You are on page 1of 23

Lý thuyết sóng Elliott là gì?

Lý thuyết sóng Elliott được phát triển bởi một kế toán chuyên nghiệp, một tác
giả nổi tiếng người Mỹ – Ralph Nelson Elliott (28/07/1871 – 15/01/1948).

Lý thuyết này ra đời dựa trên quan điểm “kết quả của diễn biến tâm lý đám
đông chính là sự hình thành các mô hình và xu hướng của giá cả trên thị
trường”. Tâm lý và hành vi của đám đông diễn ra một cách tự nhiên nhưng
thường tuân theo một chu kỳ nhất định, có lúc hưng phấn, có lúc bi quan nên
kết quả của nó chính là những chuyển động của giá cũng sẽ tuân theo những
chu kỳ giống như thế, lúc tăng lúc giảm. Những chu kỳ tăng giảm này đều được
xác định bởi các mô hình riêng biệt, mà tác giả gọi là sóng, và được lặp đi lặp
lại.

Không phải là một chỉ báo kỹ thuật hay phương pháp giao dịch nào cụ thể
nhưng Lý thuyết sóng Elliott giúp trader xác định và nhận biết xu hướng thị
trường một cách tường tận nhất có thể và được áp dụng rộng rãi trên nhiều loại
thị trường tài chính khác nhau như chứng khoán, forex, tiền điện tử và cả hàng
hóa, bất kể thị trường nào bị tác động bởi hành vi của đám đông đều có thể sử
dụng Lý thuyết sóng Elliott.

Cấu trúc cơ bản của chu kỳ sóng Elliott


Một chu kỳ sóng Elliott hoàn chỉnh và cơ bản nhất bao gồm 8 sóng và có cấu
trúc 2 pha, dạng 5-3, trong đó pha đầu tiên có 5 bước sóng được đánh dấu
bằng số từ 1 đến 5 và là 5 bước sóng di chuyển theo xu hướng chính và pha thứ
hai có 3 bước sóng điều chỉnh, di chuyển ngược xu hướng chính, được đánh dấu
bằng các chữ cái A, B, C.
Cấu trúc của chu kỳ sóng Elliott trong xu hướng tăng:

Pha tăng bao gồm 5 sóng từ 1 đến 5 được gọi là mô hình sóng đẩy hay sóng
động lực (impulse waves), trong đó: sóng 1, 3 và 5 là các sóng tăng và sóng 2, 4
là những sóng giảm.

Pha giảm bao gồm 3 sóng A, B, C được gọi là mô hình sóng điều chỉnh, trong
đó: sóng A, C là 2 sóng giảm và một sóng B tăng.

Trong xu hướng tăng thì mô hình sóng động lực là một pha tăng giá, mô hình
sóng điều chỉnh là một pha giảm giá, ngược lại, trong xu hướng giảm, mô hình
sóng động lực là một pha giảm giá và mô hình sóng điều chỉnh là một pha tăng
giá.
 Mô hình sóng động lực (Impulse Waves)

Theo Lý thuyết sóng Elliott thì một sóng động lực của xu hướng chính luôn bao
gồm 5 sóng nhỏ, trong đó có 3 sóng đẩy (theo xu hướng chính) và 2 sóng điều
chỉnh (ngược xu hướng chính). Tuy nhiên, để thỏa mãn điều kiện là một sóng
động lực thì phải tuân thủ các nguyên tắc sau:

 Sóng 2 không thể điều chỉnh về quá sâu tức là không được vượt qua
điểm bắt đầu của sóng 1. Thỏa mãn điều kiện đáy sau cao hơn đáy trước
trong xu hướng tăng và đỉnh sau thấp hơn đỉnh trước trong xu hướng
giảm.
 Sóng 3 không được là sóng ngắn nhất trong 3 sóng 1, 3, 5.
 Sóng 4 không đi vào vùng giá của sóng 1, nghĩa là không vượt quá điểm
cuối cùng của sóng 1.
 Mô hình sóng điều chỉnh (Corrective waves)

Một sóng điều chỉnh của xu hướng chính thường bao gồm 3 sóng nhỏ, trong
nhiều trường hợp nó vẫn có thể có nhiều hơn 3 sóng nhưng không được nhiều
hơn 5 sóng. Trong 3 sóng nhỏ, có 2 sóng điều chỉnh (ngược xu hướng chính) và
1 sóng đẩy (theo xu hướng chính).

