You are on page 1of 49

ĐẠI HỌC QUỐC GIA TP.

HCM
TRƯỜNG ĐẠI HỌC BÁCH KHOA

BÀI TẬP LỚN


(LỊCH SỬ ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM)

ĐỀ TÀI
ĐƯỜNG LỐI KHÁNG CHIẾN CHỐNG THỰC DÂN PHÁP CỦA ĐẢNG
VÀ GIÁ TRỊ ĐỐI VỚI SỰ PHÁT TRIỂN CỦA CÁCH MẠNG VIỆT NAM

LỚP: VHVL – HK212 - NHÓM: 12

GVHD: ĐÀO THỊ BÍCH HỒNG

SINH VIÊN THỰC HIỆN


%
ĐIỂM GHI
STT MSSV HỌ TÊN ĐIỂM
BTL CHÚ
BTL

1 2247552 Nguyễn Lưu Kim Long 100%

2 2247558 Đỗ Nguyễn Hoàng Lượng 100%

3 2247559 Trần Lê Minh 100%

4 2247553 Trương Thành Long 100%

5 2247554 Vũ Văn Long 100%

Tổng 100%

1
BÁO CÁO PHÂN CÔNG NHIỆM VỤ VÀ KẾT QUẢ
THỰC HIỆN ĐỀ TÀI CỦA TỪNG THÀNH VIÊN NHÓM 12

Kết
STT Họ và tên MSSV Nhiệm vụ Chữ ký
quả
Chương 1
1.1. Bối cảnh lịch
sử Việt Nam sau Cách
Nguyễn
mạng tháng Tám và
1. Lưu Kim 2247552 những hành động hiếu
Long chiến của thực dân
Pháp

Chương 2
2.2. Giá trị đối với
Đỗ Nguyễn sự phát triển của cách
2. Hoàng 2247558 mạng Việt Nam
Lượng TIỂU KẾT
CHƯƠNG 2

Phần Mở đầu, Phần


Trần Lê
3. 2247559 kết luận, chỉnh file
Minh
Word

2
Chương 1
1.2. Quá trình
Trương Đảng từng bước giải
4. Thành 2247553 quyết xung đột với
Pháp
Long
TIỂU KẾT
CHƯƠNG 1

chương 2
2.1. Đường lối
Vũ Văn
5. 2247554 kháng chiến chống
Long thực dân Pháp

NHÓM TRƯỞNG (ghi rõ họ tên, ký tên)

Trần Lê Minh

TP. HỒ CHÍ MINH, NĂM 2022

3
MỤC LỤC
Trang

PHẦN MỞ ĐẦU …………………………………………………………………… 6

PHẦN NỘI DUNG…………………………………………………………………. 10

Chương 1: QUÁ TRÌNH ĐẢNG TỪNG BƯỚC GIẢI QUYẾT XUNG ĐỘT VỚI PHÁP TRƯỚC 10
KHI QUYẾT ĐỊNH PHÁT ĐỘNG KHÁNG CHIẾN TOÀN QUỐC CHỐNG THỰC DÂN PHÁP
XÂM LƯỢC (19/12/1946)
……………………………………………………………………………….
1.1. Bối cảnh lịch sử Việt Nam sau Cách mạng tháng Tám và những hành động 10
hiếu chiến của thực dân Pháp
………………………………………………………………

1.1.1. Bối cảnh thế giới ……………… 10

1.1.2. Bối cảnh trong nước và những hành động hiếu chiến của Pháp ……………………. 11

1.2. Quá trình Đảng từng bước giải quyết xung đột với Pháp 18

……...

Tiểu kết Chương 1………………………………………………………………... 25

Chương 2: ĐƯỜNG LỐI KHÁNG CHIẾN CHỐNG THỰC DÂN PHÁP VÀ 28


GIÁ TRỊ ĐỐI VỚI SỰ PHÁT TRIỂN CỦA CÁCH MẠNG VIỆT NAM
……………….

2.1. Đường lối kháng chiến chống thực dân Pháp 28

……………………………………………………………………………….

4
2..1. . Nội dung đường lối kháng chiến chống thực dân Pháp 45-54 28

…………………………………………………………………………

2.1.2. Đánh giá chung ………………………. 31

2.2 Giá trị đối với sự phát triển của cách mạng Việt Nam 33
……………………………………………………

2.2.1. Khái quát một số kết quả của cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp 33
………………………………………………

2.2.2. Giá trị của đường lối kháng chiến chống thực dân Pháp của Đảng 35
……………………………………………………....

Tiểu kết Chương 2 36

PHẦN KẾT LUẬN ………………………………………………………….…….. 40

TÀI LIỆU THAM KHẢO ………………………………………………… 49

5
PHẦN MỞ ĐẦU
1 Lý do chọn đề tài:

Từ cuối tháng 10-1946, tình hình chiến sự ở Việt Nam ngày càng căng thẳng do, nguy cơ
một cuộc chiến tranh giữa Việt Nam và Pháp tăng dần. Đảng, Chính phủ, quân đội và
nhân dân Việt Nam tiếp tục kìm chế, kiên trì thực hiện chủ trương hòa hoãn và bầy tỏ
thiện chí hòa bình, nhân nhượng nhằm tìm kiếm con đường hòa bình bảo vệ, giữ gìn toàn
vẹn nền độc lập, tự do của Việt Nam, đồng thời cố gắng cứu vãn mối quan hệ Việt - Pháp
đang ngày càng xấu đi và ngăn chặn một cuộc chiến tranh nổ ra quá sớm và không cân
sức với Pháp.

Con đường ngoại giao với đại diện Pháp tại Hà Nội cũng đều không đưa đến kết quả tích
cực vì phía Pháp chỉ muốn “dùng biện pháp quân sự để giải quyết mối quan hệ Việt-
Pháp”. Bộ chỉ huy quân đội Pháp ở Việt Nam đã bộc lộ rõ thái độ bội ước, tiếp tục đẩy
mạnh tăng cường bình định ở các tỉnh Nam Bộ, xúc tiến tái lập Nam Kỳ tự trị; gây hấn,
khiêu khích, gây xung đột quân sự, lấn chiếm nhiều vị trí ở nơi đóng quân ở Bắc Bộ Việt
Nam; đặt lại nền thống trị ở Campuchia và Lào, chia rẽ ba nước Đông Dương.

Vì vậy, Đảng và nhân dân Việt Nam chỉ còn một sự lựa chọn duy nhất là cầm súng đứng
lên chống lại thực dân Pháp xâm lược để bảo vệ nền độc lập và chính quyền cách mạng,
bảo vệ những thành quả của cuộc Cách mạng Tháng Tám vừa giành được.

Ngày 12-12-1946, Trung ương ra Chỉ thị Toàn dân kháng chiến.

Ngày 19-12-1946, Chủ tịch Hồ Chí Minh ra Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến, khẳng
định quyết tâm sắt đá của nhân dân ta quyết kháng chiến đến cùng để bảo vệ nền độc lập,
tự do: “Chúng ta muốn hòa bình, chúng ta phải nhân nhượng. Nhưng chúng ta càng nhân
nhượng, thực dân càng lấn tới, vì chúng quyết tâm cướp nước ta một lần nữa!

6
Không! Chúng ta thà hy sinh tất cả, chứ nhất định không chịu mất nước, nhất định không
chịu làm nô lệ. Hỡi đồng bào! Chúng ta phải đứng lên!...”.

Đường lối kháng chiến chống thực dân Pháp của Đảng ta được hình thành, bổ sung, phát
triển qua thực tiễn cách mạng Việt Nam trong những năm 1945 đến 1947. Nội dung cơ
bản của đường lối là: dựa trên sức mạnh toàn dân, tiến hành kháng chiến toàn dân, toàn
diện, lâu dài và dựa vào sức mình là chính.

Mục tiêu của cuộc kháng chiến là đánh đổ thực dân Pháp xâm lược, giành nền độc lập, tự
do, thống nhất hoàn toàn; vì nền tự do dân chủ và góp phần bảo vệ hòa bình thế giới...

Kháng chiến toàn dân là đem toàn bộ sức dân, tài dân, lực dân; động viên toàn dân tích
cực tham gia kháng chiến. Xây dựng sự đồng thuận, nhất trí của cả nước, đánh địch ở
mọi nơi, mọi lúc, “mỗi người dân là một chiến sĩ, mỗi làng xã là một pháo đài, mỗi
đường phố là một mặt trận”. Trong đó Quân đội nhân dân làm nòng cốt cho toàn dân
đánh giặc.

Kháng chiến toàn diện là đánh địch trên mọi lĩnh vực, mọi mặt trận không chỉ bằng quân
sự mà cả về chính trị, kinh tế, văn hóa, tư tưởng, ngoại giao, trong đó mặt trận quân sự,
đấu tranh vũ trang giữ vai trò mũi nhọn, mang tính quyết định. Động viên và phát huy
cho được mọi tiềm năng, sức mạnh của dân tộc, mọi nguồn lực vật chất, tinh thần trong
nhân dân phục vụ kháng chiến thắng lợi.

Kháng chiến lâu dài là tư tưởng chỉ đạo chiến lược của Đảng. Trường kỳ kháng chiến là
một quá trình vừa đánh tiêu hao lực lượng địch vừa xây dựng, phát triển lực lượng ta,
từng bước làm chuyển biến so sánh lực lượng trên chiến trường có lợi cho ta; lấy thời
gian là lực lượng vật chất để chuyển hóa yếu thành mạnh. Kháng chiến lâu dài nhưng
không có nghĩa là kéo dài vô thời hạn mà phải luôn tranh thủ, chớp thời cơ thúc đẩy cuộc
kháng chiến có bước nhảy vọt về chất, thắng từng bước để đi đến thắng lợi cuối cùng.

Kháng chiến dựa vào sức mình là chính, là sự kế thừa tư tưởng chiến lược trong chỉ

đạo sự nghiệp cách mạng giải phóng dân tộc, giành chính quyền của lãnh tụ Hồ Chí
Minh. Phải lấy nguồn nội lực của dân tộc, phát huy nguồn sức mạnh vật chất, tinh thần

7
vốn của trong nhân dân ta làm chỗ dựa chủ yếu, nguồn lực chủ yếu của cuộc chiến tranh
nhân dân. Trên cơ sở đó, để tìm kiếm, phát huy cao độ và có hiệu quả sự ủng hộ, giúp đỡ
tinh thần và vật chất của quốc tế khi có điều kiện. Lấy độc lập, tự chủ về đường lối là yếu
tố quan trọng hàng đầu.

Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến và đường lối kháng chiến của Đảng là hoàn toàn đúng
đắn, trở thành ngọn cờ dẫn đường, chỉ lối, động viên toàn Đảng, toàn quân, toàn dân ta
tiến lên. Đường lối đó được nhân dân ủng hộ, hưởng ứng trong suốt quá trình kháng
chiến và trở thành một nhân tố quan trọng hàng đầu quyết định thắng lợi của cuộc kháng
chiến chống Pháp.

Từ năm 1948, tình hình quốc tế có những chuyển biến có lợi cho các lực lượng cách
mạng và tác động tích cực đối với cuộc kháng chiến của nhân dân ta. Đặc biệt, ngày 1-
10-1949, Đảng Cộng sản Trung Quốc giành được chính quyền, Nhà nước Cộng hòa Nhân
dân Trung Hoa ra đời. Nước Pháp liên tục phải đối mặt với nhiều khó khăn, mâu thuẫn
phức tạp nảy sinh, thế chiến lược quân sự của Pháp ở Đông Dương bị đảo lộn...

Phát huy thắng lợi, Đảng chủ trương tiếp tục đẩy mạnh cuộc kháng chiến toàn diện để
làm thất bại âm mưu kéo dài, mở rộng chiến tranh “lấy chiến tranh nuôi chiến tranh, dùng
người Việt đánh người Việt của thực dân Pháp.

Trong vùng tạm bị chiếm, Đảng chỉ đạo tiếp tục phát triển mạnh chiến tranh du kích để
“biến hậu phương của địch thành tiền phương của ta”

Địa bàn Nam Bộ, vốn là nơi địch thực hiện “chiến thuật mạng nhện”, xây dựng hệ thống
tháp canh dầy đặc và đã gây cho ta nhiều khó khăn. Nhận thức được điều đó, Xứ ủy Nam
Bộ đã kịp thời chỉ đạo khắc phục, đưa phong trào chiến tranh du kích ngày càng phát
triển. Mặt trận Khu VIII, ta mở chiến dịch Cầu Kè-Trà Vinh (4-1949), đánh vây đồn, diệt
viện và thu được thắng lợi to lớn

Vì vậy, việc nghiên cứu về cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp của dân tộc Việt
Nam dưới sự lãnh đạo của Đảng, từ đó làm rõ những giá trị của đường lối kháng chiến

8
chống thực dân Pháp đối với sự phát triển của cách mạng Việt Nam, đặc biệt trong sự
nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước hiện nay là yêu cầu cần thiết.
Hiện nay trong quá trình thực hiện công nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa, chúng ta
có thực hiện việc hội nhập quốc tế , chúng ta có quan hệ với rất nhiều quốc gia trên thế
giới . Nhưng đồng thời chúng ta củng có rất nhiều các thế lực thù địch luôn tìm cách
chống phá , cùng với quá trình xây dựng phát triển đất nước thì vấn đề khu vực Châu Á-
Thái Bình Dương củng có những căn thẳng đối với những nước lớn đặc biệt là Trung
Quốc đặc biệt nhất là vấn đề biển đảo chủ quyền quốc gia dân tộc và vì vậy hiện nay
trong quá trình thực hiện công nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước chúng ta
vừa giải quyết các vấn đề quan hệ với nước lớn và đồng thời phát triển đất nước trong
quá trình hội nhập quốc tế và bảo vệ chủ quyền đất nước một cách hiệu quả . Do vậy việc
nghiên cứu các vấn đề trong chiến lược đường lối kháng chiến chống thực dân Pháp, để
từ đó chúng ta có những giải pháp trong xây dựng đất nước ngày càng phát triển song
song việc bảo vệ chủ quyền đất nước một cách hiệu quả là điều hết sức cần thiết .

Đó là lý do nhóm chọn đề tài: Đường lối kháng chiến chống thực dân Pháp của đảng
và giá trị đối với sự phát triển của cách mạng Việt Nam làm bài tập lớn kết thúc môn học
Lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam.
2 Nhiệm vụ của đề tài
Một là, làm rõ bối cảnh lịch sử thế giới và Việt Nam sau Cách mạng tháng Tám và
những hành động hiếu chiến của thực dân Pháp và quá trình Đảng từng bước giải quyết
xung đột với Pháp trước khi quyết định phát động kháng chiến toàn quốc chống thực dân
Pháp (19/12/1946)
Hai là, làm rõ nội dung của đường lối kháng chiến chống thực dân Pháp của Đảng và
có những đánh giá chung về nội dung của đường lối kháng chiến đối với cách mạng Việt
Nam;
Ba là, khái quát một số kết quả của cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp dưới sự lãnh
đạo của Đảng và làm rõ giá trị của đường lối kháng chiến chống thực dân Pháp đối với sự
phát triển của cách mạng Việt Nam.

