You are on page 1of 37

ĐẠI HỌC QUỐC GIA THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

TRƯỜNG ĐẠI HỌC BÁCH KHOA

---o0o---

ĐƯỜNG LỐI KHÁNG CHIẾN CHỐNG THỰC DÂN PHÁP VÀ GIÁ TRỊ
ĐỐI VỚI SỰ PHÁT TRIỂN CỦA CÁCH MẠNG VIỆT NAM

Lớp L07 – HK 221

GVHD: Đào Thị Bích Hồng

Ngày nộp: 23/10/2022

Sinh viên thực hiện MSSV Điểm số


Cao Hoàng Khánh Vân 2015028
Lê Ngọc Vân 2015029
Nguyễn Ngọc Tường Vi 1915895
Lê Nguyễn Hoàng Uyên 1912408
Nguyễn Lê Phương Uyên 1912412

Thành phố Hồ Chí Minh - 2022

1
BÁO CÁO PHÂN CÔNG NHIỆM VỤ VÀ KẾT QUẢ THỰC HIỆN ĐỀ TÀI CỦA TỪNG THÀNH VIÊN NHÓM

STT Họ và tên MSSV Nhiệm vụ Kết quả Chữ ký

1 Cao Hoàng Khánh Vân 2015028 Đường lối kháng chiến + Tiểu kết chương 2 95%

2 2015029 Mở đầu + Bối cảnh lịch sử + Tiểu kết chương 1 + chỉnh 100%
Lê Ngọc Vân
sửa Giải quyết xung đột (1945 - HIệp định sơ bộ)

3 1915895 Giải quyết xung đột (Hiệp định sơ bộ đến hết) + Tiểu 100%
Nguyễn Ngọc Tường Vi
kết chương 1

4 Lê Nguyễn Hoàng Uyên 1912408 Giải quyết xung đột (1945 - HIệp định sơ bộ) 80%

5 Nguyễn Lê Phương Uyên 1912412 Giá trị đối với sự phát triển + Tổng kết 100%

Nhóm trưởng

1
MỤC LỤC

MỤC LỤC 2

MỞ ĐẦU 4

1. Lý do chọn đề tài 4

2. Nhiệm vụ của đề tài 5

CHƯƠNG 1: QUÁ TRÌNH ĐẢNG TỪNG BƯỚC GIẢI QUYẾT XUNG ĐỘT VỚI
PHÁP TRƯỚC KHI QUYẾT ĐỊNH PHÁT ĐỘNG KHÁNG CHIẾN TOÀN QUỐC
CHỐNG THỰC DÂN PHÁP XÂM LƯỢC (19/12/1946) 6

1.1. Bối cảnh lịch sử Việt Nam sau Cách mạng tháng Tám và những hành động
hiếu chiến của thực dân Pháp 6

1.1.1. Bối cảnh thế giới 6

1.1.2. Bối cảnh trong nước và những hành động hiếu chiến của Pháp 7

1.2. Quá trình Đảng từng bước giải quyết xung đột với Pháp 13

1.2.1. Chủ trương Đảng đưa ra để từng bước giải quyết xung đột với Pháp 13

1.2.2. Nhận xét chung: 17

TIỂU KẾT CHƯƠNG 1 18

CHƯƠNG 2 ĐƯỜNG LỐI KHÁNG CHIẾN CHỐNG THỰC DÂN PHÁP VÀ GIÁ
TRỊ ĐỐI VỚI SỰ PHÁT TRIỂN CỦA CÁCH MẠNG VIỆT NAM 20

2.1. Đường lối kháng chiến chống thực dân Pháp 20

2.1.1. Nội dung 20

2.1.2. Đánh giá chung 24

2.2. Giá trị đối với sự phát triển của cách mạng Việt Nam 24

2.2.1. Khái quát một số kết quả của cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp
24

2.2.2. Giá trị của đường lối kháng chiến chống thực dân Pháp của Đảng 25

2
TIỂU KẾT CHƯƠNG 2 30

TỔNG KẾT 32

TÀI LIỆU 34

3
MỞ ĐẦU

1. Lý do chọn đề tài
Cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp (1946-1954) đối với sự phát triển của
cách mạng Việt Nam đóng vai trò rất quan trọng. Trong suốt 9 năm ròng rã, đầy gian
khổ cách mạng Việt Nam đã từng bước trưởng thành, lớn mạnh. Với đường lối chính
trị, phương pháp cách mạng đúng đắn, Đảng ta đã phát động cuộc chiến tranh nhân dân,
tạo nên một thế trận cả nước đánh giặc, phát huy được tối đa sức mạnh dân tộc, tranh
thủ tối đa sức mạnh của thời đại làm nên thắng lợi của cuộc kháng chiến chống thực dân
Pháp. Có thể đó chỉ là một khoảng thời gian ngắn so với quá trình lịch sử hình thành và
phát triển của dân tộc. Nhưng nó lại là một chặng đường nối liền quá khứ vẻ vang 4000
năm dựng nước, giữ nước với tương lai huy hoàng của Tổ quốc.
Chiến thắng này đã đánh dấu bước phát triển vượt bậc trong sự nghiệp đấu tranh
giành độc lập, tự do của dân tộc ta hơn hết nó còn có tính lan tỏa rộng lớn vì lần đầu tiên
trong lịch sử có một nước thuộc địa nhỏ bé đã đánh thắng một nước thực dân to lớn với
các phương tiện chiến tranh, vũ khí, công nghệ hiện đại. Thắng lợi của cuộc kháng chiến
chống Thực dân Pháp là thắng lợi của đường lối chiến lược, sách lược và phương pháp
tiến hành cách mạng đúng đắn, sáng tạo của Đảng và để có những quyết định đúng đắn
này Đảng đã đánh giá một cách đầy đủ những âm mưu, thủ đoạn của kẻ thù; so sánh và
rút ra được đúng điểm mạnh và yếu của Việt Nam với Thực dân Pháp cùng với đó là
nắm bắt được sự chuyển biến của tình hình thế giới lúc bấy giờ.
Với tinh thần, đường lối trong kháng chiến chống Pháp Việt Nam còn thành công
trong cuộc khác chiến chống thực dân Mỹ sau này. Đảng và nhà nước luôn giữ vững
tinh thần tất cả vì lợi ích quốc gia, dân tộc; luôn định hướng phát triển đất nước theo
hướng Chủ nghĩa xã hội nên tuy có những lúc đưa ra những chủ trương chưa được hợp
lý nhưng vì luôn vững tin vào lý tưởng ban đầu nên Đảng đã kịp thời chỉnh sửa và vượt
qua những giai đoạn khó khăn trong sự nghiệp đổi mới đất nước. Tiêu biếu như: từng
bước hình thành quan hệ ngoại giao với các nước; Ban Chấp hành Trung ương Đảng ra
Chỉ thị phát động phong trào Thi đua Ái quốc; rồi phong trào bình dân học vụ;... Song
Đảng vẫn còn một số hạn chế cần khắc phục tránh để các thế lực thù địch lợi dụng tìm
cách chống phá.

4
Nhất là ngày nay việc nghiên cứu về cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm
lược, không chỉ nêu cao niềm tự hào dân tộc mà còn giúp chúng ta rút ra những kinh
nghiệm, những bài học quý giá trong việc phát huy sức mạnh tổng hợp trong cuộc kháng
chiến chống thực dân Pháp xâm lược để xây dựng đất nước mà còn Nhất là hiện nay,
Việt Nam ta với cương vị là một đất nước đang phát triển, đang trong quá trình công
nghiệp hóa hiện đại hóa với mong muốn hội nhập với thế giới giữa cuộc cách mạng 4.0,
chúng ta càng cần phải tìm hiểu để phát huy tối đa điểm mạnh, khắc phục điểm yếu.
Vì vậy, việc nghiên cứu về cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp của dân tộc Việt
Nam dưới sự lãnh đạo của Đảng, từ đó làm rõ những giá trị của đường lối kháng chiến
chống thực dân Pháp đối với sự phát triển của cách mạng Việt Nam, đặc biệt trong sự
nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước hiện nay là yêu cầu cần thiết.
Với những lý do trên, nhóm chọn đề tài: “Đường lối kháng chiến chống Thực dân
Pháp và giá trị đối với sự phát triển của cách mạng Việt Nam” làm bài tập lớn kết thúc
môn học.

2. Nhiệm vụ của đề tài


Một là, làm rõ bối cảnh lịch sử thế giới và Việt Nam sau Cách mạng tháng Tám và
những hành động hiếu chiến của thực dân Pháp và quá trình Đảng từng bước giải quyết
xung đột với Pháp trước khi quyết định phát động kháng chiến toàn quốc chống thực
dân Pháp (19/12/1946);
Hai là, làm rõ nội dung của đường lối kháng chiến chống thực dân Pháp của Đảng
và có những đánh giá chung về nội dung của đường lối kháng chiến đối với cách mạng
Việt Nam;
Ba là, khái quát một số kết quả của cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp dưới sự
lãnh đạo của Đảng và làm rõ giá trị của đường lối kháng chiến chống thực dân Pháp đối
với sự phát triển của cách mạng Việt Nam

5
CHƯƠNG 1:
QUÁ TRÌNH ĐẢNG TỪNG BƯỚC GIẢI QUYẾT XUNG ĐỘT VỚI
PHÁP TRƯỚC KHI QUYẾT ĐỊNH PHÁT ĐỘNG KHÁNG CHIẾN
TOÀN QUỐC CHỐNG THỰC DÂN PHÁP XÂM LƯỢC (19/12/1946)

1.1. Bối cảnh lịch sử Việt Nam sau Cách mạng tháng Tám và những hành
động hiếu chiến của thực dân Pháp

1.1.1. Bối cảnh thế giới

Đầu năm 1945, Chiến tranh thế giới lần thứ hai bước vào giai đoạn cuối. Hồng
quân Xô Viết liên tiếp giành thắng lợi quyết định trên chiến trường châu Âu, giải phóng
một loạt nước và tiến thẳng vào sào huyệt phát xít Đức tại Béc-lin. Ngày 9/5/1945, phát
xít Đức đầu hàng vô điều kiện, chiến tranh kết thúc ở châu Âu. Ngày 8/8/1945, Hồng
quân Liên Xô tiến công như vũ bão vào quân đội Nhật. Ngày 14/8/1945, phát xít Nhật
đầu hàng vô điều kiện, chiến tranh thế giới lần thứ hai kết thúc. Chính điều này đã dẫn
đến cục diện nhiều thay đổi to lớn trên thế giới đặc biệt là Việt Nam.

Bên cạnh đó, kết thúc chiến tranh thế giới lần thứ hai với chiến thắng thuộc về
Liên Xô và các nước Đồng minh. Tiếp đó từ ngày 4 đến ngày 11/2/1945, Hội nghị Yalta
được tổ chức với sự góp mặt của các nước chiến thắng cùng với đó là sự ra đời của Trật
tự hai cực Yalta. Trật tự 2 cực Yalta vào năm 1945 đã góp phần hình thành hai hệ thống
xã hội đối lập: Tư bản chủ nghĩa và Xã hội chủ nghĩa. Cùng với đó, Liên Xô với những
thành tựu xây dựng chủ nghĩa xã hội đã trở thành thành trì của chủ nghĩa xã hội. Điều
này khiến nhiều nước ở Đông, Trung Âu được nhận sự trợ giúp từ Liên Xô đã quyết
định phát triển đất nước theo chủ nghĩa xã hội. Phong trào giải phóng dân tộc ở các nước
thuộc địa Châu Á, Châu Phi và khu vực Mỹ Latinh tăng cao. Điều này đã gây ra sự
căng thẳng địa chính trị và xung đột ý thức hệ đỉnh điểm giữa hai siêu cường đồi lập:
Hoa Kỳ (chủ nghĩa tư bản) và Liên Xô (chủ nghĩa xã hội). Vào 12/3/1947, Học thuyết
Truman ra đời đánh dấu sự bắt đầu của Chiến tranh lạnh nhằm tranh giành tối đa quyền
lợi cho các nước tư bản đã tác động mạnh đến sự ổn định vừa được hình thành trên thế
giới.

