You are on page 1of 20

TRƯỜNG…

KHOA ..


TIỂU LUẬN
QUAN ĐIỂM TRIẾT HỌC MÁC - LÊNIN VỀ MỐI QUAN HỆ BIỆN
CHỨNG GIỮA VẬT CHẤT VÀ Ý THỨC. SỰ VẬN DỤNG Ý NGHĨA
PHƯƠNG PHÁP LUẬN CỦA MỐI QUAN HỆ NÀY TRONG CUỘC
SỐNG, HỌC TẬP CỦA BẢN THÂN SINH VIÊN VÀ TRONG SỰ
NGHIỆP ĐỔI MỚI Ở VIỆT NAM HIỆN NAY

TÊN HỌC PHẦN: TRIẾT HỌC MÁC – LÊNIN

Thành phố Hồ Chí Minh, ngày tháng 01 năm 2022


TRƯỜNG…
KHOA ..


TIỂU LUẬN
QUAN ĐIỂM TRIẾT HỌC MÁC - LÊNIN VỀ MỐI QUAN HỆ BIỆN
CHỨNG GIỮA VẬT CHẤT VÀ Ý THỨC. SỰ VẬN DỤNG Ý NGHĨA
PHƯƠNG PHÁP LUẬN CỦA MỐI QUAN HỆ NÀY TRONG CUỘC
SỐNG, HỌC TẬP CỦA BẢN THÂN SINH VIÊN VÀ TRONG SỰ
NGHIỆP ĐỔI MỚI Ở VIỆT NAM HIỆN NAY

TÊN HỌC PHẦN: TRIẾT HỌC MÁC – LÊNIN

Họ tên học viên:…………………….


Mã số sinh viên:
Lớp Học phần:…………….,
Giảng viên hướng dẫn:

Thành phố Hồ Chí Minh, ngày tháng 01 năm 2022


MỤC LỤC
Trang
MỞ ĐẦU 1
NỘI DUNG 4
QUAN ĐIỂM TRIẾT HỌC MÁC - LÊNIN VỀ MỐI
Chương 1. QUAN HỆ BIỆN CHỨNG GIỮA VẬT CHẤT VÀ Ý
THỨC 4
1.1. Vật chất quyết định ý thức
4
1.2. Ý thức tác động trở lại vật chất 6
SỰ VẬN DỤNG Ý NGHĨA PHƯƠNG PHÁP LUẬN
CỦA MỐI QUAN HỆ GIỮA VẬT CHẤT VÀ Ý
Chương 2. THỨC TRONG CUỘC SỐNG, HỌC TẬP CỦA BẢN
THÂN SINH VIÊN VÀ TRONG SỰ NGHIỆP ĐỔI
MỚI Ở VIỆT NAM HIỆN NAY 9
Sự vận dụng ý nghĩa phương pháp luận của mối quan hệ
2.1. giữa vật chất và ý thức trong cuộc sống, học tập của bản
9
thân sinh viên
Sự vận dụng ý nghĩa phương pháp luận của mối quan hệ
2.2. giữa vật chất và ý thức trong sự nghiệp đổi mới ở Việt
12
Nam hiện nay
KẾT LUẬN 16
TÀI LIỆU THAM KHẢO 17
1

MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Thế giới xung quanh ta có vô vàn sự vật và hiện tượng phong phú và đa
dạng. Nhưng dù phong phú và đa dạng đến đâu thì cũng quy về hai lĩnh vực: vật
chất và ý thức. Có rất nhiều quan điểm triết học xoay quanh vấn đế về mối quan hệ
giữa vật chất và ý thức, nhưng chỉ có quan điểm triết học Mác - Lênin là đúng và
đầy đủ đó là: vật chất là cái có trước, ý thức là cái có sau. Vật chất quyết định sự ra
đời của ý thức, đồng thời ý thức tác động trở lại vật chất.
Trước năm 1986, đất nước ta đã gặp rất nhiều khó khăn bởi một nền kinh tế
trì trệ, một hệ thống quản lý yếu kém cũng là do một phần không nhận thức đúng và
đầy đủ về mối quan hệ giữa vận chất và ý thức. Vấn đề này đã được nhận thực đúng
sau đổi mới ở đại hội VI, và quả nhiên đã giành rất nhiều thắng lợi sau khi đã
chuyển nền kinh tế từ cơ chế quan liêu bao cấp sang cơ chế thị trường có sự quản lý
của nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa.
Tiến lên chủ nghĩa xã hội là mục tiêu cách mạng lớn lao nhất và quan trọng
nhất của Đảng và nhân dân ta hiện nay vì chỉ có thực hiện được mục tiêu này, chúng
ta mới có thể xây dựng được một nước Việt Nam “dân giàu, nước mạnh, xã hội dân
chủ, công bằng, văn minh”. Và cũng chỉ xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội,
chúng ta mới có thể làm thoả mãn ham muốn tột cùng, ham muốn cuối đời của
Người đó là: “Làm sao cho dân ta ai cũng có cơm ăn áo mặc, ai cũng được học
hành ...” [4, tr.120]. Vậy chúng ta phải làm thế nào để thực hiện mục tiêu trên? Từ
thực tế hiện nay cùng với con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta là bỏ qua chế
độ chủ nghĩa tư bản, mà tại đại hội VII của Đảng ta lần đầu tiên đã khẳng định:
“Chủ nghĩa Mác- Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh là nền tảng tư tưởng, là kim chỉ
nam cho hoạt động của Đảng”. Tức là, chúng ta phải: “dùng lập trường, quan điểm,
phương pháp chủ nghĩa Mác - Lênin mà tổng kết những kinh nghiệm của Đảng ta,
phân tích một cách đúng đắn những đặc điểm của nước ta. Có như thế chúng ta mới
có thể dần dần tìm hiểu được quy luật phát triển của Cách mạng Việt Nam, định ra
được đường lối, phương châm, bước đi cụ thể của Cách mạng xã hội chủ nghĩa phù
2