9
PHẦN NỘI DUNG

Chương 1
QUÁ TRÌNH ĐẢNG TỪNG BƯỚC GIẢI QUYẾT XUNG ĐỘT VỚI PHÁP
TRƯỚC KHI QUYẾT ĐỊNH PHÁT ĐỘNG KHÁNG CHIẾN TOÀN QUỐC
CHỐNG THỰC DÂN PHÁP XÂM LƯỢC (19/12/1946)

1.1. Bối cảnh lịch sử Việt Nam sau Cách mạng tháng Tám và những hành động
hiếu chiến của thực dân Pháp
1.1.1. Bối cảnh thế giới
Đầu năm 1945, chiến tranh thế giới lần thứ hai bước vào giai đoạn cuối. Hồng quân
Liên Xô liên tiếp giành thắng lợi quyết định trên chiến trường châu Âu, giải phóng một
loạt nước và tiến thẳng vào sào huyệt phát xít Đức tại Béc-lin. Ngày 9/5/1945, phát xít Đức
đầu hàng vô điều kiện, chiến tranh kết thúc ở châu Âu. Ngày 8/8/1945, Hồng quân Liên
Xô tiến công như vũ bão vào quân đội Nhật. Ngày 14/8/1945, phát xít Nhật đầu hàng vô
điều kiện, chiến tranh thế giới lần thứ hai kết thúc. Theo thỏa thuận của các nước Đồng
minh, sau khi phát xít Nhật đầu hàng, quân đội Anh và Tưởng sẽ vào Đông Dương để giải
giáp quân đội Nhật. Trong khi đó, thực dân Pháp lăm le dựa vào Đồng minh hòng khôi
phục địa vị thống trị của mình.
Sau Chiến tranh thế giới thứ hai, một loạt nước ở Trung, Đông Âu được giải phóng, lập
nên chế độ dân chủ nhân dân và từng bước tiến lên chủ nghĩa xã hội. Chủ nghĩa xã hội từ
một nước là Liên Xô đã trở thành hệ thống thế giới gồm nhiều nước và là chỗ dựa vững
chắc cho phong trào đấu tranh vì hoà bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội. Cùng

10
với sự ra đời của hệ thống xã hội chủ nghĩa thế giới, phong trào đấu tranh giải phóng dân
tộc ở nhiều nước châu Á, châu Phi cũng ngày một dâng cao.
Trong khi nền kinh tế của các nước tư bản châu Âu bị tàn phá nặng nề, thì Mĩ trở thành
một nước mạnh nhất về kinh tế (chiếm 52% tổng sản phẩm xã hội của thế giới) và nắm độc
quyền vũ khí hạt nhân. Với sức mạnh về kinh tế, khoa học - kĩ thuật và quân sự đế quốc
Mĩ ráo riết thực hiện âm mưu làm bá chủ thế giới. Cùng với việc tăng cường chạy đua vũ
trang, cuộc "chiến tranh lạnh" do Mĩ gây ra nhằm chống lại Liên Xô và các nước xã hội
chủ nghĩa diễn ra ngày càng quyết liệt.
Về phía Mỹ, mặc dù không muốn cho Pháp tiếp quản Đông Dương 1944-1945 nhưng
vào giai đoạn 1945-1947 khi chiến tranh lạnh bắt đầu nổ ra thì Mỹ muốn lôi kéo Pháp làm
đồng minh của Mỹ trong chạy đua vũ trang, chuẩn bị tiến hành một cuộc chiến tranh tổng
lực” nhằm tiêu diệt Liên Xô và các nước xã hội chủ nghĩa. Trong thời kỳ này, Liên Xô
chưa quan tâm đến Việt Nam và việc mở rộng ảnh hưởng ở Đông Nam Á. Liên Xô cũng
muốn Pháp đứng về phía mình trong cuộc chiến tranh lạnh nên làm ngơ cho Pháp là điều
dễ hiểu. Còn nước Anh cấu kết với Pháp đàn áp cách mạng Đông Dương vì sợ rằng phong
trào ấy làm gương cho các thuộc địa của Anh. Mặt khác, cũng để ngăn chặn âm mưu của
Mỹ muốn tranh giành quyền lợi với Anh, Pháp ở Đông Dương và Đông Nam Á.
Như vậy, sau Chiến tranh thế giới thứ hai, mâu thuẫn chủ yếu giữa một bên là hệ thống
xã hội chủ nghĩa cùng các lực lượng đấu tranh cho độc lập dân tộc dân chủ, hoà bình và
tiến bộ xã hội với một bên là phe đế quốc do Mĩ cầm đầu nổi lên ngày càng sâu sắc. Tất cả
tình hình trên đã tác động trực tiếp đến cuộc đấu tranh bảo vệ độc lập của nhân dân Việt
Nam.
1.1.2. Bối cảnh trong nước và những hành động hiếu chiến của Pháp
Bối cảnh Việt Nam sau cách mạng tháng Tám
Cách mạng Tháng Tám năm 1945 thành công, nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà ra
đời (nay là nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam) đã tác động, cổ vũ mạnh mẽ phong
trào đấu tranh giải phóng dân tộc của các thuộc địa; làm cho các thế lực đế quốc và bọn
phản động quốc tế hết sức lo sợ, tìm mọi cách chống phá hòng thủ tiêu Nhà nước công
nông đầu tiên ở Đông Nam Á. Mỹ công khai ủng hộ, giúp đỡ Pháp quay lại xâm lược Việt

11
Nam và Đông Dương. Đế quốc Anh xuất phát từ quyền lợi thực dân và theo quỹ đạo của
Mỹ cũng ra sức ủng hộ ý đồ của thực dân Pháp tái chiếm Đông Dương.
Trước tình hình đó, cùng với việc củng cố chính quyền, bài trừ nội phản, cải thiện đời
sống nhân dân, Trung ương Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh tìm các biện pháp đấu tranh
mềm dẻo nhằm duy trì hòa bình, giữ vững độc lập dân tộc, thống nhất Tổ quốc. Để tranh
thủ thời gian củng cố lực lượng cách mạng, tránh phải đối phó với nhiều kẻ thù, khi thì
chúng ta tạm thời hoà hoãn với quân Tưởng để rảnh tay đối phó với quân Pháp, khi thì tạm
thời hoà hoãn với Pháp để đuổi quân Tưởng và bọn tay sai ra khỏi đất nước.
Sau Cách mạng tháng Tám, Mặt trận Việt Minh phát triển rất nhanh chóng. Các Hội
Cứu quốc trong công nhân, nông dân, thanh niên, phụ nữ được tổ chức thống nhất trong cả
nước. Nhiều Hội Cứu quốc mới ra đời, tập hợp thêm những tầng lớp yêu nước còn đứng
ngoài Mặt trận. Thực hiện chủ trương vũ trang toàn dân, nhân dân ta tích cực xây dựng lực
lượng. Trang bị vũ khí còn rất thô sơ và thiếu thốn, lại chưa có nhiều kinh nghiệm tác chiến,
nhưng cán bộ và chiến sĩ trong các đơn vị vũ trang đều có tinh thần chiến đấu dũng cảm,
là lực lượng chủ chốt trong cuộc đấu tranh bảo vệ chính quyền cách mạng. Sau khi đất
nước được độc lập, Đảng kịp thời mở rộng đội ngũ, đạo tạo cán bộ, tăng cường sự lãnh đạo
trên mọi mặt hoạt động, chuẩn bị tổ chức cho toàn dân bước vào cuộc đấu tranh mới.
Trên thực tế, chính quyền cách mạng non trẻ của ta phải đối phó với muôn vàn khó
khăn, đứng trước tình thế “ngàn cân treo sợi tóc”. Nền kinh tế nước ta chủ yếu là nông
nghiệp với trình độ lạc hậu, bị chiến tranh tàn phá rất nặng nề, thiên tai thường xuyên xảy
ra. Việc buôn bán với nước ngoài hầu như bị đình trệ. Hàng hoá trên thị trường khan hiếm.
Nguy cơ nạn đói mới xuất hiện trong khi hậu quả nạn đói lớn do Nhật - Pháp gây ra từ cuối
năm 1944 đầu năm 1945 vẫn chưa được khắc phục. Đời sống nhân dân bị đe doạ nghiêm
trọng. Nền tài chính của Nhà nước cách mạng trong buổi đấu hết sức kiệt quệ. Ngân sách
quốc gia lúc đó chỉ có 1.230.000 đồng, trong đó quá nửa là tiền rách, các khoản thu từ thuế
giảm sút, thuế quan là một nguồn thu chính, chiếm 3/4 ngân sách Đông Dương, giờ đây sụt
hẳn xuống. Cùng với khó khăn về kinh tế, tài chính, chế độ thực dân - phong kiến để lại
một di sản văn hoá hết sức lạc hậu. Thực dân Pháp chăm lo xây dựng nhà tù hơn là trường
học. Vì thế, hơn 90% dân số nước ta mù chữ. Quân đội thường trực đang trong quá trình

12
xây dựng, chưa được huấn luyện bao nhiêu. Phần lớn cán bộ chỉ huy chưa có hiểu biết về
quân sự và kinh nghiệm chiến đấu. Trang bị vũ khí rất thô sơ và thiếu thốn, chủ yếu là giáo
mác, dao găm, mã tấu, một ít súng trường, súng máy. Mặt trận dân tộc thống nhất tuy phát
triển rộng rãi, nhưng chưa được củng cố vững chắc; kẻ thù lại đang ra sức thực hiện âm
mưu chia rẽ, lôi kéo.... Do đó, vấn đề đoàn kết dân tộc, đoàn kết tôn giáo đang là những
vấn đề lớn được đặt ra rất bức thiết lúc đó.
Nguy cơ lớn nhất đối với Nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà lúc mới thành lập là
nạn ngoại xâm. Ở phía Bắc vĩ tuyến 16, hơn 20 vạn quân Tưởng đã ồ ạt kéo vào nước ta.
Núp dưới danh nghĩa đại diện lực lượng Đồng minh vào làm nhiệm vụ giải giáp quân đội
Nhật, quân Tưởng nuôi dã tâm: tiêu diệt Đảng Cộng sản Đông Dương, phá tan Việt Minh,
lật đổ Chính phủ Hồ Chí Minh và dựng lên một chính quyền tay sai. Quân Tưởng buộc
Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hoà thực hiện chế độ trưng thu lương thực để mỗi
tháng phải cung cấp cho chúng 10.000 tấn gạo, trong khi nhân dân Bắc Bộ đang phải chịu
hậu quả nạn đói khủng khiếp chưa từng có trong lịch sử đất nước. Dựa vào quân Tưởng,
các tổ chức Việt Quốc, Việt Cách ra sức chống phá chính quyền cách mạng. Chúng tiến
hành nhiều hoạt động vu cáo, nói xấu Việt Minh, ngang nhiên đòi gạt các bộ trưởng là đảng
viên cộng sản ra khỏi Chính phủ. Chúng còn gây ra các vụ giết người, cướp của, bắt cóc
cán bộ, cướp chính quyền ở một số địa phương.
Ở phía Nam vĩ tuyến 16, tình hình còn nghiêm trọng hơn.Thực dân Pháp ngày càng lộ
rõ ý đồ trở lại xâm chiếm Việt Nam. Ngày 17-8-1945, Uỷ ban Quốc phòng Pháp quyết
định thành lập lực lượng viễn chinh Pháp ở Viễn Đông (sau đổi là đạo quân viễn chinh
Pháp ở Viễn Đông) đưa sang Đông Dương. Sau thắng lợi của Cách mạng tháng Tám 1945
nhân dân Việt Nam trở thành người làm chủ đất nước. Thực dân Pháp không còn chỗ đứng
ở Đông Dương nhưng vẫn không chịu từ bỏ âm mưu đặt lại ách thống trị thực dân kiểu cũ
trên bán đảo này. Âm mưu tái chiếm Đông Dương của thực dân Pháp đã được hoạch định
ngay từ khi nước Pháp còn bị phát xít Đức chiếm đóng, nhất là khi quân Đồng minh thắng
trận. Ngày 14-3-1945, Charles de Gaulle - lãnh tụ kháng chiến lưu vong đã ra tuyên bố:
“Đông Dương sẽ được thành lập theo kiểu liên bang gồm năm xứ (Nam Kỳ, Trung Kỳ,
Bắc Kỳ, Cao Miên, Ai Lao), liên bang Đông Dương cùng với nước Pháp xây dựng thành

13
khối liên hiệp Pháp mà quyền đối ngoại sẽ do Pháp đại diện”. Âm mưu của thực dân Pháp
muốn nhanh chóng thiết lập lại nền thống trị ở Đông Dương đã không thực hiện được. Đầu
tháng 9-1945, Đácgiăngliơ và Lơclec phải điều chỉnh kế hoạch: Dựa vào quân Anh gấp rút
chiếm Nam Bộ, lấy đó làm bàn đạp đánh chiếm phần còn lại của Đông Dương, lập chính
phủ "Nam Kì tự trị", thành lập Liên bang Đông Dương. Chúng vừa ráo riết chuẩn bị lực
lượng, vừa khiêu khích ta để tạo cớ cho quân Đồng minh can thiệp.
Ngày 6-9-1945, phái bộ Anh gồm 30 sĩ quan, do một đại tá cầm đầu vừa đến Sài Gòn
đã ra lệnh cho quân Nhật làm nhiệm vụ cảnh sát trong thành phố, đòi các lực lượng vũ
trang cách mạng nộp vũ khí. Quân Anh ngang nhiên tước vũ khí của quân Nhật trang bị
cho tù binh Pháp (bị Nhật bắt giam từ sau ngày 9- 3-1945), dùng quân Pháp thay quân Nhật
canh gác một số vị trí. Những đơn vị nhỏ bộ binh và xe bọc thép của Pháp được tăng thêm
1.400 lính do Nhật giam giữ được Anh thả ra và trang bị lại. Ngày 14-9, Grêxi ra thông cáo
cấm nhân dân ta mang vũ khí và biểu tình. Ngày 15-9, y ra lệnh tước vũ khí của lực lượng
vũ trang Việt Nam. Ngày 17-9, Grêxi lại ra lệnh giới nghiêm, đình bản tất cả báo chí ở
Nam Bộ. Ngày 19-9, Xem tổ chức họp báo, tuyên bố: "Việt Minh không đại diện cho nhân
dân Việt Nam và bất lực trong việc giữ gìn trật tự. Pháp có nhiệm vụ lập lại trật tự, sau đó
sẽ thành lập chính phủ phù hợp với tuyên bố 24-3". Ngày 20-9, phái bộ Anh tuyên bố giữ
quyền kiểm soát Sài Gòn, đòi thả những người Pháp đang bị giam giữ, đòi đặt công an của
Việt Nam dưới quyền chỉ huy của họ và buộc Việt Nam Dân chủ Cộng hoà rút hết lực
lượng vũ trang ra khỏi thành phố. Với dã tâm cướp nước ta một lần nữa, ngày 23/9/1945
được sự giúp đỡ của quân Anh, thực dân Pháp nổ súng gây hấn ở Sài Gòn, mở đầu cuộc
chiến tranh xâm lược Đông Dương lần thứ hai, rồi mở rộng đánh chiếm Nam Bộ và Nam
Trung Bộ, tìm cách đưa quân ra Bắc Bộ, đánh chiếm Hải Phòng, Lạng Sơn, Hải Dương,
gây nhiều vụ xung đột, khiêu khích ở Hà Nội.
Như vậy, có thể thấy với danh nghĩa đại diện lực lượng Đồng minh làm nhiệm vụ giải
giáp quân Nhật ở phía Nam vĩ tuyến 16, quân Anh đã dọn đường cho thực dân Pháp trở lại
xâm lược nước ta. Vào thời điểm này, trên đất nước ta đã có hơn 30 vạn quân các nước
Anh, Pháp, Tưởng, Nhật cùng nhiều đảng phái phản động lăm le lật đổ Chính phủ Việt

