You are on page 1of 12

ĐỀ CƯƠNG ÔN TẬP

ĐOẠN 1 (8 CÂU ĐẦU) Phân tích 8 câu đầu và nhận xét về tính dân tộc.
1. Mở bài:
Không trộn lẫn..."
(Vân chữ- Cao Đạt)
Cái "vân chữ... không trộn lẫn" của nhà thơ hay của một nhà văn thứ thiệt mà Cao Đạt nhắc
đến ở đây chính là phong cách tác giả, là sự thể hiện tài nghệ của người nghệ sĩ qua tác phẩm
nghệ thuật mang đậm dấu ấn cá nhân của tác giả. Là lá cờ đầu của thơ ca Cách mạng, Tố Hữu
xuất hiện giữa làng thơ với một phong cách thơ độc đáo, hấp dẫn, đó chính là tính trữ tình-
chính trị sâu sắc, dậm chất sử thi và cảm hứng lãng mạn. Kết tinh vẻ đẹp độc đáo ấy của thơ
Tố Hữu phải kể đến Việt Bắc- bản anh hung ca, cũng là bản tình ca về cách mạng kháng chiến
và con người kháng chiến. Làm nên Việt Bắc- một bản tình ca thấm đẫm màu sắc dân tộc phải
kể đến tám câu thơ đầu của tác phẩm:
"Mình đi mình có nhớ ta
Mười lăm năm ấy thiết tha mặn nồng
Mình về mình có nhớ không
Nhìn cây nhớ núi, nhìn sông nhớ nguồn
Tiếng ai tha thiết bên cồn
Bâng khuâng trong dạ, bồn chồn bước đi
Áo chàm đưa buổi phân li
Cầm tay nhau biết nói gì hôm nay"
2. Thân bài
a. Khái quát chung:
Tố Hữu là nhà thơ của lý tưởng cộng sản. Ông đến với thơ ca và cách mạng cùng một lúc. Vì
vậy cho nên chặng đường thơ của ông luôn song hành với những chặng đường cách mạng mà
lộng gió thời đại với những tập thơ: Từ ấy, Việt Bắc, Gió lộng, Ra trận, Máu và hoa, Một tiếng
đờn, Ta với ta... Trong đó có thể nói Việt Bắc là đỉnh cao của thơ ca Tố Hữu nói riêng và thơ
ca chống Pháp nói chung. Bài thơ Việt Bắc được trích từ tập thơ cùng tên và được sang tác vào
tháng 10/1945, khi Trung ương Đảng và Chính phủ cùng cán bộ chiến sĩ rời chiến khu để về
tiếp quản thủ đô Hà Nội. Lấy cảm cảm hứng từ buổi chia tay ấy, Tố Hữu đã xúc động viết nên
bài thơ này. Tính dân tộc của bài thơ thể hiện ở cả nghệ thuật lẫn nội dung và thể hiện sâu sắc
nhất là ở tám câu thơ đầu.
b. Phân tích đoạn thơ:
- Nhà thơ đã khéo vận dụng lối đối đáp vốn là hình thức diễn ý quen thuộc trong ca dao dân
ca:
"Bây giờ mận mới hỏi đào
Vườn hồng có lối ai vào hay chưa
Mận hỏi thì đào xin thưa
Vườn hồng có lối nhưng chưa ai vào"
Chính điều ấy đã làm cho bài thơ mang đậm âm hưởng ngọt nào và thấm đượm tinh thần dân
tộc. Bên cạnh đó ngôn ngữ là yếu tố góp một phần không nhỏ gợi lên cái hồn dân tộc của tác
phẩm nói chung và tám câu thơ đầu nói riêng chính là ngôn ngữ. Ngôn ngữ thơ của Việt Bắc
mượt mà, uyển chuyển đặc biệt là cắp đại từ nhân xưng mình-ta vừa ngọt ngào lại vừa sâu lắng
mà ta thường bắt gặp trong những câu ca dao về tình yêu đôi lứa:
"Mình về ta chẳng cho về
Ta nắm vạt áo ta đề câu thơ"
- Chuyện ân tình cách mạng đã được Tố Hữu khéo léo thể hiện như tình yêu đôi lứa.
"Mình về mình có nhớ ta
1
Mười lắm năm ấy thiết tha mặn nồng.
Mình về mình có nhớ không
Nhìn cây nhớ núi, nhìn song nhớ nguồn?"
"Mình" trên câu thơ trên chỉ người ra đi, còn "ta" là người ở lại. Dường như đây không còn là
cuộc chia ly giữa đồng bào và cách mạng mà nó đã trở thành buổi chia ly của đôi lứa yêu nhau
mặn nồng da diết. Qua đó ta mới mới phần nào thấm thía cái tình cảm mặn nồng, keo sơn của
quân dân ta trong những buổi đầu đầu kháng chiến gian khổ, khó khăn. Dù bị cách trở bởi
không gian và thời gian nhưng dường như cảm xúc từ trái tim đã nâng đỡ họ vượt qua mọi rào
cản để trong tâm hồn "như chưa hề có cuộc chia ly". Tính dân tộc về mặt hình thức còn thể
hiện qua hình ảnh. Đó là dáng núi hình sông :" Nhìn cây nhớ núi, nhìn song nhớ nguồn". Đó là
hình ảnh chiếc áo chàm trong "buổi phân li". Áo chàm là hình ản hoán dụ cho người dân Việt
Bắc nghĩa tình nhưng cũng rất đỗi anh hùng. Những con người ấy là đại diện cho một dân tộc
Việt Nam vừa hào hùng lại hào hoa: "Lưng mang gươm ta mềm mại bút hoa/Sống hiên ngang
mà nhân ái chan hòa".
Tính dân tộc không chỉ vô cùng thành công trên bình diện nghệ thuật mà còn đậm nét qua nội
dung, tư tưởng. Việt Bắc nói chung và tám câu thơ đầu nói riêng phản ánh đậm nét hình ảnh
con người Việt Nam trong thời đại cách mạng; đã đưa những tư tưởng tình cảm cách mạng hòa
nhịp và tiếp nối truyền thống tinh thần, tình cảm đạo lý dân tộc.
"Mình về mình có nhớ ta
Mười lắm năm ấy thiết tha mặn nồng."
Người ở lại đặt câu hỏi tu từ "Mình về mình có nhớ ta" để nhắc nhớ người ra đi, gợi trong
người ra đi những kỷ niệm về " mười lăm năm ấy thiết tha mặn nồng". Mười lăm năm ấy được
tính từ năm 1940 sau khởi nghĩa Bắc Sơn cho đến tháng 10.1954, là mười lăm năm "Mình đây
ta có đắng cay ngọt bùi", là mười lăm năm có phúc cùng hưởng, có họa cùng chia, mười lăm
năm "bát cơm chấm muối mối thù nặng vai"...làm sao kể xiết biết bao ân tình. Bốn từ "thiết tha
mặn nồng" cho thấy tình cảm giữa Việt Bắc và cán bộ thật thủy chung sâu nặng, keo sơn bền
chặt. Có lẽ vì thế nên nhà nghiên cứu Nguyễn Đức Quyền đã cho rằng: " "Mười lăm năm ấy"
không chỉ đo bằng thước đo thời gian mà còn đo bằng thước đo tình cảm con người. Đó chính
là thứ thuốc thử làm tăng thêm sự gắn bó keo sơn".
