nỗi nhớ tha thiết của cây bút Sơn Tây mà còn âm thầm khắc
họa chân dung của những người lính không biết tên, không biết tuổi. Chính vì vậy, nhà phê
bình Vũ Thu Hương đã quả quyết rằng: “Tây Tiến là tượng đài bất tử về người lính vô
danh”. Dẫu tháng năm trôi qua, cuộc sống xoay vần thì hình tượng người lính Cụ Hồ vẫn sẽ
tồn tại ngay trong những trang sách, vần thơ. Bởi không một ai có thể phủ nhận sự hy sinh,
họ đã hóa thân thành một phần của lịch sử ngàn đời, thân xác và linh hồn của họ đã hòa làm
một với Tổ quốc. Dù cho là “người lính vô danh” thì họ cũng không bao giờ phải đặt dấu
chấm hết cho cuộc đời vì “con người chỉ chết đi khi không còn ai nhớ về họ nữa”. Những
người lính trong trang văn của Quang Dũng sẽ còn sống mãi, vẹn nguyên trên cuộc đời.
Vẻ đẹp của những người lính trong “Tây Tiến” là sự kết hợp giữa hào hùng và hào
hoa. Hai câu thơ đầu của đoạn thơ đã gợi lên nét kiêu hãnh, hùng dũng giữa hoàn cảnh khắc
nghiệt của cuộc kháng chiến:
“Tây Tiến đoàn binh không mọc tóc
Quân xanh màu lá dữ oai hùm”
Quang Dũng mở đầu đoạn thơ với bốn chữ “Tây Tiến đoàn binh” đã bộc lộ sự trân
trọng, kiêu hãnh với đơn vị công tác của mình. Phép đảo ngữ không chỉ gợi lên sự đặc biệt ở
câu thơ mà còn nhấn mạnh ý chí và khí phách hiên ngang ngút trời của những anh lính trẻ.
Vì ngay sau đó là sự khắc nghiệt gợi lên từ ngoại hình- “không mọc tóc”. Đó là dấu hiệu
của căn bệnh sốt rét rừng đã bào mòn đi cơ thể và sức khỏe của họ. Từng cơn sốt miên man
khiến tóc của những người lính rụng dần, căn bệnh ấy không chỉ làm kiệt quệ sức lực mà
còn cướp đi sinh mạng của nhiều người. Ngòi bút của Quang Dũng đã không ngần ngại vẽ
lại một bức tranh hiện thực thảm khốc, để rồi ta chợt nhớ đến trong áng thơ của Chính Hữu
cùng từng khắc họa căn bệnh ám ảnh này:
“Anh với tôi biết từng cơn ớn lạnh
Sốt run người vầng trán ướt mồ hôi”
(“Đồng chí”- Chính Hữu)
Chiến tranh chưa bao giờ là dễ dàng cũng như những người lính chưa bao giờ nghĩ
đến việc ngừng tiến bước, dù họ chỉ là những người còn rất trẻ tuổi vốn là tri thức bước ra
từ giảng đường. Sự khắc nghiệt ấy chỉ có thể tấn công ngoại hình chứ không thể nào bòn rút
được nhiệt huyết trong tâm hồn người lính, là khi mà chính họ đã chủ động và tự nguyện
chọn đối mặt với khó khăn nơi rừng thiêng nước độc. Đoàn binh “không mọc tóc” đã chỉ rõ
được nét ngang tàng, hóm hỉnh của những người lính trẻ. Phải chăng họ đã cạo đi mái tóc
của mình để quyết chí chiến đấu cũng như an ủi đồng đội mắc phải căn bệnh sốt rét nguy
hiểm này? Dưới cánh lá ngụy trang cũng không thể che đậy đi được khí thế tinh thần “dữ
oai hùm” của đoàn binh. Câu thơ đã gợi lên cảnh một đoàn bình đầu trọc lọc nhưng vẫn hiên
ngang, ồ ạt đi tới như chúa tể sơn lâm, họ náu mình vào núi rừng để xuất hiện chiến đấu
giữa thiên nhiên, thử thách. Dưới ngòi bút kì diệu của “bóng mây qua đỉnh Việt”, những
mái đầu trọc, những nước da xanh xao vì đau ốm vẫn mang trong mình tinh thần bất khuất,
oai hùng. Sự kiêu hãnh ấy tựa như ngọn đuốc dẫn lối đoàn binh in dấu chân mình nơi núi
rừng Tây Bắc.
Không chỉ xuất sắc trong việc sử dụng bút pháp tả thực, nhà thơ Hà Nội còn tinh tế
đan cài nét đẹp hào hoa của người lính Cụ Hồ:
“Mắt trừng gửi mộng qua biên giới
Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm”
Câu thơ mở đầu với hình ảnh “mắt trừng” đã gợi lên nhiều cảm xúc, đôi mắt ấy là
một ánh nhìn kiên định, mạnh mẽ, luôn nhìn thẳng về nơi có kẻ thù với tinh thần “Quyết tử
cho Tổ quốc quyết sinh”. Dường như không có một sự đe dọa nào đủ lớn để khiến đôi mắt
ấy chợp xuống cũng như chẳng thể níu được giấc mộng gửi sang phía bên kia biên thùy. Đó
là giấc mộng giết giặc, là giấc mộng độc lập- tự do, giấc mộng chung của cả dân tộc. Thế
nhưng ta cũng có thể hiểu rằng đôi mắt trừng ấy cũng đang thao thức nhớ về quê hương, gia
đình, về Hà Nội, sách vở cùng giảng đường thân thuộc. Dù có hiểu theo cách nào đi chăng
nữa thì khoảng cách địa lý xa xôi cũng không thể cản bước giấc mơ bay cao, bay xa mãi.
Nỗi nhớ dường như luôn khắc khoải trong tâm tưởng của những người ra trận để rồi
khi đêm về họ lại dành chút thời gian nghỉ ngơi ít ỏi để mơ về xứ thủ độ ngập tràn ánh sáng.
Làm sao mà họ quên đi được hơi “gió mùa thu hương cốm mới”, hay làm sao ngừng nhớ
“những phố dài xao xác hơi may”? Có lẽ dẫu thân xác người lính đang ở nơi khói bụi mịt
mù nhưng trái tim của họ vẫn còn mắc kẹt trong những mối tình còn dang dở, những tấm
thư tay chưa kịp gửi đi và cả trong lời hứa khó lòng thực hiện “Mẹ ơi, con sẽ về!”. Nhưng
cũng chính những cảm xúc dạt dào và “dáng kiều thơm” thướt tha đã tiếp bước cho họ trên
con đường làm tròn nghĩa vụ với đất nước. Hình ảnh “dáng kiều thơm” đã thổi vào hồn thơ
phóng khoáng của Quang Dũng cảm xúc xao xuyến. Nét bút lãng mạn ở “Tây Tiến” đã vô
tình nhắc lại những câu thơ nhung nhớ người mình yêu trong “Đất nước” của Nguyễn Đình
Thi:
“Những đêm dài hành quân nung nấu
Bỗng bồn chồn nhớ mắt người yêu”
Dường như hình ảnh người chiến sĩ trong cái vẫy vùng của khói lửa luôn đi liền với
dáng hình người con gái, có phải chăng khi người lính nơi tiền tuyến vẫn khao khát về tình
yêu của riêng mình? Và những mong ước thầm kín đó đã trở thành sức mạnh để họ thêm
vững tay súng, chắc đôi chân của mình. Quan bốn câu thơ trên của đoạn trích đã mô tả lại
bức chân dung của những người lính vô danh. Ở đó có sự hào hùng, hào hoa và cả bi
thương, nhưng cái bị này là bi hùng chứ không hề bi lụy. Hình ảnh chân thực của bộ đội qua
sự khắc nghiệt của thiên nhiên cùng với nét lãng mạn trẻ trung trong tâm hồn đã đưa “Tây
Tiến” xứng đáng với tinh thần là “tượng đài bất tử của những người lính vô danh”.
Nếu ở bốn câu thơ trước, Quang Dũng đã vẽ lại nét đẹp hào hoa đan xen hào hùng thì
ở bốn câu tiếp, nhà thơ xứ Đoài đã phác họa chân dung người lính rõ ràng hơn qua sự hy
sinh của họ:
“Rải rác biên cương mồ viễn xứ
Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh
Áo bào thay chiếu anh về đất
Sông Mã gầm lên khúc độc hành...”
Quang Dũng đặt đầu câu thơ với từ láy “rải rác” đã tạo ra một không gian chiến
trường trở thành “nghĩa trang”- nơi không biết bao nhiêu thân lính đã ngã xuống. Những
chàng lính còn đang tuổi hai mươi đã ngã xuống vì bom đạn để lại tuổi xuân còn đang phơi
phới. Nhưng đằng sau từ “rải rác” ấy lại là các từ Hán Việt “biên cương”, “mồ viễn xứ” đã
làm giảm đi sự mất mát, đau thương. Dẫu những người lính đã hy sinh nơi biên thùy xa xôi
nhưng sự trang trọng, tôn nghiêm đã biến những nấm mồ vô danh trở thành ngôi mộ vĩnh
hằng. Quang Dũng nhìn vào sự thật xót xa để viết nên câu thơ đầy day dứt, vậy nhưng ngay
dòng thơ sau đó lại khẳng định được tư thế hiên ngang cùng tinh thần bất khuất của những
người lính. “Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh”, hai từ “chẳng tiếc” vang lên như một nốt
cao trong bản hòa ca đã kéo cảm xúc lên đến đỉnh cao. Họ coi cái chết là một phần của sự
lựa chọn khi ra nơi biên cương. Bước vào chiến trường nghĩa là đã đặt một chân vào cõi
chết, nghĩa là phải khép lại “đời xanh” còn bao hoài bão đang bỏ ngỏ. Thế nhưng người lính
vẫn sẵn sàng quên mình vì sứ mệnh độc lập của dân tộc. Tinh thần khẳng khái, phong trần
này có lẽ không chỉ ở trong “Tây Tiến” mà ta còn bắt gặp trong những câu thơ sau:
“Chúng tôi đã đi không tiếc đời mình
(Nhưng tuổi hai mươi làm sao không tiếc)
Nhưng ai cũng tiếc tuổi hai mươi thì còn chi Tổ quốc?”
(Trường ca “Những người đi tới biển” - Thanh Thảo)
Dòng cảm xúc còn âm ỉ cho đến hai câu cuối đoạn, thi sĩ đã tiếp tục dùng từ Hán Việt
để thiêng liêng hóa sự ra đi của đồng đội. “Áo bào”- “thay chiếu” vừa có bi vừa có tráng,
vừa đau thương lại vừa hào hùng. Thực chất “áo bào” vốn là chiếc áo lính đã bạc màu, sứt
chỉ thế nhưng qua lăng kính lãng mạn, nó đã trở thành chiếc áo trang trọng che chở các anh
nơi vĩnh hằng. Các anh ngã xuống nơi chiến trường khốc liệt, một manh chiếu đắp cũng
không có. Động từ “về” là một cách nói giảm, nói tránh về cái chết khiến sự ra đi cũng
những người lính bớt đi sự nặng nề, xót xa. Ngày anh ngã xuống đơn giản chỉ là ngày anh
kết thúc cuộc hành quân gian khổ để về với đất mẹ, sự cống hiến của anh sẽ còn sống mãi
với cuộc đời, thiên nhiên, cội nguồn giống như lời thơ bất tử của nhà thơ Nguyễn Đình Thi:
“Nước chúng ta
Nước những người chưa bao giờ khuất
Đêm đêm rì rầm trong tiếng đất
Những buổi ngày xưa vọng nói về”
(“Đất nước”- Nguyễn Đình Thi)
Đoạn thơ khép lại bằng tiếng gầm của Sông Mã khiến cho sự ra đi mang đậm chất sử
thi. Con sông Mã là chứng nhân của lịch sử, là người bạn đồng hành cũng là người đồng đội
trên chiến trường của những người lính đã nhỏ lệ tiễn đưa các anh về với đất mẹ. “Khúc độc
hành” vừa mạnh mẽ lại vừa xót thương tựa như lời chào cuối cùng dành cho người bạn đã đi
xa mãi. Một lần nữa, nhà thơ Quang Dũng đã thể hiện chất hào hùng ngày từ sự hy sinh của
những người lính trẻ, ở họ có bi nhưng không bao giờ có lụy!
“Tây Tiến” giống như một bức tranh đủ màu sắc phác họa chân dung của những
người lính trẻ. Những hình ảnh giàu sức gợi đã khiến cho hiện thực thêm rõ nét làm nổi bật
hơn vẻ đẹp bất khuất, kiên trung của anh lính. Đoạn thơ sử dụng từ ngữ tinh tế, lãng mạn và
các từ Hán Việt đã đưa mạch cảm xúc lên xuống hợp tình hợp lý. Quả thực, Quang Dũng
chính là một chàng nghệ sĩ đa tài, những dòng thơ của ông chính là minh chứng cho tài kết
hợp tinh tế, hài hòa của bút pháp hiện thực với cảm hứng lãng mạn. Sự kết hợp cảm xúc tài
tình đã làm cho bài thơ dẫu có gian khổ, mất mát nhưng cũng tràn đầy niềm lạc quan, khỏe
khoắn. Một thời đại chiến tranh khói lửa đã đi qua, Quang Dũng không chỉ khắc họa trọn
vẹn mà đặc biệt hơn cả ông còn thành công trong việc dựng lên bức tượng đài bất tử về hình
ảnh những người lính vô danh. Bức tượng đài đấy sẽ sừng sững và hiên ngang trong trái tim
con người Việt Nam, nhất định sẽ tồn tại mãi với cuộc đời.
Bức chân dung về người lính vô danh đã được nhà thi sĩ Quang Dũng viết bằng
những vần thơ chân thành, xao xuyến. Có lẽ, nhà phê bình Vũ Thu Hương đã hoàn toàn
đúng khi nhận định về hình tượng của người lính “không ai nhớ mặt đặt tên” qua bài thơ
“Tây Tiến “. Và không chỉ riêng Quang Dũng hay Vũ Thu Hương, dường như chẳng ai có
thể lãng quên đi công lao, sự cống hiến bất tận của những vị anh hùng đã ở mãi nơi chiến
trường.

BÀI LÀM SỐ 2
Họ và tên: Lý Đoàn Tuyết Ngân
MHV: K23060
Điểm: 4.5/5.0
Viết về người lính, viết về chiến tranh, mỗi nghệ sĩ lại có những nỗi niềm trăn trở
riêng. Từ những “bài ca không bao giờ quên” về tháng năm chiến tranh dai dẳng và đầy ám
ảnh, cho tới chân dung của những anh hùng đã xả thân vì đại nghĩa, gửi gắm trọn vẹn thanh
xuân tươi đẹp cho nước nhà. Hoài niệm về những thời khắc khói lửa gian nan ấy, nhà phê
bình Vũ Thu Hương từng nhận định: “Tây Tiến là tượng đài bất tử về người lính vô danh”.
Lời khẳng định ấy đã thể hiện tính độc đáo và góc nhìn đầy mới mẻ của Quang Dũng đối
với những anh hùng vô danh đã ngã xuống không tiếc thân mình vì Tổ quốc. Và có lẽ, điều
tạo nên sự bất tử ở “Tây Tiến” chính là sự hòa quyện hai nét đẹp của người lính: Anh dũng,
hào hùng trong chiến đấu và lãng mạn, hào hoa trong đời sống tinh thần được thể hiện rõ
nhất ở đoạn thơ:
“Tây Tiến đoàn binh không mọc tóc,
Quân xanh màu lá dữ oai hùm.
Mắt trừng gửi mộng qua biên giới,
Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm.
Rải rác biên cương mồ viễn xứ,
Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh,
Áo bào thay chiếu anh về đất,
Sông Mã gầm lên khúc độc hành.”
Nhà thơ Quang Dũng vốn được biết tới là một nghệ sĩ đa tài, với một trái tim bay
bổng, lãng mạn. Ông là nhà thơ mặc áo lính - đại đội trưởng binh đoàn Tây Tiến, vì thế, ông
dùng những trải nghiệm và cảm xúc của một người đã từng lăn xả, xông pha nơi chiến
trường, thấu hiểu nỗi đau của bom đạn để viết nên những áng thơ mang đậm tính hiện thực
của thời đại. Bên cạnh đó ông vừa là họa sĩ, nhạc sĩ và cả thi sĩ. Thế nên, chất nhạc kết hợp
cùng chất họa đã được ông đưa vào bài thơ một cách vô cùng tinh tế và ngọt ngào, khơi dậy
cảm xúc nơi người đọc, khiến độc giả phải mê đắm trong từng vần thơ. Phải nói rằng, Tây
Tiến đã hội tụ hết tất cả đặc sắc nghệ thuật và hồn thơ Quang Dũng. Thi phẩm được sáng tác
vào năm 1948 ở Phù Lưu Chanh, bên dòng sông Đáy hiền hòa và thơ mộng. Tác phẩm có
thể xem như một cánh chim sải rộng cánh để “bay theo đường dân tộc đang bay” (Chế Lan
Viên), là minh chứng cho sự chín muồi cả về cảm xúc và tài năng của nhà thơ “Xứ Đoài
mây trắng” như nhà thơ Đinh Minh Hằng đã từng nhận xét: “Tây Tiến là sự thăng hoa của
một hồn thơ lãng mạn”. Bởi tác giả sáng tác bài thơ khi đã rời xa đơn vị một thời gian nên
cảm hứng chủ đạo của tác phẩm được bao trùm bằng nỗi nhớ ngập tràn - Lâu đài được xây
nên bằng nỗi nhớ của người cầm bút.
“Tây Tiến đã trở thành bức tượng đài bất tử vì người lính vô danh”. Bởi lẽ, trên đời
này chẳng có ai là bất tử nhưng tinh thần bất khuất sự hy sinh của những anh hùng năm ấy
sẽ chẳng bao giờ bị xóa nhòa. Họ đã trở thành những hình tượng không bao giờ khuất,
những giá trị vĩnh viễn trường tồn qua bao năm tháng trong trái tim của mỗi độc giả. Và
những người lính Tây Tiến đã thể hiện điều này, cùng với tác phẩm Tây Tiến được chắp bút
vì lẽ đó. Tất cả đã cho chúng ta có cơ hội chiêm ngưỡng, chạm vào vẻ đẹp bên trong của họ,
dù không được nhớ mặt đặt tên nhưng chính họ đã làm nên đất nước. Dù chỉ là những
“người lính vô danh”, “chúng ta không tài nào biết tên, biết tuổi, nguồn gốc xuất thân hay
câu chuyện cuộc đời của riêng họ; ta chỉ biết họ đều là những chàng trai ở độ tuổi mười tám
đôi mươi, gác lại bao hoài bão, khát khao để cống hiến tuổi xuân, thậm chí là sinh mệnh của
mình cho đất nước. Ở thời khắc tươi đẹp nhất trong đời, quen với giảng đường, bút vở
nhưng năm ấy họ vẫn không ngần ngại vác cây súng lên vai, đi bộ hàng trăm cây số để thực
hiện lí tưởng mà mình đã lựa chọn. Khi họ sẵn sàng xa gia đình, những lời tạm biệt chẳng ai
biết. Họ là những người kính vô danh mà bất tử như vậy đấy!
Nếu như ở hai khổ thơ đầu, tác giả đã bộc lộ nỗi nhớ da diết của người lính về những
cuộc hành quân gian khổ cùng binh đoàn Tây Tiến nơi núi rừng hoang vu hiểm trở. Bên
cạnh đó, còn là những kỉ niệm đẹp về tình quân dân trong đêm liên hoan và cảnh sông nước
miền Tây thơ mộng thì đến khổ thơ này, tác giả Quang Dũng đã trực tiếp khắc họa chân
dung đầy hào hùng, dũng cảm hi sinh vì Tổ quốc thân yêu của người lính Tây Tiến. Với hai
câu thơ đầu đoạn là vẻ đẹp hào hùng, bi tráng qua dáng vẻ bên ngoài và cuộc sống người
lính Tây Tiến:
“Tây Tiến đoàn binh không mọc tóc
Quân xanh màu lá dữ oai hùm”
Câu thơ mở đầu với bốn chữ “Tây Tiến đoàn binh”, ở đây tác giả đã sử dụng biện
pháp đảo ngữ “Tây Tiến” lên trước thay vì viết theo cách thông thường để nhấn mạnh khí
phách và ý chí của những người kính. Đồng thời thể hiện sự tự hào, kiêu hãnh khi được
mang trong tim tên của binh đoàn. Đây là câu thơ tả thực, thực một cách trần trụi về hoàn
cảnh khắc nghiệt của những năm đầu thời kì kháng chiến chống Pháp. Những từ miêu tả về
ngoại hình người lính “không mọc tóc” vang lên đầy khảng khái để khắc họa hiện thực tàn
khốc, có những người lính cạo trọc đầu để tiện chiến đấu nhưng cũng có những người vì căn
bệnh sốt rét rừng. Tất cả đã làm họ kiệt quệ về sức khỏe và cướp đi sinh mệnh của nhiều
người, mạng lại nỗi ám ảnh cho biết bao người lính áo xanh. “Đoàn binh không mọc tóc :
thể hiện sự chủ động và tự nguyện của những người kính trước khó khăn, khắc nghiệt nơi
núi rừng. Nhưng khó khăn ấy không vùi dập hình tượng người kính mà càng tô đậm sự bất
khuất, kiên cường trong những người lính áo xanh. Họ hiện lên với tinh thần thép không gì
cản nổi. Những khó khăn, khắc nghiệt thời kì chống Pháp cũng từng được khắc họa qua lời
thơ của Chính Hữu hay Tố Hữu:
“Anh với tôi biết từng cơn ớn lạnh
Sốt run người vầng trán ướt mồ hôi”
Hay:
“Giọt mồ hôi rơi
Trên má anh vàng nghệ.”
Đến với câu thơ thứ hai lại tạo ra hai vế đối lập: “Quân xanh màu lá” với “dữ oai
hùm”, một bên là thiếu thốn, gian nan, khó khăn, một nên là khí phách, anh hùng của những
người lính Tây Tiến. “Quân xanh màu lá” ở đây chỉ sự ngụy trang của những người kính để
tránh mây bay thăm dò của địch nhưng cũng có thể là sự xanh xao, gầy gò trên những
khuôn mặt vốn thiếu ăn, thiếu ngủ của các anh. Từ Hà thành ra đi chiến đấu khi mái tóc hãy
còn xanh, da còn hồng hào. Vậy mà giờ đây, họ đã chấp nhận hi sinh mái tóc xanh, tuổi
thanh xuân của mình để góp phần làm nên mùa xuân của Tổ quốc. Từng câu, từng chữ đã
biểu trưng cho sự thật tàn khốc của cuộc kháng chiến chống Pháp thời kì đầu - vô cùng cam
go. Nhưng ở đây, Quang Dũng đã dùng từ “dữ oai hùm” rất sáng tạo. Mặc dù khó khăn đến
vô cùng thế nhưng họ vẫn giữ sự uy nghiêm, kiên định với một tinh thần bất khuất khi chiến
đấu với kẻ thù. Dường như, qua cách nói như vậy, họ đã trở nên hiên ngang, là chúa tể của
rừng thiêng nước độc. Không sợ bất kì một hiểm nguy hay khó khăn nào.
Dù khó khăn, gian nan là thế, nhưng trong lòng những chiến binh Tây Tiến vẫn
mong nét lãng mạn của vẻ đẹp hào hoa:
“Mắt trừng gửi mộng qua biên giới
Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm”
Ở đây, “mắt trừng” là hình ảnh mạnh mẽ, kiên cường, bất khuất, nhìn thẳng vào
khó khăn, vào quân thù, vào con đường đi tới lí tưởng mà chẳng có chút sợ sệt hay chịu
thua. Bên cạnh đó, đôi mắt ấy còn dùng để “gửi mộng qua biên giới” để đưa những giấc mơ
đi xa, bay cao, vượt qua những giới hạn, chiến thắng cả những khoảng cách xa xôi về địa lí,
giúp những người lính có cảm giác họ được gần gũi với quê nhà khi đang ở xứ người. Để
rồi trong những giấc mơ ấy, khi đêm dài đã lắng lại, tâm hồn người kính đã đặt chân được
về Hà Nội trong đêm mơ. Và nỗi nhớ nào cũng cần điểm đến, đích đến cụ thể, nếu nỗi nhớ
của người kính xuất thân từ nông dân trong bài “Đồng chí” của Chính Hữu là nhớ “nước
mặn, đồng chua, cây đa, giếng nước, sân đình” thì nỗi nhớ của những người kính trẻ chính
là “dáng kiều thơm”. Đó là hình bóng người con gái mà họ yêu ở quê nhà, là hình dáng của
người vợ, người thương mà họ đã dành cả trái tim mình để thương yêu hết mực. Bởi mà họ
đã dành cả trái tim mình để thương yêu hết mực. Bởi chiến tranh đang loạn lạc, thứ tình cảm
riêng tư ấy họ phải gác lại sang một bên để dành chỗ cho lí tưởng cách mạng, cho ánh sáng
rạng ngời mang tên Tổ quốc. Dù chỉ là những khát khao thầm lặng nhưng nó cũng vô cùng
mạnh mẽ, trở thành điểm tựa để họ vững chắc tay súng. Trong trái tim của những người lính
như song hành hai khát khao: một là giấc mộng hòa bình, độc lập của dân tộc, hai là ước mơ
riêng tư bé nhỏ vẫn cất giữ sâu bên trong trái tim mình.
Bước tiếp vào trong thơ, Quang Dũng không né tránh hiện thực, né tránh những đau
thương mất mát mà nhìn thẳng vào bi thương để viết nên những vần thơ của mình. Hai câu
thơ đã vẽ nên một bức tranh đượm buồn và xót xa về sự hy sinh của người lính. Những
chiến sĩ đã hi sinh oanh liệt, dũng cảm chốn đất khách quê người, nơi vốn chẳng phải quê
hương mà họ được chôn rau cắt rốn:
“Rải rác biên cương mồ viễn xứ
Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh”
Không gian chiến trường như trở thành một “nghĩa trang” khổng lồ, nơi biết bao
người lính đã ngã xuống. Từ láy “rải rác” như tô đậm thêm nỗi buồn của người nằm xuống
khi họ phải cô đơn, lạc lõng ở một miền đất xa, nơi không có mẹ hiền, cha chờ, vợ mong;
cũng chẳng có những đồng đội kề bên như lúc trước. Họ đã để lại tuổi xuân của mình mãi
mãi nơi bom đạn, bãi cát đầy đau thương và xót xa. Hình ảnh này làm ra chợt nhớ đến
những người lính dành trọn thanh xuân cho Tổ quốc tươi đẹp:
“Tên tuổi chúng tôi rải rác khắp rừng cây
Rải rác dòng tên nơi đèo cao, vực thẳm”
(Khúc Tâm Tình)
Những người lính đã ra đi ở nơi xa lạ, không được ôm ấp bởi đất mẹ thân yêu: “mồ
viễn xứ”: Từng chữ dường như mỗi lúc nhấn thêm một nốt nhạc buồn của khúc hát hồn sĩ
tử. Quang Dũng đã khắc họa hiện thực thời chiến một cách đầy ám ảnh, day dứt. Mặc dù
vậy nhưng họ chẳng “tiếc đời xanh”. “Đời xanh” bởi lẽ họ đều là những người lính trẻ hi
sinh vì non sông, gấm vóc. Họ chủ động và tự nguyện “quyết tử cho Tổ quốc quyết sinh”,
chẳng hề luyến tiếc bất kì một điều gì; chỉ tiếc khi đất nước chưa hòa bình, độc lập. Đó là
một tinh thần cao đẹp của những người lính cụ Hồ. Có thể thấy, tác giả đã sử dụng các từ
Hán Việt khiến cho lời thơ mang âm hưởng trang trọng. Bên cạnh đó, thiêng liêng hóa sự ra
đi của những người kính vô danh, đã âm thâm cống hiến tuổi xuân cho nước nhà.
Quang Dũng đã mang lại vẻ đẹp rạng ngời của lí tưởng thời đại, có bi nhưng không
lụy mà là bi tráng khi dùng từ “áo bào”. Kết hợp từ áo quần và chiến bào để tạo thành cụm
từ đầy trang trọng và uy nghiêm. Cụm từ ấy như một sự nâng niu, trân trọng và bù đắp
những thiệt thòi, tổn thương khi những người lính áo xanh nằm lại ở chiến trường trong khi
đến một tấm chiếu che người cũng chẳng có. Ngoài ra, từ “áo bào” còn được tác giả sử dụng
nhằm thiêng liêng hóa sự hi sinh - đưa cái chết của những người lính trở nên trang trọng
như sự băng hà của các vua chúa vì các anh đã đóng góp cả mạng sống của mình bảo vệ non
sông, gấm vóc. Hình ảnh “áo bào - thay chiếu” là hoàn toàn hợp lí. Cách nói giảm nói tránh
được sử dụng tinh tế qua động từ “về đất” tạo một cảm giác nhẹ nhàng, bình yên với niềm
tin rằng những người kính sẽ được vòng tay của đất mẹ hay nói cách khác là Tổ quốc ta chở
che, chào đón khi đã hoàn thành sứ mệnh thiêng liêng, cao cả của mình. Để rồi, câu thơ cuối
của khổ ba chính là lời tiễn biệt của thiên nhiên dành cho người lính đã anh dũng ngã xuống
nơi chiến trường:
“Sông Mã gầm lên khúc độc hành”
“Sông Mã” như một người bạn vãn đồng hành cùng các anh trong suốt chặng đường
hành quân, cũng như đau thương, thét gào đến tột cùng khi các anh rời xa chốn chiến trường
của Tổ quốc để về yên giấc dưới lòng sâu. Sông Mã như đang thét gào, oán hận và thay lời
trách móc kẻ thù - những kẻ gieo rắc các tội ác dã man, tàn bạo, vô nhân tính khi xâm lăng
non sông, đất nước Việt. Đến khi đoạn thơ khép lại với “khúc độc hành” của dòng sông Mã
như một tuyên ngôn đầy mạnh mẽ, một lời chia li của núi rừng dành cho những người trẻ.
Dẫu họ ra đi nhưng họ sẽ sống mãi trong niềm thương, nỗi nhớ và lòng biết ơn vô tận của
những người ở lại.
Từng ngôn từ được thốt lên đã bộc lộ rõ nét vẻ đẹp của tâm hồn người nghệ sĩ
phóng khoáng, bay bổng hòa quyện với chất thép trong trái tim người chiến sĩ đã nhiều lần
trải qua mưa bom, bão đạn nơi chiến trường khốc liệt. Sự kết hợp bút pháp sử thi đan xen
cảm hứng lãng mạn đã giúp thi phẩm vừa giữ được những chất liệu chân thực, khốc liệt của
cuộc chiến - vừa nhẹ nhàng, giúp người đọc chạm đến tâm hồn sâu thẳm của người lính trẻ.
Với thể thơ bảy chữ, cách ngắt nhịp linh hoạt. Từng áng thơ như hóa thành dải lụa mỏng
manh và mềm mại của nỗi nhớ giăng mắc trong không gian rừng núi, trong tâm trí của
người đã rời xa. Bằng cách đan xen giữa tự sự, miêu tả và biểu cảm, Quang Dũng đã thành
công khắc họa vẻ đẹp hào hùng, hào hoa và sự hi sinh oanh liệt của những người lính trẻ
năm ấy đã thực sự trở thành một tượng đài bất tử không bao giờ khuất. Phải nói rằng, từng
đường nét khắc họa của Quang Dũng đã khẳng định sâu sắc, chính xác cho lời nhận định
của Vũ Thu Hương: Họ là những tượng đài bất tử dẫu vô danh, bởi lẽ họ đã cống hiến cả
cuộc đời mình cho dân tộc, cho cuộc sống bình yên mà ta đang có hôm nay. Giữa cái nhìn
hiện thực với cảm hứng lãng mạn, Quang Dũng đã dựng lên bức chân dung, bức tượng đài
người lính cách mạng vừa chân thực vừa có sức khái quát, tiêu biểu cho vẻ đẹp sức mạnh
dân tộc thời kì chống Pháp. Đó là bức tượng đài được kết tinh từ âm hưởng bi tráng của
cuộc kháng chiến ấy. Đó là bức tượng đài được khắc tạc bằng tình yêu của nhà thơ mặc áo
lính dành cho những người đồng đội và đất nước của mình. Vì thế, bức tượng đài về người
lính vô danh đã vút lên khúc hát ngợi ca của nhà thơ cũng như của cả đất nước về những
con người anh hùng ấy.
Cõi đời là cõi hữu hạn. Nhà soạn nhạc thiên tài Beethoven dừng chân tại kiếp sống
này và để lại cho đời bản Sonata “Ánh trăng” - bản giao hưởng định mệnh. Với “Tây Tiến”
người đời sẽ mãi nhớ tới những “ bức tượng đài người lính vô danh”, dấu ấn luôn chạm
khắc đi kèm cùng vẻ đẹp hào hùng và phong cách hào hoa được thể hiện rõ trong khổ thơ
thứ ba của bài thơ “Tây Tiến”.
Đề bài: Cho đoạn trích sau:
“Sông Mã xa rồi Tây Tiến ơi!
Nhớ về rừng núi, nhớ chơi vơi
Sài Khao sương lấp đoàn quân mỏi
Mường Lát hoa về trong đêm hơi”
("Tây Tiến" - Quang Dũng)
Anh/chị hãy cảm nhận đoạn thơ trên, từ đó nhận xét phong cách nghệ thuật của nhà
thơ Quang Dũng.
Họ và tên: Hồ Thị Bảo Quỳnh
MHV: K23076
Điểm: 4.5/5.0