Sóng điều chỉnh này thường có cấu trúc nhỏ hơn về cả độ lớn và thời gian hình
thành so với sóng động lực nhưng đôi lúc nó lại khá phức tạp và khó xác định.

Trong bất kỳ một thị trường tài chính nào, giá cả sẽ luôn đi theo những chu kỳ
tăng, giảm luân phiên nhau, nghĩa là trong một xu hướng chính đang tăng thì
thị trường sẽ có những pha giảm xen kẽ và ngược lại, điều này hoàn toàn phù
hợp với Lý thuyết Dow và bây giờ nó lại đúng với Lý thuyết sóng Elliott. Chính vì
vậy, diễn biến của thị trường sẽ luôn rơi vào 2 giai đoạn đối nghịch: giai đoạn
thị trường xác nhận xu hướng chính (thể hiện bằng các sóng động lực) và giai
đoạn thị trường đang điều chỉnh xu hướng chính đó (các đợt sóng điều chỉnh).
Tính chất “sóng trong sóng” của Lý thuyết sóng
Elliott

Một cấu trúc sóng Elliott hoàn chỉnh bao gồm một sóng động lực và một sóng
điều chỉnh. Mỗi cấu trúc sóng Elliott (cấp 1) này tạo thành một mắt xích nhỏ
trong một cấu trúc sóng Elliott lớn hơn (cấp 2), mỗi cấu trúc sóng Elliott cấp 2
lại tạo thành một mắt xích nhỏ trong một cấu trúc sóng Elliott lớn hơn nữa (cấp
3), điều này có thể lặp lại cho đến cấu trúc sóng Elliott thứ n, và cấu trúc thứ n
này được lặp đi lặp lại trong một xu hướng lớn của thị trường. Phụ thuộc vào
khung thời gian, độ dài khoảng thời xét đến mà giá trị của n là nhiều hay ít. Đây
chính là tính chất sóng trong sóng của Lý thuyết sóng Elliott.

Ở hình trên, ô vuông màu đen nhỏ nhất là mắt xích sóng Elliott tăng nhỏ nhất
và tương ứng với các mắt xích lớn hơn là các ô vuông màu đen lớn hơn. Tương
tự, ô vuông màu xanh nhỏ nhất là mắt xích sóng Elliott giảm nhỏ nhất.
 Sóng Elliott lớn nhất ở hình trên là một cấu trúc sóng trong xu hướng
tăng, bao gồm một sóng động lực tăng (X) gồm 5 sóng 1, 2, 3, 4, 5; và
một sóng điều chỉnh giảm (Y) gồm 3 sóng A, B, C.
 Trong đó, sóng động lực X được cấu thành từ 3 sóng Elliott nhỏ hơn và
cả 3 sóng Elliott này đều là 3 cấu trúc sóng của xu hướng tăng. Mỗi sóng
nhỏ hơn này bao gồm 1 sóng động lực (1’, 2’, 3’, 4’, 5’) cùng hướng với X
và một sóng điều chỉnh (A’, B’, C’) cùng hướng với Y.
 Sóng điều chỉnh Y cũng được cấu thành từ 2 sóng Elliott nhỏ hơn và cả 2
sóng này đều là cấu trúc sóng của xu hướng giảm. Mỗi sóng Elliott nhỏ
này bao gồm 1 sóng động lực (1’, 2’, 3’, 4’, 5’) cùng hướng với Y và một
sóng điều chỉnh (A’, B’, C’), cùng hướng với X.
 Và tiếp tục tương tự cho những mắt xích nhỏ hơn.