6
Chiến tranh luôn mang lại những tổn thất kinh tế nặng nề đặc biệt thế giới vừa
trải qua khủng hoảng kinh tế không lâu dẫn đến các nước thua cuộc trong Chiến tranh
thế giới lần thứ hai như Pháp, Đức, Ý,... phải nương nhờ viện trợ từ Mỹ nên đã hợp tác
với Mỹ chống lại Liên Xô và các nước theo hệ thống chủ nghĩa xã hội.

Lúc này đây, phe đế quốc nuôi dưỡng âm mưu “ chia lại hệ thống thuộc địa thế
giới” để ổn định lại nền kinh tế bị tổn hại của mình đã ra sức tấn công, đàn áp phong
trào cách mạng thế giới, trong đó có cách mạng Việt Nam. Vì lợi ích cục bộ của mình,
các nước lớn không có nước nào ủng hộ lập trường độc lập và công nhận địa vị pháp lý
của Nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng Hòa. Dẫn đến nước ta nằm trong vòng vây của
chủ nghĩa đế quốc, chúng ta bị bao vây và cách biệt hoàng toàn với thế giới bên ngoài.
Điều này mang lại nhiều bất lợi, khó khăn, thử thách không chỉ cho cách mạng Việt
Nam mà còn là của cách mạng ba nước Đông Dương.

1.1.2. Bối cảnh trong nước và những hành động hiếu chiến của Pháp

Một là, Bối cảnh Việt Nam sau cách mạng tháng Tám

Ngày 19/8/1945, cuộc Cách mạng Tháng Tám thành công, dẫn đến việc thành
lập Nhà nước Việt Nam Dân Chủ Cộng hòa - Nhà nước Dân chủ Nhân dân đầu tiên ở
Đông Nam Á. Sự kiện này đã làm thay đổi căn bản cục diện cách mạng Việt Nam nhưng
chính quyền mới thành lập còn non trẻ và chế độ mới có những thuận lợi tuy nhiên vẫn
cần đối mặt với nhiều thách thức, khó khăn.

Thuận lợi đầu tiên đó là sau cuộc Chiến tranh thế giới lần thứ hai tình hình thế
giới và khu vực đã có nhiều thuận lợi hơn đối với cách mạng ở Việt Nam. Tiêu biểu như
đã có nhiều nước trên thế giới chọn phát triển theo hướng chủ nghĩa xã hội. Điều này
đồng nghĩa với việc đất nước ta, một nước cũng chọn định hướng phát triển là chủ nghĩa
xã hội, sẽ có được sự đồng tình và hỗ trợ nhiều hơn từ các nước khác trong cùng hệ
thống.

Thuận lợi tiếp theo phải kể đến là Việt Nam đã trở thành một quốc gia độc lập,
tự do dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam. Chính vì thế, chính quyền nhân
dân đã được thành lập, kéo theo đó là lực lượng vũ trang được củng cố và tăng cường
tạo điều kiện cơ sở cho cách mạng chống thực dân Pháp. Hơn hết, với tư cách là một đất

7
nước độc lập thì cuộc chiến chống Thực dân Pháp bảo vệ nền độc lập dân tộc, giải phóng
nhân dân khỏi nguy cơ bị đô hộ lần nữa của chúng ta trở thành một cuộc chiến chính
nghĩa.

Bên cạnh những thuận lợi đã nêu trên thì Việt Nam lúc bấy giờ gặp vô vàn những
khó khăn không chỉ ở mặt ngoại xâm luôn rình rập hòng đánh chiếm nước ta mà còn là
nền kinh tế kiệt quệ sau khoảng thời gian dài chiến tranh và bị các nước đế quốc đô hộ,
bóc lột. Hơn hết, các nước lớn trên thế giới không công nhận lập trường độc lập và đại
vị pháp lý của Nhà nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa. Lúc này cách mạng Việt Nam
gặp phải thách thức rất lớn.

Lúc này ở trong nước, do hệ thống chính quyền vừa mới thành lập còn non trẻ
cùng với hậu quả của chế độ cũ còn tồn tại hơn hết là nền kinh tế của nước ta đã bị tổn
thương nặng nệ sau một khoảng thời gian dài bị đô hộ và chiến tranh kéo dài. Có thể nói
đây là thời kỳ u tối của Việt Nam khi “GDP bình quân đầu người năm 1945 chỉ đạt 60
đồng, tương đương 35 USD.”1

Kinh tế, sau khoảng thời gian dài bị thực dân đô hộ kinh tế Việt Nam rơi vào kiệt
quệ. Nước ta lúc này thì nông nghiệp lạc hậu với 50% ruộng đất bị bỏ hoang; còn công
nghiệp thì đình đốn vì nhiều xí nghiệp còn nằm trong tay tư bản Pháp còn các cơ sở
công nghiệp của ta chưa kịp phục hồi sản xuất dẫn hàng hóa khan hiếm, giá cả tăng vọt,
đời sống nhân dân gặp nhiều khó khăn. Thêm vào đó nạn đói 1944, đầu năm 1945 làm
2 triệu người dân chết đói.

Tài chính, ngân sách nhà nước trống rỗng chính quyền cách mạng vẫn chưa quan
lý được Ngân hàng Đông Dương, quân Trung Hoa Dân quốc tung ra thị trường các loại
tiền đã mất giá, làm cho nền tài chính nước ta thêm rối loạn.

(07/09/2020), Những dấu ấn quan trọng về kinh tế - xã hội trong hành trình 75 năm thành lập và phát triển đất
1

nước qua số liệu thống kê, https://binhphuoc.gov.vn/vi/ctk/tin-tuc/nhung-dau-an-quan-trong-ve-kinh-te-xa-hoi-


trong-hanh-trinh-75-nam-thanh-lap-va-phat-trien-dat-nuoc-qua-so-lieu-thong-ke-
302.html#:~:text=GDP%20b%C3%ACnh%20qu%C3%A2n%20%C4%91%E1%BA%A7u%20ng%C6%B0%E1
%BB%9Di,nh%C6%B0%20gi%E1%BA%A3m%20t%C3%B4%2C%20gi%E1%BA%A3m%20t%E1%BB%A
9c., ngày truy cập: 18/10/2022

8
Văn hóa, tàn dư văn hóa lạc hậu của chế độ thực dân, phong kiến hết sức nặng
nề các hủ tục lạc hậu, thói hư, tật xấu, tệ nạn xã hội chưa được khắc phục; cùng với đó
là 95% dân số bị thất học, mù chữ.

Ngoại giao, các nước nước trên thế giới công nhận dẫn đến không có một quốc
gia hay tổ chức quốc tế nào đặt quan hệ ngoại giao việc này làm cho cách mạng ở nước
ta diễn ra khó khăn hơn khi khó có thể nhận được trợ giúp từ các nước khác.

Trong lịch sử Việt Nam chưa bao giờ đất nước ta lại tồn tại nhiều quân xâm lược
đến như vậy. khi cùng lúc có đến bốn loại quân đội Anh, Pháp, Nhật, Trung Quốc.

Với tình trạng như vậy, Việt Nam ngay từ những ngày đầu thành lập đã phải đứng
trước vô vàn những khó khăn thử thách: ngân quỹ quốc gia gần như trống rỗng, lại bị
vấn nạn thù trong giặc ngoài quấy phá, nạn đói nạn dốt đang hoành hành, vận mệnh của
dân tộc đứng trước tình thế “ngàn cân treo sợi tóc”.

Hai là, Những hành động hiếu chiến của Pháp

Tháng 6/1940, Pháp bị phát xít Đức chiếm đóng. Lợi dụng cơ hội đó, chính quyền
phát xít Nhật tăng sức ép lên chính quyền Pháp tại Đông Dương nhằm thế chân Pháp.
Ngày 30/8/1940, Pháp và Nhật kí Hiệp định chính trị Tô-ki-ô, trong đó Pháp chấp nhận
hầu hết các yêu cầu của Nhật. Và đến 09/03/1945, Nhật hạ lệnh tấn công Pháp và Pháp
đầu hàng. Đánh dấu Pháp chính thức mất Đông Dương vào tay Nhật. Như vậy mọi ký
kết giữa Pháp và Triều đình phong kiến Việt Nam hết hiệu quả.

Tiếp đó, ngay khi kết thúc chiến tranh thế giới thứ hai vào 07/1945 tại hội nghị
Potsdam của các nước chiến thắng thuộc phe Đồng Minh, hội nghị đã phân chia lại bản
đồ chính trị thế giới. Theo thỏa thuận của các nước Đồng minh, sau khi phát xít Nhật
đầu hàng, quân đội Anh và Tưởng sẽ vào Đông Dương để giải giáp quân đội Nhật. Cụ
thể, theo Tuyên bố Potsdam (26/07/1945) quân đội Trung Hoa dân quốc vào Bắc Việt
Nam từ vĩ tuyến 16 trở ra và quân đội của Liên hiệp Anh từ vĩ tuyến 16 trở vào để giải
giáp quân đội Nhật Bản. Cùng lúc đó, thực dân Pháp lăm le trở lại xâm lược nước ta
dưới sự trợ giúp của Anh. Không chỉ vậy tại Hội nghị Ianta (2/1945), Tổng thống Mỹ
nhất trí với đề nghị để các thuộc địa dưới quyền cai trị của mẫu quốc, từ đó Pháp cũng
được Mỹ ủng hộ quay trở lại tái chiếm Việt Nam nói riêng và cả Đông Dương nói chung.

9
Bên cạnh đó những phần tử phản động, ngoan cố trong chính quyền tay sai Nhật đang
âm mưu thay thầy đổi chủ, chống lại cách mạng. Như vậy Pháp không có quyền lợi gì
ở Việt Nam.

Sau thỏa thuận giải giáp quân đội Nhật ở hội nghị Potsdam, vào 13/8/1945, Bộ
Tổng Tham mưu Quân đội Anh yêu cầu Mountbatten nhanh chóng triển khai lực lượng
để thực hiện nhiệm vụ. Thế nhưng, Chính quyền của Thủ tướng Anh Clement Attlee
cho rằng thắng lợi của cách mạng ba nước Đông Dương sau Chiến tranh thế giới thứ hai
là mối đe dọa trực tiếp đối với nền thống trị của thực dân Anh .Điều này làm cho chính
quyền Anh lo ngại, do đó, ngày 24-8-1945, Anh đã kí với Pháp hiệp ước công nhận "chủ
quyền" của Pháp ở Đông Dương. Thực chất là thỏa thuận Anh ủng hộ và tạo điều kiện
cho Pháp quay trở lại thuộc địa cũ ở Đông Dương. Pháp bước đầu quay lại Miền Nam
Việt Nam.

Vào 9/1945, thực hiện theo thỏa thuận của hội nghị Potsdam, 2 vạn quân đội Anh
- Ấn tiến vào Sài Gòn để giải giáp quân đội Nhật. Thế nhưng theo công ước đã kí với
Pháp, Rạng sáng 23/09/1945, Anh trực tiếp bảo trợ và sử dụng quân đội Nhật giúp sức
quân Pháp đánh chiếm Sài Gòn - Chợ Lớn chính thức mở ra cuộc chiến tranh xâm lược
nước ta lần thứ hai.