BÀI LÀM
Khi bàn về sức mạnh của thơ ca, nhà văn Mayakovsky đã từng viết: “Trên đời có
những thứ chỉ được giải quyết bằng thơ”. Quả thực, trong những tháng ngày mưa bom bão
đạn, chỉ có thơ ca mới đem toàn bộ đau đớn, tình cảm còn ứ nghẹn ra bên ngoài. Người ta
tìm đến thơ để phơi mình trong chất trữ tình, để đem cảm xúc riêng tư hóa thành con chữ.
Và Quang Dũng- nhà thơ mặc áo linh cũng đem nghệ thuật hòa vào cảm hứng của thời đại
với sự thành công khi viết về người lính. Bài thơ “Tây Tiến” không chỉ ẩn chứa nét họa về
người lính vô danh, một nỗi nhớ miền Tây tha thiết mà còn là thi phẩm tiên phong cho lối
viết phóng khoáng, hồn hậu, tài hoa của thi nhân Hà Thành. Đặc biệt qua đoạn trích sau,
người đọc càng cảm nhận được rõ nét phong cách nghệ thuật đặc sắc của nhà thơ Quang
Dũng:
“Sông Mã xa rồi Tây Tiến ơi!
Nhớ về rừng núi, nhớ chơi vơi
Sài Khao sương lấp đoàn quân mỏi
Mường Lát hoa về trong đêm hơi”
Quang Dũng xuất thân là thanh niên tri thức của vùng đất Thủ đô. Ông là một người
nghệ sĩ đa tài khi bản thân vừa là họa sĩ, vừa là nhạc sĩ và cả thi sĩ. Chính vì hoạt động ở
nhiều lĩnh vực nghệ thuật nên trong thơ ông bao giờ cũng thấp thoáng chất nhạc, chất họa
một cách tinh tế. Khi kết hợp chất họa và chất nhạc với hồn thơ phóng khoáng và đầy tâm
huyết, một tiếng thơ lãng mạn đầy lưu luyến ấy đã giữ chân bạn đọc, mang sáng tác của
mình vượt qua sự băng hoại của thời gian. Ở “nhà thơ xứ Đoài mây trắng” mang cảm giác
rất thu hút, rất riêng biệt. Văn Long- “nhà thơ sống nhiều hơn một đời” nhận xét rằng: “Nhà
thơ Quang Dũng độc đáo một cách hồn nhiên, ông cứ tự nhiên như chim trên trời, cá dưới
nước mà thành độc đáo”.
Năm 1947, phân hiệu bộ đội “Tây Tiến” được thành lập để phối hợp với quân đội
Lào đánh tiêu hao sinh lực địch ở vùng Thượng Lào và một phần của tỉnh Sầm Nứa. Quang
Dũng đã gắn bó với binh đoàn qua những lần hành quân gian khổ, qua những thiếu thốn và
khó khăn nơi rừng thiêng nước độc. Tuy thời gian không lâu nhưng cũng khiến ông mãi
khắc ghi trong tim, để rồi không kìm được lòng mà viết nên bài thơ cùng tên với binh đoàn
mà không cần sửa ý thơ nào. Ban đầu, thi phẩm có tên là “Nhớ Tây Tiến” nhưng do thấy cả
bài thơ vốn dạt dào nỗi nhớ rồi nên chữ “nhớ” dường như là thừa thãi. Hơn thế, đối với
Quang Dũng, kỉ niệm về chiến dịch ấy vẫn luôn hiện hữu từng ngày, miền kí ức đó đã trở
thành một phần của cuộc sống. Nếu đặt chữ “nhớ” vào lại vô tình đẩy nỗi nhớ ấy đi xa hơn,
không còn sự cô đọng và hàm súc nữa.
Trong giai đoạn văn học Cách mạng phổ biến, đã có thời điểm “Tây Tiến” bị cấm lưu
hành vì tác phẩm hàm chứa hồn thơ lãng mạn và những cảm xúc cá nhân. Người ta cho rằng
những điều ấy sẽ làm cho người lính sợ hãi, chùn bước trước gian nan, thử thách. Tuy
nhiên, ở một góc độ tích cực hơn, ta lại đem “cái bị bài trừ” trở thành động lực thúc đẩy
bước chân bộ đội thêm phần chắc chắn, mạnh mẽ. Họ chiến đấu không chỉ vì khao khát độc
lập, tự do; không chỉ vì lòng yêu nước và lý tưởng cách mạng mà còn xông pha vì những
mối tình đang còn dang dở hẹn thề, vì những lời hứa của tuổi trẻ nhiệt huyết. Tất cả những
giá trị trường tồn vĩnh cửu ấy đã đưa “Tây Tiến” trở lại với nền văn học Việt và sống mãi
cùng thời gian.
Bài thơ vốn được dệt nên từ nỗi nhớ nên ở bất cứ đâu ta cũng có thể thấy Quang
Dũng gửi gắm cảm xúc của mình vào từng con chữ, dù là thầm kín hay trực tiếp. Những câu
thơ bảy chữ vừa nghiêm trang, vừa phóng khoáng, lại thấp thoáng một không khí bâng
khuâng, hào hùng, ngập tràn kỉ niệm, đủ để thấy mối tình đậm sâu với đoàn binh của tác giả.
Mở đầu bài thơ, Quang Dũng đã bày tỏ trực tiếp nỗi nhớ về cảnh núi rừng miền Tây
thân thuộc. Hai câu đầu đã tạo nên tiết tấu của một bản nhạc miên man, vô tận trong nỗi
nhớ:
“Sông Mã xa rồi Tây Tiến ơi
Nhớ về rừng núi nhớ chơi vơi”
Hình ảnh “sông Mã” hiện lên trong tâm trí của người cầm bút mang theo một tiếng
gọi tha thiết về những ngày đã qua. Con sông ấy là chứng nhân lịch sử khi tận mắt thấy
những trận đánh quyết liệt của bộ đội ta. Bao nhiêu mưa bom, bão đạn, bao nhiêu thân lính
nằm xuống thì dòng sông ấy vẫn còn nhớ mãi. Nhưng trong tâm tư của Quang Dũng, sông
Mã còn là một người bạn đồng hành qua bao cuộc hành quân của đoàn binh Tây Tiến. Nhớ
về con sông cũng chính là nhớ về đồng đội “vào sinh ra tử”- những thanh niên đã gác bút
nghiên theo việc binh đao. Thế nhưng họ vẫn ra trận vì một nền độc lập quý giá, vì một lý
tưởng chung cao đẹp. Được đặt ngang hàng với dòng sông thiên nhiên chính là hình ảnh con
người- đoàn binh Tây Tiến. Câu thơ như vẽ ra hình ảnh người lính mặc áo xanh hòa cùng
với cây cối của thiên nhiên dìu dắt nhau qua từng chặng đường hành quân gập ghềnh, trắc
trở. Hơn thế, câu thơ còn gợi lên dụng ý thầm kín của nhà thơ áo lính về sức mạnh của con
người, nhất là người lính cụ Hồ, họ sẽ không vì thiên nhiên gầm thét mà lui về, ngược lại họ
là điểm sáng cho núi rừng Tây Bắc bạt ngàn. Hai hình ảnh trên cách nhau bởi chữ “xa rồi”
tạo nên một bức tường ngăn cách giữa quá khứ và hiện tại. Cách nói ấy tạo nên sự hụt hẫng,
da diết khó tả. Ngăn cách về thời gian thì chẳng thể lội núi, vượt đèo để gặp lại nhau mà chỉ
có thể giữ chặt nỗi nhớ ấy ở trong tim của mình.
Âm “ơi” kết thúc câu trên bắt vần với từ láy “chơi vơi” ở câu dưới làm cuộn lên một
cảm giác chênh vênh, trơ trọi. Vần “ơi” cất lên như một thanh âm của thế giới hoài niệm,
một vùng đất chỉ còn tồn tại trong tâm tưởng của tác giả. Cách gieo vần độc đáo cùng với từ
láy “chơi vơi” đã đưa câu thơ trở thành bản lề của đôi bờ hư- thực. Nỗi nhớ được viết không
rõ ràng, trong bao kỉ niệm ấy tác giả đang nhớ về điều gì? Tuy không cụ thể hóa nỗi nhớ của
mình thế nhưng Quang Dũng vẫn khiến sự chông chênh cứ vương mãi trong lòng độc giả
bằng cách gắn định danh “chơi vơi” độc lạ. Ông không nhớ cái gì cụ thể, cũng chẳng cần ý
thức để nhớ về điều gì xa xôi vì cảnh vật và con người Tây Bắc vẫn luôn khắc sâu trong tâm
trí của chàng nghệ sĩ Sơn Tây. Nỗi khắc khoải chơi vơi ấy ta cũng từng bắt gặp trong áng
thơ của ông hoàng thơ tình- Xuân Diệu:
“Sương nương theo trăng ngừng lưng trời
Tương tư nâng lòng lên chơi vơi”
(“Nhị hồ”)
Với Xuân Diệu, “chơi vơi” chính là tương tư, là đem nỗi lòng mình vượt không gian
vô hạn. Còn ở Quang Dũng thì lại là tiếng bật trong vô thức, từ một quá khứ chứa chan kỷ
niệm. Quả thực, cách gieo vần và ngụ ý trong từng con chữ rất sáng tạo, độc đáo như lời nhà
văn Vân Long đã nhận xét.
Và trong miền ký ức vô tận ấy, núi rừng miền Tây dường như đã để lại ấn tượng sâu
đậm với thi sĩ. Ở đất thủ có hồ Gươm, có đường làng nhưng trên vùng cao toàn cây cối,
những con dốc dựng thẳng cheo leo mới chính là chốn dừng chân của binh đoàn. Nơi núi
rừng dữ dội, hiểm huy ấy là nơi bộ đội Cụ Hồ chiến đấu hết sức lực, quên mình vì an nguy
của đồng bào. Là nơi những người chiến sĩ chia nhau từng manh áo, miếng cơm, dành cho
nhau nghĩa tình quý giá. Quang Dũng đã điệp từ “nhớ” hai lần để khẳng định nỗi nhớ khắc
khoải đậm sâu và ngắt câu theo nhịp 4/3 để tạo nên khoảng lặng nghẹn ngào.
Chắc hẳn mỗi người chúng ta khi đọc những câu thơ chân thành này đều phải thốt lên
câu hỏi rằng làm sao mà người nghệ sĩ ấy lại đau đáu một miền kí ức đến vậy. Để rồi ta chợt
nhớ đến nhân vật trữ tình trong bài thơ “Ánh trăng” đã quên mất khoảng thời gian “hồn
nhiên như cây cỏ” trước cảnh sáng sáng lập lòe từ phố thị và chợt thức tỉnh khi “ngửa mặt
lên nhìn mặt/ có cái gì rưng rưng”. Không phải ai cũng dễ dàng quên đi quá khứ, nhất là giai
đoạn nặng tình nặng nghĩa của miền quá vãng. Một phần của binh đoàn Tây Tiến vẫn luôn
nhớ về chốn hành quân với những người đồng đội thân thương của mình.
Vượt qua nỗi nhớ về thiên nhiên hùng vĩ, “Tây Tiến” lại đưa chúng ta về những cuộc
hành quân gian khổ giữa núi rừng:
“Sài Khao sương lấp đoàn quân mỏi
Mường Lát hoa về trong đêm hơi”
Hai câu thơ tiếp vẫn xuất hiện những địa danh quen thuộc với đoàn binh, đó là “Sài
Khao”, “Mường Lát” tượng trưng cho đoạn kí ức mà họ từng gắn bó với nhau. Đằng sau
mỗi cái tên là những vùng đất chất chứa kỉ niệm dù vui hay buồn, dù xót xa hay hạnh phúc.
Việc nhà thơ đặt vào áng thơ của mình những địa danh có phần xa lạ với người miền xuôi
như một cách khắc sâu hơn nhiệm vụ Cách mạng, in đậm sứ mệnh “quyết tử cho Tổ quốc
quyết sinh”. Bản làng nơi vùng Tây Bắc vừa heo hút, vừa lạnh lẽo. Sương mù giăng lối che
lấp đường đi, như muốn trở thành một hòn đá tảng đè lên đôi chân đã mỏi mệt của người
lính. Nếu như trong lời thơ của Tố Hữu với “Nhớ từng bản khói cùng sương” thật lãng mạn
thì ở “Tây Tiến” lại ánh lên vẻ nặng nề đến lạ. Bởi nó là thử thách, là hiện thực khốc liệt mà
bộ đội phải đối mặt, phải vượt qua dẫu đã sức cùng lực kiệt. Tính từ “mỏi” càng tô đậm
thêm sự rệu rã, mỏi mệt, đôi vai mang theo hành trang nặng nề như bị chùng xuống bởi
sương rơi ướt sũng. Thế nhưng, đoàn binh chỉ cảm nhận cái mệt của cơ thể chứ không thấy
cái mỏi trong tinh thần. Người lính trẻ vẫn bước đi trong màn sương, vẫn can trường băng
qua cánh rừng gồ ghề. Những thanh niên Hà thành vẫn lạc quan, họ tìm trong nỗi gian truân
ấy sự lãng mạn, trữ tình của hình ảnh “hoa về”
Có lẽ, hình ảnh “hoa” tượng trưng cho vẻ đẹp bồng bềnh của bông đuốc rực sáng một
góc rừng. Đuốc thắp lên dẫn đầu niềm niên và sức mạnh tinh thần, đồng hành cùng đoàn
binh dưới màn đêm trăng rọi. Ánh sáng vẫn còn cháy nghĩa là hy vọng còn, mà hy vọng còn
thì bộ đội Cụ Hồ không bao giờ dừng bước. Hoặc đó cũng có thể là màu sắc rực rỡ của
khóm hoa rừng đang tỏa hương. Nếu ai có dịp đặt chân đến vùng đất miền Tây, hẳn cũng
đã một lần ngắm nhìn vẻ đẹp của bông hoa ban. Dường như vì Tây Tiến có những người trẻ,
họ say mê nét đẹp của loài hoa thế nên đã đem những đóa hoa ấy trở thành một điểm nhấn
trên quãng đường dài, để con đường hành quân chẳng còn mờ mịt. Dù hiểu theo cách nào,
thì hình ảnh “hoa” vẫn là một hình ảnh rất thơ và ngọt ngào. Phải chăng, hoa tượng trưng
cho những giây phút trữ tình, nhẹ nhàng nên Quang Dũng đã ghép nó với từ “về” để tăng
thêm sự ấm áp, gần gũi. Là một nhân chứng đi ra từ gian khổ, là người lính bước chân ra
chiến trường nên ông hiểu rõ khắc nghiệt của chiến tranh nhưng ông không né tránh cảm
hứng lãng mạn. Ngược lại, ông còn dùng chất trữ tình để thăng hoa tâm hồn của mình.
Với bút pháp tả thực, Quang Dũng đã khắc họa một hiện thực khắc nghiệt mà người
lính phải trải qua mỗi ngày, khó khăn này chồng chất khó khăn kia, nhưng đâu có khiên
binh đoàn chật vật vì họ tiến về phía trước với màu cờ trong tim. Cách ngắt nhịp 4/3 và 2/5
ở hai câu thơ như phác họa đường nét của ngoại cảnh, cho thấy được sự linh hoạt trong cách
gieo vần của tác giả.
Tác phẩm “Tây Tiến” chính là phép khẳng định cho phong cách nghệ thuật của người
nghệ sĩ đa tài. Chính nét bút phóng khoáng, tài hoa, lãng mạn đã giúp Quang Dũng “kiến
tạo bộ mặt” của riêng mình. Với xuất phát là tầng lớp trí thức trẻ nên giọng thơ ông có phần
trẻ trung, hóm hỉnh, lạc quan dẫu hiện thực có ác liệt thế nào. Bằng bút pháp hiện thực kết
hợp cùng giọng điệu hào hùng, ông đã viết nên áng thơ bi mà không lụy. Hơn hết, chất nhạc
cùng chất họa cũng là điểm nhấn của những trang thơ đầy cảm xúc người nghệ sĩ này. Đó là
lí do vì sao mà tờ báo “Văn chương phương Nam” nhận xét rằng: “Nhà thơ Quang Dũng
khu biệt, độc lập như một ốc đảo cheo leo giữa trùng khơi thi ca và lẻ loi, hiu quạnh như
một vì sao cô độc trong không gian văn chương kháng chiến, nhưng là một người thơ tài
năng hiếm hoi, không khác chi một loài hoa lạ, ngan ngát hương rừng… Ông đáng được
xem là ngòi bút thơ áo lính trữ tình tài hoa trong thi đàn dân tộc”
Khép lại “Tây Tiến” ta khép lại nỗi nhớ về một miền Tây Bắc, một binh đoàn nghĩa
tình cùng những kỉ niệm không thể có lần thứ hai. Bài thơ chính là tiếng lòng, là lời “tuyên
ngôn” cho những cảm xúc còn giấu kín. Quang Dũng đã thật tài ba và sáng tạo khi viết thi
phẩm bởi sự tài hoa và phong cách nghệ thuật độc đáo, đồng thời góp phần tô đậm sức
mạnh của thơ ca mà nói như Nhecrasov : “Trong tâm hồn của con người đều có cái van mà
chỉ có thơ ca mới mở được”.