Các cấp độ sóng Elliott


Ở ví dụ trên, sau khi sóng Elliott lớn nhất đó hoàn thành sẽ tiếp tục hình thành
một sóng Elliott có cấu trúc tương tự và đồng dạng với nó, và liên tiếp như vậy
tạo thành một sóng Elliott có cấp độ cao hơn. Trong Lý thuyết sóng Elliott thì có
9 cấp độ khác nhau, phụ thuộc vào thời gian hoàn thành mỗi cấp độ, tuy nhiên,
tất cả những sự phân chia này đều mang tính tương đối. Bên cạnh đó, trong
cùng một cấp độ, quy mô và thời gian hình thành của mỗi sóng cũng có thể rất
khác nhau. 9 cấp độ sóng Elliott bao gồm:

 Grand Supercycle (siêu chu kỳ lớn): thời gian kéo dài đến cả thế kỷ
 Super Cycle (chu kỳ lớn): kéo dài vài thập kỷ
 Cycle (chu kỳ): kéo dài từ một năm đến vài năm
 Primary (sơ cấp): từ vài tháng đến 1 hoặc 2 năm
 Intermediate (trung cấp): từ vài tuần đến vài tháng
 Minor (nhỏ): kéo dài trong khoảng vài tuần
 Minute (khá nhỏ): kéo dài trong vài ngày
 Minuette: kéo dài trong vài giờ
 Subminuette: chỉ trong vòng vài phút

Các cấu trúc mô hình sóng nâng cao


Cấu trúc sóng Elliott mà chúng ta đang nhắc đến từ đầu đến giờ là cấu trúc cơ
bản nhất của sóng Elliott. Trên thực tế, các sóng động lực và điều chỉnh có cấu
trúc phức tạp hơn rất nhiều. Ralph Nelson Elliott cũng đã chỉ ra các dạng mô
hình sóng khác nhau, ông đã đặt tên và mô tả những cấu trúc này rất chi tiết.

Mỗi sóng động lực có 5 sóng nhỏ, mỗi sóng điều chỉnh cơ bản có 3 sóng nhỏ,
tổng cộng là 8 sóng nhỏ. Mỗi sóng nhỏ sẽ khác nhau về số bước sóng con cấu
thành và hình dạng cụ thể của từng bước sóng. Vậy tổng số dạng mô hình của
sóng Elliott sẽ là một con số rất lớn. Chính vì thế, trong phạm vi của bài viết này,
chúng tôi chỉ sẽ giới thiệu đến các bạn các dạng mẫu hình phổ biến và đặc
trưng nhất của sóng Elliott.

Các dạng mẫu hình của sóng động lực (impulse waves)

 Extension (mẫu hình sóng mở rộng)


 Diagonal Triangle (Tam giác chéo)
o Leading Diagonal Triangle
o Ending Diagonal Triangle
 Failed 5th (Thất bại sóng 5) hay Truncated 5th (mẫu hình cụt sóng 5)

Mẫu hình sóng mở rộng (Extension)

Mỗi sóng 1, 3, 5 đều có thể mở rộng thành một cấu trúc nhiều sóng hơn bên
trong nó (thường là 5 sóng) và mở rộng nhiều lần. Trong mô hình Extension
này, chỉ có một sóng được mở rộng và thường là sóng 3, tuy nhiên vẫn có
trường hợp sóng 1 hoặc sóng 5 mở rộng. Nếu sóng 3 mở rộng thì sóng 1 và 5
sẽ tuân theo cấu trúc cơ bản và có xu hướng cân bằng nhau.
Sóng mở rộng có cấu trúc của một impulse waves cơ bản.

Nếu sóng 3 mở rộng một lần thì tổng số sóng của impulse waves là 9, mở rộng
2 lần là 13, thậm chí mở rộng 3 lần sẽ là 17.

