You are on page 1of 27

TRƯỜNG SĨ QUAN CHÍNH TRỊ

ĐỀ CƯƠNG CHUYÊN ĐỀ KHOA HỌC HỌC VIÊN

TƯ DUY BIỆN CHỨNG DUY VẬT TRONG PHƯƠNG


PHÁP HỌC TẬP CÁC MÔN KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ
NHÂN VĂN Ở TIỂU ĐOÀN 12,
TRƯỜNG SĨ QUAN CHÍNH TRỊ HIỆN NAY

Đơn vị chủ trì: Tiểu đoàn 12

Tác giả chuyên đề: Trung sỹ Phùng Viết Luân

Học viên Đại đội 36

HÀ NỘI - 2023
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan chuyên đề khoa học “Tư duy biện chứng duy vật
trong phương pháp học tập các môn khoa học xã hội và nhân văn ở Tiểu
đoàn 12, Trường sĩ quan Chính trị hiện nay” là công trình nghiên cứu của
riêng tôi, không sao chép, không trùng lặp với bất cứ công trình nào đã được
công bố, nếu sai tôi xin chịu trách nhiệm trước HĐKH các cấp.

TÁC GIẢ CHUYÊN ĐỀ

Trung sỹ Phùng Viết Luân


MỤC LỤC

Trang

MỞ ĐẦU 5

Phần thứ nhất BẢN CHẤT TƯ DUY BIỆN CHỨNG DUY 8


VẬT VÀ VAI TRÒ CỦA NÓ TRONG
PHƯƠNG PHÁP HỌC TẬP CÁC MÔN
KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN Ở
TIỂU ĐOÀN 12, TRƯỜNG SQCT HIỆN NAY

1.1 Tư duy biện chứng duy vật là gì? 8

1.2 Quan niệm về Phương pháp học tập – và 14


những biểu hiện vai trò TDBCDV trong học
tập các môn KHXH&NV ở Tiểu đoàn 12 ở
trường SQCT hiện nay
Phần thứ hai THỰC TRẠNG VÀ PHƯƠNG HƯỚNG CƠ 18
BẢN PHÁT HUY VAI TRÒ TƯ DUY BIỆN
CHỨNG DUY VẬT TRONG PHƯƠNG
PHÁP HỌC TẬP CÁC MÔN KHXH&NV Ở
TIỂU ĐOÀN 12, TRƯỜNG SQCT HIỆN
NAY
2.1 Thực trạng vận dụng tư duy biện chứng duy vật 18
trong phương pháp học tập các môn KHXH&NV
ở Tiểu đoàn 12, Trường SQCT hiện nay
2.2 Một số giải pháp phát huy vai trò TDBCDV 20
trong phương pháp học tập các môn
KHXH&NV ở Tiểu đoàn 12,Trường SQCT
hiện nay
KẾT LUẬN 24
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 25

DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT

TT Chữ viết tắt Chữ viết đầy đủ

1 CTV Chính trị viên

2 KHXH&NV Khoa học xã hội và nhân văn

3 QĐNDVN Quân đội nhân dân Việt Nam

4 SQCT Sĩ quan Chính trị

5 TDBCDV Tư duy biện chứng duy vật


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết
Quá trình học là quá trình nhận thức chân lý, do vậy tư duy là công cụ
hữu hiệu nhất để người học tiếp cận chân lý một cách nhanh và chính xác
nhất, đặc biệt là người học viên đào tạo CTV thì quá trình này lại càng quan
trọng và cần thiết hơn bao giờ hết. Quá trình học tập là quá trình khám phá,
tìm tòi của bản thân kết hợp với tư duy mà đi đến nhận thức các sự vật hiện
tượng một cách khách quan và chân thật nhất. V.I.Lênin đã viết : “Không ai
chịu bỏ ra một công phu nào đó thì không tìm ra sự thật trong bất cứ một vấn
đề hệ trọng nào cả và hễ ai sợ tốn công sức thì không bao giờ tìm ra sự thật”.
Do vậy trong phương pháp học tập các môn KHXH&NV là vô cùng cần thiết
và quan trọng, song phương pháp luôn phải gắn liền với tư duy, tư duy đó
phải là tư duy biện chứng duy vật, TDBCDV giúp ta tiếp cận chân lý một
cách khoa học nhất. Điều này càng có ý nghĩa hết sức quan trọng trong thời
kỳ hội nhập quốc tế, thực hiện sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất
nước đòi hỏi con người muốn vươn lên để khẳng định mình thì phải tích cực,
năng động sáng tạo; làm chủ kiến thức, bản thân, chiếm lĩnh những đỉnh cao
của khoa học. Muốn vậy thì con người phải không ngừng học tập và luôn phải
biết gắn TDBCDV vào quá trình học tập.
Trong những năm vừa qua, Đảng ta, Ngành giáo dục nước ta luôn đặt
ra yêu cầu cao về giáo dục. Đảng ta luôn khẳng định: Giáo dục đào tạo là
quốc sách hàng đầu, phát triển giáo dục đào tạo là nhằm xây dựng con người
Việt Nam phát triển toàn diện. Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ
XI của Đảng xác định phương hướng phát triển giáo dục đào tạo, khoa học
công nghệ năm 2011 và những năm tiếp theo là: “Phát triển, nâng cao chất
lượng nguồn nhân lực, nhất là nguồn nhân lực chất lượng cao là một trong
những yếu tố quyết định sự phát triển nhanh và bền vững đất nước. Đổi mới
căn bản, toàn diện về giáo dục theo hướng chuẩn hóa, hiện đại hóa, xã hội
hóa, đổi mới chương trình, nội dung phương pháp dạy và học…”. Văn kiện
Đại Hội X của Đảng tháng 4 năm 2006 cũng chỉ rõ: “Phát huy trí sáng tạo,
khả năng vận dụng, thực hành của người học”.
Thực hiện những quan điểm đó, trong thời gian qua, trường SQCT đã không
ngừng tăng cường những biện pháp, cách thức để thúc đẩy, nâng cao năng lực
tư duy của người học, đặc biệt là TDBCDV trong phương pháp học tập. Xác
định, mục tiêu đào tạo của Nhà trường là đào tạo ra người cán bộ chính trị,
đảng viên Đảng cộng sản Việt Nam: “Có bản lĩnh chính trị vững vàng, niềm
tin vững chắc vào con đường đi lên chủ nghĩa xã hội, tuyệt đối trung thành
với Đảng; có phẩm chất đạo đức cách mạng trong sáng; có kiến thức cơ bản
về chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, đường lối, quan điểm của
Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, khoa học xã hội và nhân văn,
khoa học quân sự; có năng lực thực hành nghề nghiệp theo chức danh đào
tạo; có sức khỏe và khả năng tự hoàn thiện, phát triển đáp ứng yêu cầu nhiệm
vụ của quân đội”. Tuy nhiên việc thực hiện một cách đồng bộ, toàn diện vẫn
chưa tiến hành có hiệu quả, chất lượng học tập của học viên đào tạo CTV
chưa cao. Chưa phát huy được vai trò của TDBCDV trong phương pháp học
tập các môn KHXH&NV. Xuất phát từ vai trò quan trọng của TDBCDV
trong phương pháp học tập các môn KHXH&NV đáp ứng yêu cầu ngày càng
cao của mục tiêu yêu cầu giáo dục đào tạo tại Nhà trường. Tôi luôn đặt ra câu
hỏi: làm thế nào để kết quả học tập các môn KHXH&NV của học viên đào
tạo CTV được nâng lên? Và làm thế nào để vai trò của TDBCDV luôn được
phát huy tốt trong phương pháp học các môn KHXH&NV cho học viên tại
Tiểu đoàn 12 Trường SQCT?
Xuất phát từ những suy nghĩ đó tôi chọn chuyên đề “TDBCDV trong
phương pháp học tập các môn KHXH&NV ở Tiểu đoàn 12, Trường Sĩ
quan Chính trị hiện nay” làm chuyên đề nghiên cứu với mong muốn nâng
cao chất lượng học tập của bản thân nói riêng và cho học viên ở Tiểu đoàn 12,
Trường SQCT nói chung.
2. Mục tiêu, nội dung nghiên cứu
- Mục tiêu:

