Professional Documents
Culture Documents
ĐỀ CƯƠNG 4 ĐOẠN VIỆT BẮC
ĐỀ CƯƠNG 4 ĐOẠN VIỆT BẮC
ĐOẠN 1 (8 CÂU ĐẦU) Phân tích 8 câu đầu và nhận xét về tính dân tộc.
1. Mở bài:
Không trộn lẫn..."
(Vân chữ- Cao Đạt)
Cái "vân chữ... không trộn lẫn" của nhà thơ hay của một nhà văn thứ thiệt mà Cao Đạt nhắc
đến ở đây chính là phong cách tác giả, là sự thể hiện tài nghệ của người nghệ sĩ qua tác phẩm
nghệ thuật mang đậm dấu ấn cá nhân của tác giả. Là lá cờ đầu của thơ ca Cách mạng, Tố Hữu
xuất hiện giữa làng thơ với một phong cách thơ độc đáo, hấp dẫn, đó chính là tính trữ tình-
chính trị sâu sắc, dậm chất sử thi và cảm hứng lãng mạn. Kết tinh vẻ đẹp độc đáo ấy của thơ
Tố Hữu phải kể đến Việt Bắc- bản anh hung ca, cũng là bản tình ca về cách mạng kháng chiến
và con người kháng chiến. Làm nên Việt Bắc- một bản tình ca thấm đẫm màu sắc dân tộc phải
kể đến tám câu thơ đầu của tác phẩm:
"Mình đi mình có nhớ ta
Mười lăm năm ấy thiết tha mặn nồng
Mình về mình có nhớ không
Nhìn cây nhớ núi, nhìn sông nhớ nguồn
Tiếng ai tha thiết bên cồn
Bâng khuâng trong dạ, bồn chồn bước đi
Áo chàm đưa buổi phân li
Cầm tay nhau biết nói gì hôm nay"
2. Thân bài
a. Khái quát chung:
Tố Hữu là nhà thơ của lý tưởng cộng sản. Ông đến với thơ ca và cách mạng cùng một lúc. Vì
vậy cho nên chặng đường thơ của ông luôn song hành với những chặng đường cách mạng mà
lộng gió thời đại với những tập thơ: Từ ấy, Việt Bắc, Gió lộng, Ra trận, Máu và hoa, Một tiếng
đờn, Ta với ta... Trong đó có thể nói Việt Bắc là đỉnh cao của thơ ca Tố Hữu nói riêng và thơ
ca chống Pháp nói chung. Bài thơ Việt Bắc được trích từ tập thơ cùng tên và được sang tác vào
tháng 10/1945, khi Trung ương Đảng và Chính phủ cùng cán bộ chiến sĩ rời chiến khu để về
tiếp quản thủ đô Hà Nội. Lấy cảm cảm hứng từ buổi chia tay ấy, Tố Hữu đã xúc động viết nên
bài thơ này. Tính dân tộc của bài thơ thể hiện ở cả nghệ thuật lẫn nội dung và thể hiện sâu sắc
nhất là ở tám câu thơ đầu.
b. Phân tích đoạn thơ:
- Nhà thơ đã khéo vận dụng lối đối đáp vốn là hình thức diễn ý quen thuộc trong ca dao dân
ca:
"Bây giờ mận mới hỏi đào
Vườn hồng có lối ai vào hay chưa
Mận hỏi thì đào xin thưa
Vườn hồng có lối nhưng chưa ai vào"
Chính điều ấy đã làm cho bài thơ mang đậm âm hưởng ngọt nào và thấm đượm tinh thần dân
tộc. Bên cạnh đó ngôn ngữ là yếu tố góp một phần không nhỏ gợi lên cái hồn dân tộc của tác
phẩm nói chung và tám câu thơ đầu nói riêng chính là ngôn ngữ. Ngôn ngữ thơ của Việt Bắc
mượt mà, uyển chuyển đặc biệt là cắp đại từ nhân xưng mình-ta vừa ngọt ngào lại vừa sâu lắng
mà ta thường bắt gặp trong những câu ca dao về tình yêu đôi lứa:
"Mình về ta chẳng cho về
Ta nắm vạt áo ta đề câu thơ"
- Chuyện ân tình cách mạng đã được Tố Hữu khéo léo thể hiện như tình yêu đôi lứa.
"Mình về mình có nhớ ta
1
Mười lắm năm ấy thiết tha mặn nồng.
Mình về mình có nhớ không
Nhìn cây nhớ núi, nhìn song nhớ nguồn?"
