You are on page 1of 32

TRƯỜNG ĐẠI HỌC NGOẠI THƯƠNG

KHOA LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ

TIỂU LUẬN LỊCH SỬ ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM

HỘI NGHỊ GENEVA VỀ KẾT THÚC CHIẾN TRANH LẬP LẠI HÒA BÌNH Ở
ĐÔNG DƯƠNG (8/5 -21/7/1954)

Lớp tín chỉ: TRIH117.4

Giảng viên hướng dẫn: Th.s Nguyễn Thị Thủy

Họ và tên sinh viên: 1. Hà Quỳnh Hương – 2113790030


2. Lê Hoàng Anh – 2112790008
3. Thái Minh Anh – 2113790007
4. Lê Phạm Châu Anh – 2112790010
5. Đoàn Thanh Xuân – 2112550060
6. Kiều Ngọc Dung – 2113150014
7. Nguyễn Lê Minh – 2113150047
8. Giáp Ngọc Trinh – 2114710083
9. Đỗ Quỳnh Trang – 2112550056
10. Đoàn Thị Thúy Quỳnh – 2113150060
Hà Nội, ngày 07 tháng 10 năm 2022.
MỤC LỤC
LỜI MỞ ĐẦU................................................................................................................................3
I. Hội nghị Geneva.....................................................................................................................4
1. Bối cảnh lịch sử.....................................................................................................................................4
1.1 Bối cảnh thế giới..............................................................................................................................4
1.2. Bối cảnh trong nước........................................................................................................................5
2. Mục tiêu của Việt Nam dân chủ Cộng hòa khi tham gia hội nghị Geveva............................................7
2.1. Mục tiêu về chính trị và kinh tế......................................................................................................7
2.2. Mục tiêu về quân sự.......................................................................................................................7
2.3. Diễn biến hội nghị Geneva.............................................................................................................8
II. Kết quả của Hội nghị Geneva và thành công, hạn chế của Việt Nam trong Hội nghị
Geneva............................................................................................................................................9
1. Kết quả của Hội nghị Geneva 1954.......................................................................................................9
1.1. Các văn bản được ký kết tại Hội nghị.............................................................................................9
1.2. Những thỏa thuận đã đạt được..........................................................................................................13
1.2.1. Thỏa thuận chung cho ba nước Việt Nam, Lào, Campuchia:....................................................13
1.2.2. Thỏa thuận riêng với mỗi nước, trong đó, các Hiệp định liên quan đến Việt Nam...................13
2. Thành công và hạn chế của Việt Nam khi tham gia kí kết hiệp định Geneva.....................................14
2.1. Thành công của Việt Nam khi tham gia kí kết hiệp định Geneva................................................14
2.2. Hạn chế của Việt Nam khi tham gia kí kết hiệp định Geneva......................................................15
2.1.1. Về vấn đề giới tuyến..............................................................................................................15
2.1.2. Về vấn đề tổng tuyển cử........................................................................................................16
2.3. Về vấn đề Lào và Campuchia.......................................................................................................17
2.4. Về vấn đề trao trả tù binh và dân thường bị giam giữ..................................................................18
2.5. Về vấn đề vùng sinh sống của dân thường...................................................................................20
III.Ý nghĩa và bài học kinh nghiệm...........................................................................................21
1. Ý nghĩa.............................................................................................................................................21
2. Bài học kinh nghiệm............................................................................................................................22
2.1. Bài học về đánh giá chính xác tình hình quốc tế..........................................................................22
2.2. Bài học về sử dụng con đường đàm phán hòa bình, tăng cường đối thoại và hợp tác.................24
2.3. Bài học về tăng cường thực lực của đất nước, tạo cơ sở vững chắc cho hoạt động đối ngoại, bảo
vệ chủ quyền dân tộc, bảo vệ hòa bình và an ninh quốc tế..................................................................26
2. Một số quan điểm xung quanh Hội nghị Geneva............................................................................27
KẾT LUẬN...................................................................................................................................31
LỜI MỞ ĐẦU
“ Nếu nhận thức rằng lịch sử là cái tất yếu được định vị bằng thời gian của cái đã qua và
ngoại giao là cái tất yếu phản ánh tương quan và lợi ích của những bên tham gia, thì không thể
đánh giá sự kiện Geneva 1954 cách đây nửa thế kỷ bằng tâm thức của ngày hôm nay. Không thể
đòi hỏi một nền ngoại giao của một quốc gia từ trong rừng sâu của chiến khu lần đầu tiên đến
một hội nghị quốc tế với sự tham dự của những cường quốc lớn nhất của hai khối chính trị đối
địch nhau giữa thời chiến tranh lạnh, lại có ngay được một tư thế hoàn toàn độc lập, tự chủ trong
mọi quyết định trên bàn đàm phán” - Tổng thư ký Hội khoa học lịch sử Việt Nam, Dương Trung
Quốc đã nói. Câu nói này của ông là hoàn toàn đúng đắn, tuy xúc tích nhưng lại tóm gọn được tất
cả khó khăn của Việt Nam khi đến với hội nghị Geneva: Một đất nước nhỏ bé, một đất nước lần
đầu đến với một hội nghị quốc tế thì để có vị thế hay có một tiếng nói lớn trên bàn đàm phán thì
quả là một điều khó khăn. Tuy nhiên, chính sự khó khăn tột cùng ấy lại làm nổi bật lên thành quả
chúng ta đạt được vì rằng tầm quan trọng và những bài học kinh nghiệm quý báu của Công ước
Geneva sẽ còn tồn tại trên thế giới và sẽ được nhân lên, phát huy hơn nữa trong các cuộc chiến
tranh giải phóng dân tộc, thống nhất đất nước, trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. E.
Smith Gravel cũng đã tuyên bố: “ Hiệp định Geneva là một kết quả tốt nhất mà chúng ta có thể
đạt được. Nên nhớ rằng rất hiếm có trường hợp mà ngoại giao có thể giành được trên bàn hội
nghị những gì không thể giành được hoặc giữ được trên chiến trường.”. Hội nghị Giơnevơ là tia
sáng soi đường trong tiến trình cách mạng của nhân dân ta, tạo tiền đề, cơ sở pháp lý quan trọng
để tiếp tục cuộc đấu tranh thống nhất Tổ quốc năm 1975. Hội nghị này là sự kiện quốc tế quan
trọng, có tác động to lớn đến quan hệ quốc tế, được các nước và thế giới quan tâm. Mặc dù không
thể phủ nhận ý nghĩa và thắng lợi to lớn của nó, nhưng vẫn có những quan điểm cho rằng, thắng
lợi đạt được ở Giơ-ne-vơ chưa trọn vẹn và còn có thể đạt được nhiều hơn thế., như nữ luật gia
người Pháp L.A. Be-le-xa viết: “Nếu chúng ta đi sâu vào chi tiết các cuộc thương lượng, chúng ta
sẽ nhận thấy rằng các điều khoản của hiệp định chỉ để nhằm làm thỏa mãn các cường quốc...”.
Như vậy, hiệp định Geneva có thật thỏa đáng không? Hạn chế nào của Việt Nam trên bàn đàm
phán dẫn đến việc thành tựu đạt được ở Hiệp định Geneva chưa trọn vẹn? Bài tiểu luận “Hiệp
định Geneva 1954 về kết thúc chiến tranh, lập lại hòa bình Đông Dương” sẽ đưa ra bức tranh
toàn cảnh bàn về những vấn đề xung quanh hội nghị này.
I. Hội nghị Geneva