hợp với tình hình nước ta”. Do đó, nghiên cứu vấn đề “Quan điểm triết học Mác -
Lênin về mối quan hệ biện chứng giữa vật chất và ý thức. Sự vận dụng ý nghĩa
phương pháp luận của mối quan hệ này trong cuộc sống, học tập của bản thân
sinh viên và trong sự nghiệp đổi mới ở Việt Nam hiện nay” làm đề tài tiểu luận có
ý nghĩa lý luận và thực tiễn sâu sắc.
2. Đối tượng nghiên cứu
Quan điểm triết học Mác - Lênin về mối quan hệ biện chứng giữa vật chất và ý
thức. Sự vận dụng ý nghĩa phương pháp luận của mối quan hệ này trong cuộc sống,
học tập của bản thân sinh viên và trong sự nghiệp đổi mới ở Việt Nam hiện nay.
3. Phạm vi nghiên cứu
Ở Việt Nam.
4. Mục tiêu và nhiệm vụ nghiên cứu
* Mục tiêu nghiên cứu
Phân tích làm rõ quan điểm triết học Mác - Lênin về mối quan hệ biện chứng
giữa vật chất và ý thức. Trên cơ sở đó vận dụng ý nghĩa phương pháp luận của mối
quan hệ này trong cuộc sống, học tập của bản thân sinh viên và trong sự nghiệp đổi
mới ở Việt Nam hiện nay.
* Mục tiêu và nhiệm vụ nghiên cứu
- Phân tích làm rõ quan điểm triết học Mác - Lênin về mối quan hệ biện
chứng giữa vật chất và ý thức.
- Vận dụng ý nghĩa phương pháp luận của mối quan hệ này trong cuộc sống,
học tập của bản thân sinh viên và trong sự nghiệp đổi mới ở Việt Nam hiện nay.
5. Phương pháp nghiên cứu
Sử dụng phương pháp luận của chủ nghĩa Mác - Lênin kết hợp với các
phương pháp nghiên cứu khác như nghiên cứu lý thuyết, phương pháp logic, phân
tích, tổng hợp, thống kê, mô tả, so sánh...
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn
* Ý nghĩa lý luận
3

Tiểu luận góp phần hệ thống hóa và làm sáng tỏ cơ sở lý luận quan điểm triết
học Mác - Lênin về mối quan hệ biện chứng giữa vật chất và ý thức. Trên cơ sở đó
vận dụng ý nghĩa phương pháp luận của mối quan hệ này trong cuộc sống, học tập
của bản thân sinh viên và trong sự nghiệp đổi mới ở Việt Nam hiện nay. Chỉ ra tính
tất yếu khách quan, hợp quy luật của quá trình Việt Nam tiến lên chủ nghĩa xã hội ở
nước ta; khắc phục bệnh chủ quan, duy ý chí trong quá trình đổi mới.
* Ý nghĩa thực tiễn
Tiểu luận có thể làm tài liệu tham khảo cho các trường đại học, trung tâm bồi
dưỡng chính trị... nghiên cứu, vận dụng vào trong quá trình giảng dạy, sinh viên có
thể làm tài liệu tham khảo các môn học liên quan đến chủ đề.
7. Kết cấu của tiểu luận
Ngoài phần mở đầu, kết luận, tài liệu tham khảo, nội dung tiểu luận gồm 2 chương.
Chương 1. Quan điểm triết học Mác - Lênin về mối quan hệ biện chứng giữa
vật chất và ý thức
Chương 2. Sự vận dụng ý nghĩa phương pháp luận của mối quan hệ giữa vật
chất và ý thức trong cuộc sống, học tập của bản thân sinh viên và trong sự nghiệp
đổi mới ở Việt Nam hiện nay
4

NỘI DUNG
Chương 1. QUAN ĐIỂM TRIẾT HỌC MÁC - LÊNIN VỀ MỐI QUAN
HỆ BIỆN CHỨNG GIỮA VẬT CHẤT VÀ Ý THỨC
1.1. Vật chất quyết định ý thức
Trước tiên chúng ta phải đi tìm hiểu vật chất là gì? Theo Lênin thì “Vật chất
là phạm trù triết học dùng để chỉ thực tại khách quan được đem lại cho con người
trong cảm giác và được cảm giác của chúng ta chép lại, chụp lại, phản ánh lại và
tồn tại không lệ thuộc vào cảm giác’’ [11, tr.310]. Như vậy định nghĩa vật chất của
Lênin nổi lên một số nội dung cơ bản sau:
Thứ nhất, vật chất là cái tồn tại khách quan bên ngoài ý thứcvà không phụ
thuộc vào ý thức.
Thứ hai, vật chất là cái gây lên cảm giác ở con người khi bằng cách nào đó
(trực tiếp hay gián tiếp) tác động lên các giác quan của con người.
Thứ ba, vật chất cái mà cảm giác, tư duy, ý thức chẳng qua chỉ là sự phản
ánh của nó.
Qua đó, Lênin muốn khẳng định rằng: “Trong nhận thức luận, vật chất luôn
mang tính thứ nhất, là cái quyết định: vật chất quyết định sự hình thành ý thức,
quyết định nội dung phản ánh, quyết định sự biến đổi của ý thức và nó còn là điều
kiện để hiện thực hoá ý thức. Dựa trên những thành tựu của khoa học tự nhiên nhất
là sinh lý học thần kinh, chủ nghĩa duy vật biện chứng khẳng định rằng ý thức là
một thuộc tính của vật chất nhưng không phải của mọi dạng vật chất mà chỉ là thuộc
tính của một dạng vật chất sống có tổ chức cao là bộ óc người. Bộ óc người là cơ
quan vật chất của ý thức. Khoa học cũng đã chứng minh được rằng, thế giới vật chất
nói chung và trái đất nói riêng đã từng tồn tại rất lâu trước khi xuất hiện con người
và bộ óc người, rằng ý thức ra đời là kết quả của sự phát triển lâu dài của giới tự
nhiên cho tới khi xuất hiện con người và bộ óc người. Hoạt động ý thức của con
người diễn ra trên cơ sở hoạt động sinh lý thần kinh của bộ não người. Bộ não
người bao gồm khoảng 15 đến 17 tỉ tế bào thần kinh, các tế bào này tạo nên vô số
các mối liên hệ nhằm thu nhận, xử lý, truyền dẫn và điều khiển toàn bộ các hoạt
5