Mẫu hình sóng 3 mở rộng một lần có cấu trúc sóng là 5-3-5-3-5-3-5-3-5

Sóng 3 mở rộng thành 5 sóng nhỏ, nếu nó mở rộng 2 lần thì một trong 5 sóng
nhỏ này sẽ mở rộng thành 5 sóng nhỏ hơn nữa.

Mô hình sóng 3 mở rộng 2 lần với sóng mở rộng là sóng i: cấu trúc sóng 5-3-5-
3-5-3-5-3-5-3-5-3-5
Dạng sóng mở rộng thường xuất hiện ở sóng 1, 3, 5 của sóng động lực và sóng
A, C của sóng điều chỉnh.

Mẫu hình sóng Tam giác chéo (Diagonal Triangle)

Điểm đặc biệt của mô hình này là khi vẽ các đường xu hướng đi qua các đỉnh và
đáy của các bước sóng sẽ tạo thành hình tam giác.

Mẫu hình này được chia thành 2 dạng khác nhau, dựa vào cấu trúc sóng:

Leading Diagonal Triangle có cấu trúc sóng 5-3-5-3-5 và Ending Diagonal


Triangle có cấu trúc sóng 3-3-3-3-3
Trong đó:

 Sóng 1, 3, và 5 có dạng Zigzag (sẽ được mô tả cụ thể ở phần sau)


 Sóng 2 và 4 có thể theo bất kỳ dạng mẫu hình điều chỉnh nào
 Sóng 3 không thể là sóng ngắn nhất

Lưu ý: hình tam giác trong mô hình này có xu hướng hội tụ ở sóng 5, tuy nhiên,
vẫn có trường hợp phân kỳ, song nếu phân kỳ xảy ra thì nguyên tắc “sóng 4
không đi vào vùng giá của sóng 1” sẽ bị phá vỡ.

Dạng sóng Leading Diagonal Triangle thường xuất hiện trong sóng 1 và sóng A.
Dạng sóng Ending Diagonal Triangle thường xuất hiện trong sóng 5 và C, thỉnh
thoảng xuất hiện ở sóng 1.

Mẫu hình thất bại sóng 5 (Failed 5th)hay mẫu hình cụt sóng 5 (Truncated
5th)

Là mẫu hình sóng động lực trong đó sóng 5 không thể vượt qua khỏi sóng 3,
trong một vài trường hợp sóng 5 có vượt qua nhưng không đáng kể thì vẫn
được xếp vào dạng mẫu hình này.

Tất cả các sóng còn lại tuân theo cấu trúc của một impulse waves cơ bản.

Mô hình thất bại sóng 5 chỉ thường xuất hiện ở sóng 5 của sóng C.
Các dạng mẫu hình của sóng điều chỉnh (corrective waves)

 Zigzag
 Flag (mô hình phẳng)
 Triangle (tam giác)

Mẫu hình Zigzag

Đặc điểm nhận dạng mẫu hình Zigzag mà dễ dàng nhìn thấy bằng mắt nhất
chính là 2 đường xu hướng đi qua các đỉnh và đáy song song với nhau. Cấu trúc
của mô hình Zigzag là 5-3-5.

Trong đó:

 Sóng B điều chỉnh không quá 61.8% độ dài của sóng A


 Sóng C phải vượt qua điểm kết thúc của sóng A
 Sóng A và C thông thường có độ dài bằng nhau

Mẫu hình Zigzag có thể mở rộng chính nó thành Double Zigzag hoặc Triple
Zigzag. Các mẫu hình Zigzag đơn được nối với nhau trong những biến thể này
bằng một mẫu hình sóng điều chỉnh bất kỳ và được gọi là sóng X. Sóng X
thường ngắn hơn các sóng Zigzag đơn và cũng có cấu trúc 5-3-5.
Trong mẫu hình Triple Zigzag thì 3 sóng Zigzag đơn sẽ được nối với nhau bằng
2 sóng X, đều là các mẫu hình sóng điều chỉnh.

Dạng mẫu hình Zigzag này hầu như chỉ xuất hiện trong các sóng 2, A và sóng
ngắn X.

