You are on page 1of 31

TRƯỜNG ĐẠI HỌC THƯƠNG MẠI

KHOA MARKETING
˗˗˗˗˗˗˗˗˗˗

BÀI THẢO LUẬN


LỊCH SỬ ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM
Đề tài 2: Tìm hiểu về hội nghị Pari (1968-1973) và Hiệp định
Pari năm 1973 về chấm dứt chiến tranh, lập lại hòa bình ở Việt
Nam. Rút ra nhận xét.

Lớp học phần: 231_HCMI0131_01


Nhóm thực hiện: Nhóm 6
Giảng viên hướng dẫn: Hoàng Thị Thắm

Hà Nội, tháng 09 năm 2023


MỤC LỤC
DANH SÁCH THÀNH VIÊN ..................................................................................... 3
A. MỞ ĐẦU .................................................................................................................. 4
B. NỘI DUNG ............................................................................................................... 5
CHƯƠNG I: HỘI NGHỊ PARI (1968-1973) ............................................................. 5
1.1. Hoàn cảnh ............................................................................................................ 5
1.1.1. Hoàn cảnh trong nước ................................................................................. 5
1.1.2. Hoàn cảnh quốc tế ........................................................................................ 6
1.2. Diễn biến và các giai đoạn.................................................................................. 6
1.2.1. Giai đoạn 1 (tháng 5/1968 - tháng 10/1968) ............................................... 6
1.2.2. Giai đoạn 2 (tháng 11/1968 - tháng 1/1973) ............................................... 8
1.3. Kết quả............................................................................................................... 12
CHƯƠNG 2: HIỆP ĐỊNH PARI NĂM 1973 VỀ CHẤM DỨT CHIẾN TRANH,
LẬP LẠI HÒA BÌNH Ở VIỆT NAM ....................................................................... 14
2.1. Nội dung toàn văn hiệp định............................................................................ 14
2.2. Nội dung cơ bản ................................................................................................ 18
2.3. Ý nghĩa của Hiệp định Pari năm 1973 ............................................................ 19
2.3.1. Đối với Việt Nam ........................................................................................ 19
2.3.2. Đối với Thế Giới ......................................................................................... 20
CHƯƠNG 3: NHẬN XÉT VÀ KINH NGHIỆM .................................................... 21
3.1. Nhận xét ............................................................................................................. 21
3.1.1. Thành công và nguyên nhân ..................................................................... 21
3.1.2. Hạn chế và nguyên nhân ........................................................................... 23
3.2. Bài học ............................................................................................................... 26
3.2.1. Bài học kinh nghiệm rút ra ........................................................................ 26
3.2.2. Bài học vận dụng vào việc xử lý các vấn đề đối ngoại, xây dựng và quản
lý đất nước trong giai đoạn hiện nay. .................................................................. 27
C. KẾT LUẬN ............................................................................................................ 30
TÀI LIỆU THAM KHẢO ......................................................................................... 31

2
DANH SÁCH THÀNH VIÊN

STT Mã sinh viên Họ và tên Nhiệm vụ

101 21D120234 Bùi Thị Thu Thùy 2.3.2. Ý nghĩa đối với thế giới
102 21D120270 Nguyễn Thu Thủy 1.1.2. Hoàn cảnh quốc tế

103 21D120045 Đặng Thanh Thúy PPT

104 21D120524 Đinh Thị Anh Thư 3.1.2. Hạn chế và nguyên nhân

105 21D120271 Mai Xuân Thương Tổng hợp word

106 21D120131 Lê Thị Thủy Tiên 2.1. Nội dung toàn văn hiệp định

107 21D120528 Lô Huyền Trang 1.2.1. Giai đoạn 1

108 21D220196 Mỵ Hoàng Linh Trang 3.2. Bài học

109 21D120132 Nguyễn Thị Huyền Trang 3.2. Bài học

110 21D120168 Nguyễn Thị Quỳnh Trang 1.1.1. Hoàn cảnh trong nước

111 21D120133 Phan Thị Hương Trà PPT

112 21D220021 Trần Mạnh Trí Thuyết trình 2 + Kết luận

113 21D220198 Lê Thanh Trúc 2.3.1. Ý nghĩa đối với VN

114 21D120049 Nguyễn Văn Tuấn 1.2.2. Giai đoạn 2

115 21D120134 Vũ Văn Tuấn Thuyết trình 1 + Mở đầu

116 21D120529 Trần Thị Tuyết 1.3. Kết quả

117 21D220023 Đào Nguyễn Tuệ Văn 1.2.2. Giai đoạn 2


3.1.1. Thành công và nguyên
118 21D220251 Đào Thị Tường Vi
nhân
119 21D120052 Nguyễn Thành Vinh 1.2.1. Giai đoạn 1
Lên đề cương và giám sát chất
120 21D120530 Hoàng Hà Vy
lượng bài làm của các thành viên
121 21D120136 Phạm Thị Yến 2.2. Nội dung cơ bản

122 21D220202 Tạ Thị Yến Tổng hợp word

3
A. MỞ ĐẦU
Cuộc chiến tranh Việt Nam là một trong những cuộc xung đột lớn nhất và kéo dài
nhất của thế kỷ 20, gây ra hàng triệu thương vong, phá hủy môi trường và ảnh hưởng
sâu sắc đến chính trị, kinh tế và xã hội của các nước liên quan. Để tìm kiếm một giải
pháp hòa bình cho cuộc chiến tranh, các bên tham gia đã tiến hành nhiều cuộc đàm phán,
trong đó quan trọng nhất là hội nghị Pari. Hội nghị này đã kết thúc bằng việc ký kết
Hiệp định Pari vào ngày 27 tháng 1 năm 1973, mở ra một kỳ vọng mới cho việc chấm
dứt chiến tranh và lập lại hòa bình ở Việt Nam.
Tuy nhiên, quá trình diễn ra hội nghị Pari và đi đến hiệp định Pari không phải là
quá trình đơn giản và dễ dàng. Các bên đã phải trải qua nhiều giai đoạn, thay đổi và
xung đột trong quá trình đàm phán. Nội dung của hiệp định cũng không phải là hoàn
hảo và có những điểm mâu thuẫn và thiếu rõ ràng. Tác động của hiệp định cũng không
như mong đợi và có những hậu quả không mong muốn. Thậm chí sau khi ký kết hiệp
định, cuộc chiến tranh vẫn tiếp diễn trong một số vùng lãnh thổ và đã xảy ra nhiều xung
đột vũ trang. Điều này đã làm mất đi sự ổn định và hòa bình mà nhiều người hy vọng sẽ
đến sau cuộc chiến tranh.
Để tìm hiểu kỹ hơn về vấn đề này, nhóm chúng em đã cùng thảo luận về đề tài :
Tìm hiểu về hội nghị Pari (1968-1973) và Hiệp định Pari năm 1973 về chấm dứt chiến
tranh, lập lại hòa bình ở VN.

4
B. NỘI DUNG
CHƯƠNG I: HỘI NGHỊ PARI (1968-1973)
1.1. Hoàn cảnh
1.1.1. Hoàn cảnh trong nước
Ngay từ cuối những năm 1940, Mỹ đã can thiệp vào Việt Nam và Đông Dương
bằng cách chi viện ngày càng nhiều cho thực dân Pháp trong cuộc chiến tranh Đông
Dương lần thứ nhất (1945-1954). Sáu đời Tổng thống Mỹ kế tiếp nhau đã dính líu ngày
càng sâu vào Việt Nam (kể từ Harry Truman đến Gerald Ford).
Mỹ đã phá hoại Hiệp định Geneva 1954 về Đông Dương, âm mưu chia cắt lâu dài
Việt Nam; lần lượt tiến hành nhiều chiến lược như chiến lược chiến tranh đặc biệt, chiến
lược chiến tranh cục bộ… Cùng với phương tiện chiến tranh hiện đại và những khoản
tiền khổng lồ, từ đầu những năm 1960, Mỹ không ngừng đưa quân vào miền nam Việt
Nam (năm 1961 là 700 người, đến tháng 6/1968 lên tới 525.000 người).
Tiếp theo sự kiện vịnh Bắc Bộ (tháng 8/1964), Mỹ đã leo thang chiến tranh phá
hoại miền bắc Việt Nam, chủ yếu bằng không quân và hải quân, nhưng càng đánh, Mỹ
càng sa lầy, tổn thất về người và của càng lớn; phong trào chống chiến tranh ở Mỹ phát
triển ngày càng sâu rộng, nội bộ chính quyền Mỹ ngày càng mâu thuẫn, lục đục; chính
quyền Mỹ đã bao biện rằng thông qua nhiều nước, nhiều nhân vật để tìm kiếm hòa bình
với Việt Nam nhưng không mang lại kết quả.
Trước tình hình Mỹ ngày càng có xu hướng dấn sâu vào cuộc chiến tranh ở Việt
Nam, nhân dân ta đã kiên cường chống lại đế quốc Mỹ xâm lược, không quản hy sinh,
gian khổ. Đi đôi với đấu tranh quyết liệt và thắng lợi to lớn, liên tiếp trên các mặt trận
quân sự, Đảng và Nhà nước ta ngày càng chú trọng nâng cao vị thế và vai trò của đấu
tranh ngoại giao. Ngay từ những ngày đầu, tháng đầu, Mỹ chuyển từ chiến tranh đặc
biệt sang chiến tranh cục bộ, từng bước leo thang chiến tranh phá hoại miền bắc, ta đã
đề ra những điều cơ bản làm cơ sở cho đàm phán, đó là lập trường 5 điểm ngày 22/3/1965
của Mặt trận Dân tộc giải phóng miền nam Việt Nam và tuyên bố 4 điểm ngày 8/4/1965
của Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Các nghị quyết của Ban Chấp hành Trung
ương Đảng như Nghị quyết 12 (tháng 12/1965), Nghị quyết 13 (tháng 1/1967), Nghị
quyết 14 (tháng 1/1968) ngày càng nhấn mạnh đến vị trí quan trọng của đấu tranh ngoại
giao trong sự nghiệp chống Mỹ, cứu nước, đồng thời chủ trương mở đường cho địch đi
vào thương lượng theo hướng có lợi nhất cho ta.
Thắng lợi của quân và dân ta trong Cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu
Thân năm 1968 làm lung lay ý chí xâm lược của đế quốc Mỹ, là “một sự choáng váng