động của cơ thể trong quan hệ đối với thế giới bên ngoài qua cơ chế phản xạ không
điều kiện và có điều kiện” [12, tr.189].
Không chỉ có thế, vận động của ý thức, tư duy trên thực tế cũng là sản phẩm
của sự vận động của vật chất. Điều đó được chứng minh một cách khá rõ ràng ở
hình thức vận động xã hội của vật chất. Đó là sự thay thế lẫn nhau của các hình thái
kinh tế- xã hội, từ đó sớm hay muộn cũng dẫn đến sự thay đổi của ý thức, của cách
nghĩ, bởi tồn tại xã hội bao giờ cũng quyết định ý thức xã hội.
Vai trò cơ sở, quyết định của vật chất còn được thể hiện ở chỗ nó quyết định
nội dung phản ánh, quyết định sự biến đổi của ý thức.
Từ nội dung thứ hai trong định nghĩa vật chất của Lênin rằng: Vật chất mà
cái cảm giác, tư duy, ý thức chẳng qua chỉ là sự phản ánh của nó, mà ta thấy rằng
nội dung phản ánh của ý thức là thế giới bên ngoài, là hiện thực khách quan. Hay
nói như chủ nghĩa duy vật macxit: Ý thức là sự phản ánh thế giới khách quan vào
trong bộ óc của con người. Chính vì vậy mà thế giới khách quan như thế nào thì ý
thức phản ánh như thế ấy, không nên phản ánh một cách xuyên tạc, hư ảo, bóp méo
sự thật về thế giới khách quan như việc tô vẽ hình tượng các vị thần linh. Nói cách
khác, nội dung phản ánh của ý thức phải lấy cái khách quan làm tiền đề và bị cái
khách quan quy định.
Vật chất quyết định sự biến đổi của ý thức. Do ý thức là chức năng của bộ
não người. Hoạt động ý thức không diễn ra ở đâu ngoài những hoạt động sinh lý
thần kinh của bộ não. Ý thức phụ thuộc vào hoạt động của bộ não, do đó khi bộ não
bị tổn thương thì hoạt động ý thức sẽ không được bình thường hoặc bị rối loạn.
Mặt khác, “trong hoạt động của con người, nhu cầu vật chất bao giờ cũng giữ
vai trò quyết định, chi phối và quy định mục đích hoạt động bởi vì con người trước
hết phải được thoả mãn nhu cầu vật chất tối thiểu: ăn, ở, mặc… rồi mới nghĩ đến
vui chơi, giải trí, các hoạt động tinh thần.Tức là, hoạt động nhận thức của con người
trước hết hướng tới mục tiêu cải biến tự nhiên để thoả mãn nhu cầu sống. Cuộc
sống tinh thần của con người phụ thuộc và bị chi phối bởi nhu cầu vật chất và
những điều kiện vật chất hiện có. Ý thức con người không thể tạo ra các đối tượng
6

vật chất, cũng không thay đổi được quy luật vận động của nó. Do đó, mọi mục tiêu
ước muốn của con người không dựa trên điều kiện vật chất hiện có, trên mảnh đất
hiện thực đều là ước mơ chủ quan, không tưởng” [9, tr.87]. Ví dụ: Vận dụng trong
sự nghiệp công nhiệp hoá, hiện đại hoá của nước ta. Trước kia do không nhận thức
được rằng mọi chủ trương đường lối… đều phải dựa trên điều kiện vật chát hiện có
mà chúng ta đã chủ trương phát triển công nghiệp nặng trong khi mọi tiền đề vật
chất thì chưa có. Do đó, chúng ta đã bị thất bại.
Không chỉ có thế, “tính thứ nhất của vật chất so với tính thứ hai của ý thức
còn được thể hiện ở chỗ vật chất là điều kiện để hiện thực hoá ý thức. Nó quy định
khả năng các nhân tố tinh thân có thể tham gia vào hoạt động của con người. Nó tạo
điều kiện cho nhân tố tinh thần này hoặc nhân tố tinh thần khác biến thành hiện thực
và qua đó quy định mục đích, chủ trương, biện pháp mà con người đề ra cho hoạt
động của mình bằng cách chọn lọc, sửa chữa, bổ sung, cụ thể hoá các mục đích, chủ
trương biện pháp đó. Khi khẳng định vai trò cơ sở, quyết định trực tiếp của vật chất
đối với ý thức, chủ nghĩa duy vật macxit đồng thời cũng vạch rõ sự tác dộng trở lại
vô cùng quan trọng của ý thức đối với vật chất” [9, tr.88].
1.2. Ý thức tác động trở lại vật chất
Ý thức do vật chất sinh ra song sau khi ra đời, ý thức có tính độc lập tương
đối nên có sự tác động trở lại to lớn đối với vật chất thông qua hoạt động thực tiễn
của con người.
Ý thức đúng đắn là ý thức dựa trên quy luật khách quan của con người. Do
đó nó có tác động tích cực, làm biến đổi hiện thực, vật chất khách quan theo nhu
cầu của mình.
Ý thức sai lầm, trái quy luật khách quan của con người có tác động tiêu cực
thậm chí phá hoại các điều kiện khách quan, hoàn cảnh khách quan, kéo lùi lịch sử.
Bởi mối quan hệ giữa vật chất và ý thức là mối quan hệ tác động qua lại. Không
nhận thức được điều này sẽ rơi vào quan niệm duy vật tầm thườngvà bệnh nảo thủ
trì trệ trong nhận thức và hành động.
Nói tới vai trò của ý thức về thực cất là nói tới vai trò của con người bởi ý
thức là ý thức của con người.
7