TÁC PHẨM “ĐẤT NƯỚC”


Đề bài:
“Trong anh và em hôm nay
Đều có một phần Đất Nước
Khi hai đứa cầm tay
Đất Nước trong chúng ta hài hòa, nồng thắm
Khi chúng ta cầm tay mọi người
Đất Nước vẹn tròn, to lớn
Mai này con ta lớn lên
Con sẽ mang Đất Nước đi xa
Đến những tháng ngày mơ mộng
Em ơi em Đất Nước là máu xương của mình
Phải biết gắn bó và san sẻ
Phải biết hóa thân cho dáng hình xứ sở
Làm nên Đất Nước muôn đời...”
(Trích “Đất Nước” – Nguyễn Khoa Điềm)
Phân tích đoạn trích trên, qua đó thấy được tư tưởng Đất Nước Nhân Dân của nhà thơ
Nguyễn Khoa Điềm.
Họ và tên: Trần Thanh Tâm
Mã học viên: MV037
Điểm: 4.5/5.0

BÀI LÀM SỐ 1
“Yêu nước” là một khái niệm thật bao la, vĩ đại nhưng đồng thời cũng gần gũi, mộc
mạc, rất đỗi nhỏ bé và riêng tư. Dường như tinh thần ấy luôn sẵn có trong trái tim của mỗi
chúng ta, chỉ là nhịp chảy chậm rãi của cuộc sống đời thường đã ru cho tình yêu đó say ngủ
trong đáy sâu tâm hồn, hoặc giả, ta chưa từng có dịp nhận ra tình yêu ấy dạt dào ra sao. Đọc
và tìm hiểu các tác phẩm văn học ra đời giữa chiến trường khói lửa, ta có cơ hội thấy được
tình yêu đất nước mạnh mẽ, sôi nổi trong mỗi người, ngay cả ở thời hiện tại. Với tôi, đoạn
trích “Đất nước” thuộc trường ca Mặt đường khát vọng của Nguyễn Khoa Điềm là một tác
phẩm có sức lay động lớn lao như thế. Qua tác phẩm, tác giả đã gửi gắm tư tưởng Đất Nước
Nhân Dân vô cùng tinh tế, khéo léo. Chính tư tưởng giản dị nhưng mang ý nghĩa to lớn ấy
đã dễ dàng chạm đến trái tim người đọc qua bao thế hệ.
Tác giả Nguyễn Khoa Điềm sinh ra trong một gia đình tri thức có truyền thống yêu
nước và cách mạng sâu sắc. Vì thế, từ khi còn trẻ, ông đã sớm ý thức mạnh mẽ về tình yêu
quê hương đất nước và luôn hết mình gánh vác sự nghiệp Tổ quốc. Những sáng tác của ông
đem đến cho thơ ca thời chống Mỹ tiếng nói trữ tình thiết tha của tuổi trẻ. Bài thơ “Đất
nước” được trích từ Chương V thuộc trường ca “Mặt đường khát vọng”. Tác phẩm được ra
đời năm 1971, viết về sự thức tỉnh của thế hệ thanh niên về non sông gấm vóc và sứ mệnh
cao cả của họ. Với ngòi bút giàu cảm xúc cùng suy tư triết luận, tác giả đã đem đến thi
phẩm “Đất Nước”một màu sắc rất riêng biệt. Đó là những tình cảm rung động, sâu lắng
thiết tha của người chiến sĩ tham gia chiến trường; là những quan điểm triết luận vô cùng
sâu sắc, tinh tế mà không kém phần giản dị, gần gũi của một người trí thức, một người nghệ
sĩ. Ông luôn hướng về nhân dân với tinh thần yêu nước là cảm hứng chủ đạo. Dường như
nhà thơ thấu hiểu rằng: nhân dân ta từ lâu đời luôn chịu nhiều vất vả gian lao, để rồi làm nên
những chiến công vĩ đại một cách thầm lặng. Chính họ đã làm nên Đất Nước. Vì vậy, trong
tư tưởng Đất Nước Nhân Dân của Nguyễn Khoa Điềm, đất nước đã lớn lên và gắn bó mật
thiết với đời sống hằng ngày của Nhân Dân. Đất nước đã hòa quyện vào từng dòng chảy trôi
của cuộc sống, để rồi dù ở bất cứ đâu, bất cứ thời điểm nào, ta cũng nhìn thấy bóng hình Đất
Nước. Và góc nhìn độc đáo ấy của người nghệ sĩ đã được thể hiện rõ qua đoạn trích “Trong
anh và em hôm nay…Đất Nước muôn đời.”
Với bốn câu thơ đầu tiên, ta khó lòng quên được vẻ đẹp của những áng thơ như đang
hát lên cùng lòng người năm tháng ấy. Tình yêu Đất Nước trong tác giả được nuôi dưỡng
lớn mạnh dần từ tình yêu đôi lứa đến tình yêu gia đình, tình yêu quê hương xứ sở. Tình cảm
ấy đã được nhà thơ khéo léo ký thác vào những câu thơ đậm chất trữ tình triết luận.
“Trong anh và em hôm nay
…Đất Nước trong ta hài hòa nồng thắm.”
Trải qua biết bao thăng trầm lịch sử, dân tộc ta mới có thể dựng xây Đất Nước dưới
bầu trời hòa bình, độc lập, tự do, hạnh phúc. Trong “hôm nay” của Nguyễn Khoa Điềm
chính là đang nói tới hiện tại của chúng ta, của thế hệ trẻ nối tiếp những trang lịch sử vàng
son của cha ông bao đời. Thế hệ trẻ ấy chính là “anh và em” . Chỉ hai vần thơ ngắn gọn
nhưng đủ để ta nhìn thấy cả bóng dáng mình trong đó. Chúng ta là đồng bào một nước, là
những người anh em máu mủ ruột thịt, luôn che chở, đùm bọc lẫn nhau. Vì vậy hôm nay, ta
đều chung một sứ mệnh tiếp nối cha ông- xây dựng Đất Nước ngày một vững mạnh. Thế
nhưng, Đất Nước của ta hiện tại đâu chỉ có ngày hôm nay, hôm nay không đủ để làm nên
Đất Nước. Đất Nước trong ta còn là ngày hôm qua, là những năm tháng mưa bom bão đạn
mà cha ông ta biết bao người đã “gục súng bỏ quên đời” mà gây dựng, giữ gìn. Bởi vậy mà
trong chúng ta “Đều có một phần Đất Nước”. Chỉ “một phần” thật nhỏ bé nhưng lại đỗi
thiêng liêng, gần gũi biết bao nhiêu. Chúng ta đâu cần đi thật xa để kiếm tìm lấy một định
nghĩa vẹn toàn về Đất Nước mà nó ở ngay đây, ngay trong lồng ngực trái của mình. Từ bao
thời nay, nó vẫn luôn khắc in bóng hình Đất nước cờ đỏ sao vàng. Đất Nước đã thực sự hóa
thân vào mỗi người- những ai được sinh ra và lớn lên nơi mảnh đất này. Mỗi người Việt
Nam đều đã và đang thừa hưởng những giá trị vật chất, tinh thần của Đất Nước thành máu
thịt, tâm hồn, nếp cẩm và cách sống của mình. Quả thực, hai từ “hôm nay” thật sâu sắc biết
bao! Qua đó, trách nhiệm và ý thức của thế hệ trẻ được chú trọng và nâng cao hơn bao giờ
hết.
Đến với ý thơ tiếp theo, ‘người kỹ sư tâm hồn’ Nguyễn Khoa Điềm đã tiếp tục mở
rộng ý thơ trên từ “anh và em” đến “hai đứa”. Từ tình yêu lứa đôi nay đã hóa thành tình yêu
gia đình, quê hương xứ sở. Nếu ở hai câu thơ trước, tác giả đã tách riêng hai cá thể “anh” và
“em” thì đến với câu thơ thứ ba, hai cá thể đã được hòa chung thành một. “Cầm tay” là một
hành động hết sức giản dị, gần gũi nhưng sâu trong ấy ẩn chứa những ý nghĩa vô cùng nhân
văn, sâu sắc. Phải chăng đấy là cái cầm tay thể hiện sự nồng nàn của tình yêu? Nhưng
không, đấy là cái cầm tay thể hiện sự đồng lòng quyết tâm kiên cường, không chỉ “anh và
em” mà là của tất cả chúng ta- đồng bào nước Việt Nam đầy mến thương. Cái cầm tay nó
sâu sắc đến nhường nào vậy? Ta cũng đã từng bắt gặp hình ảnh ấy qua câu thơ: “Cầm tay
nhau biết nói gì hôm nay” (Tố Hữu). Trong một hoàn cảnh, đôi khi một hành động nhỏ bé
ấy cũng đủ để thay ta nói lên tất cả. Cái cầm tay là sự chia tay bịn rịn, xao xuyến không sao
thốt nên lời. Đấy đều là những cái “cầm tay” đượm tình nặng nghĩa anh em ruột thịt như
muốn thể hiện một điều rằng “ta luôn có chung một lý tưởng, chung một cội nguồn để trở
về”. Và khi ta cầm tay nhau, một tổ ấm, một gia đình đã được xây dựng. Gia đình là một
phần của Đất Nước. Chỉ có tình yêu và hạnh phúc gia đình mới tạo nên sự “hài hòa, nồng
thắm” của Đất Nước. Ý tưởng cũng đã được tác giả Nguyễn Đình Thi thể hiện trong một tứ
thơ sâu sắc về nỗi nhớ:
“Anh yêu em như yêu Đất Nước
Vất vả đau thương, tươi thắm vô ngần.”
Từ tình yêu, hạnh phúc của lứa đôi mà ta biết đến tình yêu quê hương xứ sở. Từ
những tình cảm riêng tư cá nhân mà ta biết đến tình yêu đối với cộng đồng. Từ đó, trong ta
mới có thể định nghĩa về Đất Nước “hài hòa nồng thắm” là như thế nào. Là khi Đất Nước
được tìm thấy trong niềm vui và nỗi đau của đồng bào, của những người anh em, của bao
lứa đôi khác.
Có dịp dừng lâu hơn với hai câu thơ tiếp theo, say mê với những vần thơ, chúng ta sẽ
nhận ra “Đất Nước” được vẽ nên bởi một vòng tròn to lớn, tròn trịa với sự đoàn kết chung
tay, đồng lòng của tất cả mọi người:
“Khi chúng ta cầm tay mọi người
Đất Nước vẹn tròn, to lớn.”
“Mọi người” ở đây là những ai, những cái tên nào để ta cùng ở đây cầm tay kết nối
nên một vòng tròn vậy? Như tác giả Nguyễn Khoa Điềm đã chia sẻ rằng “Tôi luôn cố gắng
thể hiện Đất Nước một cách gần gũi nhất”. Thế nên đối với ông, không cần lấy một cái tên
cụ thể, không cần phải là ai thật vĩ đại, lớn lao. Mọi người chính là nhân dân, là đồng bào
của ta, là những người “không ai nhớ mặt đặt tên nhưng chính họ làm nên Đất Nước.” Bình
dị, giản đơn vậy thôi nhưng sâu sắc, ngọt ngào vô cùng. Nhờ có họ, Đất Nước ta mới có thể
“to lớn, vẹn tròn” đến như thế. Không có họ, có lẽ đã không có Đất Nước của ngày hôm
nay. Không có họ, có lẽ đã không có một điều gì có thể định nghĩa được hai từ “Đất Nước”.
Không chỉ Nguyễn Khoa Điềm mà nhạc sĩ Trịnh Công Sơn cũng đã từng dùng lời ca để nói
lên điều đó “Bàn tay ta nắm, nối tròn một vòng Việt Nam.” Đất nước bao la rộng lớn như
vậy đấy nhưng chỉ cần ta “nắm tay”, “cầm tay” nhau như trao thêm sức mạnh dựng xây Đất
Nước “hài hòa vẹn tròn” thì Đất Nước sẽ mãi luôn trong tim ta. Chỉ cần ta mãi bên nhau, kề
vai sát cánh thì “vòng tròn” ấy sẽ không bao giờ bị những thế lực bên ngoài phá vỡ đi hình
hài vốn có của nó. Điều đó cho thấy rằng sự đồng lòng của nhân dân có sức mạnh vĩ đại như
thế nào. Tác giả đã sử dụng hàng loạt các động từ, tính từ “hài hòa, nồng thắm”, “hóa thân”
để nhấn mạnh sức mạnh ấy- sức mạnh được xây dựng bởi tinh thần yêu nước của mỗi
người. Với kiểu cấu tạo câu theo hai cặp đối xứng về ngôn từ “khi-khi”, “Đất Nước- Đất
Nước”, kết hợp với những cảm nhận tinh tế, mới mẻ về sự hòa quyện giữa cái riêng và cái
chung. Tác giả Nguyễn Khoa Điềm đã một lần nữa khẳng định được rằng khái niệm “Đất
Nước” không ở đâu xa vời mà nó hiện diện ngay trong đời sống của ta, trong từng cái cây
trước nhà, cây đa đầu làng, con đường ta đi. Nó còn xuất phát từ tình yêu cá nhân đến tình
yêu cộng đồng, quê hương xứ sở. Ông đã thực sự rất thành công khi thể hiện được tư tưởng,
quan điểm mới mẻ đó của mình.
Với ba câu thơ tiếp theo, chúng đã tạo ra một sức hấp dẫn riêng đối với bạn đọc trên
con đường đi tìm vẻ đẹp văn chương của tác giả Nguyễn Khoa Điềm. Nhà thơ đã gửi gắm
niềm tin mãnh liệt của mình vào tương lai tươi sáng về trước:
“Mai này con ta lớn lên
…Đến những tháng ngày mơ mộng.”
“Con ta” chính là những thế hệ sau này, những người con được sinh ra không chỉ bởi
tình yêu đôi lứa mà còn bởi tình yêu nước và tinh thần đoàn kết dân tộc. Như một dòng chảy
thời gian bất tận, nhà thơ đã gợi nhắc về những năm tháng quá khứ của cha công, của những
ngày đầu “Dân ta biết trồng tre mà đánh giặc” cho tới “trong anh và em hôm nay” và bây
giờ là thế hệ con em chúng ta của mai sau này Đấy là một quy luật tạo hóa không thể đổi
dời, thế hệ sau sẽ viết tiếp những giấc mơ dở dang của người đi trước. Như Bác Hồ đã từng
căn dặn rằng “Các vua Hùng đã có công dựng nước, Bác cháu ta phải cùng nhau giữ lấy
nước.” Hôm nay, ta còn phải mang một sứ mệnh cao cả trọng đại, đấy chính là truyền tải
những trách nhiệm bài học cho “con ta” sau này. Để có thể dựng xây Đất Nước, để có thể
mang Đất Nước đi xa- đi tới một nơi nào đó mà ngay chính nhà thơ cũng không thể biết một
cách cụ thể, chỉ biết rằng đấy chính là “những tháng ngày mơ mộng” . Người ta sẽ chỉ mơ
về những điều tươi đẹp, một tương lai sáng ngời mà thôi. Và nếu không có niềm tin, có lẽ
đã không tồn tại một giấc mơ nào cả. Chính quan điểm này, nó đã bộc lộ được chất thơ trữ
tình sâu sắc của thi nhân. Ông luôn ấp ủ hy vọng : con cháu ta mai sau sẽ tiếp bước cha ông
“gánh vác phần người đi trước để lại” , xây dựng Đất Nước ta “đàng hoàng hơn, to lớn hơn”
. Hai chữ “lớn lên” biểu lộ một niềm tin về trí tuệ và bản lĩnh của nhân dân trên hành trình
lịch sử đi tới ngày mai tươi sáng.
Để mang Đất Nước đi xa, dường như nhà thơ đã đúc kết những lời khuyên tâm tình
vào những vần thơ để thức tỉnh trách nhiệm của thế hệ trẻ hôm nay về tương lai Đất Nước
sau này :
“Em ơi em Đất Nước là máu xương của mình
…Làm nên Đất Nước muôn đời.”
“Em ơi em” vang lên nghe sao êm đềm như một câu hò vậy. Đấy như là một lời thủ
thỉ trong dân ca đồng bào miền Trung chất phác, thật thà đến lạ. Tác giả muốn nói với “em”
rằng “Đất Nước là máu xương của mình” , là một phần không thể tách rời. Nếu thiếu đi Đất
Nước, ta cũng sẽ không thể tiếp tục cuộc sống của ngày hôm nay. Như chính ông hoàng thơ
tình Xuân Diệu đã từng viết :
“Nghìn năm tổ quốc quê hương
Là hòn đất trộn với máu xương của mình.”
Đất Nước trong ta gắn bó mật thiết vậy đấy ! Thiếu đi nó, dòng máu trong ta cũng
dường như ngừng chảy. Dù mai đây Đất Nước đã mang một màu xanh hòa bình, không còn
chiến tranh, không còn mưa bom bão đạn thì ta vẫn phải luôn vẹn tròn với đất nước, “quyết
tử nhất sinh” với Tổ Quốc mình. “Em ơi em Đất Nước là máu xương của mình” - một tứ thơ
tuyệt đẹp ! Lúc hòa bình, ta biết đem trí lực để dựng xây đất nước. Lúc có chiến tranh, ta
biết đem xương máu để bảo toàn non sông gấm vóc. Điệp từ “phải biết” , “gắn bó, san sẻ”,
nhấn mạnh đây là một nghĩa vụ thiêng liêng. Ta phải “hóa thân” cho dáng hình xứ sở, đưa
Đất Nước ngày càng tươi đẹp, giàu mạnh như cha ông bao đời đã gây dựng. Ở câu thơ cuối,
“muôn đời” ấy chính là hành trình Đất Nước còn dài mãi mãi như đường chân trời không
bao giờ có điểm kết thúc. Để Đất Nước có thể tồn tại đến mãi sau này, thế hệ ngày này phải
nhận thức được những trách nhiệm lớn lao mà nỗ lực nhiều hơn nữa. Niềm mong mỏi ấy
dường như đã được tác giả “cất giấu” sau dấu chấm lửng ở cuối đoạn trích. Dấu ba chấm ấy
như một khoảng lặng mênh mông của những suy tư. Bởi người nghệ sĩ không biết làm cách
nào để nói ra hết tâm tư của mình. Rất nhẹ nhàng, sâu lắng- ông mong ngóng một lời hồi
đáp của những người lắng nghe- mà không ai khác, đấy chính là chúng ta của ngày hôm
nay. Qua thực đôi khi tĩnh lặng như vậy thôi, đó cũng là cách để tác giả Nguyễn Khoa Điềm
đi vào lòng người, chạm vào trái tim của thế hệ độc giả từ xưa đến nay.
Khép lại những trang thơ của người nghệ sĩ nặng lòng với tổ quốc, trong tôi vẫn trào
dâng biết bao cảm xúc. Chúng ta đã từng bắt gặp những định nghĩa Đất Nước thật hiển
hách, hào hùng qua ngòi bút của các người nghệ sĩ. Đấy chính là “từ Triệu, Đinh, Lý, Trần
bao đời gây nên nền độc lập. Cùng Hán, Đường, Tống, Nguyên mỗi bên xưng đế một
vương” trong tác phẩm “Bình ngô Đại Cáo” của tác giả Nguyễn Trãi. Hay Đất nước được
định nghĩa bởi đấng tối cao nắm quyền lực trong tay của mình như “Nam Quốc Sơn Hà” -
“Sông núi nước Nam vua Nam ở” Thế nhưng, có lẽ chưa có một định nghĩa về Đất Nước
nào khiến trái tim tôi rung động đến thế từ khi những vần thơ của tác giả Nguyễn Khoa
Điềm vang lên. Đất Nước trong thơ ca của ông đâu phải điều gì thật lớn lao, phức tạp, khó
hiểu. Nó giản đơn, mộc mạc đến lạ thường ! Chính những điều ấy khiến Đất Nước thật gần
gũi với nhân dân biết bao. Bởi Đất Nước không tự dưng mà có, nó được dựng xây từ bao
đời bởi những con người dù không ai nhớ mặt đặt tên, nhưng chính họ làm nên Đất Nước.
Và đấy cũng chính là Tư tưởng Đất Nước nhân dân mà tác giả Nguyễn Khoa Điềm đã mang
lại. Ông không chỉ gửi gắm một ý niệm thật sâu sắc, xúc động mà còn đem lại những bài
học, những chiêm nghiệm cho thế hệ mai sau này.
Có mặt trên văn đàn như một nhà thơ sắc sảo, tư tưởng nghệ thuật và tài năng sử
dụng ngôn từ, chi tiết, hình ảnh, nhịp điệu,… của tác giả Nguyễn Khoa Điềm đã trở thành
khuôn mẫu cho việc sáng tác cụ thể và cả quá trình rèn luyện suốt đời của nhiều thế hệ tác
giả văn học Việt Nam hiện đại. Điều đó thể hiện rõ qua “đứa con tinh thần” mà ông đã đem
lại cho độc giả. Ông đã kỳ công khéo léo, lồng ghép những biện pháp nghệ thuật vào bài thơ
để làm nổi bật trọn đầy ý niệm Đất Nước. Cách tư duy chiết tự đầy mới mẻ với danh từ
chung Đất Nước được nhà thơ viết hoa một cách trịnh trọng và thiêng liêng vô cùng. Thêm
vào đó, những hình tượng thơ mộc mạc mà gần gũi đến lạ. Giọng thơ vừa tự sự, vừa trữ tình
như một lời nhắn nhủ nhẹ nhàng nhưng vô cùng sâu sắc. Tác giả Nguyễn Khoa Điềm là một
minh chứng cho sự thật rằng ta không cần “đao to búa lớn”, không cần phải khoác lên mình
những triết lý giáo huấn có phần khô khan và cứng nhắc ; ông cứ thế đi theo cách của riêng
mình mà vẫn có thể mang lại cho nhân dân một khái niệm Đất Nước thật vẹn tròn biết bao.
Nguyễn Khoa Điềm đã nhẹ nhàng chạm vào trái tim người đọc theo cách như vậy
đấy. Ông thực sự đã làm trọn đầy cả trách nhiệm của một thế hệ đi trước, truyền đạt lại
những bài học quý giá cho thế hệ chúng ta hôm nay. “Đất Nước” của người nghệ sĩ vĩ đại
ấy đã làm sáng tỏ sự trường tồn của một tư tưởng sâu sắc, độc đáo mặc cho dòng chảy thời
gian cuối phăng đi tất cả. Chúng ta- thế hệ mai sau này phải biết giữ gìn, phát huy mãi
những lý tưởng cao đẹp ấy để Đất Nước Việt Nam này mãi là của chúng ta. Vì nó được đúc
kết quá nhiều công sức, lý tưởng và kết bằng máu, xương thịt cùng với trái tim nóng bỏng
của biết bao người đã ngã xuống. Vì vậy, ta hãy luôn tự tin rằng :
“Nếu được làm hạt giống mai sau
Nếu lịch sử chọn ta làm điểm tựa
Vui gì hơn là người lính đi đầu
Trong đêm tối tim ta ngọn lửa.”
(Tố Hữu)
Và như lời hứa hẹn “mang Đất Nước đi xa” với cha ông ta, câu trả lời đích thực là
hành động của chính ta trong tương lai.
Họ và tên: Bảo Ngọc
Lớp: Cấp tốc 2k4
Điểm: 4.5/5