5
đối với tất cả người Mỹ”. Chính trong tình hình đó, ngày 31/3/1968, Tổng thống Mỹ
Johnson đã tuyên bố: Hy vọng đi tới hội nghị hòa bình với tinh thần “tìm kiếm một nền
hòa bình trong danh dự”.
Ngày 3/4/1968, Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ra tuyên bố sẵn sàng cử
đại diện tiếp xúc với Mỹ. Tuy nhiên phải mất 30 ngày, 2 bên mới thỏa thuận, thống nhất
được địa điểm họp ở Paris theo sáng kiến của ta.
Ngày 24/3, Mỹ đơn phương tuyên bố ngừng họp Hội nghị Paris vô thời hạn. Tháng
12-1972, Mỹ mở cuộc tập kích bằng máy bay chiến lược B52 vào Hà Nội, Hải Phòng
trong 12 ngày đêm. Quân dân miền Bắc đã đập tan cuộc tập kích bằng không quân của
Mỹ, làm nên trận “Điện Biên Phủ trên không”, buộc Mĩ phải trở lại ký Hiệp định Pa-ri.
1.1.2. Hoàn cảnh quốc tế
Cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước của nhân dân Việt Nam nói chung, cuộc
đàm phán tại Hội nghị Paris nói riêng diễn ra trong bối cảnh lịch sử rất phức tạp. Đó là
thời kỳ hệ thống các nước xã hội chủ nghĩa đã hình thành và phát triển ngày càng lớn
mạnh, tích cực giúp đỡ phong trào cách mạng thế giới, trong đó, có cách mạng Việt
Nam. Việt Nam tranh thủ được sự ủng hộ, giúp đỡ của Liên Xô, Trung Quốc, các nước
xã hội chủ nghĩa, các nước không liên kết, nhân dân yêu chuộng hòa bình trên thế giới
và hình thành trên thực tế mặt trận nhân dân thế giới ủng hộ Việt Nam chống Mỹ. Tuy
vậy, trong nội bộ các nước XHCN lại có những quan điểm khác nhau về đường lối xây
dựng chủ nghĩa xã hội và đấu tranh giải phóng dân tộc, thậm chí đã nảy sinh những mâu
thuẫn gay gắt. Mặt khác, kẻ thù của nhân dân Việt Nam là đế quốc Mỹ có tiềm lực kinh
tế, quân sự hùng mạnh nhất khối tư bản chủ nghĩa, có quan hệ quốc tế rộng, nhiều kinh
nghiệm, mưu mô, thủ đoạn và luôn muốn thương lượng trên thế mạnh với ước muốn
làm bá chủ thế giới.
Sự đối đầu giữa 2 hệ thống xã hội trên thế giới, giữa 2 thái cực Liên Xô và Mỹ rất
sâu sắc và toàn diện, thể hiện ở cuộc chạy đua vũ trang, phát triển vũ khí hạt nhân. Nhân
dân yêu chuộng hòa bình trên thế giới, nhiều giới chính trị, kinh tế, xã hội ở các nước
đế quốc lo ngại chiến tranh khu vực phát triển thành chiến tranh thế giới.
Do đó, dư luận rộng rãi trên thế giới một mặt ủng hộ mạnh mẽ cuộc đấu tranh của
nhân dân Việt Nam chống đế quốc Mỹ xâm lược, mặt khác mong muốn Việt Nam ngồi
vào bàn thương lượng để giải quyết chiến tranh Việt Nam bằng phương pháp hòa bình.
1.2. Diễn biến và các giai đoạn
1.2.1. Giai đoạn 1 (tháng 5/1968 - tháng 10/1968)
a, Các bên tham gia

6
Ngày 13/5, Hội nghị Paris giữa phái đoàn Việt Nam Dân chủ Cộng hòa và Mỹ
chính thức bắt đầu tại Trung tâm Hội nghị quốc tế, phố Kléber, Pháp. Trưởng đoàn Việt
Nam Dân chủ Cộng hòa là ông Xuân Thủy. Năm 1968, khi cuộc đàm phán về hòa bình
tại Việt Nam mở màn ở Paris, ông William Harriman làm trưởng đoàn đàm phán đầu
tiên của Mỹ với VNDCCH.
b, Lập trường các bên
Lập trường hai bên Việt Nam và Hoa Kỳ rất khác nhau, mâu thuẫn nhau, khiến
cho cuộc đấu tranh diễn ra gay gắt ngay trên bàn đàm phán, nhiều lúc cuộc thương lượng
phải gián đoạn.
- Lập trường của Mỹ thời kỳ đầu đàm phán là: cần có sự tham gia của phái đoàn
chính phủ Sài Gòn; bắc Việt Nam không vi phạm khu phi quân sự, không bắn
pháo hay tên lửa vào các thành phố lớn ở miền nam như Sài Gòn, Huế, Đà Nẵng.
- Lập trường của Việt Nam Dân chủ Cộng hòa phản đối những đòi hỏi đó và đòi
Mỹ chấm dứt không điều kiện việc ném bom và để Mặt trận Dân tộc giải phóng
miền nam Việt Nam tham gia hội đàm.
c, Diễn biến
Ngày 13/5/1968, cuộc đàm phán chính thức giữa đoàn đại biểu Chính phủ Việt
Nam dân chủ cộng hòa và đoàn đại biểu Chính phủ Mỹ bắt đầu diễn ra ở Paris (Pháp),
đánh dấu một giai đoạn mới của cuộc chiến tranh Việt Nam: đọ sức trên chiến trường
đồng thời với đọ sức trên mặt trận ngoại giao (cục diện “vừa đánh, vừa đàm”). Phía Việt
Nam khẳng định lập trường không thay đổi là: Trước tiên, Mỹ phải chấm dứt không
điều kiện các cuộc ném bom bắn phá và mọi hoạt động chiến tranh khác chống nước
Việt Nam dân chủ cộng hòa; sau đó, mới bàn các vấn đề có liên quan của hai bên. Tuy
nhiên, Mỹ đòi "có đi có lại", sẽ ngừng ném bom nếu miền Bắc không tăng cường chiến
tranh và bắn phá thành phố lớn ở miền Nam; lập lại khu phi quân sự; cùng rút quân khỏi
miền Nam.
Từ giữa tháng 6, ngoài họp công khai, nhiều tiếp xúc riêng giữa hai phía được tổ
chức để thăm dò. Mỹ vẫn đề nghị khôi phục khu phi quân sự và Việt Nam Dân chủ Cộng
hòa không tấn công đô thị.
Đến tháng 10, Mỹ nhấn mạnh việc Sài Gòn tham gia đàm phán là yếu tố quan trọng
để chấm dứt ném bom miền Bắc. Việt Nam sau đó đồng ý, nhưng yêu cầu Việt Nam
Cộng hòa phải nói chuyện với Mặt trận Dân tộc giải phóng miền Nam, tán thành miền
Nam trung lập, lập Chính phủ liên hiệp. Thỏa thuận về việc Mỹ chấm dứt mọi hành động
chiến tranh chống nước Việt Nam dân chủ cộng hòa từ ngày 31-10-1968, đồng thời thỏa
thuận về việc triệu tập tại Pa-ri một hội nghị để bàn việc chấm dứt chiến tranh, lập lại
7
hòa bình ở Việt Nam, gồm các bên: Việt Nam dân chủ cộng hòa, Mặt trận dân tộc giải
phóng miền Nam, Mỹ và chính quyền Sài Gòn. Giai đoạn mới của đàm phán được mở
ra
1.2.2. Giai đoạn 2 (tháng 11/1968 - tháng 1/1973)
a, Các bên tham gia
Hội nghị 4 bên giữa Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, Mặt trận Dân tộc Giải phóng
miền Nam Việt Nam (sau này là Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam
Việt Nam), Mỹ và ngụy quyền Sài Gòn từ 25-1-1969 đến 27-1-1973.
Trong khi Mỹ liên tục thay thế các trưởng đoàn đàm phán (Hariman, Cabot Lodge,
David Bruce, William Parter…), trưởng hai phái đoàn của ta là Bộ trưởng Xuân Thủy,
Trưởng đoàn Việt Nam Dân chủ Cộng hòa; Nguyễn Thị Bình, Trưởng đoàn Chính phủ
Cách mạng lâm thời miền Nam Việt Nam, trong suốt quá trình đàm phán không thay
đổi.
Ngày 2 – 3 – 1973, Hội nghị họp tại Pari còn bao gồm đại biểu các nước Liên Xô,
Trung Quốc, Anh, Pháp, bốn bên tham gia kí Hiệp định và bốn nước trong Uỷ ban Giám
sát và Kiểm soát quốc tế: Ba Lan, Canada, Hunggari, Inđônêxia, với sự có mặt của Tổng
thư kí Liên hợp quốc, công nhận về mặt pháp lí quốc tế
b, Lập trường các bên
Lập trường của bốn bên mà thực chất là của hai bên Việt Nam và Mỹ, ở giai đoạn
đầu rất mâu thuẫn và cách xa nhau, làm cho các cuộc đấu tranh diễn ra gay gắt trên bàn
đàm phán tại Hội nghị đến mức nhiều lúc phải gián đoạn thương lượng.
- Mỹ đòi miền Bắc và Mỹ cùng rút quân; cần có sự tham gia của phái đoàn Chính
phủ Sài Gòn; Bắc Việt Nam không vi phạm khu phi quân sự, không bắn pháo
hay tên lửa vào các thành phố lớn ở miền Nam như Sài Gòn, Huế, Đà Nẵng, đòi
khôi phục lại khu phi quân sự và duy trì chính quyền Sài Gòn, nghĩa là Mỹ tiếp
tục thực hiện âm mưu chia cắt lâu dài Việt Nam, điều Mỹ không làm được trên
chiến trường.
- Việt Nam phản đối những đòi hỏi đó và đòi Mỹ chấm dứt không điều kiện việc
ném bom và để Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam
(MTDTGPMNVN) tham gia hội đàm, yêu cầu Mỹ chấm dứt chiến tranh xâm
lược, rút hết quân và vũ khí khỏi miền Nam, xóa bỏ chính quyền bù nhìn tay sai,
tôn trọng quyền tự quyết của nhân dân miền Nam
c, Diễn biến
Năm 1969:
8
Từ ngày 18/1/1969, đàm phán Paris bắt đầu với sự tham dự của bốn bên.
Tháng 5-1969, đoàn Mặt trận Dân tộc giải phóng miền nam Việt Nam đưa ra tuyên
bố của Mặt trận về “Những nguyên tắc và nội dung chủ yếu của giải pháp toàn bộ về
vấn đề miền nam Việt Nam, góp phần lập lại hòa bình ở Việt Nam”, sau đó thường gọi
tắt là “Giải pháp toàn bộ 10 điểm”. Bản đề nghị này nêu quan điểm tổng quát của Việt
Nam về tất cả các mặt của một giải pháp cho cuộc chiến tranh, nhưng tập trung vào 2
nội dung chính: Mỹ chấm dứt chiến tranh, rút hết quân Mỹ khỏi miền nam Việt Nam vô
điều kiện; công việc nội bộ của miền nam Việt Nam do nhân dân miền nam Việt Nam
tự giải quyết, lập Chính phủ liên hiệp lâm thời để tổ chức tổng tuyển cử tự do. Đây là
lần đầu tiên một bên tham gia đàm phán đưa ra một giải pháp toàn diện, tổng thể về vấn
đề Việt Nam. Chủ tịch Hồ Chí Minh và Bộ Chính trị đã chỉ thị cho đồng chí Xuân Thủy
- Trưởng đoàn đàm phán Pari khi về nước báo cáo tình hình: “Tiến công ngoại giao là
một mặt tiến công quan trọng có ý nghĩa chiến lược lúc này…; nắm vững thời cơ, phối
hợp với tiến công quân sự và tiến công chính trị, tiến công liên tục và sắc bén, kiên trì
nguyên tắc, khéo vận dụng sách lược, vừa kiên quyết, vừa linh hoạt, buộc Mỹ phải rút
quân và nhận một giải pháp chính trị đáp ứng yêu cầu cơ bản của ta”.
Ngày 12/6, đoàn đại biểu Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng hòa miền nam Việt
Nam tham dự phiên họp đầu tiên tại Hội nghị với tư cách là những người đại diện Chính
phủ Cách mạng lâm thời, thay thế Mặt trận. Bộ trưởng Ngoại giao Chính phủ Cách mạng
lâm thời Cộng hòa miền nam Việt Nam Nguyễn Thị Bình là Trưởng đoàn. Trong thời
gian này, nhiệm vụ chủ yếu của đấu tranh ngoại giao là thúc đẩy Mỹ xuống thang, đơn
phương rút quân Mỹ. Ngay trong tháng 6/1969, Tổng thống Mỹ Nixon công bố đợt rút
quân đầu tiên.
Trong tháng 8/1969, bắt đầu các cuộc gặp riêng giữa ông Xuân Thủy và Cố vấn
An ninh quốc gia Mỹ Kissinger, chủ yếu là để thăm dò sơ bộ.
Năm 1970:
Ngày 21/2, diễn ra cuộc gặp riêng đầu tiên giữa ông Lê Đức Thọ - ông Xuân Thủy
và ông Kissinger tại Paris. Ngày 14/9, đoàn đàm phán Chính phủ Cách mạng lâm thời
Cộng hòa miền nam Việt Nam đưa ra tuyên bố “8 điểm” về giải pháp cho vấn đề Việt
Nam. Ngày 17/9, tại phiên họp toàn thể lần thứ 80 Hội nghị Paris, Chính phủ Cách mạng
lâm thời Cộng hòa miền nam Việt Nam đưa ra giải pháp “8 điểm - nói rõ thêm” về một
giải pháp chính trị cho vấn đề Việt Nam, trong đó có việc rút quân Mỹ và thả tù binh
cùng một thời hạn, thành lập Chính phủ liên hiệp lâm thời ở miền nam Việt Nam không
có Thiệu - Kỳ - Khiêm. Ngày 18/10, Tổng thống Mỹ Nixon đưa ra “Đề nghị 5 điểm”
mà không đòi quân miền bắc rút khỏi miền nam Việt Nam. Ngày 10/12, tại phiên họp