Trái với các nhà triết học duy tâm muốn biến ý thức của con người thành
động lực của lịch sử, C.Mác và Ph.Ăngghen đã khẳng định: “Xưa nay, tư tưởng
không thể đưa người ta vượt ra ngoài trật tự thế giới cũ được, trong bất cứ tình
huống nào, tư tưởng cũng chỉ có thể đưa người ta vượt ra ngoài phạm vi tư tưởng
của trật tự thế giới cũ mà thôi” [1, tr.401]. Thật vậy, “tư tưởng căn bản không thể
thực hiện được cái gì hết. Muốn thực hiện tư tưởng thì cần có những con người sử
dụng lực lượng thực tiễn. Điều đó cũng có nghĩa là con người muốn thực hiện các
quy luật khách quan thì phải nhận thức, vận dụng đúng đắn các quy luật đó, phải có
ý chí và phương pháp để tổ chức hành động. Như vậy vai trò của ý thức là ở chỗ nó
giúp con người đề ra chủ trương, đường lối, chính sách, những mục đích, kế hoạch,
biện pháp, phương hướng phù hợp với thực tế khách quan. Nói như vậy có nghĩa là
cũng có những ý thức khoa họcvà những ý thức không khoa học so với hiện thực
khách quan, tương ứng với nó là hai tác động trái ngược nhau tích cực và tiêu cực
của ý thức đối với vật chất” [2, tr.54].
Vai trò tích cực của ý thức, tư tưởng không phải ở chỗ nó trực tiếp tạo ra hay
thay đổi thế giới vật chất mà là “Nhận thức thế khách quan từ đó hình thành được
mục đích, phương hướng, biện pháp đúng đắn đồng thời có ý chí, quyết tâm cần
thiết cho hoạt dộng của mình. Sức mạnh cuả ý thức con người không phải ở chỗ
tách rời điều kiện vật chất, thoát ly hiện thực khách quan, mà là biết dựa vào điều
kiện vật chất đã có, phản ánh đúng quy luật khách quan để cải tạo thế giới khách
quan một cách chủ động, sáng tạo với ý chí và quyết tâm cao nhằm phục vụ lợi ích
của con người và xã hội. Con người nhận thức và phản ánh thế giới thế giới khách
quan càng đầy đủ chính xác bao nhiêu thì cải tạo chúng càng có hiệu quả bấy nhiêu.
ở đây vai trò năng động sáng tạo của ý thức, của nhân tố chủ quan của con người có
vị trí hết sức quan trọng. Bảo thủ trì trệ hoặc tiêu cực thụ động, ỷ lại ngồi chờ chính
là kìm hãm sự phát triển, triệt tiêu tính năng động tích cực sáng tạo của ý thức. Mặt
khác, do có tính vượt trước, nên ý thức giúp cho hoạt động của con người trở nên tự
giác, tích cực, chủ động hơn như trong việc dự báo, lập kế hoạch, đề ra đường lối,
phương pháp hành động” [2, tr.56].
8

Vai trò của ý thức còn thể hiện ở “Vai trò của tri thức, trí tuệ, tình cảm và ý
chí. Nó không những là kim chỉ nam cho hoạt động thực tiễn mà còn là động lực
của thực tiễn. Không có sự thúc đẩy của tình cảm, ý chí, hoạt động thực tiễn sẽ diễn
ra một cách chậm chạp, thậm chí không thể diễn ra được. Nhờ ý chí và tình cảm, ý
thức quy định tốc độ và bản sắc của hoạt động thực tiễn. Tinh thần, dũng cảm, dám
nghĩ dám làm, lòng nhiệt tình, chí quyết tâm, tình yêu, niềm say mê với công việc,
khả năng sáng tạo và vượt qua khó khăn nhằm đạt tới mục tiêu xác định đều có ảnh
hưởng to lớn đến hoạt động thực tiễn làm cho nó diễn ra nhanh hay chậm. Tuy
nhiên, ý chí, tình cảm chỉ là động lực mà không thể là kim chỉ làm cho hoạt động
thực tiễn. Bởi vì, sự thành công hay thất bại của hoạt động thực tiễn, tác dụng tích
cực hay tiêu cực của ý thức đối với sự phát triển của tự nhiên và xã hội chủ yếu phụ
thuộc vào vai trò chỉ đạo ý thức. Chính vì vậy phải biết kết hợp giữa tri thức, trí tuệ,
khoa học với ý chí, tình cảm. Bởi tri thức càng được tích luỹ, con người ngày càng
đi sâu vào bản chất sự vật và cải tạo sự vật có hiệu quả hơn” [10, tr.101].
Tuy nhiên cơ sở cho việc phát huy tính năng động chủ quan của ý thức là
“việc thừa nhận và tôn trọng tính khách quan của vật chất, của các quy luật tự nhiên
và xã hội. Nếu như thế giới vật chất - với những thuộc tính và quy luật vốn có của
nó - tồn tại khách quan, không phụ thuộc vào ý thức con người thì trong nhận thức
và hoạt động thực tiễn phải xuất phát từ thực tế khách quan, lấy thực thể khách quan
làm căn cứ cho mọi hoạt động của mình. Chính vì vậy, Lênin đã nhiều lần nhấn
mạnh rằng, không được lấy ý muốn chủ quan của mình làm chính sách, không được
lấy tình cảm làm điểm xuất phát cho chiến lược và sách lược cách mạng. Nếu chỉ
xuất phát từ ý muốn chủ quan, nếu lấy ý chí áp đặt cho thực tế, lấy ảo tưởng thay
cho hiện thực thì sẽ mắc phải bệnh chủ quan duy ý chí. Không chỉ có thế, khi vai trò
chỉ đạo của ý thức phạm sai lầm thì tinh thần, dũng cảm, lòng nhiệt tình, chí quyết
tâm cũng làm cho hoạt động thực tiễn thất bại một cách nhanh chóng” [10, 103].
Qua những điều vừa trình bày ở trên về mối quan hệ giữa vật chất với ý thức
của chủ nghĩa duy vật biện chứng, chúng ta có thể rút ra một ý nghĩa hết sức quan
trọng trong hoạt động thực tiễn của con người như sau: Mọi hoạt động của con
9