1. Bối cảnh lịch sử

1.1 Bối cảnh thế giới


Trên thế giới, vào năm 1953 chủ nghĩa đế quốc đứng đầu là đế quốc Mỹ ra sức chuẩn bị
chiến tranh, nhanh chóng triển khai chiến lược toàn cầu hóa phản cách mạng của chúng. Đế quốc
Mỹ áp dụng chiến lược quân sự “trả đũa ồ ạt’ và chính sách ngoại giao “bên miệng hố chiến
tranh” của Ai-xen-hao và Đa-lét nhằm bao vây Liên Xô, Trung Quốc và các nước xã hội chủ
nghĩa, ngăn chặn sự phát triển của chủ nghĩa cộng sản, đàn áp phong trào giải phóng dân tộc,
hòng làm bá chủ thế giới. Lợi dụng chiến tranh Triều Tiên, đế quốc Mỹ pháp triển quân đội Mỹ
từ 1.400.000 người (năm 1949) lên 3.500.000 người vừa chống Liên Xô ở châu Âu, vừa chống
Trung Quốc ở châu Á. Chúng xúc tiến vũ trang lại Tây Đức khôi phục lại chủ nghĩa phục thù Tây
Đức, thành lập quân đội Tây Âu (NATO), khôi phục lại chủ nghĩa quân phiệt Nhật ở châu Á.
Từ sau cách mạng Trung Quốc thành công, sự so sánh lực lượng trên thế giới đang thay
đổi có lợi cho cách mạng. Phe xã hội chủ nghĩa đứng đầu là Liên Xô, với liên minh Xô Trung
làm nòng cốt, ngày một củng cố vững mạnh.
Cả Liên Xô và Trung Quốc đã đi vào thời kỳ kinh tế kế hoạch dài hạn. Liên Xô đã có bom
khinh khí (8.1953) và Trung Quốc sau chiến tranh Triêu Tiên, đã trở thành một nước có lực
lượng quân sự mạnh nhất Châu Á.
Liên Xô, Trung Quốc và phe xã hội chủ nghĩa đoàn kết nhất chí và gương cao ngọn cờ
chống đế quốc gây chiến, bảo vệ hoà bình, ủng hộ phong trào giải phóng dân tộc, nên có uy tín to
lớn trên thế giới.
Song song với sự hình thành phe xã hội chủ nghĩa, phong trào giải phóng dân tộc tiếp tục
phát triển mạnh mẽ ở Nam Á, Đông Nam Á, Trung Cận Đông và châu Phi.
Xu hướng trung lập tích cực, không tham gia các liên minh quân sự với các nước phương
Tây, phát triển trong các nước mới giành được độc lập như 5 nước tham gia kế hoạch Colombo
Ấn Độ, Miến Điện, Pakistan, In-đô-nê-xi-a, và chủ nghĩa dân tộc Nát-xe ở Ai Cập.
Hai phe đều tranh thủ tập hợp lực lượng và đấu tranh quyết liệt. Nhưng so sánh lực lượng
lúc bấy giờ, hai phe đã có hoà hoãn với nhau ở mức thấp. Chấp nhận đình chiến tại Triều Tiên
(1953) gần như nguyên trạng của cả hai bên ở vĩ tuyến 38 và sau đó thỏa thuận họp hội nghị Bá
Linh(1.1954) để bàn giải quyết hòa bình vấn đề Triều Tiên và bàn việc lập lại hòa bình ở Đông
Dương. Đây là hội nghị đầu tiên của bốn nước lớn kể từ năm 1949, sau những năm hết sức căng
thẳng của chiến tranh lạnh Đông Tây. Kết quả hội nghị này là hai phe đồng ý triệu tập hội nghị
Genève vào ngày 26 tháng 4 năm 1954 với sự tham dự của Trung Quốc.