Hình 1: Chợ Bến Thành trong ngày đầu kháng chiến chống thực dân Pháp xâm
lược, ngày 23/09/1945 (nguồn: baotanglichsu.vn)

10
Sau đó từ tháng 10/1945, khi quân Anh trao quyền lại cho Pháp, quân Pháp mở
rộng đánh chiếm toàn Nam bộ. Tiếp đó, đầu năm 1946, Jean Cédile thành lập Hội đồng
tư vấn Nam kỳ gồm 12 thành viên (có 8 người Việt) nhằm phục vụ ý đồ chính trị tách
Nam Kỳ ra khỏi Việt Nam. Sau Hiệp định Sơ bộ (6/3/1946) phái đoàn Pháp do Max
Andre dẫn đầu tiếp tục bám giữ lập trường thực dân, đòi tách Nam bộ ra khỏi Việt Nam,
không thừa nhận quyền ngoại giao độc lập của Việt Nam, nhằm lập lại chế độ thực dân
ở Đông Dương. Trước khi hội nghị Fontainebleau diễn ra, vào 1/06/1946, quân Pháp ở
Nam kỳ đơn phương công bố thành lập “Chính Phủ cộng hòa Nam kỳ tự trị”1. Ngày
5/6/1946, Chính phủ Pháp chấp thuận hành xử của D’Argenlieu nhằm đặt vấn đề Nam
kỳ vào sự đã rồi và gây áp lực cho Chính phủ Việt Nam Dân chủ cộng hòa trong đàm
phán. Tại Nam kỳ, Đại tá Cédile - đại diện Cộng hòa Pháp liền ký với tân Thủ tướng
hiệp ước nhìn nhận Nam kỳ là một xứ tự do, riêng biệt trong “liên bang Đông Dương”
thuộc Pháp.

Song song cuối tháng 8/1945, hơn 20 vạn quân đội của Tưởng Giới Thạch kéo
vào miền Bắc dưới sự bảo trợ của Mỹ với danh nghĩa thực hiện theo Tuyên bố Potsdam
giải giáp quân đội Nhật, kéo theo đó là lượng tay sai Việt Quốc, Việt Cách vào Việt
Nam. Đến đầu năm 1946, Pháp đứng trước tình hình kinh tế kiệt quệ và chính trị không
ổn định phải nhận viện trợ từ Mỹ, trở thành đồng minh đắc lực của Mỹ trong cuộc chiến
ngăn chặn “làn sóng cộng sản”. Vì thế Pháp mưu tính kế hoạch thỏa thuận với Anh, Mỹ,
Tưởng để được thay chân Tưởng, đưa quân ra miền Bắc Việt Nam. Cụ thể vào ngày
28/02/1946, Pháp đã ký Hiệp ước Hoa - Pháp được ở Trùng Khánh, một trong hai điểm
chính của hiệp ước đó là “chính phủ Trung Hoa Quốc dân đảng đồng ý cho Pháp thay

1
Lê Trúc Vinh (23/09/2021), Âm mưu của thực dân Pháp tái chiếm Nam bộ và nhân dân Nam bộ đứng lên kháng
chiến bảo vệ độc lập chủ quyền Tổ quốc,
https://www.soctrang.dcs.vn/Default.aspx?sname=tinhuy&sid=4&pageid=469&catid=54308&id=289949&catna
me=T%u01b0+t%u01b0%u1edfng&title=am-muu-cua-thuc-dan-phap-tai-chiem-nam-bo-va-nhan-dan-nam-bo-
dung-len-khang-chien-bao-ve-doc-lap, ngày truy cập: 19/10/2022

11
thế quân Trung Hoa giải giáp quân Nhật tại miền Bắc Việt Nam.”1 . Pháp chính thức
quay lại xâm lược Việt Nam một lần nữa.

Cuối năm 1946, sau khi có thêm viện binh, thực dân Pháp liên tục tiến hành các
hành động khiêu khích. Tháng 11/1946, chúng chiếm đóng Hải Phòng, Lạng Sơn, chính
thức gây ra cuộc chiến tranh xâm lược miền Bắc. Tại Hà Nội, từ đầu tháng 12/1946,
quân Pháp liên tục dùng đại bác, súng cối bắn phá vào nhiều khu phố tàn sát dân
thường... đưa quân chiếm một số trụ sở cách mạng. Đặc biệt, ngày 18 và 19/12/1946,
thực dân Pháp đã liên tiếp gửi tối hậu thư buộc Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa
phải phá bỏ công sự trong thành phố, giải tán lực lượng tự vệ, giao quyền kiểm soát Thủ
đô cho chúng. Sự kiện này được tướng Vương Thừa Vũ tường thuật: “Không khí ngột
ngạt của ngày 17-12 chưa tan thì ngày 18-12 giặc Pháp lại nã súng bắn vào nhân dân
phố Hàng Khoai, chợ Đồng Xuân. 6 giờ 40 phút, lính lê dương lại đến bao vây trụ sở
công an Hàng Đậu. 2 giờ chiều, quân Pháp chiếm đóng Nhà tài chính và trụ sở Bộ giao
thông. Đến 21 giờ 15 phút ngày 18-12, quân Pháp gửi tối hậu thư cho chính phủ ta đòi
tước vũ khí Vệ quốc đoàn, tự vệ, công an và đội trật tự an ninh trong thành phố. Nếu
sáng 20-12-1946, những điều kiện đó không được chấp thuận thì quân đội Pháp chuyển
sang hành động”.

Đây là một hành động hết sức hung hăng và không thể nhân nhượng khi ép buộc
một đất nước đã tuyên bố độc lập phải từ bỏ quân đội, từ bỏ khả năng bảo vệ, buộc phải
mở cửa cho Pháp quay lại xâm chiếm. Trong bản Tuyên ngôn Nhân quyền và Dân quyền
(1978) Pháp đã nêu “Mục đích của tất cả các tổ chức chính trị là bảo vệ các quyền tự
nhiên và bất khả xâm phạm của con người. Những quyền này là tự do, sở hữu tài sản,
an ninh và chống lại sự áp bức”2 nhưng lúc này Pháp lại trực tiếp đe dọa đến quyền tự
do, an ninh nhân dân Việt Nam và muốn một lần nữa bóc lột, khai thác kiệt quệ đất nước
ta.

1
ThS. Hoàng Thị Phương Thảo (23/02/2019), Hòa ước Hoa- Pháp tháng 02 năm 1946 và sự điều chỉnh sách
lược ngoại giao của Đảng Cộng sản Việt Nam, http://truongchinhtritinhphutho.gov.vn/khoa-xay-dung-dang/hoa-
uoc-hoa-phap-thang-02-nam-1946-va-su-dieu-chinh-sach-luoc-ngoai-giao-cua-dang-cong-san-viet-nam.html,
ngày truy cập: 18/10/2022
2
La déclaration des droits de l'homme et du citoyen, Article 2.

12
Tóm lại, những hành động trải dài từ những năm 1945 đến cuối năm 1946 đã
chứng minh rõ ràng những hành động hung hăng của Pháp khi bằng mọi cách quay trở
lại Việt Nam là vô lý và dẫn đến trận chiến này Việt Nam không phải đánh mà còn phải
thắng thực dân Pháp để thực dân Pháp nhận ra lựa chọn quay trở lại Việt Nam là sai lầm
và chúng phải trả giá cho hành động ngang ngược đó.
1.2. Quá trình Đảng từng bước giải quyết xung đột với Pháp

1.2.1. Chủ trương Đảng đưa ra để từng bước giải quyết xung đột với Pháp

Ngày 2/9/1945 Việt Nam vừa tuyên bố với thế giới về nền dân chủ độc lập của
nước ta thì rạng sáng ngày 23/9/1945, thực dân Pháp nổ súng tấn công đánh chiếm miền
Nam. Vì thế lúc này Việt Nam hai miền Nam Bắc, mỗi miền một nhiệm vụ. Miền Nam
kháng chiến chống thực dân Pháp còn miền Bắc tiếp tục công cuộc xây dựng đất nước
khắc phục hậu quả chiến tranh đồng thời làm hậu phương vững chắc cho miền Nam
kháng chiến. Nhận thức được điều này cùng với sự kiệt quệ của miền Nam khi liên tục
phải gặp chiến tranh Đảng đã quyết định làm mọi cách để có thể tránh chiến tranh, giữ
vững thành quả cách mạng, nền hòa bình, độc lập mới giành được, nhanh chóng xây
dựng thực lực mạnh về mọi mặt. Bằng cách thực hiện các khả năng hóa bình.

Đảng với sự đứng đầu là Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nhìn thấy rõ âm mưu, quyết
tâm quay trở lại thôn tính Việt Nam lần thứ hai của thực dân Pháp, bản chất của lực
lượng Đồng minh kéo vào Việt Nam; thấy rõ nguy cơ xảy ra chiến tranh giữa Việt Nam
và Pháp là khó tránh khỏi vì thế ngày 26/9/1945, qua làn sóng của Đài Tiếng nói Việt
Nam, Bác Hồ gửi lời kêu gọi: “Hỡi đồng bào Nam Bộ! Nước ta vừa tranh quyền độc
lập, thì đã gặp nạn ngoại xâm (…). Tôi chắc và đồng bào cả nước đều chắc vào lòng
kiên quyết ái quốc của đồng bào Nam Bộ (…) Chúng ta nhất định thắng lợi vì chúng ta
có lực lượng đoàn kết của cả quốc dân. Chúng ta nhất định thắng lợi vị cuộc đấu tranh
của chúng ta là chính đáng.”1

1
Tuấn Anh (22/09/2021), Nam Bộ kháng chiến - Hào khí và quyết tâm bảo vệ nền độc lập, tự do của nước
nhà,https://www.quangngai.dcs.vn/tin-oc-nhieu/-/asset_publisher/9F2li5r5FPQI/content/nam-bo-khang-chien-
hao-khi-va-quyet-tam-bao-ve-nen-oc-lap-tu-do-cua-nuoc-nha, ngày truy cập: 19/10/2022

13
Thông cáo về chính sách ngoại giao ngày 3-10-1945 của Chính phủ Lâm thời
nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, xác định rõ chính sách đối ngoại cũng phân vùng
các đối tượng như: với các nước Đồng minh thì “thành thực hợp tác”; kiều dân Pháp
“nếu tôn trọng nền độc lập của Việt Nam thì sinh mệnh và tài sản của họ sẽ được bảo vệ
theo luật quốc tế”; đối với Chính phủ De Gaulle “kiên quyết chống lại”; với các nước
láng giềng nhấn mạnh sự hợp tác và bình đẳng” và với các nước tiểu nhược trên thế giới
“hợp tác chặt chẽ, ủng hộ lẫn nhau”. Chính sách ngoại giao của Chính phủ được công
bố thể hiện tầm nhìn chiến lược, tư tưởng ngoại giao rộng mở của Đảng.

Trước tình hình đó, ngày 25/11/1945, Ban Thường vụ Trung ương Đảng ra Chỉ
thị Kháng chiến kiến quốc, chỉ rõ: Kẻ thù chính của nhân dân Đông Dương lúc này là
thực dân Pháp xâm lược, phải tập trung ngọn lửa đấu tranh vào chúng. Đồng thời khẳng
định tính chất cách mạng Đông Dương lúc này là cách mạng dân tộc giải phóng điều
này yêu cầu cần mở rộng Mặt trận Việt Minh. Chỉ thị cũng xác định mục tiêu tranh thủ
tập trung xây dựng, kiến thiết miền Bắc trên mọi lĩnh vực kinh tế, chính trị, quân sự, văn
hóa, xã hội, hoàn thiện Chính phủ, thể chế nhà nước... và kiên trì chủ trương ngoại giao
với các nước theo nguyên tắc “bình đẳng và tương trợ”, làm cho đất nước ít kẻ thù và
nhiều bạn đồng minh hơn.

Trong thời gian này, thực dân Pháp vừa tiến công mở rộng chiếm đóng từ Sài
Gòn ra các tỉnh Nam Bộ và Nam Trung Bộ, vừa khẩn trương tiếp xúc, đàm phán với
quân Trung Hoa Dân Quốc đang làm nhiệm vụ tước vũ khí quân Nhật đầu hàng ở phía
Bắc vĩ tuyến 16 để tìm cách đưa quân ra miền Bắc.

Trước việc thực dân Pháp thỏa thuận với Trung hoa Dân quốc ký Hiệp ước Pháp
- Hoa, ngày 3/3/1946, Ban Thường vụ Trung ương Đảng ra Chỉ thị Tình hình và chủ
trương, Chỉ thị phân tích những thuận lợi, khó khăn ở trong nước, ngoài nước và chỉ ra
rằng: "Vấn đề lúc này, không phải là muốn hay không muốn đánh. Vấn đề là biết mình
biết người, nhận một cách khách quan những điều kiện lời lãi trong nước và ngoài nước
mà chủ trương cho đúng”.