14
Nam Dân chủ Cộng hoà. Chưa bao giờ trên đất nước ta cùng một lúc có nhiều kẻ thù xâm
lược như vậy.
Những hành động hiếu chiến của Pháp
Ở Đông Dương, mâu thuẫn giữa Nhật và Pháp càng trở nên gay gắt. Và đúng như dự
đoán của Đảng ta, ngày 9-3-1945, Nhật nổ súng lật đổ Pháp. Quân Pháp ở Đông Dương
chống cự yếu ớt và nhanh chóng đầu hàng. Phát xít Nhật độc chiếm thống trị Đông Dương,
bày trò "trao trả độc lập" cho Bảo Đại và dựng lên Chính phủ bù nhìn Trần Trọng Kim.
Như vậy, mọi kí kết giữa Pháp và Triều Đình phong kiến Việt Nam hết hiệu quả.
Tháng 7/1945, Hội nghị Potsdam được tổ chức ở Cecilienhof, cung điện của thái
tử Wilhelm Hohenzollern, tại Potsdam, Brandenburg, Đức. Mục đích của hội nghị bao gồm
cả việc thành lập trật tự thế giới mới thời hậu chiến, những vấn đề về hiệp ước hòa bình và
cách thức giải quyết hậu quả của chiến tranh. Ngoài hiệp định Potsdam, vào ngày 26 tháng
7 Churchil, Truman và Tưởng Giới Thạch đưa ra tuyên bố Potsdam trong đó vạch ra những
điều khoản đầu hàng cho Nhật Bản trong Thế chiến II. Việc giải giáp quân đội Nhật Bản
tại Đông Dương được giao cho quân đội Anh từ Vĩ tuyến 16 trở vào Nam và quân đội
Trung Hoa Dân Quốc từ vĩ tuyến 16 trở ra Bắc. Như vậy, có nghĩa là Pháp cũng không có
quyền lợi gì ở Việt Nam.
Để thực hiện tham vọng, Pháp phải giành cho được sự ủng hộ và giúp đỡ của Mĩ, siêu
cường đứng đầu phe đế quốc tư bản chủ nghĩa. Ngoài Mĩ, Pháp còn cần cả Anh nữa, vì
Anh vừa được Hội nghị các cường quốc ở Potsdam (từ ngày 17-7 đến ngày 2-8-1945), giao
cho nhiệm vụ giải giới và hồi hương quân Nhật ở phía Nam Đông Dương (từ vĩ tuyến 16
trở vào). Trong Chiến tranh thế giới thứ hai, các thuộc địa của Anh ở Đông Nam Á bị Nhật
chiếm đóng. Do đó, Anh chủ trương “giữ nguyên trạng như trước chiến tranh”: Thuộc địa
của đế quốc nào trả lại cho đế quốc đó. Vì vậy, ngày 24-8-1945, Anh kí với Pháp Hiệp ước
công nhận “chủ quyền” của Pháp ở Đông Dương. Thiếu tướng Douglas Gracey, chỉ huy
quân Anh ở miền Nam Đông Dương, tuyên bố: “Việc Pháp kiểm soát (Đông Dương) về
dân sự lẫn quân sự chỉ là vấn đề thời gian trong vài tuần lễ mà thôi”.
Ngày 28/2/1946, Hiệp ước Hoa - Pháp được ký kết ở Trùng Khánh, với hai điểm chính:

15
Một là, Pháp trả lại các tô giới và nhượng địa của Pháp trên đất Trung Quốc như
Quảng Châu Loan và nhượng cho Trung Hoa một số quyền lợi tại miền Bắc Việt Nam như
cho họ khai thác một đặc khu tại hải cảng Hải Phòng, miễn thuế cho hàng hóa của Trung
Hoa vận chuyển sang miền Bắc Việt Nam.
Hai là, chính phủ Trung Hoa Quốc dân đảng đồng ý cho Pháp thay thế quân Trung
Hoa giải giáp quân Nhật tại miền Bắc Việt Nam.
Pháp vào ngày 15-10-1945, Chính phủ Pháp yêu cầu Việt Nam thừa nhận việc quân đội
Pháp trở lại Bắc Kỳ thay thế quân đội Trung Hoa. Tiếp đó, ngày 25- 2-1946, lại có cuộc
gặp giữa Chủ tịch Hồ Chí Minh với Sainteny, Chủ tịch nêu rõ lập trường của Chính phủ
Việt Nam dân chủ cộng hoà là “độc lập và hợp tác với Pháp”. Sainteny cũng khẳng định:
Chính phủ Pháp sẵn sàng công nhận Việt Nam có quyền có chính phủ, có nghị viện, có
quân đội, có tài chính riêng, đồng thời ở trong khối Liên hiệp Pháp.
Sau khi 1.200 quân Pháp được phép đến Hà Nội thay thế quân Tưởng, bất chấp mọi cố
gắng đàm phán của Việt Nam, quân Pháp vẫn khiêu khích, phá hoại việc thi hành Hiệp
định Sơ bộ. Các hội nghị sau đó đều không kết quả. Ngày 14-9-1946, Chủ tịch Hồ Chí
Minh đã ký một bản tạm ước với Pháp sau khi hội nghị Phông-ten-nơ-bơ-lô không thành
công. Tuy đã ký Tạm ước 14-9, nhưng Pháp vẫn ráo riết tấn công về quân sự, hòng bắt ta
nhượng bộ nhiều hơn, tiến tới đặt lại tuyến thống trị trên khắp nước ta. Ở miền Bắc, chúng
gây ra những vụ khiêu khích xâm phạm chủ quyền. Ngày 20-11, lấy cớ bảo vệ Hoa kiều,
thực hiện quan thuế liên bang, thực dân Pháp nổ súng vào bộ đội ta và chiếm đóng ga Hải
Phòng. Cùng ngày, quân Pháp ở Lạng Sơn lấy cớ đi tìm xác binh lính Pháp bị Nhật giết,
để do thám các vị trí đóng quân của ta, cho xe tăng đi thị uy, dùng binh lính đánh chiếm
một số vị trí quân ta. Bị lực lượng vũ trang ta chống lại, chúng nổ súng đánh chiếm nhiều
công sở. Mặc dù ta cố gắng dàn xếp, nhưng chúng vẫn không chịu rút quân, còn khủng bố
dã man đồng bào ta. Ngày 27-11, Bộ Tổng chỉ huy quân đội Pháp ở Đông Dương ngang
ngược đòi ta phá bỏ những vật chướng ngại để quân Pháp được tự do đi lại trên đường Hải
Phòng - Đồ Sơn. Ngày 17-12, quân Pháp trắng trợn bắn vào trụ sở tự vệ ta, gây ra vụ thảm
sát đồng bào hết sức dã man ở phố Yên Ninh và Hàng Bún (Hà Nội). Ngày 18-12, quân
Pháp chiếm Bộ Tài chính và Bộ Giao thông công chính. Trong ngày 18, Pháp chuyển cho

16
ta hai bức thư, lời lẽ như những tối hậu thư, đòi phá hủy những chướng ngại trên đường
phố để quân Pháp tự do đi lại, đòi tự đảm nhiệm việc trị an ở Hà Nội....
Đánh giá chung:
Sau thắng lợi Cách mạng tháng Tám 1945, chúng ta nhanh chống giành chính quyền,
nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà ra đời. Pháp quay lại tái chiến với chúng ta lần hai cùng
với sự ủng hộ của Mỹ và Anh (các nước đứng đầu phe đế quốc tư bản chủ nghĩa) khiến
cho ta gặp nhiều khó khăn. Bên cạnh đó Pháp liên tục có những hành động hiếu chiến, trên
những hành động hiếu chiến đó cho chúng ta thấy: Thực dân Pháp đang ngang nhiên khiêu
chiến, gây hấn với chúng ta và chúng muốn dùng vũ lực bắt ta phải nhượng bộ.

17
1.2. Quá trình Đảng từng bước giải quyết xung đột với Pháp

6/9/1945, quân Anh vào miền Nam, dọn đường cho Pháp trở lại xâm lược nước ta.
Lợi dụng tình hình, bọn phản động ngóc đầu dậy làm tay sai cho Pháp chống phá cách
mạng. Trên cả nước còn 6 vạn quân Nhật chờ giải giáp, theo lệnh Anh chống cách mạng.

Với dã tâm cướp nước ta một lần nữa, ngày 23/9/1945 được sự giúp đỡ của quân
đội Anh, thực dân Pháp tiến công Sài Gòn mở đầu cuộc chiến tranh xâm lược nước ta lần
thứ hai. Tiếp đó, từ tháng 10/1945 - 1/1946, quân Pháp tiếp tục đánh chiếm nhiều địa bàn
quan trọng ở Nam Bộ và Nam Trung Bộ, từng bước thiết lập hệ thống kìm kẹp tại cơ sở.
Mở đầu cuộc chiến tranh xâm lược lần thứ 2 của thực dân Pháp ở Việt Nam.

Ngay sau khi quân Pháp nổ súng xâm lược, sáng 23/9/1945, Xứ ủy và Ủy ban nhân
dân Nam Bộ đã triệu tập Hội nghị tại đường Cây Mai, quyết định phát động toàn dân kháng
chiến. Đồng thời gửi điện xin chỉ thị của Trung ương Đảng và sau khi có chủ trương của
Trung ương đã nhanh chóng thành lập Xứ ủy Nam Bộ – cơ quan lãnh đạo kháng chiến toàn
Nam bộ; kiện toàn các tổ chức đảng, củng cố chính quyền, các tổ chức, đoàn thể cách
mạng; thống nhất các lực lượng vũ trang; chia nội thành Sài Gòn thành 4 mặt trận tiền
tuyến ngăn chặn quân địch; tổ chức các đơn vị mũi nhọn bí mật vào nội đô tập kích nhiều
vị trí, cơ sở quan trọng của quân Pháp…

Ngày 25/11/1945, Ban Chấp Hành Trung Ương Đảng ra chỉ thị “kháng chiến kiến
quốc”. Xác định rõ kẻ thù là thực dân Pháp, bài trừ nội phản, cải thiện đời sống cho nhân
dân.

Sau khi nhận được điện của Ủy ban kháng chiến Nam Bộ, ngày 26/9/1945, qua làn
sóng Đài Tiếng nói Việt Nam, Chủ tịch Hồ Chí Minh gửi đến đồng bào Nam Bộ bức thông
điệp thể hiện niềm tin vào “lòng kiên quyết ái quốc của đồng bào Nam Bộ”. Ngày
25/11/1945, Ban Thường vụ Trung ương Đảng ra chỉ thị về kháng chiến kiến quốc, trong
đó xác định rõ những “Nhiệm vụ chiến thuật của ta ở Nam bộ”. Sự lãnh đạo thống nhất của
Trung ương Đảng đã tạo tiền đề, quyết định để cuộc kháng chiến từng bước phát triển về
mọi mặt.
18
Trong lời hiệu triệu toàn dân của Chính phủ vào ngày 26/9/1945: Hãy ủng hộ phong
trào đấu tranh oanh liệt của đồng bào Nam Bộ. Từ đó, nhiều đoàn quân “Nam tiến” trong
cả nước liên tiếp lên đường; nhiều đợt quyên góp của cải, vật chất của nhân dân kịp thời
chi viện cho miền Nam, thể hiện ý chí toàn dân đứng lên bảo vệ nền độc lập, thống nhất
đất nước.

Đầu năm 1946 phe đế quốc đã dàn xếp, thỏa thuận để chính phủ Pháp và chính phủ
Trung Hoa dân quốc kí kết bản hiệp ước Trùng Khánh (còn gọi là hiệp ước Hoa-Pháp ngày
28/2/1946), trong đó nội dung thỏa thuận để Pháp đứa quân đội ra Bắc vĩ tuyến 16 làm
nhiệm vụ giải giáp quân đội Nhật thay thế 20 vạn quân Tưởng rút về nước. Đổi lại Pháp
nhượng lại nhiều quyền lợi quan trọng ở Trung Quốc và Việt Nam.

Đây thực chất là 1bản hiệp ước bán rẻ lợi ích dân tộc, chà đạp lên nền độc lập của
Việt Nam, hợp pháp hóa hành động xâm lược của thực dân Pháp ra miền Bắc.

Ngày 3/3/1946, Hồ Chí Minh đã nhận định vấn đề lúc này là biết mình biết người,
nhận định một cách khách quan những điều kiện lời lãi trong nước và ngoài nước mà chủ
trương cho đúng, chủ trương tạm thời là “giảng hòa với Pháp”, nhân nhượng về lợi ích
kinh tế nhưng đòi Pháp thừa nhận quyền dân tộc tự quyết của Việt Nam. Lợi dụng giảng
hòa để diệt bọn phản động bên trong,tay sai Tàu Trắng, trừ những hành động ly gián ta với
Pháp.

Ngày 6/3/1946 tại Hà Nội,chủ tịch Hồ Chí Minh đã thay mặt chính phủ Việt Nam
dân chủ cộng hòa kí với đại diện chính phủ cộng hòa Pháp bản Hiệp định sơ bộ.

Nêu rõ: chính phủ Pháp công nhận Việt Nam là một quốc gia tự do, có chính phủ,
nghị viện, tài chính và quân đội riêng nằm trong Liên Bang Đông Dương thuộc khối Liên
Hiệp Pháp. Về phía Việt Nam đồng ý để 15000 quân đội Pháp ra miền Bắc thay cho 20
vạn quân đội Tưởng rút về nước sẽ rút dần trong 5 năm.