Làm rõ thực chất vai trò TDBCDV trong phương pháp học tập các
môn KHXH&NV của học viên. Nghiên cứu thực trạng phát huy vai trò
TDBCDV trong phương pháp học tập các môn KHXH&NV ở Tiểu đoàn 12,
Trường SQCT hiện nay.

Đề xuất một số phương hướng cơ bản phát huy vai trò TDBCDV
trong phương pháp học tập các môn KHXH&NV ở Tiểu đoàn 12,
Trường SQCT hiện nay.

- Nội dung:
Tập trung nghiên cứu vai trò TDBCDV trong phương pháp học tập
các môn KHXH&NV ở Tiểu đoàn 12, Trường SQCT hiện nay.
3. Đối tượng nghiên cứu
Vai trò của TDBCDV trong phương pháp học tập các môn
KHXH&NV ở Tiểu đoàn 12, Trường SQCT hiện nay.

4. Kết cấu

Đề cương gồm mở đầu, 2 phần , kết luận và danh mục tài liệu tham
khảo.
Phần thứ nhất

BẢN CHẤT TƯ DUY BIỆN CHỨNG DUY VẬT VÀ VAI TRÒ CỦA NÓ
TRONG PHƯƠNG PHÁP HỌC TẬP CÁC MÔN KHOA HỌC XÃ HỘI
VÀ NHÂN VĂN Ở TIỂU ĐOÀN 12, TRƯỜNG SQCT HIỆN NAY
1.1. Tư duy biện chứng duy vật là gì?
Tư duy biện chứng xuất hiện rất sớm trong triết học cổ đại, khi con
người bắt đầu tìm hiểu các sự vật, hiện tượng của thế giới xung quanh mình
và suy xét về chúng. Nhiều nhà triết học trong thời kỳ cổ đại ở Ấn Độ, Trung
Quốc, Hy Lạp... đã có tư duy biện chứng. Theo quan điểm của các nhà biện
chứng thời đó, thế giới là một chỉnh thể thống nhất, giữa các bộ phận của nó
có mối liên hệ chằng chịt và luôn tác động qua lại với nhau, xâm nhập vào
nhau, ảnh hưởng lẫn nhau, trong đó không có cái gì là y nguyên như cũ, đứng
yên như cũ, mà tất cả đều vận động, biến hóa, sinh thành và tiêu vong.
Đánh giá mặt tích cực và hạn chế của quan điểm biện chứng tự phát
thời cổ đại, Ph. Ăng ghen cho rằng: “Trong quan niệm đó... chúng ta thấy một
bức tranh về sự chằng chịt vô tận của những mối liên hệ và những sự tác
động qua lại, trong đó không có cái gì là đứng nguyên, không thay đổi mà tất
cả đều vận động, biến đổi, phát sinh và mất đi”.
Từ nửa sau thế kỷ XV trở đi, các khoa học tự nhiên từng bước đi vào
phân tích, chia nhỏ giới tự nhiên ra thành nhiều mảng riêng biệt, cố định để
nghiên cứu. Có thể nói rằng, tư duy siêu hình là kết quả của việc tuyệt đối hoá
một mặt, một phương diện, một khía cạnh nào đó của sự nhận thức, là sản
phẩm tất yếu của nhận thức đi sâu vào từng mặt, từng bộ phận của giới tự
nhiên và tách rời những mối liên hệ vốn có giữa chúng. Do vậy mà thế giới
được xem xét trong trạng thái hoàn toàn yên tĩnh, ngưng đọng, bất biến và
chết cứng. Các nhà siêu hình chỉ “nhìn thấy cây mà không thấy rừng”.
Một sự khái quát mới, theo tinh thần biện chứng đã được thể hiện
trong nền triết học cổ điển Đức, bắt đầu từ triết học của Can-tơ và hoàn thiện
với triết học của Hêghen. Song, đó là phép biện chứng duy tâm. Ở Hêghen,
sự phát triển biện chứng của thế giới bên ngoài chỉ là sự sao chép lại sự tự
vận động của “ý niệm tuyệt đối” mà thôi. Cho nên, hệ thống triết học của
Hêghen “không tránh khỏi tính chất gò ép, giả tạo, hư cấu, tóm lại là bị
xuyên tạc”.
Kế thừa và tiếp thu có chọn lọc những di sản tư tưởng triết học tiến bộ
của nhân loại mà trực tiếp nhất là phép biện chứng của Hêghen và quan điểm
duy vật của Phoiơbắc, dựa trên việc khái quát các thành quả mới nhất của
khoa học đương thời cũng như thực tiễn lịch sử của loài người, vào giữa thế
kỷ XIX, C Mác, Ph. Ăng ghen đã sáng lập ra triết học duy vật biện chứng và
về sau được V.I.Lênin phát triển. Nó là cơ sở thế giới quan và phương pháp
luận khoa học để nhận thức, giải thích và cải tạo thế giới.
Theo Ph. Ăng ghen, bản chất TDBCDV là sự phản ánh vào ý thức con
người sự vận động biện chứng của thế giới hiện thực. Xét về hình thức thì
TDBCDV là chủ quan, vì nó phản ánh hiện thực khách quan thông qua hoạt
động nhận thức của con người. Nhưng xét về nội dung thì TDBCDV là khách
quan vì nội dung của sự phản ánh này được quy định bởi nội dung của hiện
thực khách quan, nghĩa là sự vật, hiện tượng trong thế giới khách quan như
thế nào thì TDBCDV phải phản ánh nó đúng như vốn có. Khi sự vật, hiện
tượng thay đổi thì TDBCDV cũng phải thay đổi theo.
Quá trình tư duy diễn ra trong bộ óc từng người. Sự hình thành và phát
triển tư duy gắn liền quá trình hoạt động nhận thức tích cực của bản thân con
người. TDBCDV có bản chất xã hội và mang tính lịch sử, thể hiện ở chỗ:
Thứ nhất, nguồn gốc của TDBCDV là thế giới khách quan, cơ sở chủ
yếu và trực tiếp nhất của TDBCDV là thực tiễn. Tư duy của con người nảy
sinh từ tình huống có vấn đề, được đặt ra do yêu cầu của cuộc sống, lao động,
học tập và hoạt động xã hội. Quá trình tư duy của con người là quá trình phản
ánh một cách biện chứng, năng động, sáng tạo thế giới khách quan, trên cơ sở
thực tiễn lịch sử - xã hội. Các mối quan hệ kinh tế-xã hội, quan hệ lợi ích, nhu
cầu, quan hệ đạo đức, pháp quyền, quan hệ gia đình, giai cấp, cộng đồng... là
những yếu tố tác động mạnh mẽ đến sự phát triển tư duy con người. Các mối
quan hệ này luôn vận động, biến đổi theo những thời đại lịch sử nhất đình, là
một trong những mặt cơ bản hợp thành bản chất xã hội của tư duy biện chứng
duy vật. C.Mác viết: “Bản chất con người không phải là một cái trừu tượng
cố hữu của cá nhân riêng biệt. Trong tính hiện thực của nó, bản chất con
người là tổng hoà những quan hệ xã hội”. Nếu con người thoát ly khỏi các
mối quan hệ xã hội thì đương nhiên sẽ không có sự hình thành và phát triển
TDBCDV.
Thứ hai, nói đến TDBCDV là nói đến tư duy biện chứng khoa học.
Chỉ có người nào được trang bị thế giới quan duy vật biện chứng mới có
TDBCDV. Với tư cách là chức năng của não người hoạt động bình thường,
TDBCDV phản ánh đúng đắn sự vận động, phát triển của thế giới khách
quan, là kinh nghiệm xã hội-lịch sử đã biến thành “tài sản riêng” của một
người. Do đó, TDBCDV chỉ có thể diễn ra khi chủ thể tư duy biết dựa vào
kinh nghiệm của các thế hệ đi trước đã tích luỹ được, biết kế thừa kết quả
hoạt động nhận thức mà xã hội loài người đã đạt được ở trình độ phát triển
lịch sử lúc đó, nghĩa là phải dựa trên cơ sở thế giới quan và phương pháp luận
của chủ nghĩa duy vật biện chứng.
Thứ ba, TDBCDV được hình thành và phát triển là kết quả của quá
trình lĩnh hội, tiếp thu vốn sống, kinh nghiệm xã hội, nền văn hoá xã hội
thông qua hoạt động và giao tiếp (hoạt động học tập và nghiên cứu khoa học,
lao động sản xuất, công tác xã hội, vui chơi...) của chủ thể tư duy, trong đó
giáo dục, đào tạo giữ vai trò chủ đạo. Điều dễ nhận thấy là trong hoạt động