9
toàn thể lần thứ 94 Hội nghị Paris, bà Nguyễn Thị Bình đưa ra “Tuyên bố 3 điểm” về
ngừng bắn và yêu cầu quân Mỹ rút khỏi miền nam vào ngày 31/7/1971.
Năm 1971:
Ngày 31/5, tại cuộc gặp riêng với Trưởng đoàn đàm phán Việt Nam Dân chủ Cộng
hòa Xuân Thủy, Bộ trưởng Ngoại giao Mỹ Kissinger đưa ra đề nghị “cuối cùng” 7 điểm,
đòi tách riêng vấn đề quân sự và vấn đề chính trị, mặc dù trước đây Mỹ định bàn cả hai.
Để tăng sức ép với Mỹ và hỗ trợ đấu tranh quân sự và chính trị, ngày 26/6, trong cuộc
gặp riêng ông Lê Đức Thọ - ông Kissinger, phía Việt Nam đưa ra “Sáng kiến hòa bình
9 điểm” tập trung vào việc đòi Mỹ thay Nguyễn Văn Thiệu.
Ngày 1/7, trong phiên họp thứ 119 của Hội nghị 4 bên, bà Nguyễn Thị Bình trình
bày “Sáng kiến mới gồm 7 điểm, nhằm giải quyết hòa bình vấn đề miền nam Việt Nam”.
Đề nghị 7 điểm là đề nghị quan trọng thứ hai (sau đề nghị 10 điểm tháng 5/1969) được
đưa ra tại bàn đàm phán; được dư luận rộng rãi đồng tình và chính giới Mỹ quan tâm.
Sáng kiến “9 điểm” và “7 điểm” gần như có cùng một nội dung là đòi Mỹ định thời hạn
rút hết quân và lập ở Sài Gòn một chính quyền không có Thiệu.
Ngày 16/8, ông Kissinger đưa ra “Đề nghị 8 điểm”. Về cơ bản, Mỹ vẫn giữ lập
trường cũ: không muốn giải quyết toàn bộ mà chỉ muốn giải quyết vấn đề quân sự để
lấy được tù binh về.
Năm 1972:
Ngày 2/2, để tăng sức ép với Mỹ và phối hợp với các hoạt động quân sự đang được
chuẩn bị, Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng hòa miền nam Việt Nam ra tuyên bố “2
điểm nói rõ thêm” trong giải pháp 7 điểm ngày 01/7/1971.
Ngày 24/3, Mỹ đơn phương tuyên bố ngừng họp Hội nghị Paris vô thời hạn.
Ngày 30/3, quân và dân Việt Nam mở Cuộc Tổng tấn công chiến lược xuân - hè,
đánh địch trên 5 mặt trận lớn từ Trị Thiên đến đồng bằng Cửu Long. Chiến lược “Việt
Nam hóa chiến tranh” của chính quyền Nixon thất bại một bước nghiêm trọng. Thắng
lợi của đợt tấn công chiến lược xuân - hè 1972 đã phục vụ tích cực cho đấu tranh chính
trị và ngoại giao, và nhất là đưa đàm phán Paris đi vào thực chất từ tháng 7/1972.
Ngày 13/7, Mỹ chấp nhận họp lại Hội nghị toàn thể 4 bên ở Paris. Từ tháng 7 đến
tháng 9/1972, đã diễn ra 4 cuộc gặp riêng, Việt Nam đã lần lượt đưa ra 3 đề nghị, Mỹ
đưa 4 đề nghị. Việt Nam muốn có một hình thức chính quyền liên hiệp; Mỹ muốn giữ
chính quyền Sài Gòn, giải quyết vấn đề nội bộ miền nam trong khuôn khổ chế độ chính
quyền Sài Gòn.

10
Qua 3 tháng thương lượng, tranh cãi gay gắt, đàm phán đạt một số thỏa thuận: Mỹ
nhận rút hết quân trong ba tháng, thực hiện ngừng bắn tại chỗ ở miền nam, cam kết chấm
dứt dính líu về quân sự, nhận lập ủy ban hòa giải để tổ chức tổng tuyển cử. Tại phiên
họp ngày 8/10 - phiên họp bước ngoặt của diễn đàn đàm phán bí mật - Cố vấn đặc biệt
Lê Đức Thọ đưa ra dự thảo “Hiệp định về chấm dứt chiến tranh, lập lại hòa bình ở Việt
Nam” và dự thảo “Thỏa thuận về quyền tự quyết của nhân dân miền nam”. Sức mạnh
tấn công, tháo gỡ bế tắc của bản dự thảo Hiệp định 8/10 là ở chỗ tạm gác nhiều vấn đề
chính trị nội bộ miền nam, “giải quyết theo 2 bước”, không đòi xóa chính quyền Sài
Gòn và gạt Thiệu.
Ngay trong chiều 9/10, phía Mỹ đưa ra một phản đề nghị dưới dạng dự thảo hiệp
định, trong đó chấp nhận nhiều điều khoản và vấn đề đoàn Việt Nam đã nêu. Việc đưa
dự thảo hiệp định 8/10 là một bước có ý nghĩa đột phá trong đàm phán, làm lập trường
của 2 bên gần nhau và chuyển từ đàm phán khung giải pháp sang đàm phán thẳng các
điều khoản của Hiệp định, buộc Mỹ không thể lẩn tránh. Tuy nhiên, cuộc đàm phán vẫn
diễn ra gay gắt và kéo dài. Ngày 20/10, 2 bên đạt được thỏa thuận cuối cùng, dự định ký
Hiệp định ngày 31/10/1972. Việt Nam đã đạt được các mục tiêu đề ra là Mỹ chấm dứt
chiến tranh và rút hết quân khỏi miền nam Việt Nam.
Tuy ông Kissinger tuyên bố “Hòa bình trong tầm tay”, nhưng ngay sau khi ông
Nixon trúng cử Tổng thống nhiệm kỳ 2, phía Mỹ lại nêu ra nhiều trở ngại để trì hoãn
việc ký Hiệp định. Với việc Việt Nam phê phán thái độ không nghiêm túc của chính
quyền Mỹ và dưới sức ép của dư luận quốc tế, đợt đàm phán mới bắt đầu từ ngày 20/11.
Ngay phiên đầu tiên, Mỹ đã đòi sửa 69 điểm trong văn bản đã thỏa thuận ngày
20/10/1972, tức là hầu hết các chương của Hiệp định bao gồm nhiều vấn đề thực chất.
Phía Việt Nam phê phán gay gắt các đề nghị của Mỹ, khẳng định những vấn đề nguyên
tắc không thể sửa đổi như tên Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng hòa miền nam Việt
Nam, vùng kiểm soát của mỗi bên, vấn đề quân miền bắc... Phiên họp ngày 12-13/12
gặp bế tắc.
Ngày 18/12, chính quyền Nixon tổ chức chiến dịch đánh phá bằng máy bay chiến
lược B52 với quy mô chưa từng có trong lịch sử chiến tranh không quân ở miền bắc Việt
Nam nhằm gây tổn thất lớn nhất có thể, ép Việt Nam Dân chủ Cộng hòa chấp nhận điều
kiện của Mỹ tại bàn đàm phán Paris. Quân và dân Việt Nam kiên quyết giáng trả, đập
tan cuộc tập kích bằng không quân chiến lược 12 ngày đêm của Mỹ, làm nên chiến thắng
lịch sử “Điện Biên Phủ trên không”. Bị thất bại nặng nề, ngày 30/12, Mỹ buộc phải đơn
phương tuyên bố ngừng ném bom miền bắc Việt Nam từ bắc vĩ tuyến 20 và đề nghị nối
lại đàm phán ở Paris.
Năm 1973:
11
Ngày 8/1, vòng đàm phán cuối cùng diễn ra tại Paris. Ngày 13/1, các bên hoàn
thành văn bản của Hiệp định; những đợt gặp riêng giữa ông Lê Đức Thọ - ông Xuân
Thủy và ông Kissinger kết thúc. Ngày 23/1, Mỹ chấp nhận ký Hiệp định Paris không
điều kiện; ông Lê Đức Thọ và ông Kissinger tiến hành ký tắt Hiệp định và 4 nghị định
thư.
Về cơ bản, hiệp định mới không khác nhiều so với văn bản ngày 20/10/1972. Việt
Nam đã bảo vệ được các nguyên tắc và nội dung cơ bản: Mỹ chấm dứt chiến tranh, rút
quân trong 2 tháng; giữ nguyên trạng về chính trị; Hội đồng hòa giải hòa hợp dân tộc 3
thành phần; hoàn toàn không đề cập vấn đề quân đội miền bắc. Ngày 27/1, đại diện 4
bên dự Hội nghị Paris là ông Nguyễn Duy Trinh (Việt Nam Dân chủ Cộng hòa), bà
Nguyễn Thị Bình (Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng hòa miền nam Việt Nam), ông
W.Rogers (Mỹ) và ông Nguyễn Văn Lắm (chính quyền Sài Gòn) đã chính thức ký Hiệp
định Paris về chấm dứt chiến tranh, lập lại hòa bình ở Việt Nam; và 4 nghị định thư liên
quan.
1.3. Kết quả
Với sự kiên quyết và khôn khéo đấu tranh của đoàn VNDCCH và đoàn Cộng hòa
miền Nam Việt Nam tại Hội nghị Paris, cùng việc đánh bại cuộc tập kích chiến lược
bằng không quân của Mỹ vào Hà Nội, ngày 23-1-1973, tại Paris, Hiệp định về chấm dứt
chiến tranh, lập lại hòa bình ở Việt Nam đã được ký tắt giữa đại diện của VNDCCH là
cố vấn Lê Đức Thọ và đại diện Hoa Kỳ là cố vấn H. Kissinger.
Ngày 27-1-1973, Hiệp định Paris về chấm dứt chiến tranh, lập lại hòa bình ở Việt
Nam được ký chính thức giữa Bộ trưởng Ngoại giao đại diện cho các Chính phủ tham
dự hội nghị gồm: VNDCCH, Cộng hòa miền Nam Việt Nam, Hợp chủng quốc Hoa Kỳ
và Việt Nam Cộng hòa.
Ngày 28-1-1973, ngừng bắn trên toàn miền Nam.
Ngày 31-1-1973, Tổng thống Nichxơn gửi công hàm cho Chính phủ Việt Nam
Dân chủ Cộng hòa về việc Hoa Kỳ đóng góp hàn gắn vết thương chiến tranh ở Việt
Nam.
Ngày 2-3-1973, ký Định ước Pari về Việt Nam.
Ngày 29-3-1973, người lính Mỹ cuối cùng rời khỏi miền Nam Việt Nam. Chấm
dứt mọi can thiệp quân sự trực tiếp của Hoa Kỳ đối với vấn đề Việt Nam, Hoa Kỳ sẽ chỉ
còn duy trì viện trợ và cố vấn quân sự.
Từ thời điểm này, tuy vẫn nhận viện trợ quân sự và kinh tế từ Hoa Kỳ nhưng Quân
lực Việt Nam Cộng hòa phải đơn phương trực tiếp chiến đấu với Quân giải phóng miền
Nam Việt Nam. Đầu năm 1974, Quân lực Việt Nam Cộng hòa tiếp tục có những đợt tấn
12
công nhằm vào lực lượng đối phương tại các khu vực trọng điểm như tại Quân khu 5,
Kon Tum, Pleiku, xung quanh Sài Gòn,... Tuy nhiên, từ giữa năm 1974, cường độ tấn
công của Quân lực Việt Nam Cộng hòa giảm dần và tương quan lực lượng thực sự
nghiêng về Quân giải phóng miền Nam Việt Nam từ cuối năm 1974, thậm chí là thay
đổi với tốc độ chóng mặt vì tinh thần của Quân lực Việt Nam Cộng hòa xuống chưa
từng thấy khi mất nguồn viện trợ từ Hoa Kỳ cũng như các chiến dịch trước đó không
đạt được yêu cầu đề ra.