1.2. Bối cảnh trong nước


Tháng 7 năm 1953,tướng Henri Navarre, chỉ huy mới của quân Pháp, đến Đông Dương.
Với sự hứa hẹn của Mỹ về việc tăng viện trợ quân sự, một cuộc tổng phản công được chuẩn bị
bởi vị chỉ huy mới này, báo chí Pháp và Mỹ gọi là "Kế hoạch Navarre".
Ngày 18 tháng 7 năm 1953, Navarre hai cuộc hành quân nhằm phá hủy được một số dụng
cụ và máy móc của Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Đó là cuộc hành quân Hirondelle ("Con én")
vào Lạng Sơn và cuộc hành binh "Camargue" vào Quảng Trị. Ở Lạng Sơn, quân Pháp lùng sục
các kho tàng rồi vội vã rút chạy. Sau đó, Pháp lại loan tin quân đội đã diệt được hai tiểu đoàn,
một số căn cứ trong khu tam giác là mối đe dọa trên quốc lộ số 1.
Trước đây, năm 1952, Nà Sản được Pháp chọn làm địa điểm để ngăn Quân đội Nhân dân
Việt Nam tiến công quân Pháp ở Lào. Tuy nhiên, sau liên tiếp với hai cuộc hành quân trên, tới
ngày 9 tháng 8 năm 1953, Pháp rút quân ra khỏi Nà Sản bằng không vận..
Ngày 15 tháng 10 năm 1953, Pháp mở Cuộc hành quân Maute vào Ninh Bình và Thanh
Hóa hòng đoạt lại thế chủ động trên chiến trường chính. Mục đích chính là phá các căn cứ hậu
cần tiền duyên của Quân đội Nhân dân Việt Nam trong cuộc tiến công 1953–1954 được cho là sẽ
diễn ra ở đồng bằng. Tuy nhiên, thực tế trong kế hoạch Quân đội Nhân dân Việt Nam được đề ra
hồi tháng 9, đồng bằng Bắc Bộ chỉ đơn giản là chiến trường phối hợp. Cuộc hành quân Maute chỉ
là sự suy đoán sai lầm của Navarre khi bị đánh lừa bởi xuất sắc của bộ đội mật mã Việt Nam.
Tháng 11 năm 1953, cuộc hành quân Castor đánh chiếm Điện Biên Phủ – Khu vực được
Navarre cho là vị trí chiến lược chặn lại tuyến đường chính của Quân đội Nhân dân Việt Nam
sang Lào. Theo đó, căn cứ này vừa là một vị trí khóa chặn, vừa là một cái bẫy để nhử đối phương
vào một trận đánh lớn theo kiểu kinh điển mang tính chất quyết định mà tại đó Quân đội Nhân
dân Việt Nam sẽ bị tiêu diệt bởi ưu thế pháo binh và hỏa lực không quân của Pháp. Điện Biên
Phủ - vùng đất nằm trong một thung lũng lớn, cách Hà Nội 200 dặm đường không, được chọn
làm căn cứ chính và sẽ được chi viện của khoảng 400 máy bay. Sau những trận đánh nống thất
bại, quân Pháp đã nhường các điểm cao xung quanh cho Quân đội Nhân dân Việt Nam, Navarre
suy đoán rằng Quân đội Nhân dân Việt Nam không đủ khả năng đưa pháo lên Điện Biên Phủ nên
nguy hiểm gì từ các điểm cao là không thể. Navarre xem Điện Biên Phủ như là một "cái nhọt tụ
độc", hút hết phần lớn chủ lực của Quân đội Nhân dân Việt Nam và đảm bảo an toàn cho đồng
bằng Bắc Bộ.
Với tình hình khi đó, Đại tướng Võ Nguyên Giáp đang nghĩ tới một cuộc tấn công, hy vọng