Mẫu hình phẳng Flag

Cũng là 2 đường xu hướng song song khi nối các đỉnh và đáy nhưng 2 đường
xu hướng này đi ngang trong mô hình Flag thay vì dốc lên hoặc xuống trong
mô hình Zigzag.

Cấu trúc mẫu hình Flag cũng rất khác so với Zigzag: 3-3-5 hoặc đôi khi là 3-3-7

Trong đó:

 Sóng A và B là các mẫu hình sóng điều chỉnh


 Sóng C có cấu trúc của một sóng động lực
 Sóng B điều chỉnh hơn 61.8% độ dài sóng A, nhưng thường là bằng với
điểm bắt đầu của sóng A (điều chỉnh 100%) hoặc vượt qua điểm bắt đầu
của sóng A (điều chỉnh >100%). Trường hợp điều chỉnh hơn 100% nghĩa
là thị trường đang muốn đi theo hướng của sóng B
 Trong trường hợp sóng B điều chỉnh nhỏ hơn hoặc bằng 100% độ dài
sóng A thì sóng C và A gần như bằng nhau và sóng C không thể vượt
qua khỏi vùng giá của sóng A. Trường hợp điều chỉnh hơn 100% (B vượt
qua điểm bắt đầu của sóng A) thì sóng C sẽ dài hơn sóng A và vượt ra
ngoài vùng giá của sóng A.

Dạng mẫu hình phẳng này đa phần xuất hiện trong các sóng 2, 4 và B, đôi khi
xuất hiện ở sóng X.

Mẫu hình sóng Tam giác (Triangle)

Là một mẫu hình sóng điều chỉnh đặc biệt, bao gồm 5 sóng, mỗi sóng có 3
sóng nhỏ, nên cấu trúc của nó sẽ là 3-3-3-3-3. Hai đường xu hướng nối các đỉnh
và đáy cắt nhau tạo thành hình tam giác có hướng hội tụ hoặc mở rộng (phân
kỳ).

Tam giác hội tụ

Mẫu hình tam giác hội tụ lại được chia thành 3 dạng khác nhau: tam giác đi lên
(ascending), tam giác đi xuống (descending) và tam giác đối xứng (symmetrical)
Trong đó:

 Có 5 sóng, A, B, C, D, E, và mỗi sóng là một mẫu sóng điều chỉnh bất kỳ


 Sóng C không thể là sóng ngắn nhất
 Sóng D không thể vượt ra khỏi vùng giá của sóng C
 Sóng A là sóng dài nhất và sóng E là sóng ngắn nhất

Tam giác mở rộng (phân kỳ)


Trong đó:

 Có 5 sóng, A, B, C, D, E, và mỗi sóng là một mẫu sóng điều chỉnh bất kỳ


 Sóng C không thể là sóng ngắn nhất
 Sóng D vượt ra khỏi vùng giá của sóng C
 Sóng A là sóng ngắn nhất và sóng E là sóng dài nhất

Mẫu hình sóng điều chỉnh tam giác chỉ xuất hiện trong các sóng B, X và 4.
Không bao giờ xuất hiện trong sóng 2 hoặc sóng A.

Các công cụ xác định mục tiêu giá và biên độ


sóng
2 công cụ chủ yếu được được sử dụng một cách hiệu quả nhất để thực hiện
chức năng này chính là kênh giá và Fibonacci.

Kênh giá

Kênh giá bao gồm 2 đường xu hướng song song với nhau và chứa gần như toàn
bộ biên độ dao động của giá trong một sóng. Ở các mẫu hình sóng tam giác, 2
đường xu hướng này mặc dù không song song nhưng trong tình huống này,
chúng ta vẫn xem nó như là một kênh giá.

Công cụ kênh giá này thường được sử dụng để nhận diện các sóng có cùng cấp
độ, hiệu quả trong các mẫu hình sóng động lực (impulse waves) cơ bản, mẫu
hình Zigzag hay các mẫu hình sóng tam giác.