19
Biết mình biết ta, không nóng vội xông lên trong khi lực lượng vẫn chưa sẵn
sàng, đồng thời không ngây thơ tin vào Hiệp định mà lơi lỏng phòng bị, tuy nhiên chỉ
nhân nhượng về kinh tế, tuyệt đối không để mất quyền tự quyết về chính trị.

Tạm lùi để miền Nam nói riêng và toàn quốc nói chung có thời gian nghỉ ngơi
và kiến thiết lại sau khi giành chính quyền.

Sau khi kéo quân ra Bắc, Pháp bí mật xây dựng một miền Nam tự trị với âm mưu
chia cắt nước ta, hành động đi ngược hoàn toàn với thỏa thuận trước đó trong Hiệp định sơ
bộ.

Từ ngày 19/4 đến 10/5/1946, tiến hành Hội nghị trù bị ở Đà Lạt nhưng thất bại trước
lập trường của thực dân Pháp, chúng liên tục trì hoãn và gây khó dễ cho ta nhằm bành
trướng dã tâm ngày 1 lớn dần.

Cho đến trước khi ký Tạm ước 14/9/1946, thực dân Pháp liên tiếp phá vỡ những cơ
hội có thể tìm ra giải pháp hòa bình cho vấn đề Việt Nam, quyết tâm gây chiến tranh. Từ
ngày 6/7 đến 13/9/1946, Hội nghị chính thức Việt - Pháp tại Phôngtennơblô (Pari).

Phía Việt Nam nêu lên những nguyên tắc về chủ quyền: độc lập, thống nhất, hợp
tác trên cơ sở bình đẳng. Song, với ngoan cố theo đuổi chính sách thực dân, tìm mọi cách
phục hồi chế độ thuộc địa ở Đông Dương, phía Pháp khước từ những thiện chí của Việt
Nam. Pháp không chấp nhận Việt Nam là quốc gia tự trị mà chỉ đồng ý là bán tự trị với
thái độ vô cùng ngạo mạn và hiếu chiến. Dù Việt Nam đã luôn rộng mở đón chào người
Pháp, sẵn sàng nhân nhượng ưu tiên họ số một trên phương diện kinh tế, duy chỉ cần được
công nhận là quốc gia tự do, độc lập. Tuy nhiên, bác bỏ hoàn toàn thiện chí ấy, với tiềm
lực quân sự và kinh tế to lớn, chúng vỗ ngực tự xưng rằng có thể nuốt trọn Việt Nam chỉ
trong vòng 8 ngày.

Chính phủ Việt Nam cố gắng thực hiện Tạm ước 14/9, nhằm tranh thủ mọi khả năng
để gìn giữ nền hòa bình tuy mong manh, đồng thời tích cực chuẩn bị cho kháng chiến cứu
nước. Song, phía thực dân Pháp hiếu chiến cố tình gây chiến.

20
Hai bên không giải quyết được quyền tự quyết cho dân tộc Việt Nam.

Ngày 14/9 ta đành ký thêm bản Tạm ước 14/9 nhân nhượng một số quyền lợi về
kinh tế, văn hóa đổi lấy sự an toàn cho đoàn đại biểu. Hai bên thống nhất được một số điều
khoản về kinh tế, văn hóa, nhưng về chính trị ta không được phép nhân nhượng để mất
quyền tự quyết vào tay bọn thực dân nên thỏa thuận rằng sẽ tiếp tục đàm phán vào đầu năm
1947.

Vẫn luôn mong muốn giải quyết bằng biện pháp hòa bình, kiên trì đấu tranh
ngoại giao để đi đến kết quả. Nhưng dã tâm của kẻ thù thật sự quá lớn dẫn đến mọi
nỗ lực ngoại giao trở nên vô nghĩa, ta thậm chí còn phải nhân nhượng thêm để đảm
bảo an toàn cho đoàn đại biểu Việt Nam.

Từ tháng 9/1946 tình hình chiến sự ở Việt Nam ngày càng căng thẳng do nguy cơ
chiến tranh giữa Việt Nam và Pháp tăng dần. Bộ chỉ huy quân đội Pháp đã bộc rõ thái độ
bội ước, tiếp tục tăng cường quân số đẩy mạnh tăng cường bình định ở các tỉnh Nam Bộ,
xúc tiến tái lập Nam Kì tự trị, gây hấn, khiêu khích, gây xung đột quân sự, lấn chiếm nhiều
vị trí nơi đóng quân ở Bắc Bộ Việt Nam, đặt lại nền thống trị ở Campuchia và Lào.

Để ngăn cản một cuộc chiến tranh nổ ra quá sớm và không cân sức với Pháp nên
nhiều lần chủ tịch Hồ Chí Minh thay mặt chính phủ Việt Nam đã gửi điện văn và thư từ
cho chính phủ Pháp, thủ tướng Pháp, song đều không nhận được câu hồi đáp. Vẫn đấu
tranh ngoại giao với đại diện Pháp ở Việt Nam nhưng không gặt hái được gì.

Ta chưa bao giờ từ bỏ con đường đấu tranh hòa bình để bảo vệ độc lập và luôn
muốn cứu vãn mối quan hệ Việt-Pháp dù gặp phải vô vàn khó khăn và thất bại trước
thái độ ngạo mạn, hiếu chiến của địch, hành động lật lọng ngoan cố một mực đẩy Việt
Nam vào con đường chiến tranh.

Cuối tháng 11/1946 thực dân Pháp mở rộng cuộc tấn công vũ trang, đánh chiếm Hải
Phòng, Lạng Sơn, tiếp đó chiếm đóng trực tiếp ở Đà Nẵng, Hải Dương, tấn công vào các
vùng tự do của ta ở Nam Trung Bộ và Nam Bộ, hậu thuẫn cho lực lượng phản động xúc

21
tiến thành lập cái gọi là “Chính phủ cộng hòa Nam Kì” và triệu tập hội nghị liên bang Đông
Dương. Quân đội Pháp ở Hà Nội ngang nhiên tấn công đánh chiếm trụ sởt ài chính, bộ giao
thông, bắn đại bác gây ra vụ thảm sát đồng bào Hà Nội.

Ngày 18/12/1946, đại diện Pháp ở Hà Nội đơn phương tuyên bố cắt đứt mọi liên hệ
với chính phủViệt Nam, đưa liên tiếp 3 tối hậu thư đòi phía Việt Nam phải giải giáp; giải
tán lực lượng tự vệ chiến đấu, đòi độc quyền thực thi nhiệm vụ kiểm soát, giữ gìn an ninh,
trật tự thành phố…

Chúng luôn ngoan cố bám giữ lập trường thực dân, ngang nhiên phá vỡ các
hiệp ước và đem quân đánh chiếm khắp nơi để dồn ta đến bước cùng.

Đến ngày 12/9/1946, thiện chí hòa bình của chính phủ nhân dân Việt Nam đã bị
thực dân pháp thẳng thừng cự tuyệt. Âm mưu đặt ách thống trịlên nước ta được bộc lộ rõ
hơn bao giờ hết.

Ngày 12/12/1946 trung ương ra chỉ thị toàn dân kháng chiến. Đảng kiên quyết phát
động cuộc kháng chiến toàn quốc đúng thời cơ lịch sử với khí phách “thà hy sinh tất cả,
chứ nhất định không chịu mất nước, nhất định không chịu làm nô lệ”.

Trong hai ngày 18 và 19-12-1946, Thường vụ Trung ương Đảng họp mở rộng, ở
làng Vạn Phúc (Hà Đông), dưới sự chủ tọa của Chủ tịch Hồ Chí Minh, quyết định phát
động cuộc kháng chiến chống Pháp trên cả nước vào lúc 20 giờ ngày 19-12-1946. Ngay
trong đêm 19-12, Chủ tịch Hồ Chí Minh viết “Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến”. Cả dân
tộc Việt Nam đứng lên theo tiếng gọi thiêng liêng của Chủ tịch Hồ Chí Minh.

NHẬN XÉT:

22
Về phía thực dân Pháp:

Phía thực dân Pháp hiếu chiến cố tình gây chiến.

Quân đội pháp gây hấn ở Nam Bộ, âm mưu đặt ách cai trị ở các nước Đông Dương
một lần nữa.

Ngày 2/9/1945 quân Pháp đã trắng trợn gây hấn, bắn vào cuộc mít tinh mừng ngày
độc lập của nhân dân taởSài Gòn-ChợLớn.

Trước 0 giờ ngày 23/9/2945 quân Pháp nổ súng đánh chiếm trụ sở Uỷ ban nhân dân
Nam Bộ (nay là Uỷ ban nhân dân Thành Phố), sở cảnh sát, ngân hàng, bệnh viện … mở
đầu cuộc chiến tranh xâm lượt lần thứ2 của thực dân Pháp ởViệt Nam.

Ngày 16-12-1946, Mooclie, chỉ huy quân Pháp ở miền Bắc Đông Dương hai lần gửi tối
hậu thư, tuyên bố “Quân Pháp sẽ tự mình đảm nhiệm trị an tại Hà Nội chậm nhất là vào
sáng 20 tháng 12 năm 1946”.

Trong tháng 12-1946, tại Hà Nội, thực dân Pháp liên tiếp gây các hành động xâm phạm
chủ quyền.

Bộ Chỉ huy quân Pháp đòi Việt Nam triệt phá các lũy chướng ngại trên đường phố,
trao cho quân Pháp quyền giữ trật tự trong thành phố.

Về phía Việt Nam:

Xây dựng chế độ mới và chính quyền cách mạng: Ngày 3/9/1945, chính phủ lâm
thời họp phiên họp đầu tiên dưới sự chủ trì của chủ tịch Hồ Chí Minh xác định nhiệm vụ
lớn trước mắt: diệt giặc đói, diệt giặc dốt, diệt giặc ngoại xâm. Ngày 25/11/1945, Ban Chấp
Hành Trung ương Đảng ra chỉ thị “khángchiến kiến quốc”. Xác định rõ kẻ thù là thực dân
Pháp, bài trừ nội phản, cải thiện đời sống cho nhân dân.

23
Thực hiện những nhân nhượng về cả chính trị, quân sự, kinh tế, tài chính, Đảng còn
tuyên bố tự giải tán (11-11-1945), rút vào bí mật để bảo toàn lực lượng nhằm tránh sự công
kích của kẻ thù.

Khi Pháp và Chính phủ Trung Hoa Dân quốc thỏa hiệp, đe dọa trực tiếp tới nền độc
lập của Việt Nam, Đảng và Chính phủ Việt Nam đã có đối sách nhạy bén, phù hợp. Từ
tháng 3-1946 đến tháng 12-1946, Đảng và Chính phủ chủ trương hòa với Pháp, đẩy nhanh
quân Trung Hoa về nước.

Đánh giá chiều hướng chính sách của các nước lớn, Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh
kịp thời đề ra quyết sách “Hòa để tiến”, sợi chỉ đỏ xuyên suốt toàn bộ cuộc đấu tranh ngoại
giao với Pháp là: “Đối với Pháp, độc lập về chính trị, nhân nhượng về kinh tế”.

Khi khả năng hòa hoãn không còn, trên cơ sở thế và lực đã chuẩn bị trong điều kiện
cho phép, Đảng kiên quyết phát động cuộc kháng chiến toàn quốc.

Quyết định phát động tấn của Đảng:

Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến và đường lối kháng chiến của Đảng, là hoàn
đúng đắn, trở thành ngọn cờ dẫn đường, chỉ lối, động viên toàn Đảng, toàn quân, toàn dân
ta tiến lên. Đường lối đó được nhân dân ủng hộ, hưởng ứng trong suốt quá trình kháng
chiến và trở thành một nhân tố quan trọng hàng đầu quyết định thắng lợi trong cuộc kháng
chiến chống Pháp.

ĐÁNH GIÁ CHUNG

Thực dân Pháp chính là thủ phạm gây ra cuộc chiến tranh với sự tiếp tay của các đế
quốc Anh và Mỹ. Tuy vậy, quan điểm xuyên suốt của Việt Nam vẫn là nhân đạo và thiện
chí hòa bình. Ta luôn chủ động đàm phán và nhân nhượng để có thể giải quyết theo cách
êm xuôi nhất, tuy nhiên không đồng nghĩa với việc lơ là, lơi lỏng trong khi phòng bị mà
luôn âm thầm củng cố, xây dựng lực lượng ngay từ sau Cách mạng tháng 8 để sẵn sàng

24
cho tiếng súng nổra bất kỳ lúc nào. Bởi lẽ hơn ai hết ta hiểu rõ kẻ thù mà ta đang phải đối
diện là ai và sự ngạo mạn, tàn độc của chúng đã giẫm đạp lên đồng bào ta như thế nào, bao
năm ngậm đắng nuốt cay của dân tộc này, giờ đây mọi sự phải tuyệt nhiên cẩn trọng, chắc
chắn, chờ thời cơ chín muồi để ra tay.

Hoàn toàn không thể nói đây là hành động hiếu chiến bởi lẽ xét cả một giai đoạn
trước đó, ta đã không biết bao lần nhân nhượng, kiên trì đàm phán chứ chẳng phải nóng
vội, chủ chiến ngay từ đầu. Đây là tình thế bắt buộc không còn sự lựa chọn nào khác: một
là đánh, hai là mất nước.

Đây chính là thời cơ chín muồi khi dã tâm xâm lược của thực dân Pháp bộc lộ rõ
hơn bao giờ hết, đồng thời trong suốt thời gian qua ta vẫn luôn âm thầm củng cố, tang
cường lực lượng để chuẩn bị cho ngày hôm nay. Nếu đánh sớm hơn, có lẽ lực lượng vẫn
chưa sẵn sàng để chống chọi lại với Pháp,còn nếu chậm thêm một nhịp, có thểViệt Nam sẽ
lại rơi vào ách thống trị của bọn thực dân một lần nữa.

Đường lối kháng chiến chống thực dân pháp của Đảng ta được hình thành, bổ sung,
phát triển qua thực tiễn cách mạng Việt Nam trong những năm 1945–1947.

TIỂU KẾT CHƯƠNG 1

Bối cảnh lịch sử Việt Nam sau cách mạng tháng Tám.

Sau cách mạng tháng 8 cùng với diễn biến của tình hình thế giới đã mang lại cho
Việt Nam không ít thuận lợi trong việc quản lý và xây dựng đất nước. Tuy nhiên, dân tộc
Việt Nam lại không thể tránh khỏi được nhiều khó khăn khi “thù trong, giặc ngoài” những
tàn dư sau chiến tranh đang ngày càng tàn phá mạnh mẽ. Có thể nói, tình thế Việt Nam lúc
bấy giờ là “ngàn cân treo sợi tóc”.

Năm 1945, phong trào đấu tranh của Việt Nam giành được nhiều thắng lợi, cùng
với đó, tình hình thế giới cũng có nhiều chuyển biến tốt đẹp với sự phát triển mạnh mẽ của

25
phòng trào cách mạng thế giới và hệ thống Xã hội chủ nghĩa, góp phần tạo nên chỗ dựa
vững chắc cho cách mạng Việt Nam.

