You are on page 1of 94

SÓNG ELLIOT THAM KHẢO

BÀI 1: TỔNG QUAN VỀ SÓNG ELLIOTT

1. Lịch sử ra đời lý thuyết sóng Elliott

Chân dung Ralph Nelson Elliott


Lý thuyết sóng Elliott được đặt theo tên của Ralph Nelson Elliott (28/7/1871 –
15/1/1948). Ông là một kế toán viên chuyên nghiệp và là một tác giả người Mỹ.

Bằng việc phân tích dữ liệu lịch sử chứng khoán trong nhiều năm, Elliott đã nhận
thấy rằng các thị trường chứng khoán không hành xử trong một kiểu hỗn loạn nào
cả mà dao động trong một trật tự nhất định theo những chu kỳ có tính lặp lại, phản
ánh những hành động và cảm xúc của con người được gây ra bởi những ảnh hưởng
bên ngoài hoặc tâm lý đám đông.

Sau này lý thuyết sóng không chỉ được áp dụng vào phân tích thị trường chứng
khoán mà còn được sử dụng rộng rãi trong các thị trường tài chính khác, thị trường
Forex cũng không ngoại lệ.

Elliott giải thích rằng sự dao động lên hay xuống của tâm lý đám đông luôn
luôn cho thấy những mô hình lặp đi lặp lại giống nhau theo các phân đoạn
khác nhau cái mà sau đó, khi phân chia các phân đoạn đó ông đã đặt cho nó
cái tên là “các bước sóng” nhờ đó Elliott đã khám phá bản chất phân đoạn
của hành động thị trường. Ông đã có thể phân tích các thị trường một cách
chuyên sâu hơn, nhận diện những đặc trưng riêng biệt của những mô hình
sóng đồng thời đưa ra những dự báo thị trường chi tiết dựa vào những mô
hình sóng mà ông nhận diện.

Một trong những nơi rõ ràng nhất để quan sát hiện tượng này là các thị trường tài
chính nơi tâm lý của nhà đầu tư thay đổi được ghi chép lại dưới dạng biến động
giá.

Elliott đã phân biệt 11 mô hình biến động giá hay còn gọi là các mô hình sóng.
Ông đã đặt tên, định nghĩa và minh họa những mô hình này. Ông mô tả cách hình
thành các mô hình và những phiên bản lớn hơn của chúng.

Lý thuyết sóng Elliott là một tập hợp các mô hình giá và sự giải thích về vị trí có
thể xảy ra trong tiến trình phát triển chung của thị trường. Thị trường thường theo
các thời kỳ phát triển, luân phiên theo các giai đoạn không tăng trưởng hay suy
yếu, xây dựng phân đoạn theo các mô hình tương tự có kích cỡ tăng dần.

Năm 1938, Elliott lần đầu tiên xuất bản lý thuyết của mình về các mô hình thị
trường trong cuốn sách có tựa đề The Wave Principle.
Năm 1939, ông tổng kết lý thuyết sóng trong một loạt các bài viết trong tạp
chí Financial World.

Cuối cùng đến năm 1946, Elliott đề cập lý thuyết sóng một cách toàn diện nhất
trong tác phẩm lớn cuối cùng của mình, Nature’s Laws: The Secret of the
Universe.

2. Cấu trúc mô hình sóng Elliott

Lý thuyết sóng Elliott cho thấy rằng trong một mô hình sóng cơ bản sẽ có 5 sóng
chủ (impulse wave) được đánh số theo số đếm 1-2-3-4-5 và 3 sóng điều chỉnh
(corrective wave) được đánh số theo chữ cái A-B-C. Trong 5 sóng chủ thì sóng số
1, 3 và số 5 gọi là sóng chuyển động (motive wave), và sóng 2, 4 gọi là sóng điều
chỉnh (corrective wave). Trong mỗi một con sóng như vậy lại có những con sóng
nhỏ và cũng tuân theo quy luật của lý thuyết sóng Elliott. Một đợt sóng chủ hoàn
chỉnh sẽ có 89 sóng và đợt sóng điều chỉnh hoàn chỉnh sẽ có 55 sóng.

Tựu trung lại thì mô hình 8 sóng hoàn chỉnh tạo thành cấu trúc sóng Elliott điển
hình. Mô hình đó có thể đi theo chiều tăng dần (ascending) trong thị trường đầu cơ
giá lên (bull market) hoặc theo chiều giảm dần (descending) trong thị trường đầu
cơ giá xuống (bear market). Nếu xu hướng chính là đi lên thì chúng ta sẽ thấy 5
bước sóng chạy lên theo sau là 3 bước sóng chạy xuống. Nếu xu hướng chính là
xuống thì chúng ta sẽ thấy 5 bước sóng chạy xuống theo sau là 3 bước sóng chạy
lên điều chỉnh xu hướng chính.

Ralph Nelson Elliott khẳng định rằng ông nghiên cứu và phát minh ra lý thuyết
sóng truớc khi biết Fibonacci nhưng những con số trùng hợp đến kỳ lạ: 5 sóng chủ,
3 sóng điều chỉnh, 89 sóng chủ, 55 sóng điều chỉnh cũng như tỷ lệ giá của các con
sóng luôn ở chung quanh các tỷ lệ vàng 0.618, 1.618, 0.382. Do đó có một giá
thuyết khác cho rằng Ông Elliott đã ứng dụng những con số Fibonacci vào lý
thuyết của mình.
3. Ba quy tắc của sóng Elliott

Một mô hình sóng Elliott hợp lệ phải tuân thủ 3 quy tắc sau:

1. Sóng 2 không thoái lui quá điểm bắt đầu sóng 1.


2. Sóng 3 không là sóng ngắn nhất trong các sóng chủ 1-3-5.
3. Trong sóng đẩy, sóng 4 không vi phạm vào khu vực giá của sóng 1.

4. Hiện tượng sóng trong sóng trong lý thuyết sóng Elliott

Các cấu trúc Elliott đã mô tả cũng đáp ứng định nghĩa thông thường của
một fractal (các hình mẫu tự đồng dạng xuất hiện ở mọi cấp độ của xu hướng).

” Ta có thể hiểu fractal là hình học của những chi tiết vô hạn mà khi phóng to một
bộ phận bất kỳ sẽ vẫn được hình mới giống như hình tổng thể ban đầu. Ví dụ hãy
quan sát một cây súp lơ xanh, mỗi nhánh của cây nếu phóng to sẽ giống như một
cây súp lơ xanh mới.”

Những người thực hành sóng Elliott nói rằng cũng giống như các Fractal xuất hiện
trong tự nhiên thường mở rộng và phát triển phức tạp hơn theo thời gian, mô hình
này cho thấy rằng tâm lý con người tập thể phát triển trong các hình mẫu tự nhiên,
thông qua các quyết định mua và bán được phản ánh trong giá cả thị trường:
“Dường như là chúng ta được lập trình toán học theo một cách nào đó. Sò biển,
thiên hà, hoa tuyết hoặc con người: tất cả chúng ta đang bị ràng buộc bởi cùng một
trật tự “. Những mô hình mà Elliott khám phá được xây dựng theo cùng phương
pháp. Chẳng hạn mô hình sóng chủ (impulsive wave) thường đi theo xu hướng
chính luôn thể hiện 5 bước sóng trong mô hình của nó. Trong một phạm vi nhỏ
hơn thì mỗi một bước sóng chủ trong mô hình sóng chủ đó lại chứa 5 bước sóng
nhỏ. Trong mô hình sóng nhỏ này thì nó cũng tự lặp lại kiểu các bước sóng. Đó là
hiện tượng sóng trong sóng.
Mắt xích đầu tiên là mô hình sóng chủ (impulse wave) kết thúc tại đỉnh 1 (sóng 1).
Mô hình này cho thấy rằng dao động giá thuộc cấp độ sóng lớn hơn cũng theo
hướng đi lên. Nó cũng báo hiệu sự khởi đầu của mắt xích điều chỉnh 3 sóng
là sóng 2. Các sóng 3, sóng 4 và sóng 5 hoàn thành mắt xích sóng chủ lớn hơn
là sóng (1).

Cấu trúc sóng chủ của sóng 1 cho thấy dao động giá thuộc cấp độ sóng lớn hơn
là sóng (1) theo chiều đi lên. Quá trình điều chỉnh ở sóng (2) theo sau là sóng
(3), sóng (4) và sóng (5) sẽ hoàn thành mắt xích sóng chủ của cấp độ sóng lớn hơn
nữa là sóng [1].

Một lần nữa thì quá trình điều chỉnh theo 3 sóng ở cùng cấp độ sóng xảy ra là sóng
[2]. Cứ thế lần lượt phát triển hoàn thành toàn bộ quá trình.

5. Cấp độ sóng Elliott

Mỗi cấp độ của một hình mẫu trong một thị trường tài chính có một tên. Người ta
sử dụng các chữ số từ 1 tới 5 hay (I tới V) ký hiệu cho từng sóng để chỉ chức năng
và số cấp độ cho các sóng vận động, chữ cái (A – B – C, W – X – Y – Z) cho sóng
điều chỉnh (được thể hiện trong cao nhất của 3 chuỗi cấu trúc hoặc cấp độ sóng
được lý tưởng hóa). Các cấp độ là tương đối; chúng được xác định bởi hình thức,
không phải do quy mô hay thời gian tuyệt đối. Sóng của cùng một cấp độ có thể có
quy mô và/hoặc thời gian rất khác nhau.

Việc phân loại một sóng ở một cấp độ cụ thể nào đó có thể khác nhau, mặc dù
những người thực hành nói chung đồng ý về thứ tự cấp độ tiêu chuẩn. Có 9 cấp độ
sóng chính từ chu kỳ thời gian nhiều thế kỷ (Grand super cycle) cho đến chu kỳ chỉ
vài phút (Subminuette).