BÀI LÀM SỐ 2
Nguyễn Khoa Điềm từng viết:
“Bởi vì Người là người đầu tiên
Yêu miền Nam trong trái tim mình
Yêu tuổi trẻ miền Nam 25 năm
Chưa có được ngày hạnh phúc
mà Người dạy chúng tôi
Hãy bền gan mà đánh giặc
Dẫu phải chết cũng không khuất phục
Không có gì quý hơn Độc lập, Tự do”
Nhắc đến tên tuổi của Nguyễn Khoa Điềm là nhắc đến nhà thơ của quê hương, đất
nước và tự do độc lập. Mặc dù trên bản đồ văn học Việt nam, đất nước đã trở thành thi liệu
cho rất nhiều nhà thơ, nhà văn nhưng “Đất Nước” của Nguyễn Khoa Điềm mang một màu
rất khác. Đất Nước đã lớn lên dịu dàng như lời ca của Hoàng Cầm trên sông Đuống, như
vần thơ kiêu hãnh của Nguyễn Đình Thi. Nhưng với Nguyễn Khoa Điềm,ông viết về đất
nước mà không triển khai vẻ đẹp thiên nhiên hùng vĩ hay chiến trường ác liệt mà gần gũi,
bình dị, đậm đà văn hóa dân gian. “Đất Nước” của ông không chỉ là cá ngoài ta mà còn ở
chính bên trong mỗi con người. Vẻ đẹp đất nước ấy đặc biệt thể hiện qua:
“Trong anh và em hôm nay
Đều có một phần Đất Nước
….
Làm nên Đất Nước muôn đời”
Qua những dòng thơ thấm đượm tình cảm, tư tưởng Đất Nước của Nhân Dân được
Nguyễn Khoa Điềm bộc bạch một cách rõ nét.
Nhà thơ Nguyễn Khoa Điềm là người con đất Huế. Sinh ra trong thời thế chiến tranh
loạn lạc nên từ nhỏ ông đã có tinh thần nồng nàn yêu nước. Nguyễn Khoa Điềm là một
trong những nhà thơ thời kháng chiến chống Mỹ. Ông trực tiếp là người tham gia chiến trận,
vậy nên thơ ca cách mạng của nhà thơ xứ Huế rất chân thực, mang đậm màu sắc trữ tình hòa
quyện với tư duy một người tri thức. Trong kháng chiến chống Mỹ, thơ ông thể hiện rõ
những nét đẹp của người Việt và bản chất anh hung fbaats khuất của chiến sĩ Việt Nam. các
tác phẩm tiêu biểu của ông có thể kể đến như “Đất ngoại ô”, “Ngôi nhà có ngọn lửa ấm” và
trường ca “Mặt đường khát vọng”.
Đoạn trích ”Đất Nước” thuộc phần đầu chương V của trường ca “Mặt đường khát
vọng” được sáng tác ở chiến khu Trị - Thiên năm 1971. Đó là thời kì máy bay Mỹ đánh phá
dữ dội. B52 dội bom liên tục khiến mọi thứ tối tăm, mù mịt. Tác phẩm viết về sự thức tỉnh
của tuổi trẻ các vùng bị tạm chiếm miền nam, hướng về nhân dân, đất nước. Nhà thơ từng
tâm sự về đất nước: “Đất nước là một giá trị lâu bền, vĩnh hằng, đất nước được tạo dựng,
bồi đắp qua nhiều thế hệ. Cho nên “khi ra lớn lên đất nước đã có rồi”.
Từ sự gắn bó sâu sắc của nhân dân với đất nước trong tư tưởng Nguyễn Khoa Điềm,
ông đã phát hiện một chân lý giản dị mà sâu sắc: đất nước là sự thống nhất của nhiều yếu tố,
cái riêng và cái chung, cái hằng ngày và cái vĩnh hằng. Đất nước luôn có trong mỗi con
người:
“Trong anh và em hôm nay
Đều có một phần đất nước”
Qua những dòng thơ trăn trở của Nguyễn Khoa Điềm, ta thấy ở đó không đơn thuần
là thơ mà con là tư tưởng, tình cảm của tác giả. Tác giả đã gửi gắm tâm tư của mình vào đất
nước, “đất nước trong anh và em hôm nay”. Đặc biệt hơn đó là cách xưng jpp “anh-em”
ngọt ngào thủ thỉ tâm tình. “Bên kia sông Đuống” của Hoàng cầm cũng đã sáng tạo ra một
đối tượng như vậy để hĩa bày khi nghe tin quê hương Kinh Bắc bị tàn phá:
“Em ơi buồn làm chi
Anh đưa em về sông Đuống”
Nhà thơ nhấn mạnh hai chữ “hôm nay” như để lan tỏa lời nhắn gửi ra xa mãi, vượt
qua sức tàn phá của thời gian, chạm tới trái tim bạn đọc dù bất cứ thời điểm nào. Vì sao
trong anh và em hôm nay lại có một phần đất nước? Bơi đất nước là nơi ra sinh ra, là nơi ra
lớn lên với biết bao kỉ niệm thơ ấu. Mỗi con người đều mang trong mình dòng máu Lạc
Hồng, được thừa hưởng di sản văn hóa vật chất, tinh thần, từ phong tục tập quán đến từng
ngọn lửa, hạt gạo. Vì vậy đất nước hiện hữu trong mỗi cá nhân. Ta từng bắt gặp tư tưởng ất
trong tác phẩm “Quê hương” của Giang Nam:
“Nay yêu quê hương từ trong từng nắm đất
Có một phần máu thịt của em tôi”
Đất Nước kết tinh và hóa thân trong con người.Nhưng đất nước chỉ thực sự hình
thành khi con người biết kết nối, iết cầm tay nhau:
“Khi hai đứa cầm tay
Đất nước trong chính mình hài hòa nồng thắm
Khi chúng ta cầm tay mọi người
Đất Nước vẹn tròn to lớn”.
Tác giả sử dụng thành công nghệ thuật điệp cấu trúc “Khi…Đất nước”. Từ đó giúp
tác giả bộc lộ được cảm nhận về đất nước trong các mối quan hệ. Tình yêu đôi lứa riêng tư
đã mang trong nó vẻ đẹp hài hòa, nồng thắm khi anh à em cầm tay nhau, Cái riêng tư của
tình yêu đôi lứa gắn bó với cái chung của tình yêu đất nước, đất nước lúc này trở nên “hài
hòa nồng thắm”. Khi chúng ta cầm tay mọi người, liên kết gắn bó với cộng đồng tạo nên
khối đại đoàn kết dân tộc, đất nước vẹn tròn to lớn,tầm vóc, trường tồn và phát triển. Đất
nước chính là sự thống nhất giữa tình yêu lứa đôi và tình yêu tổ quốc, giữa cá nhân và cộng
đồng. Nói như một nhà thơ người Pháp: “Từ chân trời một người đến chân trời của nhiều
người”.
Đất nước “nguồn thiêng ông cha”, đất nước “trong anh và em hôm nay”, đất nước
trong mai sau như một nhắn nhủ, như một kỳ vọng sáng ngời niềm tin:
“Mai này con ta lớn lên
Con sẽ mang đất nước đi xa
Đến những tháng ngày mơ mộng”
“Mai này” là thời gian tương lai, “con ta” là thế hệ trẻ, là mầm non tương lai của đất
nước. “con ta” cũng là cách nói ẩn dụ cho niềm tin, khát vọng, cho những ước mơ ngày một
lớn hơn và cũng là đứa con tinh thần sinh ra từ người yêu đất nước. Nhà thơ đã thể hiện
niềm tin mãnh liệt vào thế hệ mai sau, vào những ước mơ tốt đẹp của tương lai. Rõ ràng, ý
thơ nói đến chuyện mai sau - chuyện chưa tới, nhưng lời thơ mạch lạc, dứt khoát như thể đó
là viễn cảnh chắc chắn xảy ra, rằng đất nước sẽ có ngày thật rực rỡ. Sự rực rỡ đó là nhờ vào
những đứa cpn mai này, con sẽ mang đất nước đi xa. Động từ “mang” kết hợp với “đất nước
“ khiến cho người đọc hình dung, “Đất Nước” không chỉ là khái niệm trừu tượng mơ hồ, mà
đất nước trở nên hữu hình gắn với bổn phận, trách nhiệm của mỗi cá nhân. Có lẽ cụm từ
“những ngày tháng mơ mộng” ở cuối câu thể hiện những ngày tháng hòa bình và kết cục
viên mãn cho Tổ quốc sau này. Đó là cách nói tượng trưng cho kỷ nguyên độc lập, tự do,
cho nguyện ước ông cha đã chờ đợi bấy lâu.
Để có được ngày tháng mơ mộng ấy, để đất nước ngày càng đi tới những vì sao ngoài
vũ trụ rộng lớn kia thì mỗi chúng ta cần có trách nhiệm gánh vác trên vai Đất Nước mình:
“Em ơi em Đất Nước là máu xương của mình
Phải biết gắn bó san sẻ
Phải biết hóa thân cho dáng hình xứ sở
Làm nên Đất nước muôn đời”.
Đoạn thơ mở đầu với tiếng gọi thân tình mà tha thiết “Em ơi em” như lời thủ thỉ dặn
dò của người yêu dành cho người yêu, của người anh dành cho người em, tâm tình về giá trị
của Đất Nước trong mỗi trái tim. tác giả sử dụng hình ảnh so sánh “Đất nước là máu xương
của mình”. Không phải “như” mà là “là”. Từ “là” ấy nghe bình thản mà sao thật mạnh mẽ,
nó khẳng định giá trị bền vững, vĩnh hằng của đất nước trong mỗi người. Ta quý trọng cơ
thể bao nhiêu, ta cần đấu tranh để bảo vệ đất nước như thế. Không có xương máu, ta sẽ trở
về với cát bụi. Không có Đất Nước, cuộc đời ta cũng hóa vô nghĩa mà thôi. Như vậy đất
nước gắn bó máu thịt, có vai trò quan trọng với mỗi người. Bởi Chế Lan Viên từng chia sẻ:
“Ôi Tổ quốc ta yêu như máu thịt
Như cha mẹ ta như vợ như chồng”
Bằng giọng thơ trữ tình chính luận và sử dụng điệp ngữ “phải biết”, tác ỉa như khắc
sâu ý thức, trọng trách của con người. Tác giả đã liệt kê một loạt động từ mạnh theo chiều
tăng tiến: gắn bó - san sẻ - hóa thân. Gắn bó là phải dành cho đất nước tình yêu tha thiết,
chung thủy, Còn san sẻ tức mỗi người phải biết chia sẻ, gánh vác trách nhiệm với đất nước.
Cuối cùng - hóa thân là sẵn sàng hy sinh, dâng hiến tuổi xuân để làm nên mùa xuân đất
nước. Đúng như lời ca:
“Là người, tôi sẽ chết cho quê hương”
Lời thơ như từng đợt sóng xô vào lòng người đọc, từng đợt từng đợt, để khắc sâu
trách nhiệm của con người. Cụm từ “dáng hình xứ sở” giàu sức gợi tả về mọi miền đất nước
ra. Trên tấm bản đồ đất nước ta thấy hình chữ S, bắt đầu cho sức sống, san sẻ và sinh sôi.
Câu thơ cuối đặc biệt khi kết thúc bằng dấu ba chấm như chưa thể nói hết tình yêu dành cho
Tổ quốc. Câu thơ tạo nên dư âm trong lòng người đọc. Khi mà đôi mắt ta còn nhìn đất nước
của hiện tại thì trái tim đã đập những nhịp hi vọng về một đất nước ở tương lai, đất nước của
“muôn đời”
“Ôi kháng chiến mười năm qua như ngọn lửa
Ngàn năm sau vẫn đủ sức soi đường”
(Chế Lan Viên)
Chiến tranh qua đi, cuộc kháng chiến chống Mỹ dần lùi vào lịch sử. Những ký ức về
những năm tháng hào hùng đó không thể nào quên được. Những năm tháng khói lửa bom
đạn mịt mù, cả nước gồng mình lên đánh giặc để giành lại độc lập ấy đã lay động trái tim
yêu nước tha thiết của Nguyễn Khoa Điềm. Ông đã thấu hiểu sự hy sinh to lớn và trách
nhiệm bảo vệ đất nước của dân tộc, từ già trẻ, gái trai, lớn bé đều góp phần vào công cuộc
xây dựng đất nước. Chứng kiến cảnh tượng trong những năm tháng ấy, Nguyễn Khoa Điềm
đã thấm nhuần tư tưởng đất nước là của nhân dân. Sẽ là một “cú tát” vào lòng tự trọng của
mỗi thi nhân nếu dễ dãi buộc mình phải như người khác, lấy đôi gàu người thử đôi chân
mình. Nghề viết này là cái nghề nhưng cũng là cái nghiệp rất lớn. Cái lớn ở đây là anh phải
làm sao để mình không bị mờ nhạt giữa vô vàn kẻ viết khác, để mình không tàn đi lặng lẽ
như một đốm tro giữa bếp đời biến thiên. Nhà thơ với tư tưởng và ngòi bút mới lạ - Đất
Nước Nhân Dân đã thành công dệt nên một trang màu mới cho thi đàn văn học Việt Nam,
khơi gợi lên lòng yêu nước từ những điều bình phàm, nhỏ bé mà gần gũi. Những điều ấy đã
tạo nên hai tiếng Đất Nước thiêng liêng trong thơ Nguyễn Khoa Điềm. Nói như I.Ê-ren-bua:
“Lòng yêu nhà, yêu làng xóm, yêu miền quê đã trở nên lòng yêu Tổ quốc”.
Đoạn trích trong chương V “Mặt đường khát vọng” giàu chất trữ tình chính luận, vừa
được viết bằng chiều sâu trí tuệ, vừa được viết bằng những rung động mãnh liệt của cảm
xúc nên rất dễ đi vào lòng người. Các chất liệu văn hóa dân gian được nhà thơ sử dụng
nhuần nhuyễn, sáng tạo, đem lại sức sống hấp dẫn và thể hiện rõ tư tưởng Đất Nước của
Nhân dân. giọng điệu xuyên suốt đoạn trích là giọng thơ tâm tình, tha thiết, sâu lắng như đôi
lứa yêu nhau làm nội dung nghị luận vốn khô khan trở nên thấm đẫm ngọt ngào.
Mạch nước âm ỉ chảy dưới vách núi đã thay đổi qua những ngày xuân xanh đến
những chiều thu buồn. Những đền đài rồi sụp đổ dưới ánh chiêu sthowif gian, những tranh
tường rồi tiêu tan thành bụi vàng quá khứ. Thế nhưng giá trị của Đất nước vẫn ở đó, tư
tưởng Đất nước của Nhân dân vẫn vững bền theo thời gian, phủ kín khoảng không vô tận
của vũ trụ. Đất nước luôn còn đó nhân dân luôn còn đó. Nhân dân làm nên đất nước còn đất
nước bao bọc nhân dân. Nguyễn Khoa Điềm đã để lại cho chúng ta một “Đất Nước” gần
gũi, dịu dàng mà thiêng liêng lắm!
Đề bài:
Cảm nhận vẻ đẹp của hai đoạn thơ sau:
Rải rác biên cương mồ viễn xứ
Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh
Áo bào thay chiếu anh về đất
Sông Mã gầm lên khúc độc hành
(Tây Tiến - Quang Dũng - Ngữ văn 12, tr89)
Và:
Em ơi em
Đất Nước là máu xương của mình
Phải biết gắn bó và san sẻ
Phải biết hóa thân cho dáng hình xứ sở
Làm nên Đất Nước muôn đời
(Đất Nước - Nguyễn Khoa Điềm - Ngữ văn, tr120)
Họ và tên: Hồ Thị Bảo Quỳnh
MHV: K23076
Điểm: 4.75/5.0