người (cả hoạt động nhận thức lẫn hoạt động thực tiễn) đều phải xuất phát từ thực tế
khách quan, phát huy được tính năng động sáng tạo của ý thức, tư tưởng, của nhân
tố chủ quan của con người và đồng thời chống chủ quan duy ý chí.
Chương 2. SỰ VẬN DỤNG Ý NGHĨA PHƯƠNG PHÁP LUẬN CỦA
MỐI QUAN HỆ GIỮA VẬT CHẤT VÀ Ý THỨC TRONG CUỘC SỐNG,
HỌC TẬP CỦA BẢN THÂN SINH VIÊN VÀ TRONG SỰ NGHIỆP ĐỔI
MỚI Ở VIỆT NAM HIỆN NAY
2.1. Sự vận dụng ý nghĩa phương pháp luận của mối quan hệ giữa vật
chất và ý thức trong cuộc sống, học tập của bản thân sinh viên
Từ nghiên cứu mối quan hệ vật chất và ý thức cho thấy sinh viên phải ít lòng
ham muôn về vật chất. Trong giai đoạn cách mạng hiện nay, “bên cạnh những thành
tựu về kinh tế - xã hội mà nước ta đạt được sau hơn ba mươi năm đổi mới, mặt trái
của cơ chế thị trường cũng tác động không nhỏ tới phẩm chất đạo đức và lối sống
đội ngũ cán bộ đảng viên và các tầng lớp nhân dân trong xã hội. Những vụ tham
nhũng, hối lộ, gây lãng phí… đã trở thành quốc nạn và là vấn đề nổi cộm gây bức
xúc trong dư luận. Những vị quan tham đó đã lợi dụng những kẽ hở của cơ chế kinh
tế, những sơ hở của Nhà nước và lòng tin của nhân dân để bán rẻ lương tâm, nuôi
béo con sâu cá nhân chủ nghĩa” [9, tr.89]. Trong văn kiện Đại hội Đảng XIII cũng
đã phải nhận định: “Tệ quan liêu, tham nhũng, lãng phí, sách nhiễu dân trong một
bộ phận mà không nhỏ cán bộ đảng viên diễn ra nghiêm trọng, kéo dài chưa được
ngăn chặn, đẩy lùi… làm giảm lòng tin của nhân dân với Đảng. Đó là một nguy cơ
lớn liên quan đến sự sống còn của Đảng, của chế độ” [4, tr.90]. Vì vậy mỗi người
trong chúng ta, dù trên bất kỳ cương vị nào (kể cả sinh viên đang ngồi trên ghế nhà
trường) phải luôn quán triệt rằng phải thực hành tiết kiệm và chống tham ô, lãng
phí. Phải luôn luôn ghi nhớ lời dạy của Bác: “Đạo đức cách mạng không phải trên
trời sa xuống. Nó do đấu tranh rèn luyện bền bỉ hàng ngày mà phát triển và củng
cố, cũng như ngọc càng mài càng sáng, vàng càng luyện càng trong. Có gì sung
sướng hơn là trau dồi đạo đức cách mạng để góp phần xứng đáng vào sự nghiệp
xây dựng chủ nghĩa xã hội và giải phóng loài người” [6, tr.218].
10

Sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn luôn nêu cao ý thức tiết kiệm, chống
tham ô, lãng phí, quan liêu. Trong tác phẩm Ðường Kách mệnh, Người viết về tư
cách người cách mạng: “Tự mình phải cần kiệm, vị công vong tư, không hiếu danh,
không kiêu ngạo, nói thì phải làm, ít lòng ham muốn về vật chất...”. Ngay khi Cách
mạng Tháng Tám thành công, ngày 3-9-1945, trong phiên họp đầu tiên của Chính
phủ lâm thời, Người nêu “Những nhiệm vụ cấp bách của Nhà nước Việt Nam dân
chủ cộng hòa” và “đề nghị mở một chiến dịch giáo dục lại tinh thần nhân dân bằng
cách thực hiện: cần, kiệm, liêm, chính” [7, tr.315].
Trong những năm tháng kháng chiến gian khổ chống thực dân Pháp xâm
lược, Người thường nhắc nhở đồng bào, cán bộ, chiến sĩ kết hợp chặt chẽ phong
trào thi đua giết giặc với phong trào tăng gia sản xuất, thực hành tiết kiệm, chống
tham ô, lãng phí, chống quan liêu. Năm 1947, Người viết tác phẩm Sửa đổi lối làm
việc nêu rõ: Phải rèn luyện đạo đức cách mạng, ra sức chống những thói hư tật xấu,
lên mặt quan cách mạng, hẹp hòi, tư túi... Năm 1952, trong tác phẩm Thực hành tiết
kiệm, chống tham ô, lãng phí, chống bệnh quan liêu, Người phân tích rõ biểu hiện,
bản chất, tác hại, nguyên nhân và những biện pháp chống các bệnh này và thực
hành chính sách tiết kiệm. Ngày 3-2-1969, nhân dịp kỷ niệm thành lập Ðảng, Người
viết bài Nâng cao đạo đức cách mạng, quét sạch chủ nghĩa cá nhân.
Trước lúc đi xa Người căn dặn trong Di chúc: “Mỗi đảng viên và cán bộ phải
thật sự thấm nhuần đạo đức cách mạng, thật sự cần kiệm liêm chính, chí công vô
tư” [8, tr.287]. Cuộc đời của Chủ tịch Hồ Chí Minh là tấm gương ngời sáng về đức
cần kiệm liêm chính, chí công vô tư, là mẫu mực về đời riêng trong sáng, nếp sống
giản dị, khiêm tốn. Cuộc đời Người từ một phụ bếp trên tàu, một thợ ảnh ở ngõ hẻm
Compoint đến khi trở thành Chủ tịch nước vẫn luôn là những tháng ngày thanh
bạch, tiết kiệm và giản dị. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã kế thừa và phát huy truyền
thống dân tộc về đức cần, kiệm. Người qtóm tắt, “cần” tức là tăng năng suất trong
công tác, bất kỳ công tác gì; “kiệm” tức là không lãng phí thì giờ, của cải của mình
và của nhân dân; “liêm” tức là không tham ô, luôn tôn trọng, giữ gìn của công và
của nhân dân; “chính” là việc phải dù nhỏ cũng làm, việc trái dù nhỏ cũng tránh.
11