sẽ mở được một con đường xuyên Lào thọc qua Campuchia. Từ đó, đưa lực lượng Quân đội
Nhân dân Việt Nam tại miền Bắc vào chi viện bổ sung cho lực lượng sẵn có ở Nam Bộ. Tháng 11
năm 1953, Bộ Quốc phòng Việt Nam Dân chủ Cộng hòa tổ chức một cuộc họp, các chỉ huy quân
sự nhất trí mở Chiến cục đông xuân 1953–1954 nhằm xé lẻ khối quân chủ lực của Pháp đang co
cụm đồng bằng Bắc Bộ. Vị trí tiến công được xác định ở Tây Bắc và Thượng Lào, Trung và Hạ
Lào, cuối cùng là Tây Nguyên. Ý tưởng tuyến đường chiến lược xuyên Lào sẽ được thực hiện
một phần trong tương lai thông qua con đường mòn Hồ Chí Minh.
Quân đội Nhân dân Việt Nam đã nắm giữ mảng lớn còn lại của vùng Tây Bắc và phần lớn
vùng Trung và Nam Lào thông qua chiến dịch Lai Châu và Trung Lào (12/1953-1/1954).
Navarre đã tăng cường và biến Điện Biên Phủ trở thành một "pháo đài bất khả xâm phạm"
đối với phương Tây. Tuy nhiên, Võ Nguyên Giáp đã lợi dụng cơ hội đặt bẫy đối thủ. Đồng thời,
Pháp đã mất đi những đơn vị thiện chiến nhất bởi việc xây dựng một tập đoàn cứ điểm ở vùng núi
Tây Bắc hiểm trở. Vì vậy một khoảng trống không thể bù vào ở đồng bằng Bắc Bộ đã được tạo
nên.
Đại tướng Võ Nguyên Giáp đã đưa bốn sư đoàn với một lượng pháo lớn như quân Pháp vào
Điện Biên Phủ, dù cơ số đạn hạn chế (đạn của Pháp là chủ yếu; Trung Quốc rất ít viện trợ). Pháp
không thể tập hợp một đội quân cơ động ứng cứu do những cuộc tiến công liên tiếp trên toàn
Đông Dương. Hơn nữa, phe ta có sự tham chiến của những đơn vị phòng không đầu tiên của
Quân đội Nhân dân Việt Nam được huấn luyện ở Liên Xô. Công tác vận tải cũng có sự tham gia
của một lực lượng dân công khổng lồ. Quân Pháp bị bao vây bởi các đơn vị mạnh nhất của Quân
đội Nhân dân Việt Nam ở Điện Biên Phủ.
Từ ngày 13 tháng 3 đến ngày 7 tháng 5, cuộc vây hãm ở Điện Biên Phủ diễn ra cho đến khi
Pháp đầu hàng. Trong khi đó, Cuộc tranh luận về việc Mỹ có nên trực tiếp can thiệp bằng quân sự
diễn ra ở Washington, nhưng do chính quyền Anh sẽ không ủng hộ nên tổng thống Eisenhower
đã quyết định loại bỏ khả năng này.
Cứ điểm Điện Biên Phủ thất thủ sau 56 ngày đêm, toàn bộ 16000 quân Pháp bị tiêu diệt
hoặc bị bắt làm tù binh,. Điện Biên Phủ là chiến thắng quân sự lớn nhất của Quân đội Nhân dân
Việt Nam trong toàn bộ chiến tranh Đông Dương. Trên phương diện quốc tế trận Điện Biên Phủ
mang ý nghĩa rất lớn: Lần đầu tiên quân đội của một quốc gia thuộc địa châu Á đánh thắng bằng
quân sự một quân đội của một cường quốc châu Âu. Trận Điện Biên Phủ đã đánh bại ý chí duy trì
Đông Dương là lãnh thổ thuộc Liên hiệp Pháp của Pháp và buộc Pháp ra khỏi Đông Dương. Vào
ngày 8 tháng 5, hội nghị Geneva bắt đầu họp bàn về vấn đề khôi phục hòa bình ở Đông Dương.