– Grand Supercycle: cấp độ sóng siêu chu kỳ lớn, sóng kéo dài nhiều thập kỷ, đôi
khi cả thế kỷ.
– Supercycle: cấp độ sóng siêu chu kỳ kéo dài từ vài năm đến vài thập kỷ.
– Cycle: cấp độ sóng chu kỳ kéo dài từ 1 đến vài năm.
– Primary: cấp độ sóng xu hướng chính kéo dài từ vài tháng đến 2 năm.
– Intermediate: cấp độ sóng xu hướng trung hạn kéo dài từ vài tuần đến vài tháng.
– Minor: cấp độ sóng con kéo dài trong vài tuần.
– Minute: cấp độ sóng nhỏ kéo dài trong vài ngày.
– Minuette: cấp độ sóng rất nhỏ kéo dài trong vài giờ.
– Subminutte: cấp độ sóng siêu nhỏ kéo dài trong vài phút.

Trên thực tế giao dịch bạn cũng không cần nhớ tên những cấp độ sóng này làm gì,
chỉ cần bạn nắm vững các lý thuyết giao dịch với sóng Elliott là được.

6. Tên gọi và ký hiệu của 11 dạng mô hình sóng

1. Mô hình Impulse (được ký hiệu là IM)


2. Mô hình Leading Diagonal Triangle (được ký hiệu là LD)
3. Mô hình Ending Diagonal Triangle (được ký hiệu là ED)
4. Mô hình Zigzag (được ký hiệu là ZZ)
5. Mô hình Double Zigzag (được ký hiệu là DZ)
6. Mô hình Triple Zigzag (được ký hiệu là TZ)
7. Mô hình Flat (được ký hiệu là FL)
8. Mô hình Double Three (được ký hiệu là D3)
9. Mô hình Triple Three (được ký hiệu là T3)
10.Mô hình Contracting Triangle (được ký hiệu là CT)
11.Mô hình Extending Triangle (được ký hiệu là ET)

BÀI 2: TÂM LÝ THỊ TRƯỜNG THEO CÁC BƯỚC SÓNG ELLIOTT

Để hiểu hoàn toàn lý thuyết sóng Elliott thì cần phải hiểu tâm lý thị trường tại mỗi
bước sóng kể từ khi dao động giá zigzag thể hiện những thay đổi theo tâm lý lạc
quan hay bi quan của nhà đầu tư.

Dưới đây là phân tích tích tâm lý mô hình 8 sóng điển hình của thị trường đầu cơ
giá lên (bull market). Trong thị trường đầu cơ giá xuống (bear market) thì phân tích
ngược lại.

Sóng chủ số 1: Đợt sóng đầu tiên này có điểm xuất phát từ thị trường đầu cơ giá
xuống (suy thoái), do đó sóng 1 ít khi được nhận biết ngay từ đầu. Lúc này thông
tin cơ bản vẫn đang là thông tin tiêu cực. Chiều hướng của thị trường trước khi
sóng 1 xảy ra chủ yếu vẫn là thị trường suy thoái. Khối lương giao dịch có tăng
chút ít theo chiều hướng giá tăng. Tuy vậy việc tăng giá này là không đáng kể. Do
đó nhiều nhà phân tích kỹ thuật không nhận ra sự có mặt của đợt sóng số 1 này.

Sóng chủ số 2: Sóng chủ 2 sẽ điều chỉnh sóng 1, nhưng điểm thấp nhất của sóng 2
không bao giờ vượt qua điểm xuất phát đầu tiên của sóng 1. Tin tức dành cho thị
trường vẫn chưa khả quan. Thị trường đi xuống ở cuối sóng 2 để thực hiện việc
“kiểm tra” độ thấp của thị trường. Những người theo xu thế đầu cơ giá xuống vẫn
đang tin rằng thị trường theo xu hướng đầu cơ giá xuống vẫn đang ngự trị. Khối
lượng giao dịch sẽ ít hơn đợt sóng 1. Giá sẽ được điều chỉnh giảm và thường nằm
trong khoảng 0.382 đến 0.618 của mức cao nhất của sóng 1.
Sóng chủ số 3: Thông thường đây là sóng lớn nhất và mạnh mẽ nhất của xu hướng
tăng giá. Ngay đầu sóng 3, thị trường vẫn còn nhận những thông tin tiêu cực vì vậy
có nhiều nhà đầu tư không kịp chuẩn bị để mua vào. Khi sóng 3 đang ở lưng
chừng, thị trường bắt đầu nhận những thông tin cơ bản tích cực. Mặc dù có những
đợt điều chỉnh nho nhỏ trong lòng của sóng 3, giá của sóng 3 tăng lên với tốc độ
khá nhanh. Điểm cao nhất của sóng 3 thường cao hơn điểm cao nhất của sóng 1
với tỷ lệ 1.618% hoặc thậm chí là 261.8%.

Sóng chủ số 4: Đây thật sự là một con sóng điều chỉnh. Giá có khuynh hướng đi
xuống và đôi khi có thể tạo kiểu răng cưa kéo dài. Sóng 4 thường sẽ điều chỉnh
sóng 3 với mức 0.382 – 0.618 của sóng 3. Khối lượng giao dịch của sóng 4 thấp
hơn khối lượng giao dịch của sóng 3. Đây là thời điểm để mua vào nếu như nhà
đầu tư nhận biết được tiềm năng tiếp diễn liền sau đó của con sóng 5. Tuy vậy việc
nhận biết điểm dừng của sóng 4 là một trong những khó khăn của các nhà phân
tích kỹ thuật trường phái sóng Elliott.

Sóng chủ số 5: Đây là đợt sóng cuối cùng của 5 con sóng “chủ”. Thông tin tích
cực tràn lan khắp thị trường và ai cũng tin rằng thị trường đang ở trong thế đầu cơ
giá lên. Khối lượng giao dịch của sóng 5 khá lớn, tuy vậy thông thường vẫn nhỏ
hơn sóng 3. Điều đáng nói là những nhà đầu tư “không chuyên nghiệp” thường
mua vào ở những điểm gần cuối sóng 5. Vào cuối con sóng 5, thị trường nhanh
chóng chuyển hướng. Điểm cao nhất của sóng 5 thường cao hơn điểm cao nhất của
sóng 3 với tỷ lệ 161.8%.

Sóng điều chỉnh A: Sóng này bắt đầu cho đợt sóng điều chỉnh A – B – C. Trong
thời gian diễn ra sóng A, thông tin cơ bản vẫn đang rất lạc quan. Mặc dù giá
xuống, nhưng phần đông các nhà đầu tư vẫn cho rằng thị trường đang trong xu thế
đầu cơ giá lên. Khối lượng giao dịch tăng trưởng khá đều đặn theo con sóng A.
Sóng A thường hoàn lại từ 38.2% đến 61.8% so với sóng 5.

Sóng điều chỉnh B: Giá tăng trở lại và với mức cao hơn so với điểm cuối sóng A.
Sóng B được xem là điểm kéo dài của thị trường đầu cơ giá lên. Đối với những
người theo trường phái phân tích kỹ thuật cổ điển, điểm B chính là vai phải của mô
hình đồ thị Đầu và Vai. Khối lượng giao dịch của sóng B thường thấp hơn sóng A.
Vào lúc này, những thông tin cơ bản không có những điểm tích cực mới, thế nhưng
cũng chưa chuyển hẳn qua tiêu cực. Sóng B thường hoàn lại từ 38.2% đến 61.8%
so với sóng A.
Sóng điều chỉnh C: Giá có khuynh hướng giảm nhanh hơn các đợt sóng trước.
Khối luợng giao dịch tăng. Hầu như tất cả mọi nhà đầu tư đều nhận thấy rõ sự ngự
trị của xu thế đầu cơ giá xuống trên thị trường, chậm nhất là trong đợt sóng nhỏ thứ
3 của sóng C. Sóng C thường lớn như sóng A hoặc cũng thường mở rộng 1.618 lần
so với sóng A hoặc hơn.

BÀI 3: SÓNG ĐẨY – IMPULSE WAVE

Sóng đẩy là các hành động giá đi thuận theo xu


hướng chính hiện tại. Trong 1 xu hướng tăng, sóng đẩy là các
con sóng đẩy giá lên cao hơn, vượt lên trên đỉnh trước đó. Ngược
lại trong xu hướng giảm sóng đẩy là các con sóng đạp giá xuống
thấp hơn, tạo ra các đáy sau thấp hơn đáy trước.

Các con sóng đẩy thường được tạo ra bởi tập hợp các cây nến dài
có thân lớn (có thể đi kèm volume lớn), đặc biệt về yếu tố thời
gian, sóng đẩy được hình thành và chạy với tốc độ nhanh hơn
sóng điều chỉnh.

Mô hình sóng đẩy Impulse (được ký hiệu là IM) là mô hình sóng


Elliott cơ bản, có 5 sóng, trong đó có 3 sóng di chuyển theo
hướng của xu hướng chính và 2 sóng điều chỉnh di chuyển ngược
với xu hướng chính. Mỗi sóng được đánh dấu tại điểm cuối và
được đánh số từ 1 đến 5.
2. Những quy tắc quan trọng của sóng Impulse

 Chính sóng 1 phải là mô hình sóng Impulse


(IM) hoặc Leading Diagonal (LD).
 Sóng 2 có thể là bất kỳ mô hình sóng điều chỉnh
nào ngoại trừ mô hình tam giác điều
chỉnh (Contracting Triangle (CT) hoặc Expanding
Triangle (ET)).
 Sóng 2 không thể hồi lại quá 100% so với sóng 1.
 Sóng 3 phải là mô hình Impulse (IM).
 Sóng 3 phải dài hơn sóng 2 về giá.
 Sóng 4 có thể là bất kỳ mô hình sóng điều chỉnh nào.
 Sóng 2 và sóng 4 không có vùng giá giao nhau.
 Sóng 5 phải là mô hình Impulse (IM) hoặc Ending
Diagonal (ED).
 Sóng 5 phải ít nhất bằng 70% chiều dài của sóng 4 theo
giá.
 Trong các sóng 1, 3, 5 thì mỗi sóng trong số đó có thể
mở rộng và khi đó sẽ là sóng dài nhất so với 2 sóng còn
lại.
 Sóng 5 có thể không vượt qua điểm cuối của sóng 3, khi
đó là trường hợp bất quy tắc còn gọi là Failure or
Truncated 5th.