Cho đến lúc phải từ biệt thế giới này, Người căn dặn: “Sau khi tôi đã qua đời, chớ
nên tổ chức điếu phúng linh đình, để khỏi lãng phí thì giờ và tiền bạc của nhân dân”
[8, tr.288]. Do vậy, mỗi chúng ta phải học tập theo Bác, không đặt vật chất, lợi ích
lên hàng đầu, phải nỗ lực học tập để trở thành người có ích cho xã hội.
Từ mối quan hệ trên cũng chỉ ra vai trò tác động to lớn của ý thức. Do vậy,
khi còn ngồi trên nghế nhà trường, từng sinh viên phải tích cực học tập, nâng cao
trình độ mọi mặt, sự giàu có về kiến thức (ý thức) sẽ là hành trang để sau này thành
công. Do vậy mỗi sinh viên cần không ngừng học tập, trau dồi kiến thức chuyên
ngành, liên ngành. Trong thời đại ngày nay phải không ngừng học tập các kỹ năng
để có thể đáp ứng yêu cầu công việc trong thời đại cách mạng 4.0. Bên cạnh đó cần
rèn luyện về đạo đức, đấu tranh với mọi biểu hiện tiêu cực trong quá trình học tập.
Tích cực tham gia công tác xã hội để mang sức trẻ, lòng nhiệt huyết của đoàn viên
thanh niên cống hiến cho xã hội bằng những việc làm thiết thực, tránh hiện tượng
bàng quan, thờ ơ về chính trị, chỉ biết nói lời hay mà không biết làm. Trách nhiệm
của mỗi sinh viên hiện nay chính là trách nhiệm trong học tập. Kiến thức rất bao la,
không gói gọn trong bài giảng của thầy, trong học tập nhiệm vụ của mỗi sinh viên là
phải chú tâm, biết nghiên cứu, tìm tòi, khám phá những cái mới, phương pháp học
tập của sinh viên khác với phương pháp học tập của sinh viên phổ thông. Mặt khác,
cách học và đạo đức trong việc học có ý nghĩa rất lớn, học phải đi đôi với hành, biết
vận dụng kiến thức được học vào đời sống, để làm cuộc sống ý nghĩa hơn. Không
học vẹt, học qua loa cho xong, vì đó chính là cách học không biết khơi sáng ngọn
lửa tri thức mà dần dần sẽ giết chết tri thức.
        Để học tập tốt, sinh viên cần có thái độ và trách nhiệm trong học tập. Thể
hiện rõ ở việc nhận thức đúng đắn về mục đích, yêu cầu, nội dung cần đạt được,
tính tích cực, tự giác, chủ động sáng tạo trong quá trình học tập. Đó là quá trình mỗi
sinh viên phát huy vai trò chủ thể trong hoạt động nhận thức, biến quá trình đào tạo
thành tự đào tạo. Để có được động cơ, thái độ, trách nhiệm học tập đúng đắn của
sinh viên, nhất thiết phải thông qua công tác giáo dục của nhà trường, giảng viên,
cán bộ quản lý và đặc biệt là quá trình tự giáo dục, sự nỗ lực, tự giác vươn lên của
12

sinh viên. Mỗi sinh viên cần phải tự giác quán triệt một cách nghiêm túc về mục
tiêu, yêu cầu đào tạo của nhà trường cũng như yêu cầu về phẩm chất năng lực của
bản thân, phấn đấu trở thành người công dân tốt.
2.2. Sự vận dụng ý nghĩa phương pháp luận của mối quan hệ giữa vật
chất và ý thức trong sự nghiệp đổi mới ở Việt Nam hiện nay
Trước thời kì đổi mới, “khi cơ sở vật chất con chưa có chúng ta nôn nóng
muôn đốt cháy giai đoạn nên đã phải trả giá. Ở thời kì này chúng ta phát triển quan
hệ sản xuất đi trước lực lượng sản xuất mà không nhìn thấy vai trò quyết định của
lực lượng sản xuất. Sau giải phóng đất nước ta là một đất nước nông nghiệp với số
dân tham gia vào ngành này tới hơn 90%. Nhưng chúng ta vẫn xây dựng các nhà máy
công nghiệp trong khi để nhanh chóng trở thành nước công nghiệp hoá trong khi lực
lượng sản xuất chưa phát triển, thêm vào đó là sự phân công không hợp lý về quản lý
nhà nước và của xã hội, quyền lực quá tập trung vào Đảng, và Nhà nước quản lý quá
nhiều các mặt của đời sống xã hội, thực hiện quá cứng nhắc làm cho toàn xã hội thiếu
sức sống, thiếu năng động và sáng tạo. Các giám đốc thời kì này chỉ đến ngồi chơi
xơi nước và cuối tháng lĩnh lương, các nông dân và công nhân làm đúng giờ quy định
nhưng hiệu quả không cao... ở đây chúng ta đã xem nhẹ thực tế phức tạp khách quan
của thời kì quá độ, chưa nhận thức đầy đủ rằng thời kỳ quá độ lên xã hội chủ nghĩa là
quá trình lịch sử lâu dài và phải trải qua nhiều chặng đường” [10, tr.100].
Từ đây, chúng ta phải có cơ sở hạ tầng của xã hội chủ nghĩa và cơ sở vật chất
phát triển. Chúng ta phải xây dựng lực lượng sản xuất phù hợp quan hệ sản xuất.
Chúng ta có thể bỏ qua tư bản chủ nghĩa nhưng không thể bỏ qua những tính quy
luật chung của quá trình từ sản xuất nhỏ lên sản xuất lớn. Chúng ta cũng phải biết
kế thừa và phát triển tích cực những kết quả của công nghiệp tư bản như thành tựu
khoa học, kỹ thuật và công nghệ - môi trường, là cơ chế thị trường với nhiều hình
thức cụ thể tác động vào quá trình phát triển kinh tế.
Để vực nền kinh tế lạc hậu của nước nhà, Đảng xác định là “phải phát triển
nền kinh tế nhiều thành phần để tăng sức sống và năng động cho nền kinh tế, phát
triển lực lượng sản xuất. Phát triển các quan hệ hàng hoá và tiền tệ và tự do buôn
13