thực tiễn và quan hệ giao tiếp, con người phải sử dụng ngôn ngữ do các thế hệ
trước đã sáng tạo ra, nhờ đó mà giữ gìn và phát triển tri thức, kinh nghiệm của
các thế hệ trước đó lên một trình độ mới cao hơn, phù hợp với hoàn cảnh,
điều kiện mới.
Xét theo lịch sử hình thành (về chủng loại và cá thể) và mức độ phát
triển của TDBCDV là loại hình tư duy phát triển ở trình độ cao nhất so với tư
duy trực quan - hành động, tư duy trực quan - hình tượng, tư duy trừu tượng,
tư duy lý luận; dù rằng, tư duy trừu tượng, tư duy lý luận được coi là những
hình thức tư duy phát triển cao, chỉ có ở người, đó là loại tư duy mà việc giải
quyết các vấn đề đều dựa trên khái niệm, lấy ngôn ngữ làm phương tiện để
biểu đạt. ở trình độ đó thì tư duy lôgic truyền thống, thậm chí tư duy siêu
hình, cả tư duy biện chứng duy tâm cũng đã đạt được.
Như vậy, TDBCDV là tư duy lý luận. Song, không phải mọi tư duy lý
luận đều là TDBCDV. Tư duy triết học của Hêghen, của Phoiơbắc đã chứng
minh điều đó.
Xét về tính chất và trình độ phản ánh, TDBCDV không những phản
ánh đúng hiện thực khách quan mà còn khác về chất, thậm chí đối lập với tư
duy chủ quan, tư duy biện chứng duy tâm, tư duy giáo điều, máy móc, cơ giới
và tư duy kinh nghiệm... Vì thế, dùng khái niệm TDBCDV là để tránh sự lẫn
lộn với các hình thức tư duy ấy. ở đây cần có sự phân biệt rõ ràng giữa
TDBCDV và tư duy sáng tạo. Bởi vì, TDBCDV về bản chất là tư duy sáng
tạo. Tuy nhiên, không phải mọi tư duy sáng tạo đều mang đầy đủ ý nghĩa là
TDBCDV. Trong thực tế, tư duy biện chứng duy tâm của Hêghen là tư duy có
nhiều điểm sáng tạo, nhưng không phải là TDBCDV. Thực chất của
TDBCDV chính là “phép biện chứng chủ quan”, có nội dung phản ánh “biện
chứng của thế giới khách quan” (hay biện chứng khách quan).
Tư duy biện chứng duy vật là loại hình tư duy phát triển ở trình độ cao
nhất của loài người, là sự thông nhất chặt chẽ giữa chủ nghĩa duy vật và
phương pháp biện chứng, luôn hàm chứa nội dung hiện thực, phản ánh đúng
đắn sự vận động, phát triển và chuyển hoá không ngừng của thế giới khách
quan, mang bản chất khoa học-cách mạng, vừa giải quyết có hiệu quả các
vấn đề thực tiễn đặt ra, vừa tạo ra tri thức mới.
Từ khái niệm nêu trên, có thể khái quát bước đầu một số đặc trưng cơ
bản của TDBCDV như sau:
Đặc trưng thứ nhất: TDBCDV là loại hình tư duy phát triển cao nhất
của loài người so với các loại hình tư duy khác có trong lịch sử triết học.
TDBCDV không những khác về chất so với các loại hình tư duy có trong lịch
sử như tư duy biện chứng tự phát, ngây thơ của thời cổ đại, tư duy biện chứng
duy tâm của các nhà triết học cổ điển Đức, tư duy biện chứng của các nhà dân
chủ cách mạng Nga, tư duy siêu hình, tư duy kinh nghiệm v.v., mà còn khắc
phục được những sai lầm, hạn chế của các loại hình tư duy đó. Đồng thời kế
thừa, tiếp thu những “hạt nhân hợp lý”, những mặt tích cực của các loại hình
này để cải tạo chúng và xây dựng nên phương pháp TDBCDV.
Đặc trưng thứ hai: TDBCDV là sự thống nhất giữa chủ nghĩa duy vật
và phương pháp biện chứng, luôn hàm chứa nội dung hiện thực trong phản
ánh thế giới khách quan. Đặc trưng rất cơ bản này đã nói lên rằng, TDBCDV
hơn hẳn so với bất cứ hình thức tư duy nào. Thật vậy, ngoài tư duy siêu hình
thì tư duy biện chứng duy tâm của Hêghen được coi là hình thức tư duy phát
triển cao nhất của tư duy biện chứng trước Mác, nhưng “đầu lộn xuống dưới”,
còn thế giới khách quan chỉ là “sự tha hoá” của “ý niệm tuyệt đối”, “sự tồn tại
khác” của tinh thần. Hêghen đã phủ nhận sự tồn tại khách quan của thế giới
vật chất, của hiện thực khách quan, tuyệt đối hoá vai trò sáng tạo của “ý niệm
tuyệt đối”. V.I.Lênin đã nói một cách hài hước rằng: Nếu có năm hoặc bảy
ông Hêghen thì chắc rằng sẽ có năm hoặc bảy ông Thượng Đế... sáng tạo ra
năm hoặc bảy thế giới và thật là nực cười, cái “ý niệm tuyệt đối” kia lại biết
“đẻ” ra con người.
Rõ ràng, nếu thoát ly hiện thực, xa rời hiện thực thì mọi hình thức tư
duy đều trở thành sự trừu tượng “trống rỗng”, không có sức sống và như vậy,
chúng sẽ “chết yểu” và hoàn toàn vô nghĩa. Chỉ có TDBCDV dựa trên cơ sở
thống nhất giữa chủ nghĩa duy vật và phương pháp biện chứng, luôn chứa
đựng nội dung hiện thực trong phản ánh thế giới khách quan mới đem lại
“sinh khí”, mở “con đường đi”, giúp con người nhận thức và phản ánh đúng
bản chất vận động, phát triển của thế giới khách quan.
Đặc trưng thứ ba: TDBCDV phản ánh đúng đắn sự vận động, phát
triển và chuyển hoá không ngừng của thế giới khách quan.
Giống như “chiếc gương” phản chiếu chân thực thế giới khách quan,
TDBCDV phản ánh hiện thực không phải là thụ động, tiêu cực, mà là sự phản
ánh tích cực, sáng tạo, có mục đích rõ ràng, có sự lựa chọn và định hướng
chính xác, giúp con người nhận thức và cải tạo thế giới đạt hiệu quả. Nếu tư
duy siêu hình chỉ xem xét sự vật, hiện tượng trong trạng thái cô lập, không
vận động, không biến đổi thì TDBCDV xem xét sự vật, hiện tượng trong
những mối liên hệ phổ biến, trong trạng thái luôn luôn vận động, phát triển
không ngừng, cái cũ mất đi, cái mới ra đời. Cái mới xuất hiện trên cơ sở kế
thừa những yếu tố tích cực của cái cũ, từ đó phát triển theo xu hướng cao hơn,
tiến bộ hơn, hoàn thiện hơn. Nếu tư duy siêu hình luôn luôn có định kiến với
mâu thuẫn và coi nguồn gốc, động lực của vận động nằm ở ngoài đối tượng
thì tư TDBCDV thừa nhận sự tồn tại phổ biến của mâu thuẫn và coi mâu
thuẫn là nguồn gốc, động lực của sự vận động, phát triển. Do vậy, tư tưởng về
mâu thuẫn là tư tưởng cơ bản, là hạt nhân của tư duy biện chứng duy vật. Chỉ
có quan niệm như vậy mới cho ta chìa khoá của sự “tự thân vận động” của tất
thảy mọi cái đang tồn tại. Ngược lại, nếu không thừa nhận mâu thuẫn sẽ khó
mà phát hiện được tính đúng đắn của các quy luật vận động, phát triển của thế
giới khách quan.
Đặc trưng thứ tư: TDBCDV có tính khách quan. Đây là đặc trưng quan
trọng của tư duy biện chứng duy vật. Trong “Bút ký triết học”, V.I.Lênin đã
coi “tính khách quan của sự xem xét” là yếu tố đầu tiên của phép biện chứng
duy vật”. Từ đặc trưng này, người ta có thể rút ra các đặc trưng khác của tư
duy biện chứng duy vật.
Thật vậy, tư duy của con người chỉ có thể trở thành TDBCDV, khi nội
dung phản ánh của nó phù hợp với hiện thực khách quan, nghĩa là sự vật, hiện
tượng của thế giới khách quan như thế nào thì TDBCDV phải phản ánh nó