3. Những biến thể của mô hình sóng Impulse

3.1. Mô hình sóng Impulse Extension

Mô hình sóng Impulse Extension còn gọi là mô hình sóng mở rộng


xảy ra trong một sóng chủ nơi mà các sóng 1, 3 hoặc 5 có thể mở
rộng và kéo dài hơn các sóng khác. Mô hình mở rộng phổ biến
nhất là mở rộng sóng 3 và khi đó hai sóng 1, 5 có xu thế bằng
nhau; mô hình này có tên gọi là Extension3. Nếu sóng 1 mở rộng
thì có tên gọi là Extension1, nếu sóng 5 mở rộng thì có tên gọi là
Extension5; hai mô hình này ít phổ biến hơn mô hình Extension3.
Và điều đặc biệt là hiện tượng sóng mở rộng còn xuất hiện ở
trong chính sóng mở rộng đó.

Vị trí xuất hiện:


Mô hình Impulse Extension xuất hiện ở các sóng 1,3,5 và các
sóng A, C thuộc quá trình điều chỉnh (Correction).

Cấu trúc sóng bên trong:


Mô hình Impulse Extension bao gồm tối thiểu 9 sóng dù 13 hay
17 sóng có thể xảy ra. Cấu trúc sóng bên trong tối thiểu của 9
sóng theo dạng 5-3-5-3-5-3-5-3-5. Chú ý rằng các dạng 3 sóng
là các sóng điều chỉnh bao gồm 5 sóng theo mô hình tam giác
điều chỉnh.
1. Mô hình sóng 1 mở rộng

Quy tắc:

 Sóng có sóng 1 mở rộng bao gồm 9 sóng, mỗi sóng gần


như tương tự về hình dạng và thời gian phát triển.
 Nếu sự mở rộng xảy ra ở sóng 1 thì các sóng 3 và 5 sẽ là
sóng bình thường, không mở rộng.
 Sóng 1 mở rộng theo mô hình Impulse
(IM) hoặc Leading Diagonal (LD).
 Đôi khi xảy ra trường hợp 2 lần mở rộng với sóng 1
(Double Extension) khi đó sóng có sóng 1 mở rộng 2
lần bao gồm 13 sóng (riêng trường hợp hiếm xảy ra là có
đến 3 lần mở rộng với sóng 1 – Triple Extension thì sẽ
có 17 sóng).
2. Mô hình sóng 3 mở rộng

Quy tắc:

 Sóng có sóng 3 mở rộng bao gồm 9 sóng, mỗi sóng tương


tự về hình dạng và thời gian phát triển.
 Nếu sự mở rộng xảy ra ở sóng 3 thì các sóng 1 và 5 sẽ là
những sóng bình thường, không mở rộng.
 Sóng 4 không được trùng lặp vùng giá với sóng 1.
 Sóng 3 không bao giờ là sóng ngắn nhất.
 Sóng 3 mở rộng theo mô hình Impulse (IM).
 Đôi khi xảy ra trường hợp 2 lần mở rộng với sóng 3
(Double Extension) khi đó sóng có sóng 3 mở rộng 2 lần
bao gồm 13 sóng (riêng trường hợp hiếm xảy ra là có đến
3 lần mở rộng với sóng 3 – Triple Extension thì sẽ có 17
sóng).
3. Mô hình sóng 5 mở rộng

Quy tắc:
 Sóng có sóng 5 mở rộng bao gồm 9 sóng, mỗi sóng
tương tự về hình dạng và thời gian phát triển.
 Nếu sự mở rộng xảy ra ở sóng 5 thì các sóng 1 và 3 sẽ là
những sóng bình thường, không mở rộng.
 Sóng 4 không được trùng lặp vùng giá với sóng 1.
 Sóng 5 mở rộng theo mô hình Impulse
(IM) hoặc Ending Diagonal (ED).
 Đôi khi xảy ra trường hợp 2 lần mở rộng với sóng 5
(Double Extension) khi đó sóng có sóng 5 mở rộng 2 lần
bao gồm 13 sóng (riêng trường hợp hiếm xảy ra là có đến
3 lần mở rộng với sóng 5 – Triple Extension thì sẽ có 17
sóng).

3.2. Mô hình Impulse Truncated 5th (Sóng cụt)

Mô hình sóng có sóng 5 không thể vượt qua điểm kết thúc sóng 3
gọi là mô hình Impulse Truncated 5th hay còn gọi là sóng cụt.
Sóng 5 chỉ đến gần đỉnh sóng 3. Mô hình này cho thấy xu hướng
yếu và thị trường sẽ nhanh chóng chuyển hướng theo xu hướng
ngược lại.

1. Quy tắc:

 Mô hình Truncated 5th hay sóng cụt bao gồm 5 sóng.


 Sóng 2 không dài hơn về khoảng cách giá so với Sóng 1
vì thế sẽ không vượt qua điểm khởi nguồn của Sóng 1.
 Sóng 3 không bao giờ là sóng ngắn nhất so với các sóng 1
và 5.
 Sóng 4 không đi vào biên độ của Sóng 1 trừ các trường
hợp Diagonal Triangle và đôi khi xuất hiện ở sóng 1 hoặc
A nhưng không bao giờ ở sóng 3. Như vậy các mô hình
Diagonal Triangle cũng có thể biến theo dạng Failure or
Truncated 5th khi sóng 5 không vượt qua sóng 3.
 Sóng 5 không đi qua điểm cuối của Sóng 3.
 Sóng 3 cho thấy xung lượng lớn nhất.
 Cấu trúc sóng bên trong theo các dạng điều chỉnh khác
nhau.

2. Vị trí xuất hiện:


Mô hình Truncated 5th hay sóng cụt chỉ xuất hiện ở các sóng 5
hoặc C và thường không xuất hiện ở sóng 5 của sóng 3 ở cấp độ
sóng lớn hơn.
3. Cấu trúc sóng bên trong:
Mô hình Truncated 5th hay sóng cụt bao gồm 5 sóng có cấu trúc
sóng bên trong theo dạng 5-3-5-3-5.

BÀI 4: SÓNG CHÉO – DIAGONAL


Sóng chéo là một trường hợp đặc biệt của sóng đẩy (impulse)
nhưng khác là nó vi phạm vào quy tắc thứ 3 – sóng 4 vi phạm
vào vùng giá của sóng 1. Sóng chéo được chia làm 2 dạng là
Ending Diagonal (sóng chéo kết thúc) và Leading Diagonal (sóng
chéo khởi đầu).

Quy tắc:

 Các sóng 1, 3 và 5 của mô hình Ending Diagonal (ED) luôn


theo mô hình thuộc họ Zigzag (ZZ).
 Sóng 2 có thể theo bất kỳ mô hình điều chỉnh nào trừ mô
hình tam giác điều chỉnh như Contracting Triangle (CT) và
Expanding Triangle (ET).
 Sóng 2 không bao giờ dài hơn sóng 1 về giá.
 Sóng 3 luôn lớn hơn sóng 2 về giá.
 Sóng 4 có thể theo bất kỳ mô hình điều chỉnh nào.
 Các sóng 2 và 4 phải chia sẻ cùng vùng giá, tức là phải
chéo nhau.
 Sóng 5 phải bằng ít nhất 50% sóng 4 về giá.
 Sóng 3 không phải là sóng ngắn nhất về giá khi so sánh
với các sóng 1 và 5.

Mô hình sóng Ending Diagonal (ED) có 2 dạng: Ending Diagonal


Contracting và Ending Diagonal Expanding.

Mô hình sóng Leading Diagonal (LD)

Leading Diagonal là mô hình sóng dạng tam giác chéo có cấu trúc
sóng bên trong theo dạng 5-3-5-3-5.

Mô hình sóng Leading Diagonal thuộc dạng mô hình sóng chủ


thường xảy ra ở đầu một cấp độ sóng như sóng 1 hay sóng A hay
nói cách khác nó nằm trong sóng 1 hoặc sóng A. Không nên
nhầm lẫn nó với các mô hình tam giác điều chỉnh. Điểm khác của
mô hình này với mô hình Ending Diagonal là các sóng 1, 3 và 5 có
cấu trúc sóng bên trong gồm 5 sóng chứ không phải 3 sóng như
mô hình Ending Diagonal.

Cũng như mô hình sóng Ending Diagonal thì mô hình sóng


Leading Diagonal là hiện tượng tương đối hiếm đối với các cấp độ
sóng lớn mà thường xuất hiện ở các cấp độ sóng thấp hơn trên
các đồ thị giá trong ngày (intraday). Thường thì theo sau mô hình
Leading Diagonal là sự thay đổi mạnh về xu hướng thị trường.

Quy tắc:

 Sóng 1 của mô hình Leading Diagonal (LD) theo mô hình


Impulse (IM) hoặc Leading Diagonal (LD).
 Sóng 2 có thể theo bất kỳ mô hình điều chỉnh nào trừ mô
hình tam giác điều chỉnh như Contracting Triangle (CT) và
Expanding Triangle (ET).
 Sóng 2 không bao giờ dài hơn sóng 1 về giá.
 Sóng 3 của mô hình Leading Diagonal (LD) theo mô hình
Impulse (IM).
 Sóng 3 luôn lớn hơn sóng 2 về giá.
 Sóng 4 có thể theo bất kỳ mô hình điều chỉnh nào.
 Các sóng 2 và 4 phải chia sẻ cùng vùng giá, tức là phải
chéo nhau.
 Sóng 5 của mô hình Leading Diagonal (LD) theo mô hình
Impulse (IM) hoặc Ending Diagonal (ED).
 Sóng 5 phải bằng ít nhất 50% sóng 4 về giá.
 Sóng 3 không phải là sóng ngắn nhất về giá khi so sánh
với các sóng 1 và 5.