Trước Hiệp ước Pháp - Hoa tuy giúp chúng ta loại bỏ một kẻ thù nhưng cũng
đồng thời vi phạm nghiêm trọng chủ quyền, độc lập của ta. Lúc này đặt ra vấn đề là

14
chúng ta nên đánh hay nên hòa hoãn với Thực dân Pháp để có lợi nhất. Đảng nhận thức
thực lực hiện tại cuối cùng quyết định hòa với Pháp để có thể phá tan âm mưu của chủ
nghĩa đế quốc và bọn phản động, bảo toàn được lực lượng, đồng thời giành được thời
gian để chuẩn bị cuộc chiến đấu mới, tiến đến giành độc lập hoàn toàn. Chỉ thị cũng chỉ
rõ cần tranh thủ thực hiện các công việc cụ thể trong thời gian hoà hoãn với Pháp: diệt
bọn phản động bên trong, tay sai của Tàu trắng; liên lạc mật thiết với Đảng Cộng sản
Pháp để cùng đấu tranh; tích cực mở rộng tuyên truyền quốc tế để tranh thủ sự ủng hộ;
tập trung giải quyết vấn đề dân sinh… Đồng thời nhấn mạnh: “Điều cốt tử là trong khi
mở cuộc đàm phán với Pháp, không những không ngừng một phút công việc sửa soạn,
sẵn sàng kháng chiến bất cứ lúc nào và ở đâu, mà còn hết sức xúc tiến việc sửa soạn ấy
và nhất định không để cho việc đàm phán với Pháp làm nhụt tinh thần quyết chiến của
dân tộc ta”1.

Ban Chấp hành Trung ương Đảng họp mở rộng, nhất trí chủ trương Hòa để tiến,
quyết định tạm hòa hoãn với thực dân Pháp, nhất trí ký với Pháp Hiệp định sơ bộ
6/3/1946 (giữa đại diện Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng Hòa là Hồ Chí Minh và đại
diện Chính phủ Pháp là Jean Sainteny). Đảng xác định hòa với Pháp để tránh tình hình
bất lợi khi chiến đấu cùng lúc với nhiều lực lượng phản động trong khi các lực lượng
hòa bình, tự do và tiến bộ chưa thể giúp sức chúng ta. Hơn hết để có thêm thời gian
chuẩn bị lực lượng, củng cố vị trí mới chiếm được, chấn chỉnh đội ngũ cách mạng,..
nhằm sẵn sàng tiến lên giai đoạn tiếp theo.

Theo Hiệp định Sơ bộ, Chính phủ Pháp công nhận nước Việt Nam Dân chủ Cộng
hòa là một quốc gia tự do nằm trong khối liên hiệp Pháp. Nước Việt Nam có Chính phủ,
nghị viện, quân đội và tài chính riêng. Việc thống nhất đất nước sẽ được quyết định bằng
trưng cầu ý dân. Chính phủ Việt Nam đồng ý để 15.000 quân Pháp vào thay quân Tưởng.
Quân Pháp phải rút khỏi Việt Nam sau 5 năm, mỗi năm rút một phần năm. Quân đội hai

1
Ngô Thúy Mai (11/03/2020), Hiệp định Sơ bộ - Sự lựa chọn sáng suốt của Đảng trong sách lược ngoại giao
thời kỳ 1945-1946, https://truongchinhtri.kontum.gov.vn/vi/news/nghien-cuu-trao-doi/hiep-dinh-so-bo-su-lua-
chon-sang-suot-cua-dang-trong-sach-luoc-ngoai-giao-thoi-ky-1945-1946-
63.html#:~:text=%E2%80%9C%C4%90i%E1%BB%81u%20c%E1%BB%91t%20t%E1%BB%AD%20l%C3%
A0%20trong,t%E1%BB%99c%20ta%E2%80%9D%5B5%5D, ngày truy cập 30/10/2020

15
bên ngừng bắn và ở nguyên vị trí. Hai bên sẽ mở cuộc đàm phán tại một trong ba nơi:
Hà Nội, Sài Gòn hoặc Paris.

Ngày 9/3/1946, Ban Thường vụ Trung ương Đảng ra Chỉ thị Hòa để tiến. Chỉ thị
khẳng định đây là thắng lợi bước đầu, là giải pháp mang tính tình thế của Đảng, cần tận
dụng thời gian hòa hoãn để tiếp tục xây dựng thực lực để mau tiến tới giành độc lập
hoàn toàn. Chỉ thị giải thích lý do ký Hiệp định, hòa với Pháp để “Tránh tình thế bất lợi:
phải cô lập chiến đấu cùng một lúc với nhiều lực lượng phản động…”[3].

Hiệp định Sơ bộ chỉ là thỏa thuận tạm thời, quan hệ giữa hai nước phải do một
hiệp định chính thức quy định. Vì thế, Hiệp định Sơ bộ có lưu ý hai nước Việt Nam và
Pháp cần tiếp tục đàm phán để ký hiệp định chính thức. Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh
chủ trương tìm mọi cách hòa hoãn, đẩy lùi nguy cơ chiến tranh.

Sau khi Hội nghị trù bị Việt - Pháp (từ 19/4 đến 10/5) tại Đà Lạt tan vỡ do lập
trường hiếu chiến của thực dân Pháp, phía Việt Nam đã chủ động tổ chức một phái đoàn
Quốc hội mới của Việt Nam sang thăm thiện chí, hữu nghị Quốc hội và nhân dân Pháp
từ cuối tháng 4 đến cuối tháng 5.
Sau khi hội nghị Fontainebleau thất bại, ngày 14/09/1946, chủ tịch Hồ Chí
Minh đã ký với đại diện chính phủ Pháp Marius Moutet bản Tạm ước Việt - Pháp,
đồng ý nhân nhượng cho Pháp một số quyền lợi kinh tế - văn hóa, đổi lại cam kết đình
chiến và tiếp tục đàm phán chậm nhất vào tháng 1/1947. Tuy nhiên, tình hình vẫn căng
thẳng trước dã tâm của Thực dân Pháp thể hiện qua các tuyên bố và hành động sau khi
đã có Tạm ước.
Mặc dù đã ký Hiệp định Sơ bộ (6/3/1946) và Tạm ước (14/9/1946), nhưng thực
dân Pháp không nghiêm túc thực hiện mà ra sức khiêu khích, phá hoại: ngày 20/11/1946,
Pháp mở cuộc tấn công đánh chiếm Hải Phòng, Lạng Sơn và đổ bộ lên Đà Nẵng. Tháng
12/1946, quân đội Pháp bắt đầu phát động cuộc chiến nhằm đánh chiếm Hà Nội, tiêu
diệt Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Ngày 17/12/1946, Pháp gây ra vụ thảm
sát ở phố Hàng Bún, chiếm đóng trụ sở chính Bộ Tài chính, Bộ Giao Thông công chính.
Trong 2 ngày 18 và 19/12/1946, Pháp liên tiếp gửi ba tối hậu thư đòi Việt Nam giải tán
đội tự vệ tại Hà Nội, đình chỉ mọi hoạt động kháng chiến, trao cho quân đội Pháp việc

16
duy trì an ninh trong thành phố, nếu không, chậm nhất ngày 20 chúng sẽ bắt đầu hành
động.
Bất chấp mọi thiện chí hòa bình của Chính phủ Việt Nam, thực dân Pháp liên tiếp
vi phạm các điều khoản trong các Hiệp định, Tạm ước đã ký kết và hành động của thực
dân Pháp khiến chúng ta không thể nhân nhượng hơn được nữa. Ngày 12/12/1946 Chỉ
thị Toàn dân kháng chiến được Ban Thường vụ Trung ương Đảng đưa ra. Đặc biệt, hai
ngày 18, 19/12/1946, thực dân Pháp liên tục gửi tới Chính phủ Việt Nam ba tối hậu thư,
nội dung lên án Việt Nam không đảm bảo việc an ninh trật tự và đe dọa phía Pháp sẽ tự
đảm bảo việc trị an Hà Nội, yêu cầu tước vũ khí của tự vệ Hà Nội. Nếu các yêu cầu của
phía Pháp không được đáp ứng, quân Pháp sẽ chuyển sang hành động. Như vậy, mọi
thiện chí để đẩy lùi nguy cơ chiến tranh của Chính phủ Hồ Chí Minh đã không được
phía Pháp đáp lại.
Trước thực tế, “Sự thật rõ ràng, bọn thực dân Pháp muốn cướp nước ta một lần
nữa”1 Thực dân Pháp buộc ta phải tiến hành kháng chiến. Ngày 19/12/1946, Chủ tịch
Hồ Chí Minh đọc Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến trên hệ thống loa phát thanh Hà
Nội. Cuộc kháng chiến toàn quốc bùng nổ.
Lời kêu gọi Toàn quốc kháng chiến thể hiện rõ quan điểm, chủ trương của Việt
Nam, là sự cụ thể hóa đường lối cuộc kháng chiến toàn dân, toàn diện, lâu dài, dựa vào
sức mình là chính, khẳng định ý chí, niềm tin, quyết tâm chiến đấu vì hòa bình, độc lập
tự do của cả dân tộc, là lời hiệu triệu toàn dân đứng lên kháng chiến chống thực dân
Pháp xâm lược.

1.2.2. Nhận xét chung:


Về phía thực dân Pháp
Pháp là thủ phạm gây ra cuộc chiến tranh xâm lược Đông Dương, song Mỹ và Anh
cũng phải chịu một phần trách nhiệm trong hành động tiếp tay cho Pháp. Thực dân Pháp
chưa khi nào từ bỏ dã tâm xâm chiếm nước ta. Chúng ráo riết hành động để có thể nhanh
chóng quay lại Việt Nam dưới sự giúp đỡ, tiếp tay của Anh và Mỹ. Chúng khiêu khích,
gây hấn, gây sức ép về chính trị và lấn tới về quân sự. Chúng ra sức phá hoại, xuyên tạc
Hiệp định sơ bộ, tìm mọi cách trì hoãn hội nghị chính thức, không thực hiện nghiêm túc

1
Đảng Cộng sản Việt Nam (2000), Văn kiện Đảng Toàn tập, tập 8, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, tr. 158.

17
các điều khoản đã thỏa thuận, hậu thuẫn cho các thế lực phản động ly khai, đưa ra những
yêu sách không thể chấp nhận được.
Về phía Việt Nam
Trước những hành động hiếu chiến của thực dân Pháp, chính phủ Việt Nam, với
thiện chí hòa bình, mong muốn giải quyết xung đột bằng con đường thương lượng, đã
kiên trì đàm phán với Pháp từ ký kết hiệp định Sơ bộ, tham gia hội nghị trù bị, hội nghị
chính thức ở Fontainebleau, ký bản Tạm ước 14/9/1946, nhân nhượng cho Pháp rất
nhiều quyền lợi về kinh tế, văn hóa. Điều đó cho thấy được thiện chí hòa bình của dân
tộc Việt Nam, thể hiện một chủ trương nhất quán rằng trong bất cứ hoàn cảnh nào chúng
ta cũng không muốn xảy ra chiến tranh, chỉ bảo vệ nền hòa bình, độc lập, tự do.
Nhận định về quyết định phát động cuộc kháng chiến của Đảng
Hành động của Pháp đã chứng tỏ khả năng hòa hoãn là không còn, nguy cơ chiến
tranh là không thể tránh khỏi. Mọi nhân nhượng của Chính phủ và nhân dân Việt Nam
đã đến giới hạn cuối cùng. Đảng đã đánh giá đúng đắn mức độ nghiêm trọng của tình
hình, kịp thời đề ra chủ trương đối phó và đưa ra quyết định phát động kháng chiến toàn
dân. Nhân dân Việt Nam đấu tranh chống Pháp, là cuộc chiến tranh chính nghĩa, bảo vệ
hòa bình, chống lại kẻ thù xâm lược. Mặt khác, sau quá trình thục hiện hòa hoãn với
Pháp, ta đã chuẩn bị các điều kiện cần thiết để sẵn sàng cho chiến tranh. Vì lẽ đó, quyết
định phát động cuộc kháng chiến của Đảng là một quyết định đúng đắn, kịp thời, giúp
ta giành thế chủ động trong chiến tranh, phá tan ngay từ đầu âm mưu đánh úp của thực
dân Pháp, là điểm xuất phát cơ bản cho mọi thắng lợi về sau của cuộc kháng chiến.
TIỂU KẾT CHƯƠNG 1

Sau cách mạng Tháng Tám, trên thế giới với sự hình thành của hai hệ thống chính
trị đối nghịch nhau dẫn đến sự đối kháng nhau về nhiều mặt, các nước đế quốc thực dân
ra sức đàn áp các phong trào cách mạng. Trong đó có thực dân Pháp với âm mưu một
lần nữa quay lại đánh chiếm Việt Nam qua hàng loạt các hành động hiếu chiến, ngang
ngược. Cụ thể, dưới sự hậu thuẫn của Anh và Mỹ Pháp quay trở lại xâm lược miền Nam
bằng mọi thủ đoạn từ quân sự đến chính trị thậm chí là trao đổi quyền lợi với Trung Hoa
để đưa quân ra Bắc mở rộng chiến tranh ở Việt Nam.. Lúc này Việt Nam trong tình thế
ngàn cân treo sợi tóc khi vừa phải khắc phục hậu quả chiến tranh và hủ tục phong kiến
lạc hậu vừa phải trong tình thế sẵn sàng một lần nữa kháng chiến giành độc lập.