13
CHƯƠNG 2: HIỆP ĐỊNH PARI NĂM 1973 VỀ CHẤM DỨT CHIẾN TRANH,
LẬP LẠI HÒA BÌNH Ở VIỆT NAM
2.1. Nội dung toàn văn hiệp định
Kéo dài 4 năm, 8 tháng, 14 ngày, bắt đầu ngày 13/5/1968 đến ngày 27/01/1973,
trải qua 201 phiên họp công khai, 45 cuộc họp riêng cấp cao, 500 cuộc họp báo, 1.000
cuộc phỏng vấn và hàng nghìn cuộc mít tinh ủng hộ Việt Nam, hiệp định Paris chính
thức có hiệu lực từ ngày 27/01/1973. Nội dung của hiệp định bao gồm 9 chương và 23
điều. Bao gồm:
● Chương I: Các quyền cơ bản của nhân dân Việt Nam, trong đó:
Quy định Hoa Kỳ và các nước khác tôn trọng độc lập, chủ quyền, thống nhất,
toàn vẹn lãnh thổ của nước Việt Nam như Hiệp định Genève năm 1954 về Việt Nam đã
công nhận. Theo đó, các bên nước ngoài và các bên kế thừa quốc gia đối với các bên
nước ngoài không có chủ quyền quốc gia trên lãnh thổ Việt Nam. Nhà nước ở Việt Nam
tổ chức tổng tuyển cử toàn quốc là nhà nước có chủ quyền quốc gia ở Việt Nam. Việt
Nam Dân chủ Cộng hòa tiếp tục giữ quyền quản lý hành chính ở miền Bắc, Việt Nam
Cộng hòa giữ quyền quản lý hành chính ở miền Nam cho tới khi một nhà nước thống
nhất cho cả hai miền được hình thành thông qua Tổng tuyển cử toàn quốc. Tuy nhiên,
sau ngày 30/4/1975, Việt Nam Cộng hòa đã chuyển toàn bộ quyền và nghĩa vụ của mình
cho Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam thông qua tuyên bố
đầu hàng của Tổng thống Dương Văn Minh.
● Chương II: Chấm dứt chiến sự - rút quân, trong đó:
Hoa Kỳ sẽ chấm dứt mọi hoạt động quân sự của Hoa kỳ chống lãnh thổ nước
Việt Nam Dân chủ Cộng hoà bằng mọi lực lượng trên bộ, trên không, trên biển bất cứ
từ đâu tới, và sẽ chấm dứt việc thả mìn tại vùng biển, các cảng và sông ngòi nước Việt
Nam Dân chủ Cộng hoà. Hoa kỳ sẽ tháo gỡ, làm mất hiệu lực vĩnh viễn, phá huỷ tất cả
những mìn ở vùng biển, các cảng và sông ngòi ở miền Bắc Việt Nam ngay sau khi Hiệp
định này có hiệu lực. Việc chấm dứt hoàn toàn chiến sự này là vững chắc và không thời
hạn. Trên thực tế, Việt Nam Dân chủ Cộng hòa đã tự việc tháo gỡ và vô hiệu hóa bom,
mìn phong tỏa bờ biển miền Bắc mà không cần sự phối hợp của Hoa Kỳ
Các lực lượng của Hoa Kỳ và của các nước ngoài khác đồng minh của Hoa Kỳ
và của Việt Nam Cộng hoà sẽ ở nguyên vị trí của mình trong lúc chờ đợi thực hiện kế
hoạch rút quân. Hoa Kỳ sẽ không tiếp tục dính líu quân sự hoặc can thiệp vào công việc
nội bộ của miền Nam Việt Nam. Trong thời hạn sáu mươi ngày kể từ khi ký Hiệp định
này, sẽ hoàn thành việc rút hoàn toàn ra khỏi miền Nam Việt Nam mọi quân đội, cố vấn
quân sự và nhân viên quân sự liên quan đến chương trình bình định, vũ khí, đạn dược

14
và dụng cụ chiến tranh của Hoa Kỳ và của các nước ngoài khác. Cố vấn của các nước
nói trên cho tất cả các tổ chức bán quân sự và lực lượng cảnh sát cũng sẽ rút trong thời
hạn đó. Hoa Kỳ phải hủy bỏ tất cả căn cứ quân sự tại Việt Nam. Trên thực tế, ngay trước
khi Hiệp định được ký, Hoa Kỳ đã chuyển toàn bộ căn cứ quân sự tại miền Nam Việt
Nam cho Việt Nam Cộng hòa.
Hai bên miền Nam Việt Nam được phép từng thời gian thay thế vũ khí, đạn dược,
dụng cụ chiến tranh đã bị phá huỷ, hư hỏng, hao mòn hoặc dùng hết từ sau khi ngừng
bắn, trên cơ sở một đổi một, cùng đặc điểm và tính năng, có sự giám sát của Ban liên
hợp quân sự hai bên miền Nam Việt Nam và Uỷ ban quốc tế kiểm soát và giám sát.
● Chương III: Trao trả tù binh, nhân viên dân sự và thường dân, trong đó:
Việc trao trả những nhân viên quân sự của các bên bị bắt và thường dân nước
ngoài của các bên bị bắt sẽ tiến hành song song và hoàn thành không chậm hơn ngày
hoàn thành việc rút quân. Các bên sẽ trao đổi danh sách đầy đủ những nhân viên quân
sự và thường dân nước ngoài bị bắt nói trên vào ngày ký kết Hiệp định này.
Các bên sẽ giúp đỡ nhau tìm kiếm tin tức về những nhân viên quân sự của các
bên và thường dân nước ngoài của các bên bị mất tích trong chiến đấu, xác định vị trí
và bảo quản mồ mả của những người chết, nhầm tạo điều kiện dễ dàng cho việc cất bốc
và hồi hương hài cốt và có những biện pháp khác cần thiết để tìm kiếm tin tức những
người còn coi là mất tích trong chiến đấu.
Hai bên miền Nam Việt Nam sẽ thực hiện trên tinh thần hòa giải và hoà hợp dân
tộc, nhằm chấm dứt thù hằn, giảm bớt đau khổ và đoàn tụ các gia đình. Hai bên miền
Nam Việt Nam sẽ gắng hết sức mình để giải quyết vấn đề này trong vòng chín mươi
ngày sau khi ngừng bắn có hiệu lực.
● Chương IV: Quyền tự quyết dân tộc của nhân dân miền Nam Việt Nam, trong
đó:
Quyền tự quyết của nhân dân miền Nam Việt Nam là thiêng liêng, bất khả xâm
phạm và phải được tất cả các nước tôn trọng. Nhân dân miền Nam Việt Nam tự quyết
định tương lai chính trị của miền Nam Việt Nam thông qua tổng tuyển cử. Các nước
ngoài sẽ không được áp đặt bất cứ xu hướng chính trị hoặc cá nhân nào đối với miền
Nam Việt Nam. Trên thực tế, để chuẩn bị cho Tổng tuyển cử toàn quốc năm 1976, Việt
Nam Dân chủ Cộng hòa đã tiến hành tổ chức bầu cử vào tháng 6/1975 và Chính phủ
Cách mạng Cộng hòa miền Nam Việt Nam tổ chức Hội nghị hiệp thương chính trị vào
ngày 15/11/1975 theo đúng quy định của Hiệp định.
Hai bên miền Nam Việt Nam thực hiện hoà giải và hoà hợp dân tộc, xoá bỏ thù
hằn, cấm mọi hành động trả thù và phân biệt đối xử với những cá nhân hoặc tổ chức đã
15
hợp tác với bên này hoặc bên kia; bảo đảm các quyền tự do dân chủ của nhân dân: tự do
cá nhân, tự do ngôn luận, tự do báo chí, tự do hội họp, tự do tổ chức, tự do hoạt động
chính trị, tự do tín ngưỡng, tự do đi lại, tự do cư trú, tự do làm ăn sinh sống, quyền tư
hữu tài sản và quyền tự do kinh doanh.
Hai bên miền Nam Việt Nam sẽ hiệp thương trên tinh thần hoà giải và hoà hợp
dân tộc, tôn trọng lẫn nhau và không thôn tính nhau để thành lâp Hội đồng quốc gia hoà
giải và hoà hợp dân tộc gồm ba thành phần ngang nhau. Hội đồng sẽ làm việc theo
nguyên tắc nhất trí. Sau khi Hội đồng quốc gia hoà giải và hoà hợp dân tộc nhậm chức,
hai bên miền Nam Việt Nam sẽ hiệp thương về việc thành lập các hội đồng cấp dưới.
Hai bên miền Nam Việt Nam sẽ kí một hiệp định về các vấn đề nội bộ của miền Nam
Việt Nam càng sớm càng tốt và sẽ làm hết sức mình để thực hiện việc này trong vòng
chín mươi ngày sau khi ngừng bắn có hiệu lực, phù hợp với nguyện vọng của nhân dân
miền Nam Việt Nam là hoà bình, độc lập và dân chủ. Ngay sau khi Hiệp định Paris có
hiệu lực, Việt Nam Cộng hòa và Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam
Việt Nam đã tổ chức Hội nghị La Celle Saint Cloud từ ngày 19/3/1973 nhưng cả hai đều
không thống nhất được bất kỳ nội dung nào bằng văn bản chính thức cho tới khi Hội
nghị này chính thức giải tán vào ngày 30/04/1975 khi Việt Nam Cộng hòa chính thức
đầu hàng Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam.
Vấn đề lực lượng vũ trang Việt Nam ở miền Nam Việt Nam sẽ do hai bên miền
Nam Việt Nam giải quyết trên tinh thần hoà giải và hoà hợp dân tộc, bình đẳng và tôn
trọng lẫn nhau, không có sự can thiệp của nước ngoài, phù hợp với tình hình sau chiến
tranh.
Miền Nam Việt Nam sẽ thực hiện chính sách đối ngoại hoà bình, độc lập. Miền
Nam Việt Nam sẵn sàng thiết lập quan hệ với tất cả các nước không phân biệt chế độ
chính trị và xã hội trên cơ sở tôn trọng độc lập, chủ quyền của nhau và nhận viện trợ
kinh tế, kỹ thuật của bất cứ nước nào không kèm theo điều kiện chính trị. Vấn đề nhận
viện trợ quân sự sau này cho miền Nam Việt Nam sẽ thuộc thẩm quyền của chính phủ
được thành lập sau tổng tuyển cử ở miền Nam Việt Nam.
● Chương V: Thống nhất Việt Nam, trong đó:
Việc thống nhất nước Việt Nam sẽ được thực hiện từng bước bằng phương pháp
hòa bình trên cơ sở bàn bạc và thoả thuận giữa miền Bắc và miền Nam Việt Nam không
bên nào cưỡng ép hoặc thôn tính bên nào và không có sự can thiệp của nước ngoài. Thời
gian thống nhất sẽ do miền Bắc và miền Nam Việt Nam thoả thuận.
Giới tuyến quân sự giữa hai miền tại vĩ tuyến 17 chỉ là tạm thời và không phải là
một ranh giới về chính trị hoặc về lãnh thổ, như quy định trong đoạn 6 của Tuyên bố