Mô hình sóng Leading Diagonal (LD) có 2 dạng: Leading Diagonal


Contracting và Leading Diagonal Expanding.

Với mô hình Leading Diagonal Contracting thì hai đường xu


hướng nối các điểm cuối của sóng 1 với sóng 3 và sóng 2 với sóng
4 có xu thế hội tụ.

Với mô hình Leading Diagonal Expanding thì hai đường xu


hướng nối các điểm cuối của sóng 1 với sóng 3 và sóng 2 với sóng
4 có xu thế phân kỳ.
BÀI 5: SÓNG ĐIỀU CHỈNH – CORRECTIVE WAVE – ZIGZAG

Ngược lại với sóng đẩy (Impulse wave), sóng điều chỉnh
(Corrective wave) là các con sóng đi ngược với xu hướng
chính. Nó đơn giản là giai đoạn tạm nghỉ của xu hướng chính
chứ không phải xu hướng chính đó đã chấm dứt. Sóng điều chỉnh
có thể ở dưới dạng 1 con sóng, hoặc 1 đoạn giá đi ngang tích luỹ,
với đặc tính yếu ớt hơn, và chậm chạp hơn sóng đẩy. Đây là các
giai đoạn thị trường nghỉ ngơi sau 1 đoạn giá mạnh.

1 sóng điều chỉnh trong 1 xu hướng tăng bao gồm các đoạn giá
giảm nhẹ, tạo các đỉnh thấp hơn, hoặc có thể đi ngang. Điều quan
trọng là sóng điều chỉnh bao gồm CÁC HỖN HỢP NẾN TĂNG
VÀ GIẢM VỚI THÂN NẾN NHỎ. Đây là đặc điểm quan trọng để
phân biệt với sóng đẩy.

Mô hình sóng điều chỉnh (Corrective wave) là mô hình gồm 3


sóng ngược xu hướng với mô hình sóng chủ (Impulse).

Để dễ phân biệt sóng điều chỉnh với sóng chủ, chúng được đánh
dấu theo các chữ cái A-B-C, W-X-Y-Z (sóng chủ được đánh số từ
1-5)
Sóng điều chỉnh (Corrective wave) được chia làm 3 dạng mô hình
chính:

 Mô hình sóng Zigzig


 Mô hình sóng Flat
 Mô hình sóng Triangel (tam giác)

Mô hình sóng Zigzag (ZZ)

Mô hình sóng Zigzag (ZZ) có cấu trúc 3 sóng được đánh dấu A-
B-C, nhìn chung di chuyển ngược với xu hướng chính. Mô hình
ZigZag thường xuất hiện ở sóng A, sóng X hoặc sóng 2. Nó cũng
thường xuất hiện ở sóng B là một phần của mô hình Flat, một
phần của mô hình tam giác và đôi khi ở sóng 4. Đây là một trong
những mô hình sóng Elliott điều chỉnh phổ biến nhất.

Mô hình ZigZag đơn (Single ZigZag) gồm 3 sóng. Mô hình Double


ZigZag gồm 7 sóng được chia tách bằng sóng X ở giữa. Mô hình
Triple ZigZag gồm 11 sóng được chia tách bằng 2 sóng X ở
giữa. Cấu trúc bên trong của sóng 3 trong Single ZigZag là
5-3-5, trong Double ZigZag là 5-3-5-3-5-3-5.

Sự trình bày hiện đại hơn về mô hình Double ZigZag sử dụng


kiểu WXY thay vì ABCXABC. Theo cách này thì 2 zigzag của cấp
độ sóng nhỏ hơn liên kết với nhau bằng những sóng ở cấp độ cao
hơn. Như vậy thay vì sử dụng 7 sóng (ABCXABC) thì phân tích đồ
thị ngày có thể sử dụng kiểu 3 sóng (WXY). Theo phương pháp
này thì mô hình Triple ZigZag được biểu diễn là WXYXZ thay vì
ABCXABCXABC. Theo cách này thì số sóng được giản lược thành 5
sóng thay vì 11 sóng.

Quy tắc mô hình sóng Zigzag

Sóng A phải theo mô hình Impulse (IM) hoặc Leading


Diagonal (LD).
Sóng B chỉ có thể là mô hình sóng điều chỉnh và phải ngắn hơn
sóng A về khoảng cách giá.
Sóng C phải theo mô hình Impulse (IM) hoặc Ending
Diagonal (ED).
Sóng C có thể là mô hình Ending Diagonal (ED) nếu sóng A là
mô hình Leading Diagonal (LD).
Các biến thể của mô hình sóng Zigzag

Mô hình sóng Zigzag Running


Với mô hình Zigzag Running thì điểm cuối của sóng C không
vượt qua điểm cuối của sóng A

Mô hình sóng Zigzag Elongated


Với mô hình Zigzag Elongated thì sóng C rất dài so với sóng A,
có thể dài bằng 2.618 lần sóng A.
Mô hình sóng Double Zigzag và mô hình sóng Triple Zigzag

Các biến thể phổ biến của mô hình Zigzag (ZZ) là mô hình Double
Zigzag (DZ) và mô hình Triple Zigzag (TZ).

Về bản chất thì chúng đều là các mô hình điều chỉnh. Mô hình
Triple Zigzag (TZ) thì hiếm xảy ra. Tất cả các mô hình này tạo
thành họ Zigzag (ZZ).

Mô hình Double Zigzag

Mô hình Double Zigzag (DZ) được tạo thành bằng 2 mô hình


Zigzag (ZZ) được nối với nhau bởi một mô hình điều chỉnh tương
đối ngắn gọi là sóng (X).
Mô hình Double Zigzag (DZ) được biểu thị bằng các sóng (W)-
(X)-(Y) trong đó các sóng (W), (Y) theo mô hình Zigzag (ZZ).

Mô hình Triple Zigzag

Mô hình Triple Zigzag (TZ) được tạo thành bằng 3 mô hình


Zigzag (ZZ) được nối với nhau bởi 2 mô hình sóng điều chỉnh
tương đối ngắn gọi là sóng (X).

Mô hình Triple Zigzag (TZ) được biểu thị bằng các sóng (W)-
(X)-(Y)-(X)-(Z) trong đó các sóng (W), (Y), (Z) theo mô hình
Zigzag (ZZ).
Quy tắc mô hình sóng Double Zigzag và Triple Zigzag

 Các sóng (W), (Y), (Z) phải theo mô hình Zigzag (ZZ).
 Sóng (X) có thể là bất kỳ mô hình điều chỉnh nào trừ mô
hình Expanding Triangle (ET).
 Sóng (X) phải ngắn hơn sóng (W) về biên độ giá.
 Sóng (Y) phải bằng hoặc dài hơn sóng (X) về biên độ giá.
 Sóng (X) thứ hai phải ngắn hơn sóng (Y) về biên độ giá.
 Sóng (Z) phải bằng hoặc dài hơn sóng (X) thứ hai về biên
độ giá.
Chú ý: Các mô hình sóng Double Zigzag (ZZ) và Triple Zigzag
(TZ) chứa các mô hình Zigzag (ZZ) vì thế các biến thể Zigzag
(ZZ) Running, Zigzag (ZZ) Elongated cũng hàm chứa trong các
mô hình sóng này.

BÀI 6: SÓNG ĐIỀU CHỈNH – CORRECTIVE WAVE – FLAT


Bởi
Fx Signals
-
March 14, 2020
0
513
Chia sẻ

Mô hình sóng Flat – Sóng phẳng

Mô hình sóng Flat (FL) là một dạng sóng điều chỉnh rất phổ
biến bao gồm ba sóng được đánh dấu A-B-C. Chúng khác với các
mô hình Zigzag (ZZ) ở chỗ chúng có xu thế di chuyển dập dềnh
chứ không phải lên mạnh hoặc xuống mạnh, vì thế mới có tên gọi
“Flat”. Mô hình này có khuynh hướng điều chỉnh nhẹ xu
hướng trước đó và có thể tạo thành mô hình cờ phổ biến mỗi khi
xuất hiện. Đôi khi, nó có thể giống như một kênh đơn giản trong
đó giá có xu hướng đi ngang phần lớn kênh và ít có dấu hiệu tăng
giá rõ ràng.

Trong một Impulse Wave, dạng Flat thường được tìm thấy
ở sóng thứ tư (đặc biệt khi sóng hai đã là sóng zigzag thì sóng
thứ tư rất có thể là flat), có thể tạo ra sóng ‘A’ hoặc ‘B’ của mô
hình điều chỉnh, nhưng bạn sẽ không tìm thấy chúng trong sóng
‘C’ của sóng điều chỉnh. Ngoài ra thì sóng Flat còn có thể xuất
hiện ở sóng B của sóng zigzag hoặc sóng thành phần của
Double Three hoặc Triple Three Combination. Tuy nhiên, bạn sẽ
không tìm thấy mẫu Flat trong một mẫu hình điều chỉnh là mô
hình tam giác. Mô hình tam giác được xây dựng từ mô hình zigzag
hoặc những mô hình tam giác khác.

Đồng thời mô hình Flat (FL) thường có cấu trúc sóng 3-3-
5 hoặc 3-3-7. Ngược lại các mô hình Zigzag di chuyển lên hoặc
xuống nhanh và mạnh và theo cấu trúc sóng 5-3-5.