Sự lãnh đạo trực tiếp của Chủ tịch Hồ Chí Minh và Đảng Cộng sản. Như chúng ta
đã biết,vì tình hình chính trị của đất nước, Đảng Cộng sản Việt Nam đã chuyển vào trạng
thái hoạt động bí mật, điều này đã làm cho việc chỉ đạo và phối hợp, quản lý, và điều hành
công việc rất khó khăn. Hiện nay, khi đất nước được giải phóng, dưới sự chỉ đạo sáng suốt
của Chủ tịch Hồ Chí Minh cùng Đảng Cộng sản Việt Nam hứa hẹn mang lại nhiều thành
tựu to lớn cho dân tộc sau này.

Sự bao vây của các thế lực quân đội nước ngoài:

Từ vĩ tuyến 16 trở ra Bắc, gần 20 vạn quân Trung Hoa Dân quốc lấy danh nghĩa là
giải giáp quân Nhật nhưng âm mưu chính là lật đổ chính quyền cách mạng. Mang theo bọn
phản động Việt Nam Quốc Dân đảng và Việt Nam Cách Mạng đảng tìm mọi cách chống
phá chính quyền cách mạng.

Từ vĩ tuyến 16 trở vào Nam: Quân Anh với danh nghĩa là giải giáp quân Nhật, nhưng
âm mưu lại là giúp đỡ Pháp quay trở lại xâm lược, tạo điều kiện cho quân Pháp quay lại
xâm lược miền Nam.

Ngoài ra, trên cả nước ta có 6 vạn quân Nhật chờ giải giáp. Một bộ phận quân Nhật
đã cố tình gây ra nhiều tội ác cho nhân dân ta. Các thế lực thù địch trong nước thì luôn tìm
mọi cách để chống phá chính quyền cách mạng.

Những hành động hiếu chiến của thực dân Pháp:

Dã tâm của kẻ thù thật sự quá lớn dẫn đến mọi nỗ lực ngoại giao trở nên vô nghĩa,
ta thậm chí còn phải nhân nhượng thêm để đảm bảo an toàn cho đoàn đại biểu Việt Nam.
Bộ chỉ huy quân đội Pháp đã bộc rõ thái độ bội ước, tiếp tục tăng cường quân số đẩy
mạnh tăng cường bình định ở các tỉnh Nam Bộ, xúc tiến tái lập Nam Kì tự trị, gây hấn,

26
khiêu khích,gây xung đột quân sự, lấn chiếm
nhiều vị trí nơi đóng quân ở Bắc Bộ Việt Nam, đặt lại nền thống trị ở Campuchia và Lào.

Chúng luôn ngoan cố, ngang nhiên phá vỡ các hiệp ước và cố tình gây hấn đem
quân đánh chiếm khắp nơi để dồn ta đến bước cùng. Một mực đẩy Việt Nam vào con
đường chiến tranh.

Quá trình Đảng từng bước giải quyết xung đột với Pháp.

Trước tình hình đó Đảng ta vẫn luôn mong muốn giải quyết bằng biện pháp hòa
bình, kiên trì đấu tranh ngoại giao để đi đến kết quả.

Ta đã nhiều lần nhân nhượng nhưng chúng liên tục gây khó dễ cho ta nhằm bành
trướng dã tâm ngày một lớn dần. Nhiều hiệp định được đưa ra nhưng không giải quyết
được quyền tự do dân tộc Việt Nam. Chúng luôn ngoan cố bám giữ lập trường thực dân,
đặt ta vào thế bị động ngang nhiên phá vỡ các hiệp ước và đem quân đánh chiếm khắp nơi
để dồn ta đến bước cùng.

Cuộc chiến tranh bùng nổ.

Đến nước này thì ta không thể nhân nhượng được nữa. Mọi hi vọng níu kéo hòa
bình chính thức tan biến. Mọi nỗ lực đàm phán, nhân nhượng để bảo vệ nền độc lập trong
hòa bình đều đổ sông đổ biển trước dã tâm quá lớn của thực dân Pháp, chúng buộc ta cầm
súng lần nữa để bảo vệ nền đọc lập dân tộc.

Trong hai ngày 18 và 19-12-1946, Thường vụ Trung ương Đảng họp mở rộng, ở
làng Vạn Phúc (Hà Đông), dưới sự chủ tọa của Chủ tịch Hồ Chí Minh, quyết định phát
động cuộc kháng chiến chống Pháp trên cả nước vào lúc 20 giờ ngày 19-12-1946. Ngay
trong đêm 19-12, Chủ tịch Hồ Chí Minh viết “Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến”. Cả dân
tộc Việt Nam đứng lên theo tiếng gọi thiêng liêng của Chủ tịch Hồ Chí Minh.

27
Chương 2
ĐƯỜNG LỐI KHÁNG CHIẾN CHỐNG THỰC DÂN PHÁP VÀ
GIÁ TRỊ ĐỐI VỚI SỰ PHÁT TRIỂN CỦA CÁCH MẠNG VIỆT NAM
2.1. Đường lối kháng chiến chống thực dân Pháp
2.1.1. Nội dung đường lối kháng chiến chống thực dân Pháp 45-54
Đường lối kháng chiến được thể hiện rõ,trong nhiều văn kiện quan trọng của
Đảng,bắt đầu từ bảng chỉ thị về kháng chiến kiến quốc(ngày 25-11-1945),tiếp đến là
công việc khẩn cấp bây giờ (tháng 10-1946), Chỉ thị toàn dân kháng chiến (ngày 12-12-
1946)và lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến của Chủ tịch Hồ Chí Minh (ngày 19-12-
1946) những quan điểm cơ bản của đường lối kháng chiến hình thành.
Giữa năm 1947, Tổng bí thư Trường Trinh đã viết một loạt bài báo cáo nhằm
hướng dẫn việc thực hiện đường lối của Đảng, những bài viết này được tập hợp thành
một cuốn sách Trường kỳ kháng chiến nhất định thắng lợi tác phẩm trường kỳ kháng
chiến nhất định thắng lợi đã thể hiện những quan điểm cơ bản về đường lối kháng chiến
của Đảng đó là đường lối “toàn dân, toàn diện, lâu dài và dựa vào sức mình là chính” dựa
vào cuộc kháng chiến của nhân dân ta đi đến thắng lợi.
So sánh lực lượng Việt Nam và Pháp
Trong những ngày đầu lực lượng giữa ta và địch quá chênh lệch, nhưng với
lòng yêu nước sâu sắc, quyết tâm sắt đá bảo vệ nền độc lập, tự do, của Tổ quốc, có sự
lãnh đạo kịp thời, đúng đắn của Xứ ủy Nam Bộ, của Chính phủ Trung ương, quân và dân
Nam Bộ, các tỉnh Nam Trung Bộ, Tây Nguyên đã tổ chức lại lực lượng, củng cố các khu
căn cứ và lực lượng vũ trang, động viên nhân tài, vật lực của toàn dân đứng lên ngăn
chặn bước tiến của thực dân Pháp; tích cực chuẩn bị mọi mặt cho cuộc kháng chiến lâu
dài sau
này
Nội dung cụ thể:
Đường lối kháng chiến chống thực dân Pháp của Đảng ta được hình thành, bổ
sung, phát triển qua thực tiễn cách mạng Việt Nam trong những năm 1945 đến 1947. Nội
dung cơ bản của đường lối là: dựa trên sức mạnh toàn dân, tiến hành kháng chiến toàn

28
dân, toàn diện, lâu dài và dựa vào sức mình là chính. Đường lối đó được thể hiện trong
nhiều văn kiện quan trọng của Đảng, lời kêu gọi, bài viết, bài nói của Chủ tịch Hồ Chí
Minh và đồng chí Tổng Bí thư Trường Chinh, trong đó tập trung ở các văn bản: Chỉ thị
Kháng chiến kiến quốc (25-11-1945), Chỉ thị Tình hình và chủ trương (3-3-1946), Chỉ thị
Hòa để tiến (9-3-1946), Chỉ thị Toàn dân kháng chiến (12-12-1946), Lời kêu gọi toàn
quốc kháng chiến của Chủ tịch Hồ Chí Minh (19-12-1946), tác phẩm Kháng chiến nhất
định thắng lợi của đồng chí Trường Chinh (8-1947),...Mục tiêu của cuộc kháng chiến là
đánh đổ thực dân Pháp xâm lược, giành nền độc lập, tự do, thống nhất hoàn toàn; vì nền
tự do dân chủ và góp phần bảo vệ hòa bình thế giới…
Kháng chiến toàn dân là đem toàn bộ sức dân, tài dân, lực dân; động viên toàn dân
tích cực tham gia kháng chiến. Xây dựng sự đồng thuận, nhất trí của cả nước, đánh địch ở
mọi nơi, mọi lúc, “mỗi người dân là một chiến sĩ, mỗi làng xã là một pháo đài,
mỗi đường phố là một mặt trận”. Trong đó Quân đội nhân dân làm nòng cốt cho toàn dân
đánh giặc.

Kháng chiến toàn diện: đánh địch về mọi mặt chính trị, quân sự, kinh tế, văn hóa,
ngoại giao. Trong đó:

+ Về chính trị: Phải đoàn kết toàn dân chống Pháp xâm lược, phải thống nhất toàn dân làm
cho mặt trận dân tộc thống nhất ngày càng vững chắc và rộng rãi. Phải củng cố chế độ
cộng hòa dân chủ xây dựng bộ máy kháng chiến vững mạnh, thống nhất quân dân chính
trong toàn quốc, phát triển các đoàn thể cứu quốc ,cùng củng cố bộ máy lãnh đạo kháng
chiến toàn dân. Phải cô lập kẻ thù, kéo theo nhiều bạn làm cho nhân dân Pháp và nhân
dân các thuộc địa Pháp tích cực ủng hộ ta chống lại thực dân phản động Pháp.Coi trọng
xây dựng Đảng, xây dựng chính quyền nhà nước và mặt trận dân tộc thống nhất vững
mạnh.
+ Về quân sự: Triệt để dùng “du kích vận động chiến” tiến công địch ở khắp nơi vừa đánh
địch vừa xây dựng lực lượng tạm cư nhân dân, ra xa vùng chiến sự xây dựng căn cứ địa
kháng chiến và hậu phương vững mạnk.Chủ động làm thất bại các kế hoạch chiến tranh
lớn của địch,phối hợp chặt chẽ các chiến trường,với sự lãnh đạo chỉ đạo tập trung.Thống

29
nhất về kinh tế,xây dựng nền kinh tế kháng chiến theo nguyên tắc vừa kháng chiến vừa
kiên quốc.Toàn dân tăng gia sản xuất tự túc tự cấp về mọi mặt, ra sức phá kinh tế địch,
không cho chúng thực hiện mưu đồ lấy chiến tranh nuôi chiến tranh.Kinh tế kháng chiến
,về hình thức là kinh tế chiến tranh,về nội dung là dân chủ mới.Chú trọng phát triển nông
nghiệp,thủ công nghiệp,thương nghiệp và công nghiệp.Phát triển các thành phần kinh tế
từng bước, thực hiện chính sách ruộng đất,đối với nông dân, giảm tô và cải cách ruộng
đất. Phát triển kinh tế quốc doanh, gây mầm cho chủ nghĩa xã hội.
+ Về văn hóa: Thực hiện hai nhiệm vụ, xóa bỏ nền văn hóa nô dịch ngu dân,xâm
lược của thực dân Pháp và xây dựng nền văn hóa dân chủ mới, dựa trên ba nguyên tắc
dân tộc hóa, khoa học hóa, đại chúng hóa, phát triển giáo dục đào tạo các bậc phổ thông
Trung học chuyên nghiệp và đại học tiến hành cải cách giáo dục phát triển văn học nghệ
thuật coi trọng coi văn nghệ là một mặt trận và nghệ sĩ là chiến sĩ trên mặt trận này.
+ Về đấu tranh ngoại giao: Triệt để cô lập kẻ thù, tranh thủ thêm nhiều bầu bạn, làm
cho nhân dân thế giới kể cả nhân dân Pháp hiểu, tán thành và ủng hộ cuộc kháng chiến
chính nghĩa của nhân dân Việt Nam.Tranh thủ sự ủng hộ giúp đỡ về mọi mặt của các
nước xã hội chủ nghĩa Nhất là Liên xô Trung Quốc.
Kháng chiến dựa vào sức mình là chính, là sự kế thừa tư tưởng chiến lược trong
chỉ đạo sự nghiệp cách mạng giải phóng dân tộc, giành chính quyền của lãnh tụ Hồ Chí
Minh. Phải lấy nguồn nội lực của dân tộc, phát huy nguồn sức mạnh vật chất, tinh thần
vốn của trong nhân dân ta làm chỗ dựa chủ yếu, nguồn lực chủ yếu của cuộc chiến tranh
nhân dân. Trên cơ sở đó, để tìm kiếm, phát huy cao độ và có hiệu quả sự ủng hộ, giúp đỡ
tinh thần và vật chất của quốc tế khi có điều kiện. Lấy độc lập, tự chủ về đường lối là yếu
tố quan trọng hàng đầu.

Về mục đích kháng chiến: Cuộc kháng chiến chống thực dân pháp và can thiệt Mỹ
là sự kế thừa và phát triển thành quả Cách mạng Tháng tám nhằm đánh đổ thực dân Pháp
xâm lược,giành thống nhất, độc lập toàn diện.

30
Tính chất của cuộc kháng chiến: được khẳng định đây là cuộc chiến tranh cách
mạng của toàn dân, chiến tranh chính nghĩa, nó có tính chất toàn dân, toàn diện, lâu
dài.Do vậy, đó là cuộc chiến tranh tiến bộ vì tự do,độc lập,dân chủ và há hình có tính chất
dân tộc giải phóng và dân chủ mới.Đảng chủ trương liên hiêp với dân tộc Pháp, chống
phản động thực dân Pháp,đoàn kết với Miên,Lào và các dân tốc yêu chuộng tự do hòa
bình
Chương trình và nhiệm vụ kháng chiến: Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh trên cơ sở
xác định rõ đối phương của cách mạng Việt Nam là chủ nghĩa đế quốc Mỹ, kẻ thù phụ là
các thế lực phong kiến.Lúc này là phong kiến phản động, từ đó đề ra nhiêm vụ cơ bản
của cách mạng Việt Nam; (1)Đánh đuổi bọn đế quốc xâm lược làm cho Việt Nam hoàn
toàn thống nhất và độc lập;(2) Xóa bỏ đi những di tích phong kiến và nửa phong kiến làm
cho người cày có ruộng, phát triển chế độ dân chủ nhân dân,gây cơ sở cho chủ nghĩa xã
hội.
Động lực của cách mạng Việt Nam là nhân dân, chủ yếu là công, nông lãnh đạo
cách mạng Việt Nam là giai cấp công nhân, Nông dân là bạn đồng minh "lớn mạnh và
chắc chắn" của giai cấp công nhân.
Phương châm kháng chiến:Đảng ta chủ trương tiến hành chiến tranh nhân dân,
thực hiện " kháng chiến, toàn dân, toàn diên, lâu dài và dựa vào sức mình là chính"
Trong đường lối chiến tranh dân dân của Đảng, điều cốt lõi nhất và cơ bản nhất là
chiến lược toàn dân kháng chiến.Đảng tôt chức cả nước thanh một mặt trận,tạo nên thé
trận cả nước đánh giặc, phát huy sức mạnh của toàn dân và khối đoàn kết của toàn dân
tộc, tham gia kháng chiến với những biện pháp đa dạng phong phú, phù hợp như tuyên
truyền giáo dục, động viên chính trị sâu rộng từ đó xác định trách nhiêm đứng lên cứu
nước nhà.Chú trọng xây dựng lực lượng vũ trang với ba thứ quân:bộ đội chủ lực, bồ đội
địa phương và quân dân du kịc.Từ chiến tranh du kính phát triển lên chiến tranh chính
quy, kết hợp du kích chiến với vận động chiến.