Ví dụ:

Kênh giá của mô hình impulse waves cơ bản và corrective waves có các sóng
con là các mẫu sóng Zigzag
Kênh giá xác định mục tiêu sóng 3 và sóng C

Một trong những nguyên tắc khi xác định mục tiêu giá và biên độ của sóng dựa
vào kênh giá chính là thị trường phải hình thành ít nhất 2 sóng.

Sau khi sóng 1 và 2 hoặc A và B đã hình thành thì tiến hành vẽ kênh giá cho
sóng động lực hoặc sóng điều chỉnh.

 Sóng động lực: đường xu hướng dưới được xác định trước, đi qua điểm
bắt đầu sóng 1 và điểm cuối sóng 2. Đường xu hướng trên xác định sau,
đi qua điểm cuối sóng 1 và song song với đường xu hướng dưới.
 Sóng điều chỉnh: đường xu hướng trên xác định trước, đi qua điểm đầu
sóng A và điểm cuối sóng B. Đường xu hướng dưới xác định sau, đi qua
điểm cuối sóng A và song song với đường xu hướng trên.

Mục tiêu giá của sóng 3 và sóng C ít nhất phải nằm trên các đường xu hướng
(như hình vẽ).
Tuy nhiên, sóng 3 thường dài hơn sóng 1 và là sóng dài nhất trong mô hình
sóng động lực nên nó bắt buộc phải chạm đến kênh giá hoặc vượt ra khỏi kênh
giá, nếu không thì đó là sóng C và mô hình sóng ban đầu trở thành sóng điều
chỉnh, không còn là sóng động lực.

Đối với sóng C trong sóng điều chỉnh thì mục tiêu giá có thể chạm, vượt hoặc
chưa vượt kênh giá đều được.

Nếu sóng 2 và sóng B vượt ra khỏi kênh giá thì có thể chúng chưa hoàn thành
và đang di chuyển với cấu trúc phức tạp hơn nên chưa thể xác định được sóng 3
và sóng C. Lúc này, cần một công cụ khác để xác định mục tiêu của sóng 3 và
sóng C.

Kênh giá xác định mục tiêu sóng 4

Sau khi sóng 3 hình thành, chúng ta buộc phải vẽ lại kênh giá mới và kênh giá
này có thể sẽ không trùng với kênh giá ban đầu khi sóng 1 và 2 hình thành như
trường hợp ở trên.

Kênh giá mới được xác định như sau: đường xu hướng trên vẽ trước, đi qua
điểm cuối sóng 1 và điểm cuối sóng 3. Đường xu hướng dưới vẽ sau, đi qua
điểm cuối sóng 2 và song song với đường xu hướng trên.

Mục tiêu giá tối thiểu của sóng 4 phải nằm trên kênh giá, sóng 4 có thể vượt ra
khỏi kênh giá, phá vỡ đường xu hướng dưới và đi vào vùng giá của sóng 1 (rơi
vào mẫu sóng tam giác chéo phân kỳ), khi đó, nguyên tắc thứ 3 của Lý thuyết
sóng Elliott sẽ bị phá vỡ.
Nếu sóng 4 không thể chạm đến kênh giá có nghĩa là lực của xu hướng tăng
này rất mạnh, có 2 trường hợp xảy ra, hoặc là sóng 3 chưa hoàn thành và tiếp
tục đi theo một cấu trúc phức tạp hoặc là đó chính là sóng 4 với lực điều chỉnh
giảm rất nhỏ và thị trường đang sẵn sàng cho một sự bức phá lớn ở sóng 5.

Kênh giá xác định mục tiêu sóng 5

Tương tự, sau khi sóng 4 hoàn thành, chúng ta sẽ lại tiếp tục xác định kênh giá
mới để tìm mục tiêu của sóng 5.

Kênh giá mới được thiết lập như sau: đường xu hướng dưới được vẽ trước, đi
qua điểm cuối của sóng 2 và điểm cuối của sóng 4. Đường xu hướng trên vẽ
sau, đi qua điểm cuối sóng 3 và song song với đường xu hướng dưới.