Quy tắc mô hình sóng Flat

 Sóng A có thể theo bất kỳ mô hình điều chỉnh nào.


 Sóng B có thể theo bất kỳ mô hình điều chỉnh nào trừ mô
hình Contracting Triangle (CT) và Expanding Triangle (ET).
 Sóng B phải hồi lại ít nhất 50% sóng A về giá (theo
Fibonacci Retracement) và phải ngắn hơn 2 lần chiều
dài sóng A (0.5A ≤ B ≤ 2A).
 Sóng C chỉ có thể là mô hình Impulse (IM) hoặc Ending
Diagonal (ED) hoặc Double Zigzag (DZ). Nếu sóng C theo
mô hình Double Zigzag (DZ) mà sóng X mở rộng thì cấu
trúc sóng bên trong của mô hình Flat (FL) là 3-3-3 nhưng
nếu sóng X không mở rộng thì cấu trúc sóng bên trong
của mô hình Flat (FL) là 3-3-7.
 Sóng C không dài hơn 3 lần chiều dài sóng A (C ≤
3A).
 Sóng C phải chia sẻ vùng giá với sóng A.
Về cơ bản có 4 dạng Flat điều chỉnh. Dạng Flat thông thường,
dạng Expanded Flat, Running Flat và Elongated Flat. Tên của mô
hình mà bạn xác định không quan trọng bằng ý nghĩa của nó. Mỗi
dạng Flat ở trên hàm ý là một sự củng cố trước tiếp tục của xu
hướng diễn ra trước khi hình thành dạng Flat.

Các biến thể của mô hình sóng Flat

Mô hình Flat Expanded / Irregular


Mô hình sóng Expanded Flat là dạng sóng đặc biệt phổ biến của
mô hình sóng Flat. Ở đây sóng B được mở rộng và vượt qua
điểm cuối của sóng chủ trước đó (nói cách khác là vượt qua
điểm khởi đầu sóng A).
Sức mạnh của sóng B cho thấy thị trường muốn tiếp tục đi theo
xu hướng chính. Nếu sóng C dài hơn nhiều so với sóng A thì sức
mạnh đó sẽ kém đi.

Mô hình Running Flat


Mô hình Running Flat cũng giống như mô hình Expanded
Flat, sóng B được mở rộng vượt qua điểm bắt đầu của sóng
A nhưng điểm cuối của sóng C không vượt qua điểm cuối
của sóng A. Điều này thể hiện sức mạnh của xu hướng chính.
Mô hình Elongated Flat
Với mô hình Elongated Flat thì sóng C rất dài so với sóng A,
có thể dài bằng 2.618 lần sóng A. Ở dạng sóng này thì sóng C
thường theo dạng sóng chủ mở rộng sóng thứ 5.
BÀI 7: SÓNG ĐIỀU CHỈNH – CORRECTIVE WAVE – TRIANGLE
Bởi
Fx Signals
-
March 16, 2020
0
443

Chia sẻ
Mô hình sóng điều chỉnh Triangle

Mô hình sóng Triangle (mô hình tam giác) là mô hình sóng


điều chỉnh. Có 2 dạng mô hình tam giác phổ biến là Contracting
Triangle (CT) và Expanding Triangle (ET).

Các mô hình này điều chỉnh có cấu trúc 5 sóng, được đánh
dấu A-B-C-D-E tương ứng cấu trúc 3-3-3-3-3, di chuyển trong
2 đường kênh giá hội tụ (contracting) hoặc mở rộng (expanding)
được vẽ từ A đến C và từ B đến D.

Mô hình sóng Triangle xuất hiện ở các sóng 4, B và X. Nó


không bao giờ xuất hiện ở sóng 2 hoặc sóng A.

Sóng Triangle thường xuất hiện trước sóng chuyển động cuối
cùng theo xu hướng chính của cấp độ sóng lớn hơn tiếp theo. Sau
sóng chuyển động cuối cùng thường là cú đảo chiều giá nhanh và
mạnh được gọi là “kiếm đâu hậu tam giác”

Mô hình Contracting Triangle

Mô hình Contracting Triangle (CT) khá phổ biến. Trong mô


hình này thì 2 đường kênh giá AC, BD hội tụ dần.

Quy tắc của mô hình sóng Contracting Triangle (CT)

 Sóng A chỉ có thể là một Zigzag (ZZ), Double Zigzag (DZ)


hoặc Triple Zigzag (TZ), hoặc Flat (FL).
 Sóng B chỉ có thể là một Zigzag (ZZ), Double Zigzag (DZ)
hoặc Triple Zigzag (TZ).
 Sóng C và sóng D có thể theo bất kỳ mô hình điều chỉnh
nào trừ mô hình Contracting Triangle (CT) hoặc Expanding
Triangle (ET).
 Các sóng A, B, C và D phải di chuyển trong hoặc gần với
các đường kênh giá AC và BD. Sự giao nhau của các
đường kênh giá phải xuất hiện sau khi kết thúc sóng E.
Các đường kênh giá phải hội tụ, chúng không thể song
song nhau.
 Một trong các đường kênh giá có thể nằm ngang (nên mô
hình Contracting Triangle (CT) có thể là dạng Symmetrical
Triangle, hoặc dạng Ascending Triangle hoặc dạng
Descending Triangle).
 Sóng E có thể là một Zigzag (ZZ), Double Zigzag (DZ)
hoặc Triple Zigzag (TZ) hoặc lồng tam giác Contracting
Triangle (CT).
 Sóng E phải ngắn hơn sóng D về giá và sóng E phải dài
hơn 20% sóng D về giá (0.2D < E < D).
 Hoặc sóng A hoặc sóng B phải là sóng dài nhất về giá.
Sóng E phải kết thúc trong vùng giá của sóng A. Sóng E
phải di chuyển trong hoặc gần với đường kênh BD.
Các biến thể của mô hình sóng Contracting Triangle (CT)

 Khi 2 đường kênh AC, BD hội tụ đối xứng thì có


dạng Contracting Triangle (CT) Symmetrical.
 Khi 2 đường kênh AC, BD hội tụ trong đó AC nằm
ngang (Horizonal) và BD hướng xuống (Descending) thì
có Contracting Triangle (CT) Descending.
 Khi 2 đường kênh AC, BD hội tụ trong đó BD nằm
ngang và AC hướng lên (Ascending) thì có Contracting
Triangle (CT) Ascending.
 Khi 2 đường kênh AC, BD hội tụ mà cùng chạy với
hướng chếch lên hoặc chếch xuống thì có Contracting
Triangle (CT) Running.
Mô hình Expanding Triangle

Mô hình Expanding Triangle (ET) rất ít phổ biến trong số các


mô hình sóng Elliott. Trong mô hình này thì 2 đường kênh giá AC,
BD mở rộng dần ra về phía bên phải.
Quy tắc của mô hình sóng Expanding Triangle (ET)

 Tất cả 5 sóng A, B, C, D, E phải theo các mô hình Zigzag


(ZZ), Double Zigzag (DZ) hoặc Triple Zigzag (TZ).
 Sóng B phải ngắn hơn sóng C về giá nhưng dài hơn 40%
sóng C về giá (0.4C < B < C). Các sóng A, B, C và D phải
di chuyển trong hoặc gần với các đường kênh giá AC và
BD. Sóng C phải ngắn hơn sóng D về giá nhưng dài hơn
40% sóng D về giá (0.4D < C < D).
 Sóng A phải di chuyển trong hoặc gần trong đường kênh
AC. Sự giao nhau của các đường kênh giá phải xuất hiện
trước khi bắt đầu sóng A. Các đường kênh giá phải phân
kỳ, chúng không thể song song nhau. Không có đường
kênh giá nào nằm ngang.
 Sóng E phải dài hơn sóng D và sóng D phải lớn hơn 40%
sóng E về giá (0.4E < D < E). Hoặc sóng A hoặc sóng B là
sóng ngắn nhất về giá. Sóng E phải di chuyển trong hoặc
gần trong đường kênh BD.

Mô hình Expanding Triangle (ET) không có biến thể.

BÀI 8: SÓNG ĐIỀU CHỈNH – CORRECTIVE WAVE – COMBINATION


Bởi
Fx Signals
-
March 16, 2020
0
368
Chia sẻ

Trong các bài viết trước chúng ta đã biết trong Nguyên lý sóng
Elliott có 3 loại mẫu hình sóng điều chỉnh lớn là Zigzag, Flat và
Triangles. Đây là ba mẫu hình đơn giản mà bạn có thể bắt gặp rất
nhiều ở đâu đó trên thị trường, ở sóng 2, sóng 4 hoặc sóng B. Ví
dụ nếu sóng 2 là sóng Zigzag thì có thể sóng 4 sẽ là sóng
Triangle chẳng hạn.

Tuy nhiên, trên thực tế thị trường không phải lúc nào cũng dễ
dàng như vậy. Nhất là khi những đợt điều chỉnh giá kéo dài rất
lâu thì nó không còn là những mẫu hình đơn giản nữa rồi. Nhà
đầu tư sẽ phải tiếp tục tìm hiểu một số khái niệm mới, mà trong
bài viết này tôi sẽ giới thiệu với mọi người một trong số chúng,
mẫu hình sóng đó có tên gọi là “Corrective combination”, tạm
dịch là sự điều chỉnh kết hợp.

Corrective combination bao gồm 2 hoặc 3 mẫu hình sóng


điều chỉnh kết hợp lại với nhau. Những kiểu sóng này được
đánh dấu là WXY (Double Three) và WXYXZ (Triple
Three) nếu nó phức tạp hơn. Nó bắt đầu bằng một Zigzag (sóng
W), rồi một sóng X sau đó là mô hình Flat (sóng Y), v.v…

Mô hình Double Three (D3) rất phổ biến trong khi mô hình Triple
Three (T3) ít gặp hơn.