"Mình về mình có nhớ không?
Nhìn cây nhớ núi nhìn sông nhớ nguồn"
Lại một câu hỏi tu từ nữa xuất hiện. Lại là một lời nhắc nhớ, gợi thương. Về Hà Nội rồi, thấy
cây hãy nhớ đến núi rừng chiến khu, nhìn sông hãy nhớ đến suối nguồn Việt Bắc. Cách gợi
nhắc như lời dặn dò kín đáo mà chân thành: Việt Bắc là cội nguồn cách mạng, "Quê hương
cách mạng dựng nên Cộng hòa", là trung tâm đầu não của cuộc kháng chiến. Câu thơ này phải
chăng là sự vận dụng linh hoạt và tài tình của nhà thơ Tố Hữu với câu tục ngữ "Uống nước nhớ
nguồn". Qua đó nhà thơ cũng nhắc nhớ các thế hệ con cháu phải biết hướng về gốc gác, về nơi
bén rễ, về cái nôi cho ta hình hài.
* 4 câu sau:
"- Tiếng ai tha thiết bên cồn
Bâng khuâng trong dạ, bồn chồn bước đi
Áo chàm đưa buổi phân li
Cầm tay nhau biết nói gì hôm nay"
Nếu như người Việc Bắc gửi theo bước chân của người miền xuôi với bao nhiêu nỗi nhớ thì
trong lời đối đáp của người miền xuôi cũng đầy ắp những bâng khuâng tha thiết. Không sử
dụng đại từ xưng hô "mình", "ta" mà người xưng hô sử dụng đại từ "ai" để khẳng định trước
hết là sự gắn bó với người ở lại. Ai có thể là đại từ để hỏi nhưng ở đây đó chính là đại từ phiếm
chỉ, rất gần cách nói của ca dao: "Nhớ ai bồi hổi bồi hồi" Tố Hữu sử dụng và khai thác triệt để
sự biến hoá hết sức linh diệu trong giá trị biểu cảm của từ "ai". Một chữ "ai" của người về xuôi
2
đủ làm xao xuyến lòng người đưa tiễn, đủ cho thấy người về xuôi yêu thương Việt Bắc đến
chừng nào và hiểu nỗi niềm tha thiết của người Việt Bắc đối với cách mạng, đối với người
miền xuôi. Một chữ "ai" làm xao động cả không gian đưa tiễn. Phải chăng: "Khi ta ở chỉ là nơi
đất ở/Khi ta đi đất đã hóa tâm hồn" Hai từ láy "bâng khuâng" và "bồn chồn" góp phần làm tang
thêm tâm trạng người ra đi. Tình thương nỗi nhớ như níu chân người ở lại "Bước đi một bước
lâu lâu lại ngừng" để rồi "cầm tay nhau biết nói gì hôm nay". Không biết nói gì phải chăng là
vì có quá nhiều thứ để nói. Bao nhiêu ân nghĩa, sắt son chẳng thể nào dung ngôn từ để diễn tả,
đành phải gửi tâm tình qua cái năm tay thật chặt, thật lâu. "Cầm tay" là biểu tượng của yêu
thương đoàn kết. Chỉ cần cầm tay nhau thôi và hãy để hơi ấm nói lên tất cả, yêu thương, nhung
nhớ, nghĩa tình sẽ ấm mãi như hơi ấm tay trao tay nhau lúc này. Dấu chấm lửng ở cuối câu như
càng làm tang thêm cái tình cảm mặn nồng, dạt dào, vô tận. Nó như nốt lặng trong một khuôn
nhạc mà ở đó tình cảm cứ ngân dài sâu lắng. Qua đó con người Việt Nam hiện lên thật đẹp với
những phẩm chất tiêu biểu cho phẩm chất dân tộc: ân nghĩa, thủy chung, son sắt.
c. Nhận xét về tính dân tộc:
- Tố Hữu đã vô cùng khéo léo khi sử dụng thành công thể thơ lục bát- một thể thơ truyền
thống của dân tộc để diễn tả tình cảm cách mạng.
- "Với giọng thơ tâm tình ngọt ngào, tha thiết và nghệ thuật biểu hiện giàu tính dân tộc
thì dù viết về vấn đề gì, thơ Tố Hữu vẫn luôn dễ đi vào lòng người".
- Hay hơn nữa nhà thơ đã khéo vận dụng lối đối đáp vốn là hình thức diễn ý quen thuộc
trong ca dao dân ca: Mình – ta
- Cách nói giàu hình ảnh, giọng điệu ngọt ngào, giàu nhạc tính, mang chất liệu dân gian.
- Bằng tài hoa của một người nghệ sĩ và một trái tim luôn sục sôi ý chí cách mạng, Tố Hữu đã
viết nên một bản tình ca, anh hùng ca đậm đà bản sắc dân tộc. Để rồi Việt Bắc đã thực sự trở
thành một trong những bài ca không bao giờ quên, không thể nào quên. Và đoạn thơ thể hiện
rõ Tính dân tộc trong thơ Tố Hữu.
=> TẠO NÊN TÍNH HẤP DẪN CỦA ĐOẠN THƠ VÀ THỂ HIỆN RÕ PHONG CÁCH THƠ
TỐ HỮU.
Đề 2:
Đề 2: Cảm nhận về đoạn thơ sau Trong bài thơ Việt Bắc,
Mình đi, có nhớ những ngày
………………………………….
Tân Trào, Hồng Thái, mái đình cây đa.
Dàn ý
 Mở bài :
Bài Việt Bắc là đỉnh cao trong sự nghiệp sáng tác thơ của Tố Hữu nói riêng, của thơ kháng
chiến chống Pháp nói chung. Có thế nói, Việt Bắc là khúc tình ca và cũng là khúc hùng ca,thế
hiện ân tình sâu nặng, thủy chung của nhà thơ đối với căn cứ địa Cách Mạng cả nước. Điều
này càng được khắc họa rõ nét hơn trong đoạn thơ:
“Mình đi, có nhớ những ngày
Mưa nguồn suối lũ, những mây cùng mù
………………..
Mình đi, mình có nhớ mình
Tân Trào, Hồng Thái, mái đình cây đa”.
 Thân bài:
Việt Bắc là một địa danh – là cái nôi của cách mạng Việt Nam tiền khởi nghĩa, là cơ quan
đầu não của cuộc kháng chiến chống Pháp. Nơi đây lưu giữ nhiều kỉ niệm giữa cán bộ cách
mạng và đồng bào trong những ngày kháng chiến trường kì gian khổ. Qua cuộc chia tay đầy
lưu luyến người đi kẻ ở, Tố Hữu đã thể hiện thành công nỗi nhớ chiến khu, khẳng định lòng

3
biết ơn sâu sắc của cán bộ về xuôi đối với đồng bào Việt Bắc cùng lời hứa nghĩa tình thủy
chung, son sắt.
Bốn câu đầu: người Việt Bắc hỏi người về xuôi.
“Mình đi có nhớ những ngày
Mưa nguồn suối lũ những mây cùng mù
Mình về có nhớ chiến khu
Miếng cơm chấm muối mối thù nặng vai”.