BÀI LÀM
Nhà thơ người Anh Bysshe Shelley từng có lời nhận xét về thơ ca rằng “Thơ ca làm
cho những gì tốt đẹp nhất ở trên đời trở thành bất tử”. Có lẽ, tấm lòng yêu nước nồng nàn
chính là “những gì tốt đẹp nhất ở trên đời” mà người cầm bút dùng thơ ca để hóa thành vĩnh
hằng. Câu chuyện về tình yêu nước đã trở thành đề tài mang nguồn cảm hứng sáng tác dạt
dào cho mỗi người nghệ sĩ, đặc biệt trong giai đoạn những dấu chân quân thù đang hằn sâu
trên bờ cõi nước nhà. Hẳn đó cũng là lý do mà Quang Dũng cũng như Nguyễn Khoa Điềm
viết nên hai thi phẩm xuất sắc là “Tây Tiến” và “Đất nước” để bất tử hóa sứ mệnh của con
người Việt Nam. Qua đoạn trích dưới đây, hai nhà thơ đã đồng thời khắc họa sự mệnh cống
hiến bất diệt của dân tộc:
Rải rác biên cương mồ viễn xứ
Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh
Áo bào thay chiếu anh về đất
Sông Mã gầm lên khúc độc hành
(“Tây Tiến” - Quang Dũng)
Và:
Em ơi em
Đất Nước là máu xương của mình
Phải biết gắn bó và san sẻ
Phải biết hóa thân cho dáng hình xứ sở
Làm nên Đất Nước muôn đời
(“Đất Nước” - Nguyễn Khoa Điềm)
Quang Dũng là nhà thơ trưởng thành trong thời kỳ kháng chiến chống Pháp với
những vần thơ còn nồng đượm hơi thở của chiến tranh. Ông vừa hoạt động Cách mạng, vừa
sáng tác thơ với chất giọng phóng khoáng, tự do và đầy tâm huyết. Những áng thơ được viết
bởi ngòi bút của chàng nghệ sĩ đa tài bao giờ cũng ẩn chứa tính nhạc xen lẫn cùng tính họa
một cách tinh tế. Dù viết không nhiều nhưng với các tác phẩm đặc sắc đã đưa Quang Dũng
trở thành “một nhà thơ của Hà Nội, một nhà thơ của Việt Nam, một nhà thơ của thời đại”
(theo Phạm Xuân Nguyên). Điển hình cho hồn thơ tài hoa ấy là thi phẩm “Tây Tiến” được
sáng tác năm 1948 tại Phù Lưu Chanh, sau khi Quang Dũng rời đơn vị cũ một thời gian.
“Tây Tiến” là dòng cảm xúc mang tên nỗi nhớ về chiến khu cũ, về đồng đội đã cùng kề vai
sát cánh và về nghĩa tình quân dân ấm áp. Ban đầu, bài thơ mang tên “Nhớ Tây Tiến”
nhưng sau khi được in lại, tác giả đã đổi thành “Tây Tiến” ngắn gọn mà giàu cảm xúc. Có
lẽ, “Tây Tiến” không chỉ dừng lại là cảm xúc của nỗi nhớ mà nó còn là tên của binh đoàn, là
hướng hành quân và ẩn chứa cả một tinh thần kháng chiến mạnh mẽ. Thế nên, chữ “nhớ”
đặt vào dường như là thừa thãi. Như vậy, với “Tây Tiến”, nhà thơ “xứ Đoài mây trắng”
không chỉ gây ấn tượng bởi sự cô đọng, hàm súc của ngôn từ mà còn bộc lộ thành công nỗi
nhớ đã ấp ủ bấy lâu.
Nhận xét về bức chân dung của người lính, Vũ Thu Hương đã khẳng định: “Tây Tiến
là tượng đài bất tử của người lính vô danh”. Những con người không ai nhớ mặt đặt tên ấy
đã ngã xuống vì sự an nguy của đất nước, vì giấc mơ hòa bình của dân tộc Việt Nam. Song
hành với nét vẽ hào hùng, lãng mạn trong ngoại hình và tâm hồn người lính chính là vẻ đẹp
rạng ngời của lý tưởng “Quyết tử cho Tổ quốc quyết sinh”:
“Rải rác biên cương mồ viễn xứ
Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh
Áo bào thay chiếu anh về đất
Sông Mã gầm lên khúc độc hành”
Đoạn thơ bắt đầu bằng từ láy “rải rác” đã mở ra một khung cảnh thê lương, quạnh
quẽ. Chiến trường ác liệt trở thành nghĩa trang- nơi không biết bao thân lính đã ngã xuống,
đã mọc lên bao nhiêu nấm mồ. Thơ là tiếng lòng, là sự kết tinh của cảm xúc, có lẽ khi khắc
sâu về lý tưởng thiêng liêng ấy, sự xót xa và đau đớn đã được Quang Dũng gửi trọn vào thơ
ca. Trong cùng một câu thơ, nhà thơ Hà Thành lại sử dụng liên tiếp các từ Hán Việt như
“biên cương”, “viễn xứ” để trang trọng hóa sự ra đi của người lính Cụ Hồ, phủ lên những
nấm mồ sức sống vĩnh hằng. Quang Dũng khắc họa khung cảnh xác xơ, đầy day dứt đấy để
làm nền cho tinh thần hào hùng của đoàn binh “Tây Tiến”: “Chiến trường đi chẳng tiếc đời
xanh”. Từ “chẳng tiếc” kéo dòng cảm xúc lên tột đỉnh, khi họ coi cái chết là một lẽ tất yếu
trong chiến tranh và họ sẵn sàng đánh đổi tất cả dù phải hy sinh mạng sống mình để giành
độc lập dân tộc. Cũng với ý chí ấy, trong bản trường ca “Những người đi tới biển” có viết:
“Chúng tôi đã đi không tiếc đời mình
(Nhưng tuổi hai mươi làm sao không tiếc)
Nhưng ai cũng tiếc tuổi hai mươi thì còn chi Tổ quốc?”
Những người lính trẻ xuất thân từ giảng đường đại học, trong hành trang ra đi còn
thơm mùi sách vở. Thế mà từ bỏ “đời xanh” đổi lấy hòa bình lại chẳng hề do dự, hối hận.
Dẫu trái tim của họ còn mắc kẹt trong mối tình dang dở, trong lời hứa hẹn ngày quay về,
những giấc mơ cá nhân ấy đã được góp vào giấc mơ chung của dân tộc. Họ đã làm tròn
trách nhiệm của một người chiến sĩ, một công dân trong thời kỳ mà chẳng ai là sống cho
riêng mình.
Nối tiếp lý tưởng ngàn đời, dòng cảm xúc được lắng lại trong sự nuối tiếc trước
những người đồng đội đã ra đi mãi mãi. “Áo bào”-”thay chiếu” là hai hình ảnh vừa đau
thương lại vừa hào hùng. Thực chất, không có chiếc áo bào hay manh chiếu nào cả, đó chỉ
là manh áo lính đã ngả màu sờn vai, là manh áo quý giá và hiếm hoi trong thời kỳ đầu
kháng chiến chống quân xâm lược. Cách sử dụng từ ngữ của Quang Dũng đã thể hiện sự
thiêng liêng và niềm kính trọng với những người đã nằm lại mãi với tuổi mười tám, đôi
mươi. Động từ “về” đã nói tránh đi sự thật khốc liệt. Tuy không nặng nề, trần trụi như từ
“chết” nhưng sự day dứt vẫn cứ âm ỉ mỗi khi đọc lên. Khoảnh khắc các anh “về đất” là đang
trở về với quê hương, thân xác anh hòa vào đất mẹ còn linh hồn anh sống mãi ngàn đời. Bài
thơ mở đầu bằng hình ảnh con sông Mã và đến đây ta lại bắt gặp dòng sông ấy một lần nữa.
Sông Mã dường như đã trở thành đồng đội, tri âm tri kỷ của binh đoàn Tây Tiến, là một
chứng nhân cho lịch sử. “Khúc độc hành” là sự chảy xiết của dòng sông, ồ ạt, mạnh mẽ
vang lên đầy cảm xúc. Tựa một lời chào đến tuổi trẻ gan dạ, sông Mã hóa thân làm đất
nước, non sông quyệt hòa cùng những người con chưa một lần tháo chạy trước quân thù.
Đoạn trích trên là bức chân dung về lý tưởng cống hiến cao cả của những người lính
trẻ trong cuộc kháng chiến chống Pháp. Dù họ chỉ được gọi bằng cái tên chung- binh đoàn
Tây Tiến thì những vẻ đẹp khuất lấp vẫn luôn ở đây và tồn tại mãi với thời gian. Bằng cách
sử dụng chọn lọc ngôn từ và hình ảnh, kết hợp lối ngắt nhịp 4/3, “Tây Tiến” đã trở thành
một ngôi sao sáng trên trang thơ của Quang Dũng nói riêng và trên thi đàn Việt Nam nói
chung.
Dẫu ở thời kỳ kháng Pháp hay chống Mĩ, văn học Việt Nam đậm đà tinh thần tự tôn
dân tộc. Đến với Nguyễn Khoa Điểm, ta lại càng thấy rõ điều ấy. Ông là nhà thơ trưởng
thành trong thời kỳ kháng chiến chống Mĩ và là cây bút mang phong cách “trữ tình triết
luận”. Chính sự tinh tế giữa chất tri thức uyên bác cùng âm hưởng văn hóa dân gian đã làm
cho những áng thơ của ông dù viết về đề tài quen thuộc là đất nước cũng vẫn mang một dấu
ấn riêng biệt. Bản trường ca “Mặt đường khát vọng” được hoàn thành ở chiến khu Trị-
Thiên (1971), viết về sự thức tỉnh của thanh niên đô thị miền Nam với sứ mệnh về cuộc
chiến của non sông, đất nước. Đoạn trích “Đất Nước” (phần đầu của chương V) đã khắc họa
sâu sắc tư tưởng “Đất nước của nhân dân” với những trăn trở về thế hệ sau của dân tộc, về
tinh thần cống hiến của nhân dân.
Trong “Đất Nước”, nhà thơ Nguyễn Khoa Điềm không chỉ làm rạng ngời vẻ đẹp của
non sông mà còn ẩn chứa lời nhắc sâu sắc về trách nhiệm của mỗi cá nhân với Tổ quốc:
Em ơi em
Đất Nước là máu xương của mình
Phải biết gắn bó và san sẻ
Phải biết hóa thân cho dáng hình xứ sở
Làm nên Đất Nước muôn đời
Nhà thơ bắt đầu tiếng lòng mình bằng lời gọi tha thiết “em ơi em”, đại từ “em”
dường như chẳng còn bị bó buộc trong khuôn khổ của tình yêu đôi lưa nữa. Mà suy rộng ra
tác giả muốn nhắn nhủ với thế hệ đi sau- những người được sinh ra từ một bọc trứng, cùng
mang hai tiếng “đồng bào” thiêng liêng. Cách gọi thân thuộc ấy đã xóa nhòa đi khoảng cách
của thời gian, cho thấy rằng ở thời điểm nào, đất nước vẫn tồn tại những người “em” mang
trên mình nghĩa vụ to lớn với dáng hình xứ sở. Bằng giọng thơ dịu dàng, ân cần, tác giả đã
làm cho ý thơ dù mang nội dung giáo huấn tinh thần mà không hề khô khan, giáo điều. Nối
tiếp tiếng gọi tha thiết ấy, Nguyễn Khoa Điềm đã nâng tầm vị trí của đất nước trong trái tim
của người dân đất Việt qua phép so sánh: “Đất nước là máu xương của mình”. Câu thơ như
một lời khẳng định trực tiếp bởi từ “là” mang sắc thái chắc chắn, thuyết phục. Đây là một tư
duy sử dụng ngôn từ tài hoa của thi sĩ vì nếu với từ “như” có lẽ sẽ không để lại ấn tượng
như vậy. Thông thường, ta sẽ hình nước đất nước thật lớn lao, kì vĩ nhưng với tác giả, ông
lại cho rằng dáng hình non sông chính là tâm hồn, trái tim, cơ thể ta. Để được sống và tồn
tại nhiều khi con người phải hy sinh cả một tuổi trẻ, một cuộc đời. Thế nên ta càng trân
trọng bản thân bao nhiêu, ta lại càng yêu quý Tổ quốc ta bấy nhiêu. Có thể nói, đất nước là
hơi thở, là nguồn sống, là lý tưởng cho cuộc đời của mỗi người dân con Rồng cháu Tiên.
Phép điệp “phải biết…” đã hữu hình hóa sứ mệnh thiêng liêng của mỗi cá nhân trong câu
chuyện của cộng đồng. Chúng phải phải biết “gắn bó” và “san sẻ”, tức là phải đoàn kết tinh
thần, nắm lấy bàn tay để nối rộng tình yêu giữa người với người. Có lẽ, bước đầu tiên để bắt
đầu một mối quan hệ bền chặt, đó là chúng ta phải biết thấu hiểu và sẻ chia với nhau. Dẫu là
khó khăn hay vinh quang, là vui hay buồn, việc lan tỏa những giá trị tích cực sẽ góp phần
tạo nên hạnh phúc đích thực. Bên cạnh đó, ta phải biết “hóa thân”, là dâng hiến giá trị tốt
đẹp của mình. Nếu thời chiến, con người hiến dâng của sự sống, cả tuổi đời thì thời bình
chúng ta mang đến trí tuệ và tài năng. Chính sự “hóa thân” ấy đã làm nên “dáng hình xứ
sở”. Không có lý tưởng hy sinh và cống hiến, đất nước sẽ không thể trường tồn, sẽ không có
một “Đất nước muôn đời”. Xuyên suốt quá trình khắc họa sứ mệnh của cá nhân, nhà thơ đã
sử dụng từ khẳng định “phải”, đây là nghĩa vụ, trách nhiệm cần thực hiện vì tương lai của
Tổ quốc. Trong bài thơ “Sao chiến thắng”, nhà thơ Chế Lan Viên cũng nhấn mạnh sứ mệnh
của con người với quê hương:
“Ôi Tổ quốc ta, ta yêu như máu thịt
Như mẹ cha ta, như vợ như chồng
Ôi Tổ quốc, nếu cần ta chết
Cho mỗi ngôi nhà, ngọn núi, con sông”
Đoạn thơ khép lại bằng dấu “...” đã nối dài những cảm xúc miên man trong tâm hồn
của tác giả. Sự nghẹn ngào chẳng thể hóa thơ, thành chữ chỉ có thể gọi lại trong trái tim đã
tạo nên dòng suy tư sâu lắng nơi nhận thức của độc giả. Có lẽ, Nguyễn Khoa Điềm cũng
mong muốn không chỉ ông mà những người tiếp nhận sẽ cùng nhau viết tiếp trách nhiệm
với đất nước, tiếp tục vẽ ra tương lai tươi sáng sau này.
Một đoạn trích ngắn gọn nhưng lại đong đầy cảm xúc, đây không chỉ là lời nhắn nhủ
nữa mà đã trở thành lời tuyên ngôn cho mỗi người dân trên mảnh đất hình chữ S. Bằng
giọng thơ trữ tình kết hợp với chất chính luận, đoạn thơ không chỉ mang màu sắc tri thức mà
còn chạm vào trái tim của mỗi bạn đọc. Cách xưng hô thân thuộc cùng sự chọn lọc từ ngữ,
Nguyễn Khoa Điềm đã tạo nên một khúc nhạc hào hùng, tinh tế. “Đất Nước” đã thật sự viết
ra một câu chuyện đẹp với hồi kết sẽ được thế hệ trẻ ghi dấu tiếp.
Với “Tây Tiến” hay “Đất Nước” thì cả hai nhà thơ cũng đều làm nổi bật tinh thần của
thế hệ dân tộc qua từng thời kì khác nhau. Một bên là tinh thần sẵn sàng hi sinh chẳng tiếc
đời mình, một bên là khao khát cống hiến để làm nên đất nước muôn đời. Đặc biệt với cả
hai đều là những thi sĩ rất tài hoa trong cách chọn lọc hình ảnh và ngôn từ gây ấn tượng, góp
phần in dấu ấn của tác phẩm trên thi đàn Việt Nam
Tác phẩm của Quang Dũng tái hiện thời kì đầu của cuộc kháng chiến chống Pháp với
cảm hứng được gợi lên từ nỗi nhớ, thể thơ thất ngôn với cách dùng từ Hán Việt hài hoà
khiến thi phẩm mang âm hưởng trang trọng, hào hùng về sự bất tử trong tinh thần kháng
chiến của những người lính. Còn với “Đất Nước”, đoạn trích của bản trường ca là một khúc
hát đề cao sứ mệnh của cá nhân với cộng đồng, những chiêm nghiệm suy tư sâu sắc về sự
cống hiến, thông qua giọng điệu tâm tình, gần gũi, thi phẩm đã trở thành cầu nối giữa nhà
thơ và bạn đọc về vai trò, trách nhiệm của mỗi cá nhân trong cộng đồng.
Khép lại “Tây Tiến” và “Đất Nước”, ta khép. lại những ý thơ nhưng suy tư của độc
giả sẽ không dừng tại đó. Có thể nói, hai bài thơ đã ghi dấu ấn sâu đậm trong nền văn
chương nước nhà, là sự kết tinh của tiếng lòng, là lời tuyên ngôn cho cảm xúc đúng theo lời
mà Maiacopxki nhấn mạnh: “Trên đời này có những thứ chỉ có thể giải quyết bằng thơ ca”

TÁC PHẨM “SÓNG”


Đề bài: Trong hai khổ thơ đầu của bài thơ “Sóng” (Xuân Quỳnh), nhân vật trữ
tình soi vào sóng để tự nhận thức về tình yêu:
Dữ dội và dịu êm
Ồn ào và lặng lẽ
Sông không hiểu nổi mình
Sóng tìm ra tận bể
Ôi con sóng ngày xưa
Và ngày sau vẫn thế
Nỗi khát vọng tình yêu
Bồi hồi trong ngực trẻ
Đến khổ thơ cuối, tình yêu tan vào sóng để dâng hiến và bất tử:
Làm sao được tan ra
Thành trăm con sóng nhỏ
Giữa biển lớn tình yêu
Để ngàn năm còn vỗ
Cảm nhận của anh/chị về vẻ đẹp tình yêu trong các khổ thơ trên. Từ đó, rút ra
nhận xét về sự vận động của hình tượng sóng và em.
Họ và tên: Nguyễn Thị Yến Thanh
MHV: MV250
Điểm 4.50/5.0

BÀI LÀM
Tình yêu là ánh sáng, nó soi sáng những người cho đi và nhận về. Tình yêu là
trọng lực, bởi vì nó khiến người ta xích lại gần nhau hơn. Tình yêu là sức mạnh, bởi
nó tổng hợp tất cả những thứ tốt nhất mà chúng ta có, cho phép con người không đắm
chìm trong sự ích kỷ mù quáng. Tình yêu gợi mở mọi vấn đề. Tình yêu và nỗi nhớ
thương và cội nguồn cảm hứng cho bao sáng tạo nghệ thuật ra đời. Có lẽ vì vậy, chỉ
qua hai khổ thơ đầu và khổ thơ cuối bài thơ “Sóng”, Xuân Quỳnh đã tạo nên một tác
phẩm làm vang vọng suốt vài thập kỷ nay, trở thành biểu tượng tình yêu của người
phụ nữ qua nhiều cung bậc với những cảm xúc mãnh liệt, dạt dào..
Lại Nguyễn Ân từng có nhận xét rằng: “Từ thời Hồ Xuân Hương qua các
chặng đường phát triển, phải đến Xuân Quỳnh nền thơ ấy mới lại một thi sĩ mà sự
thể hiện trong tâm hồn mới đa dạng đến vậy”. Thơ của người thi sĩ ấy là tiếng lòng
của một tâm hồn phụ nữ nhiều trắc ẩn, vừa hồn nhiên, tươi tắn, vừa chân thành, đằm
thắm và luôn da diết trong khát vọng hạnh phúc đời thường. Thời ấy đa phần thơ
thiên về phản ánh sự kiện xã hội, tâm trạng của tác giả thường là tâm trạng chung của
xã hội, vui buồn của tác giả hòa chung với vui buồn của người dân trong xã hội. Tâm
trạng thơ trong Xuân Quỳnh thì lại khác, những lời thơ của tác giả nảy sinh ra từ
chính những cuộc sống đời thường của tác giả, tuy vẫn không đi xa khỏi dòng chảy
của sự kiện xã hội. Đó là lý do trong cái chung ta cảm nhận được cái riêng tư; trong
cái riêng ta lại thấy cái chung dạt dào. Những câu thơ của Xuân Quỳnh giàu tình cảm
và sự tinh tế nhưng lẩn khuất phía sau những tình cảm ấy là là những tư tưởng có tính
khái quát, triết lý. Đấy là một trong những triết lý được nảy sinh từ đời sống mà bà
chiêm nghiệm ra từ chính những trải nghiệm thiết thực của mình. Xuân Quỳnh viết
nhiều, viết hay về tình yêu và bài thơ “Sóng” được đánh giá là một trong những tác
phẩm đặc sắc nhất trong quá trình cầm bút của tác giả. “Sóng” là kết quả của chuyến
đi thực tế năm 1967 của Xuân Quỳnh tại bờ biển Diêm Điền ,Thái Bình; được in
trong tập thơ ''Hoa dọc chiến hào''. Bài thơ sáng tác giữa những năm kháng chiến
chống Mỹ diễn ra khốc liệt, những cuộc chia ly màu đỏ diễn ra khắp sân trường, góc
phố. Xuân Quỳnh lại viết về một đề tài riêng tư và vĩnh hằng nhất. Chính vì vậy bài
thơ được coi là bông hoa lạ vẫn nở dọc chiến hào giữa những năm tháng chống Mỹ
ác liệt.
Khổ thơ đầu đưa ta đến với cuộc hành trình của sóng – cuộc hành trình tìm về
với biển lớn – đồng thời là chuyến đi khám phá cái tôi đích thực của chính mình:
“Dữ dội và dịu êm
Ồn ào và lặng lẽ
Sông không hiểu nổi mình
Sóng tìm ra tận bể”
Đoạn thơ mở đầu bằng những sắc thái đối lập, giữa ‘’dữ dội’’ và ‘’dịu êm’’,
giữa ‘’ồn ào’’ và ‘’lặng lẽ’’. Những từ ngữ ấy được nối với nhau bởi từ ‘’và’’; cho
thấy rằng đó là hai vẻ đẹp đối lập nhưng lại hòa quyện của con sóng biển khơi. Và
phải chăng nó cũng đồng thời là vẻ đẹp trong tâm hồn người phụ nữ, vừa mang nét
dịu dàng đằm thắm, vừa mang những khát khao cháy bỏng mãnh liệt. Có lúc người
phụ nữ trầm ngâm và tĩnh lặng; có lúc họ lại thật sôi nổi biết mấy... Nhưng có một
điều, nếu thực sự chú ý ta mới nhận ra sự tinh tế trong cách dùng từ của Xuân Quỳnh,
đó là dù ở hai thế cực đối lập nhau, nhưng khép lại ở cuối mỗi câu thơ đều là những
gì rất đỗi dịu êm, lắng sâu. Phải chăng đó cũng là mong muốn của sóng với bến bờ
của mình, luôn luôn hi vọng khao khát được nương mình vào một điểm tựa bình yên.
Ai đó đã nói rằng: “Thế giới thơ ca Xuân Quỳnh là sự tương tranh không ngừng giữa
khắc nghiệt và yên lành với những biểu hiện sống động và biến hóa khôn cùng của
chúng. Ở đó, trái tim thơ Xuân Quỳnh là cánh chuồn báo bão cứ chao đi chao về, mệt
nhoài giữa biến động và yên định, bão tố và bình yên.” Và có lẽ điều ấy được nhìn
thấy rõ ràng nhất qua hai câu thơ mở đầu của thi phẩm “Sóng”. Thơ ca muôn đời viết
về tình yêu, có bao lần đã ngân nga nhịp đập của biển khơi. Thế nhưng, những vần
thơ của Xuân Quỳnh vẫn có những âm điệu riêng biệt. Âm điệu đó đến từ chính cái
đối cực của người con gái khi yêu. Sóng biển đã gọi sóng tình hay sóng biển chính là
yếu tố khơi nguồn cảm xúc trong lòng thi sĩ.Giữa sóng biển và sóng tình có sự tương
đồng, nếu sóng biển biển chứa đựng những trạng thái đối lập thì tâm trạng người con
gái đang yêu cũng có những lúc giận dỗi, hờn ghen, có những lúc yêu thương dịu
dàng đằm thắm:
“Em bảo anh đi đi
Sao anh không đứng lại?
Em bảo anh đừng đợi
Sao anh vội về ngay?”
Và đó, có lẽ cũng là lúc ta nhận ra nét đẹp nữ tính trong thơ Xuân Quỳnh, rằng
chị hay bao nhiêu người phụ nữ khác, dẫu vinh quang tột cùng với ánh đèn, sân khấu
hay con chữ, thì niềm khao khát mãnh liệt nhất, bình dị nhất vẫn là khao khát tìm
được bến đỗ bình yên, bến đỗ hạnh phúc ấm êm mang tên gia đình nhỏ. Đó cũng là
lâu đài mà bất kể người phụ nữ nào đều muốn vun vén, đắp xây. Với hai câu thơ sau
của khổ 1; tác giả đã sử dụng thủ pháp nhân hóa để nhân cách hóa con sóng vốn vô
tri, vô giác, chẳng biết yêu, chẳng biết hờn và mở ra hình ảnh đối lập của “sông’’ -
một khoảng không gian chật hẹp nhưng an toàn, ‘’bể’’ - khoảng trời rộng lớn chứa
đựng rất nhiều thử thách, chông gai mà con sóng sẽ gặp phải. Chúng ta có thể mường
tượng là biển và đại dương dù chảy thể nào, trôi về đâu thì đích cuối cùng sẽ trở về
sông, với quy luật muôn đời: trăm sông đổ về đến biển lớn. Với Xuân Quỳnh, có lẽ
“cứ gì phải sống chung một mái nhà, chia uống một ngụm nước, cùng ngắm một
dòng sông, người ta mới yêu được nhau; tình yêu, nếu thực là tình yêu, thì không có
quê hương, cố quận”. Trong cái lạc lõng của mối tình cũ, trong cái khát vọng tìm
được một nửa của đời mình, những vần thơ ấy ngân vang như hòa với tiếng sóng,
mang mùi hương mênh mang của biển cả, cứ réo rắt mãi trong tâm hồn của người
đọc.
Con sóng ngoài đại dương bao la cồn cào, biển luôn có sóng, sóng luôn là nhịp
đập trong lồng ngực của tuổi trẻ. Sóng mãi trường tồn cùng vũ trụ như trái tim tuổi
trẻ lúc nào cũng rạo rực khao khát yêu và được yêu. Từ đối tượng để cảm nhận, sóng
đã trở thành đối tượng để suy tư:
“Ôi con sóng ngày xưa
Và ngày sau vẫn thế
Nỗi khát vọng tình yêu
Bồi hồi trong ngực trẻ.”
Mở đầu khổ thơ bằng thán từ “ôi”, ngụ ý là từ để cảm thán, dường như một sự
thở dài rất khẽ của thi sĩ khi nhìn về những quy luật bất biến của dòng đời. Con sóng
“ngày xưa” và “ngày sau”, cho dù trải qua xiết bao triều đại thăng trầm lịch sử, cho
dù vượt qua vô vàn sự xô đẩy của mây trời, của bọt biển nhưng sóng vẫn còn đó, vẫn
nguyên vẹn như thuở ban đầu khi còn sơ khai. Xa xưa vẹn nguyên, bây giờ vẫn vậy
và mai sau vẫn thế, vẫn một dáng một khuôn giữ nguyên nét đẹp do mẹ thiên nhiên
ban tặng, không chút đổi thay. Nếu tách ra khỏi quy luật bất biến của đất trời, tôi cho
rằng sóng vẫn thủy chung một lòng vỗ về bờ bến cho dù nằm trong thế bị động mặc
gió cuốn xa khơi hay mặc thủy triều lấn át. Dường như, nhà thơ Xuân Quỳnh sử dụng
nguyên lý đòn bẩy, khát vọng tuổi trẻ cùng tình yêu tựa hồ những đóa hoa lê trắng
điểm xuyết trên phông nền bức tranh thủy mặc mang tên sóng. Nhắm mắt dâng lên
vòng hoa của một đời, chỉ mong rằng tình cảm này muôn đời không đổi. Mộng cảnh
đẹp nhất lưu lại trong sâu thẳm con tim, tình yêu là khát vọng muôn thuở lớn lao,
vĩnh hằng của tuổi trẻ và nhân loại. Xuân Quỳnh đã liên hệ tình yêu tuổi trẻ với con
sóng đại dương. Cũng như sóng, con người đã đến và mãi mãi đến với tình yêu. Đó là
quy luật vạn kiếp muôn đời, vĩnh cửu chẳng đổi dời.
Ở hai khổ thơ đầu nhà thơ muốn diễn tả những đặc điểm tự nhiên của con sóng
để bộc lộ sự đồng điệu trong bản tính của ‘’sóng’’ và ‘’em’’. Cũng như con sóng kia,
trong tim em luôn tồn tại những xúc cảm hỗn độn, đối lập mà thống nhất khi yêu anh.
Có lúc em ghen tuông, giận hờn vô cớ làm anh khó xử, thế nhưng có khi em lại trở về
với vẻ đẹp dịu dàng, e thẹn, duyên dáng làm lòng anh thương. Và em chẳng muốn bó
buộc tình yêu đôi mình trong một khoảng “an toàn’’ mà chật hẹp. Là một người con
gái khao khát tình yêu đích thực; em muốn đi xa, kiếm tìm sâu hơn nữa trong thế giới
tình yêu để cảm nhận, tận hưởng những giá trị thực sự vốn lắm ngọt ngào, say đắm
của thứ mật trần gian mang tên tình yêu lứa đôi mà mấy kẻ hồng trần chạy thoát
được. Đồng thời, qua khổ thơ thứ hai, thi nhân như muốn khẳng định rằng những
cung bậc hỗn độn của trái tim phụ nữ khi yêu và tình yêu rạo rực trong tâm hồn tuổi
trẻ là thứ tồn tại và song hành mãi với thời gian, điều đó sẽ chẳng bao giờ thay đổi.
“Mỗi một bài thơ đều chứa đựng một tâm hồn. Tâm hồn của người đã viết nên
nó, của những người đã đọc, sống và mơ ước cùng nó. Vì thế nên chẳng phải ngẫu
nhiên mà Anatole France từng viết: “Đọc một câu thơ nghĩa là ta đã bắt gặp một tâm
hồn con người.” Phải chăng vì thế mà khi đến với khổ thơ cuối cùng của “Sóng” tôi
như cảm nhận được những rung động thường trực và khao khát mạnh mẽ của nữ sĩ
Xuân Quỳnh. Nếu như Xuân Diệu sinh thời đã viết về khát khao được yêu ngay cả
khi về miền cực lạc: "Khi chết rồi thì tôi sẽ yêu ma" thì Xuân Quỳnh bằng " Sóng" đã
mạnh dạn nói lên ước vọng:
" Làm sao được tan ra
Thành trăm con sóng nhỏ
Nơi biển lớn tình yêu
Để ngàn năm còn vỗ..."
Bốn câu thơ khép lại bài thơ “Sóng” là khát vọng mãnh liệt của nhà thơ Xuân
Quỳnh. Đó là khao khát muốn mình “được tan ra” thành “trăm con sóng nhỏ”. Có lẽ
Xuân Quỳnh đã nhận ra một chân lý bất biến: Sóng chỉ thực sự là sóng khi nó hòa
chung vào muôn điệu của đại dương bao la; như “em” chỉ thực sự sống cuộc đời có ý
nghĩa khi hòa nhịp vào với tiếng gọi chung của đất nước. Tình yêu của con người,
nếu chỉ biết giữ cho riêng mình thì sẽ tàn phai theo năm tháng và dần trôi vào quên
lãng trong dòng chảy hư vô của thời gian; tình yêu sẽ chỉ bất tử khi nó được hòa vào
biển lớn của tình yêu nhân loại. Từ “trăm” khiến cho con sóng của nhân vật trữ tình
bỗng trở nên thật bé nhỏ. Ở những khổ thơ trước, sóng mãnh liệt và sắc nét đến bao
nhiêu, thì ở đây, sóng lại như mờ nhòa bấy nhiêu. Thế nhưng, đó không phải là sự tan
biến – mà ngược lại, đó là tinh thần cống hiến để biến tình yêu thành bất diệt; để vĩnh
cửu hóa cái hữu hạn của thời gian, của cuộc đời. Những con sóng nếu tách biệt, sẽ
dần bị quên lãng; nhưng ngược lại nếu chọn cách cống hiến, sẽ được ở lại mãi mãi
với biển khơi mà thủ thỉ câu chuyện ngàn sau. Với "sóng", với "em", đó là cách duy
nhất để trường tồn mãi mãi với thời gian, để tình yêu vẫn sẽ luôn ở lại. Nhà thơ đã thể
hiện một khát vọng mãnh liệt muốn làm trăm con sóng để hòa mình vào đại dương
bao la, hòa mình vào biển lớn tình yêu để một đời vỗ muôn điệu yêu thương “Để
ngàn năm còn vỗ”. Phải chăng đó là khát vọng muốn bất tử hóa tình yêu của nữ sĩ
Xuân Quỳnh – một khát vọng mãnh liệt, tha thiết của người phụ nữ với trái tim hồn
hậu, chân thành, giàu trực cảm. Đặt trong bối cảnh cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu
nước đang diễn ra vô cùng khốc liệt, ta hiểu rằng dù khao khát cá nhân tìm kiếm tình
yêu lứa đôi, Xuân Quỳnh vẫn dặn mình – dặn người về sứ mệnh và nghĩa vụ thiêng
liêng của mỗi người trẻ đối với đất nước; rằng mỗi chúng ta đều phải cố gắng cống
hiến cho dáng hình xứ sở muôn đời, như cách con sóng nhỏ kia hòa cùng biển lớn.
Dường như, Xuân Quỳnh đã mượn cái riêng để nói về cái chung, đã mượn tình yêu
lứa đôi để khẳng định sức mạnh muôn đời, bất biến của tình yêu đất nước, tình yêu
cộng đồng... Nữ thi sĩ không phủ nhận tình yêu đôi lứa, bà thậm chí còn coi đó là
điểm tựa để từ đó – tình yêu Tổ quốc càng thêm rực rỡ sáng tỏ, mạnh mẽ trường tồn
dù tháng năm có vô tình.
Napoleon đã từng nói: “Trên thế giới có hai loại sức mạnh: thanh gươm và cây
bút. Thanh gươm thì đoạt thành chiếm đất, cây bút thì chinh phục lòng người. Rốt
cuộc, cây bút mạnh hơn thanh gươm”. Và cây bút của nữ sĩ Xuân Quỳnh cũng đã
thành công chinh phục lòng người bằng những quan niệm mới mẻ, độc đáo về tình
yêu của mình. Quan niệm ấy vừa mang vẻ đẹp truyền thống, vừa mang vẻ đẹp hiện
đại của người phụ nữ trong tình yêu. Trước hết, đó là một tình yêu son sắt, thuỷ
chung với những nỗi nhớ nhung da diết sâu đậm luôn thường trực
“Nhớ ai nhớ mãi thế này?
Nhớ đêm quên ngủ, nhớ ngày quên ăn”.
Đó chính là nét đẹp truyền thống của người phụ nữ Việt Nam. Cái tài khéo léo
của Xuân Quỳnh còn được đặc biệt thể hiện trong cách tinh tế đưa thêm những nhận
xét hiện đại vào bức tranh thơ tình yêu của mình. Khác với người phụ nữ xưa, Xuân
Quỳnh đã đến với tình yêu một cách đầy tự tin và chủ động, khát khao mãnh liệt tìm
đến một tâm hồn đồng điệu, có thể sẻ chia, tìm đến một khung trời tình yêu cao cả,
bao dung. Nếu đúng như cách nói của Nguyễn Duy thì trên văn đàn, người đọc có thể
bắt gặp vô số lời ca và tiếng hát như thế.
"Mây trôi bằng gió của trời
Là ta, ta hát những lời của ta"
Trong khúc ca về tình yêu muôn đời, thấy bóng dáng ai kia như là nữ sĩ Xuân
Quỳnh. Trên dàn đồng ca rạo rực ấy, giai điệu về tình yêu trong thơ Xuân Quỳnh vẫn
có âm vực riêng.
Trong thế giới văn chương, sóng là một hình tượng động, bất biến, thường
được các nhà thơ chọn làm thi liệu biểu tượng cho tình yêu. XQ chọn sóng như một
biểu trưng cho tâm hồn người con gái khi yêu – với đầy những lo âu, trăn trở và
những khát khao đầy mạnh mẽ, chủ động. "Sóng" và "em" luôn đi đôi, sánh cặp với
nhau. Sóng là em mà em cũng là sóng. Sóng và em hòa quyện vào nhau, có lúc khiến
ta không nhận ra đâu là em đâu là sóng; nhưng có lúc lại tách ra, soi chiếu vào nhau,
tôn lên những vẻ đẹp đa dạng, phong phú. Ở hai khổ thơ đầu: mới chỉ thấy “sóng”,
hình tượng “em” chưa xuất hiện một cách trực tiếp. Sau đó: “sóng” và “em” song
hành – sóng đôi với nhau để khẳng định những khát khao của từng đối tượng, đồng
thời soi chiếu vẻ đẹp của nhau. Nhân vật trữ tình đã soi vào sóng để nhận thức về tình
yêu của mình Đến cuối: “sóng” và “em” đã hòa vào làm một, những con sóng tự
nhiên cũng chính là những con sóng lòng khắc khoải yêu thương.
Trong mưa bom đạn đạo của cuộc kháng chiến chống Mỹ, bài thơ “Sóng” hiện
lên như một bông hoa rực rỡ. Giữa lúc cuộc kháng chiến chống Mỹ đang nước sôi lửa
bỏng, văn học thời đại thường mang âm vang cảm hứng anh hùng ca, ca ngợi chủ
nghĩa anh hùng thì “Sóng” dường như nói về tình yêu thuần tuý, đời thường. Vẻ đẹp
trong bài thơ đẹp như một “Bông hoa nở dọc chiến hào”. Trích đoạn thơ trên là sự kết
hợp nhuần nhuyễn giữa hình tượng “sóng” và hình tượng “em” – cái tìm tòi nghệ
thuật độc đáo của Xuân Quỳnh. Thể thơ năm chữ ngắt nhịp liên tiếp đã tạo nên nhịp
điệu của những con sóng biển lúc dạt dào sôi nổi, lúc sâu lắng chạy dài suốt bài thơ.
Với kết cấu hình tượng độc đáo, giọng điệu sôi nổi, nồng nàn, ngôn ngữ hình ảnh
giản dị, tinh tế, đoạn thơ là lời tự bạch tâm hồn của người phụ nữ với những trạng
thái tâm lý phức tạp khó hiểu và nỗi nhớ người yêu da diết. Cái đáng quý nhất là tình
yêu trong thơ Xuân Quỳnh luôn hướng tới hòa nhập với tình yêu trong cuộc đời và
tình yêu lớn của nhân loại. Thơ của Xuân Quỳnh khai thác hai mặt đối lập bên trong
tâm trạng của người đang yêu: vừa say đắm lại vừa suy tư, rộng hơn là mối quan hệ
giữa thiên nhiên và con người trong việc mượn hình tượng sóng để biểu hiện tình
yêu.
Hôm nay Xuân Quỳnh đã đi xa. Nắng gió và nhịp đập biển khơi vẫn tuần hoàn
vô sự lướt qua trên cõi đời này, thơ Xuân Quỳnh cũng vang vọng theo năm tháng.
Đến với “Sóng” là một lần ta hiểu thêm về tính nữ làm con sóng yêu của Xuân
Quỳnh thánh thiện, đến với “Sóng” là một lần nghe người “tự hát” về cuộc đời và
tình yêu tha thiết. Xin được đọc lại một chút thơ của nữ thi sĩ trong niềm trân trọng
và tưởng nhớ:
“Trời xanh trên mái nhà
Trời xanh ngoài biển gió
Anh ạ, quê chúng mình
Xuân đã về trước ngõ”.
Mỗi một bài thơ đều chứa đựng một tâm hồn. Tâm hồn của người đã viết nên
nó, của những người đã đọc, sống và mơ ước cùng nó. Cầm trên tay thi phẩm của
Xuân Quỳnh, tôi như cảm nhận được những rung động thường trực của người nữ sĩ
ấy. Thấy rực cháy trong mình khát khao về một tình yêu muôn thuở như thi nhân dạo
nào.
Đề bài:
Cùng khắc họa khao khát được cống hiến cho quê hương, mỗi nhà thơ lại có một cách
biểu đạt riêng đầy xúc cảm. Trong chương “Đất Nước” – trích trường ca “Mặt đường
khát vọng”, nhà thơ Nguyễn Khoa Điềm viết:
“Và ở đâu trên khắp ruộng đồng gò bãi
Chẳng mang một dáng hình, một ao ước, một lối sống ông cha
Ôi Đất Nước sau bốn nghìn năm đi đâu ta cũng thấy
Những cuộc đời đã hóa núi sông ta...”
Còn trong thi phẩm “Sóng”, nữ thi sĩ Xuân Quỳnh lại bộc bạch:
“Làm sao được tan ra
Thành trăm con sóng nhỏ
Giữa bể lớn tình yêu
Để ngàn năm còn vỗ.”
Anh chị cảm nhận gì về hai đoạn thơ trên?
Họ và tên: Phạm Ngọc Huyền
MHV: K23345
Điểm: 4.75/5.0