2. Mục tiêu của Việt Nam dân chủ Cộng hòa khi tham gia hội nghị Geveva
Hội nghị Giơ ne vơ khai mạc năm 1954 trước tiên nhằm mục đích bàn về vấn đề khôi
phục hòa bình tại Triều Tiên và Đông Dương. Lập trường đàm phán do thủ tướng Phạm Văn
Đồng đề ra cho nước Việt Nam dân chủ Cộng hòa dựa trên cơ sở: hòa bình, độc lập, thống nhất
và dân chủ. Đồng thời đề ra giải pháp cho 8 điểm cho việc chấm dứt chiến tranh và lập lại hòa
bình tại Đông Dương và Việt Nam.

2.1. Mục tiêu về chính trị và kinh tế


● Pháp công nhận độc lập chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ của Việt Nam, Lào và
Campuchia
● Tổ chức tổng tuyển cử tự do trong 3 nước nhằm lập chính phủ duy nhất cho mỗi
nước
● Việt Nam dân chủ Cộng hòa tuyên bố ý định xem xét việc tự nguyện gia nhập
Liên hiệp Pháp và những điều kiện gia nhập đó. Các chính phủ Campuchia và Lào
thừa nhận các quyền lợi kinh tế, văn hóa của nước Pháp trong ba nước.
● Sau khi các chính phủ duy nhất được thành lập, các quan hệ kinh tế và văn hóa
được giải quyết theo nguyên tác bình đẳng, đôi bên cùng có lợi.

2.2. Mục tiêu về quân sự


● Kí 1 hiệp định về rút quân đội nước ngoài ra khỏi Việt Nam, Campuchia, Lào
trong thời gian các bên tham gia chiếm ấn định. Trước khi rút quân, đạt thỏa thuận
về nơi rút quân của lực lượng Pháp hay Việt trong một số khu vực hạn chế
● Hai bên cam kết không truy tố những người hợp tác với đối phương trong thời
gian chiến tranh
● Trao trả tù binh
● Sau khi đình chỉ chiến sự, các biện pháp nói trên sẽ được thực hiện/ Pháp và ba
nước Đông Dương kí hiệp định về từng nước trên cơ sở:
- Ngừng bắn trên toàn Đông Dương
- Ngừng việc đưa quân đội mới và vũ khí đạn dược vào Đông Dương
- Thiết lập 1 hệ thống kiểm soát các ủy ban liên hiệp gồm đại diện của các
bên tham chiến.