- Bốn câu thơ gợi nhắc đến những kỷ niệm kháng chiến gian khổ. Điệp từ “nhớ” được lặp lại
hai lần cùng với hai câu hỏi tu từ “có nhớ những ngày”, “có nhớ chiến khu” đã khơi gợi những
kỷ niệm gian khổ nhưng nghĩa tình: Mình còn nhớ hay không những ngày sống giữa thiên
nhiên khắc nghiệt?
- Liệt kê các hình ảnh: “Mưa nguồn suối lũ những mây cùng mù” – chỉ thiên nhiên, thời tiết
khắc nghiệt dữ dội. Đây cũng là hình ảnh ẩn dụ để chỉ cảnh “ăn tuyết nằm sương”, “nếm mật
nằm gai” mà cán bộ và nhân dân phải chịu đựng. Qua đó khẳng định quyết tâm cao độ của cán
bộ và nhân dân.
- Mình còn nhớ hay không những cảnh sinh hoạt thiếu thốn nhưng tinh thần luôn lạc quan?
Gian khổ vì thiếu thốn vật chất, ăn uống kham khổ: “miếng cơm chấm muối” – ăn không đủ
no, mặc không đủ ấm. Chính sự gian khổ đã gắn kết ta và mình để chung vai đấu cật, có phúc
cùng hưởng có hoạ cùng chia. Gạt đi những khó khăn “ta” và “mình” cùng gánh lên vai nhiệm
vụ chung – nhiệm vụ giải phóng dân tộc mà nhân dân giao phó, đó là “mối thù nặng vai” – mối
thù giặc Pháp đang đè nặng lên đôi vai. Ở đây, cái chung luôn đặt trên cái riêng, nghĩa vụ lớn
hơn khó khăn gian khổ – đây chính là, tinh thần lớn của thời đại.
Bốn câu tiếp: người Việt Bắc tiếp tục hỏi người cán bộ.
“Mình về, rừng núi nhớ ai
Trám bùi để rụng, măng mai để già
Mình đi, có nhớ những nhà
Hắt hiu lau xám, đậm đà lòng son“.
Người ở lại khơi gợi những kỷ niệm gắn bó với thiên nhiên và con người nặng nghĩa nặng tình.
Người đi nhớ về thiên nhiên chan chứa nghĩa tình.
“Rừng núi nhớ ai” vừa là nghệ thuật hoán dụ, vừa là câu hỏi tu từ – gợi lên nỗi niềm bâng
khuâng thương nhớ. Cách nói “Trám bùi để rụng măng mai để già” toát lên nỗi bùi ngùi
thương nhớ. Cấu trúc câu “để rụng…để già” gợi lên hình ảnh thiên nhiên núi rừng buồn bã, hiu
quạnh, trống vắng đến mênh mông vì thiếu vắng bóng dáng người cán bộ.
Hình ảnh “hắt hiu lau xám, đậm đà lòng son” vừa ẩn dụ, vừa tương phản thể hiện dù cuộc
sống nghèo nhưng tấm lòng vẫn thuỷ chung với cách mạng. Nỗi nhớ hướng về “những nhà”,
những con người Việt Bắc: “Hắt hiu lau xám, đậm đà lòng son”. Câu thơ sử dụng phép đảo
ngữ, đưa “hắt hiu” lên đầu câu tạo thành hai vế tương phản:
“Hắt hiu lau xám” còn để là để chỉ nỗi buồn trống vắng, hiu hắt của núi rừng; vừa có ý chỉ
những ngôi nhà của những con người áo chàm dân dã, bình dị; cũng là ẩn dụ cho sự nghèo khổ
của đồng bào Việt Bắc.
Vế sau nhấn mạnh phẩm chất người Việt Bắc: “đậm đà lòng son”. Đó là tấm lòng nhân dân
thủy chung, đậm đà luôn hướng về Cách mạng; luôn hi sinh, nhường cơm, sẻ áo cho bộ đội.
Chính những công sức của Việt Bắc và tấm lòng son đậm đà ấy đã góp phần không nhỏ để làm
nên chiến thắng Điện Biên “nên vành hoa đỏ, nên thiên sử vàng” và“lừng lẫy năm châu chấn
động địa cầu”.
Bốn câu thơ cuối, Việt Bắc gợi nhắc những sự kiện lịch sử gắn liền với những địa danh,
những tên gọi đã trở thành điểm mốc của chiến khu:
“Mình về, còn nhớ núi non
Nhớ khi kháng Nhật, thuở còn Việt Minh
4
Mình đi, mình có nhớ mình
Tân Trào, Hồng Thái, mái đình cây đa? ”
- Câu thơ có sự liệt kê hình ảnh “núi non”, liệt kê sự kiện “khi kháng Nhật, thuở còn Việt
Minh” để nhắc nhở người về xuôi rằng: Việt Bắc là nơi có mặt trận Việt Minh lãnh đạo cách
mạng đánh Pháp, đuổi Nhật, Việt Bắc là căn cứ quan trọng của cách mạng giải phóng dân tộc
thời kì trước 1945.
- Kết thúc đoạn thơ là một câu hỏi lạ: “Mình đi mình có nhớ mình”. Đây là một cách nói sâu
sắc. Từ “mình” thứ nhất và thứ hai chỉ người cán bộ về xuôi, từ “mình” thứ ba chỉ người Việt
Bắc. Giữa người Việt Bắc và cán bộ như đã có sự gắn bó mật thiết, hòa nhập, tuy hai mà một.
- Hình ảnh liệt kê mái đình Hồng Thái, cây đa Tân Trào chỉ hai địa danh gắn với hai sự kiện
quan trọng trước cách mạng tháng Tám, nhằm khẳng định Việt Bắc chính là cái nôi cách
mạng, là cội nguồn cách mạng.
* Nghệ thuật:
- Cả đoạn thơ có 7 chữ “mình” được lặp lại. Khi thì “mình đi”, “mình về” rồi lại “mình về”,
“mình đi” rồi “mình đi mình lại nhớ”… tạo nên một giai điệu trữ tình luyến láy như khắc như
chạm vào trong sâu thẳm tâm hồn người đi. Tác giả dùng từ “mình” kết hợp hai từ “đi – về”
biến hóa, linh hoạt gợi ra một cuộc chia tay đầy lưu luyến. Điệp từ “có nhớ” là tâm tình người
về với Việt Bắc.
- Thể thơ lục bát với âm điệu nhẹ nhàng, sâu lắng, vừa giàu chất tự sự, vừa giàu nhạc điệu ngọt
ngào đằm thắm của ca dao góp phần diễn tả tình cảm tha thiết của Việt Bắc với cách mạng, của
con người Việt Nam trong kháng chiến. Lối ngắt nhịp đều đặn 2/4; 4/4, trầm bổng ngân nga
của thơ ca dao lục bát như nhịp ru em êm ái. Nghệ thuật đối, phát huy tác dụng rất lớn trong
việc tô đậm cảnh và người. Nghệ thuật ẩn dụ làm tăng thêm khả năng liên tưởng của hình ảnh.