BÀI LÀM
Bàn về sứ mệnh của người nghệ sĩ trong văn chương Thạch Lam từng chia sẻ: “Công
việc của nhà văn là phát hiện ra cái đẹp ở chỗ không ai ngờ tới”. Nhà văn Macxen Pruxt thì
cho rằng: “ Một cuộc thám hiểm thực sự không phải ở chỗ cần một vùng đất mới mà cần
một đôi mắt mới. Văn chương luôn đòi hỏi người cầm bút tìm ra những điều mới và không
ngừng sáng tạo. Thế nhưng, Nguyễn Khoa Điềm và Xuân Quỳnh đã thổi hồn khát vọng
được cống hiến cho quê hương qua bài thơ “Đất Nước” trích “Trường ca mặt đường khát
vọng” và thi phẩm “Sóng”. Viết về đề tài quen thuộc nhưng mỗi nhà thơ biến hóa lời thơ
của mình theo một cách riêng đầy cảm xúc. Nếu Nguyễn Khoa Điềm đưa ra tư tưởng Đất
Nước của Nhân Dân và việc định nghĩa Đất Nước đã thể hiện “Đất nước nhân dân” qua đó
mỗi người trẻ cần biết cống hiến cho việc xây dựng Tổ quốc. Thì Xuân Quỳnh gợi nhắc
chúng ta vĩnh cửu hóa tình yêu góp phần cho sự giàu đẹp của Đất nước, tiêu biểu qua hai
đoạn thơ:
“Và ở đâu trên khắp ruộng đồng gò bãi
Chẳng mang một dáng hình, một ao ước, một lối sống ông cha
Ôi Đất Nước sau bốn nghìn năm đi đâu ta cũng thấy
Những cuộc đời đã hóa núi sông ta...”
Còn trong thi phẩm “Sóng”, nữ thi sĩ Xuân Quỳnh lại bộc bạch:
“Làm sao được tan ra
Thành trăm con sóng nhỏ
Giữa bể lớn tình yêu
Để ngàn năm còn vỗ.”
Nhà thơ Nguyễn Khoa Điềm là người nghệ sĩ tiêu biểu trong thời kì kháng chiến
chống Mỹ. Ông trực tiếp tham gia cuộc chiến nên lời thơ rất chân chất, giàu tính chiêm
nghiệm kết hợp giữa trữ tình và tư duy của một người tri thức. Người nghệ sĩ ấy khắt khe
với những tác phẩm của mình, dù viết về đề tài quen thuộc vẫn có lối đi riêng. Điều này
được thể hiện qua đoạn trích “Đất nước” trích “ Trường ca mặt đường khát vọng”. Tác
phẩm được viết tại chiến trường bình - trị - thiên năm 1971 khi mà Đất Nước đang sống
những ngày tháng mưa bom bão đạn của cuộc kháng chiến chống Mỹ. Đoạn trích “Đất
nước” thuộc chương V của trường ca, được coi là đoạn trích thành công nhất của nhà thơ.
Tác giả viết để đánh thức tuổi trẻ đô thị vùng tạm chiếm miền Nam sẵn sàng hòa nhịp với
cuộc chiến đấu chống Mỹ. Kết hợp tinh tế với chất liệu dân gian, Nguyễn Khoa Điềm đã
làm nổi lên tư tưởng “Đất nước Nhân dân” từ đó mỗi người đọc nhận thức trách nhiệm của
mình với Đất Nước.
Nghĩ về Đất Nước, mỗi người lại có những suy nghĩ khác nhau, nhà thơ Nguyễn
Khoa Điềm cũng vậy! Ông đã tự đặt ra những câu hỏi “Đất nước có tự bao giờ”, “Đất nước
là gì?” Sau đó, tự đi tìm câu trả lời cho băn khoăn ấy. Từ đó, nhà thơ khẳng định một tư
tưởng về quan hệ gắn bó thiên nhiên và con người, giữa Đất Nước, Nhân Dân. Những người
con Đất Việt đã làm nên tấm bản đồ địa lý cho Đất Nước, qua đây tư tưởng “ Đất Nước
Nhân Dân” được làm rõ:
“Và ở đâu trên khắp ruộng đồng gò bãi
Chẳng mang một dáng hình, một ao ước, một lối sống ông cha
Ôi Đất Nước sau bốn nghìn năm đi đâu ta cũng thấy
Những cuộc đời đã hóa núi sông ta...”
Thiên nhiên Việt Nam giữa lăng kính của nhà thơ hiện lên một phần máu thịt của
nhân dân. Nghệ sĩ họ Nguyễn không đề cập đến địa danh cụ thể, tác giả chỉ nói đến điều
bình dị mà ai cũng quen thuộc “ ruộng đồng”. Thế nhưng, có lẽ mảnh đất ấy tuy không tên,
không tuổi ấy vậy ai cũng biết tới nó, không to lớn mà lại quá thân thuộc trong trái tim mỗi
người. Hình ảnh những thửa ruộng bạt ngàn lúa chín, lom khom vài người dân đang tần tảo
với công việc đồng áng của mình. Qua đó, ta thấy được vẻ đẹp bao đời của người dân Việt
Nam. Cấu trúc “ Và ở đâu”, “chẳng mang” bộc lộ giọng thơ mạnh mẽ, quả quyết về sự hóa
thân của mỗi người dân làm giàu cho mảnh đất quê hương. Mỗi tâm hồn người dân Việt đã
làm nên “một dáng hình” cho Tổ quốc thân yêu. Hình hài của Đất Nước hôm nay đều được
người dân thổi hồn bằng những khát vọng, giấc mơ, lí tưởng và lối sống qua nhiều thế hệ.
Bởi lẽ, nếp sống của nhân dân đã ảnh hưởng đến lí tưởng, dòng chảy lịch sử và đặt nền
móng cho truyền thống văn hóa của Tổ quốc thân yêu. Không phải một vị anh hùng chỉ là
những con người bình thường nhưng qua cái nhìn của nhà thơ mỗi cá nhân đã tạo nên tấm
bản đồ cho dân tộc, từng rừng núi, cây cỏ, mảnh đất quê hương đều có bóng hình của chúng
ta. Dù là nhỏ bé hay to lớn thì mọi nẻo đường ấy luôn hiện lên tâm hồn của nhân dân. Dấu
ba chấm kết thúc cho đoạn thơ mở ra suy tưởng mênh mông cho độc giả. Ngôn từ bộc lộ
cảm xúc nhưng dòng chảy của trái tim đang rung động miên man không thể viết nên thành
lời. Qua đó, mỗi người đọc sẽ ý thức được sứ mệnh của mình với đất nước. Chất thơ “ trữ
tình triết luận” của Nguyễn Khoa Điềm đánh thức bao suy nghĩ dường như đã ngủ quên để
không chỉ các thanh niên bây giờ mà cả hiện tại, tương lai đều nhận thức được trách nhiệm
to lớn của mình.
Cùng với Nguyễn Khoa Điềm, Xuân Quỳnh cũng là nhà thơ tiêu biểu trong cuộc
kháng chiến chống Mỹ. Nữ thi sĩ luôn trăn trở khao khát về một hạnh phúc đời thường. Thơ
của chị luôn chan chứa tình cảm với nhiều cung bậc cảm xúc, còn là tiếng lòng của người
phụ nữ nhiều trắc ẩn nhưng vẫn hồn nhiên và luôn da diết tìm tình yêu của cuộc đời mình.
Điểm nổi bật trong tiếng thơ của Xuân Quỳnh là luôn khơi gợi những cảm xúc trong sâu nội
tâm. Thi phẩm “Sóng” là minh chứng cho điều đó. Bài thơ được viết vào năm 1997, in
trong tập “Hoa dọc chiến hào” thể hiện khát vọng tình yêu của người phụ nữ. Tuy sự tàn
khốc của chiến tranh đã ăn mòn đi tâm hồn của nhiều người, vần thơ Xuân Quỳnh cất lên
khơi gợi đến chiều sâu cảm xúc, từ đó mỗi người cống hiến hết mình cho đất nước.
Khát vọng tình yêu luôn rực cháy trên ngực trẻ nhưng nó sẽ chết nếu ta cố giữ nó
mà không cống hiến cho đời. Xuân Quỳnh luôn khao khát về tình yêu nhưng không vì thế
mà chị cho rằng nó “ Tình yêu là sự ích kỷ hay chiếm hữu”. Chúng ta hãy vĩnh cửu hóa tình
yêu. Hòa quyện nó với cái chung của dân tộc.
“Làm sao được tan ra
Thành trăm con sóng nhỏ
Giữa bể lớn tình yêu
Để ngàn năm còn vỗ”.
Nhà thơ Xuân Diệu đã từng viết: “ Yêu là chết trong lòng một ít/ Bởi mấy khi yêu mà
chắc được yêu”. Tình yêu có được không hề dễ dàng nhưng Xuân Quỳnh nguyện một lòng
để được cống hiến tình yêu của mình cho đời. Hai từ “Làm sao” kết hợp với “ được” như
một lời chân thành nguyện dâng hiến tình yêu không hề gượng ép bắt buộc. Cặp từ đối
nghịch “ Sóng nhỏ - Bể lớn” ta thấy được tình yêu thật nhỏ bé khi đứng giữa cuộc đời. Tác
giả thể hiện khát khao của mình qua từ chỉ số lượng “ Trăm”. Từng đợt sóng cứ mạnh mẽ
“Muốn tan ra” để hòa mình vào nhịp điệu của dòng nước. Cũng như người phụ nữ muốn
tình yêu của mình được mãi với cuộc đời. Hai câu thơ cuối như hoàn thiện khát vọng mãnh
liệt của thi nhân hòa mình vào bao la của biển trời, để tình yêu này sẽ mãi vỗ ra những đợt
sóng dịu dàng, mang đến những khát khao tình yêu và niềm hạnh phúc cho đất nước, cho
cuộc đời. Đặt trong bối cảnh cuộc kháng chiến chống Mỹ những tình cảm cá nhân cất gọn
trong vùng sâu của trái tim nhưng tiếng thơ của Xuân Quỳnh vẫn cất lên đi sâu vào nội tâm
của con người. Chúng ta yêu nhưng không hề ích kỉ. Chị viết lên khát khao tình yêu để dặn
dò người trẻ hãy vẫn sống với những cảm xúc của chính mình. Lấy những tình cảm ấy cống
hiến cho cuộc sống, cho đất nước làm đẹp cho bóng dáng của xứ sở giống Nguyễn Khoa
Điềm đã viết:
“ Khi hai đứa cầm tay
Đất Nước trong chúng mình hài hòa nồng thắm
Khi chúng ta cầm tay mọi người
Đất nước vẹn tròn, to lớn”

Thi phẩm “Sóng” và đoạn trích “Đất nước” đều ra đời trong thời kì kháng chiến
chống Mỹ. Cả hai nhà thơ đều muốn khơi gợi nhận thức của người trẻ về sứ mệnh của bản
thân với Đất nước. Với giọng văn triết lý, ngôn từ mộc mạc, giản dị. Nhà thơ Nguyễn Khoa
Điềm làm nổi bật lên tư tưởng “ Đất nước Nhân dân” để mỗi chúng ta hiểu được đất nước
có trong tâm hồn, chúng ta làm nên đất nước. Qua đó nhận thức trách nhiệm của mình. Còn
với thi sĩ Xuân Quỳnh chị đi sâu vào thế giới nội tâm và đi nhắc nhở mỗi người phải biết
hóa tình yêu tô điểm cho đất nước.
Đoạn trích “Đất nước” và thi phẩm “Sóng” đã khơi gợi mọi cảm xúc người trẻ qua
mọi thế hệ về trách nhiệm cống hiến cho Tổ quốc. Qua đó, mỗi người ý thức được bản thân
của mình. Nguyễn Khoa Điềm và Xuân Quỳnh là những nghệ sĩ tài năng, mỗi người đều
đánh thức bao ấn tượng đã ngủ quên trong lòng độc giả.
TÁC PHẨM KỊCH “HỒN TRƯƠNG BA DA HÀNG THỊT”
Đề bài: Đọc đoạn trích sau:
(Hồn Trương Ba bần thần nhập lại vào xác hàng thịt. Trên sân khấu, nhân vật
Trương Ba biến đi. Chỉ còn lại xác hàng thịt mang hồn Trương Ba ngồi lặng lẽ
bên chõng... Vợ Trương Ba vào.)
Vợ Trương Ba: Cái Gái chưa về hả ông?
Hồn Trương Ba: (thẫn thờ) Chưa.
Vợ Trương Ba: Nó sang nhà cu Tị từ sớm. Cu Tị bị ốm nặng.
Hồn Trương Ba: Ốm nặng? Vậy mà tôi không biết!
Vợ Trương Ba: Ông bây giờ còn biết đến ai nữa? Cu Tị ốm thập tử nhất sinh, từ đêm qua
tới giờ bắt đầu mê man, mẹ nó khóc đỏ con mắt. Khổ! Thằng bé ngoan là thế! Cái Gái
thương bạn, ngơ ngẩn cả người... Không hiểu thằng bé có qua khỏi được không, khéo mà...
(một lát) Cái thân tôi thì sao trời lại không bắt đi cho rảnh!
Hồn Trương Ba: Sao bà lại nói thế?
Vợ Trương Ba: (nghĩ ngợi) Tôi nói thật đấy... ông Trương Ba ạ, tôi đã nghĩ kĩ: Có lẽ tôi
phải đi...
Hồn Trương Ba: Đi đâu?
Vợ Trương Ba: Chưa biết! Đi cấy thuê làm mướn ở đâu cũng được... đi biệt... (rưng rưng).
Để ông được thảnh thơi... với cô vợ người hàng thịt...Còn hơn là thế này... (khóc)
Hồn Trương Ba: Bà! (sau một hồi lâu) Sao lại đến nông nỗi này?
Vợ Trương Ba: Tôi biết, ông vốn là người hết lòng thương yêu vợ con… Chỉ tại bây giờ...
(khóc) ông đâu còn là ông, đâu còn là ông Trương Ba làm vườn ngày xưa, ông biết không:
Thằng Cả đã quyết định dứt khoát sẽ bán khu vườn để có tiền mở thêm vốn liếng cửa hàng
thịt.
Hồn Trương Ba: Thật sao? Không được!
Vợ Trương Ba: Ông bảo không được nhưng tôi biết rồi sự thể sẽ cứ dẫn đến như vậy, ông
sẽ đành ưng chịu như vậy... Thôi tùy ông, tôi chỉ muốn ông được thảnh thơi sung sướng...
Tôi không còn giúp gì ông được, tốt nhất là... là.. không có tôi nữa, cũng như không có khu
vườn nữa! (bỏ ra)
Hồn Trương Ba: Bà! (ngồi xuống, tay ôm đầu).
(Trích “Hồn Trương Ba, da hàng thịt” – Lưu Quang Vũ)
Phân tích đoạn trích trên từ đó nhận xét bi kịch của nhân vật Trương Ba.
Họ và tên: Tạ Phương Quý
MHV: MV439
Điểm: 4.75/5.0