2.1.2. Đánh giá chung

31
Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến và đường lối kháng chiến của Đảng là hoàn
toàn đúng đắn trở thành ngọn cờ dẫn đường, chỉ lối, động viên toàn Đảng, toàn quân,
toàn dân ta tiến lên. Đường lối đó được nhân dân ủng hộ, hưởng ứng trong suốt quá trình
kháng chiến và trở thành một nhân tố quan trọng hàng đầu quyết định thắng lợi của cuộc
kháng chiến chống Pháp vốn của trong nhân dân ta làm chỗ dựa chủ yếu, nguồn lực chủ
yếu của cuộc chiến tranhnhân dân. Trên cơ sở đó, để tìm kiếm, phát huy cao độ và có
hiệu quả sự ủng hộ, giúp đỡ tinh thần và vật chất của quốc tế khi có điều kiện. Lấy độc
lập, tự chủ về đường lối là yếu tố quan trọng hàng đầu.

Đối với nước ta, việc đề ra và thực hiện thắng lợi đường lối kháng chiến, xây dựng
chế độ dân chủ nhân dân đã làm thất bại cuộc chiến tranh xâm lược của thực dân Pháp
được đế quốc Mỹ giúp sức ở mức độ cao, buộc chúng phải công nhận độc lập, chủ quyền,
toàn vẹn lãnh thổ của các nước Đông Dương; đã làm thất bại âm mưu mở rộng và kéo dài
chiến tranh của đế quốc Mỹ, kết thúc chiến tranh lập lại hoà bình ở Đông Dương; giải
phóng hoàn toàn miền Bắc.

Đối với quốc tế, thắng lợi đó đã cổ vũ mạnh mẽ phong trào giải phóng dân tộc trên
thế giới, mở rộng địa bàn, tăng thêm lực lượng cho chủ nghĩa xã hội và cách mạng thế
giới; cùng với nhân dân Lào và Campuchia đập tan ách thống trị của chủ nghĩa thực dân
cũ trên thế giới, trước hết là hệ thống thuộc địa của thực phân Pháp.

32
2.2. Giá trị đối với sự phát triển của cách mạng Việt Nam
2.2.1. Khái quát một số kết quả của cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp
- Đầu tháng 9/1858, thực dân Pháp nổ súng tiến công Đà Nẵng, mở đầu cuộc chiến tranh
xâm lược Việt Nam. Đây là lần đầu tiên trong lịch sử, dân tộc ta phải đương đầu với họa
xâm lăng từ một nước phương Tây, hoàn toàn chiếm ưu thế về tiềm lực kinh tế, quân sự,
nhất là về vũ khí, công nghệ quân sự. Với truyền thống yêu nước nồng nàn và ý chí kiên
cường, bất khuất, trong suốt nửa cuối thế kỷ 19 (1858-1896), đông đảo nhân dân trên khắp
mọi miền đất nước đã anh dũng chiến đấu, tích cực cùng quan quân triều đình hoặc tự mình
đứng lên chống thực dân Pháp. Mặc dù thực dân Pháp khuất phục được triều đình nhà
Nguyễn, nhưng không thể đè bẹp tinh thần kháng chiến của dân tộc Việt Nam.
Các văn thân, sĩ phu yêu nước, những người đứng đầu các cuộc đấu tranh đã dựa vào dân,
tin tưởng vào sức mạnh và ý chí quật cường của nhân dân, trở thành ngọn cờ quy tụ, đoàn
kết nhân dân chống Pháp. Truyền thống yêu nước quật cường của dân tộc trỗi dậy mạnh
mẽ, nhân dân khắp cả nước tích cực đứng lên chống lại kẻ thù xâm lược, bảo vệ đất nước.
Nhưng do thiếu đường lối đúng đắn, thiếu tổ chức và lực lượng cần thiết nên lần lượt thất
bại.
- Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời, tổ chức và lãnh đạo mọi thắng lợi của cách mạng
Việt Nam
+ 3/2/1930, Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời, lãnh đạo nhân dân cả nước đứng lên chống
thực dân, đế quốc, giành độc lập cho dân tộc. Dưới sự lãnh đạo của Đảng, các cao trào cách
mạng diễn ra trên khắp cả nước với khí thế sôi nổi.
+ 9/3/1945, phát xít Nhật đảo chính hất cẳng Pháp. Ngay trong đêm đó, Hội nghị Ban
Thường vụ Trung ương mở rộng quyết định phát động một cao trào.
+ 3/1945, Trung ương Đảng ra Chỉ thị “Nhật - Pháp bắn nhau và hành động của chúng ta”.
+ 4/1945, Trung ương triệu tập Hội nghị quân sự cách mạng Bắc Kỳ, quyết định nhiều vấn
đề quan trọng, thống nhất các lực lượng vũ trang thành Việt Nam Giải phóng quân.
+ 16/4/1945, Tổng bộ Việt Minh ra Chỉ thị tổ chức các Ủy ban Dân tộc giải phóng các cấp
và chuẩn bị thành lập Ủy ban giải phóng dân tộc Việt Nam, tức Chính phủ lâm thời cách
mạng Việt Nam.

33
+ Từ tháng 4/1945, cao trào kháng Nhật, cứu nước diễn ra mạnh mẽ.
+ Đầu tháng 5/1945, Bác Hồ từ Cao Bằng về Tuyên Quang, chọn Tân Trào làm căn cứ chỉ
đạo cách mạng cả nước.
+ 8/1945, Hội nghị đại biểu toàn quốc của Đảng họp tại Tân Trào (Tuyên Quang) khẳng
định: “Cơ hội rất tốt cho ta giành độc lập đã tới”[1] và quyết định phát động toàn dân khởi
nghĩa giành chính quyền từ tay phát xít Nhật và tay sai trước khi quân Đồng minh vào
Đông Dương.
+ Dưới sự lãnh đạo của Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh, Nhân dân cả nước đồng loạt tiến
hành Tổng khởi nghĩa, giành chính quyền. Chỉ trong vòng 15 ngày cuối tháng 8/1945, cuộc
Tổng khởi nghĩa đã giành thắng lợi hoàn toàn, chính quyền trong cả nước về tay nhân dân.
+ 2/9/1945, tại Quảng trường Ba Đình (Hà Nội), Chủ tịch Hồ Chí Minh thay mặt Chính
phủ lâm thời trịnh trọng đọc bản Tuyên ngôn độc lập, tuyên bố trước quốc dân và thế giới:
Nước Việt Nam Dân chủ cộng hòa ra đời (nay là nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt
Nam).
- Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh lãnh đạo toàn dân vừa chống thù trong, giặc ngoài, vừa
xây dựng và củng cố vững chắc chính quyền nhân dân; lãnh đạo cuộc Tổng tuyển cử đầu
tiên vào ngày 6/1/1946, xây dựng Hiến pháp dân chủ đầu tiên (năm 1946); chăm lo xây
dựng chế độ mới, đời sống mới của nhân dân, chống giặc đói, giặc dốt và giặc ngoại xâm.
Kiên quyết trấn áp các thế lực phản cách mạng, thực hành sách lược khôn khéo, lúc thì
tạm hòa hoãn với Tưởng để đánh thực dân Pháp xâm lược, lúc thì hòa với Pháp để đuổi
Tưởng, triệt để lợi dụng mâu thuẫn trong hàng ngũ kẻ thù, đưa cách mạng vượt qua
những thử thách hiểm nghèo, tranh thủ thời gian để củng cố lực lượng, chuẩn bị cho cuộc
kháng chiến không thể tránh khỏi.

- Kháng chiến toàn dân, toàn diện, trường kỳ, dựa vào sức mình là chính
+ 23/9/1945, được sự giúp đỡ của quân đội Anh, thực dân Pháp tiến công Sài Gòn, mở đầu
cuộc chiến tranh xâm lược nước ta lần thứ hai. Sau đó, quân Pháp tiếp tục đánh chiếm
nhiều địa bàn quan trọng ở Nam Bộ và Nam Trung Bộ.
+ 12/12/1946, Ban Thường vụ Trung ương Đảng ra Chỉ thị Toàn dân kháng chiến.

34
+ 19/12/1946, Chủ tịch Hồ Chí Minh ra Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến. “Bất kỳ đàn
ông, đàn bà, bất kỳ người già, người trẻ, không chia tôn giáo, đảng phải, dân tộc. Hễ là
người Việt Nam thì phải đứng lên đánh thực dân Pháp để cứu Tổ quốc.
Dưới sự lãnh đạo của Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh, qua 9 năm thực hiện đường lối
kháng chiến toàn dân, toàn diện, trường kỳ, dựa vào sức mình là chính, vừa kháng chiến,
vừa kiến quốc, ra sức xây dựng, củng cố thực lực, quân và dân ta không ngừng phát triển
thế tiến công, càng đánh càng mạnh, giành những thắng lợi to lớn. Tiêu biểu như: Chiến
dịch Việt Bắc Thu - Đông (1947), Chiến dịch Biên Giới (1950), Chiến dịch Hòa Bình
(1951), Chiến dịch Đông Xuân (1951 - 1952), Chiến dịch Tây Bắc (1952), Chiến dịch Điện
Biên Phủ (1954), làm nên thắng lợi “lừng lẫy năm châu, chấn động địa cầu” kết thúc thắng
lợi cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược.
2.2.2. Giá trị của đường lối kháng chiến chống thực dân Pháp của Đảng
- Đường lối kháng chiến chống thực dân Pháp là một bộ phận quan trọng của đường lối
cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân của. Đó là đường lối tiếp tục hoàn thành sự nghiệp
giải phóng dân tộc bằng chiến tranh cách mạng, trong điều kiện nhân dân ta đã giành
được chính quyền để tiến lên chủ nghĩa xã hội.
- Trong một thời gian ngắn và trong bối cảnh lịch sử đầy khó khăn, phức tạp, Đảng ta đã
dựa vào đường lối cách mạng và kinh nghiệm đấu tranh giải phóng dân tộc sớm đề ra
được những vấn đề cơ bản của đường lối kháng chiến chống thực dân Pháp. Chỉ thị Toàn
dân kháng chiến 12-12-1946, Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến ngày 19-12-1946 và tác
phẩm Kháng chiến nhất định thắng lợi là những văn kiện lịch sử quan trọng thể hiện
đường lối kháng chiến của Đảng ta. Đường lối ấy không ngừng được bổ sung, phát triển,
hoàn chỉnh trong quá trình kháng chiến. Nó là ngọn đèn pha soi sáng, dẫn dắt nhân dân ta
vượt qua mọi khó khăn nguy hiểm, chiến đấu và chiến thắng kẻ thù.

- Thắng lợi của cuộc chiến tranh yêu nước đã khẳng định đường lối kháng chiến do Đảng
đề ra không những kịp thời mà còn đúng đắn và sáng tạo. Đường lối ấy không chỉ đưa
cuộc kháng chiến của nhân dân ta đến thắng lợi, mà còn góp phần vào thành công của
phong trào giải phóng dân tộc trên thế giới và làm phong phú lý luận của chủ nghĩa Mác-

35
Lênin về chiến tranh cách mạng.
- Phát huy giá trị lịch sử của Đường lối Toàn dân kháng chiến gợi mở những ý nghĩa sâu
xa đối với việc phát huy sức mạnh toàn dân tộc trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ
quốc hiện nay. Là một bộ phận trong đường lối chiến lược của Đảng, chiến lược đại đoàn
kết toàn dân tộc luôn bám sát và phục vụ mục tiêu chiến lược của Đảng.

- Giá trị xây dựng và bảo vệ đất nước:

+ Làm thất bại cuộc chiến tranh xâm lược của thực dân Pháp được đế quốc Mỹ giúp sức
ở mức độ cao.

+ Quốc tế công nhận độc lập, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ của các nước Đông Dương.

+ Làm thất bại âm mưu kéo dài và mở rộng chiến tranh của đế quốc Mỹ, kết thúc chiến
tranh lập lại hòa bình ở Đông Dương.

+ Giải phóng hoàn toàn miền Bắc, tạo điều kiện để miền Bắc tiến lên chủ nghĩa xã hội
làm căn cứ địa. hậu thuẫn cho cuộc đấu tranh ở miền Nam.

+ Tăng thêm niềm tự hào dân tộc cho nhân dân ta và nâng cao uy tín của Việt Nam trên
trường quốc tế.

TIỂU KẾT CHƯƠNG 2


1.Sự hình thành đường lối kháng chiến chống Pháp của Đảng
- Đường lối kháng chiến chống thực dân Pháp (1946-1954) của Đảng được hình thành, bổ
sung, hoàn chỉnh qua thực tiễn. Trung ương Đảng và Hồ Chí Minh đã chỉ đạo kết hợp đấu
tranh quân sự, chính trị với ngoại giao để làm thất bại âm mưu của Pháp định tách Nam Bộ
ra khỏi Việt Nam.
- Thường vụ Trung ương Đảng mở Hội nghị Quân sự toàn quốc lần thứ nhất diễn ra vào
ngày 19-10-1946 do Tổng Bí thư Trường Chinh chủ trì. Hội nghị đề ra nhận định “Không
sớm thì muộn, Pháp sẽ đánh mình và mình cũng nhất định phải đánh Pháp”.
- Cũng tại hội nghị Đảng ta đã đề ra những biện pháp, chủ trương cụ thể cả về tổ chức và
tư tưởng. Hồ Chí Minh đã nêu lên chỉ thị Công việc khẩn cấp bây giờ (5-11-1946) những
36
việc có tầm toàn cục khi bước vào cuộc kháng chiến toàn cục và khẳng định lòng tin vào
thắng lợi cuối cùng.
- Ngày 12/12/1946 Ban Thường vụ Trung ương Đảng ra chỉ thị Toàn dân kháng chiến.
- Ngày 18 và 19/12/1946, Hội nghị bất thường Trung ương Đảng tại Vạn Phúc – Hà Đông
quyết định phát động cả nước kháng chiến.
- 20 giờ ngày 19/12/1946, công nhân nhà máy điện Yên Phụ (Hà Nội) phá máy, tắt điện
làm tín hiệu tiến công, cuộc kháng chiến toàn quốc chống Pháp bùng nổ. Hồ Chủ tịch ra
Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến.