Phép trùng điệp vừa tạo vẻ đẹp nhịp nhàng về âm thanh, vừa gợi những cảm xúc sâu xa
3. Kết bài:
- Đoạn thơ trên không chỉ là nỗi lòng thương nhớ, là lời tâm tình của Việt Bắc. Mà nó còn tiêu
biểu cho phong cách thơ Tố Hữu: Giọng điệu thơ ngọt ngào truyền cảm, mang đậm phong vị
ca dao dân gian. Đề cập đến con người và cuộc sống kháng chiến. Thông qua hình tượng Việt
Bắc, Tố Hữu đã ca ngợi phẩm chất cách mạng cao đẹp của quân dân ta, khẳng định nghĩa thủy
chung son sắt của người cán bộ, chiến sĩ đối với Việt Bắc.
Đề 3: “Nhớ gì như nhớ người yêu
Trăng lên đầu núi nắng chiều lưng nương
Nhớ từng bản khói cùng sương
Sớm khuya bếp lửa người thương đi về.
Nhớ từng rừng nứa bờ tre
Ngòi Thia, sông Đáy, suối Lê vơi đầy.

Ta đi ta nhớ những ngày


Mình đây ta đó, đắng cay ngọt bùi.
Thương nhau, chia củ sắn lùi
Bát cơm sẻ nửa, chăn sui đắp cùng.
Nhớ người mẹ nắng cháy lưng
Địu con lên rẫy, bẻ từng bắp ngô.
Nhớ sao lớp học i tờ
Đồng khuya đuốc sáng những giờ liên hoan
Nhớ sao ngày tháng cơ quan
Gian nan đời vẫn ca vang núi đèo
Nhớ sao tiếng mõ rừng chiều
Chày đêm nện cối đều đều suối xa” …
5
(Trích Việt Bắc, Tố Hữu, Ngữ văn 12,
Tập một, NXB Giáo dục Việt Nam, 2016, tr 110)
Cảm nhận của anh/ chị về đoạn thơ trên. Từ tấm lòng của Tố Hữu với Việt Bắc.
Từ đó nhận xét tính trữ tình chính trị của Tố Hữu trong đoạn thơ.
1. Mở bài:
- Tố Hữu là một trong những lá cờ đầu của nền văn nghệ cách mạng Việt Nam hiện đại.
- Tố Hữu có nhiều tập thơ với nhiều bài thơ có giá trị, trong đó có bài thơ “Việt Bắc”. Đoạn
thơ sau thể hiện nỗi nhớ Việt Bắc của người ra đi ( trích thơ)
- Thơ Tố Hữu thể hiện lẽ sống, tình cảm cách mạng của con người Việt Nam nhưng mang đậm
chất dân tộc, truyền thống + VĐ nghị luận
2.Thân bài:
a. Khái quát về bài thơ, đoạn thơ:
- Sau chiến thắng Điện Biên Phủ, Miền Bắc được giải phóng. Tháng 10 năm 1954, các cơ quan
Trung ương Đảng và Nhà nước chuyển từ Việt Bắc(Thủ đô kháng chiến) về thủ đô Hà Nội. Sự
lưu luyến giữa kẻ ở và người ra đi đã khơi nguồn cảm xúc lớn cho nhà thơ sáng tác “Việt Bắc”
- Vị trí: Đoạn trích thuộc phần đầu của bài thơ
- Nêu ý chính toàn đoạn thơ: Khẳng định tấm lòng trước sau như một, nỗi nhớ sâu sắc trào
dâng, tình cảm ân tình giữa kẻ đi với người ở. Cảnh sắc thiên nhiên, cuộc sống sinh hoạt, kỉ
niệm kháng chiến lần lượt hiện ra sâu sắc, chân thực.
b. Cảm nhận về đoạn thơ:
* Nỗi nhớ thiên nhiên: Nhớ thiên nhiên thanh bình, yên ả và thơ mộng:
+ Nỗi nhớ của người cán bộ kháng chiến đối với Việt Bắc vừa đa dạng, vừa cụ thể. Trong cuộc
đời, có mảnh đất nào đã đi qua, đã từng gắn bó mà khi ra đi lại không để thương nhớ cho lòng
người. Trong hoài niệm của nhà thơ, Việt Bắc không chỉ là những ngày mưa rừng sương núi
mà còn là một vùng đất thơ mộng, thanh bình, yên ả gợi bao nỗi nhớ niềm thương
Nhớ gì như nhớ người yêu
Trăng lên đầu núi, nắng chiều lưng nương
Nhớ từng bản khói cùng sương
Sớm khuya bếp lửa người thương đi về.
Nhớ từng rừng nứa bờ tre
Ngòi Thia, sông Đáy, suối Lê vơi đầy”
+ Nỗi nhớ Việt Bắc được so sánh như “nhớ người yêu”. Một nỗi nhớ cháy bỏng, tha thiết,
mãnh liệt. Tình yêu là nỗi nhớ, nhất là phải xa nhau thì nỗi nhớ càng cồn cào, da diết khôn
nguôi. Dường như nỗi nhớ của người cách mạng với thiên nhiên, với đồng bào Việt Bắc có lẽ
cũng không kém phần tha thiết như thế. Vì vậy, cảnh và người phút chốc lại trở về vơi đầy
trong tâm trí của người ra đi.
+ Nỗi nhớ ấy vừa được so sánh với “Trăng lên đầu núi nắng chiều lưng nương”, vừa gắn với
không gian, thời gian đầy ắp kỉ niệm:
. “Trăng lên đầu núi nắng chiều lưng nương” vừa là cảnh thật vừa mang ý nghĩa biểu tượng.
Trăng là ban đêm, nắng là ban ngày. Như vậy, nỗi nhớ ở đây bao trùm khắp cả không gian và
thời gian.
. Nỗi nhớ còn rộng lớn, bao phủ khắp không gian, “đầu núi”, “lưng nương”, từ “rừng
nứa”, “bờ tre” đến “ngòi Thia, sông Đáy, suối Lê”. Nhớ những đêm trăng sáng yên ả, thanh
bình, những buổi chiều nắng trải vàng ấm áp trên nương. Nhớ cảnh núi đèo, bản làng chìm
trong sương khói, cảnh bếp lửa bập bùng trong mỗi đêm đông và hình ảnh con người thân
thương, tảo tần đi về hôm sớm.
+ Điệp từ “nhớ” đặt đầu các câu thơ làm nổi bật lên nỗi nhớ ngày càng mênh mông, bất tận. Ở
đoạn thơ này, thiên nhiên Việt Bắc không còn ảm đạm “những mây cùng mù” mà ấp áp, vui
tươi. Thiên nhiên, cuộc sống hiện lên vừa thực vừa mộng, vừa đơn sơ vừa thi vị, gợi rõ nét sự
6
riêng biệt, độc đáo, khác hẳn với bao miền quê đất Việt. Chỉ có những con người sống, gắn bó
máu thịt với Việt Bắc mới có cái nhìn toàn diện, có nỗi nhớ da diết và cảm nhận sâu sắc, thấm
thía đến như thế:
“Khi ta ở chỉ là nơi đất ở
Khi ta đi đất đã hoá tâm hồn”
* Bốn dòng thơ tiếp là lời người ra đi đáp lại nghĩa tình của người ở lại. Giọng thơ tha
thiết, chân thành gợi lên bao nỗi nhớ về những ngày khó khăn gian khổ của ta và mình.