BÀI LÀM
Nhà văn Nam Cao đã từng trăn trở: “Đau đớn thay cho những kiếp sống muốn cất
cánh bay cao nhưng lại bị cơm áo ghì sát đất”. Quả thực, số phận bi thương của con người
luôn là đề tài mà các ngòi bút chân chính hay hướng đến. Không chỉ dừng lại ở những bi
kịch bên ngoài, nhiều tác phẩm còn đi sâu vào bi kịch bên trong với những mâu thuẫn, trái
ngang đến tột cùng. Nổi bật trong ấy phải kể đến tác phẩm “Hồn Trương Ba - da hàng thịt”
của tác giả Lưu Quang Vũ. Câu chuyện xoay quanh nhân vật Trương Ba với bi kịch “hồn
này xác nọ”, khi được sống nhờ trên thân xác người khác, không được là chính mình. Rắc
rối và đau khổ, đỉnh điểm nhất là trong đoạn đối thoại giữa Trương Ba với vợ. Vợ ông cho
rằng ông đã thay đổi, kiên quyết bỏ đi khiến ông càng thêm thấm thía bi kịch của chính
mình.
Lưu Quang Vũ không chỉ là một nhà thơ với “tiếng thơ nhẹ nhàng mà sâu” như
Hoài Thanh từng nhận định. Ông còn là một nhà soạn kịch tài ba nức tiếng với hàng chục
các tác phẩm để đời. Kịch của ông chính là sự hòa quyện giữa hai yếu tố: sự lãng mạn, bay
bổng trong thơ ca và kết hợp với tính phê phán hiện thực sâu sắc. Có thể nói, kịch của Lưu
Quang Vũ là những khúc ca song hành với thời đại, vì mỗi tác phẩm đều chứa đựng những
triết lý nhân sinh sâu sắc. Dù ở bất cứ thời đại nào, chúng ta đều có thể soi chiếu mình trong
từng lời thoại, từng nhân vật trong vở kịch mà ông đem đến. Giống như bi kịch sống “bên
trong một đằng bên ngoài một nẻo” của nhân vật Trương Ba trong tác phẩm “Hồn Trương
Ba - da hàng thịt”, ai nấy đều phải lặng một khoảng suy nghĩ về cách sống của mình. Tác
phẩm được nhà soạn kịch viết vào năm 1981, công bố khán giả năm 1984. Đây được coi là
một dấu ấn lớn, một tác phẩm đỉnh cao của tác giả. Vở kịch lấy cảm hứng từ một cốt truyện
dân gian, song nhà văn có sự đổi mới khi thay phần kết của cốt truyện thành sợi dây mở
đường cho một loạt bi kịch xảy ra liên tiếp với nhân vật, đó là Trương Ba.
Đầu tiên phải kể đến nhân vật Trương Ba, ông vốn là một người nông dân hiền lành,
đức độ, được mọi người quý mến. Không những yêu thương vợ con, nho nhã, lịch sự, ông
còn là một “cao cờ”. Những nước cờ của ông sắc bén, linh hoạt, họa chăng chỉ có Đế Thích
trên trời mới giải vây được. Tưởng rằng ông sẽ có một cuộc sống hạnh phúc, bình yên với
gia đình trong suốt quãng đời còn lại, ấy thế mà, chỉ vì một sai sót của Thiên đình, khi Nam
Tào, Bắc Đẩu vội đi chơi gạch bừa tên ông khiến ông phải chịu cảnh chết oan. Câu chuyện
còn nghịch lý hơn khi để bù đắp cho sai lầm ấy, hồn ông được cho sống lại và trú ngụ vào
xác anh hàng thịt. Từ đây, ông phải sống cuộc sống “hồn này xác nọ” đầy bất cập và khổ
sở. Linh hồn cao khiết của ông bị những cám dỗ, những dung tục đời thường dần làm vấy
bẩn. Dù ông luôn kiên quyết cho rằng mình vĩnh viễn không thể vẩn đục nhưng sự thay đổi
của ông vẫn bị những người thân thiết bên mình nhận ra. Ngay cả vợ ông - người đi cùng
ông gần cả cuộc đời, người hiểu ông nhất cũng không thể tiếp tục chấp nhận ông được nữa.
Vợ Trương Ba đã từng đau đớn một lần khi tự tay chôn cất ông nên bà rất vui mừng
khi hồn ông được quay lại, tuy nhiên, sự vô tâm, hời hợt của ông bây giờ khiến bà không
khỏi hờn trách, tủi thân vô cùng. Khi bà nói rằng Cu Tị bị ốm nặng, tưởng rằng đáp trả đó là
một lời quan tâm, hỏi han sức khỏe thằng bé vì thằng bé trước đây ông luôn yêu thương hết
mực. Ấy thế mà giờ ông còn chẳng biết. Bà đau đớn: “Ông bây giờ còn biết đến ai nữa?”.
Câu nói cất lên như cắt vào da thịt. Có lẽ, bà đã phải chịu đựng sự thay đổi của ông đã từ lâu
nhưng chưa nói ra thành lời. Người đàn bà ấy phải chấp nhận chồng mình trong thân thể
người khác, một người mang thân hình to lớn, thô kệch, dẫu cho tâm trí tin rằng đó là chồng
mình nhưng đôi mắt khó mà hình dung. Hơn thế nữa, cái thân xác kia cũng có một gia đình
khác, ông vẫn phải ở chung với vợ anh hàng thịt để cân đều đôi bên. Liệu rằng người phụ
nữ nào đủ bao dung để chấp nhận chuyện đó? Nhưng biết phải làm sao khi rơi vào hoàn
cảnh ró le như vậy? Nghĩ đến đây, vợ Trương Ba không khỏi tủi thân, tủi phận, chỉ biết
trách móc, hờn dỗi trong vô vọng: “Cái thân tôi thì sao trời không bắt đi cho rảnh!”, bà
hờn ghen “Để ông được thảnh thơi…với cô vợ người hàng thịt…”, “tôi chỉ muốn ông được
thảnh thơi sung sướng…”. Phải chăng nỗi đau mất chồng cũng không đau đớn bằng nhìn
chồng mình ngày càng xa cách? Có lẽ là vậy nên bà quyết định ra đi để giải thoát khỏi
những ấm ức, vướng bận trong lòng.
Khi Trương Ba hỏi bà: “Đi đâu?”, bà cũng chưa biết nhưng bà tin ra đi là giải pháp
tốt nhất cho cả bà và Trương Ba. “Có lẽ tôi phải đi…”, có lẽ bà cũng không muốn rời khỏi
nơi bà đã gắn bó, rời xa cuộc sống mà cả hai đã xây dựng, nhưng đây là cách duy nhất bà có
thể làm. Những hành động ngắn gọn như “rưng rưng”, “khóc” đã bộc lộ cảm xúc trăm nỗi
suy tư của bà lúc này, bà đau khổ như chạm đến chân tường của tuyệt vọng. Bà muốn “đi
biệt” “còn hơn là thế này”. Đương nhiên bà biết con người con người ông vốn là một người
tốt, yêu thương vợ con hết mực nhưng có lẽ vì thế mà bà nhận ra sự thay đổi của ông rõ hơn
ai hết. Đối diện với Trương Ba, bà thẳng thắn mà nói sự thật với ông rằng: “Ông đâu còn là
ông, đâu còn là ông Trương Ba làm vườn ngày xưa”. Sự né tránh và bất lực của chồng
mình, từng lời nói, từng cử chỉ khiến bà càng thêm dứt khoát. Con người chúng ta sức chịu
đựng của ai đều có giới hạn, giống như sợi dây nếu ta cố kéo căng quá thì nó sẽ đứt. Chắc
hẳn, lựa chọn ra đi với bà là một điều sớm muộn sẽ xảy ra. Khi Trương Ba không nhận ra
bản thân ông đang dần tha hóa. Vợ Trương Ba kiên quyết “Tôi không giúp gì cho ông được,
tốt nhất là…là…không có tôi nữa, cũng như không có khu vườn nữa”, bà chấp nhận từ bỏ
tất cả. Dường như không còn gì có thể níu kéo được sự ra đi của bà lúc này, Trương Ba giờ
có hối hận, có nhận ra, mong bà ở lại cũng không được nữa rồi.
Trong suốt đoạn đối thoại với vợ mình, Trương Ba dường như đã thấm thía sâu sắc
nỗi bi kịch của bản thân ông. Đứng trước những lời than trách của vợ mình, ông chỉ đáp trả
bằng những câu hỏi ngược ngắn và vô nghĩa: “Sao bà lại nói thế?”, “đi đâu?”, “Sao lại
đến nông nỗi này?”. Dường như, ông cũng ý thức về sự vô tâm đang dần lấn át con người
ông nhưng không biết làm sao để thay đổi. Ông không biết đáp trả vợ mình như thế nào.
Ông cũng không biết đối diện với sự thật ra sao. Từng là một ông lão được mọi người
ngưỡng mộ, gia đình yên ấm, vợ con yêu thương, thế mà không ngờ có một ngày tất cả mọi
thứ đều sụp đổ. Ông không biết rằng thằng cháu ông yêu quý trước đây đang phải trải qua
“thập tử nhất sinh”, ông không biết thằng Cả đang định bán khu vườn để mở thêm vốn liếng
cửa hàng thịt, ông cũng không biết vợ ông đã phải chịu đựng khổ sở dày vò thế nào khi chấp
nhận “ông mà không phải ông” trong suốt một thời gian như thế. Liệu rằng ông có còn là
ông nữa không? Một ông Trương Ba vô tâm, hời hợt như thế. Khi người vợ dứt tay ông bỏ
đi, ông chỉ biết ngồi xuống tay ôm đầu rồi thốt lên tiếng đau đớn: “Bà!”. Sự bất lực trước
nỗi bi kịch của mình khiến ông chỉ có thể làm được như vậy. Đến cả can đảm chạy theo
khuyên vợ ông cũng không có nữa. Giờ đây, sự giày vò trong tâm can ông như đẩy đến tột
cùng.
Bi kịch chỉ xảy ra khi nhân vật mâu thuẫn với hoàn cảnh sống, Trương Ba không
những phải đối mặt bi kịch sống “bên trong một đằng bên ngoài một nẻo” mà thêm vào đó
còn là bi kịch của việc làm tổn thương các thành viên trong gia đình. Trong đoạn trích, Lưu
Quang Vũ dựng lên màn đối thoại giữa nhân vật Trương Ba và vợ hết sức chân thực, qua
đó, ta thấy rõ được sự đau khổ, tổn thương mà vợ ông phải chịu đựng, đến mức cuối cùng là
lựa chọn ra đi, chính bản thân Trương Ba cũng bất lực trước hoàn cảnh đó. Ông đã bị chi
phối bởi cái xác thịt “âm u đui mù” mà ông khinh ghét, ngày càng dấn thân vào vũng lầy
của chính mình tạo ra.
Bằng tài năng và ngòi bút sắc sảo của mình, Lưu Quang Vũ đã để lại một “nốt trầm”
mang nhiều ý nghĩa nhân sinh sâu sắc. Qua việc thể hiện thành công bi kịch của nhân vật
Trương Ba, ông muốn nhắn nhủ với người đọc rằng cuộc sống là đáng quý, nhưng không
thể vì vậy mà bất chấp mọi giá để có được. Chúng ta sẽ rơi vào bi kịch nếu sống không
đúng là mình, sống chắp vá, nhờ gửi, dần dần bị cái tầm thường, dung tục tha hóa. Đồng
thời, con người cần phải có bản lĩnh và ý chí đứng lên vượt qua nghịch cảnh, giữ gìn “viên
ngọc” tâm hồn trong sáng của mình. Nhờ vào nghệ thuật tạo tình huống và xung đột thường
đến từng chi tiết nhỏ, không ngoa khi nói rằng Lưu Quang Vũ chính là một trong những
“bậc thầy” của sân khấu kịch trường trong những năm 80 thế kỷ XX của Việt Nam.
Thông qua đoạn trích nói riêng và tác phẩm “Hồn Trương Ba - da hàng thịt” nói
chung, ta như hiểu hơn về quan niệm và triết lý sống mà nhà văn gửi gắm. Vở kịch như
được viết ra để mỗi ai trong chúng ta đều có thể thấy mình trong đó, rồi tự vấn bản thân như
liệu rằng ta có sống đúng với chính mình? Liệu mình đã đủ quan tâm đến người mình yêu
thương? Hay chăng mình có đang rơi vào bi kịch mà nhân vật đang mắc phải? Có lẽ những
trăn trở ấy chính là điều làm nên tên tuổi của tác phẩm, để rồi hơn 30 năm qua chúng ta vẫn
đọc, vẫn nhớ, vẫn biết có một Trương Ba với bi kịch không được sống là mình.
Đề bài: Phân tích vẻ đẹp tâm hồn của Trương Ba qua đoạn đối thoại giữa hồn Trương
Ba và Đế Thích.
Họ và tên: Yên Minh Huy
MHV: MV546
Điểm 4.75/5.0

BÀI LÀM
Lưu Quang Vũ là một tài năng xuất sắc của văn học nghệ thuật hiện đại Việt Nam
với thành công nhiều lĩnh vực: viết văn, làm thơ, soạn kịch. Ông được mệnh danh là hiện
tượng kịch trường của sân khấu kịch lúc bấy giờ với các kịch bản sáng tạo, vẫn còn mang
giá trị cho đến tận bây giờ. Kịch của Lưu Quang Vũ dữ dội, gay gắt, đanh thép, phản ánh
nhịp sống mới của đất nước và quá trình con người khám phá chính mình để vươn đến cuộc
sống toàn vẹn, tốt đẹp. “Hồn Trương Ba da hàng thịt” là một trong những vở kịch xuất sắc
nhất của Lưu Quang Vũ, được sáng tác năm 1981 và công diễn lần đầu năm 1984. Lấy cảm
hứng từ cốt truyện dân gian, Lưu Quang Vũ đã phát triển, gửi gắm nhiều thông điệp mang
tính triết học, giáo dục cao đến cho bạn đọc, phù hợp với nhu cầu đổi mới của xã hội bấy
giờ. Đoạn kịch thuộc chương VII và đoạn kết của vở kịch, nổi bật hơn hết chính là bi kịch
của Trương Ba trong cuộc sống không phải là của mình qua màn đối thoại giữa hồn Trương
Ba và xác hàng thịt.
Sự chối bỏ của người thân và sức mạnh cám dỗ của thân xác đã đẩy linh hồn Trương
Ba vào con đường tuyệt vọng, bế tắc, buộc ông phải có hướng đi để giải thoát bản thân khỏi
bi kịch. Chính nhu cầu giải quyết mâu thuẫn đã đặt nhân vật vào sự lựa chọn đầy mâu thuẫn
và nghiệt ngã: Một là chẳng còn cách nào khác, linh hồn chịu thua, khuất phục trước thân
xác. Hai là từ bỏ đời sống đó, chấp nhận cái chết vĩnh viễn để được làm chính mình. Và
Trương Ba đã tìm đến Đế Thích để tìm kiếm câu trả lời cho mình. Trương Ba đã thắp một
nén nhang thỉnh Đế Thích xuống, và gửi đến một tối hậu thư “Tôi muốn là tôi toàn vẹn” đặt
ra ba vấn đề gây tranh luận quyết liệt: Hồn trương ba, xác hàng thịt và Cu Tị.
Lưu Quang Vũ đã xây dựng cuộc đối thoại theo những cặp thoại đối đáp song song
đầy kịch tích với những lí lẽ đanh thép mà cả hai bên đều đưa ra. Để giải quyết cho bài toán
về hồn Trương Ba, Trương Ba khẳng định: “Tôi không thể tiếp tục mang thân anh hàng thịt
được nữa”. Điều ấy khiến cho Đế Thích vô cùng ngạc nhiên “Có gì không ổn đâu!”. Phải,
một linh hồn cao khiết, thông tuệ như Trương Ba lại ở trong một thân xác khỏe mạnh,
cường tráng của xác hàng thịt thì còn gì là thuận lợi bằng? Chẳng phải theo cách nghĩ của
Đế Thích, chúng ta nhận ra đó là một sự kết hợp vô cùng hoàn hảo. Nhưng Trương Ba lại
thẳng thừng phản bác “Không thể bên trong một đằng, bên ngoài một nẻo được”. Đế Thích
nghe xong lại đáp bằng một giọng điệu tưởng chừng như bình thản: “Thế ông ngỡ tất cả mọi
người đều được là mình toàn vẹn cả ư?”. Đó là thực tế, là tư duy của số đông, ngay cả
những vị tiên trên trời hay Ngọc Hoàng đều phải có lúc uốn nắn cho vừa với cái địa thế mà
mình đang ngồi đấy. Trương Ba đưa ra một lý lẽ hết sức nực cười trước tư duy của xã hội,
hiện thực bây giờ, chẳng ai hoàn hảo cả, nên không thể đòi hỏi một cơ thể hoàn toàn không
có khuyết điểm. Tuy nhiên, cuộc đối thoại giữa hồn và xác, giữa Trương Ba và gia đình đã
giúp cho ông đủ dũng cảm để đi ngược lại với định kiến quy chụp ấy: “Ông chỉ nghĩ đơn
giản là cho tôi sống, nhưng sống như thế nào thì ông chẳng cần biết”. Lý lẽ của Trương Ba
khiến cho Đế Thích cũng phải suy xét, bị thuyết phục, chỉ đáp: “Nhưng mà ông muốn gì?”,
rồi lại an ủi, động viên linh hồn khốn khổ: “Ông phải sống, dù bất cứ giá nào…” Sự sống là
điều quý giá, là ao ước của bất cứ ai, nhưng đôi lúc bám víu sự sống mà đánh mất chính
mình cũng khiến con người ta chán ghét, Trương Ba từ chối: “Không thể sống với bất cứ giá
nào. Có những cái giá đắt quá, không thể trả được”. Vấn đề nhân sinh đặt ra không nằm ở
việc ta được sống, mà ta sống như thế nào, và trong suốt thời gian được sống, ta có hạnh
phúc hay không? Đó là suy nghĩ của một cá nhân đã từng rất đau khổ vì chịu những mâu
thuẫn và tha hóa của xác thịt, để rồi lời giải duy nhất cho vấn đề chính là “Tôi đã chết rồi,
hãy cho tôi chết hẳn”.
Trương Ba đã nhận ra, đúc kết được rằng con người chỉ có thể sống đúng với chính
mình khi có sự thống nhất tuyệt đối giữa bên ngoài và bên trong, một linh hồn cao khiết
không thể sống trong thân xác thô kệch, xa lạ, Trương Ba bày tỏ: “Thân thể anh hàng thịt
còn lành lặn, nguyên xi đây, tôi trả lại cho anh ta”. Điều đấy một lần nữa đã khiến Đế Thích
phải trầm trồ, ngạc nhiên, ông cho rằng “Sao có thể đối tâm hồn đáng quý của bác lấy chỗ
cái phần hồn tầm thường của anh hàng thịt?” Đó có lẽ là một lời đề cao khiến cho bất cứ ai
nghe lấy cũng phải xúc động. Lý lẽ của Đế Thích vừa có hiệu quả về mặt luân lý, vừa có
hiệu quả về mặt tình cảm, khi đặt Trương Ba vào thế cao quý hơn thân xác của hàng thịt.
Nhưng bấy giờ Trương Ba đã có một cách suy nghĩ khác, ông cho rằng “Tầm thường,
nhưng đúng là của anh ta…, chúng sinh ra là để sống với nhau. Vả lại, còn…còn chị vợ…
chị ấy rất đáng thương”. Trương Ba đã khẳng định một chân lý: Dù linh hồn có méo mó hay
cao thượng thì nó cũng chỉ đi được với một thân xác duy nhất. Không một phiên bản nào
hoàn hảo hơn chính những giá trị sẵn có của bản thân mình. Và ở vấn đề này, Trương Ba
mong muốn được giải quyết bằng cách trao trả thân xác lại cho anh hàng thịt. Người đọc có
thể nhận ra đó không phải là quyết định bộc phát của cá nhân mà còn xuất phát từ cơ sở
quan tâm đến sinh mệnh của người khác. Trương Ba đã vượt lên trên mọi ảnh hưởng của
những lí lẽ tầm thường để mà nêu bật những quan niệm triết lý sống cao đẹp về sự thống
nhất toàn vẹn giữa bên ngoài và bên trong. Không ai có thể được là chính mình trong cuộc
sống đang vay mượn của người khác, thậm chí dù được điều khiển bởi một linh hồn toàn
năng, cao thượng.
Cái chết đột ngột của Cu Tị cũng đã được Đế Thích tận dụng, gợi ý, đặt ra một thách
thức cho linh hồn của Trương Ba: “Ông hãy nhập vào thân xác của Cu Tị”. Nếu như xác
hàng thịt có phần kềnh càng, thô lỗ, thì Cu Tị lại rất dễ thương, nếu như nhập vào thân thể
thằng bé chắc sẽ ổn. Ngỡ như đây chính là cách để giải quyết cho mâu thuẫn gay gắt của
Trương Ba, là điều mà bất kể người đọc, người xem nào cũng phải thừa nhận là có lý. Rằng
thân xác của một đứa bé thì cao khiết, trong sáng hơn bao giờ hết, vả lại Đế Thích còn đưa
ra những lý lẽ hết sức thuyết phục Trương Ba “Trong thân xác đứa bé, ông sẽ có cả một
cuộc đời trước mắt”. Trương Ba không dứt khoát từ chối mà nghĩ ngợi một hồi lâu. Khoảng
lặng ấy chính là minh chứng của lòng ham sống, không sợ chết không phải là con
người .Nhưng Trương Ba đã không dễ dàng gì nghe theo những lời lẽ thuyết phục của Đế
Thích, ông đưa ra những quan điểm của mình: “ Sợ chỉ càng oái oăm, rắc rối hơn. Trẻ con
phải ra trẻ con, người lớn phải ra người lớn”. Trương Ba cũng đã thử tưởng tượng ra cái
viễn cảnh mà bản thân phải sống bên trong thân xác của một đứa bé thơ dại: Phải giải thích
cho chị Lụa, chòm xóm, lí trưởng, trưởng tuần, vợ của ông và cả Cái Gái. Tất thảy trước
mắt Trương Ba đều là những bất lợi đầy tai hại chứ không phải là lí thuyết hào nhoáng, viễn
vông về việc được làm lại cuộc đời như bao người khác vẫn nghĩ. Lưu Quang Vũ ở tình tiết
này đã tạo dựng nên những câu thoại bộc lộ rõ nét sự từng trãi, tinh tế, sâu sắc trong cách
suy nghĩ: “Mình tôi giữa đám người hậu sinh. Những gì chúng thích thì tôi ghét, những gì
tôi thích chúng cũng chẳng ưa. Tôi sẽ như ông khách ngồi dai ở nhà người ta, mọi khách
khứa đã về cả rồi, mình vẫn dầm duề nán lại”. Bác bỏ hoàn toàn lại những lí lẽ hết sức
quyến rũ của Đế Thích về lợi ích khi có trong tay thân xác của một đứa trẻ. Đối với Trương
Ba, thứ còn đau khổ hơn cái chết đó là phải sống trong thân xác không phải là của mình, kể
cả thằng Cu Tị, thân xác của nó có khi còn thuần khiết, cao quý hơn linh hồn của ông,
nhưng đó cũng là một độ chênh tai hại giữa hồn và xác, khiến cho con người ta lầm tưởng
mà sống một cuộc đời đạo đức giả. Vì thế để giải quyết cho vấn đề này, Trương Ba đã khẩn
thiết Đế Thích sửa sai bằng cách: “Ông hãy cứu nó, ông phải cứu nó”. Giải quyết cả ba vấn
đề cũng đồng nghĩa với việc linh hồn Trương Ba chấp nhận đoạn tuyệt với sự sống. Nhưng
đối với ông, đó lại là một sự giải thoát, một giải pháp cuối cùng để bảo vệ cho những đức
tính tốt đẹp chưa bị hủy hoại: “Tôi bỗng cảm thấy mình là Trương Ba thật, tâm hồn tôi trở
nên thanh thản, trong sáng như xưa”. Trương Ba ý thức sâu sắc ý nghĩa của cuộc sống và là
một con người nhân hậu, vị tha.
Bản năng của mọi loài vật là trân trọng sự sống, con người không ngoại lệ điều đó.
Ai cũng khao khát được tồn tại, dù phải trả mọi cái giá đắt nhất. Nhưng nếu như chúng ta vì
sự sống mà bằng mọi giá phải đạt được nó kể cả đánh mất chính mình, thì điều ấy có còn
xứng đáng hay không? Lưu Quang Vũ không đi ngược lại với những hệ tư tưởng đã có từ
trước đó, thậm chí Trương Ba còn khẳng định “Không sợ chết, không phải là con người”.
Nhưng nếu sống trong cuộc sống không phải của mình, thì điều đó còn đau đớn hơn cái
chết. Quyết định từ bỏ sự sống của Trương Ba để được vươn đến “Tôi muốn là tôi toàn vẹn”
vừa xót xa, thống khổ nhưng đã thể hiện được một năng lực của chất người, tính người và
tình người. Quan niệm về lẽ tồn tại tuy mang màu sắc bi kịch, nhưng cũng có khả năng
thanh lọc tâm hồn con người. Mong muốn trao trả lại thân xác cho anh hàng thịt của Trương
Ba chứng tỏ mọi giá trị dù là linh hồn hay thể xác, đều có ý nghĩa trong cuộc đời. Chúng ta
không thể nhân danh giá trị này mà hạ thấp giá trị khác. Con người bằng mọi cách không
thể chối bỏ tiếng nói của vật chất, bề ngoài mà hơn hết phải phấn đấu cho cuộc sống có đủ
sự hài hòa giữa vật chất và tinh thần. Đây là một quan niệm về con người hoàn toàn mới mẻ
của văn học giai đoạn hậu chiến.
Cuộc sống mà chúng ta đang tồn tại không đơn giản, xuôi chiều. Giữa những chân lý
luôn sẽ tồn tại một vài nghịch lý, những người tưởng chừng như toàn năng như thần tiên,
cao quý như Trương Ba đôi lúc cũng mắc phải những sai lầm. Trương Ba đã sai lầm khi
đồng ý thỏa hiệp với xác hàng thịt, sống cuộc đời không phải của mình để rồi phải sửa chữa
bằng cách cứu sống Cu Tị và chấp nhận chết hẳn .Có những cái sai không thể sửa được,
chắp vá gượng ép chỉ càng làm sai thêm. Chí có cách không bao giờ sai nữa, hoặc phải bù
lại bằng một việc đúng khác. Để làm được điều đó, hơn ai hết, chúng ta phải hiểu bản thân,
thấu hiểu lẽ đời, dũng cảm và đôi lúc cũng phải đánh đổi cả sự sống như Trương Ba
“Nghệ thuật tạo vẻ đẹp cho những dòng nước mắt và biến nỗi thống khổ của nhân
loại trở thành tiếng hát vô biên” (Diệp Tiến). Nỗi thống khổ của Trương Ba cứ thế đi sâu
vào tâm trí người đọc, âm ỉ như một khúc trường ca. Để rồi từ mảnh đất cằn cỗi nhất của
đau thương, những hạt nhân quý giá nở rộ, tô điểm và hoàn thiện cho cuộc sống của con
người. “Hồn Trương Ba, da hàng thịt” sẽ luôn là một vở kịch để đời của Lưu Quang Vũ,
không chỉ bây giờ mà là mãi về sau”.
Đề bài: Cho đoạn trích sau:
Xác hàng thịt: (bắt đầu) Vô ích, cái linh hồn mờ nhạt của ông Trương Ba khốn khổ kia ơi,
ông không tách ra khỏi tôi được đâu, dù tôi chỉ là thân xác...
Hồn Trương Ba: A, mày cũng biết nói kia à? Vô lý, mày không thể biết nói! Mày không có
tiếng nói, mà chỉ là xác thịt âm u đui mù...
Xác hàng thịt: Có đấy! Xác thịt có tiếng nói đấy! Ông đã biết tiếng nói của tôi rồi, đã luôn
luôn bị tiếng nói ấy sai khiến. Chính vì âm u, đui mù mà tôi có sức mạnh ghê gớm, lắm khi
át cả cái linh hồn cao khiết của ông đấy!
Hồn Trương Ba: Nói láo! Mày chỉ là cái vỏ bên ngoài, không có ý nghĩa gì hết, không có
tư tưởng, không có cảm xúc!
Xác hàng thịt: Có thật thế không?
Hồn Trương Ba: Hoặc nếu có, thì chỉ là những thứ thấp kém, mà bất cứ con thú nào cũng
có được: thèm ăn ngon, thèm rượu thịt...
Xác hàng thịt: Tất nhiên, tất nhiên. Sao ông không kể tiếp: Khi ông ở bên nhà tôi... Khi
ông đứng bên cạnh vợ tôi, tay chân run rẩy, hơi thở nóng rực, cổ nghẹn lại... Đêm hôm đó,
suýt nữa thì...
Hồn Trương Ba: Im đi! Đấy là mày chứ, chân tay mày, hơi thở của mày...
Xác hàng thịt: Thì tôi có ghen đâu! Ai lại ghen với chính thân thể mình nhỉ! Tôi chỉ trách
là sao đêm ấy ông lại tự dưng bỏ chạy, hoài của!... Này, nhưng ta nên thành thật với nhau
một chút: Chẳng lẽ ông không xao xuyến chút gì? Hà hà, cái món tiết canh, cổ hũ, khấu
đuôi, và đủ các thứ thú vị khác không làm hồn ông lâng lâng cảm xúc sao? Để thoả mãn
tôi, chẳng lẽ ông không tham dự vào chút đỉnh gì? Nào, hãy thành thật trả lời!
Hồn Trương Ba: Ta... ta... đã bảo mày im đi!
Xác hàng thịt: Rõ là ông không dám trả lời. Giấu ai chứ không thể giấu tôi được! Hai ta
đã hoà với nhau làm một rồi!
Hồn Trương Ba: Không! Ta vẫn có một đời sống riêng: nguyên vẹn, trong sạch, thẳng
thắn...
Xác hàng thịt: Nực cười thật! Khi ông phải tồn tại nhờ tôi, chiều theo những đòi hỏi của
tôi, mà còn nhận là nguyên vẹn, trong sạch, thẳng thắn?
Hồn Trương Ba: (bịt tai lại) Ta không muốn nghe mày nữa!
Xác hàng thịt: (lắc đầu) Ông cứ việc bịt tai lại! Chẳng có cách nào chối bỏ tôi được đâu!
Mà đáng lẽ ông phải cảm ơn tôi. Tôi đã cho ông sức mạnh. Ông có nhớ hôm ông tát thằng
con ông tóe máu mồm máu mũi không? Cơn giận của ông lại có thêm sức mạnh của tôi...
Ha ha!
Hồn Trương Ba: Ta cần gì đến cái sức mạnh làm ta trở thành tàn bạo.
Xác hàng thịt: Nhưng tôi là cái hoàn cảnh mà ông buộc phải quy phục! Đâu phải lỗi tại
tôi... (buồn rầu) Sao ông có vẻ khinh thường tôi thế nhỉ? Tôi cũng đáng được quý trọng
chứ! Tôi là cái bình để chứa đựng linh hồn. Nhờ tôi mà ông có thể làm lụng, cuốc xới. Ông
nhìn ngắm trời đất, cây cối, những người thân... Nhờ có đôi mắt của tôi, ông cảm nhận thế
giới này qua những giác quan của tôi... Khi muốn hành hạ tâm hồn con người, người ta xúc
phạm thể xác... Những vị lắm chữ nhiều sách như các ông là hay vin vào cớ tâm hồn là quý,
khuyên con người ta sống vì phần hồn, để rồi bỏ bê cho thân xác họ mãi khổ sở, nhếch
nhác... Mỗi bữa tôi đòi ăn tám, chín bát cơm, tôi thèm ăn thịt, hỏi có gì là tội lỗi nào? Lỗi là
ở chỗ không có đủ tám, chín bát cơm cho tôi ăn chứ!
Phân tích đoạn đối thoại trên, từ đó nhận xét nghệ thuật xây dựng xung đột kịch của
Lưu Quang Vũ.
Họ và tên: Yên Minh Huy
MHV: MV546
Điểm 4.5/5.0