Mục tiêu giá của sóng 5 ít nhất sẽ chạm vào đường xu hướng trên. Trong
trường hợp sóng 3 tăng yếu thì sóng 5 sẽ vươn lên rất mạnh hoặc trong trường
hợp sóng 5 mở rộng thì có thể vượt ra ngoài phạm vi của kênh giá. Ngược lại,
nếu sóng 3 là một sóng tăng lên mạnh mẽ, khá dài thì sóng 5 sẽ là một sóng
ngắn, có thể không chạm vào kênh giá.

Fibonacci

Khi nghiên cứu về tính chất toán học của sóng và các mẫu hình sóng, Ralph
Nelson Elliott đã đi đến kết luận về mối quan hệ giữa Fibonacci và sóng Elliott
rằng dãy số Fibonacci chính là cơ sở của Lý thuyết sóng Elliott. Các mức thoái lui
quan trọng của Fibonacci xuất hiện nhiều lần trong cấu trúc sóng Elliott, bao
gồm cả mô hình sóng động lực và sóng điều chỉnh cơ bản và trong tất cả các
dạng mẫu hình sóng phức tạp hơn của chúng.
Tìm hiểu:

 Fibonacci là gì? Cách sử dụng hiệu quả


 Cách sử dụng Fibonacci Extension để chốt lời hiệu quả

Để tính toán được biên độ của sóng thì ít nhất thị trường đã hình thành được
sóng đầu tiên, là sóng 1 của sóng impulse waves hoặc sóng A của sóng
corrective waves.

Sóng 1 và sóng A là sóng cơ sở, độ dài và độ dốc của chúng sẽ quyết định đến
biên độ của những sóng tiếp theo khi sử dụng Fibonacci.

Trên phần mềm giao dịch, để xác định biên độ các sóng động lực (3, 5), chúng
ta sử dụng Fibonacci Extension, các sóng điều chỉnh (2, 4) thì sử dụng Fibonacci
Retracement.

Sóng 2

Theo nguyên tắc của Lý thuyết sóng Elliott, sóng 2 không được vượt quá điểm
bắt đầu của sóng 1. Mức điều chỉnh hay thoái lui thường gặp của sóng 2 so với
sóng 1 là ở khoảng trên 30%, tương ứng với các mức Fibo quan trọng như
38.2%, 50%, 61.8% hoặc 76.4%.

Để xác định biên độ sóng 2, các bạn dùng Fibonacci Retracement cho đoạn xu
hướng tăng sóng 1.
Sóng 3

Sóng 3 không là sóng ngắn nhất và thường là sóng dài nhất trong số các sóng
1, 3 và 5. Chính vì vậy, sóng 3 sẽ có khả năng chạm vào các mức Fibo quan
trọng cao hơn như 123.6% hay 161.8%. Trong trường hợp sóng 3 mở rộng thì
nó sẽ tăng lên đến 261.8%, thậm chí 461.8% so với sóng 1.

Để xác định biên độ sóng 3, các bạn dùng Fibonacci Extension cho đoạn xu
hướng tăng sóng 1, điểm thoái lui là điểm cuối của sóng 2.

Sóng 4

Sóng 4 là đợt sóng điều chỉnh sau khi sóng 3 hình thành, nên độ dài sóng 3 sẽ
là cơ sở để xác định biên độ của sóng 4.

Nếu sóng 3 là một sóng impulse waves cơ bản thì sóng 4 sẽ thường điều chỉnh
lại tại các mức thoái lui 38.2%, 50% hoặc 61.8% so với sóng 3. Nếu sóng 3 mở
rộng thì sóng 4 chỉ điều chỉnh bằng 23.6% hoặc tối đa là 38.2% so với sóng 3.