đúng như thế ấy. Có như vậy, chúng ta mới nhận thức đúng bản chất của sự
vật, hiện tượng, từ đó mà đưa ra các quyết định chính xác, các giải pháp hợp
lý để giải quyết công việc đạt hiệu quả cao.
Tính khách quan trong sự xem xét sự vật vừa là một đặc trưng cơ bản,
lại vừa là một đòi hỏi của phương pháp tư duy khoa học. Việc vi phạm hoặc
phá vỡ nguyên tắc này trong tư duy sẽ dẫn đến sai lầm trong xem xét, nhận
thức thế giới khách quan, sẽ rơi vào chủ nghĩa duy tâm và đương nhiên sẽ
phạm sai lầm trong hoạt động cải tạo thực tiễn. Bài học thứ hai của Đại hội
Đảng lần thứ VI đã nói lên điều đó.
Đặc trưng thứ năm: TDBCDV là tư duy khoa học, cách mạng, có tính
phê phán và chiến đấu cao, luôn tạo ra sản phẩm kép.
Không lùi bước và thoả hiệp trước bất cứ sai lầm nào của chủ nghĩa
duy tâm-tôn giáo và chủ nghĩa duy vật siêu hình, TDBCDV “Đã phá và loại
bỏ tất cả” những cái lỗi thời, mở đường cho cái mới, tiến bộ, phát triển.
Tư duy biện chứng duy vật là phương pháp tư duy sắc bén, có hiệu quả
nhất để phát hiện các quy luật vận động, phát triển của thế giới khách quan,
nhân sức mạnh của con người lên nhiều lần trong nhận thức và cải tạo thế
giới. TDBCDV luôn tạo ra sản phẩm kép. Nó không những giải quyết các
vấn đề thực tiễn đặt ra đạt hiệu quả cao, mà còn tạo ra tri thức mới, kiến thức
mới. Tư duy, theo đúng nghĩa của nó, là quá trình không ngừng đi sâu vào lớp
mới của sự vật để tìm ra bản chất còn ẩn náu, giấu kín bên trong sự vật mà ta
chưa biết. Nhờ đó phát hiện, tìm được lời giải đáp mới cho câu hỏi: Trong
thực tế nó là cái gì? Bản chất và quy luật vận động của nó như thế nào? Làm
gì để giải quyết sự việc đạt chất lượng, hiệu quả cao? Trả lời các câu hỏi này
sẽ định hướng giúp con người biết sống và làm việc như thế nào cho đúng,
biết cách “đối nhân xử thế” thêm hợp lý, hợp tình.
Những đặc trưng trên đây cho thấy, TDBCDV có vai trò hết sức to lớn
và không thể thiếu trong hoạt động thực tiễn của con người. Nó đã trở thành
công cụ, phương tiện hỗ trợ đắc lực cho con người trong việc tìm hiểu khám
phá thế giới, con người ngày càng có sự hiểu biết đầy đủ hơn, chính xác hơn
về quy luật vận động, phát triển của thế giới. Trong quá trình hình thành năng
lực TDBCDV, những tri thức khoa học mà đặc biệt là tri thức về triết học góp
một vai trò quan trọng, có ý nghĩa trực tiếp quyết định, làm nền tảng cho việc
hình thành, phát triển phương pháp học tập các môn KHXH&NV cho học
viên ở Tiểu đoàn 12, Trường SQCT hiện nay.
1.2. Quan niệm về phương pháp học tập – và những biểu hiện vai
trò TDBCDV trong học tập các môn KHXH&NV ở Tiểu đoàn 12,
Trường SQCT hiện nay
1.2.1. Quan niệm về phương pháp – phương pháp học tập các môn
KHXH&NV của học viên ở Tiểu đoàn 12, Trường SQCT hiện nay
* Quan niệm về phương pháp
Phương pháp có ý nghĩa đặc biệt quan trọng đối với sự phát triển của bất
cứ một ngành khoa học nào và đối với việc giải quyết có kết quả những nhiệm
vụ đặt ra cho ngành khoa học đó. Các nhà khoa học, nhà triết học lỗi lạc cũng
nhiều lần nói đến tầm quan trọng của phương pháp.
Khái niệm phương pháp với ý nghĩa rộng của nó có nghĩa là phương
hướng để đạt tới một mục đích nhất định, là phương thức giải quyết một vấn đề
nào đó nảy sinh. Còn phương pháp học tập là cách tiếp thu tự tổ chức và kiểm
tra hoạt động nhận thức vầ thực tiễn của học viên dưới sự chỉ đạo của giáo viên
nhằm đạt được các nhiệm vụ dạy học. Cũng có thể nói phương pháp học là cách
thức tự thiết kế và thi công quá trình học tập của người học viên nhằm đạt được
các nhiệm vụ học nghề, học phương pháp, học lý tưởng đạo đức nghề nghiệp.
Với quan niệm trên phương pháp học tập của học viên ở Tiểu đoàn 12,
Trường SQCT hiện nay bao gồm nhiều yếu tố cấu thành nhưng nổi lên một số
nội dung cơ bản sau:
Một là, phương pháp học biểu hiện ở phẩm chất, năng lực của người
học và trên một khía cạnh nào đó sự lãnh đạo, chỉ đạo, cách điều hành của
người chỉ huy đối với quá trình học tập của học viên cũng nói lên phần nào
kết quả học tập.
Hai là, phương pháp học tập của học viên thể hiện ở kết quả học tập
cụ thể của từng học viên, ở việc hoàn thành nhiệm vụ học tập của mỗi học
viên theo mục tiêu yêu cầu đào tạo của nhà trường.
Ba là, phương pháp học thể hiện ngay trong quy trình tự học của mỗi
học viên. Bởi chỉ khi có được quy trình tự học hợp lý, khoa học, có được sự
phù hợp về hình thức và nội dung, phù hợp giữa phương pháp và khả năng
của mỗi người trong từng giai đoạn cụ thể thì mới đem lại hiệu quả cao trong
quá trình học tập nói chung và trong phương pháp học các môn KHXH&NV
nói riêng.
Từ việc làm rõ quan niệm về phương pháp, phương pháp học tập các
môn KHXH&NV của học viên đào tạo CTV ở Trường SQCT hiện nay, ta có
thể tiến tới xác định phương pháp học hợp lý cho các đối tượng này.
1.2.2. Biểu hiện vai trò TDBCDV trong phương pháp học tập các
môn KHXH&NV ở Tiểu đoàn 12, Trường SQCT hiện nay
Thứ nhất, TDBCDV là cơ sở, động lực trong phương pháp học tập các
môn KHXH&NV của học viên ở Tiểu đoàn 12, Trường SQCT.
Mục đích cơ bản của TDBCDV là làm rõ những điều kiện để đạt tới sự
hiểu biết đúng đắn đối tượng phản ánh thông qua nghiên cứu kết cấu bên
trong của quá trình tư duy, vạch rõ mối liên hệ bản chất và phương pháp nhận
thức đúng đắn. Do đó, việc trang bị những tri thức về TDBCDV, những quy
tắc, quy luật của thao tác tư duy, những hiểu biết về bản chất của TDBCDV.
Đây chính là cơ sở lý luận và phương pháp luận lôgic bảo đảm cho tư duy
luôn luôn chặt chẽ và chính xác, là cơ sở, động lực phát triển nhận thức của
học viên đào tạo CTV. Điều này cũng có nghĩa rằng, chính TDBCDV đã dạy
cho học viên đào tạo CTV tự giác tuân theo những quy tắc, quy luật của tư
duy chính xác để từ những tiền đề chân thực, những tri thức khoa học, tri thức
nghề nghiệp đã tích luỹ được mà rút ra phương pháp luận phù hợp với tình
huống thực tiễn. Quá trình nhận thức đi từ trực quan sinh động đến tư duy
trừu tượng và từ tư duy trừu tượng trở về với thực tiễn. Đó là con đường biện
chứng của quá trình nhận thức chân lý, của sự nhận thức hiện thực khách
quan. Trong đó, giai đoạn tư duy trừu tượng có vai trò quan trọng hình thành
các khái niệm, phán đoán, suy luận nó không tách rời quá trình TDBCDV và
nhờ có TDBCDV mà quá trình nhận thức đạt tới chân lý, giúp cho con người
ghi nhớ, tái hiện những tri thức phản ánh hiện thực khách quan một cách hiệu
quả.