"Mình" trên câu thơ trên chỉ người ra đi, còn "ta" là người ở lại. Dường như đây không còn là
cuộc chia ly giữa đồng bào và cách mạng mà nó đã trở thành buổi chia ly của đôi lứa yêu nhau
mặn nồng da diết. Qua đó ta mới mới phần nào thấm thía cái tình cảm mặn nồng, keo sơn của
quân dân ta trong những buổi đầu đầu kháng chiến gian khổ, khó khăn. Dù bị cách trở bởi
không gian và thời gian nhưng dường như cảm xúc từ trái tim đã nâng đỡ họ vượt qua mọi rào
cản để trong tâm hồn "như chưa hề có cuộc chia ly". Tính dân tộc về mặt hình thức còn thể
hiện qua hình ảnh. Đó là dáng núi hình sông :" Nhìn cây nhớ núi, nhìn song nhớ nguồn". Đó là
hình ảnh chiếc áo chàm trong "buổi phân li". Áo chàm là hình ản hoán dụ cho người dân Việt
Bắc nghĩa tình nhưng cũng rất đỗi anh hùng. Những con người ấy là đại diện cho một dân tộc
Việt Nam vừa hào hùng lại hào hoa: "Lưng mang gươm ta mềm mại bút hoa/Sống hiên ngang
mà nhân ái chan hòa".
Tính dân tộc không chỉ vô cùng thành công trên bình diện nghệ thuật mà còn đậm nét qua nội
dung, tư tưởng. Việt Bắc nói chung và tám câu thơ đầu nói riêng phản ánh đậm nét hình ảnh
con người Việt Nam trong thời đại cách mạng; đã đưa những tư tưởng tình cảm cách mạng hòa
nhịp và tiếp nối truyền thống tinh thần, tình cảm đạo lý dân tộc.
"Mình về mình có nhớ ta
Mười lắm năm ấy thiết tha mặn nồng."
Người ở lại đặt câu hỏi tu từ "Mình về mình có nhớ ta" để nhắc nhớ người ra đi, gợi trong
người ra đi những kỷ niệm về " mười lăm năm ấy thiết tha mặn nồng". Mười lăm năm ấy được
tính từ năm 1940 sau khởi nghĩa Bắc Sơn cho đến tháng 10.1954, là mười lăm năm "Mình đây
ta có đắng cay ngọt bùi", là mười lăm năm có phúc cùng hưởng, có họa cùng chia, mười lăm
năm "bát cơm chấm muối mối thù nặng vai"...làm sao kể xiết biết bao ân tình. Bốn từ "thiết tha
mặn nồng" cho thấy tình cảm giữa Việt Bắc và cán bộ thật thủy chung sâu nặng, keo sơn bền
chặt. Có lẽ vì thế nên nhà nghiên cứu Nguyễn Đức Quyền đã cho rằng: " "Mười lăm năm ấy"
không chỉ đo bằng thước đo thời gian mà còn đo bằng thước đo tình cảm con người. Đó chính
là thứ thuốc thử làm tăng thêm sự gắn bó keo sơn".
"Mình về mình có nhớ không?
Nhìn cây nhớ núi nhìn sông nhớ nguồn"
Lại một câu hỏi tu từ nữa xuất hiện. Lại là một lời nhắc nhớ, gợi thương. Về Hà Nội rồi, thấy
cây hãy nhớ đến núi rừng chiến khu, nhìn sông hãy nhớ đến suối nguồn Việt Bắc. Cách gợi
nhắc như lời dặn dò kín đáo mà chân thành: Việt Bắc là cội nguồn cách mạng, "Quê hương
cách mạng dựng nên Cộng hòa", là trung tâm đầu não của cuộc kháng chiến. Câu thơ này phải
chăng là sự vận dụng linh hoạt và tài tình của nhà thơ Tố Hữu với câu tục ngữ "Uống nước nhớ
nguồn". Qua đó nhà thơ cũng nhắc nhớ các thế hệ con cháu phải biết hướng về gốc gác, về nơi
bén rễ, về cái nôi cho ta hình hài.