Tất cả các mô hình điều chỉnh có thể kết hợp để hình thành mô
hình điều chỉnh lớn hơn. Các quy tắc sóng điều chỉnh được vận
dụng cho các mô hình nêu trên. Mô hình Triangle thường xuất
hiện ở cuối mô hình Combination.

Nhìn chung, mô hình sóng kết hợp xuất hiện chủ yếu ở các sóng
4, B và X. Nó ít xuất hiện ở sóng A và hiếm khi ở sóng 2.
Quy tắc

 Sóng (W) có thể theo bất kỳ mô hình sóng điều chỉnh nào
trừ các mô hình Triangle (Contracting, Expanding), các mô
hình Double hoặc Triple.
 Sóng (X) có thể theo bất kỳ mô hình sóng điều chỉnh nào
trừ các mô hình Double hoặc Triple. Thông thường sóng
(X) dạng sóng Zigzag (ZZ). Mức hồi lại tối thiểu của sóng
(X) là 50% sóng (W); mức hồi lại tối đa của sóng (X) là
400% sóng (W).
 Sóng (Y) có thể theo bất kỳ mô hình điều chỉnh nào trừ
các mô hình Double hoặc Triple. Sóng (Y) phải lớn hơn
sóng (X) về giá trừ trường hợp sóng (Y) là mô hình
Triangle (Contracting, Expanding).
 Sóng (Z) có thể theo bất kỳ mô hình điều chỉnh nào trừ
các mô hình Double hoặc Triple. Tuy nhiên sóng (Z) không
thể là một Zigzag (ZZ) nếu sóng (Y) là một Zigzag (ZZ).
Sóng (Z) phải lớn hơn sóng (X) thứ hai về giá.

Mô hình sóng Double Three

Mô hình Double Three (D3) được tạo thành bằng 2 mô hình sóng
điều chỉnh với điều kiện không cùng dạng Zigzag (ZZ) được nối
với nhau bởi một mô hình sóng điều chỉnh ngắn gọi là sóng (X).

Mô hình Double Three (D3) được biểu thị bằng các sóng (W)-(X)-
(Y) trong đó các sóng (W), (Y) không cùng dạng sóng Zigzag
(ZZ).
Chi tiết cấu trúc sóng của mô hình Double Three (D3)
Sóng (W) là Zigzag (ZZ) trong khi sóng (Y) là các dạng Triangle
(Contracting, Expanding) hoặc các dạng Flat (FL).
Sóng (W) là các dạng Zigzag (ZZ) trong khi sóng (Y) là các dạng
Flat (FL), Zigzag (ZZ) hoặc Triangle (Contracting, Expanding).
Mô hình sóng Triple Three

Mô hình Triple Three (T3) được tạo thành bằng 3 mô hình sóng
điều chỉnh với điều kiện không cùng dạng Zigzag (ZZ) được nối
với nhau bởi hai mô hình điều chỉnh ngắn gọi là sóng (X).

Mô hình Triple Three (D3) được biểu thị bằng các sóng (W)-(X)-
(Y)-(X)-(Z) trong đó các sóng (W), (Y), (Z) không cùng dạng
sóng Zigzag (ZZ).
Chi tiết cấu trúc sóng của mô hình Triple Three (T3)
Sóng (W) là các dạng Zigzag (ZZ) trong khi sóng (Y) là các dạng
Flat (FL) và sóng (Z) là các dạng Triangle (Contracting,
Expanding):
Sóng (W) là các dạng Flat (FL) trong khi sóng (Y) và sóng (Z) là
các dạng Flat (FL), Zigzag (ZZ) hoặc Triangle (Contracting,
Expanding) nhưng sóng (Z) không là Zigzag (ZZ) khi sóng (Y) đã
là Zigzag (ZZ):
BÀI 9: MỐI QUAN HỆ FIBONACCI GIỮA CÁC SÓNG
Bởi
Fx Signals
-
March 17, 2020
0
567

Chia sẻ
Dãy số Fibonacci là một dãy số toán học trong đó bất kỳ một số
là tổng của 2 số đứng liền trước. Dãy số này được biểu diễn như
sau: 1, 2, 3, 5, 8, 13, 21, 34, 55, 89, 144… Điều đáng chú ý nhất
là tỷ lệ 1.618 là tỷ lệ vàng, nó rất phổ biến và là mối quan hệ đã
được khám phá vào thời cổ đại. Ngoài ra tỷ lệ 0.618 là giá trị
nghịch đảo của 1.618 cũng rất nổi bật khi phân tích quan
hệ Fibonacci.

Elliott đã không khám phá ra mối quan hệ Fibonacci song nó đã


gây chú ý cho Elliott nhờ Charles Collins.

Các phép tính sóng các mô hình sóng chủ và sóng điều chỉnh (5 +
3 = 8) là theo dãy số Fibonacci và phân chia các mô hình sóng
thành các sóng nội bộ tương ứng cũng hoàn toàn tạo ra dãy
số Fibonacci.

Phân tích mối quan hệ Fibonacci giữa các dao động giá là việc
rất quan trọng vì nhiều lý do.
Trước hết nó giúp kiểm soát sự phân tích sóng. Tỷ
lệ Fibonacci từ phép tính sóng càng tốt thì phép tính sóng đó
càng chính xác, vì theo cách này hoặc cách khác thì các sóng liên
quan với nhau. Hơn nữa có thể dự đoán các mục tiêu hiện thực
một khi xác định đúng phép tính sóng hoặc phân biệt được các
viễn cảnh khác nhau.

Các sóng thường có liên quan với nhau theo các tỷ lệ 2.618,
1.618, 1, 0.618, 0.382 và 0.236. Điều này giúp ước tính các mục
tiêu giá cho các sóng mở rộng.

Sóng 1
Đợt sóng đầu tiên này có điểm xuất phát từ thị trường đầu cơ giá
xuống (suy thoái), do đó sóng 1 ít khi được nhận biết ngay từ
đầu. Lúc này thông tin cơ bản vẫn đang là thông tin tiêu cực.
Chiều hướng của thị trường trước khi sóng 1 xảy ra chủ yếu vẫn
là thị trường suy thoái. Khối lượng giao dịch có tăng chút ít theo
chiều hướng giá tăng. Tuy vậy việc tăng giá này là không đáng
kể. Do đó nhiều nhà phân tích kỹ thuật không nhận ra sự có mặt
của đợt sóng số 1 này.

Thông thường chúng ta không giao dịch ở sóng 1 mà sẽ chờ sóng


1 hình thành xong để tính toán biên độ các sóng tiếp theo.

Sóng 2

Sóng 2 hồi lại ít nhất 38.2% nhưng chủ yếu là 61.8% hoặc nhiều
hơn so với sóng 1. Nó thường hồi lại khu vực sóng thứ 4 (thuộc
cấp độ sóng nhỏ hơn) của sóng 1 và thường xuyên đi vào sóng
thứ 2 (thuộc cấp độ sóng nhỏ hơn) của sóng 1. Mức hồi lại hơn
78.6% rất gây hoài nghi dù nó chưa phá vỡ quy luật nào cả.
Nguyên nhân khiến cho sóng 2 có tỷ lệ thoái lùi lớn vì phần lớn
nhà đầu tư cho rằng, xu hướng giảm giá dài hạn sẽ tiếp tục và
sóng 1 chỉ là sóng phục hồi ngược xu hướng. Đây là hành vi của
sóng bán giảm giá.
Sóng 3

Sóng 3 ít nhất bằng sóng 1, trừ các mô hình Leading Diagonal


(LD), Ending Diagonal (ED) (với 2 dạng sóng này thì sóng 3 ngắn
hơn sóng 1). Nếu sóng 3 là sóng mở rộng và dài nhất trong các
sóng chủ 1, 3, 5 thì nó sẽ có xu hướng bằng 161.8% hoặc thậm
chí bằng 261.8% hoặc 461.8% sóng 1. Để nhận diện sóng 3 cần
chú ý đến độ dốc của nó, vì sóng 3 thường có độ dốc cao hơn
sóng 1 và gần như thẳng đứng. Ngoài ra cần chú ý đến các chỉ
báo kỹ thuật ở khu vực sóng 3 trong đó khối lượng giao dịch
(volume) cao hơn, xung lượng (momentum) mạnh hơn.
Sóng 4

Sóng 4 thường hồi lại 38.2% hoặc 50% hoặc 61.8% so với sóng 3
nếu sóng 3 không phải sóng mở rộng.Trong trường hợp sóng 3
mở rộng thì sóng 4 thường chỉ hồi lại 23.6% hoặc 38.2% so với
sóng 3. Trong các thị trường rất mạnh thì sóng 4 chỉ hồi lại 14%
sóng 3.
Sóng 4 thường hồi lại vùng giá của sóng thứ 4 (thuộc cấp độ sóng
thấp hơn) trong sóng 3.

Sóng 5

Sóng 5 thường bằng với sóng 1 hoặc đi một khoảng cách 61.8%
chiều dài sóng 1.

Nó cũng có thể có thể bằng 38.2% hoặc 61.8% chiều dài tổng
của cả sóng 1 và sóng 3 cộng lại (từ chân sóng 1 lên đỉnh sóng
3).

Nếu sóng 5 là sóng mở rộng thì nó sẽ bằng 161.8% sóng 3 hoặc


161.8% chiều dài tổng của sóng 1 và sóng 3 cộng lại.