16
cuối cùng của Hội nghị Genève năm 1954. Miền Bắc và miền Nam Việt Nam sẽ tôn
trọng khu phi quân sự ở hai bên giới tuyến quân sự tạm thời. Miền Bắc và miền Nam
Việt Nam sẽ sớm bắt đầu thương lượng nhằm lặp lại quan hệ bình thường về nhiều mặt.
Miền Bắc và miền Nam Việt Nam sẽ không tham gia bất cứ liên minh quân sự hoặc khối
quân sự nào và không cho phép nước ngoài có căn cứ quân sự, quân đội, cố vấn quân
sự và nhân viên quân sự trên đất mình.
● Chương VI: Ủy ban liên hợp giám sát Hiệp định, trong đó:
Ủy ban quốc tế kiểm soát và giám sát sẽ gồm đại diện của bốn nước: Ba lan,
Canada, Hungari, Indonesia. Các thành viên của Uỷ ban quốc tế sẽ luân phiên làm Chủ
tịch trong từng thời gian do Uỷ ban quốc tế quy định.
● Chương VII: Các vấn đề liên quan đến Lào và Campuchia, trong đó:
Công nhận các quyền dân tộc cơ bản của nhân dân Campuchia và nhân dân Lào:
độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ của các nước đó. Các bên phải tôn
trọng nền trung lập của Campuchia và Lào; không dùng lãnh thổ của Campuchia và lãnh
thổ của Lào để xâm phạm chủ quyền và an ninh của nhau và của các nước khác.
Các nước ngoài sẽ chấm dứt mọi hoạt động quân sự ở Campuchia và Lào, rút hết
và không đưa trở lại vào hai nước đó quân đội, cố vấn quân sự và nhân viên quân sự, vũ
khí, đạn dược và dụng cụ chiến tranh.
Công việc nội bộ của Campuchia và Lào phải do nhân dân mỗi nước này giải
quyết không có sự can thiệp của nước ngoài.
Những vấn đề liên quan giữa các nước Đông Dương sẽ do các bên Đông Dương
giải quyết, trên cơ sở tôn trọng độc lập, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ của nhau và không
can thiệp vào công việc nội bộ của nhau.
● Chương VIII: Quan hệ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa - Hoa Kỳ, trong đó:
Hoa kỳ sẽ đóng góp vào việc hàn gắn vết thương chiến tranh và công cuộc xây
dựng sau chiến tranh ở Việt Nam Dân chủ Cộng hoà và toàn Đông Dương.
Việt Nam Dân chủ Cộng hoà và Hoa Kỳ sẽ thiết lập quan hệ mới, bình đẳng và
cùng có lợi trên cơ sở tôn trọng độc lập, chủ quyền của nhau và không can thiệp vào
công việc nội bộ của nhau.
● Chương IX:
Các điều khoản khác quy định về thủ tục ký kết giữa các bên và Hiệp định bắt
đầu có hiệu lực kể từ khi Ngoại trưởng của Hoa Kỳ, Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, Việt

17
Nam Cộng hòa và Chính phủ cách mạng lâm thời Cộng hoà miền Nam Việt Nam ký
vào ngày 27/01/1973. Hiệp định gồm hai bản tiếng Việt và tiếng Anh có giá trị như nhau
2.2. Nội dung cơ bản
● Các điều khoản về chính trị:
- Mỹ và các nước khác phải tôn trọng độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn
lãnh thổ của Việt Nam, tôn trọng quyền tự quyết của nhân dân miền Nam Việt
Nam. Mỹ không tiếp tục dính líu quân sự, không can thiệp vào công việc nội bộ
của miền Nam Việt Nam.
● Các điều khoản về quân sự:
- Mỹ sẽ chấm dứt mọi hoạt động quân sự của Mỹ chống lãnh thổ nước Việt Nam
Dân chủ Cộng hòa. Trong thời hạn 60 ngày kể từ khi ký Hiệp định này, Mỹ và
các nước đồng minh phải hoàn thành việc rút hoàn toàn quân đội, cố vấn quân sự
và nhân viên quân sự liên quan đến chương trình bình định, vũ khí, đạn dược và
dụng cụ chiến tranh ra khỏi miền Nam Việt Nam.
- Đồng thời, Mỹ cũng phải hủy bỏ tất cả căn cứ quân sự tại Việt Nam, nhận tháo
gỡ mìn do Mỹ đã rải ở miền Bắc Việt Nam..
● Các điều khoản về nội bộ miền Nam
- Thực hiện trên nguyên tắc hòa giải và hoà hợp dân tộc, bảo đảm tự do dân chủ tổ
chức tổng tuyển cử tự do.
- Tổ chức tổng tuyển cử tự do, thành lập Hội đồng quốc gia hòa giải, hòa hợp dân
tộc gồm ba thành phần để tổ chức tổng tuyển cử.
● Các điều khoản về thống nhất Việt Nam, về Lào và Campuchia, về cơ cầu
thi hành Hiệp định Ủy ban liên hợp và Ủy ban quốc tế; về Hội nghị quốc tế
xác nhận Hiệp định và điều khoản về việc Mỹ đóng góp hàn gắn vết thương
chiến tranh ở Việt Nam Dân chủ Cộng hòa
- Về thống nhất Việt Nam:
+ Việc thống nhất nước Việt Nam sẽ được thực hiện từng bước bằng phương pháp
hòa bình trên cơ sở bàn bạc và thoả thuận giữa miền Bắc và miền Nam Việt Nam
không bên nào cưỡng ép hoặc thôn tính bên nào và không có sự can thiệp của
nước ngoài.
+ Miền Bắc và miền Nam Việt Nam sẽ không tham gia bất cứ liên minh quân sự
hoặc khối quân sự nào và không cho phép nước ngoài có căn cứ quân sự, quân
đội, cố vấn quân sự và nhân viên quân sự trên đất mình.

18
- Các vấn đề liên quan đến Lào và Campuchia:
Công nhận các quyền dân tộc cơ bản của nhân dân Campuchia và nhân dân Lào:
độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ của các nước đó. Các nước ngoài sẽ
chấm dứt mọi hoạt động quân sự ở Campuchia và Lào, rút hết và không đưa trở lại vào
hai nước đó quân đội, cố vấn quân sự và nhân viên quân sự, vũ khí, đạn dược và dụng
cụ chiến tranh.
- Về cơ cấu thi hành Hiệp định Ủy ban liên hợp và Ủy ban quốc tế
Ủy ban quốc tế kiểm soát và giám sát gồm đại diện của bốn nước: Ba Lan, Canada,
Hungary, Indonesia. Các thành viên của Uỷ ban quốc tế sẽ luân phiên làm Chủ tịch trong
từng thời gian do Uỷ ban quốc tế quy định.
- Về việc Mỹ đóng góp hàn gắn vết thương chiến tranh ở Việt Nam Dân chủ
Cộng hòa:
Mỹ sẽ đóng góp vào việc hàn gắn vết thương chiến tranh và công cuộc xây dựng
sau chiến tranh ở Việt Nam Dân chủ Cộng hoà và toàn Đông Dương
2.3. Ý nghĩa của Hiệp định Pari năm 1973
2.3.1. Đối với Việt Nam
Với Hiệp định Paris, Mỹ buộc phải chấm dứt chiến tranh, rút khỏi Việt Nam và
Đông Dương, mở ra một giai đoạn mới cho cách mạng Việt Nam, tạo ra thế so sánh lực
lượng có lợi cho quân và dân miền Nam tiến tới đánh đổ chính quyền và quân đội Sài
Gòn, hoàn thành sự nghiệp giải phóng miền Nam, thống nhất Tổ quốc vào mùa Xuân
năm 1975.
Hiệp định Paris là thắng lợi tổng hợp của cuộc đấu tranh trên các mặt trận quân sự,
chính trị và ngoại giao; là đỉnh cao thắng lợi của mặt trận ngoại giao nước ta thời kỳ
chống Mỹ cứu nước, là mốc son trong trang sử vàng của nền ngoại giao cách mạng Việt
Nam; đánh dấu bước trưởng thành tột bậc của nền ngoại giao cách mạng thời đại Hồ
Chí Minh.
Hiệp định Paris là bước ngoặt lịch sử, khẳng định bản lĩnh, trí tuệ và sự lãnh đạo
đúng đắn sáng suốt của Đảng, phát huy cao độ thắng lợi trên các mặt trận ngoại giao,
chính trị, quân sự, kết hợp thành công sức mạnh của dân tộc với sức mạnh thời đại, tạo
ra thế và lực mới cho cuộc chiến đấu của dân tộc ta, tạo thế xoay chuyển có lợi cho cách
mạng, đi đến Đại thắng mùa xuân 1975.
Hiệp định Paris là văn bản pháp lý quốc tế đầu tiên, toàn diện nhất, đầy đủ nhất
ghi nhận các quyền cơ bản của Nhân dân Việt Nam; là sự công nhận chính thức của
quốc tế đối với nền độc lập, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ của Việt Nam.
19
Hiệp định Paris 1973 phản ánh thắng lợi ở mức cao trong bối cảnh quốc tế có thuận
lợi nhưng cũng phức tạp. Việt Nam đã tranh thủ được cả Liên Xô, Trung Quốc, các nước
XHCN, các nước không liên kết, nhân dân thế giới và hình thành trên thực tế “mặt trận
nhân dân thế giới ủng hộ Việt Nam chống Mỹ xâm lược”. Sự hình thành của mặt trận
nhân dân thế giới ủng hộ nhân dân Việt Nam đã thể hiện phương châm kết hợp sức mạnh
dân tộc với sức mạnh thời đại, sức mạnh quốc gia với sức mạnh quốc tế, kết hợp ngoại
giao nhà nước với ngoại giao nhân dân.
2.3.2. Đối với Thế Giới
- Hiệp định Paris và việc Mỹ rút khỏi Việt Nam, góp phần to lớn vào sự nghiệp
giải phóng của nhân dân Lào và Campuchia. Tuy Hiệp định không trực tiếp giải quyết
vấn đề Lào, Campuchia nhưng buộc Mỹ chấm dứt dính líu quân sự, rút quân khỏi Lào,
trực tiếp đưa đến một giải pháp về Lào năm 1973, mở đường cho nhân dân Lào giành
thắng lợi hoàn toàn năm 1975.
- Đối với Campuchia, Hiệp định đẩy Mỹ đi sâu vào xu thế rút lui về quân sự khỏi
Đông Dương, trực tiếp đưa đến việc Mỹ phải chấm dứt ném bom Campuchia ngày
15/8/1973, tạo thuận lợi cho các lực lượng kháng chiến Campuchia giành thắng lợi tháng
4/1975. Hiệp định mở ra thời kỳ chấm dứt hoàn toàn sự dính líu và can thiệp của các
nước đế quốc vào Lào, Campuchia và bán đảo Đông Dương.
- Hiệp định Paris và thắng lợi của nhân dân Việt Nam góp phần mở ra một chương
mới trong cục diện Đông Nam Á: Mỹ rút lui về quân sự khỏi Đông Dương và Đông
Nam Á; Khối SEATO (Tổ chức Hiệp ước Đông Nam Á) giải tán; xu thế hòa bình, trung
lập phát triển mạnh trong khu vực, mở ra khả năng thiết lập một khu vực hòa bình, hữu
nghị ổn định
- Thắng lợi về mặt ngoại giao của Việt Nam là minh chứng hùng hồn cho chân lý
"đại nghĩa thắng hung tàn, chí nhân thay cường bạo", củng cố niềm tin của nhân dân yêu
chuộng hòa bình và các dân tộc bị áp bức trên toàn thế giới vào sự nghiệp đấu tranh
chính nghĩa của mình.
- Đi vào lịch sử cuộc đấu tranh chung của nhân dân thế giới vì độc lập và tự do,
vì hòa bình và công lý