* 4 câu sau:
"- Tiếng ai tha thiết bên cồn
Bâng khuâng trong dạ, bồn chồn bước đi
Áo chàm đưa buổi phân li
Cầm tay nhau biết nói gì hôm nay"
Nếu như người Việc Bắc gửi theo bước chân của người miền xuôi với bao nhiêu nỗi nhớ thì
trong lời đối đáp của người miền xuôi cũng đầy ắp những bâng khuâng tha thiết. Không sử
dụng đại từ xưng hô "mình", "ta" mà người xưng hô sử dụng đại từ "ai" để khẳng định trước
hết là sự gắn bó với người ở lại. Ai có thể là đại từ để hỏi nhưng ở đây đó chính là đại từ phiếm
chỉ, rất gần cách nói của ca dao: "Nhớ ai bồi hổi bồi hồi" Tố Hữu sử dụng và khai thác triệt để
sự biến hoá hết sức linh diệu trong giá trị biểu cảm của từ "ai". Một chữ "ai" của người về xuôi
2
đủ làm xao xuyến lòng người đưa tiễn, đủ cho thấy người về xuôi yêu thương Việt Bắc đến
chừng nào và hiểu nỗi niềm tha thiết của người Việt Bắc đối với cách mạng, đối với người
miền xuôi. Một chữ "ai" làm xao động cả không gian đưa tiễn. Phải chăng: "Khi ta ở chỉ là nơi
đất ở/Khi ta đi đất đã hóa tâm hồn" Hai từ láy "bâng khuâng" và "bồn chồn" góp phần làm tang
thêm tâm trạng người ra đi. Tình thương nỗi nhớ như níu chân người ở lại "Bước đi một bước
lâu lâu lại ngừng" để rồi "cầm tay nhau biết nói gì hôm nay". Không biết nói gì phải chăng là
vì có quá nhiều thứ để nói. Bao nhiêu ân nghĩa, sắt son chẳng thể nào dung ngôn từ để diễn tả,
đành phải gửi tâm tình qua cái năm tay thật chặt, thật lâu. "Cầm tay" là biểu tượng của yêu
thương đoàn kết. Chỉ cần cầm tay nhau thôi và hãy để hơi ấm nói lên tất cả, yêu thương, nhung
nhớ, nghĩa tình sẽ ấm mãi như hơi ấm tay trao tay nhau lúc này. Dấu chấm lửng ở cuối câu như
càng làm tang thêm cái tình cảm mặn nồng, dạt dào, vô tận. Nó như nốt lặng trong một khuôn
nhạc mà ở đó tình cảm cứ ngân dài sâu lắng. Qua đó con người Việt Nam hiện lên thật đẹp với
những phẩm chất tiêu biểu cho phẩm chất dân tộc: ân nghĩa, thủy chung, son sắt.
c. Nhận xét về tính dân tộc:
- Tố Hữu đã vô cùng khéo léo khi sử dụng thành công thể thơ lục bát- một thể thơ truyền
thống của dân tộc để diễn tả tình cảm cách mạng.
- "Với giọng thơ tâm tình ngọt ngào, tha thiết và nghệ thuật biểu hiện giàu tính dân tộc
thì dù viết về vấn đề gì, thơ Tố Hữu vẫn luôn dễ đi vào lòng người".
- Hay hơn nữa nhà thơ đã khéo vận dụng lối đối đáp vốn là hình thức diễn ý quen thuộc
trong ca dao dân ca: Mình – ta
- Cách nói giàu hình ảnh, giọng điệu ngọt ngào, giàu nhạc tính, mang chất liệu dân gian.
- Bằng tài hoa của một người nghệ sĩ và một trái tim luôn sục sôi ý chí cách mạng, Tố Hữu đã
viết nên một bản tình ca, anh hùng ca đậm đà bản sắc dân tộc. Để rồi Việt Bắc đã thực sự trở
thành một trong những bài ca không bao giờ quên, không thể nào quên. Và đoạn thơ thể hiện
rõ Tính dân tộc trong thơ Tố Hữu.
=> TẠO NÊN TÍNH HẤP DẪN CỦA ĐOẠN THƠ VÀ THỂ HIỆN RÕ PHONG CÁCH THƠ
TỐ HỮU.
Đề 2:
Đề 2: Cảm nhận về đoạn thơ sau Trong bài thơ Việt Bắc,
Mình đi, có nhớ những ngày
………………………………….
Tân Trào, Hồng Thái, mái đình cây đa.
Dàn ý
Mở bài :
Bài Việt Bắc là đỉnh cao trong sự nghiệp sáng tác thơ của Tố Hữu nói riêng, của thơ kháng
chiến chống Pháp nói chung. Có thế nói, Việt Bắc là khúc tình ca và cũng là khúc hùng ca,thế
hiện ân tình sâu nặng, thủy chung của nhà thơ đối với căn cứ địa Cách Mạng cả nước. Điều
này càng được khắc họa rõ nét hơn trong đoạn thơ:
“Mình đi, có nhớ những ngày
Mưa nguồn suối lũ, những mây cùng mù
………………..
Mình đi, mình có nhớ mình
Tân Trào, Hồng Thái, mái đình cây đa”.