Lưu ý: Nếu sóng 5 không phải sóng mở rộng thì sẽ xuất hiện
phân kỳ giữa đỉnh/đáy sóng 3 và sóng 5. Nếu sóng 5 là sóng mở
rộng thì rất khó có hiện tượng phân kỳ trên.
Mục tiêu sóng mở rộng:

Trong một chuỗi sóng chủ gồm 5 sóng 1-2-3-4-5 thì kỳ vọng một
trong 3 sóng 1, 3, 5 mở rộng. Nếu sóng 3 mở rộng thì sóng 1 và
sóng 5 sẽ có xu thế bằng nhau về chiều dài dao động giá, hoặc
bằng nhau về chiều dài thời gian dao động giá.
Trong thị trường forex thì sóng 3 mở rộng chiếm 60%, sóng 5 mở
rộng chiếm 35% và sóng 1 mở rộng chỉ chiếm 5%.
Khi sóng mở rộng trong một chuỗi 5 sóng là sóng 1 thì quá trình
điều chỉnh kế tiếp sẽ hồi về khu vực sóng 2 trong thay vì sóng
thứ 4 như thông lệ. Điều này đặc biệt chính xác trong trường hợp
sóng 5 ngắn hơn sóng 3.

Sóng điều chỉnh

Các quá trình điều chỉnh có xu thế đưa giá trở lại khu vực sóng
thứ 4 ở cấp độ sóng nhỏ hơn và cũng thường vượt qua khu vực
này và đi vào khu vực sóng thứ 2 ở cấp độ sóng nhỏ hơn. Nếu
quá trình điều chỉnh phát triển theo mô hình Flat (FL), mô hình
Contracting Triangle (CT) thì quá trình điều chỉnh thường giới hạn
trong phạm vi 38.2% – 50.0% và thực tế này đúng thậm chí quá
trình điều chỉnh là sóng thứ 2.
Một mức hồi lại không quá 38.2% quá trình dao động trước đó
cho thấy một sức mạnh tiềm ẩn của xu hướng chính. Mức hồi
50.0% thường xuất hiện trong chuỗi 5 sóng nhưng không xuất
hiện thường xuyên như mức hồi 61.8%. Tuy nhiên mức hồi
50.0% lại rất phổ biến ở những sóng điều chỉnh tăng trong thị
trường đầu cơ giá xuống ví dụ như sóng B trong mô hình Zigzag
(ZZ).

Sóng A

Sau mô hình Ending Diagonal (ED) trong sóng (5) thì sóng A hồi
về sóng 2 của mô hình Ending Diagonal (ED) này.

Khi sóng A là một phần của mô hình Contracting Triangle (CT),


sóng (B) hoặc sóng (4) thì nó thường hồi lại 38.2% của cả 5 sóng
trước đó và đi vào phạm vi sóng thứ 4 của 5 sóng này.
Sóng B

Trong mô hình Zigzag (ZZ) thì sóng B hầu như hồi lại 38.2% hoặc
61.8% sóng A.

Trong mô hình Flat (FL) thì nó xấp xỉ bằng sóng A. Trong mô hình
Flat (FL) Irregular thì nó thường đi một khoảng cách bằng
123.6% – 127% sóng A.
Sóng C

Sóng C có chiều dài ít nhất là 61.8% sóng A. Nó có thể ngắn hơn


trong trường hợp mô hình Zigzag (ZZ) Running hoặc Flat (FL)
Running trong đó sóng C rất ngắn và không thể vượt qua điểm
cuối của sóng A.

Nhìn chung sóng C bằng với sóng A hoặc đi một khoảng cách
bằng 161.8% sóng A. Sóng C thường đạt 161.8% chiều dài sóng
a trong mô hình Flat (FL) Irregular.
Trong mô hình Contracting Triangle (CT) thì sóng C thường bằng
61.8% sóng A.

Trong mô hình Expanding Triangle (ET) thì sóng C thường bằng


161.8% sóng A.

Sóng D

Trong mô hình Contracting Triangle (CT) thì sóng D thường bằng


61.8% sóng B.

Trong mô hình Expanding Triangle (ET) thì sóng C thường bằng


161.8% sóng B.
Sóng E

Trong mô hình Contracting Triangle (CT) thì sóng E thường bằng


61.8% sóng C.

Trong mô hình Expanding Triangle (ET) thì sóng E thường bằng


161.8% sóng C.

Sóng X

Sóng X tối thiểu hồi lại 38.2% quá trình điều chỉnh A-B-C trước
đó; một mức hồi lại 61.8% cũng phổ biến đối với sóng X.

Và như vậy chúng ta đã có được những khái niệm cơ bản về các


mô hình sóng và mối quan hệ tỷ lệ giữa các sóng về mặt giá. Mối
tương quan về mặt thời gian sẽ được tôi giới thiệu trong một
series khác.
Tiếp theo là công việc của bạn! Hãy thực hành trên đồ thị thực tế
hàng ngày để rút ra những bài học, kinh nghiệm cho riêng
mình! GOOD LUCK!

Mô hình sóng điều chỉnh kết hợp Double Three và Triple Three

Date: Tháng Mười Một 28, 2013Author: lehieu01120 Bình luận

1. Hình vẽ:
2. Mô tả:

Mô hình sóng kết hợp là mô hình sóng kết hợp vài kiểu sóng điều chỉnh.
Những kiểu sóng này được đánh dấu là WXY (Double Three) và WXYXZ
(Triple Three) nếu nó phức tạp hơn. Nó bắt đầu bằng một Zigzag (sóng
W), rồi một sóng X sau đó là mô hình Flat (sóng Y), v.v…

3. Quy tắc:
– Tất cả các mô hình điều chỉnh có thể kết hợp để hình thành mô hình điều
chỉnh lớn hơn. Các quy tắc sóng điều chỉnh được vận dụng cho các mô
hình nêu trên.

– Mô hình Triangle thường xuất hiện ở cuối mô hình Combination.

4. Vị trí xuất hiện:

Nhìn chung, mô hình sóng kết hợp xuất hiện chủ yếu ở các sóng 4, B và X.
Nó ít xuất hiện ở sóng A và hiếm khi ở sóng 2.

5. Cấu trúc sóng bên trong:

Mô hình Combination kết hợp Zigzag với Flat và Triangle thì có cấu trúc
sóng bên trong như sau: 5-3-5(Zigzag)-3-3-5(Flat)-3-3-3-3-3(Triangle).

Đọc thêm tại Blog ProTraderViet.


Link address: http://protraderviet.blogspot.com

Mô hình sóng điều chỉnh Zigzag


Date: Tháng Mười Một 28, 2013Author: lehieu01120 Bình luận

1. Hình vẽ:
2. Mô tả:

Mô hình sóng ZigZag là cấu trúc điều chỉnh thông thường nhất, bắt đầu
cho sự đảo chiều nhanh chóng. Thường thì nó trông giống mô hình sóng
chủ vì tốc độ hình thành của nó. Một mô hình ZigZag có thể tự mở rộng
thành mô hình Double ZigZag (2 lần zigzag) hoặc Triple ZigZag (3 lần
zigzag) dù hiện tượng đó ít phổ biến. Chú ý rằng ZigZag chỉ là phần đầu
của cấu trúc điều chỉnh.
3. Quy tắc:

– Mô hình ZigZag bao gồm 3 sóng.

– Sóng A và Sóng C là các sóng chủ, Sóng B là sóng điều chỉnh.

– Sóng B hồi không quá 61.8% so với Sóng A.

– Sóng C phải vượt qua điểm cuối của Sóng A.

– Sóng C thường tối thiểu bằng với Sóng A về độ dài giá.

4. Vị trí xuất hiện:

Mô hình ZigZag thường xuất hiện ở sóng A, sóng X hoặc sóng 2. Nó cũng
thường xuất hiện ở sóng B là một phần của mô hình Flat, một phần của
mô hình tam giác và đôi khi ở sóng 4.

5. Cấu trúc sóng bên trong:

Mô hình ZigZag đơn (Single ZigZag) gồm 3 sóng. Mô hình Double ZigZag
gồm 7 sóng được chia tách bằng sóng X ở giữa. Mô hình Triple ZigZag
gồm 11 sóng được chia tách bằng 2 sóng X ở giữa. Cấu trúc bên trong của
sóng 3 trong Single ZigZag là 5-3-5, trong Double ZigZag là 5-3-5-3-5-3-5.

Sự trình bày hiện đại hơn về mô hình Double ZigZag sử dụng kiểu WXY
thay vì ABCXABC. Theo cách này thì 2 zigzag của cấp độ sóng nhỏ hơn
liên kết với nhau bằng những sóng ở cấp độ cao hơn. Như vậy thay vì sử
dụng 7 sóng (ABCXABC) thì phân tích đồ thị ngày có thể sử dụng kiểu 3
sóng (WXY). Theo phương pháp này thì mô hình Triple ZigZag được biểu
diễn là WXYXZ thay vì ABCXABCXABC. Theo cách này thì số sóng được
giản lược thành 5 sóng thay vì 11 sóng.

Các mô hình sóng điều chỉnh Triangle

Date: Tháng Mười Một 28, 2013Author: lehieu01120 Bình luận

1. Hình vẽ:

– Các mô hình Contracting Triangle và Expanding Triangle


– Các mô hình Ascending Triangle và Descending Triangle:
2. Mô tả:

Mô hình sóng Triangle (mô hình tam giác) là mô hình sóng điều chỉnh, có
thể hội tụ (Contracting Triangle) hoặc mở rộng (Expanding Triangle), có thể
hướng lên (Ascending Triangle) hoặc hướng xuống (Descending Triangle).
Nó gồm có 5 sóng, mỗi sóng có bản chất điều chỉnh.

3. Quy tắc:

– Mô hình Triangle gồm có 5 sóng.

– Sóng A và Sóng D chéo nhau.

– Sóng D không vượt qua điểm khởi đầu của Sóng C.


– Sóng C không phải là sóng ngắn nhất.

– Về cấu trúc bên trong thì mô hình tam giác có trúc sóng điều chỉnh.

– Trong mô hình sóng Contracting Triangle thì Sóng A là sóng dài nhất và
Sóng E là sóng ngắn nhất. Trong mô hình sóng Expanding Triangle thì
Sóng A là sóng ngắn nhất và Sóng E là sóng dài nhất.