18
Ngay từ ngày 23/9/1945, Pháp đã gây hấn ở Sài Gòn và đưa chiến tranh lan rộng
khắp miền Nam. Bằng tất cả khả năng có thể, Chủ tịch Hồ Chí Minh và Trung ương
Ðảng ta đã tìm mọi cách để giữ gìn hòa bình từ Hiệp ước Hoa - Pháp (2/1946), Hiệp
định sơ bộ (3/1946), đến Hội nghị trù bị 4/1946, Hội nghị chính thức (7/1946), Bản Tạm
ước (9/1946). Trong khi Chính phủ và nhân dân Việt Nam nghiêm chỉnh thực hiện thì
thực dân Pháp ra sức thực hiện âm mưu khiêu khích, ngoan cố bám giữ lập trường thực
dân, không chịu công nhận nền độc lập, thống nhất của nước Việt Nam. Lúc này, âm
mưu xâm lược Việt Nam một lần nữa đã lộ rõ. Nhưng tất cả thiện chí ấy đều không được
người Pháp đáp lại, khiến ta không thể nào nhân nhượng hơn nữa. “Chúng ta muốn hòa
bình, chúng ta phải nhân nhượng. Nhưng chúng ta càng nhân nhượng, thực dân Pháp
càng lấn tới, vì chúng quyết tâm cướp nước ta lần nữa!”1.

Quyết định phát động cuộc kháng chiến chống Pháp của Đảng là quyết định đúng
đắn trước thời điểm lịch sử này.

1
Hồ Chí Minh (2011), Toàn tập, tập 4, Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà Nội, tr. 534.

19
CHƯƠNG 2
ĐƯỜNG LỐI KHÁNG CHIẾN CHỐNG THỰC DÂN PHÁP VÀ GIÁ TRỊ
ĐỐI VỚI SỰ PHÁT TRIỂN CỦA CÁCH MẠNG VIỆT NAM

2.1. Đường lối kháng chiến chống thực dân Pháp

2.1.1. Nội dung

Việt Nam lúc bấy giờ đang ở tình thế bất lợi khi tương quan lực lượng yếu hơn
Pháp về nhiều mặt.

Quân sự, Việt Nam trang bị vũ khí còn nghèo nàn, thô sơ trong khi đó quân đội
Pháp được trang bị vũ khí tối tân với quân đội lành nghề.

Kinh tế, kinh tế của nước ta lúc ấy bị tổn thương trầm trọng chưa kịp hồi phục,
lại còn phải gánh chịu những hậu quả nặng nề từ chiến tranh kéo dài mang lại đặc biệt
sau những chính sách khai thác kiệt quệ của Pháp. Trong khi đó quân đội thực dân Pháp
có sự hậu thuẫn lớn mạng từ mẫu quốc, là một đất nước giàu có, cùng với đó Pháp còn
nắm trong tay ngân hàng Đông Dương.

Chính trị, chính quyền nước ta vừa thành lập còn non trẻ, chưa có nhiều kinh
nghiệm lãnh đạo. Đất nước ta đang trong hoàn cảnh ngặt nghèo, bị vây bốn phía, chưa
được nước nào công nhận, giúp đỡ. Đối ngược với chúng ta là đế quốc Pháp hùng mạnh,
có được sự ủng hộ của Anh, Mỹ.

Tuy nhiên nước ta vẫn có những điểm thuận lợi là lợi thế địa hình, chúng ta có
hậu phương ngay bên cạnh luôn đồng hành cùng và hơn hết là tinh thần đoàn kết chống
giặc với tinh thần “quyết tử cho tổ quốc quyết sinh”. Trong bối cảnh lịch sử đã yêu cầu
Đảng phải vạch ra đường lối kháng chiến đúng đắn dẫn dắt cuộc kháng chiến dẫn đến
thắng lợi.

Đường lối kháng chiến của Đảng được thể hiện tập trung trong ba văn kiện lớn
được công bố vào trước và sau ngày cuộc kháng chiến bùng nổ. Các văn kiện đó lần
lượt là Toàn dân kháng chiến của Trung ương Đảng (12-12-1946), Lời kêu gọi toàn

20
quốc kháng chiến của Hồ Chí Minh (19-12-1946) và tác phẩm Kháng chiến nhất định
thắng lợi của Trường Chinh.

Nội dung cơ bản của đường lối kháng chiến là kháng chiến toàn dân, toàn diện,
trường kỳ, tự lực cánh sinh và tranh thủ sự giúp đỡ của quốc tế. Đường lối đó được thể
hiện nhiều trong ba văn kiện được nêu ở trên.

Mục tiêu chính của kháng chiến là chống thực dân Pháp, đây chính là nhiệm vụ
thiết yếu lúc bấy giờ bởi chúng ta mới giành lại được chính quyền sau gần 100 năm. Chỉ
khi đánh bại Pháp đất nước ta mới giành được quyền độc lập, tự do.

Tính chất của cuộc kháng chiến, cuộc kháng chiến có hai tính chất là dân tộc giải
phóng và dân chủ mới. Dân tộc giải phóng tức là giải phóng dân tộc ta khỏi Pháp. Dân
chủ mới là cuộc kháng chiến của chúng ta là cuộc kháng chiến vì tự do, độc lập, xoá bỏ
chế độ thực dân trên đất nước ta.

Nhiệm vụ kháng chiến: động viên nhân lực, vật lực thực hiện kháng chiến toàn
dân, toàn diện, trường kỳ. Giành quyền độc lập, bảo toàn lãnh thổ, thống nhất Tổ quốc.
Củng cố chế độ dân chủ cộng hòa, tăng gia sản xuất, thực hiện kinh tế tự túc.

Phương châm tiến hành kháng chiến: tiến hành cuộc chiến tranh nhân dân, thực
hiện kháng chiến toàn dân, toàn diện, lâu dài, dựa vào sức mình là chính.

Thứ nhất, kháng chiến toàn dân chính là huy động toàn dân tham gia kháng chiến.
Mỗi người dân là một người lính, mỗi làng xóm là một pháo đài, mỗi khu phố là một
trận địa; đánh giặc bằng mọi vũ khí trong có trong tay. Đảng đưa ra phương châm “kháng
chiến toàn dân” bởi vì sau khi xem xét chênh lệch tương quan giữa quân ta và thực dân
Pháp rất lớn, Đảng đã nhận định rằng chúng ta không phát động cuộc chiến tranh thông
thường mà phát động cuộc chiến tranh nhân dân. Đánh Pháp ở cả phía trước và phía sau;
đánh giặc không chỉ dựa vào lực lượng quân đội mà còn dựa vào lực lượng của toàn
dân, có lực lượng ba thứ quân làm nòng cốt (bộ đội chủ lực, bộ đội địa phương, dân
quân du kích).

21
Thứ hai, kháng chiến toàn diện là kháng chiến trên tất cả các mặt trận: chính trị,
văn hoá, xã hội. Đảng ta phải thực hiện kháng chiến trên nhiều mặt như vậy để chống
lại âm mưu của Pháp, cũng như xây dựng hậu phương vững mạnh, đảm bảo nguồn lực
cho chiến tranh.

Về chính trị, Pháp đã thực hiện các âm mưu chia rẽ dân tộc, chia rẽ tôn giáo,
thành lập chính quyền tay, thành lập các đảng phái chính trị phản động để gây khó khăn
cho nhà nước ta. Vì thế chúng ta phải thực hiện đoàn kết toàn dân, tăng cường xây dựng
Đảng, chính quyền, các đoàn thể nhân dân; đoàn kết với Miên, Lào và các dân tộc yêu
chuộng tự do, hòa bình. Mặt trận quân sự là mặt trận rất quan trọng, chiến tranh càng
phát triển thì vai trò của lực lượng quân sự và đấu tranh quân sự ngày càng trở nên quan
trọng.

Về quân sự, thực hiện vũ trang toàn dân, xây dựng lực lượng vũ trang nhân dân,
tiêu diệt địch, giải phóng nhân dân và đất đai, thực hiện du kích chiến tiến lên vận động
chiến, đánh chính quy, là “triệt để dùng du kích, vận động chiến. Bảo toàn thực lực,
kháng chiến lâu dài… vừa đánh vừa võ trang thêm; vừa đánh vừa đào tạo thêm cán bộ”.

Về kinh tế, Pháp đã tàn phá nền kinh tế kháng chiến, vơ vét sức người, sức của
phục vụ chiến tranh. Đảng thực hiện chính sách tiêu thổ kháng chiến, xây dựng kinh tế
tự cấp, tập trung phát triển nền nông nghiệp, thủ công nghiệp, thương nghiệp và công
nghiệp quốc phòng .

Về văn hóa, xóa bỏ văn hóa thực dân phong kiến , xây dựng nền văn hóa dân chủ
theo ba nguyên tắc: dân tộc, khoa học, đại chúng. Sở dĩ có chính sách này vì Pháp đã
thực hiện âm mưu thủ đoạn gieo rắc văn hoá thực dân, tuyên truyền xuyên tạc chính
sách của Đảng và nhà nước ta. Đất nước ta đã bị cô lập về mặt ngoại giao.

Về ngoại giao, Đảng thực hiện thêm bạn, bớt thù, biểu dương thực lực. “Liên
hiệp với dân tộc Pháp, chống phản động thực dân Pháp”, sẵn sàng đàm phán nếu Pháp
công nhận Việt Nam độc lập,… Thực hiện kháng chiến trên tất cả mọi mặt giúp đảng ta
đối phó được với những âm mưu của Pháp; xây dựng một hậu phương vững mạnh, đảm
bảo nguồn lực vững chắc cho chiến tranh, đồng thời tranh thủ sự ủng hộ quốc tế.

22
Thứ ba là Đảng quyết định chọn kháng chiến trường kỳ. Đây là phương châm
quan trọng nhất của cuộc kháng chiến. Đánh nhanh thắng nhanh vốn là sở trường của
thực dân Pháp. Pháp thực hiện chiến lược đánh nhanh thắng nhanh bởi cuộc chiến tranh
Việt Nam là một cuộc chiến tranh phi nghĩa, cần phải đánh nhanh để tránh bị quốc tế
can thiệp. Chiến lược này cũng làm phát huy được ưu thế của quân đội Pháp và phương
tiện chiến tranh hiện đại của họ. Đánh nhanh thắng nhanh cũng giúp cho Pháp tiết kiệm
được chi phí chiến tranh và sớm hoàn thành được mục tiêu xâm lược thuộc địa để khai
thác về kinh tế. Trong khi đó tương quan lực lượng giữa quân ta và Pháp quá chênh lệch,
chúng ta cần có thời gian để thay đổi dần dần tương quan lực lượng, xây dựng hậu
phương vững mạnh cho cuộc chiến. Đảng ta cũng vận động thêm sự ủng hộ của quốc
tế. Chúng ta cần phải buộc quân Pháp đánh theo cách của Việt Nam. Để kháng chiến có
thể thắng lợi, chúng ta cần biến cuộc kháng chiến thành một cuộc kháng chiến trường
kỳ, nỗ lực giành thắng lợi từng bước, từng bước thay đổi tương quan lực lượng giữa
quân ta và Pháp, tiến lên tranh thủ thời cơ, giành thắng lợi quyết định về quân sự, kết
hợp giải pháp ngoại giao để kết thúc cuộc kháng chiến.