Thân bài:
Việt Bắc là một địa danh – là cái nôi của cách mạng Việt Nam tiền khởi nghĩa, là cơ quan
đầu não của cuộc kháng chiến chống Pháp. Nơi đây lưu giữ nhiều kỉ niệm giữa cán bộ cách
mạng và đồng bào trong những ngày kháng chiến trường kì gian khổ. Qua cuộc chia tay đầy
lưu luyến người đi kẻ ở, Tố Hữu đã thể hiện thành công nỗi nhớ chiến khu, khẳng định lòng
3
biết ơn sâu sắc của cán bộ về xuôi đối với đồng bào Việt Bắc cùng lời hứa nghĩa tình thủy
chung, son sắt.
Bốn câu đầu: người Việt Bắc hỏi người về xuôi.
“Mình đi có nhớ những ngày
Mưa nguồn suối lũ những mây cùng mù
Mình về có nhớ chiến khu
Miếng cơm chấm muối mối thù nặng vai”.
- Bốn câu thơ gợi nhắc đến những kỷ niệm kháng chiến gian khổ. Điệp từ “nhớ” được lặp lại
hai lần cùng với hai câu hỏi tu từ “có nhớ những ngày”, “có nhớ chiến khu” đã khơi gợi những
kỷ niệm gian khổ nhưng nghĩa tình: Mình còn nhớ hay không những ngày sống giữa thiên
nhiên khắc nghiệt?
- Liệt kê các hình ảnh: “Mưa nguồn suối lũ những mây cùng mù” – chỉ thiên nhiên, thời tiết
khắc nghiệt dữ dội. Đây cũng là hình ảnh ẩn dụ để chỉ cảnh “ăn tuyết nằm sương”, “nếm mật
nằm gai” mà cán bộ và nhân dân phải chịu đựng. Qua đó khẳng định quyết tâm cao độ của cán
bộ và nhân dân.
- Mình còn nhớ hay không những cảnh sinh hoạt thiếu thốn nhưng tinh thần luôn lạc quan?
Gian khổ vì thiếu thốn vật chất, ăn uống kham khổ: “miếng cơm chấm muối” – ăn không đủ
no, mặc không đủ ấm. Chính sự gian khổ đã gắn kết ta và mình để chung vai đấu cật, có phúc
cùng hưởng có hoạ cùng chia. Gạt đi những khó khăn “ta” và “mình” cùng gánh lên vai nhiệm
vụ chung – nhiệm vụ giải phóng dân tộc mà nhân dân giao phó, đó là “mối thù nặng vai” – mối
thù giặc Pháp đang đè nặng lên đôi vai. Ở đây, cái chung luôn đặt trên cái riêng, nghĩa vụ lớn
hơn khó khăn gian khổ – đây chính là, tinh thần lớn của thời đại.
Bốn câu tiếp: người Việt Bắc tiếp tục hỏi người cán bộ.
“Mình về, rừng núi nhớ ai
Trám bùi để rụng, măng mai để già
Mình đi, có nhớ những nhà
Hắt hiu lau xám, đậm đà lòng son“.
Người ở lại khơi gợi những kỷ niệm gắn bó với thiên nhiên và con người nặng nghĩa nặng tình.
Người đi nhớ về thiên nhiên chan chứa nghĩa tình.
“Rừng núi nhớ ai” vừa là nghệ thuật hoán dụ, vừa là câu hỏi tu từ – gợi lên nỗi niềm bâng
khuâng thương nhớ. Cách nói “Trám bùi để rụng măng mai để già” toát lên nỗi bùi ngùi
thương nhớ. Cấu trúc câu “để rụng…để già” gợi lên hình ảnh thiên nhiên núi rừng buồn bã, hiu
quạnh, trống vắng đến mênh mông vì thiếu vắng bóng dáng người cán bộ.
Hình ảnh “hắt hiu lau xám, đậm đà lòng son” vừa ẩn dụ, vừa tương phản thể hiện dù cuộc
sống nghèo nhưng tấm lòng vẫn thuỷ chung với cách mạng. Nỗi nhớ hướng về “những nhà”,
những con người Việt Bắc: “Hắt hiu lau xám, đậm đà lòng son”. Câu thơ sử dụng phép đảo
ngữ, đưa “hắt hiu” lên đầu câu tạo thành hai vế tương phản:
“Hắt hiu lau xám” còn để là để chỉ nỗi buồn trống vắng, hiu hắt của núi rừng; vừa có ý chỉ
những ngôi nhà của những con người áo chàm dân dã, bình dị; cũng là ẩn dụ cho sự nghèo khổ
của đồng bào Việt Bắc.