BÀI LÀM
Lưu Quang Vũ là một hiện tượng văn học nổi bật của văn đàn Việt Nam hiện đại với
khả năng viết văn, làm thơ và soạn kịch. Ông còn được mệnh danh là cây bút viết kịch xuất
sắc khi để lại hơn năm mươi bản thảo có giá trị. Kịch của Lưu Quang Vũ mang đậm tính
thời sự với giọng điệu gay gắt, dữ dội, thể hiện những chiêm nghiệm về những vấn đề nóng
hổi của thời đại. “Hồn Trương Ba - da hàng thịt” là một trong những vở kịch xuất sắc nhất
của Lưu Quang Vũ, được viết đầu những năm 80 và được công diễn rộng rãi trên khắp cả
nước. Thông qua vở kịch, tác giả gửi gắm nhiều quan điểm triết lý sâu sắc về lẽ sống của
con người, không thể bất chấp mọi nghịch cảnh để đánh mất chính mình vì đánh mất chính
mình là đánh mất tất cả. Và có lẽ người đọc sẽ còn ấn tượng mãi về đoạn kịch thông qua
màn tranh luận gay gắt giữa hồn Trương Ba và xác hàng thịt. Từ đó, người đọc càng thêm
phần ấn tượng về nghệ thuật xây dựng xung đột kịch của kịch gia Lưu Quang Vũ.
Bi kịch là trạng thái tâm lý đau đớn của một con người có khát khao, hoài bão nhưng
không thể thực hiện vì kìm hãm của hiện thực cuộc sống, khiến học rơi vào bế tắc, tuyệt
vọng. Trương Ba - một người làm vườn hiền lành đã rơi vào trong bi kịch của cuộc đời
mình do sự tắc trách của Nam Tào - Bắc Đẩu khiến ông bị hàm oan mà chết. Đế Thích đã
sửa sai bằng cách cho hồn Trương Ba sống lại bằng cách nhập vào thân xác của anh hàng
thịt vừa mới chết. Tưởng chừng Trương Ba có thể hạnh phúc khi được sống nhưng ông lại
gặp vô cùng nhiều phiền toái trong thân xác kình càng, thô lỗ ấy, bị đám tuấn trưởng hoạnh
họe, con cái coi thường và đau đớn hơn khi nhận ra mình không còn là chính mình nữa. Bi
kịch của Trương Ba là một điểm mới so với cốt truyện dân gian được Lưu Quang Vũ phát
triển và đánh giá theo góc nhìn của một con người hiện đại. Vì thế mà đoạn kịch càng có giá
trị tư tưởng quan trọng trong việc phản ánh thời đại và xã hội lúc bấy giờ.
Đoạn trích thuộc chương VII và đoạn kết của vở kịch được đánh giá là đoạn hay
nhất, giàu giá trị nhân sinh và làm nổi bật vẻ đẹp nhân vật nhất. Qua màn đối thoại giữa hồn
Trương Ba và xác hàng thịt, người đọc có thể nhận ra nhiều chân lý bề sâu của cuộc sống,
có thể bắt gặp chính mình trong nỗi đau của nhân vật Trương Ba, để từ đó vươn đến sự hoàn
thiện và một cuộc sống toàn vẹn, ý nghĩa.
Mở đầu đoạn trích, tác giả đã để Trương Ba độc thoại một mình nhằm bày tỏ sự chán
ghét, đau khổ của Trương Ba trong thân xác hàng thịt, Trương Ba đã đổi khác nhiều lắm.
Ông ngày càng ham uống rượu chè, thích chặt thịt, thậm chí một tay cờ tuyệt kỹ, điêu luyện
có thể hấp dẫn thần tiên như ông giờ đây lại đi những nước cờ thật ti tiện. Ông bị những
người xung quanh dè bỉu, khinh bỉ, bị con cái vô lễ, đời sống gia đình không còn hạnh phúc
như trước nữa. Chính vì thế mà Trương Ba đau khổ “ôm đầu” rồi “đứng vụt dậy” bày tỏ thái
độ sợ hãi, chán ghét và mong muốn “tách khỏi thân xác này dù chỉ một lúc”. Chính sự kiên
quyết có phần hơi vô lý của Trương Ba đã dẫn đến màn tranh luận của hồn và xác.
Linh hồn và thể xác tách ra khỏi nhau, cùng nhau đưa ra những quan điểm xoay
quanh vấn đề chính: “Hồn có bị phụ thuộc vào xác hay không?”. Cụ thể các lý lẽ của cả hai
đều xoáy sâu ban đầu vào việc “Hồn có thể tách ra khỏi xác hay không?”. Trong lý lẽ trên,
hồn đã mở màn trước với mong muốn vô cùng mãnh liệt : “Giá như cái linh hồn tách ta có
hình thù riêng nhỉ, có thể tách ra khỏi cái thân xác này dù chỉ là một chút”. Dường như mọi
sự đau khổ, phiền toái mà Trương Ba chịu đựng đã dồn tụ thành sự phản kháng mạnh mẽ,
dứt khoát không chấp nhận được sự méo mó, nghịch lý trong tồn tại ấy. Tuy vậy sau đó xác
thịt đã đáp trả lại bằng một giọng điệu vô cùng mỉa mai: “Vô ích, cái linh hồn bé nhỏ tội
nghiệp của ông Trương Ba khi ơi, ông không tách ra khỏi tôi được đâu.” Lời nói ấy của xác
khiến hồn vô cùng giật mình, ngạc nhiên vì thể xác vô tri ấy lại có tiếng nói, lại có thể tồn
tại song song với sự hiện hữu của linh hồn. Càng ngỡ ngàng hơn khi sự tồn tại của xác còn
gián tiếp cho rằng hồn chỉ đang hiện diện qua một biểu hiện, mà sự sống của một biểu hiện
thì không thể bền vững. Không chịu thừa nhận hồn Trương Ba lập tức lớn tiếng phủ định sự
tồn tại của xác: “Nói láo! Mày chỉ là cái vỏ bên ngoài, không có ý nghĩa gì hết, không có tư
tưởng, không có cảm xúc” đồng thời hồn còn tôn vinh giá trị của bản thân bằng ba chữ
“trong sạch” “nguyên vẹn” “thẳng thắn”. Dường như chính hồn đang cho rằng sự tồn tại của
một bản thể không liên quan đến thân xác mà linh hồn mới là cái cao quý đang định hướng,
điều hòa sự sống. Dù cho thể xác có ti tiện, thấp hèn thì linh hồn vẫn không thể bị ảnh
hưởng hay mất đi bản chất của mình.
Nhưng trước sự khinh bỉ của linh hồn, xác thịt vẫn rất bình tĩnh phản bác lại: “Khi
ông tồn tại nhờ tôi, chiều theo những đòi hỏi của tôi, mà còn tự nhận là nguyên vẹn, trong
sạch, thẳng thắn?” Có lẽ xác hàng thịt cũng có lý khi cho rằng linh hồn đang ngự trị trong
một thể xác phàm phu, tiếp tay, thỏa hiệp với cái xấu, cái ác thì vốn dĩ đã không còn thanh
sạch, thuần khiết nữa. Ba chữ “trong sạch”, “nguyên vẹn”, ‘thẳng thắn” thực chất để che đậy
đi sự kém cỏi, yếu đuối bên trong linh hồn và đã buộc linh hồn thừa nhận rằng chính linh
hồn không thể tùy tiện tách khỏi thân xác, càng không thể tự đề cao bản thân trong khi đang
dần bị mài mòn trong những đòi hỏi của xác thịt. Trong vấn đề đầu tiên, phần thắng thế dần
nghiêng về xác hàng thịt.
Ở lý lẽ tiếp theo trong màn tranh luận, xác hàng thịt và hồn Trương Ba cùng đưa ra
những quan điểm xoay quanh vấn đề: “Xác thịt có tiếng nói hay không?”. Hồn đã ngay lập
tức phủ định tiếng nói của thân xác: “Vô lý, mày không có tiếng nói, mày chỉ là cái xác âm
u, đui mù”, mà nếu như có tiếng nói thật thì linh hồn cũng hoàn toàn khinh bỉ, xếp tiếng nói
của hàng thịt vào tiếng nói thấp thấp kém của bản năng mà con vật nào cũng có. Lý lẽ của
Trương Ba đanh thép nhưng chủ quan, mang nặng tính cảm tính, rất dễ bị phản bác. Và
không nằm ngoài dự liệu, xác thịt đã nắm chặt sự sơ hở trong lý lẽ để vùi dập quan điểm cổ
hủ của Trương Ba: “Có đấy, xác thịt có tiếng nói đấy”, “âm u, đui mù nên có sức mạnh to
lớn lắm khi lấn át cả linh hồn cao khiết của Trương Ba”. Xác thịt khẳng định mình có tiếng
nói, thậm chí không phủ nhận cái thấp kém của bản thân mà còn tiện tay liệt kê thêm sự
“hấp dẫn” của cái thấp kém “đã chà đạp, hủy hoại nhân cách Trương Ba ra sao.
Xác hàng thịt từng chút một liệt kê hàng loạt các ảnh hưởng của mình lên linh hồn
Trương Ba. Linh hồn của Trương Ba trong thân xác ấy đã bắt đầu thèm ăn những món phàm
tục như “tiết canh, cổ hũ, khấu đuôi”, trở nên thô bạo, nhẫn tâm “tát thằng con tóe máu
mồm máu mũi”. Thậm chí linh hồn còn bị tha hóa trong tình cảm khi bắt đầu để ý đến cô vợ
hàng thịt: “Khi ông đứng bên cạnh vợ tôi, tay chân run rẩy, cổ họng nghẹn lại, hơi thở nóng
bừng…đêm đó suýt nữa thì”. Lời lẽ của xác thịt thật ti tiện, thật khó nghe nhưng có cái nào
không phải là sự thật? Trương Ba ngay cả chính mình cũng không còn nhận ra nữa. Ông
dần rơi vào thế đuối lý, tuyệt vọng nhưng vẫn cố gắng phản bác dẫu thật yếu ớt làm sao:
“Ta cần gì đến cái sức mạnh làm ta trở nên tàn bạo”. Linh hồn ấy vẫn không muốn tin rằng
thân xác đó thắng thế, không muốn thừa nhận bản thân đã bị tha hóa, hủy hoại. Nhưng điều
đó cũng vô ích vì đối với xác thịt bây giờ linh hồn đã bị trói buộc hoàn toàn: “Chẳng có
cách nào chối bỏ được tôi đâu”. Cách đẩy xung đột ken cao trào của Lưu Quang Vũ hấp dẫn
đến mức từng câu thoại, từng hành động của nhân vật đều mang một hàm nghĩa sâu xa mà
ngay trong những khoảng ngân dài của cảm xúc ấy ta tìm thấy bản ngã của chính mình.
Khép lại màn tranh luận quyết liệt, thể xác đã hoàn toàn áp đảo linh hồn bằng những lý lẽ ti
tiện nhưng hết sức thuyết phục của mình.
Sau khi đã giành được lợi thế về mình, xác hàng thịt lại tinh tế hạ giọng, vỗ về linh
hồn. Xác thit cho rằng “tôi là cái hoàn cảnh mà anh phải quy phục”. Có lẽ xác đã đúng, bởi
lẽ không có thể xác, linh hồn chẳng thể tồn tại, không có thể xác, linh hồn chẳng có gì cả.
Thể xác là cái bình chứa mà linh hồn dù muốn hay không cũng phải thừa nhận. Không chỉ
có vậy mà ở trong thể xác, linh hồn mới có thể được sống, được làm lụng, cuốc xới, được
“ngắm trời đất, cây cối, người thân”, “nhờ đôi mắt của tôi, ông cảm nhận thế giới qua những
giác quan của tôi”. Thể xác quan trọng như vậy đối với sự tồn tại của linh hồn nên linh hồn
phải tôn trọng thể xác, phải chiều theo ham muốn của thể xác, không thể khinh thường hay
chối bỏ nó được. Trương Ba mặc dù rất đau khổ nhưng cũng không thể không thừa nhận
chân lý ấy, cuối cùng Trương Ba chỉ đành chịu thua. Trương Ba thua cuộc vì không chịu
nhìn nhận sai lầm của mình mà chỉ đổ lỗi cho thể xác.
So với cốt truyện dân gian nguyên bản, kịch của Lưu Quang Vũ có một bước phát
triển vượt bậc hơn, mang đậm hơn thở của thời đại mà ông đang sống. Nếu như cốt truyện
dân gian chú trọng đến quan niệm “được sống” thì Lưu Quang Vũ đã có sự bổ sung thêm
vào quan niệm ấy “nhưng cũng không thể trả bằng mọi giá để được sống”. Mà hơn hết con
người phải là chính mình, phải sống có sự thống nhất giữa bên ngoài và bên trong. Nếu cốt
truyện dân gian có phần khuôn sáo, an toàn và không gây tranh cãi thì kịch Lưu Quang Vũ
lại có khả năng đối thoại rất cao, gợi những suy tư nơi người đọc và đó chính là lý do mà vở
kịch đến tận ngày nay vẫn còn nguyên vẹn những giá trị như ban đầu.
Xung đột kịch là một yếu tố quan trọng làm nên kịch tính cho nội dung mà tác giả
muốn truyền tải. Ở đây, Lưu Quang Vũ đã tận dụng triệt để yếu tố xung đột để làm nổi bật
lên cho tính sâu sắc của đoạn kịch. Trong màn đối thoại giữa hồn và xác, ta nhận thấy có sự
tồn tại song hành hai mâu thuẫn: bên ngoài và bên trong. Mâu thuẫn bên ngoài là khi chúng
ta hiểu theo hướng linh hồn chính là cái tôi, là con người, là cái tốt đẹp, còn thân xác là cái
hoàn cảnh bên ngoài đang tác động vào tha hóa cái tốt đẹp đó, thể hiện rất đúng tính chất
thế sự của đoạn kịch “không đau không phải là đời. Tuy vậy, Lưu Quang Vũ còn điêu luyện
hơn khi còn khắc họa thêm cả xung đột bên trong khi xem xác và hồn là hai tiếng nói của
bản năng và tác động vào bản ngã của con người. Ở cách hiểu ấy ta lại thấy được một mâu
thuẫn gay gắt của tâm hồn khi con người đang phải đối diện với chính mình, với cái tốt đẹp
và xấu xa của bản thân xung đột kịch ấy đã góp phần tạo thêm chiều sâu cho tác phẩm,
khiến đoạn kịch trở nên phức tạp và đòi hỏi người đọc phải không ngừng lĩnh hội và khám
phá mới có thể chinh phục được.
Đoạn trích không chỉ ấn tượng người đọc bởi lối tư duy mới mẻ, độc đáo của Lưu
Quang Vũ mà còn nằm trong cách mà tác giả truyền tải nghệ thuật mới mẻ, sâu sắc. Trong
tiến trình của cuộc đối thoại, tác giả đã sử dụng lối đối đáp giả tưởng nhằm mô phỏng
những day dứt, sóng gió bên trong một chính thể sống. Cùng với đó là sự thay đổi về mặt
tính chất đối thoại và giọng điệu nhân vật: Trương Ba từ xưng hô thượng bậc “mày-tao”
chuyển sang “anh”, câu thoại cũng ngày một ngắn dần. Ngược lại xác thịt vẫn luôn giữ được
một cái đầu lạnh, đều đặn phản bác lý lẽ Trương Ba. Cùng với đó là sự sóng đôi giữa đối
thoại, độc thoại và hành động khiến cho tâm lí nhân vật hiện lên đầy ấn tượng, sinh động và
hấp dẫn. Lưu Quang Vũ xây dựng hình tượng xác hàng thịt không phải để cho ta tin rằng cái
xấu luôn thắng cái ác, mà tác giả cho rằng mọi giá trị của chúng ta đều bình đẳng ngang
nhau, không thể tùy tiện nhân danh giá trị này hạ thấp giá trị khác. Từ đó, ta càng có cơ sở
xác đáng hơn khi cho rằng màn đối thoại giữa hồn và xác là trích đoạn hay nhất và giàu
chiều sâu tư tưởng trong tác phẩm.
“Văn học bao đời nay vẫn là phương tiện đắc lực phản ánh và đề cao giá trị đẹp đẽ
của con người. Đến với thế giới văn chương, người đọc không chỉ biết về câu chuyện của
người khác mà còn tìm thấy chính mình, từ đó trăn trở về các vấn đề nhân sinh sâu sắc mà
tác giả muốn gửi gắm trong tác phẩm. Kết thúc vở kịch, “Hồn Trương Ba – da hàng thịt” cứ
thế mà neo đậu mãi vào tâm hồn của người đọc vẫn ám ảnh, day dứt về những triết lý nhân
sinh sâu sắc mà nó mang lại. Để từ đó văn chương nâng đỡ ta trong hành trình hướng thiện,
khiến cuộc sống ta trở nên tốt đẹp và ý nghĩa.

You might also like