20
CHƯƠNG 3: NHẬN XÉT VÀ KINH NGHIỆM
3.1. Nhận xét
3.1.1. Thành công và nguyên nhân
● Thành công
Hiệp định Paris đã chính thức chấm dứt cuộc chiến tranh giữa Việt Nam và Hoa
Kỳ, một cuộc chiến kéo dài gần hai thập kỷ và gây ra nhiều tổn thất về người và của.
Quyền tự quyết của nhân dân miền Nam Việt Nam được thừa nhận, được bảo đảm bởi
các điều khoản của hiệp định, như việc ngừng bắn, ngừng can thiệp ngoại giao, ngừng
cung cấp vũ khí và viện trợ quân sự cho các bên. Đây là một thành tựu chính trị quan
trọng, khẳng định vai trò chủ đạo của nhân dân miền Nam trong cuộc đấu tranh giải
phóng và xây dựng xã hội mới.
Hiệp định Paris 1973 là cơ sở pháp lý không cho phép Mỹ tiếp tục dính líu và can
thiệp trở lại, ngụy mất chỗ dựa và suy yếu, ta giữ nguyên lực lượng và lớn mạnh lên,
xuất hiện cục diện mới, so sánh lực lượng mới ở miền Nam. Nhân dân Việt Nam đã thực
hiện được mục tiêu “đánh cho Mỹ cút”, mở ra một giai đoạn mới, thuận lợi cho mục tiêu
“đánh cho ngụy nhào” hoàn thành giải phóng miền Nam. Mỹ rút quân nhưng Việt Nam
vẫn giữ nguyên lực lượng chính trị và vũ trang ở miền Nam Việt Nam, xác nhận thực tế
miền Nam có hai chính quyền, hai quân đội, hai vùng kiểm soát; xoá ngụy một bước về
pháp lý.
Hiệp định Paris là một minh chứng cho sự thắng lợi của nhân dân Việt Nam trước
cường quốc Mỹ, làm rung chuyển thế giới và tạo ra một cơn sóng lớn trong phong trào
đấu tranh giải phóng dân tộc ở các nước Á, Phi, Mỹ Latinh. Hiệp định Paris cũng là một
nguồn cảm hứng và động lực cho các nước và các nhóm dân tộc khác trong việc đấu
tranh cho quyền tự quyết và chống lại sự bóc lột và áp bức của các thế lực đế quốc. Việt
Nam đã tranh thủ được cả Liên Xô, Trung Quốc, các nước XHCN, các nước không liên
kết, nhân dân thế giới và hình thành trên thực tế "Mặt trận nhân dân thế giới ủng hộ Việt
Nam chống Mỹ xâm lược". Hiệp định và sự thành công của nhân dân Việt Nam góp
phần mở ra một chương mới trong cục diện Đông Nam Á. Mỹ rút lui về quân sự khỏi
Đông Dương và Đông Nam Á; khối SEATO giải tán, xu thế hoà bình, trung lập phát
triển mạnh trong khu vực, mở ra khả năng thiết lập một khu vực hoà bình, hữu nghị ổn
định.
● Nguyên nhân dẫn đến thành công
Nhân tố đóng vai trò quyết định đưa đến thắng lợi của cuộc đàm phán Paris, đó là
sự lãnh đạo sáng suốt, đầy trí tuệ, rất bản lĩnh của Đảng ta, đứng đầu là Chủ tịch Hồ Chí

21
Minh, đã đề ra đường lối kháng chiến chống Mỹ cứu nước, đường lối quốc tế độc lập tự
chủ, đúng đắn, sáng tạo.
Khả năng ngoại giao đỉnh cao của phái đoàn Việt Nam được nâng lên thành nghệ
thuật. Hoạt động ngoại giao đã góp phần tranh thủ dư luận thế giới, cô lập kẻ thù, hỗ trợ
chiến trường và ngược lại, chiến thắng trên chiến trường đã hỗ trợ to lớn cho công tác
vận động quốc tế trong các cuộc đàm phán, buộc địch xuống thang từng bước, làm thay
đổi so sánh về tương quan lực lượng quân sự. Chúng ta đã xác định và kiên trì kế sách
“vừa đánh, vừa đàm” trong suốt quá trình đàm phán, đàm phán phục vụ đấu tranh quân
sự, chính trị với mục tiêu hàng đầu là tấn công, kiềm chế địch, tranh thủ sự ủng hộ và
đồng tình của bạn bè và dư luận quốc tế; biết phát huy điểm mạnh cơ bản của ta là chính
nghĩa dân tộc và khoét sâu chỗ yếu của địch là chiến tranh phi nghĩa; luôn nắm vững và
phát huy quyền chủ động, không ngừng tấn công đối phương, đề cao thiện chí hòa bình
của ta; xây dựng được lý lẽ, lập luận đấu tranh sắc bén, có sức tấn công, có sức thuyết
phục, đẩy lùi các thủ đoạn xuyên tạc biện bạch của địch; xác định phương châm giành
thắng lợi từng bước, tiến đến giành thắng lợi cuối cùng.
Dân tộc Việt Nam đã thể hiện sự anh dũng, quyết liệt và hy sinh cao cả trong cuộc
kháng chiến chống Mỹ cứu nước. Họ đã biết kết hợp giữa chiến tranh nhân dân và chiến
tranh chính quy, giữa chiến tranh du kích và chiến tranh định hướng, giữa chiến tranh
cục bộ và chiến tranh toàn diện, để tạo ra những chiến thắng lớn lao trước cường quốc
Mỹ. Những chiến dịch lịch sử như Điện Biên Phủ trên không năm 1972, Chiến dịch Hồ
Chí Minh năm 1975 đã làm rung chuyển thế giới và buộc Mỹ phải ngồi vào bàn đàm
phán.
Sự đoàn kết, nhất trí và tin tưởng vào sự lãnh đạo của Đảng ta và Chủ tịch Hồ Chí
Minh của đồng bào Việt Nam đã thể hiện được tinh thần dân tộc mạnh mẽ, quyết chiến
quyết thắng giành lại non sông, đất nước. Nhân dân Việt Nam ta biết vận dụng những
nguyên tắc cơ bản của chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh để xây dựng
một chế độ xã hội mới ở miền Bắc và tiếp tục cuộc đấu tranh giải phóng miền Nam.
Nhân dân Việt Nam cũng đã biết kết hợp giữa việc duy trì một mặt trận thống nhất trong
nước với việc mở rộng quan hệ hợp tác với các nước bạn bè trên thế giới, để tạo ra một
sức mạnh tổng hợp cho cuộc đấu tranh của ta.
Sự ủng hộ sâu rộng của nhân loại tiến bộ và yêu chuộng hòa bình trên toàn thế
giới. Trong suốt thời gian dài diễn ra cuộc đàm phán tại Paris, có thể nói không có tuần
nào, tháng nào mà không có các cuộc mít tinh, biểu tình hay các hoạt động khác đoàn
kết với Việt Nam diễn ra tại các nước châu Âu. Phong trào ủng hộ Việt Nam nở rộ và
dâng cao với nhiều hình thức đa dạng và phong phú. Sự hình thành của mặt trận nhân
dân thế giới ủng hộ nhân dân Việt Nam đã thể hiện phương châm kết hợp sức mạnh dân
22
tộc với sức mạnh thời đại, sức mạnh quốc gia với sức mạnh quốc tế, kết hợp ngoại giao
nhà nước với ngoại giao nhân dân. Chúng ta đã chủ động thúc đẩy hình thành được mặt
trận nhân dân thế giới ủng hộ Việt Nam chống Mỹ. Đó là nêu cao chính nghĩa của cuộc
đấu tranh của ta, vạch trần tính chất phi nghĩa của cuộc chiến tranh xâm lược của Mỹ,
quyết tâm giành độc lập, thế tất thắng của ta và thể thất bại của Mỹ, nêu cao thiện chí
hòa bình của Việt Nam, tố cáo tội ác chiến tranh, âm mưu xuyên tạc, lừa bịp của Mỹ.
Hiệp định Paris thắng lợi, đó là việc quán triệt sâu sắc tư tưởng ngoại giao Hồ Chí
Minh, kiên trì quan điểm độc lập, tự chủ, đánh giá và dự báo thời cuộc, nghệ thuật đánh
- đàm, tranh thủ dư luận, tập hợp lực lượng tác động vào nội bỏ đối phương, xác định rõ
mục tiêu, biết giành thắng lợi từng bước tiến tới thắng lợi cuối cùng, nhân nhượng có
nguyên tắc; kiên trì nguyên tắc, linh hoạt sách lược, chủ động tạo thời cơ, nắm bắt thời
cơ, xây dựng lập luận khoa học, lý lẽ sắc.
3.1.2. Hạn chế và nguyên nhân
● Hạn chế
Hội nghị kéo dài quá lâu, gần 5 năm, trong khi chiến tranh vẫn tiếp diễn và gây ra
nhiều thiệt hại cho nhân dân và đất nước Việt Nam. Theo ước tính, khoảng 2 triệu người
Việt Nam thiệt mạng, 4 triệu người bị thương và 12 triệu người bị lưu vong trong suốt
chiến tranh. Ngoài ra, chiến tranh cũng gây ra sự phá hủy môi trường, đất đai, cơ sở hạ
tầng và nguồn lực kinh tế của Việt Nam.
Hội nghị không giải quyết được các vấn đề căn bản của chiến tranh, như sự thống
nhất Việt Nam, sự tự quyết của nhân dân miền Nam, sự rút quân toàn bộ của Hoa Kỳ.
Hiệp định Paris chỉ là một thỏa thuận tạm thời để chấm dứt các hoạt động quân sự của
các bên và tạo điều kiện cho việc giải quyết các vấn đề chính trị sau này. Tuy nhiên, các
bên không có ý định thực hiện hoặc tuân thủ hiệp định một cách nghiêm túc. Hoa Kỳ
vẫn tiếp tục cung cấp vũ khí và tài chính cho Việt Nam Cộng hòa, trong khi Việt Nam
Dân chủ Cộng hòa và Chính phủ Cách mạng Lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam
vẫn tiếp tục đấu tranh cho quyền lực tại miền Nam.
Hội nghị không có sự tham gia của các bên liên quan khác, như Liên Xô, Trung
Quốc, Pháp… mà chỉ giới hạn ở bốn bên tham chiến. Đây là một điểm yếu của hội nghị,
vì các bên này có ảnh hưởng lớn đến tình hình chính trị và quân sự trong khu vực và thế
giới. Liên Xô và Trung Quốc là những đồng minh của Việt Nam Dân chủ Cộng hòa,
cung cấp vũ khí, tài trợ và tư vấn cho cuộc kháng chiến chống Mỹ. Pháp là cựu thực dân
của Việt Nam, có quan hệ lịch sử và văn hóa với Việt Nam, và có vai trò trung gian
trong việc tổ chức hội nghị. Nếu các bên này được tham gia vào hội nghị, có thể sẽ có
những đóng góp tích cực để giải quyết các vấn đề nan giải và duy trì hòa bình.