2.3. Diễn biến hội nghị Geneva


Ngày 26/4/1954, hội nghị Giơnevơ về Đông Dương chính thức khai mạc. Từ ngày 8 tháng
5 đến ngày 23 tháng 6, các bên đã trình bày lập trường của mình về cách giải quyết các vấn đề
Việt Nam và Đông Dương. Các cuộc đàm phán tiến triển rất chậm do khoảng cách lớn về vị trí
giữa các đoàn. Sự nhượng bộ lẫn nhau đã nảy sinh trong các cuộc thảo luận riêng tư. Pháp và
Trung Quốc đã thống nhất một giải pháp chung cho vấn đề Đông Dương: giải quyết vấn đề quân
sự trước, tách giải pháp chính trị ở ba nước Đông Dương. Từ 24 tháng 6 đến ngày 20 tháng 7, các
đoàn đại biểu của Pháp và Việt Nam Dân chủ Cộng hòa đàm phán trực tiếp để giải quyết các vấn
đề xoay quanh các vấn đề cụ thể: quyền tham dự hội nghị của các đại biểu chủ chốt, chính phủ
kháng chiến Lào và chính phủ kháng chiến Campuchia;
Ngay từ đầu, Pháp đã đề nghị tạm thời chia đôi Việt Nam và thành lập chính phủ Liên
hiệp. Việt Nam Dân chủ Cộng hòa chấp nhận ý kiến này và đưa ra các đề xuất về đường phân
giới, hai bên tự thương lượng với nhau, phía Pháp đề xuất vĩ tuyến 18, Việt Nam Dân chủ Cộng
hòa yêu cầu vĩ tuyến 13. Ngày 9/7/1954, phái đoàn của Việt Nam Dân chủ Cộng hòa đề nghị hạ
xuống vĩ tuyến 14, Pháp giữ lại vĩ tuyến 18. Ngày 13/7, phái đoàn Việt Nam Dân chủ Cộng hòa
lại đề nghị hạ xuống vĩ tuyến 16, đến ngày 19/7 hai bên đạt được thỏa thuận. Theo ý kiến của
Anh và Mỹ, biên giới tạm thời sẽ là vĩ tuyến 17. Ngày 20/7/1954, Hiệp định Giơnevơ về Đông
Dương bắt đầu được ký kết với nhiều văn kiện, đặc biệt là ba hiệp định chấm dứt thù địch ở Việt
Nam, Lào và Campuchia, và là bản tuyên bố cuối cùng của hội nghị.
Hiệp định tạm thời chấm dứt chiến tranh ở Việt Nam và Lào được ký kết bởi hai quân chủ
lực tham gia thay mặt Tổng tư lệnh quân đội Liên hiệp Pháp ở Đông Dương, Thiếu tướng Delteil
và Tạ Quang Bửu, Thứ trưởng Bộ Quốc phòng nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa thay mặt Tổng
Tư lệnh Quân đội nhân dân Việt Nam. Hoa Kỳ từ chối công nhận Hiệp định Giơnevơ, nhưng
tuyên bố rằng nước này sẽ "xem xét bất kỳ sự lặp lại nào của các hành động bạo lực vi phạm và
đe dọa nghiêm trọng đến các hiệp định về hòa bình và an ninh quốc tế.".
II. Kết quả của Hội nghị Geneva và thành công, hạn chế của Việt Nam trong Hội nghị
Geneva
1. Kết quả của Hội nghị Geneva 1954