Thứ hai, TDBCDV định hướng phương pháp học tập các môn
KHXH&NV cho học viên.

Phương pháp học tập các môn KHXH&NV của học viên thông qua việc
tự giác tuân theo các quy tắc, quy luật của TDBCDV, giúp cho họ tránh được
những sai lầm, những lỗi tư duy trong quá trình học tập và nghiên cứu khoa
học. Do đó, sự hiểu biết về những kiến thức triết học, sự nắm vững các quy
tắc, quy luật của triết học là hết sức cần thiết, định hướng quá học tập của học
viên đào tạo CTV. Tất cả những suy nghĩ thiếu tính biện chứng, vi phạm các
quy tắc TDBCDV đều dẫn tới những sai lầm trong quá trình học tập. Việc tự
giác tuân theo các quy tắc, quy luật của TDBCDV không những đảm bảo cho
quá trình học tập của học viên đào tạo CTV luôn luôn đúng đắn, chính xác mà
còn tạo ra tiền đề cần thiết cho hoạt động nghiên cứu của họ. Đồng thời,
TDBCDV là cách thức để giúp cho quá trình học tập nhanh chóng đạt tới
chân lý. Những kết luận mới là cơ sở khách quan giúp cho học viên đào tạo
CTV có được thế giới quan, phương pháp luận đúng trong nhận thức và cải
tạo hiện thực khách quan.