2. Đường lối kháng chiến chống Pháp của Đảng ta là gì?


- Đường lối kháng chiến chống Pháp của Đảng được thể hiện trong các văn kiện:
+ Chỉ thị “Toàn dân kháng chiến” của Ban Thường vụ Trung ương Đảng (12/12/1946).
+ Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến của Hồ Chí Minh (19/12/1946).
+ Tác phẩm Kháng chiến nhất định thắng lợi của Tổng Bí thư Trường Chinh (9/1947).
– Nội dung của đường lối kháng chiến là: Kháng chiến toàn dân, toàn diện, trường kì, tự
lực cánh sinh và tranh thủ sự giúp đỡ của quốc tế.
– Mục đích kháng chiến: kế tục và phát triển sự nghiệp Cách mạng Tháng Tám, “đánh phản
động thực dân Pháp xâm lược; giành thống nhất và độc lập”.
– Tính chất kháng chiến: trường kì kháng chiến, toàn diện kháng chiến.
– Nhiệm vụ kháng chiến: “Cuộc kháng chiến này chính là một cuộc chiến tranh cách mạng
có tính chất dân tộc độc lập và dân chủ tự do…nhằm hoàn thành nhiệm vụ giải phóng dân
tộc và phát triển dân chủ mới”.
– Phương châm tiến hành kháng chiến: tiến hành cuộc chiến tranh nhân dân, thực hiện
kháng chiến toàn dân, toàn diện, lâu dài, dựa vào sức mình là chính.
+ Kháng chiến toàn dân: “Bất kì đàn ông, đàn bà không chia tôn giáo, đảng phái, dân tộc,
bất kì người già, người trẻ. Hễ là người Việt Nam phải đứng lên đánh thực dân Pháp”, thực
hiện mỗi người dân là một chiến sĩ, mỗi làng xóm là một pháo đài. + Kháng chiến toàn
diện: đánh địch về mọi mặt chính trị, quân sự, kinh tế, văn hóa, ngoại giao. Trong đó:

37
⚫ Về chính trị: thực hiện đoàn kết toàn dân, tăng cường xây dựng Đảng, chính quyền,
các đoàn thể nhân dân; đoàn kết với Miên, Lào và các dân tộc yêu chuộng tự do, hòa
bình.
⚫ Về quân sự: thực hiện vũ trang toàn dân, xây dựng lực lượng vũ trang nhân dân, tiêu
diệt địch, giải phóng nhân dân và đất đai, thực hiện du kích chiến tiến lên vận động
chiến, đánh chính quy, là “triệt để dùng du kích, vận động chiến. Bảo toàn thực lực,
kháng chiến lâu dài… vừa đánh vừa võ trang thêm; vừa đánh vừa đào tạo thêm cán
bộ”.
⚫ Về kinh tế: tiêu thổ kháng chiến, xây dựng kinh tế tự cấp, tập trung phát triển nền nông
nghiệp, thủ công nghiệp, thương nghiệp và công nghiệp quốc phòng.
⚫ Về văn hóa: xóa bỏ văn hóa thực dân phong kiến, xây dựng nền văn hóa dân chủ theo
ba nguyên tắc: dân tộc, khoa học, đại chúng.
⚫ Về ngoại giao: thực hiện thêm bạn, bớt thù, biểu dương thực lực. “Liên hiệp với dân
tộc Pháp, chống phản động thực dân Pháp”, sẵn sàng đàm phán nếu Pháp công nhận
Việt Nam độc lập,…
+ Kháng chiến lâu dài (trường kì): là để chống âm mưu đánh nhanh, thắng nhanh của Pháp,
để có thời gian phát huy yếu tố “thiên thời, địa lợi, nhân hòa” của ta, chuyển hóa tương
quan lực lượng từ chỗ ta yếu hơn địch đến chỗ ta mạnh hơn địch, đánh thắng địch.
+ Dựa vào sức mình là chính: “phải tự cấp, tự túc về mọi mặt”, vì ta bị bao vây bốn phía.
Khi nào có điều kiện ta sẽ tranh thủ sự giúp đỡ của các nước, song lúc đó cũng không được
ỷ lại.
+ Triển vọng kháng chiến: mặc dù lâu dài, gian khổ, khó khăn song nhất định thắng lợi.

3.Ý nghĩa của đường lối kháng chiến chống thực dân Pháp của Đảng

- Nửa cuối thế kỷ XIX và nửa đầu thế kỷ XX, dân tộc ta phải hai lần tiến hành kháng
chiến chống thực dân Pháp xâm lược. Kết quả của hai cuộc kháng chiến đó tuy khác nhau
nhưng đều để lại những bài học lịch sử về phát huy truyền thống yêu nước, sức mạnh của

38
lòng dân, sức mạnh của tinh thần đoàn kết toàn dân tộc cho sự nghiệp xây dựng và bảo vệ
Tổ quốc.

- Đối với trong nước: việc đề ra và thực hiện thắng lợi đường lối kháng chiến, xây dựng
chế độ dân chủ nhân dân đã làm thất bại cuộc chiến tranh xâm lược của thực dân Pháp
được đế quốc Mỹ giúp sức ở mức độ cao, buộc chúng phải công nhận độc lập, chủ quyền,
toàn vẹn lãnh thổ của các nước Đông Dương; làm thất bại âm mưu mở rộng và kéo dài
chiến tranh của đế quốc Mỹ, kết thúc chiến tranh lập lại hòa bình ở Đông Dương; giải
phóng hoàn toàn miền Bắc, tạo điều kiện để miền Bắc tiến lên chủ nghĩa xã hội làm căn
cứ địa, hậu thuẫn cho cuộc đấu tranh ở miền Nam; tăng thêm niềm tự hào dân tộc cho
nhân dân ta và nâng cao uy tín của Việt Nam trên trường quốc tế.

– Đối với quốc tế: thắng lợi đó đã cổ vũ mạnh mẽ phong trào giải phóng dân tộc trên thế
giới; mở rộng địa bàn, tăng thêm lực lượng cho chủ nghĩa xã hội và cách mạng thế giới,
cùng với nhân dân Lào và Campuchia đập tan ách thống trị của chủ nghĩa thực dân ở ba
nước Đông Dương, mở ra sự sụp đổ của chủ nghĩa thực dân cũ trên thế giới, trước hết là
hệ thống thuộc địa của thực dân Pháp.

39
PHẦN KẾT LUẬN

Sau cách mạng tháng 8 cùng với diễn biến của tình hình thế giới đã mang lại cho Việt Nam
không ít thuận lợi trong việc quản lý và xây dựng đất nước. Tuy nhiên, dân tộc Việt Nam
lại không thể tránh khỏi được nhiều khó khăn khi “thù trong, giặc ngoài” những tàn dư sau
chiến tranh đang ngày càng tàn phá mạnh mẽ. Có thể nói, tình thế Việt Nam lúc bấy giờ là
“ngàn cân treo sợi tóc”.

Về thuận lợi
– Trên thế giới, hệ thống xã hội chủ nghĩa do Liên xô đứng đầu được hình thành,
phong trào cách mạng giải phóng dân tộc có điều kiện phát triển, trở thành một dòng
thác cách mạng. Phong trào dân chủ và hòa bình cũng đang vươn lên mạnh mẽ.

– Ở trong nước, chính quyền dân chủ nhân dân được thành lập, có hệ thống từ
Trung ương đến cơ sở. Nhân dân lao động đã làm chủ vận mệnh của đất nước. Toàn dân
tin tưởng và ủng hộ Việt Minh, ủng hộ chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa do Hồ
Chí Minh làm Chủ tịch.

Về khó khăn
– Thế giới: với danh nghĩa Đồng Minh đến tước khí giới của phát xít Nhật, quân đội
các nước đế quốc ồ ạt kéo vào chiếm đóng Việt Nam và khuyến khích bọn Việt gian
chống phá chính quyền cách mạng nhằm xóa bỏ nền độc lập và chia cắt nước ta. Nghiêm
trọng nhất là quân Anh, Pháp đã đồng lõa với nhau nổ súng đánh chiếm Sài Gòn, hòng
tách Nam bộ ra khỏi Việt Nam.

– Trong nước: khó khăn nghiêm trọng là hậu quả do chế độ cũ để lại như nạn đói, nạn
dốt rất nặng nề, ngân quỹ quốc gia trống rỗng; kinh nghiệm quản lý đất nước của cán bộ
các cấp non yếu; nền độc lập của nước ta chưa được quốc gia nào trên thế giới công nhận
và đặt quan hệ ngoại giao.

40
“Giặc đói, giặc dốt và giặc ngoại xâm” là những hiểm họa đối với chế độ mới, vận
mệnh dân tộc như “ngàn cân treo sợi tóc”, Tổ quốc lâm nguy.

Những hành động hiếu chiến của thực dân Pháp:

Dã tâm của kẻ thù thật sự quá lớn dẫn đến mọi nỗ lực ngoại giao trở nên vô nghĩa,
ta thậm chí còn phải nhân nhượng thêm để đảm bảo an toàn cho đoàn đại biểu Việt Nam.
Bộ chỉ huy quân đội Pháp đã bộc rõ thái độ bội ước, tiếp tục tăng cường quân số đẩy
mạnh tăng cường bình định ở các tỉnh Nam Bộ, xúc tiến tái lập Nam Kì tự trị, gây hấn,
khiêu khích,gây xung đột quân sự, lấn chiếm
nhiều vị trí nơi đóng quân ở Bắc Bộ Việt Nam, đặt lại nền thống trị ở Campuchia và Lào.

Chúng luôn ngoan cố, ngang nhiên phá vỡ các hiệp ước và cố tình gây hấn đem
quân đánh chiếm khắp nơi để dồn ta đến bước cùng. Một mực đẩy Việt Nam vào con
đường chiến tranh.

Quá trình Đảng từng bước giải quyết xung đột với Pháp.

Trước tình hình đó Đảng ta vẫn luôn mong muốn giải quyết bằng biện pháp hòa
bình, kiên trì đấu tranh ngoại giao để đi đến kết quả.

Ta đã nhiều lần nhân nhượng nhưng chúng liên tục gây khó dễ cho ta nhằm bành
trướng dã tâm ngày một lớn dần. Nhiều hiệp định được đưa ra nhưng không giải quyết
được quyền tự do dân tộc Việt Nam. Chúng luôn ngoan cố bám giữ lập trường thực dân,
đặt ta vào thế bị động ngang nhiên phá vỡ các hiệp ước và đem quân đánh chiếm khắp nơi
để dồn ta đến bước cùng.

Cuộc chiến tranh bùng nổ.

Đến nước này thì ta không thể nhân nhượng được nữa. Mọi hi vọng níu kéo hòa
bình chính thức tan biến. Mọi nỗ lực đàm phán, nhân nhượng để bảo vệ nền độc lập trong
hòa bình đều đổ sông đổ biển trước dã tâm quá lớn của thực dân Pháp, chúng buộc ta cầm
súng lần nữa để bảo vệ nền đọc lập dân tộc.

41
Trong hai ngày 18 và 19-12-1946, Thường vụ Trung ương Đảng họp mở rộng, ở
làng Vạn Phúc (Hà Đông), dưới sự chủ tọa của Chủ tịch Hồ Chí Minh, quyết định phát
động cuộc kháng chiến chống Pháp trên cả nước vào lúc 20 giờ ngày 19-12-1946. Ngay
trong đêm 19-12, Chủ tịch Hồ Chí Minh viết “Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến”. Cả dân
tộc Việt Nam đứng lên theo tiếng gọi thiêng liêng của Chủ tịch Hồ Chí Minh.

Đường lối kháng chiến chống thực dân Pháp (1946-1954) của Đảng được hình thành,
bổ sung, hoàn chỉnh qua thực tiễn. Trung ương Đảng và Hồ Chí Minh đã chỉ đạo kết hợp
đấu tranh quân sự, chính trị với ngoại giao để làm thất bại âm mưu của Pháp định tách Nam
Bộ ra khỏi Việt Nam.
Thường vụ Trung ương Đảng mở Hội nghị Quân sự toàn quốc lần thứ nhất diễn ra vào
ngày 19-10-1946 do Tổng Bí thư Trường Chinh chủ trì. Hội nghị đề ra nhận định “Không
sớm thì muộn, Pháp sẽ đánh mình và mình cũng nhất định phải đánh Pháp”.
Ngày 12/12/1946 Ban Thường vụ Trung ương Đảng ra chỉ thị Toàn dân kháng chiến.
- Ngày 18 và 19/12/1946, Hội nghị bất thường Trung ương Đảng tại Vạn Phúc – Hà Đông
quyết định phát động cả nước kháng chiến.
- 20 giờ ngày 19/12/1946, công nhân nhà máy điện Yên Phụ (Hà Nội) phá máy, tắt điện
làm tín hiệu tiến công, cuộc kháng chiến toàn quốc chống Pháp bùng nổ. Hồ Chủ tịch ra
Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến.

Nội dung của đường lối kháng chiến là: Kháng chiến toàn dân, toàn diện, trường kì, tự lực
cánh sinh và tranh thủ sự giúp đỡ của quốc tế.

– Mục đích kháng chiến: Kế tục và phát triển sự nghiệp Cách mạng Tháng Tám, “Đánh
phản động thực dân Pháp xâm lược; giành thống nhất và độc lập”.

– Tính chất kháng chiến: “Cuộc kháng chiến của dân tộc tạ là một cuộc chiến tranh cách
mạng của nhân dân, chiến tranh chính nghĩa, nó có tính chất toàn dân, toàn diện và lâu
dài”. Đó là cuộc kháng chiến có tính chất dân tộc giải phóng và dân chủ mới.

42
– Phương châm tiến hành kháng chiến: Tiến hành cuộc chiến tranh nhân dân, thực hiện
kháng chiến toàn dân, toàn diện, lâu dài, dựa vào sức mình là chính.

– Kháng chiến toàn dân: “Bất kỳ đàn ông đàn bà không chia tôn giáo, đảng phái, dân tộc,
bất kỳ người già, người trẻ. Hễ là người Việt Nam thì phải đứng lên đánh thực dân Pháp”,
thực hiện mỗi người dân là một chiến sĩ, mỗi làng xóm là một pháo đài.