Cuối cùng là chúng ta phải biết tự lực cánh sinh, dựa vào sức mình là chính “phải
tự cấp, tự túc về mọi mặt” và khi có điều kiện ta sẽ tranh thủ tối đa sự giúp đỡ của các
nước, song không được ỷ lại. Chúng ta phải tự lực cánh sinh bởi lẽ trong thời gian đầu
của cuộc kháng chiến, Việt Nam đang trong tình thế bị bao vây, bị cô lập, chưa có một
nước nào đặt quan hệ ngoại giao, không có sự viện trợ quốc tế. Hơn nữa, chúng ta không
thể bị động trông chờ vào sự giúp đỡ từ bên ngoài bởi nền độc lập của dân tộc thì chính
chúng ta phải tự mình hoàn thành sứ mệnh giải phóng dân tộc, đưa cuộc kháng chiến
chắc chắn hơn tiến tới thắng lợi. Bên cạnh đó, tự lực cánh sinh, tự dựa vào sức mình
nhưng không nên coi nhẹ sự giúp đỡ từ bên ngoài, cần phải tích cực vận động quốc tế,
tranh thủ sự giúp đỡ quốc tế về cả vật chất, tinh thần.

Đường lối kháng chiến của Đảng là đường lối chiến tranh nhân dân, là ngọn cờ
cổ vũ toàn Đảng. Đó là xuất phát điểm cho mọi thắng lợi của cuộc kháng chiến.

23
2.1.2. Đánh giá chung

Đảng đã thành công trong việc vạch ra đường lối kháng chiến rõ ràng và đúng
đắn trong bối cảnh lịch sử bấy giờ, đã dẫn dắt dân tộc ta hoàn thành nhiệm vụ đánh đuổi
thực dân Pháp, giành được chính quyền. Thắng lợi này đến từ việc Đảng đã vận dụng
đúng đắn chủ nghĩa Mác Lênin và sáng tạo điều chỉnh cho phù hợp với tình hình của đất
nước ta. Đảng đã phân tích đúng hoàn cảnh xã hội, biết được nhiệm vụ cần được ưu tiên
hoàn thành là giải phóng dân tộc chứ không phải vấn đề giai cấp. Đường lối kháng chiến:
kháng chiến trường kỳ, toàn dân, toàn diện, tự lực cánh sinh đã khơi dậy tinh thần, khí
phách và phát huy sức mạnh đại đoàn kết dân tộc, mọi nguồn lực sáng tạo của các tầng
lớp nhân dân tập trung chống giặc ngoại xâm; vận dụng được lợi thế của đất nước ta
chính là lòng yêu nước của nhân dân ta - một truyền thống tốt đẹp của người Việt Nam.
Đường lối kháng chiến của Đảng là đường lối kháng chiến là ngọn đèn soi sáng, dẫn dắt
nhân dân ta vượt qua mọi khó khăn.

2.2. Giá trị đối với sự phát triển của cách mạng Việt Nam

2.2.1. Khái quát một số kết quả của cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp
Về chính trị, Đảng ra hoạt động công khai đã có điều kiện kiện toàn tổ chức, tăng
cường sự lãnh đạo đối với cuộc kháng chiến. Bộ máy chính quyền 5 cấp được củng cố
từ Trung ương đến Cơ sở. Mặt trận Liên hiệp quốc dân Việt Nam (Liên Việt) được thành
lập. Khối đại đoàn kết toàn dân phát triển lên một bước mới. Các chính sách được Đảng
triển khai, đặc biệt là chính sách ruộng đất, thực hiện khẩu hiệu người cày có ruộng.
Về quân sự, đến cuối năm 1952, lực lượng chủ lực đã có sáu đại đoàn bộ binh,
một đại đoàn công binh - pháo binh. Thắng lợi của các chiến dịch Trung du, Đường 13,
Hà-Nam-Ninh, Hòa Bình, Tây Bắc, Thượng Lào, v.v. đã tiêu diệt được nhiều sinh lực
địch, giải phóng nhiều vùng đất đai và dân cư, mở rộng vùng giải phóng của Việt Nam
và giúp đỡ cách mạng Lào,... Chiến thắng Điện Biên Phủ ngày 7-5-1954 được ghi vào
lịch sử dân tộc ta, đập tan hoàn toàn kế hoạch Na va của Pháp-Mỹ, giáng một đòn quyết
định vào ý chí xâm lược của thực dân Pháp, làm xoay chuyển cục diện chiến tranh ở
Đông Dương tạo điều kiện thuận lợi cho cuộc đấu tranh ngoại giao của ta giành thắng
lợi.

24
Về ngoại giao, với phương châm kết hợp đấu tranh chính trị, quân sự và ngoại
giao. Khi biết tin Pháp có ý định đàm phán, thương lượng với ta, ngày 27-12-1953, Ban
Bí thư ra Thông tư nêu rõ nhân dân Việt Nam kiên quyết kháng chiến đến thắng lợi cuối
cùng, nhưng vẫn thương lượng với thiện chí hòa bình nhằm giải quyết vấn đề hòa bình
ở Việt Nam. Ngày 8-5-1954, Hội nghị quốc tế về chấm dứt chiến tranh Đông Dương
chính thức khai mạc tại Giơ-ne-vơ (Thụy Sĩ). Sau 75 ngày đàm phán cùng 8 phiên họp
rộng và 23 phiên họp hẹp cùng các hoạt động tiếp xúc ngoại giao dồn dập đằng sau các
hoạt động công khai. Ngày 21-7-1954, các văn bản của Hiệp định Giơnevơ về chấm dứt
chiến tranh, lập lại hòa bình ở Đông Dương, được ký kết, cuộc kháng chiến chống thực
dân Pháp xâm lược của quân dân ta kết thúc thắng lợi.
Thắng lợi của cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược đã khẳng định:
một dân tộc dù nhỏ, song nếu biết đoàn kết, phát huy sức mạnh toàn dân tộc thì có thể
đánh bại mọi kẻ thù xâm lược. Đó là quy luật cơ bản nhất, bao trùm nhất để giành thắng
lợi trong kháng chiến của dân tộc ta. Nó cũng thể hiện tập trung nhất nghệ thuật tổ chức,
động viên, phối hợp các lực lượng, các hình thức và phương pháp đấu tranh, tạo nên sức
mạnh tổng hợp để đánh thắng kẻ thù xâm lược.
Thắng lợi đó đã cổ vũ mạnh mẽ phong trào giải phóng dân tộc trên thế giới; mở
rộng địa bàn, tăng thêm lực lượng cho chủ nghĩa xã hội và cách mạng thế giới, cùng với
nhân dân Lào và Campuchia đập tan ách thống trị của chủ nghĩa thực dân ở ba nước
Đông Dương, mở ra sự sụp đổ của chủ nghĩa thực dân cũ trên thế giới, trước hết là hệ
thống thuộc địa của thực dân Pháp.

2.2.2. Giá trị của đường lối kháng chiến chống thực dân Pháp của Đảng

Thứ nhất, Đối với cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ, thống
nhất Tổ quốc
Đường lối kháng chiến chống thực dân Pháp là một bộ phận quan trọng của
đường lối cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân của. Đó là đường lối tiếp tục hoàn thành
sự nghiệp giải phóng dân tộc bằng chiến tranh cách mạng, trong điều kiện nhân dân ta
đã giành được chính quyền để tiến lên chủ nghĩa xã hội. Trong một thời gian ngắn và
trong bối cảnh lịch sử đầy khó khăn, phức tạp, Đảng ta đã dựa vào đường lối cách mạng
và kinh nghiệm đấu tranh giải phóng dân tộc sớm đề ra được những vấn đề cơ bản của

25
đường lối kháng chiến chống thực dân Pháp. Đường lối kháng chiến của Đảng được
công bố sớm đã có tác dụng đưa cuộc kháng chiến nhanh chóng đi vào ổn định và phát
triển đúng hướng, từng bước đi tới thắng lợi vẻ vang. Đảng ta và Chủ tịch Hồ Chí Minh
luôn luôn khẳng định sức mạnh của cách mạng và chiến tranh là nhân dân. Đảng đã xây
dựng quyết tâm chiến đấu cho toàn dân và củng cố niềm tin vào thắng lợi của cuộc chiến
đấu ấy. Chủ trương kháng chiến toàn dân đã huy động lực lượng tổng hợp của cả dân
tộc vào cuộc chiến đấu. Nhờ vậy, Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh đã xây dựng được
khối đại đoàn kết toàn dân tộc, phát huy cao độ được lòng yêu nước, chí căm thù giặc,
tinh thần chiến đấu kiên cường, bất khuất của toàn dân, toàn quân, quyết chiến, quyết
thắng chống lại kẻ thù xâm lược. Cho nên ta càng đánh càng mạnh, càng giành thắng lợi
lớn, để cuối cùng làm nên một Điện Biên Phủ chấn động địa cầu, kết thúc oanh liệt cuộc
kháng chiến thần thánh của dân tộc ta. Đường lối kháng chiến toàn dân là sự kế thừa và
nâng lên tầm cao mới tư tưởng quân sự truyền thống của tổ tiên ta, là sự vận dụng lý
luận chiến tranh cách mạng của chủ nghĩa Mác – Lênin vào hoàn cảnh cụ thể của nước
ta.
Kế thừa kinh nghiệm trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp, nghệ thuật
quân sự và chiến tranh nhân dân Việt Nam trong cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước
dưới sự lãnh đạo của Đảng đã phát triển tới đỉnh cao. Phát huy tinh thần toàn quốc kháng
chiến, Đảng ta đã phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc, kết hợp với sức mạnh
của thời đại trong hoạch định đường lối chiến tranh nhân dân, thực hiện tốt việc chuẩn
bị về lực lượng, về thế trận, cách đánh,… đặc biệt, đã phát huy cao độ sức mạnh chính
trị - tinh thần, tư tưởng chiến lược cách mạng tiến công, tạo sức mạnh tổng hợp, lập nên
những chiến công oanh liệt, giải phóng hoàn toàn miền Nam, thống nhất đất nước.
Trải qua ba thập kỷ vận dụng vào thực tế đấu tranh giải phóng dân tộc, đường lối
quân sự của Đảng hình thành và không ngừng phát triển từng bước. Qua thực tiễn phong
phú của Cách mạng Tháng Tám và hai cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ,
đường lối đó ngày càng trở nên hoàn chỉnh và trở thành một trong những yếu tố quyết
định nhất trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc hiện nay. Ngày nay, đất nước
đang trong quá trình đổi mới và hội nhập, đường lối quân sự của Đảng vẫn là bó đuốc
soi đường cho toàn quân, toàn dân trong sự nghiệp xây dựng lực lượng vũ trang nhân
dân, củng cố nền quốc phòng toàn dân trong điều kiện hòa bình; kết hợp đẩy mạnh phát