Vì vậy, việc trang bị tri thức về triết học được coi là việc làm có ý
nghĩa quyết định, là cơ sở độmg lực để nâng cao chất lượng học tập và hình
thành phương pháp học tập các môn KHXH&NV một cách khoa học của học
viên đào tạo CTV.

* *

Ngày nay trước sự phát triển mạnh mẽ của khoa học và công nghệ thì
lượng tri thức mà người học cần lĩnh hội rất lớn. Vì thế mà người học rất cần phải
vận dụng TDBCDV vào quá trình học tập sao cho mang lại hiệu quả cao nhất
trong quá trình học. Đối với học viên đào tạo CTV thì vấn đề này lại càng phải
được quan tâm. Trong thời gian vừa qua, mặc dù đã có sự quan tâm nhất định tới
việc tìm ra các giải pháp nhằm phát huy vai trò TDBCDV trong phương pháp học
tập các môn KHXH&NV nhằm nâng cao chất lượng học tập của học viên tại Nhà
trường nói chung và học viên đào tạo CTV nói riêng nhưng hiệu quả đem lại trên
thực tế là chưa thật cao và còn tồn tại nhiều điểm chưa phù hợp. Chính vì vậy, đòi
hỏi phải tiếp tục nghiên cứu một cách kỹ lưỡng quá trình TDBCDV và những đặc
điểm của nó để phát huy tốt trong phương pháp học của mỗi học viên; đồng thời
phải đánh giá một cách thẳng thắn thực trạng TDBCDV ảnh hưởng đến phương
pháp học tập các môn KHXH&NV là như thế nào từ đó đề ra những giải pháp
hữu hiệu nhất của việc phát huy vai trò TDBCDV trong phương pháp học tập các
môn KHXH&NV của học viên đào tạo CTV ở Tiểu đoàn 12, Trường SQCT hiện
nay.
Phần thứ hai
THỰC TRẠNG VÀ PHƯƠNG HƯỚNG CƠ BẢN PHÁT HUY
VAI TRÒ TƯ DUY BIỆN CHỨNG DUY VẬT TRONG PHƯƠNG
PHÁP HỌC TẬP CÁC MÔN KHXH&NV Ở TIỂU ĐOÀN 12,
TRƯỜNG SQCT HIỆN NAY