– Kháng chiến toàn diện: Đánh địch về mọi mặt: chính trị, quân sự, kinh tế, văn hóa, ngoại
giao. Trong đó:

+ Về chính trị: Thực hiện đoàn kết toàn dân, tăng cường xây dựng Đảng, chính quyền, các
đoàn thể nhân dân; đoàn kết với Miên, Lào và các dân tộc yêu chuộng tự do, hòa bình.

+ Về quân sự: Thực hiện vũ trang toàn dân, xây dựng lực lượng vũ trang nhân dân, tiêu
diệt địch, giải phóng nhân dân và đất đai, thực hiện du kích chiến tiến lên vận động chiến,
đánh chính quy.

+ Về kinh tế: Tiêu thổ kháng chiến, xây dựng kinh tế tự cung tự túc, tập trung phát triển
nông nghiệp, thủ công nghiệp, thương nghiệp và công nghiệp quốc phòng.

+ Về văn hóa: Xóa bỏ văn hóa thực dân, phong kiến, xây dựng nền văn hóa dân chủ mới
theo ba nguyên tắc: dân tộc, khoa học, đại chúng.

+ Về ngoại giao: Thực hiện thêm bạn bớt thù , biểu dương thực lực. “Liên hiệp với dân tộc
Pháp, chống pharn động thực dân Pháp”, sẵn sàng đàm phán nếu Pháp công nhận Việt Nam
độc lập.

Kháng chiến lâu dài (trường kỳ): Là để chống âm đánh nhanh, thắng nhanh của Pháp, để
có thời gian phát huy yếu tố “thiên thời, địa lợi, nhân hòa” của ta, chuyển hóa tương quan
lực lượng từ chỗ ta yếu hơn địch đến chỗ ta mạnh hơn địch, đánh thắng địch.

43
Dựa vào sức mình là chính: “Phải tự cấp, tự túc về mọi mặt”, vì ta bị bao vây bốn phía,
chưa được nước nào giúp đỡ nên phải tự lực cánh sinh. Khi nào có điều kiện ta sẽ tranh thủ
sự giúp đỡ của các nước, song lúc đó cũng không được ỷ lại.

Triển vọng kháng chiến: Mặc dù lâu dài, gian khổ, khó khăn, song nhất định thắ Đường lối
kháng của Đảng với những nội dung cơ bản như trên là đúng đắn và sáng tạo, vừa kế thừa
được kinh nghiệm của tổ tiên, đúng với các nguyên lý về chiến tranh cách mạng của chủ
nghĩa Mác-Lênin, vừa phù hợp với thực tế đất nước lúc bấy giờ.

Đánh giá chung về nội dung của đường lối kháng chiến đối với cách mạng Việt Nam

- Đối với trong nước: việc đề ra và thực hiện thắng lợi đường lối kháng chiến, xây dựng
chế độ dân chủ nhân dân đã làm thất bại cuộc chiến tranh xâm lược của thực dân Pháp
được đế quốc Mỹ giúp sức ở mức độ cao, buộc chúng phải công nhận độc lập, chủ quyền,
toàn vẹn lãnh thổ của các nước Đông Dương; làm thất bại âm mưu mở rộng và kéo dài
chiến tranh của đế quốc Mỹ, kết thúc chiến tranh lập lại hòa bình ở Đông Dương; giải
phóng hoàn toàn miền Bắc, tạo điều kiện để miền Bắc tiến lên chủ nghĩa xã hội làm căn
cứ địa, hậu thuẫn cho cuộc đấu tranh ở miền Nam; tăng thêm niềm tự hào dân tộc cho
nhân dân ta và nâng cao uy tín của Việt Nam trên trường quốc tế.

– Đối với quốc tế: thắng lợi đó đã cổ vũ mạnh mẽ phong trào giải phóng dân tộc trên thế
giới; mở rộng địa bàn, tăng thêm lực lượng cho chủ nghĩa xã hội và cách mạng thế giới,
cùng với nhân dân Lào và Campuchia đập tan ách thống trị của chủ nghĩa thực dân ở ba
nước Đông Dương, mở ra sự sụp đổ của chủ nghĩa thực dân cũ trên thế giới, trước hết là
hệ thống thuộc địa của thực dân Pháp.

Về chính trị: Đảng ra hoạt động công khai đã có điều kiện kiện toàn tổ chức, tăng cường
sự lãnh đạo đối với cuộc kháng chiến. Bộ máy chính quyền được củng cố từ Trung ương
đến cơ sở. Mặt trận Liên hiệp quốc dân Việt Nam (Liên Việt) được thành lập. Khối đại

44
đoàn kết toàn dần phát triển lên một bước mới. Chính sách ruộng đất được triển khai,
từng bước thực hiện khẩu hiệu người cày có ruộng.

Về quân sự: Đến cuối năm 1952, lực lượng chủ lực đã có sáu đại đoàn bộ binh, một đại
đoàn công binh - pháo binh. Thắng lợi của các chiến dịch Trung du, Đường 13, Hà -
Nam- Ninh, Hòa Bình, Tây Bắc, Thượng Lào, v.v. đã tiêu diệt được nhiều sinh lực địch,
giải phóng nhiều vùng đất đai và dân cư, mở rộng vùng giải phóng của Việt Nam và giúp
đỡ cách mạng Lào, V.V.. Chiến thắng Điện Biên Phủ ngày 7-5-1954 được ghi vào lịch sử
dân tộc ta như một Bạch Đằng, một Chi Lăng hay một Đống Đa trong thế kỷ XX và đi
vào lịch sử thế giới như một chiến công hiển hách, báo hiệu sự thắng lợi của nhân dân
các dân tộc bị áp bức, sự sụp đổ của chủ nghĩa thực dân.

Về ngoại giao: Với phương châm kết hợp đấu tranh chính trị, quân sự và ngoại giao, khi
biết tin Pháp có ý định đàm phán, thương lượng với ta, ngày 27-12-1953, Ban Bí thư ra
Thông tư nêu rõ: "lập trường của nhân dân Việt Nam là kiên quyết kháng chiến đến thắng
lợi cuối cùng. Song nhân dân và Chính phủ ta cũng tán thành thương lượng nhằm mục
đích giải quyết hòa bình vấn để Việt Nam". Ngày 8-5- 1954, Hội nghị quốc tế về chấm
dứt chiến tranh Đông Dương chính thức khai mạc tại Giơnevơ (Thụy Sĩ). Ngày 21-7-
1954, các văn bản của Hiệp định Giơnevơ về chấm dứt chiến tranh, lập lại hòa bình ở
Đông Dương, được ký kết, cuộc khang chiến chổng thực dân Pháp xâm lược của quân
dân ta kết thúc thắng lợi.

Ý nghĩa lịch sử:

Đối với nước ta, việc đề ra và thực hiện thắng lợi đường lối kháng chiến, xây dựng chế
độ dân chủ nhân dân đã làm thất bại cuộc chiến tranh xâm lược của thực dân Pháp được
đế quốc Mỹ giúp sức ở mức độ cao, buộc chúng phải công nhận độc lập, chủ quyền, toàn
vẹn lãnh thổ của các nước Đông Dương; làm thất bại âm mưu mở rộng và kéo dài chiến
tranh của đế quốc Mỹ, kết thúc chiến tranh, lập lại hòa bình ở Đông Dương; giải phóng
hoàn toàn miền Bắc, tạo điều kiện để miền Bắc tiến lên chủ nghĩa xã hội làm căn cứ địa,

45
hậu thuẫn cho cuộc đấu tranh ở miền Nam; tăng thêm niềm tự hào dân tộc cho nhân dân
ta và nâng cao uy tín của Việt Nam trên trường quốc tế.

Đối với quốc tế, thắng lợi đó đã cổ vũ mạnh mẽ phong trào giải phóng dân tộc trên thế
giới; mở rộng địa bàn, tăng thêm lực lượng cho chủ nghĩa xã hội và cách mạng thế giới;
cùng với nhân dân Lào và Campuchia đập tan ách thống trị của chủ nghĩa thực dân ở ba
nước Đông Dương, mở ra sự sụp đổ của chủ nghĩa thực dân cũ trên thế giới, trước hết là
hệ thống thuộc địa của thực dân Pháp.

Đánh giá về ý nghĩa lịch sử của cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược, Hồ Chí
Minh nói: "Lần đầu tiên trong lịch sử, một nước thuộc địa nhỏ yếu đã đánh thắng một
nước thực dân hùng mạnh. Đó là một thắng lợi vẻ vang của nhân dân Việt Nam, đồng
thời cũng là một thắng lợi của các lực lượng hòa bình, dân chủ và xã hội chủ nghĩa trên
thế giới".

Trong cuộc kháng chiến trường kỳ, dưới sự lãnh đạo của Đảng, toàn quân, toàn dân ta đã
bảo vệ và phát triển tốt nhất các thành quả của cuộc Cách mạng Tháng Tám; củng cố,
phát triển chế độ dân chủ nhân dân trên tất cả các lĩnh vực chính trị, kinh tế, văn hóa, xã
hội; mang đến niềm tin vào sức sống và thắng lợi tất yếu của cuộc kháng chiến. Thắng lợi
của cuộc kháng chiến đưa đến việc giải phóng hoàn toàn miền Bắc, tạo tiền đề về chính
trị- xã hội quan trọng để Đảng quyết định đưa miền Bắc quá độ lên chủ nghĩa xã hội, xây
dựng, bảo vệ vững chắc miền Bắc thành hậu phương lớn, chi viện cho tiền tuyến lớn
miền Nam.

Cuộc kháng chiến của nhân dân Việt Nam đã giành được thắng lợi to lớn, có ý nghĩa lịch
sử quan trọng đối với sự nghiệp đấu tranh giành độc lập, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ
của dân tộc Việt Nam; có tính lan tỏa rộng lớn trong khu vực và mang tầm vóc thời đại
sâu sắc. Đã đánh bại cuộc chiến tranh xâm lược có quy mô lớn của quân đội nhà nghề có
tiềm lực quân sự và kinh tế hùng mạnh với các trang bị vũ khí, công nghệ khoa học kỹ
thuật tiên tiến, hiện đại, được điều hành bởi các nhà chính trị lão luyện, các tướng tá quân
sự tài ba của Pháp-Mỹ. Lần đầu tiên trong lịch sử phong trào giải phóng dân tộc, một

46
nước thuộc địa nhỏ bé đã đánh thắng một cường quốc thực dân, nó có tác dụng cổ vũ
mạnh mẽ phong trào đấu tranh vì hòa bình, dân chủ và tiến bộ ở các châu lục Á, Phi, Mỹ
Latinh.

Nguyên nhân thắng lợi:

– Có sự lãnh đạo vững vàng của Đảng với đường lối kháng chiến đúng đắn đã huy động
được sức mạnh toàn dân đánh giặc; có sự đoàn kết chiến đấu của toàn dân tập hợp trong
mặt trận dân tộc thống nhất rộng rãi

– Có chính quyền dân chủ nhân dân, của dân, do dân và vì dân được giữ vững, củng cố và
lớn mạnh, làm công cụ sắc bén tổ chức toàn dân kháng chiến và xây dựng chế độ mới.

Có sự liên minh đoàn kết chiến đấu keo sơn giữa ba dân tộc Việt Nam, Lào, Campuchia
cùng chống một kẻ thù chung; đồng thời có sự ủng hộ, giúp đỡ to lớn của Trung Quốc,
Liên Xô, các nước xã hội chủ nghĩa, các dân tộc yêu chuộng hoà bình trên thế giới, kể cả
nhân dân tiến bộ Pháp.

Bài học kinh nghiệm:

Thứ nhất, đề ra đường lối đúng đắn và quán triệt sâu rộng đường lối đó cho toàn Đảng,
toàn quân, toàn dân thực hiện, đó là đường lối chiến tranh nhân dân, kháng chiến toàn dân,
toàn diện, lâu dài dựa vào sức mình là chính.

Thứ hai, kết hợp chặt chẽ, đúng đắn nhiệm vụ chống đế quốc với nhiệm vụ chống phong
kiến và xây dựng chế độ dân chủ nhân dân, gây mầm mống cho chủ nghĩa xã hội.

Thứ ba, thực hiện phương châm vừa kháng chiến vừa xây dựng chế độ mới, xây dựng hậu
phương ngày càng vững mạnh để có tiềm lực mọi mặt đáp ứng yêu cầu ngày càng cao của
cuộc kháng chiến.

47
Thứ tư, tăng cường công tác xây dựng Đảng, nâng cao sức chiến đấu và hiệu lực lãnh đạo.

Sau khi nghiên cứu , phân tích và làm rỏ các nguyên nhân , ý nghĩa và bài học kinh
nghiệm về cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp của dân tộc Việt Nam dưới sự lãnh đạo
của Đảng và làm rõ những giá trị của đường lối kháng chiến chống thực dân Pháp đối với
sự phát triển của cách mạng Việt Nam. Qua đó cho thấy việc nghiên cứu về cuộc kháng
chiến chống thực dân Pháp và đường lối kháng chiến chống thực dân Pháp của Đảng và
nhân dân Việt Nam có ý nghĩa hết sức quan trọng trong công cuộc xây dựng bảo vệ và phát
triển đất nước ngày càng vửng mạnh. Đặc biệt là trong thời kì nước ta đang trong quá trình
hội nhập quốc tế và sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước hiện nay là yêu cầu
cần thiết.

48
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. https://www.thuvienbinhthuan.com.vn/thongtinchuyende/Nam2016/70NamToanQ
uocKhangChien/KyNiem70NamNgayToanQuocKhangChien.pdf
2. https://nguoikesu.com/dong-lich-su/viet-nam-dan-chu-cong-hoa/khang-chien-
chong-phap/viet-nam-trong-hon-mot-nam-dau-sau-cach-mang-thang-tam
3. http://www.lyluanchinhtri.vn/home/index.php/nhan-vat-su-kien/item/2022-toan-
quoc-khang-chien-va-bai-hoc-ve-doc-lap-tu-chu-trong-hoach-dinh-duong-loi.html
4. https://truongchinhtri.kontum.gov.vn/vi/news/nghien-cuu-trao-doi/hiep-dinh-so-
bo-su-lua-chon-sang-suot-cua-dang-trong-sach-luoc-ngoai-giao-thoi-ky-1945-
1946-63.html
5. Bộ Giáo dục và Đào tạo (2021), Giáo trình Lịch sử Đảng Đảng Cộng sản Việt
Nam (Dành cho sinh viên đại học khối không chuyên ngành Mác-Lênin, tư tưởng
Hồ Chí Minh).
6. PGS, TS Vũ Quang Hiển, Quá trình hình thành Đảng Cộng sản Việt Nam.
7. https://www.hcmcpv.org.vn/tin-tuc/hai-cuoc-khang-phap-cua-dan-toc-viet-
nam-1491883502
8. Kết quả, ý nghĩa lịch sử, nguyên nhân thắng lợi và bài học kinh nghiệm
(loigiaihay.com)
9. Phân tích đường lối kháng chiến chống thực dân Pháp (45-54) (luatduonggia.vn)

49

You might also like