26
triển kinh tế - xã hội với tăng cường quốc phòng, an ninh,… đồng thời không ngừng
nâng cao cảnh giác, sẵn sàng chiến đấu, bảo vệ bầu trời, bảo vệ sự toàn vẹn lãnh thổ và
lãnh hải của Tổ quốc, làm thất bại mọi âm mưu của kẻ thù, hoàn thành vẻ vang sứ mệnh
quốc tế, xây dựng đất nước phát triển.
Thứ hai, đối với sự nghiệp xây dựng và bảo vệ đất nước hiện nay
Trong sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, toàn Đảng, toàn dân,
toàn quân đã đoàn kết, chung sức, đồng lòng nỗ lực phấn đấu đạt được nhiều thành tựu
rất quan trọng, khá toàn diện, tạo nhiều dấu ấn nổi bật. Cơ cấu nền kinh tế chuyển dịch
tích cực, công nghiệp trở thành động lực tăng trưởng chính của nền kinh tế. Công nghiệp
hóa, hiện đại hóa chuyển biến trong nội bộ các ngành kinh tế và đời sống xã hội. Cụ thể
vào năm 2020 khi tình hình dịch bệnh COVID-19 đang diễn biến phức tạp trên thế giới
nói chung và ở Việt Nam nói riêng thì chỉ đạo “vừa phòng chống dịch bệnh, vừa phát
triển kinh tế – xã hội" được đưa ra và nó đã đem lại thành công cho nền kinh tế nước
nhà cụ thể, “Về cơ cấu nền kinh tế năm 2020, khu vực nông, lâm nghiệp và thủy sản
chiếm tỷ trọng 14,85%; khu vực công nghiệp và xây dựng chiếm 33,72%; khu vực dịch
vụ chiếm 41,63%; thuế sản phẩm trừ trợ cấp sản phẩm chiếm 9,8% (Cơ cấu tương ứng
của năm 2019 là: 13,96%; 34,49%; 41,64%; 9,91%)”1.
Nước ta đã bước đầu tham gia cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư, quá trình
chuyển đổi số diễn ra nhanh chóng, trình độ công nghệ, năng suất, chất lượng, hiệu quả,
khả năng cạnh tranh của các ngành công nghiệp ngày càng được nâng cao. Công tác đối
ngoại, hội nhập quốc tế được triển khai sâu rộng và hiệu quả góp phần tạo môi trường
hòa bình, ổn định và tăng thêm nguồn lực cho phát triển đất nước. Với phương châm
“đối ngoại độc lập, tự chủ, hoà bình, hợp tác và phát triển; đa phương hoá, đa dạng hoá
quan hệ đối ngoại; là bạn, là đối tác tin cậy và là thành viên tích cực, có trách nhiệm của
cộng đồng quốc tế; chủ động và tích cực hội nhập quốc tế toàn diện, sâu rộng.”2, Việt
Nam chủ động hội nhập kinh tế quốc tế thông qua việc đàm phán, ký kết và thực thi các

1
Thúy An (28/12/2020), GDP Việt Nam năm 2020 tăng 2,91%, thuộc nhóm cao nhất thế giới,
https://vtv.vn/kinh-te/gdp-viet-nam-nam-2020-tang-291-thuoc-nhom-cao-nhat-the-gioi-
20201228071435402.htm, ngày truy cập 30/10/2022
2
Đảng Cộng Sản Việt Nam (2021), Văn kiện Đại hội đại biểu Toàn quốc lần thứ XIII, NXB. Chính trị Quốc
gia Sự Thật.

27
Hiệp định thương mại tự do song phương và đa phương. Từ chỗ bị bao vây kinh tế, cô
lập về chính trị và chỉ có quan hệ với các nước xã hội chủ nghĩa, đến nay, Việt Nam là
thành viên của hơn 70 tổ chức, diễn đàn đa phương khu vực và toàn cầu, tăng uy tín và
vị thế; tăng khả năng duy trì an ninh, hòa bình, ổn định và phát triển ở phạm vi khu vực
và thế giới; khai thác tối ưu lợi thế quốc gia, từng bước chuyển dịch cơ cấu sản xuất và
xuất nhập khẩu theo hướng hiệu quả hơn; tạo điều kiện và tăng cường phát triển các
quan hệ thương mại và thu hút đầu tư nước ngoài, mở rộng thị trường xuất khẩu và nhập
khẩu.
Xây dựng và phát triển đất nước phải gắn liền với việc bảo vệ toàn vẹn lãnh thổ
Việt Nam. Bảo vệ chủ quyền biển, đảo của Tổ quốc là nhiệm vụ thiêng liêng của toàn
Đảng, toàn dân và toàn quân. Tranh chấp ở Biển Đông hết sức phức tạp, liên quan đến
vấn đề quần đảo Hoàng Sa, Trường Sa của Việt Nam, Trung Quốc đơn phương làm
phức tạp tình hình, đe dọa hòa bình, ổn định, an toàn, an ninh hàng hải tại Biển Đông.
Lãnh đạo Đảng, Nhà nước luôn thể hiện tinh thần đấu tranh kiên quyết, kiên trì bằng các
biện pháp hòa bình, cụ thể là thông qua các diễn đàn, các cuộc gặp gỡ trong các lĩnh vực
chính trị, ngoại giao... Việt Nam ngày càng mở rộng quan hệ nhiều quốc gia và tổ chức
quốc tế, song tuyệt nhiên không có tư tưởng và hành động dựa dẫm trong việc giải quyết
bất đồng về chủ quyền lãnh thổ. Sách trắng Quốc phòng Việt Nam năm 2019 đã nêu rõ,
chủ trương của Việt Nam là không tham gia liên minh quân sự; không liên kết với nước
này để chống nước kia; không cho nước ngoài đặt căn cứ quân sự hoặc sử dụng lãnh thổ
để chống lại nước khác; không sử dụng vũ lực hoặc đe dọa sử dụng vũ lực trong quan
hệ quốc tế. Đây là những quan điểm, chính sách nhất quán, đến nay vẫn giữ nguyên giá
trị. Dù tình hình trên biển phức tạp, Việt Nam vẫn kiên trì giải quyết tranh chấp biển,
đảo bằng biện pháp hòa bình, trên cơ sở luật pháp quốc tế; tập trung xây dựng lực lượng
quản lý, bảo vệ biển, đảo vững mạnh; đẩy mạnh hơn nữa công tác tuyên truyền về biển
đảo.
Trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ đất nước hiện nay, bên cạnh những thành
tựu đạt được, Việt Nam vẫn còn nhiều hạn chế. Nền công nghiệp nước ta thời gian qua
phát triển theo mục tiêu ngắn hạn, thiếu tính bền vững; nội lực của nền công nghiệp còn
yếu, phụ thuộc nhiều vào các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài. Hiệu quả hoạt
động của đa số doanh nghiệp công nghiệp nhà nước thấp, nhiều dự án công nghiệp quy

28
mô lớn thua lỗ; chưa có ngành công nghiệp mũi nhọn đóng vai trò dẫn dắt. Sự phát triển
công nghiệp diễn ra không đồng đều giữa các vùng dẫn đến di dân tự phát cùng với
nhiều hệ lụy về mặt xã hội. Trình độ tay nghề của đa số lao động còn thấp không đáp
ứng kịp thời yêu cầu chuyển nhanh sang phát triển các ngành công nghiệp công nghệ
cao, chuyển đổi số. Hội nhập quá nhanh khi doanh nghiệp trong nước chưa có sự chuẩn
bị kỹ càng có thể sẽ khiến ngành công nghiệp phụ thuộc quá nhiều vào doanh nghiệp có
vốn đầu tư nước ngoài mà không xây dựng được các doanh nghiệp trong nước vững
mạnh.
Trong bối cảnh hiện nay, Đảng ta chủ trương chủ động, tích cực tham gia cuộc
Cách mạng công nghiệp lần thứ tư như một yêu cầu tất yếu khách quan; là nhiệm vụ có
ý nghĩa chiến lược đặc biệt quan trọng, vừa cấp bách vừa lâu dài của cả hệ thống chính
trị và toàn xã hội, gắn chặt với quá trình hội nhập quốc tế sâu rộng. Trong quá trình công
nghiệp hoá, hiện đại hoá, Việt Nam cần xây dựng thể chế kinh tế theo hướng hội nhập
kinh tế thế giới quốc tế và khu vực phù hợp với quốc gia, đồng thời cần xác định một lộ
trình để tiến tới tự do hoá thương mại đáp ứng nhu cầu hội nhập vào các định chế kinh
tế toàn cầu trong quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Nước ta chủ động và tích cực
hội nhập quốc tế trên cơ sở giữ vững đường lối đối ngoại độc lập tự chủ, vì lợi ích quốc
gia, dân tộc, vì hòa bình, hợp tác và phát triển, chính sách đối ngoại rộng mở, đa phương
hóa, đa dạng hóa quan hệ quốc tế. Chủ động phòng ngừa, ứng phó để hạn chế các tác
động tiêu cực, bảo đảm quốc phòng, an ninh, an toàn, công bằng xã hội và tính bền vững
của quá trình phát triển đất nước.
Bài học về sớm hoạch định chủ trương đường lối kháng chiến và kiến quốc đúng
đắn, sáng tạo trong những ngày mở đầu toàn quốc kháng chiến là vấn đề có ý nghĩa
chiến lược, còn nguyên giá trị vận dụng trong xây dựng đất nước hiện nay. Bởi chỉ có
như vậy chúng ta mới tạo ra tiềm lực mọi mặt, tạo sức mạnh tổng hợp để xây dựng và
bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Chúng ta cần sớm chủ động
hoạch định đường lối đúng đắn, sáng tạo; tiếp tục hoàn thiện cơ chế Đảng lãnh đạo, Nhà
nước quản lý, điều hành. Trước hết, cần tập trung xây dựng hệ thống chính trị các cấp
trong sạch, vững mạnh, đủ năng lực, bản lĩnh, trí tuệ để triển khai thực hiện đúng đắn,
sáng tạo mọi chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách và pháp luật của Nhà nước.
Động lực và nguồn lực phát triển quan trọng của đất nước là khơi dậy mạnh mẽ tinh

29
thần yêu nước, ý chí tự cường, sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc và khát vọng phát
triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc, phát huy sức mạnh sáng tạo to lớn của toàn dân,
góp phần thực hiện thắng lợi các mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội của đất nước. Quán
triệt cho người dân về tư tưởng yêu nước, độc lập chủ quyền dân tộc, đồng thời nâng
cao trình độ của người dân để đáp ứng nhu cầu ngày càng cao trong bối cảnh hiện nay.
TIỂU KẾT CHƯƠNG 2

Đường lối có nội dung chính là kháng chiến toàn dân, kháng chiến toàn diện,
kháng chiến trường kỳ, tự lực cánh sinh và tranh thủ sự ủng hộ của quốc tế; xác định
được tính chất của cuộc cách mạng là một cuộc chiến tranh có tính dân tộc độc lập và
dân chủ tự do. Những đường lối này được vạch ra nhằm giúp ta xây dựng được một hậu
phương vững mạnh đảm bảo nguồn lực cho chiến tranh, từng bước làm thay đổi tương
quan lực lượng giữa quân ta và thực dân Pháp.

Đối với cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ, hoàn thành giải
phóng dân tộc, thống nhất đất nước, thắng lợi của cuộc chiến tranh đã khẳng định đường
lối kháng chiến của Đảng đúng đắn và sáng tạo. Đường lối ấy còn mang tới kinh nghiệm
quý báu, giúp cho nghệ thuật quân sự và chiến tranh nhân dân Việt Nam trong cuộc
kháng chiến chống Mỹ phát triển tới đỉnh cao, tạo nên sức mạnh tổng hợp, lập nên những
chiến công oanh liệt, giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước; góp phần cổ vũ phong
trào giải phóng dân tộc trên thế giới và làm phong phú lý luận của chủ nghĩa Mác-Lênin
về chiến tranh cách mạng. Đối với sự nghiệp xây dựng và bảo vệ tổ quốc, trong sự
nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, toàn Đảng, toàn dân, toàn quân đã đoàn
kết, chung sức, đồng lòng nỗ lực phấn đấu đạt được nhiều thành tựu rất quan trọng, khá
toàn diện, tạo nhiều dấu ấn nổi bật. Bên cạnh đó, xây dựng và phát triển đất nước phải
gắn liền với việc bảo vệ toàn vẹn lãnh thổ Việt Nam. Đối với vấn đề biển Đông, Nhà
nước luôn thể hiện tinh thần đấu tranh kiên quyết, kiên trì bằng các biện pháp hòa bình.
Đường lối kháng chiến đã cho Đảng ta bài học về việc hoạch định chủ trương đường lối
kháng chiến và kiến quốc đúng đắn, sáng tạo trong những ngày đầu kháng chiến có ý
nghĩa chiến lược. Chúng ta cần sớm chủ động hoạch định đường lối đúng đắn, sáng tạo;
tiếp tục hoàn thiện cơ chế Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, điều hành. Động lực và
nguồn lực phát triển quan trọng của đất nước là khơi dậy mạnh mẽ tinh thần yêu nước,

30
ý chí tự cường, sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc và khát vọng phát triển đất nước
phồn vinh, hạnh phúc, phát huy sức mạnh sáng tạo to lớn của toàn dân, góp phần thực
hiện thắng lợi các mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội của đất nước.