“Ta đi ta nhớ những ngày
Mình đây ta đó đắng cay ngọt bùi
Thương nhau chia củ sắn lùi
Bát cơm sẻ nửa chăn sui đắp cùng”
Nếu người ở lại hỏi “mình đi có nhớ những ngày” thì người ra đi đáp lại: “Ta đi ta nhớ những
ngày”. “Những ngày” ở đây là cách nói chỉ thời gian gắn bó nhớ thương vô vàn giữa người đi
kẻ ở. Đó là nỗi nhớ về “mười lăm năm ấy thiết tha mặn nồng” với bao ân tình cao đẹp. Mười
lăm năm ta đã cùng mình gánh vác giang sơn, chịu đựng bao gian khổ, thiếu thốn; đã cùng
nhau đi qua bao biến cố; mười lăm năm ấy giờ đã thành máu thịt trong nhau rồi. Bốn chữ
“mình đây, ta đó” gợi lên mối quan hệ gắn bó khăng khít. Chữ “đây – đó” chỉ hai con người
liền kề, gần gũi, cùng nhau chung lưng đấu cật, kề vai sát cánh.
Thành ngữ “đắng cay ngọt bùi” giàu sức gợi. “Đắng cay ngọt bùi” là bốn tính từ chỉ bốn dư
vị, bốn giai âm của cuộc sống. “Đắng cay ngọt bùi” cũng là ẩn dụ để nói đến những thăng trầm
trong cuộc đời mà ta và mình đã cùng nhau trải qua. “Đắng cay” là để chỉ những gian khổ, mất
mát, hi sinh; “ngọt bùi” chỉ niềm vui, hạnh phúc, vinh quang. Ý thơ thể hiện ý nghĩa sâu xa: ta
đã cùng mình trải qua những thăng trầm, trải qua bao gian khó, bao buồn vui, ngọt bùi cay
đắng.
Nghĩa tình ấy còn được Tố Hữu thể hiện thật sâu sắc qua ý thơ:
“Thương nhau chia củ sắn lùi
Bát cơm sẻ nửa chăn sui đắp cùng”
Các hình ảnh: “chia củ sắn”, “bát cơm sẻ nửa”, “chăn sui đắp cùng” kết hợp ba động từ
“chia-sẻ-đắp” đã cụ thể hoá tình đoàn kết, hữu ái giai cấp, gắn bó sâu sắc, chân thành giữa
cách mạng và nhân dân. Đó cũng là những động từ bộc lộ tình cảm đồng cam cộng khổ của
Việt Bắc và cách mạng. Nhớ những ngày đói kém, ta cùng mình chia bùi sẻ ngọt: đói ăn ta có
củ sắn chia đôi, bát cơm sẻ nửa; nhớ mùa đông lạnh giá, ta đã cùng mình đắp chung một mảnh
chăn sui. Thế mà cùng nhau đi qua bao gian khó. Đó là tình cảm thuỷ chung, gắn bó được
chưng cất qua thời gian dài mà ta cùng mình chung lưng đấu cật, có phúc cùng hưởng, có hoạ
cùng chia.
-> Nhà thơ đã điễn tả thật xúc động sự đồng cam, cộng khổ, chia sẻ ngọt bùi của nhân dân đối
cới cách mạng và kháng chiến đã trở thành một biểu tượng đẹp đẽ của tình quân dân thắm thiết
một thời. Hai câu thơ chứa đựng bao tình nghĩa sâu đậm. Tất cả những khoảnh khắc ấy sáng
mãi trong lòng người ra đi, tâm trí người ở lại, ghi dấu ấn không thể xóa nhòa.
* Hai câu thơ tiếp theo: Nhớ về Việt Bắc trước hết là nhớ người mẹ nuôi Việt Bắc đã hết
lòng vì cán bộ chiến sĩ:
“Nhớ người mẹ nắng cháy lưng
Địu con lên rẫy, bẻ từng bắp ngô”
Hình ảnh “người mẹ nắng cháy lưng” gợi cho người đọc liên tưởng đến thiên nhiên Việt Bắc
vô cùng khắc nghiệt. Nắng thì đến cháy lưng, mà rét thì như cắt da cắt thịt. Hai chữ “cháy
lưng” nhói lên nỗi xót thương vô hạn của tác giả đối với những bà mẹ Việt Bắc. Các động từ
“địu con”, “bẻ từng” cũng gợi lên sự tần tảo, cần cù lao động, vất vả gian khổ của bà mẹ nuôi
trong kháng chiến đã đùm bọc, cưu mang chiến sĩ, cán bộ cách mạng. Người mẹ không quản
ngại thời tiết khắc nghiệt, dữ dội “nắng cháy lưng” vẫn cần mẫn vừa địu con vừa lao động. Hai
7
chữ “bẻ từng” gợi ra dáng vẻ người mẹ đang cặm cụi lao động, mẹ đang chắt chiu, dành dụm
từng hạt bắp làm lương thực nuôi quân. Đó là những ân tình không thể nào quên trong ký ức
của người về.
* Sáu câu cuối: nhớ về Việt Bắc là nhớ về cuộc sống sinh hoạt kháng chiến một thời
không thể nào quên:
Nhớ sao lớp học i tờ
Đồng khuya đuốc sáng những giờ liên hoan
Nhớ sao ngày tháng cơ quan
Gian nan đời vẫn ca vang núi đèo
Nhớ sao tiếng mõ rừng chiều
Chày đêm nện cối đều đều suối xa” …
+ Đó là kỷ niệm với lớp học bình dân học vụ – nơi cán bộ dạy chữ cho nhân dân vùng cao (lớp
học i tờ); nhớ những đêm liên hoan văn nghệ giữa núi rừng đầy náo nức, tưng bừng. Đó là
ngày tháng hoạt động cách mạng đầy gian nan, vất vả nhưng tinh thần thì luôn vui vẻ. Câu thơ
“gian nan đời vẫn ca vang núi đèo” có sự tương phản giữa đời sống vật chất gian khổ và tinh
thần luôn lạc quan, yêu đời. Dù có khó khăn đến đâu thì vẫn cứ “ca vang núi đèo”.
+ Nhớ những thanh âm đặc trưng của miền núi: tiếng mõ rừng chiều, tiếng chày đêm nên cối,
tiếng suối xa,….Đó là những hồi ức về cuộc sống bình dị ấm áp mà vui tươi nơi núi rừng Việt
Bắc. Hai câu thơ cuối gợi nhớ vẻ đẹp thanh bình của núi rừng Việt Bắc. Tiếng mõ rừng chiều
gợi hình ảnh từng đàn trâu, đàn bò từ rừng núi thong thả trở về bản làng, tiếng mõ vang vọng,
rộn ràng cả buổi chiều sơn cước. Mỗi đêm khuya thanh vắng, tiếng chày giã gạo từ suối xa vẫn
đều đều vỗ về trong giấc ngủ.
+ Điệp cấu trúc “Nhớ sao” 3 lần cùng phép đối lập và cảm hứng lãng mạn. Nỗi nhớ Việt Bắc là
nỗi nhớ dạt dào và trùng điệp vang mãi trong tấm lòng mỗi con người kháng chiến.