bán, các thành phần kinh tế tự do kinh doanh và phát triển theo khuôn khổ của pháp
luật, được bình đẳng trước pháp luật. Mục tiêu là làm cho thành phần kinh tế quốc
doanh và tập thể đóng vai trò chủ đạo. Song song quá trình phát triển nền kinh tế
hàng hoá nhiều thành phần thì chúng ta cũng cần phát triển nền kinh tế thị trường
theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Hiện nay nền kinh tế thị trường ở nước ta còn
đang ở trình độ kém phát triển. Biểu hiện ở số lượng hàng hoá và chủng loại hàng
hoá quá nghèo nàn, khối lượng hàng hoá lưu thông trên thị trường và kim ngạch
xuất nhập khẩu còn quá nhỏ, chi phí sản xuất lại quá cao dẫn đến giá thành cdao,
nhưng chất lượng mặt hàng là kém. Nhiều loại thị trường quan trọng còn ở trình độ
sơ khai hoặc mới đang trong quá trình hình thành như: thị trường vốn, thị trường
chứng khoán, thị trường sức lao động...” [3, tr.39].
Chúng ta cũng cần “mở rộng giao lưu kinh tế nước ngoài, nhanh chóng hội
nhập vào tổ chức thương mại thế giới WTO, AFTA và các hiệp định song phương
đồng thời phải xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ. Muốn vậy, ta phải đa phương
hoá và đa dạng hoá hình thức và đối tác, phải quán triệt trên nguyên tắc đôi bên
cùng có lợi, không can thiệp vào công việc nội bộ của nhau và không phân biệt chế
độ chính trị - xã hội phải triệt để khai thác lợi thế so sánh của đất nước trong
quanhệ kinh tế quốc dân nhằm khai thác tiềm năng lao động, tài nguyên thiên nhiên
đất nước, tăng xuất nhập khẩu, thu hút vốn kỹ thuật, công nghệ hiện đại và kinh
nghiệm quản lý” [3, tr.41].
Thu hút vốn đầu tư nước ngoài và phát triển cơ sở hạ tầng cũng là “một trong
chủ trương quan trọng của Đảng. Để làm điều này thì chúng ta cần giữ vững ổn
định chính trị, hoàn thiện hệ thống pháp luật, đổi mới các chính sách tài chính và
tiền tệ, giá cả, phát triển các thị trường quan trọng như thị trường chứng khoán, thị
trường lao động… Nhà nước cũng cần hạn chế việc can thiệp trực tiếp vào sản xuất
kinh doanh của các doanh nghiệp mà nên tập trung tốt các chức năng tạo môi
trường, hướng dẫn, hỗ trợ cần thiết cho các doanh nghiệp nước ngoài. Xây dựng và
hoàn thiện hệ thống pháp luật đồng bộ nhưng thông thoáng lành mạnh để tạo sự tin
tưởng cho các nhà đầu tư của nước ngoài. Tránh tình trạng giấy tờ phức tạp rắc rối,
14

trên bảo dưới không nghe làm cho quá trình giải toả mặt bằng gặp nhiều khó khăn”
[3, tr.90].
Với các chủ trương trên ta nhận thấy vai trò quyết định của vật chất đối với ý
thức, đó cũng là bài học quan trọng của Đảng là: Mọi đường lối chủ trương của
Đảng phải xuất phát từ thực tế, tôn trọng quy luật khách quan. Để xây dựng xã hội
chủ nghãi cũng cần phải hiểu sâu sắc vai trò của ý thức tác động trở lại vật chất.
Một rong chủ trương quan trọng là phải lấy chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng
Hồ Chí Minh làm kim chỉ nam cho hành động. Tư tưởng Hồ Chí Minh nằm trong
hệ tư tưởng Mác - Lênin là sự thốn nhất giữa chủ nghĩa Mác - Lênin và thực tiễn
của đất nước Việt Nam. Tư tưởng Hồ Chí Minh đã bảo về và quán triệt chủ nghĩa
Mác - Lênin đúng đắn và hiệu quả nhất. Như vậy muốn hiểu sâu sắc và vận dụng tư
tưởng Hồ Chí Minh phải nắm vững chủ nghĩa Mác - Lênin, nhất là phép biện chứng
duy vật và phải nghiên cứu, nắm vững thực tiễn.
Vai trò ý thức tác động lại vật chất cũng phải được hiện rõ ở khía cạnh phát
huy tính năng động và tích cực và vai trò trung tâm của con người, một số giải pháp
cho vấn đề này: “Một là, đổi mới hệ thống chính trị dân chủ hoá đời sống xã hội
nhằm phát huy đầy đủ tính tích cực và quyền làm chủ của nhân dân. Hai là, đổi mới
cơ chế quản lý, hoàn thiện hệ thống chính sách xã hội phù hợp có ý nghĩa then chốt
trong việc phát huy tính tích cực của người lao động như: cơ chế quản lý mới phải
thể hiện rõ bản chất của một cơ chế dân chủ, và cơ chế này phải lấy con người làm
trung tâm, vì con người, hướng tới con người là phát huy mọi nguồn lực. Cơ chế
quản lý mới phải xây dựng đội ngũ quản lý có năng lực và phẩm chất thành thạo về
nghiệp vụ. Ba là, đảm bảo lợi ích của người lao động là động lực mạnh mẽ của quá
trình nâng cao tính tích cực của con người: cần quan tâm đúng mức đến lợi ích vật
chất, lợi ích kinh tế của người lao động đảm bảo nhu cầu thiết yếu của họ hoạt động
sáng tạo như ăn, ở, mặc, đi lại, học hành, khám chữa bệnh, nghỉ ngơi. Cũng cần có
chính sách đảm bảo và kích thích phát triển về mặt tinh thần, thể chất cho nhân dân,
tăng cường xây dựng hệ thống cơ chế chính sách phù hợp để giải quyết tốt vấn đề
15