31
TỔNG KẾT

Sau Cách mạng tháng Tám năm 1945, Nhà nước Việt Nam Dân Chủ Cộng hòa
được thành lập. Nước ta nằm trong vòng vây của Chủ nghĩa đế quốc và phản động quốc
tế. Thực dân Pháp chưa khi nào từ bỏ dã tâm xâm chiếm nước ta, chúng nhanh chóng
quay lại Việt Nam dưới sự giúp đỡ, tiếp tay của Anh và Mỹ. Đáp lại những hành động
hiếu chiến của Pháp, Đảng ta đã thực hiện sách lược hòa hoãn bằng việc ký Hiệp định
sơ bộ 6-3-1946 và Tạm ước 14-9-1946. Nhưng với dã tâm xâm lược, cuối năm 1946
Pháp phản bội mọi cam kết, quyết cướp nước ta một lần nữa. Trước hành động hung
hăng ngày càng lấn tới của thực dân Pháp, ta không thể nhân nhượng được nữa, nhân
nhượng là mất nước. Vì vậy, ngay đêm 19-12-1946 Đảng và Chính phủ đã phát động
toàn quốc kháng chiến.

Trong kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược, đường lối kháng chiến của
Việt Nam là toàn dân, toàn diện, lâu dài, dựa vào sức mình là chính. Trên cơ sở xem xét,
đánh giá khách quan, toàn diện tình hình quốc tế, trong nước, địch, ta, Đảng ta và Chủ
tịch Hồ Chí Minh xác định lực lượng kháng chiến là toàn dân, trong đó lực lượng vũ
trang nhân dân ba thứ quân, gồm: bộ đội chủ lực, bộ đội địa phương và dân quân du kích
làm nòng cốt. Để phát huy tối đa sức mạnh của toàn dân tộc, Đảng tổ chức, động viên
mọi tầng lớp nhân dân, không phân biệt giai cấp, tôn giáo, đảng phái; đồng thời, kết hợp
sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại. Nhờ có những sáng tạo về đường lối của Đảng,
quân và dân ta đã phát huy truyền thống đấu tranh kiên cường, bất khuất của dân tộc
anh hùng, giành thắng lợi vang dội. Việt Nam - Điện Biên Phủ - Hồ Chí Minh trở thành
biểu tượng của niềm tin và hy vọng của các dân tộc đấu tranh vì hòa bình, độc lập dân
tộc, dân chủ và tiến bộ trên thế giới.

Với sự thắng lợi của cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp, ta đã đạt được nhiều
kết quả to lớn về chính trị, quân sự, ngoại giao, … Bộ máy chính quyền năm cấp được
củng cố, khối đại đoàn kết toàn dân phát triển lên một bước mới. Chiến Thắng Điện
Biên Phủ là chiến công lớn nhất, chói lọi nhất của toàn Đảng, toàn quân và toàn dân ta
trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược, góp phần quyết định đập tan
hoàn toàn dã tâm xâm lược của thực dân Pháp và can thiệp Mỹ. Chiến tranh ở Đông

32
Dương kết thúc bằng Hiệp định Giơ-ne-vơ, mở ra một thời kỳ mới cho cách mạng Việt
Nam, mở đầu sự sụp đổ của chủ nghĩa thực dân cũ trên phạm vi toàn thế giới.

Có thể khẳng định rằng, cuộc kháng chiến đã đi vào lịch sử dân tộc như một mốc
son chói lọi về tinh thần yêu nước, ý chí kiên cường của nhân dân Việt Nam. Thời gian
đã lùi xa, nhưng những bài học kinh nghiệm được đúc kết từ Toàn quốc kháng chiến,
đặc biệt là những kinh nghiệm về việc xây dựng, bảo vệ Tổ quốc đến nay vẫn vẹn nguyên
giá trị. Hơn lúc nào hết, cùng với việc phát huy sức mạnh tổng hợp của đất nước, kết
hợp sức mạnh nội lực và ngoại lực, cần vận dụng sáng tạo những bài học kinh nghiệm
được đúc kết từ Toàn quốc kháng chiến để xây dựng và phát triển đất nước, hội nhập
quốc tế trong cách mạng công nghiệp lần thứ tư, cũng như giữ vững chủ quyền lãnh thổ,
đặc biệt là lãnh hải Việt Nam trong bối cảnh tình hình Biển Đông có nhiều biến động
phức tạp.

33
TÀI LIỆU
1. Bùi Tuấn An (2022), Phân tích đường lối kháng chiến chống Pháp của Đảng ta,
https://luatminhkhue.vn/phan-tich-uong-loi-khang-chien-chong-phap-cua-
dang-ta.aspx

2. Thùy An (28/12/2020),GDP Việt Nam năm 2020 tăng 2,91%, thuộc nhóm cao
nhất thế giới,https://vtv.vn/kinh-te/gdp-viet-nam-nam-2020-tang-291-thuoc-
nhom-cao-nhat-the-gioi-20201228071435402.htm

3. Bộ Giáo dục và Đào tạo (2018), Giáo trình Lịch sử Đảng Đảng Cộng sản Việt
Nam (Dành cho sinh viên đại học khối không chuyên ngành Mác-Lênin, tư tưởng
Hồ Chí Minh), Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội.
4. Báo Chính phủ (2021), Toàn văn Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ
XIII của Đảng, https://baochinhphu.vn/toan-van-nghi-quyet-dai-hoi-dai-bieu-
toan-quoc-lan-thu-xiii-cua-dang-102288263.htm.

5. Ban Tuyên giáo Trung ương, Cách mạng Tháng Tám năm 1945 - sự kiện vĩ đại
trong lịch sử dân tộc Việt Nam,
http://huyenuy.namtramy.quangnam.gov.vn/Default.aspx?tabid=1292&Group=
219&NID=4395&cach-mang-thang-tam-nam-1945--su-kien-vi-dai-trong-lich-
su-dan-toc-viet-nam
6. Trung tướng Lê Chiêm (2016), Toàn quốc kháng chiến và bài học về xây dựng
nền quốc phòng toàn dân, https://www.qdnd.vn/ho-so-su-kien/ky-niem-70-nam
-ngay-toan-quoc-khang-chien-19-12-1946-19-12-2016/toan-quoc-khang-chien-
va-bai-hoc-ve-xay-dung-nen-quoc-phong-toan-dan-494364
7. Nguyễn Mạnh Dũng (2011), Vận dụng bài học phát huy sức mạnh toàn dân tộc
trong kháng chiến chống thực dân Pháp vào xây dựng nền quốc phòng toàn dân,
http://tapchiqptd.vn/vi/nhung-ngay-ky-niem-lon/van-dung-bai-hoc-phat-
huy-suc-manh-toan-dan-toc-trong-khang-chien-chong-thuc-dan-phap-vao-
/905.html
8. ThS. Đinh Thùy Dung (2022), Phân tích đường lối kháng chiến chống thực dân
Pháp (45-54), https://luatduonggia.vn/phan-tich-duong-loi-khang-chien-chong-
thuc-dan-phap-45-54/

34
9. Đảng Cộng sản Việt Nam (2000), Văn kiện Đảng Toàn tập, tập 8, Nxb. Chính trị
quốc gia, Hà Nội.

10. Đại tá Vũ Văn Khanh (16/09/2021), Kẻ "nối giáo" cho quân Pháp trở lại xâm
lược Việt Nam, https://sknc.qdnd.vn/ho-so-tu-lieu/ke-noi-giao-cho-quan-phap-
tro-lai-xam-luoc-viet-nam-502355

11. Hồng Lam (23/09/2021), Mãi sáng ngời khí phách Nam Bộ kháng chiến,
https://www.baokontum.com.vn/xa-hoi/mai-sang-ngoi-khi-phach-nam-bo-
khang-chien-20559.html

12. Phòng Lý luận chính trị - Lịch sử Đảng (14/09/2021), Hiệp định Sơ bộ (6/3/1946)
và Tạm ước (14/9/1946) - Nước cờ ngoại giao Xuất sắc của Đảng và Chủ tịch
Hồ Chí Minh, https://www.hcmcpv.org.vn/tin-tuc/hiep-dinh-so-bo-6-3-1946-va-
tam-uoc-14-9-1946-nuoc-co-ngoai-giao-xuat-sac-cua-dang-va-chu-tich-
1491884243

13. ThS. Hoàng Thị Phương Thảo (23/02/2019), Hòa ước Hoa- Pháp tháng 02 năm
1946 và sự điều chỉnh sách lược ngoại giao của Đảng Cộng sản Việt Nam,
http://truongchinhtritinhphutho.gov.vn/khoa-xay-dung-dang/hoa-uoc-hoa-phap-
thang-02-nam-1946-va-su-dieu-chinh-sach-luoc-ngoai-giao-cua-dang-cong-san-
viet-nam.html, ngày truy cập: 18/10/2022.

14. Lê Trúc Vinh (23/09/2021), Âm mưu của thực dân Pháp tái chiếm Nam bộ và
nhân dân Nam bộ đứng lên kháng chiến bảo vệ độc lập chủ quyền Tổ quốc,
https://www.soctrang.dcs.vn/Default.aspx?sname=tinhuy&sid=4&pageid=469
&catid=54308&id=289949&catname=T%u01b0+t%u01b0%u1edfng&title=am
-muu-cua-thuc-dan-phap-tai-chiem-nam-bo-va-nhan-dan-nam-bo-dung-len-
khang-chien-bao-ve-doc-lap

15. TS. Trần Thị Vui(26/01/2015), Những sáng tạo về đường lối của Đảng ta trong
thời kỳ kháng chiến chống thực dân Pháp (1945-
1954),http://tapchiqptd.vn/vi/van-dechung/nhung-sang-tao-ve-duong-loi-cua-
dang-ta-trong-thoi-ky-khang-chien-chong-thucdan-phap-19451954/7106.html

35
16. La déclaration des droits de l'homme et du citoyen

17. (07/09/2020), Những dấu ấn quan trọng về kinh tế - xã hội trong hành trình 75
năm thành lập và phát triển đất nước qua số liệu thống kê,
https://binhphuoc.gov.vn/vi/ctk/tin-tuc/nhung-dau-an-quan-trong-ve-kinh-te-xa-
hoi-trong-hanh-trinh-75-nam-thanh-lap-va-phat-trien-dat-nuoc-qua-so-lieu-
thong-ke
302.html#:~:text=GDP%20b%C3%ACnh%20qu%C3%A2n%20%C4%91%E1
%BA%A7u%20ng%C6%B0%E1%BB%9Di,nh%C6%B0%20gi%E1%BA%A
3m%20t%C3%B4%2C%20gi%E1%BA%A3m%20t%E1%BB%A9c.

18. (7/10/2019), Ban Thường vụ Trung ương Đảng ra Chỉ thị Toàn dân kháng chiến,
https://dangcongsan.vn/tu-lieu-tham-khao-cuoc-thi-trac-nghiem-tim-hieu-90-
nam-lich-su-ve-vang-cua-dang-cong-san-viet-nam/tu-lieu-90-nam-lich-su-
dang/ban-thuong-vu-trung-uong-dang-ra-chi-thi-toan-dan-khang-chien-
538312.html

36

You might also like