Tuy nhiên, để thỏa mãn nguyên tắc “sóng 4 không đi vào vùng giá của sóng 1”
thì sóng 4 chỉ thường điều chỉnh về các mức 23.6% hoặc 38.2% so với sóng 3,
trừ trường hợp mẫu sóng tam giác chéo phân kỳ.
Để xác định biên độ của sóng 4, các bạn sử dụng Fibonacci Retracement cho
đoạn xu hướng tăng sóng 3.

Sóng 5

Có 3 trường hợp cần lưu ý khi xác định biên độ của sóng 5.

Nếu sóng 3 là một sóng ngắn, chỉ bằng khoảng 123.6% so với sóng 1 và thấp
hơn 161.8% so với sóng 1 thì sóng 5 sẽ là một sóng mở rộng. Biên độ của nó sẽ
được xác định theo nhiều cách khác nhau như:

 Bằng 161.8% hoặc thậm chí 261.8% so với sóng 3.


 Bằng 61.8% hoặc 100% hoặc 161.8% so với tổng độ dài của sóng 1 và
sóng 3: được tính bằng khoảng cách từ điểm bắt đầu sóng 1 đến điểm
kết thúc sóng 3.
 Thậm chí có thể bằng 161.8% tổng độ dài sóng 1 và sóng 3, sau đó cộng
thêm khoảng cách từ điểm cuổi sóng 3 đến điểm cuối sóng 4, tùy thuộc
vào từng mẫu hình mở rộng của sóng 5.

Nếu sóng 3 là một sóng rất dài, hoặc sóng 3 mở rộng thì biên độ sóng 5 sẽ
ngắn lại, phổ biến nhất là sóng 5 sẽ bằng với sóng 1 hoặc dao động từ 123.6%
– 161.8% so với sóng 1.
Ví dụ: trường hợp sóng 3 ngắn, sóng 5 mở rộng.

Trong trường hợp trên, chúng ta có thể sử dụng Fibonacci Extension cho đoạn
tăng giá từ điểm bắt đầu sóng 1 đến điểm cuối sóng 3, điểm thoái lui là điểm
cuối sóng 4.

Trường hợp thứ 3 đặc biệt nhất là sóng 5 có biên độ bằng sóng 3, điểm cuối
sóng 5 bằng điểm cuối sóng 3 hoặc cao hơn nhưng không đáng kể, nghĩa là
sóng động lực lúc này có dạng failed 5th.

Sóng B

Ở dạng mẫu hình Zigzag, sóng B thường điều chỉnh sao cho không vượt ra khỏi
vùng giá của sóng A và thường bằng 38.2%, 50% hoặc 61.8% so với sóng A.

Ở dạng mẫu hình Flag, sóng B bằng với sóng A hoặc vượt ra khỏi phạm vi giá
của sóng A một đoạn ngắn, thường bằng 123.6% hoặc 138.2% so với sóng A.
Để xác định biên độ giá trong trường hợp này, các bạn sử dụng Fibonacci
Retracement cho đoạn xu hướng giảm là sóng A.

Sóng C

Trong mẫu hình Zigzag thì độ dài sóng C ít nhất bằng 61.8% sóng 1. Trong
trường hợp độ dài 2 sóng bằng nhau thì sóng C hồi về tỷ lệ Fibo 100%.

Trong mẫu hình Flag, sóng C hồi về bằng điểm cuối của sóng A tức là bằng
100% so với sóng A trong trường hợp sóng B không vượt ra khỏi vùng giá sóng
A hoặc sóng C bằng 123.6% – 161.8% so với sóng A trong trường hợp sóng B
vượt khỏi vùng giá của sóng A.

Công cụ được sử dụng trong trường hợp này là Fibonacci Extension của đoạn
xu hướng giảm là sóng A, điểm thoái lui là điểm cuối của sóng B.

Tất cả ví dụ minh họa của những phần nội dung ở trên đều áp dụng cho cấu
trúc sóng Elliott trong xu hướng chính là tăng. Đối với xu hướng giảm, các bạn
chỉ cần thực hiện ngược lại.

You might also like