 Đoạn thơ vừa phân tích trên đây là đoạn thơ tiêu biểu cho nghĩa tình cao đẹp giữa cán
bộ và nhân dân Việt Bắc. Đoạn thơ đã khơi dậy kỷ niệm mười lăm năm gắn bó keo sơn
bền chặt với bao vất vả gian lao thiếu thốn nhưng luôn đầy lạc quan, tin yêu. Đoạn thơ
khắc họa rõ nét vẻ đẹp tâm hồn, tính cách con người Việt Nam luôn sống gắn bó thủy
chung, hết lòng yêu cách mạng, yêu quê hương đất nước.
* Về nghệ thuật:
- Bức tranh Việt Bắc hiện lên qua nỗi nhớ của chủ thể trữ tình, trong hoài niệm có ba mảng
thống nhất và hòa nhập vào nhau: nỗi nhớ thiến nhiên, núi rừng Việt Bắc, cuộc sống ở Việt
Bắc.
- Giọng thơ tâm tình, ngọt ngào, tha thiết
- Điệp từ “nhớ”, điệp ngữ: nhớ sao….nhớ người… trùng điệp, cùng cách ngắt nhịp của câu thơ
tạo nên nét nhạc thơ thật đằm thắm.
- Hình ảnh chân thực, bình dị, giàu sức gợi cảm.
- Thể thơ lục bát đậm đà tính dân tộc; tứ thơ đối đáp “mình – ta” truyền thống mà hiện đại;
giọng thơ tâm tình ngọt ngào, thương mến;
- Các biện pháp tu từ: điệp từ, lặp cấu trúc ngữ pháp.
C. Nhận xét về tính trữ tình chính trị trong đoạn thơ:
- Thơ Tố Hữu là thơ chính trị: đề tài trong thơ ông là những vấn đề chính trị, hồn thơ đó luôn
hướng tới “cái ta” chung với lẽ sống lớn, tình cảm lớn và niềm vui lớn của Đảng, dân tộc, cách
mạng.
- Thơ Tố Hữu cũng rất đỗi trữ tình: những vấn đề chính trị trong thơ Tố Hữu đã được chuyển
hóa thành những vấn đề của tình cảm, cảm xúc rất mực tự nhiên, chân thành, đằm thắm với
một giọng thơ ngọt ngào, tâm tình, giọng của tình thương mến.
- Đoạn thơ tiêu biểu cho phong cách thơ Tố Hữu: Cảm hứng chủ đạo của đoạn thơ là cảm
hứng ân tình Cách mạng, niềm biết ơn sâu sắc với Đảng, Bác Hồ, căn cứ địa CM, nhân dân
8
trong suốt 15 năm gắn bó. Đặc biệt là nỗi nhớ sâu đậm, da diết về con người Việt Bắc, về
những ngày tháng chia ngọt sẻ bùi, về Tình quân dân thắm thiết.
- Chất trữ tình thể hiện qua hình thức nghệ thuật: thể thơ lục bát với giọng thơ ngọt ngào, tâm
tình tha thiết, xưng hô mình-ta quen thuộc trong ca dao
Đề 4: Phân tích đoạn thơ sau trong bài “Việt Bắc” của Tố Hữu: “Những đường Việt Bắc
của ta .... Vui lên Việt Bắc, đèo De, núi Hồng.” Qua đó làm rõ phong cách nghệ thuật
mang tính sử thi và cảm hứng lãng mạn của nhà thơ Tố Hữu –BỨC TRANH CẢ NƯỚC
RA TRẬN
“Những Đường Việt Bắc của ta
………………..
Vui lên Việt Bắc, đèo De, núi Hồng”
Gợi ý
1. MB: Nhà văn Tố Hữu đã từng chia sẻ: “Tôi phải lòng đất nước và nhân dân mình và cũng
đá nói nhiều về đất nước và nhân dân mình như người đàn bà mình yêu”. Có thể nói, thơ Tố
Hữu là bản tình ca về đất nước và con người Việt Nam. Trong số những bản tình ca ấy, ta
không thể không nói kể tới "Việt Bắc" - đỉnh cao của Tố Hữu, là tác phẩm xuất sắc trong văn
học kháng chiến chống Pháp. Việt Bắc không chỉ là bản tình ca sâu sắc mặn nồng giữa kẻ ở
người đi mà còn là khúc hùng ca về những người anh hùng dân tộc. Bên cạnh những vần thơ
trữ tình ngọt ngào, ta còn bắt gặp những vần thơ tràn đầy khí thế chiến thắng của quân và dân
ta:
“Những đường Việt Bắc của ta

Vui lên Việt Bắc, đèo De, núi Hồng”.
Đây là đoạn thơ tiêu biểu nhất cho phong cách nghệ thuật mang tính sử thi và cảm hứng lãng
mạnh của thi sĩ Tố Hữu.
2. TB:
a. Luận điểm 1: Giới thiệu tác giả, tác phẩm và nêu vị trí của đoạn thơ
Tố Hữu là cánh chim đầu đàn của nền văn học cách mạng Việt Nam. Ông là nhà thơ của lí
tưởng cộng sản tiêu biểu cho khuynh hướng trữ tình – chính trị. Đồng thời gắn bó với khuynh
hướng sử thi và cảm hứng lãng mạn. Bên cạnh đó thơ ông còn mang giọng điệu tâm tình, tha
thiết và đậm đà bản sắc dân tộc. Đây là những tiêu chí làm nên văn phong nghệ thuật đặc trưng
cho thơ Tố Hữu. Các chặng đường thơ của Tố Hữu luôn song hành, gắn bó và phản ánh chân
thực những chặng đường đấu tranh cách mạng gian khổ, đầy hy sinh nhưng cũng nhiều thắng
lợi vinh quang của dân tộc.
“Việt Bắc” được coi là một tác phẩm xuất sắc của nền thơ ca Việt Nam thời kì kháng chiến
chống Pháp. Đúng như Xuân Diệu đã từng nhận xét: “Việt Bắc là đỉnh thơ cao nhất mà Tố
Hữu đã bước lên”. Bài thơ được sáng tác vào 10/1954 sau khi cuộc kháng chiến chống Pháp
kết thúc thắng lợi, cơ quan trung ương Đảng và chính phủ rời chiến khu Việt Bắc để trở về thủ
đô sao vàng – Hà Nội. Nhân sự kiện mang tính trọng đại đó, Tố Hữu là một trong những người
chiến sĩ có mặt trong cuộc chia tay ấy đã sáng tác bài thơ “Việt Bắc”.
* Vị trí: Nhớ về VB nhà thơ không chỉ nhớ về thiên nhiên, con người nơi đây, nhớ về
những ngày tháng kháng chiến đầy khó khăn, gian khổ. Mà nhà thơ còn nhớ về những
ngày tháng hào hùng của cuộc kháng chiến. Và 12 câu thơ “…..” tác giả đã tái hiện lại
bức tranh cả nước ra trận trogn những ngày kháng chiến đầy hào hùng.
b. Luận điểm 2: Phân tích:
- Hai câu thơ đầu: là cái nhìn khái quát chung cuộc kháng chiến của ta là một cuộc chiến tranh
giải phóng dân tộc:
“Những đường Việt Bắc của ta
Đêm đêm rầm rập như là đất rung”
9
+ Từ khắp nẻo đường Việt Bắc, đoàn quân hùng hậu của chúng ta hướng về mọi mặt trận với
khí thế hiên ngang.