Vế sau nhấn mạnh phẩm chất người Việt Bắc: “đậm đà lòng son”. Đó là tấm lòng nhân dân
thủy chung, đậm đà luôn hướng về Cách mạng; luôn hi sinh, nhường cơm, sẻ áo cho bộ đội.
Chính những công sức của Việt Bắc và tấm lòng son đậm đà ấy đã góp phần không nhỏ để làm
nên chiến thắng Điện Biên “nên vành hoa đỏ, nên thiên sử vàng” và“lừng lẫy năm châu chấn
động địa cầu”.
Bốn câu thơ cuối, Việt Bắc gợi nhắc những sự kiện lịch sử gắn liền với những địa danh,
những tên gọi đã trở thành điểm mốc của chiến khu:
“Mình về, còn nhớ núi non
Nhớ khi kháng Nhật, thuở còn Việt Minh
4
Mình đi, mình có nhớ mình
Tân Trào, Hồng Thái, mái đình cây đa? ”
- Câu thơ có sự liệt kê hình ảnh “núi non”, liệt kê sự kiện “khi kháng Nhật, thuở còn Việt
Minh” để nhắc nhở người về xuôi rằng: Việt Bắc là nơi có mặt trận Việt Minh lãnh đạo cách
mạng đánh Pháp, đuổi Nhật, Việt Bắc là căn cứ quan trọng của cách mạng giải phóng dân tộc
thời kì trước 1945.
- Kết thúc đoạn thơ là một câu hỏi lạ: “Mình đi mình có nhớ mình”. Đây là một cách nói sâu
sắc. Từ “mình” thứ nhất và thứ hai chỉ người cán bộ về xuôi, từ “mình” thứ ba chỉ người Việt
Bắc. Giữa người Việt Bắc và cán bộ như đã có sự gắn bó mật thiết, hòa nhập, tuy hai mà một.
- Hình ảnh liệt kê mái đình Hồng Thái, cây đa Tân Trào chỉ hai địa danh gắn với hai sự kiện
quan trọng trước cách mạng tháng Tám, nhằm khẳng định Việt Bắc chính là cái nôi cách
mạng, là cội nguồn cách mạng.
* Nghệ thuật:
- Cả đoạn thơ có 7 chữ “mình” được lặp lại. Khi thì “mình đi”, “mình về” rồi lại “mình về”,
“mình đi” rồi “mình đi mình lại nhớ”… tạo nên một giai điệu trữ tình luyến láy như khắc như
chạm vào trong sâu thẳm tâm hồn người đi. Tác giả dùng từ “mình” kết hợp hai từ “đi – về”
biến hóa, linh hoạt gợi ra một cuộc chia tay đầy lưu luyến. Điệp từ “có nhớ” là tâm tình người
về với Việt Bắc.
- Thể thơ lục bát với âm điệu nhẹ nhàng, sâu lắng, vừa giàu chất tự sự, vừa giàu nhạc điệu ngọt
ngào đằm thắm của ca dao góp phần diễn tả tình cảm tha thiết của Việt Bắc với cách mạng, của
con người Việt Nam trong kháng chiến. Lối ngắt nhịp đều đặn 2/4; 4/4, trầm bổng ngân nga
của thơ ca dao lục bát như nhịp ru em êm ái. Nghệ thuật đối, phát huy tác dụng rất lớn trong
việc tô đậm cảnh và người. Nghệ thuật ẩn dụ làm tăng thêm khả năng liên tưởng của hình ảnh.
Phép trùng điệp vừa tạo vẻ đẹp nhịp nhàng về âm thanh, vừa gợi những cảm xúc sâu xa
3. Kết bài:
- Đoạn thơ trên không chỉ là nỗi lòng thương nhớ, là lời tâm tình của Việt Bắc. Mà nó còn tiêu
biểu cho phong cách thơ Tố Hữu: Giọng điệu thơ ngọt ngào truyền cảm, mang đậm phong vị
ca dao dân gian. Đề cập đến con người và cuộc sống kháng chiến. Thông qua hình tượng Việt
Bắc, Tố Hữu đã ca ngợi phẩm chất cách mạng cao đẹp của quân dân ta, khẳng định nghĩa thủy
chung son sắt của người cán bộ, chiến sĩ đối với Việt Bắc.
Đề 3: “Nhớ gì như nhớ người yêu
Trăng lên đầu núi nắng chiều lưng nương
Nhớ từng bản khói cùng sương
Sớm khuya bếp lửa người thương đi về.
Nhớ từng rừng nứa bờ tre
Ngòi Thia, sông Đáy, suối Lê vơi đầy.
12