2.1. Thực trạng vận dụng tư duy biện chứng duy vật trong phương
pháp học tập các môn KHXH&NV ở Tiểu đoàn 12, Trường SQCT hiện nay
2.1.1. Kết quả đạt được của việc vận dụng TDBCDV trong phương
pháp học tập các môn KHXH&NV trong thời gian vừa qua
Trình độ TDBCDV của học viên thể hiện ở khả năng vận dụng các
kiến thức đã được trang bị, tìm ra phương pháp nghiên cứu hợp lý để từ đó
đào sâu, nghiên cứu phát hiện các kiến thức trong các môn KHXH&NV và
đưa ra những cái mới, cái hợp quy luật, cái bản chất của hoạt động phương
pháp học tập các môn KHXH&NV... trình độ TDBCDV gắn chặt với khả
năng và trình độ học tập của mỗi người. Trong quá trình học tập người học
phải luôn đặt ra câu hỏi: Học như thế nào? Học ra sao? Bằng cách nào?... để
giải quyết vấn đề đó, người học cần phải có tư duy. Trình độ TDBCDV của
học viên đào tạo CTV còn thể hiện thông qua tính tích cực tự giác học tập của
học viên và khả năng đào sâu suy nghĩ của họ. Có thể khẳng định rằng phần
lớn các học viên có trình độ TDBCDV đã có và hình thành các phương pháp
học tập các môn KHXH&NV một cách phù hợp. Đây là cơ sở nền tảng của
việc nâng cao chất lượng học tập cũng như hình thành phương pháp học các
môn KHXH&NV của học viên.
Bên cạnh đó qua nghiên cứu khả năng, phương pháp học, cũng như
cách trình bày đề cương thảo luận, Xêmina, ôn thi của học viên trong học tập
các môn KHXH&NV nhận thấy rằng: Học viên đã nắm được quy trình xây dựng
đề cương, đã bảo đảm được những nội dung cơ bản, có sự tìm tòi, mở rộng, đào
sâu nội dung, đã có liên hệ giữa lý luận và thực tiễn, đặc biệt là trong chuẩn bị đề
cương thì một số học viên đã đề xuất được một số câu hỏi “tình huống” và
những thắc mắc cần giải quyết. như vậy tính biện chứng, hệ thống, mối liên hệ của
bài học đã học viên chú ý tới.
Trong thời qua, để góp phần nâng cao vai trò của TDBCDV trong
phương pháp học tập các môn KHXH&NV của học viên thì đội ngũ cán bộ
quản lý đã tiến hành nhiều biện pháp như: Tổ chức cho học viên tự học trên
lớp, tổ chức học tổ, nhóm sau bài giảng, tổ chức tự trao đổi, tự trình bày cá
nhân, phát huy năng lực tư duy của học viên, kiểm tra theo dõi đề cương
chuẩn bị thảo luận Xêmina của học viên, trao đổi kinh nghiệm học tập …từ
đó định hướng hình thành phương pháp học tập các môn KHXH&NV cho
học viên.
Đội ngũ giảng viên đã sử dụng rất nhiều biện pháp nhằm nâng cao
trình độ TDBCDV của học viên như: giảng dạy có hệ thống các nội dung lý
luận, trang bị kiến thức cơ bản về lý luận chủ nghĩa Mác -Lênin, thực hành
trắc nghiệm tâm lý và khơi dậy các quy trình tư duy, hướng dẫn nghiên cứu
tác phẩm kinh điển… Ngoài ra, đội ngũ giảng viên còn sử dụng một số các
biện pháp như: Bài tập tư duy, lôgic, trắc nghiệm tâm lý học, … để phát huy
khả năng TDBCDV của học viên trong việc giải quyết những vấn đề đặt ra.
2.1.2. Những vấn đề chưa làm được trong việc vận dụng TDBCDV
trong phương pháp học tập các môn KHXH&NV trong thời gian vừa qua
Trong phương pháp học tập các môn KHXH&NV một số học viên
còn xem nhẹ việc vận dụng TDBCDV trong học tập đã dẫn đến tính tích cực
trong hình thành phương pháp học hợp lý chưa cao, chưa trở thành nhu cầu
của họ. Từ đó họ chưa tận dụng hết khả năng và trình độ của mình trong học
tập. Bên cạnh đó việc vận dụng TDBCDV trong quá trình học của học viên
còn chưa thường xuyên, chưa phát huy tốt, nhiều học viên có xu hướng học
đối phó, nên động cơ học tập chưa tốt, chưa chú ý và cần thiết vận dụng
TDBCDV trong phương pháp học tập. Phần lớn học viên mới chỉ dừng lại
ở việc ý thức tầm quan trọng của TDBCDV trong phương pháp học tập các
môn KHXH&NV nhưng chưa vận dụng, hay chưa biết cách vận dụng
TDBCDV trong phương pháp học tập các môn KHXH&NV của học viên.
Qua đánh giá những mặt đã đạt được và những mặt còn hạn chế về
thực trạng phương pháp học tập các môn KHXH&NV của học viên đào tạo
CTV ở trường SQCT trong thời gian vừa qua có thể khẳng định rằng: với sự
nỗ lực cố gắng, của đội ngũ giảng viên, cán bộ quản lý, học viên và các lực
lượng khác tham gia vào quá trình đào tạo thì việc nâng cao vai trò TDBCDV
trong phương pháp học tập các môn KHXH&NV trong thời gian qua đã đạt
được những thành quả nhất định, đáng trân trọng.
2.2. Một số giải pháp phát huy vai trò TDBCDV trong phương
pháp học tập các môn KHXH&NV ở Tiểu đoàn 12, Trường SQCT hiện
nay
Để nâng phát huy tốt vai trò của TDBCDV trong phương pháp học tập
các môn KHXH&NV, thì điều đầu tiên và cơ bản nhất đó là năng lực
TDBCDV phải luôn luôn được phát huy và rèn luyện. Để rèn luyện kỹ năng
TDBCDV tôi đưa ra một số phương pháp sau:
Một là: Tranh luận, thảo luận, xêmina. Một cuộc thảo luận, tranh luận,
xêmina sẽ giúp bạn tinh thần thoải máy hơn, suy nghĩ nhanh hơn, sáng tạo
hơn. Điều đó giúp người học rèn luyện được lối tư duy nhanh, sắc sảo, lôgic.
Hai là: Viết thu hoạch, tiểu luận, viết báo, nghiên cứu khoa học. Quá
trình viết là quá trình suy nghĩ, tìm hiểu và biện chứng các vấn đề nghiên cứu.
Quá trình này giúp người học luôn luôn phải suy nghĩ đặt ra những câu hỏi và
tìm cách trả lời các câu hỏi đó. Quá trình viết là quá trình TDBCDV tốt nhất.
Ba là: Đọc sách. đây là cách để rèn luyện tốt nhất trình độ kỹ năng
TDBCDV của người học, đọc sách giúp bổ sung kiến thức, trao dồi vốn từ,
cách thức lập luận, trình bày vấn đề… cần phải biết chọn sách mà đọc cho
phù hợp.
Bốn là: Chơi ô chữ, chơi ô số Sôdoku. Giúp người học trao dồi kinh
nghiệm, trao dồi kiến thức, từ vựng và năng lực trí tuệ, quyết đoán và khả
năng kiên trì của người học. Ô chữ và Sôdoku sẽ giúp bộ não TDBCDV nhạy
bén hơn, khái quát và TDBCDV các vấn đề đặt ra.
2.2.1. Tích cực hoá hoạt động học của học viên, vận dụng phát huy
vai trò TDBCDV trong phương pháp học tập các môn KHXH&NV của học
viên đào tạo CTV hiện nay
Trong quá trình học tập bên cạnh việc tiếp thu lĩnh hội những tri thức
về triết học, về chủ nghĩa Mác – Lênin tạo tiền đề để trang bị một lượng tri
thức cơ bản nhất định để học viên có thể hoạt động độc lập hoàn thành nhiệm
vụ theo chức trách của mình và họ có thể tiếp tục tự học tập, tự rèn luyện để
hoàn thiện mình. Do vậy, việc rèn luyện phương pháp TDBCDV phải đi từ
rèn luyện phương pháp tư duy hình tượng - phương pháp tư duy đúng đắn,
chính xác, chặt chẽ để làm cơ sở nâng cao trình độ tư duy lên mức TDBCDV
- một trình độ tư duy mang tính chặt chẽ, linh hoạt, mềm dẻo và sáng tạo.
Một là, nâng cao chất lượng học tập của học viên đào tạo CTV trong
đó chú ý tới phương pháp học tập các môn KHXH&NV tới việc nghiên cứu
nắm bắt những tri thức về triết học. Kiến thức tiếp thu được trong quá trình
đào tạo ở trường chỉ là những kiến thức cơ bản ban đầu, là nền tảng, cơ sở để
nghiên cứu vận dụng giải quyết những nhiệm vụ thực tiễn. Song thực tiễn
luôn luôn vận động, phát triển, vì thế phương pháp học khoa học là cách tốt
nhất để người học không ngừng bổ sung, củng cố và phát triển nâng cao trình
độ tri thức, phẩm chất năng lực nhận thức của mình.
Hai là, giáo dục nâng cao nhận thức về vai trò, vị trí của học viên đào
tạo CTV và sự cần thiết phát huy vai trò TDBCDV trong phương pháp học
tập sẽ tạo cho học viên ý thức, trách nhiệm cao và khả năng huy động cao
nhất những phẩm chất tâm lý, ý chí, quyết tâm vươn lên trong nâng cao năng
lực TDBCDV. Cần giáo dục nâng cao trình độ cho học viên nhận thức đúng
đắn đặc điểm, yêu cầu, nhiệm vụ của người CTV, nhiệm vụ của quân đội, của
cách mạng trong giai đoạn mới, làm cho học viên thấy rõ tầm quan trọng của
việc phát huy vai trò TDBCDV trong phương pháp học tập và hoàn thiện
phẩm chất, năng lực của học viên.
2.2.2 Đổi mới nội dung, phương pháp giảng dạy theo hướng
tích cực cho người học
Việc nâng cao chất lượng nguồn bổ sung cho đội ngũ CTV là một vấn
đề phức tạp có liên quan đến nhiều khâu, nhiều mặt. Muốn phát huy vai trò
TDBCDV trong phương pháp học tập các môn KHXH&NV của học viên đào
tạo CTV cần quyêt tâm thực hiện một số khâu quan trọng sau:
Để đẩy nhanh quá trình hình thành, phát triển TDBCDV và phát
huy vai trò của nó trong phương pháp học tập các môn KHXH&NV của học
viên đào tạo CTV ở Trường SQCT cần phải rà soát lại toàn bộ hệ thống
chương trình, nội dung, phương pháp và cơ sở vật chất, trang thiết bị dạy học,
nhất là những môn khoa học có vai trò trực tiếp hình thành TDBCDV cho học
viên. Trước mắt cũng như lâu dài, công tác giáo dục đào tạo ở Nhà trường cần
tập trung vào việc phát triển những phẩm chất và kỹ năng TDBCDV ở trình
độ cao cho người học, khắc phục nếp tư duy truyền thống mà nền sản xuất
nhỏ đã để lại, xây dựng cho người cán bộ chính trị.
2.2.3. Nâng cao chất lượng giảng dạy các môn học tại trường SQCT