+ Đại từ sở hữu “của ta” vang lên một cách dõng dạc thể hiện niềm tự hào của những con
người được làm chủ đất nước, đồng thời khẳng định Việt Bắc là chiến khu tự do.
+ Điệp từ “đêm đêm” diễn tả khoảng thời gian quân và dân ta thực hiện chiến lược lấy đêm
làm ngày, lấy ngày làm đêm. Không phải ngẫu nhiên mà thơ ca kháng có nhiều bài tả cảnh
đêm:
“Những đêm dài hành quân nung nấu
Bỗng bồn chồn nhớ mắt người yêu”
(Đất nước – Nguyễn Đình Thi)
+ Từ láy “rầm rập” kết hợp với biện pháp nghệ thuật so sánh “như là đất rung” vừa diễn tả
hình ảnh một đoàn quân dài vô tận, vừa đặc tả bước chân đi đầy khí thế hăng say của một tập
thể người đông đúc. Đó chính là sức mạnh của dân tộc Việt Nam với khí thế chiến đấu thần kì
phải khiến cho trời rung đất chuyển, thiên địa hoảng hồn => Hình ảnh này giống như đoàn
quân Sát Thát trong bài “Tỏ lòng” của Phạm Ngũ Lão:
“Tam quân tì hổ khí thôn ngưu”
(Ba quân trí mạnh nuốt trôi trâu)
- Hai câu thơ tiếp là khúc hùng ca về đoàn quân ra trận với khí thế ngút trời, nổi bật trong đó
là những anh bộ đội cụ Hồ:
“Quân đi điệp điệp trùng trùng
Ánh sao đầu súng bạn cùng mũ nan”
+ Hai từ láy “điệp điệp”, “trùng trùng” đi liền với nhau có sức gợi tả mạnh.
=> Vừa diễn tả một đoàn quân đông đúc, nối tiếp nhau vô tận, vừa gợi lên khí thế hiên ngang
hào hùng với vũ khí tân trang tinh nhuệ
+ Hình ảnh “ánh sao đầu súng” là một hình ảnh tràn đầy hiện thực nhưng cũng rất đỗi lãng
mạn, vô cùng độc đáo và đặc sắc gợi nhiều ý nghĩa liên tưởng. Đó có thể là hình ảnh ánh sao
trời treo trên đầu súng của những người lính trong mỗi đêm hành quân như "Đầu súng trăng
treo” trong bài thơ Đồng chí của Chính Hữu; Cũng có thể là ánh sáng của ngôi sao gắn trên
chiếc mũ nan của người lính; hơn thế nữa nó còn là ánh sáng của lí tưởng cách mạng soi cho
người lính bước đi.
- Góp phần vào sự hào hùng của cuộc kháng chiến chống Pháp của dân tộc ta có cả một tập
thể quần chúng nhân dân tham gia kháng chiến qua hai câu thơ tiếp:
“Dân công đỏ đuốc từng đoàn
Bước chân nát đá muôn tàn lửa bay”
+ Dân công là những người làm nhiệm vụ: xẻ núi, lăn bom, tải lương thực, súng đạn để phục
vụ cho chiến trường. Đây là một lực lượng quan trọng góp phần làm nên chiến thắng vẻ vang.
Trong bài “Hoan hô chiến sĩ Điện Biên” của Tố Hữu từng xuất hiện hình ảnh các anh chị dân
công:
“Dốc Pha Đin chị gánh anh thồ
Đèo Lũng Lô, anh hò chị hát
Dù bom đạn xương tan thịt nát
Không sờn lòng, không tiếc tuổi xanh”.
+ Nghệ thuật đảo ngữ “dân công” lên đầu, “từng đoàn” xuống cuối nhằm nhấn mạnh hình ảnh
một đoàn dân công đông đảo nối tiếp nhau vô tận.
+ “Bước chân nát đá” là hình ảnh được cường điệu hóa , ẩn dụ biểu tượng cho sức mạnh của
quân và dân Việt Nam ta, tô đậm một sức mạnh long trời lở đất, một khí thế ngút trời , sánh
ngang với thiên nhiên vũ trụ. => Tố Hữu đã rất tài năng khi biết tiếp thu ý từ thành ngữ dân
gian “chân cứng đá mềm” để áp dụng vào cách nói này.
+ Hình ảnh “muôn tàn lửa bay” vô cùng lãng mạn gợi cho người đọc cảm nhận con đường
10
hành quân ra trận lung linh huyền ảo bởi khi những cơn gió thổi tàn lửa bay tạt lại về sau khiến
cho con đường ấy thêm rực sáng hơn.
=> Hai câu thơ sử dụng nhiều hình ảnh vừa chân thực vừa bay bổng khiến đoàn dân công đi
vào chiến dịch như đi trong hội đăng hoa.
- Hai câu tiếp theo cho ta thấy được khí thế khẩn trương của cuộc kháng chiến qua việc khắc
họa hình ảnh đoàn xe cơ giới ầm ầm kéo nhau ra trận:
“Nghìn đêm thăm thẳm sương dày
Đèn pha bật sáng như ngày mai lên”
+ “Nghìn đêm” là con số ước lệ tượng trưng hơn 3000 ngày đêm kháng chiến chống Pháp, gợi
ta liên tưởng tới những năm tháng lầm than của cả dân tộc khi bị đắm chìm trong chiến tranh.
Đó là cả một quá khứ đau thương, mất mát.
+ Động từ mạnh “bật” nhưu làm bừng sáng cả đoạn thơ, nó bật nhanh đẩy lùi bóng tối, xóa tan
màn sương mù thăm thẳm. Kết hợp với nghệ thuật so sánh “đèn pha bật sáng” giống khoảnh
khắc mặt trời mọc của một ngày mới. Ánh đèn pha chính là ánh sáng của ngày mai, của hy
vọng, của niềm tin chiến thắng. => Hình ảnh so sánh chân thực, khẳng định một niềm tin tất
thắng vào lí tưởng và cuộc chiến đấu chính nghĩa của ta.
+ Hai câu thơ với hai hình ảnh đối lập càng nhấn mạnh tầm quan trọng của những ngày kháng
chiến đầy cơ cực, gian lao và làm rõ hơn sự trưởng thành vượt bậc của quân và dân ta cùng
niềm tin tất thắng vào tương lai tươi sáng.
- Nhờ có sức mạnh của quân đội nhân dân Việt Nam cùng với sự góp công góp sức không
nhỏ của đoàn dân quân và đoàn xe cơ giới, từ những đêm lịch sử hào hùng một “bản đồ vui”
trải rộng khắp cả nước báo tin vui đã được tác giả phác họa qua 4 câu cuối cùng:
“Tin vui chiến thắng trăm miền
Hòa Bình, Tây Bắc, Điện Biên vui về
Vui từ Đồng Tháp, An Khê
Vui lên Việt Bắc, đèo De, núi Hồng”
+ Điệp từ “vui" được lặp đi lặp lại nhiều lần gợi lên những đợt sóng tình cảm trào dâng, đợt
sóng này kế tiếp đợt sóng kia cứ dâng lên, dâng lên mãi, tràn ngập tâm hồn nhà thơ, trong lòng
quân dân cả nước.