ba lợi ích tập thể, và lợi ích xã hội nhằm đảm bảo lợi ích trước mắt cũng như lâu dài
của người lao động” [2, tr.57].
Ngoài ra chúng ta cũng cần “nâng cao trình độ nhận thức tri thức khoa học cho
nhân dân nói chung và đặc biệt đầu tư cho ngành giáo dục. Chúng ta cần xây dựng
chiến lược giáo dục, đào tạo, với những giải pháp mạnh mẽ phù hợp để mở rộng
quy mô chất lượng ngành đào tạo, đối với nội dung và phương pháp giáo dục, đào
tạo, cải tiến nội dung chương trình giáo dục, đào tạo phù hợp với từng đối tượng,
trường lớp ngành nghề. Kết hợp giữa việc nâng cao dân trí, phổ cập giáo dục với
việc bồi dưỡng và nâng cao trình độ chuyên môn, nghiệp vụ của người lao động để
đáp ứng nhu cầu cao của sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Thực hiện đồng
bộ và có hiệu quả các giải pháp trên sẽ kích thích tính năng động và tài năng sáng
tạo của người lao động ở nước ta. Sự nghiệp đất nước càng phát triển thì tính tích
cực và năng động của con người càng tăng lên một cách hàng hợp với quy luật” [].
16

KẾT LUẬN
Chủ nghĩa Mác - Lênin nói chung và triết học Mác - Lênin nói riêng là lý luận
khoa học và cách mạng soi đường cho giai cấp công nhân và nhân dân lao động
trong cuộc đấu tranh giai cấp và đấu tranh dân tộc đang diễn ra trong điều kiện mới,
dưới hình thức mới.
Hiện nay, chủ nghĩa xã hội đang lâm vào khủng hoảng và thoái trào, tương
quan so sánh lực lượng bất lợi cho các lực lượng cách mạng, tiến bộ. Chủ nghĩa đế
quốc đang tạm thời thắng thế. Đế quốc Mỹ đang ráo riết thực hiện âm mưu làm bá
chủ thế giới. Mặc dù vậy, phong trào công nhân, phong trào xã hội chủ nghĩa và
phong trào độc lập dân tộc vẫn tồn tại, phục hồi dần, đang tập hợp, phát triển lưu
lượng, tìm tòi các phương thức và phương pháp đấu tranh mới.
Qua việc nghiên cứu đề tài trên, chúng ta đã tìm hiểu một cách sâu sắc hơn
về mối quan hệ giữa vật chất với ý thức, đó là mối quan hệ biện chứng tác động qua
lại lẫn nhau. Khẳng định vật chất luôn mang tính thứ nhất, tính quyết định, ý thức
luôn mang tính thứ hai, bị chi phối, bị quyết định. Song, ý thức lại có tác động trở
lại vô cùng quan trọng đối với vật chất. Nó có thể làm cho vật chất phát triển, biến
đổi theo nhu cầu, ý muốn, nhưng đồng thời nó cũng có thể làm cho vật chất không
phát triển, bị kìm hãm. Qua đó, chúng ta có thể rút ra bài học hết sức cần thiết cho
sự nghiệp cách mạng lớn lao của Đảng và nhân dân ta - Sự nghiệp xây dựng chủ
nghĩa xã hội và rút ra được những bài học cho bản thân.
17

TÀI LIỆU THAM KHẢO


1. C.Mác và Ph.ăng-ghen toàn tập, tập 3, Nxb Chính trị quốc gia - Sự thật,
Hà Nội, 1976.
2. Trần Văn Dũng, Chủ nghĩa Mác - Lênin - Kim chỉ nam cho quá trình xây
dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta, Tạp chí Giáo dục, số 74/2019.
3. Đảng Cộng sản Việt Nam (1991), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần
thứ VI, Nxb Chính trị quốc gia - Sự thật, Hà Nội.
4. Đảng Cộng sản Việt Nam (2021), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần
thứ XIII, tập 1, Nxb Chính trị quốc gia - Sự thật, Hà Nội.
5. Hồ Chí Minh, toàn tập, tập 1, Nxb Chính trị quốc gia - Sự thật, Hà Nội, 2011.
6. Hồ Chí Minh, toàn tập, tập 4, Nxb Chính trị quốc gia - Sự thật, Hà Nội, 2011.
7. Hồ Chí Minh, toàn tập, tập 7, Nxb Chính trị quốc gia - Sự thật, Hà Nội, 2011.
8. Hồ Chí Minh, toàn tập, tập 12, Nxb Chính trị quốc gia - Sự thật, Hà Nội, 2011.
9. Trần Văn Nghĩa, Phép biện chứng của công cuộc đổi mới ở nước ta, Tạp
chí Nghiên cứu lý luận, Số 24/2015.
10. Nguyễn Thế Vinh, Vận dụng sáng tạo mối quan hệ biện chứng giữa vật
chất và ý thức trong quá trình đổi mới ở nước ta hiện nay, Tạp chí Lý luận chính trị,
số 124/2017.
11. V.I.Lênin, toàn tập, tập 11, Nxb Tiến bộ Mátxcơva, 1976.
12. V.I.Lênin, toàn tập, tập 134, Nxb Tiến bộ Mátxcơva, 1976.

You might also like