Trước yêu cầu mới của công tác giáo dục đào tạo, trường SQCT
cần có kế hoạch xây dựng đội ngũ giáo viên ngày càng có chất lượng
cao, họ không chỉ là kiểu mẫu về nhân cách mà còn là kiểu mẫu về năng
lực trí tuệ và trong hoạt động thực tiễn. Muốn vậy, Nhà trường cần liên
kết chặt chẽ với các trung tâm đào tạo trong và ngoài quân đội, đẩy
mạnh công tác đào tạo và đào tạo bổ sung cho đội ngũ giảng viên. Bên
cạnh việc phân bổ công tác hợp lý cho giáo viên để họ có điều kiện
nghiên cứu chuyên sâu về nội dung và có thời gian đi nghiên cứu thực tế
ở đơn vị để gắn việc giảng dạy giữa Nhà trường với đơn vị. Có làm được
điều đó mới nâng cao trình độ chuyên môn, nắm vững kiến thức môn
chuyên ngành, cập nhật những tri thức và kinh nghiệm từ thực tiễn cho
các giáo viên và truyền thụ lại cho người học.
Trong mỗi bài giảng phải đảm bảo cân đối giữa lượng kiến thức lý luận
và kiễn thức thực tiễn. Sao cho lý luận phải hướng vào giải quyết vấn đề thực
tiễn nảy sinh, đồng thời nâng cao hiệu quả hoạt động thực tiễn. Mặt khác lượng
kiến thức thực tiễn phải đủ cơ sở để làm rõ, sâu sắc thêm tình cách mạng khoa
học của lý luận. Trong bài giảng ở bậc đại học người giảng cần phải chú ý đúng
mức đến cả chiều sâu và chiều rộng của nội dung, biết tập trung vào các vấn đề
trọng tâm, trọng điểm, gợi ý những vấn đề nảy sinh, hướng người học vào vấn
đề nghiên cứu qua đó đưa ra phương pháp tiếp cận và hướng vận dụng giải
quyết trong thực tiễn công tác sau này. Đổi mới phương pháp giảng dạy là một
yếu tố quan trọng góp phần tạo nên chất lượng giảng dạy của giáo viên. Giáo
viên có phương pháp dạy tốt không những bảo đảm cho học viên lĩnh hội tri
thức nhanh chóng, thuận tiện dễ nhớ, dễ hiểu, mà còn kích thích tính tích cực,
tự giác say mê nghiên cứu, sáng tạo của người học. Hướng chủ yếu của đổi mới
phương pháp giảng dạy hiện nay vẫn phải phát huy tính tích cực, chủ động học
tập của người học để họ tự tìm ra chân lý.

* *

Để tiếp tục nâng cao chất lượng học tập của học đào tạo CTV ở
Trường SQCT, cần phát huy tốt phương pháp học của mỗi học viên, phương
pháp đó
phải nắm vững được vai trò của TDBCDV trong quá trình học và biết vận
dụng TDBCDV trong quá trình học tập. Chính vì vậy cần phải phát huy tư
duy tích cực, chủ động của người học trong học tập nói chung và tự học nói
riêng; việc phát huy tính tích cực, chủ động của học viên trong hoạt động học
tập; việc phát huy vai trò của TDBCDV trong các chủ thể giảng dạy và quản
lý trong nâng cao chất lượng học tập các môn KHXH&NV là đòi hỏi mang
tính chất quyết định tới việc nâng cao chất lượng học tập của họ. Kết hợp chặt
chẽ giữa giáo dục nhận thức, mục tiêu phát triển đến xây dựng động cơ, thái độ
học tập của học viên. Nâng cao chất lượng của đội ngũ cán bộ giảng dạy, đội ngũ
cán bộ quản lý cũng như xây dựng môi trường học tập thuận lợi… để tạo ra những
điều kiện tốt nhất phục vụ cho hoạt động học tập, nghiên cứu của học viên. Có
như vậy mới có thể làm cho học viên thấy được vai trò tích cực của TDBCDV
trong phương pháp học tập các môn KHXH&NV đi vào chiều sâu, từ đó tạo ra sự
chuyển biến tích cực về kết quả tự học của học viên đào tạo CTV ở Trường SQCT
hiện nay.

KẾT LUẬN
Tư duy biện chứng duy vật là sự phản ánh đúng đắn hiện thực khách
quan, là sự thống nhất biện chứng cái lôgic chủ quan với cái lôgic khách
quan, nó có tính trật tự và tuân theo những quy tắc, quy luật riêng. TDBCDV
mang lại tính linh hoạt, mềm dẻo và sáng tạo của quá trình tư duy. Do đó,
trong giai đoạn cách mạng hiện nay, việc phát huy vai trò TDBCDV trong
phương pháp học nói chung và phương pháp học tập các môn KHXH&NV
nói riêng là vô cùng quan trọng và cần thiết, nó là cơ sở đảm bảo cho người
giáo viên KHXH&NV tương lai hoàn thành tốt chức trách của mình, là điều
kiện không ngừng nâng cao hiệu quả trong hoạt động thực tiễn.
Học viên đào tạo CTV thông qua quá trình học tập, rèn luyện tại
trường SQCT ngày càng củng cố và phát triển ý thức, phẩm chất, bản lĩnh
nghề nghiệp. Đội ngũ này có đủ năng lực đảm nhận trên cương vị là người
cán bộ chính trị trong QĐNDVN; có đạo đức trong sáng, lối sống văn hoá,
sẵn sàng nhận và hoàn thành mọi nhiệm vụ được giao; có khả năng phát triển
lên cấp cao hơn. Tuy nhiên, còn không ít học viên đào tạo CTV chưa có ý
thức tu dưỡng, học tập, rèn luyện dẫn đến kết quả học tập không cao, dễ so bì
thiệt hơn, nản chí khi nhận nhiệm vụ ở đơn vị, dễ sống buông thả, vi phạm kỷ
luật. Vì vậy, người học viên cần không ngừng rèn luyện TDBCDV nhằm nâng cao
năng lực nhận thức và hoạt động thực tiễn.
Trên đây là những kết quả nghiên cứu mới chỉ là những tiếp cận bước
đầu, vấn đề này cần được nghiên cứu bổ sung, làm rõ thêm. Tuy nhiên đây là
vấn đề rất lớn, còn tương đối mới mẻ đối với việc nghiên cứu khoa học, nhất
là với những học viên đang bắt đầu tiếp xúc nghiên cứu khoa học. Kết quả
chuyên đề sẽ là hành trang nghiên cứu của học viên đang đào tạo CTV ở
Trường SQCT hiện nay và sau này. Đó là nguyện vọng, mong muốn của tôi
để nâng cao kết quả học tập chung cho chất lượng đào tạo tại trường SQCT.

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO


1. Phương pháp nghiên cứu khoa học, Nxb Hà Nội 1998.
2. Đảng ủy Quân sự Trung ương 2007, Nghị quyết về công tác giáo dục,
đào tạo trong tình hình mới, Nxb Quân đội nhân dân, Hà Nội.
3. Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần
thứ VIII, Nxb CTQG, Hà Nội, 1996.
4. Đảng cộng sản Việt Nam: văn kiện đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ
X, Nxb chính trị Quốc gia Hà Nội 2006.
5. Chuyên đề “Tập huấn nghị quyết 51- NQ/TW” của Bộ Chính Trị, Hà
Nội, năm 2006.
6. Hồ Chí Minh về vấn đề học tập, Nxb Sự thật, 1978.
7. Hồ Chí Minh với lực lượng vũ trang nhân dân, Nxb QĐND, HN,
1975.

You might also like