23
Hội nghị không có sự giám sát và thực thi hiệu quả của các điều khoản đã ký kết,
dẫn đến việc vi phạm và xâm phạm của các bên. Hiệp định Paris quy định thành lập một
Ủy ban Giám sát và Kiểm tra Quốc tế gồm bốn nước: Canada, Hungary, Indonesia và
Ba Lan, để giám sát việc thực hiện hiệp định. Tuy nhiên, không có quyền lực thực thi,
mà chỉ có thể báo cáo các vi phạm cho các bên ký kết. Do đó, không thể ngăn chặn hay
xử lý các vi phạm một cách kịp thời và hiệu quả. Ngoài ra, ICCS cũng bị ảnh hưởng bởi
sự chia rẽ và thiếu đồng thuận trong nội bộ, do sự khác biệt về lập trường và quan điểm
của các nước thành viên.
Hiệp định Paris không được thực hiện nghiêm túc và trung thành bởi các bên ký
kết, đặc biệt là Hoa Kỳ và Việt Nam Cộng hòa. Các bên đã vi phạm nhiều điều khoản
của hiệp định, như không rút hết quân đội và vũ khí của mình khỏi miền Nam, không
huỷ bỏ các căn cứ quân sự Mỹ, không ngừng các hoạt động chống phá miền Bắc, không
trao trả tù binh và dân thường bị bắt, không góp phần vào việc hàn gắn vết thương chiến
tranh ở Việt Nam và Đông Dương… Các bên cũng tiếp tục duy trì sự căng thẳng và
xung đột trên chiến trường, dẫn đến cuộc chiến tranh tiếp tục diễn ra.
Hiệp định không được ủng hộ và tán thành bởi dư luận trong nước và quốc tế.
Nhiều người cho rằng hiệp định là một sự thỏa hiệp không công bằng khi hiệp định
không có điều khoản nào liên quan đến việc rút các lực lượng quân sự của Bắc Việt ra
khỏi miền Nam Việt Nam, không giải quyết được vấn đề chính trị của miền Nam Việt
Nam và không phản ánh được ý chí, mong muốn cũng như quyền lợi của nhân dân Việt
Nam. Nhiều người cũng cho rằng hiệp định là một sự đánh đồng giữa kẻ xâm lược (Hoa
Kỳ) với người bị xâm lược (nhân dân Việt Nam), không thể mang lại hòa bình lâu dài
cho Việt Nam. Một minh chứng cho điều này là việc Lê Đức Thọ từ chối nhận giải
Nobel Hòa Bình năm 1973 với lý do hòa bình vẫn chưa lập lại tại Việt Nam.
● Nguyên nhân dẫn đến hạn chế
Sự khác biệt về lợi ích và mục tiêu của các bên, cũng như sự thiếu linh hoạt và
thiện chí trong đàm phán. Các bên tham gia hội nghị Paris có những quan điểm và yêu
cầu khác nhau về cách giải quyết chiến tranh Việt Nam. Hoa Kỳ muốn duy trì ảnh hưởng
tại Đông Nam Á, bảo vệ chế độ Việt Nam Cộng hòa và rút quân một cách danh dự. Việt
Nam Dân chủ Cộng hòa muốn giành được độc lập, thống nhất và thiết lập một chính
quyền dân tộc dân chủ. Việt Nam Cộng hòa muốn duy trì sự tồn tại, an toàn và tự do
của mình. Chính phủ Cách mạng Lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam muốn giải
phóng miền Nam và tổ chức một cuộc tổng tuyển cử. Các bên thường xuyên tranh cãi
về các vấn đề như sự tham gia của Chính phủ Cách mạng Lâm thời Cộng hòa miền Nam
Việt Nam, sự rút quân của Hoa Kỳ, sự ngừng bắn và giám sát, sự trao đổi tù binh, sự
thay đổi chính quyền tại miền Nam, sự tổ chức cuộc tổng tuyển cử, sự thống nhất Việt
24
Nam… Các bên thiếu linh hoạt và thiện chí trong việc tìm kiếm một giải pháp hòa bình
có lợi cho tất cả các bên .
Sự can thiệp và áp lực của các thế lực ngoại giao và quân sự, đặc biệt là Hoa Kỳ,
vào quá trình đàm phán. Hoa Kỳ là bên chiến tranh chính đối với Việt Nam Dân chủ
Cộng hòa, cũng như là bên ủng hộ và bảo vệ chế độ Việt Nam Cộng hòa. Hoa Kỳ có vai
trò quyết định trong việc đưa ra các yêu sách và điều kiện để kết thúc chiến tranh và lập
lại hòa bình. Hoa Kỳ cũng dùng sức mạnh quân sự để áp lực lên các bên khác, như tiến
hành các chiến dịch không kích B52 hay chiến dịch Rolling Thunder. Hoa Kỳ cũng phải
đối mặt với sự phản đối của dư luận trong nước và quốc tế, cũng như sự can thiệp của
các nước thứ ba, đặc biệt là Liên Xô và Trung Quốc, vào quá trình đàm phán. Hoa Kỳ
cố gắng tìm kiếm một giải pháp hòa bình có lợi cho mình, nhưng cũng phải thỏa hiệp
với các bên khác, nhất là Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Hoa Kỳ cũng phải đối phó với
sự bất đồng và không tin tưởng của Việt Nam Cộng hòa, người không muốn bị bỏ rơi
hay bán đứng bởi Hoa Kỳ .
Sự phức tạp và biến động của tình hình chính trị và chiến trường trong và ngoài
Việt Nam. Trong khi đàm phán diễn ra, các bên vẫn tiếp tục đánh nhau trên chiến trường,
vừa đánh vừa đàm. Các cuộc tấn công và phản công của các bên ảnh hưởng đến tiến
trình và kết quả của hội nghị. Một số cuộc chiến quan trọng trong giai đoạn này là: Chiến
dịch Lam Sơn 719 (1971), Chiến dịch Nguyên soái (1972), Chiến dịch Linebacker I và
II (1972). Ngoài ra, tình hình chính trị và quan hệ quốc tế cũng có những thay đổi lớn,
như sự thay đổi chính sách của Hoa Kỳ từ "chiến tranh toàn diện" sang "hòa bình toàn
diện", sự thay đổi quan hệ giữa Liên Xô và Trung Quốc, sự thay đổi quan hệ giữa Pháp
và Việt Nam Dân chủ Cộng hòa… Các thay đổi này đã tạo ra những cơ hội và thách
thức cho các bên trong việc tìm kiếm một giải pháp chấm dứt chiến tranh.
Sự thiếu thông tin và hiểu biết về lịch sử, văn hóa và mong muốn của nhân dân
Việt Nam. Các bên tham gia hội nghị Paris có những nhận thức và đánh giá khác nhau
về nguyên nhân, tính chất và kết quả của chiến tranh Việt Nam. Các bên cũng có những
thiếu sót và sai lầm trong việc nắm bắt được lịch sử, văn hóa và mong muốn của nhân
dân Việt Nam. Hoa Kỳ không hiểu được sự kiên cường, anh dũng và hy sinh của nhân
dân Việt Nam trong cuộc kháng chiến chống Mỹ. Hoa Kỳ cũng không hiểu được sự
đoàn kết, hợp tác và tương trợ của các lực lượng yêu nước và tiến bộ trong miền Nam.
Hoa Kỳ cũng không hiểu được sự mong muốn của nhân dân Việt Nam về một cuộc sống
bình yên, tự do và hạnh phúc. Việt Nam Cộng hòa không hiểu được sự bất công, áp bức
và phi dân chủ của chế độ mình. Việt Nam Cộng hòa cũng không hiểu được sự phản
ứng, phản kháng và khát vọng của nhân dân miền Nam. Việt Nam Cộng hòa cũng không
hiểu được sự thiết yếu, khả thi và tất yếu của việc thống nhất Việt Nam.

25
3.2. Bài học
3.2.1. Bài học kinh nghiệm rút ra
Ngày 27-1-1973, Hiệp định về chấm dứt chiến tranh, lập lại hòa bình ở Việt Nam
(gọi tắt là Hiệp định Pari) được ký kết, đánh dấu mốc son thắng lợi của cuộc đấu tranh
đàm phán ngoại giao lâu dài nhất, cam go nhất trong lịch sử cách mạng Việt Nam; thể
hiện sự kiên định, bản lĩnh, trí tuệ và nghệ thuật ngoại giao Việt Nam thời đại Hồ Chí
Minh. Năm mươi năm qua, đất nước đã có nhiều đổi thay và đang tích cực, chủ động
hội nhập quốc tế, song những bài học sâu sắc của Hội nghị Pa-ri vẫn vẹn nguyên giá trị.
Thứ nhất, luôn đặt lợi ích của quốc gia, dân tộc lên hàng đầu; kiên quyết bảo vệ và
khuếch trương thắng lợi chính trị, quân sự trên bàn đàm phán. Nguyên tắc trong đấu
tranh ngoại giao là lập trường cơ bản, xuyên suốt quá trình đàm phán. Kiên trì thực hiện
nguyên tắc giúp cho cuộc đấu tranh ngoại giao giữ đúng định hướng. Mọi bước đi trong
đàm phán, điều khoản được ký kết đều bám sát nguyên tắc; đây cũng là tiêu chí phân
biệt sự nhân nhượng hay thỏa hiệp, đầu hàng trong đàm phán và ký kết các văn bản.
Tinh thần “Không có gì quý hơn độc lập, tự do” được thể hiện nhất quán trên mặt trận
quân sự, chính trị và đấu tranh ngoại giao. Sức mạnh chính trị, quân sự là hậu thuẫn
vững chắc cho cuộc đấu tranh trên bàn đàm phán. Đấu tranh ngoại giao dựa vững trên
lập trường chính nghĩa và thắng lợi chính trị, quân sự, đồng thời phải phát huy, chuyển
hóa thắng lợi trên chiến trường thành lợi thế trong đàm phán.
Thứ hai, mềm dẻo, linh hoạt về sách lược và nghệ thuật đấu tranh; lựa chọn đúng
thời cơ để bắt đầu đàm phán, biết giành thắng lợi từng bước, đi đến ký kết Hiệp định Pa-
ri trên thế thắng. Nếu như kiên trì về nguyên tắc giúp giữ vững định hướng đấu tranh,
bám sát và đạt được mục đích cuối cùng, cơ bản, thì mềm dẻo trong việc vận dụng sách
lược lại là phương cách để đạt được mục đích. Đó là thành công lớn trong nghệ thuật
chỉ đạo đấu tranh ngoại giao của Đảng ta tại Hội nghị Pa-ri. Trong đấu tranh ngoại giao,
giữ vững nguyên tắc, đồng thời phải mềm dẻo trong vận dụng sách lược, sáng tạo về
nghệ thuật đấu tranh, biết chấp nhận nhân nhượng một cách có nguyên tắc trên một số
nội dung cụ thể. Nếu chỉ kiên trì nguyên tắc đến mức cứng nhắc mà không biết vận dụng
sách lược một cách mềm dẻo thì sẽ không xử lý được các tình huống luôn thay đổi trong
quá trình đấu tranh, không tận dụng được thời cơ để tiến công địch.
Thứ ba, giữ vững tinh thần độc lập, tự chủ trong hoạt động ngoại giao; kiên trì
đoàn kết quốc tế, tranh thủ sự ủng hộ, giúp đỡ của các nước bạn bè, các lực lượng hòa
bình, dân chủ và tiến bộ trên thế giới. Ta trân trọng, tham khảo ý kiến của các nước bạn
bè, nhưng ta tự quyết định phương sách đấu tranh giành thắng lợi, tự quyết định thời cơ
bắt đầu và từng bước đi bài bản của đàm phán.