+ Những cụm từ “vui lên”, “vui về”, “vui từ”… vừa tạo bầu không khí rộn ràng, phấn chấn
vừa khẳng định niềm tự hào, tự tôn dân tộc. Cách nói ấy thể hiện thái độ trân trọng của cán bộ
cách mạng đối với Việt Bắc, nhấn mạnh rằng Việt Bắc chính là cái nôi của cách mạng.
+ Không hề xuất hiện một từ “nhớ” – theo đúng chủ đạo của toàn bài, nhưng chúng ta vẫn
ngầm hiểu nỗi lòng của tác giả. Có lẽ mỗi địa danh gắn với từng chiến công này không cần ta
phải nói nhớ mới có thể nhớ đến, mà chỉ cần nhắc đến là lập tức quá khứ đã ùa về. Bởi lẽ nó đã
trở thành một phần kí ức sâu thẳm trong tâm trí người cán bộ về xuôi.
Một loạt các địa danh được nhắc đến trong niềm vui bất tận, tác giả liệt kê những trận đnáh,
những chiến thắng trên những địa danh thân yêu của đất nước. Đó cũng là tiếng reo vui, niềm
tự hào của dân tộc. Những niềm vui này sẽ mãi đi vào lịch sử như những chiến thắng của Ngọc
Hồi, Đống Đa của thế kỉ 20.
=> Chỉ với 12 câu thơ, Tố Hữu đã thành công khắc họa một bức tranh cả dân tộc ra trận bằng
cuộc chiến tranh nhân dân thật hùng tráng. Bức tranh ấy không chỉ làm sống dậy một thời kì
hào hùng của cả dân tộc mà còn thể hiện niềm tự hào tự tôn dân tộc, niềm tin yêu vào quê
hương, cách mạng.
c. Luận điểm 3: Đánh giá về giá trị nghệ thuật: Lối thơ ca dao lục bát quen thuộc, những từ
ngữ gợi hình gợi cảm, những hình ảnh đậm chất sử thi, lãng mạn, sử dụng linh hoạt biện pháp
tu từ,…
d. Luận điểm 4: Đánh giá về khuynh hướng sử thi và cảm hứng lãng mạn được thể hiện
trong đoạn thơ trên
11
- Khuynh hướng sử thi là gì? Là những cảm xúc tự hào, ngợi ca của tác giả về những vấn đề
lớn lao cảu cả dân tộc mang tính lịch sử thời đại
=> Trong đoạn thơ trên được thể hiện qua các nhân vật được nhắc đến như: anh bộ đội cụ Hồ,
đoàn dân công hỏa tuyến mộc mạc nhưng hết lòng vì quê hương tổ quốc. Bên cạnh đó là một
số hình tượng như: ánh sa, đèn pha đoàn xe cơ giới…
- Cảm hứng lãng mạn là gì? Là một trào lưu nghệ thuật thịnh hành vào những năm 1945-1975,
nó là cảm hứng khẳng định cái tôi vượt lên hiện thực, thoát li với hiện thực, hướng tới niềm
tin.
=> Trong đoạn thơ được thể hiện qua việc diễn tả khí thế hào hùng, oai dũng của đoàn quân;
sự lạc quan, niềm tin mãnh liệt vào tương lai phía trước…
=> Tố Hữu đã rất tài tình khi biết kết hợp những yếu tố dân tộc cùng phong cách nghệ thuật
thơ đậm dấu ấn riêng của mình để viết nên một bức tranh hùng tráng, tràn đầy khí thế chiến
thắng của quân dân ta.
3. KB: Khẳng định lại vấn đề cần nghị luận và có thể liên hệ mở rộng theo hướng đi từ một
nhận định, cảm nghĩ của bản thân…
Có ai đó từng nói: “Thơ ca bắt rễ từ lòng người, nở hoa nơi từ ngữ”. Thật vậy thông qua
khúc nhạc đẹp đẽ, hào hùng ấy nhà thơ đã bộc lộ được những tình cảm tha thiết, sâu đậm của
mình dành cho vùng núi rừng Việt Bắc, ngợi ca tình đồng chí, nghĩa tình đồng bào. Qua bài
thơ Việt Bắc, tác giả cũng nhắn nhủ đến người đọc đừng quên những trang sử hào hùng của
dân tộc, những trang sử thấm đẫm máu và nước mắt, cũng là những những trang sử thấm
đượm tình cách mạng, lòng yêu nước sâu sắc.
MỘT SỐ MỞ BÀI
1. Mở bài
Có một nhà thơ đã từng tâm sự: “Tôi phải lòng đất nước và nhân dân của mình” đã viết về đất
nước, về nhân dân của mình như nói với người đàn bà mình yêu. Có một nhà thơ cũng đã từng
khẳng định: “Thơ là tiếng nói đồng ý, đồng chí, đồng tình” và gắn cả cuộc đời của mình với
cuộc đời cách mạng, nhà thơ đó không ai khác ngoài Tố Hữu. Trong sự nghiệp sáng tác của
mình, Tố Hữu đã để lại cho văn đàn Việt Nam rất nhiều những áng thơ hay, một trong số đó
không thể không nhắc tới đó là bài thơ Việt Bắc. Việt Bắc – khúc tình ca chính trị, được đánh
giá là một trong những tác phẩm xuất sắc nhất của đời thơ Tố Hữu.
2. Mở bài
Chế Lan Viên đã từng khẳng định: “Thơ cần có hình cho người ta thấy, có ý cho người ta nghĩ
và cần có tình để rung động trái tim”. Và tác phẩm của Tố Hữu đã làm rung động lòng người
bởi những hình ảnh thân thương gần gũi và triết lý về con người và cuộc đời. Bởi tình người
thắm thiết đậm đà không phôi pha theo thời gian. Bài thơ “Việt Bắc” là một trong những minh
chứng tiêu biểu cho khả năng lay động trái tim con người tiêu biểu cho tài năng thơ phong
cách thơ Tố Hữu - một thi sĩ được mệnh danh là lá cờ đầu thơ ca cách mạng Việt Nam. Và
đoạn thơ thứ tư là một trong những khúc ca của nỗi nhớ đã để lại dấu ấn trong lòng bao thế hệ
bạn đọc.
3. Khi mà nhắc tới Tố Hữu, chắc hẳn không ai không nhớ tới bài thơ Việt Bắc. Sau chiến thắng
Điện Biên Phủ lịch sử “nên vành hoa đỏ nên thiên sử vàng”, hòa bình đã được lặp lại ở miền
Bắc. Từ thủ đô kháng chiến gió ngàn cũng như Trung ương Đảng và Chính phủ trở về tiếp
quản thủ đô Hà Nội. Tố Hữu là một người chiến sĩ cách mạng đã từng sống một quãng thời
gian dài với Việt Bắc, đã gửi một phần tâm hồn mình ở nơi Việt Bắc. Nay khi phải rời xa chiến
khu, trong tâm trạng bịn rin lưu luyến , nhớ thương của người đi kẻ ở từ đó Tố Hữu đã sáng tác
bài thơ này. Bài thơ là cả nỗi niềm chất chứa cũng như nhớ nhung của nhân vật trữ tình dành
cho những con người trọn tình trọn nghĩa nơi Việt Bắc dấu yêu…Và đoạn thơ . .. đã thể hiện
rất rõ điều đó.

12

You might also like