– Các mô hình Triangle thường có dạng hình cái chêm (wedge).

4. Vị trí xuất hiện:

Mô hình sóng Triangle xuất hiện ở các sóng 4, B và X. Nó không bao giờ
xuất hiện ở sóng 2 hoặc sóng A.

5. Cấu trúc sóng bên trong:

Mô hình Triangle gồm có 5 sóng với cấu trúc sóng bên trong theo kiểu 3-3-
3-3-3.

Mô hình sóng chủ Ending Diagonal Triangle (Sóng chéo tam giác kết thúc)
Date: Tháng Mười Một 28, 2013Author: lehieu01120 Bình luận

1. Hình vẽ:

Mô hình sóng chủ Leading Diagonal Triangle (Sóng chéo tam giác bắt đầu)
Date: Tháng Mười Một 28, 2013Author: lehieu01120 Bình luận

1. Hình vẽ:

Mô hình sóng chủ Failure or Truncated 5th (Sóng chủ số 5 cụt)


Date: Tháng Mười Một 28, 2013Author: lehieu01120 Bình luận

1. Hình vẽ:
2. Mô tả:

Mô hình sóng Failure or Truncated 5th (mô hình sóng chủ thất bại tại sóng
5 – hay sóng 5 cụt) thuộc dạng mô hình sóng chủ mà sóng 5 không vượt
qua được sóng 3. Sóng 5 chỉ đến gần đỉnh sóng 3. Mô hình này cho thấy
xu hướng yếu và thị trường sẽ nhanh chóng chuyển hướng theo xu hướng
ngược lại.

3. Quy tắc:

– Mô hình Failure or Truncated 5th bao gồm 5 sóng.

– Sóng 2 không dài hơn về khoảng cách giá so với Sóng 1 vì thế sẽ không
vượt qua điểm khởi nguồn của Sóng 1.
– Sóng 3 không bao giờ là sóng ngắn nhất so với các sóng 1 và 5.

– Sóng 4 không đi vào biên độ của Sóng 1 trừ các trường hợp Diagonal
Triangle và đôi khi xuất hiện ở sóng 1 hoặc A nhưng không bao giờ ở sóng
3. Như vậy các mô hình Diagonal Triangle cũng có thể biến theo dạng
Failure or Truncated 5th khi sóng 5 không vượt qua sóng 3.

– Sóng 5 không đi qua điểm cuối của Sóng 3.

– Sóng 3 cho thấy xung lượng lớn nhất.

– Cấu trúc sóng bên trong theo các dạng điều chỉnh khác nhau.

4. Vị trí xuất hiện:

Mô hình Failure or Truncated 5th chỉ xuất hiện ở các sóng 5 hoặc C và
thường không xuất hiện ở sóng 5 của sóng 3 ở cấp độ sóng lớn hơn.

5. Cấu trúc sóng bên trong:

Mô hình Failure or Truncated 5th bao gồm 5 sóng có cấu trúc sóng bên
trong theo dạng 5-3-5-3-5.
2. Mô tả:

Mô hình sóng Leading Diagonal Triangle thuộc dạng mô hình sóng chủ
thường xảy ra ở đầu một cấp độ sóng như sóng 1 hay sóng A hay nói cách
khác nó nằm trong sóng 1 hoặc sóng A. Không nên nhầm lẫn nó với các
mô hình tam giác điều chỉnh. Điểm khác của mô hình này với mô hình
Ending Diagonal Triangle là các sóng 1, 3 và 5 có cấu trúc sóng bên trong
gồm 5 sóng chứ không phải 3 sóng như mô hình Ending Diagonal Triangle.

Cũng như mô hình sóng Ending Diagonal Triangle thì mô hình sóng
Leading Diagonal Triangle là hiện tượng tương đối hiếm đối với các cấp độ
sóng lớn mà thường xuất hiện ở các cấp độ sóng thấp hơn trên các đồ thị
giá trong ngày (intraday). Thường thì theo sau mô hình Diagonal Triangle
là sự thay đổi mạnh về xu hướng thị trường.

3. Quy tắc:

– Mô hình Leading Diagonal Triangle bao gồm 5 sóng.

– Sóng 3 không bao giờ là sóng ngắn nhất so với các sóng khác.

– Sóng 4 và Sóng 1 chéo nhau (vì thế nó có tên gọi là Tam giác chéo), tức
là đáy Sóng 4 đi vào biên độ của Sóng 1.

– Sóng 4 không vượt qua điểm khởi nguồn của Sóng 3.

– Về cấu trúc bên trong thì các sóng 1,3,5 có cấu trúc sóng chủ (theo mô
hình Impulse).

– Sóng 5 phải vượt qua điểm cuối của Sóng 3.

– Các đường kênh giá của Leading Diagonal Triangle phải hội tụ.

4. Vị trí xuất hiện:

Mô hình Leading Diagonal Triangle xuất hiện ở các sóng 1 và A.

5. Cấu trúc sóng bên trong:


Mô hình Leading Diagonal Triangle bao gồm 5 sóng có cấu trúc sóng bên
trong theo dạng 5-3-5-3-5.

2. Mô tả:

Mô hình sóng Ending Diagonal Triangle thuộc dạng mô hình sóng chủ
thường xảy ra ở các sóng cuối một cấp độ sóng như sóng 5 hay sóng C.
Không nên nhầm lẫn nó với các mô hình tam giác điều chỉnh.

Mô hình sóng Ending Diagonal Triangle là hiện tượng tương đối hiếm đối
với các cấp độ sóng lớn mà thường xuất hiện ở các cấp độ sóng thấp hơn
trên các đồ thị giá trong ngày (intraday). Thường thì theo sau mô hình
Diagonal Triangle là sự thay đổi mạnh về xu hướng thị trường.

3. Quy tắc:

– Mô hình Ending Diagonal Triangle bao gồm 5 sóng.

– Sóng 3 không bao giờ là sóng ngắn nhất so với các sóng khác.

– Sóng 4 và Sóng 1 chéo nhau (vì thế nó có tên gọi là Tam giác chéo), tức
là đáy Sóng 4 đi vào biên độ của Sóng 1.

– Sóng 4 không vượt qua điểm khởi nguồn của Sóng 3.

– Sóng 5 phải vượt qua điểm cuối của Sóng 3.

– Sóng 3 mở rộng cho thấy tốc độ tăng giá cao nhất.

– Các sóng bên trong của Ending Diagonal Triangle có cấu trúc sóng điều
chỉnh (Corrective Wave).

– Các đường kênh giá của Ending Diagonal Triangle phải hội tụ.

4. Vị trí xuất hiện:

Mô hình Ending Diagonal Triangle xuất hiện ở các sóng 5, C.

5. Cấu trúc sóng bên trong:


Mô hình Ending Diagonal Triangle bao gồm 5 sóng có cấu trúc sóng bên
trong theo dạng 3-3-3-3-3.

Mô hình sóng chủ Extension (SÓNG MỞ RỘNG)

Date: Tháng Mười Một 28, 2013Author: lehieu01120 Bình luận

1. Hình vẽ:
2. Mô tả:

Mô hình sóng Extension (mô hình sóng mở rộng) xảy ra trong một sóng
chủ nơi mà các sóng 1, 3 hoặc 5 có thể mở rộng và kéo dài hơn các sóng
khác. Mô hình mở rộng phổ biến nhất là mở rộng sóng 3 và khi đó hai sóng
1, 5 có xu thế bằng nhau; mô hình này có tên gọi là Extension3. Nếu sóng
1 mở rộng thì có tên gọi là Extension1, nếu sóng 5 mở rộng thì có tên gọi
là Extension5; hai mô hình này ít phổ biến hơn mô hình Extension3. Ở đây
chỉ giới thiệu sâu hơn về mô hình Extension3.

3. Quy tắc:

(1) Mô hình Extension3:


– Mô hình Extension3 gồm 9,13 hoặc 17 sóng. Sóng 2 không thể dài hơn
Sóng 1 về giá và nó không chạy vượt xuống dưới điểm khởi nguồn của
Sóng 1.

– Sóng 3 không bao giờ là sóng ngắn nhất khi so sánh với các sóng 1 và
5.

– Sóng 4 không thể xuống dưới Sóng 1.

– Sóng 5 phải vượt qua điểm cuối của Sóng 3.

– Sóng 3 mở rộng cho thấy tốc độ tăng giá cao nhất.

(2) Mô hình Extension1:

– Mô hình Extension1 gồm 9 sóng con. Sóng 2 không thể dài hơn Sóng 1
về giá và nó không chạy vượt xuống dưới điểm khởi nguồn của Sóng 1.

– Sóng 4 không thể xuống dưới Sóng 1.

– Sóng 1 mở rộng vì thế các sóng 3 và 5 là các sóng bình thường.

(3) Mô hình Extension5:

– Mô hình Extension5 gồm 9 sóng con. Sóng 2 không thể dài hơn Sóng 1
về giá và nó không chạy vượt xuống dưới điểm khởi nguồn của Sóng 1.

– Sóng 4 không thể xuống dưới Sóng 1.


– Sóng 5 mở rộng vì thế các sóng 1 và 3 là các sóng bình thường.

4. Vị trí xuất hiện:

Mô hình Extension xuất hiện ở các sóng 1,3,5 và các sóng A, C thuộc quá
trình điều chỉnh (Correction).

5. Cấu trúc sóng bên trong:

Mô hình Extension bao gồm tối thiểu 9 sóng dù 13 hay 17 sóng có thể xảy
ra. Cấu trúc sóng bên trong tối thiểu của 9 sóng theo dạng 5-3-5-3-5-3-5-3-
5. Chú ý rằng các dạng 3 sóng là các sóng điều chỉnh bao gồm 5 sóng
theo mô hình tam giác điều chỉnh.

You might also like