26
3.2.2. Bài học vận dụng vào việc xử lý các vấn đề đối ngoại, xây dựng và quản lý đất
nước trong giai đoạn hiện nay.
Thứ nhất, sự lãnh đạo sáng suốt của Đảng ta đã mở ra mặt trận ngoại giao, phát
huy thế mạnh của ngoại giao, phối hợp các mặt trận chính trị, quân sự; sự lãnh đạo, chỉ
đạo chặt chẽ, thống nhất các mặt trận, “vừa đánh, vừa đàm”, tạo ra sức mạnh tổng hợp,
giành toàn thắng.
Thứ hai là bài học về kiên định đường lối đối ngoại độc lập tự chủ, vì lợi ích quốc
gia - dân tộc; vận dụng đúng đắn phương châm ngoại giao Hồ Chí Minh “dĩ bất biến,
ứng vạn biến”, tạo thời cơ, kéo địch vào đàm phán, chủ động tấn công ngoại giao và kết
thúc đàm phán khi điều kiện chín muồi; xử lý hài hòa quan hệ với các nước lớn, đồng
thời tranh thủ được sự ủng hộ quốc tế rộng rãi đối với cuộc kháng chiến của nhân dân
ta để làm nên thắng lợi của Hội nghị Paris.
Lập trường của ta trong các cuộc đàm phán là luôn khẳng định tính chất chính
nghĩa của cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước của nhân dân Việt Nam; lên án tội ác
chiến tranh xâm lược của đế quốc Mỹ trên hai miền Nam, Bắc Việt Nam; đòi Mỹ rút
quân ra khỏi Việt Nam; yêu cầu chấm dứt hoàn toàn và không điều kiện việc ném bom
miền Bắc Việt Nam của Mỹ… Chúng ta đã linh hoạt ứng xử trong các tình huống cụ thể
nhưng không bao giờ từ bỏ các nguyên tắc đó và chúng ta đã chiến thắng…
Hiện nay, trong vấn đề chủ quyền của Việt Nam ở biển Đông, chúng ta cũng đã
giữ vững quan điểm Việt Nam có chủ quyền không thể tranh cãi ở biển Đông, trong đó
có các quần đảo Trường Sa và Hoàng Sa, và điều đó là “bất biến”. Trong từng điều kiện
cụ thể, chúng ta có thể có thể linh hoạt thực hiện các biện pháp đấu tranh, bảo vệ chủ
quyền sao cho phù hợp với luật pháp quốc tế và điều kiện thực tế của đất nước, ấy chính
là “vạn biến”.
Thứ ba là bài học về tầm quan trọng của thực lực. Bác Hồ dạy: “Thực lực là cái
chiêng, ngoại giao là cái tiếng. Cái chiêng có to, tiếng mới lớn”. Thắng lợi của Hội nghị
Paris bắt nguồn từ những thắng lợi trên chiến trường, từ sự lớn mạnh không ngừng về
thế và lực của ta trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước. Đó là sức mạnh của chính
nghĩa, sức mạnh của khối đại đoàn kết toàn dân tộc dưới sự lãnh đạo sáng suốt của Đảng
và sự ủng hộ, giúp đỡ quốc tế; sức mạnh từ sự kết hợp tài tình giữa các mặt trận chính
trị, quân sự, ngoại giao; giữa đánh và đàm, giữa chiến trường và bàn đàm phán.
Thứ tư là bài học về đoàn kết dân tộc và đoàn kết quốc tế. Để vượt qua những thách
thức lớn, đoàn kết dân tộc, đoàn kết quốc tế, kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh
thời đại là phương cách cực kỳ quan trọng, bảo đảm thắng lợi. Cuộc chiến đấu vì độc
lập dân tộc, thống nhất đất nước của nhân dân ta thắng lợi vì đã phát huy được sức mạnh

27
đoàn kết toàn dân tộc, sự ủng hộ và giúp đỡ của các nước xã hội chủ nghĩa, của nhân
dân yêu chuộng hòa bình trên thế giới, thực hiện đúng lời dạy của Chủ tịch Hồ Chí Minh
“Đoàn kết, đoàn kết, đại đoàn kết / Thành công, thành công, đại thành công”.
Tuy nhiên, dù tranh thủ sự ủng hộ của quốc tế nhưng phải dựa vào sức mình là
chính. Hiệp định Paris là “niềm cổ vũ lớn lao đối với nhân dân yêu chuộng hòa bình và
công lý trên thế giới, những người đã đồng hành ủng hộ, giúp đỡ nhân dân ta trong suốt
cuộc kháng chiến lâu dài, gian khổ, dõi theo từng diễn biến trên chiến trường cũng như
trên bàn đàm phán tại Paris. Hiệp định Paris là sự minh chứng hùng hồn cho chân lý
“đại nghĩa thắng hung tàn, chí nhân thay cường bạo”, củng cố niềm tin của nhân dân
yêu chuộng hòa bình và các dân tộc bị áp bức trên toàn thế giới vào sự nghiệp đấu tranh
chính nghĩa”, như phát biểu của Chủ tịch Trương Tấn Sang tại lễ kỷ niệm 40 năm ngày
ký Hiệp định này. Tuy nhiên, nếu bản thân cách mạng Việt Nam không tự lực, tự cường
thì không thể đi đến Hiệp định cũng không thể đáp ứng được lòng mong mỏi của nhân
dân tiến bộ trên thế giới…
Hiện nay, việc xử lý các vấn đề liên quan đến chủ quyền trên biển Đông của Việt
Nam cơ bản được thế giới đánh giá cao và ủng hộ. Như trong cuộc đấu tranh với việc
Trung Quốc hạ đặt trái phép giàn khoan HD 981 trong thềm lục địa và vùng đặc quyền
kinh tế của Việt Nam năm 2014, gần như cả thế giới đứng về phía Việt Nam. Tuy nhiên,
sự ủng hộ đó chỉ trở thành sức mạnh vật chất thực sự khi kết hợp với các sức mạnh khác
từ nội lực của chúng ta, như về chính trị, kinh tế, ngoại giao, kể cả sức mạnh quốc phòng.
Thứ năm là bài học về xây dựng lực lượng. Từ Hội nghị Geneva năm 1954 đến
Hội nghị Paris, đội ngũ cán bộ ngoại giao đã trưởng thành vượt bậc, được chuẩn bị và
trang bị kỹ cả về kiến thức đối ngoại và nghệ thuật đàm phán. Cùng với sự chỉ đạo sát
sao, Đảng và Nhà nước ta đã chọn lựa, tin tưởng giao trách nhiệm cho những cán bộ đối
ngoại bản lĩnh nhất, xuất sắc nhất tham gia hai đoàn đàm phán, góp phần rất quan trọng
làm nên thắng lợi của Hội nghị Paris.
Thứ sáu, tôn trọng các cam kết nhưng không bao giờ mất cảnh giác. Ngày trước
và sau Hiệp định Paris, chính quyền Sài Gòn liên tiếp vi phạm Hiệp định bằng cách ráo
riết thực hiện Chiến dịch Tràn ngập lãnh thổ từ đêm 24/1/1973 và hàng loạt kế hoạch
quân sự trong toàn bộ năm 1973, đầu năm 1974; đồng thời thực hiện các kế hoạch như
Hùng Vương, Lý Thường Kiệt (1973 - 1974) và kế hoạch toàn diện lâu dài (1973 - 1978)
nhằm nhanh chóng bình định miền Nam Việt Nam… Đối phó với âm mưu, thủ đoạn
này, ta đã có nhiều giải pháp từ trong nội bộ và hành động cụ thể về mặt chính trị, quân
sự và từng bước làm phá sản các kế hoạch của địch trước khi đánh đổ hoàn toàn chế độ
này...

28
Hiện nay, chúng ta ký kết nhiều thỏa thuận, hiệp định, hiệp ước song phương, đa
phương với nhiều đối tác. Trong quá trình thực hiện, không tránh khỏi những cách hiểu
khác nhau, sự vận dụng khác nhau vào từng thời điểm, thậm chí có cả những âm mưu,
thủ đoạn phá hoại. Do đó, bài học cảnh giác vẫn phải luôn được thực hiện một cách
thường xuyên và triệt để.
Kết luận chung, có thể nói, thắng lợi của Hiệp định Paris đã mở ra một bước ngoặt
mới cho cuộc đấu tranh chống Mỹ cứu nước của nhân dân ta. Quá trình đi đến việc ký
kết và bản thân Hiệp định đã để lại cho cách mạng Việt Nam nhiều bài học quý giá.
Trong bối cảnh hiện nay, các bài học đó cần được nghiên cứu và vận dụng một cách hợp
lý để tiếp tục thúc đẩy cách mạng nước ta phát triển mạnh mẽ hơn nữa.

29
C. KẾT LUẬN
Thắng lợi của Hiệp định Paris là kết quả của sự vận dụng nhuần nhuyễn và xuyên
suốt tư tưởng ngoại giao Hồ Chí Minh, đánh dấu sự trưởng thành của nền ngoại giao
cách mạng Việt Nam hiện đại. Đỉnh cao của quá trình đàm phán tiến tới ký kết Hiệp
định Paris là sự phối hợp linh hoạt và sáng tạo giữa ba mặt trận đấu tranh quân sự, chính
trị và ngoại giao, tạo nên thế trận “vừa đánh, vừa đàm”. Hiệp định Paris cũng là kết tinh
của sự phối hợp giữa đối ngoại Đảng, ngoại giao Nhà nước với đối ngoại nhân dân, sức
mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại. Dưới sự lãnh đạo sáng suốt, tài tình của Trung
ương Đảng, Hiệp định Paris đã tạo ra bước ngoặt về cục diện và tương quan lực lượng
có lợi cho cách mạng Việt Nam, tiến tới thống nhất hoàn toàn đất nước vào năm 1975.
Đồng thời cuộc đàm phán Paris đã để lại nhiều bài học quý báu và sâu sắc cho các thế
hệ sau. Trong đó quan trọng hơn cả là việc kiên định nguyên tắc độc lập, tự chủ, lấy lợi
ích quốc gia - dân tộc làm cơ sở cho đường lối và quyết sách, bài học về sự tin tưởng
tuyệt đối vào vai trò lãnh đạo của Đảng, lấy đại đoàn kết toàn dân tộc làm nòng cốt, chủ
động, sáng tạo trong đấu tranh ngoại giao để tăng cường đoàn kết quốc tế, tranh thủ các
nguồn lực và xu hướng tiến bộ trên thế giới. Nhất là trong tình hình thế giới biến động
phức tạp hiện nay.

30
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Giáo trình Lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam, Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia
sự thật, Hà Nội, 2021.
2. Giáo trình Đường lối cách mạng của Đảng Cộng sản Việt Nam, Nhà xuất bản
Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2016.
3. Ngô Thị Thúy Mai (2018), Ý nghĩa thắng lợi của Hiệp định Pari về chấm dứt
chiến tranh lập lại hòa bình ở Việt Nam, Trang thông tin tử Trường chính trị Tỉnh Kon
Tum.
https://truongchinhtri.kontum.gov.vn/vi/news/nghien-cuu-trao-doi/y-nghia-thang-
loi-cua-hiep-dinh-pari-ve-cham-dut-chien-tranh-lap-lai-hoa-binh-o-viet-nam-122.html
4. Bối cảnh và diễn biến Hội nghị Paris (2023), Liên hiệp các tổ chức hữu nghị Việt
Nam.
https://vufo.org.vn/Boi-canh-va-dien-bien-Hoi-nghi-Paris-58-97811.html
5. TS. Trần Hữu Huy (2023), Hiệp định Paris: Bài học về độc lập tự chủ và đoàn
kết quốc tế, Bảo tàng lịch sử quốc gia.
https://baotanglichsuquocgia.vn/vi/Articles/3097/73647/hiep-djinh-paris-bai-hoc-
ve-djoc-lap-tu-chu-va-djoan-ket-quoc-te.html
6. Sách giáo khoa lịch sử lớp 12, Nhà xuất bản giáo dục.
7. Nguyễn Ngọc Hương (2023), Những dấu ấn nổi bật của Hội nghị Pari, Tạp chí
điện tử Lý luận chính trị.
http://lyluanchinhtri.vn/home/index.php/nhan-vat-su-kien/item/4749-nhung-dau-
an-noi-bat-cua-hoi-nghi-pari.html
8. Hành trình đến Hiệp định Paris 1973 (2023), Báo quân khu 4.
http://baoquankhu4.com.vn/chinh-tri/hanh-trinh-den-hiep-dinh-paris-1973.html
9. Nội dung cơ bản của Hiệp định Paris và các nghị định thư kèm theo (2018), Báo
Lao động Thủ đô.
https://laodongthudo.vn/noi-dung-co-ban-cua-hiep-dinh-paris-va-cac-nghi-dinh-
thu-kem-theo-68050.html
10. Hồng Thịnh (2016), Ngày 25-1-1969: Hội nghị Paris bốn bên khai mạc, Bảo
tàng Lịch sử Thanh Hóa
https://baotang.thanhhoa.gov.vn/portal/Pages/2016-1-27/Ngay-25-1-1969-Hoi-
nghi-Paris-bon-ben-khai-macyr2smu.aspx
31

You might also like