1.1. Các văn bản được ký kết tại Hội nghị


- Ba Hiệp định đình chỉ chiến sự ở Việt Nam, Lào, Campuchia
● Hiệp định đình chỉ chiến sự tại Việt Nam:
+ Các nước tham dự hội nghị cam kết tôn trọng độc lập chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ của
3 nước Việt Nam, Lào, Campuchia, không can thiệp vào công việc nội bộ 3 nước.
+ Các bên tham chiến thực hiện ngừng bắn, lập lại hòa bình trên toàn Đông Dương
+ Các bên tham chiến thực hiện cam kết, chuyển quân, chuyển giao khu vực, trao trả tù binh
+ Dân chúng mỗi bên có quyền di cư sang lãnh thổ do bên kia kiểm soát trong thời gian
quân đội hai bên đang tập kết
+ Cấm đưa quân đội, nhân viên quân sự,vũ khí nước ngoài vào Đông Dương. Nước ngoài
không được đặt căn cứ quân sự tại Đông Dương
+ Thành lập Ủy hội Quốc tế Kiểm soát Đình chiến Đông Dương (tiếng Anh: International
Control Commission, ICC; tiếng Pháp: Commission Internationale pour la Surveillance
et le Contrôle, CISC) gồm Ấn Độ, Ba Lan và Canada, với Ấn Độ làm chủ tịch.
+ Sông Bến Hải, vĩ tuyến 17, được dùng làm giới tuyến quân sự tạm thời chia Việt Nam
làm hai vùng tập kết quân sự tạm thời. Quân đội Nhân dân Việt Nam tập trung về phía
Bắc; Quân đội Liên hiệp Pháp (bao gồm cả Quân đội Quốc gia Việt Nam) tập trung về
phía Nam, tập kết chính trị tại chỗ, tập kết dân sự theo nguyên tắc tự nguyện. Khoản a,
điều 14 ghi rõ: "Trong khi đợi tổng tuyển cử thống nhất Việt Nam, bên nào có quân đội
của mình tập hợp ở vùng nào theo quy định của Hiệp định này thì bên ấy sẽ phụ trách
+ quản lý hành chính ở vùng ấy." Hiệp định thừa nhận chủ quyền của Việt Nam Dân chủ
Cộng hòa tại cả hai miền Bắc và Nam vĩ tuyến 17.

Điều 6 Bản Tuyên bố chung ghi rõ: "Đường ranh giới quân sự tạm thời này không thể
diễn giải bằng bất cứ cách nào rằng đó là một biên giới phân định về chính trị hay lãnh thổ."

Hiệp định Geneva không có điều khoản nào quy định chi tiết về thời điểm cũng như cách
thức tổ chức Tổng tuyển cử thống nhất hai miền Nam-Bắc Việt Nam. Nhưng Bản tuyên bố cuối
cùng của Hội nghị Geneva ghi rõ cuộc Tổng tuyển cử sẽ được tổ chức vào tháng 7/1956.
● Hiệp định đình chỉ chiến sự tại Lào
+ Đối với Lào, lực lượng kháng chiến (Pathet Lào) rút về tập kết tại hai tỉnh Xamneua (Sầm
Nưa) và Phongsaly (Phongsaly). Thời hạn rút quân, chuyển quân trong vòng 120 ngày.
● Hiệp định đình chỉ chiến sự tại Campuchia
+ Riêng ở Campuchia, lực lượng kháng chiến (Khmer Issarak) không có vùng giải phóng,
nên phải giải giáp tại chỗ với thời hạn 30 ngày, được bảo đảm các quyền công dân Vương
quốc Campuchia.

- Một bản tuyên bố cuối cùng của Hội nghị:


Tuyên bố cuối cùng ngày 21 tháng 7 năm 1954 có nội dung như sau:

1. Hội nghị chứng nhận những bản Hiệp định đình chỉ chiến sự ở Cao Miên, Lào và
Việt Nam, và tổ chức sự kiểm soát quốc tế và sự giám sát việc thi hành những điều khoản của các
Hiệp định đó.
2. Hội nghị hài lòng về việc chấm dứt chiến sự ở Cao Miên, Lào và Việt Nam. Hội
nghị tỏ lòng tin tưởng rằng việc thi hành những điều khoản ghi trong bản tuyên bố này và trong
những Hiệp định đình chỉ chiến sự sẽ làm cho ba nước Cao Miên, Lào và Việt Nam từ nay có thể
đảm nhận với độc lập và chủ quyền hoàn toàn vai trò của mình trong tập thể hoà bình của các
nước.
3. Hội nghị chứng nhận những lời tuyên bố của hai Chính phủ Cao Miên và Lào về
việc hai Chính phủ đó nguyện thi hành những biện pháp để cho tất cả mọi người công dân đều có
được địa vị của mình trong tập thể dân tộc, nhất là bằng cách tham gia cuộc tổng tuyển cử sắp tới.
Cuộc tổng tuyển cử này sẽ tiến hành trong năm 1955 căn cứ vào hiến pháp của mỗi nước, theo
phương pháp bỏ phiếu kín và trong sự tôn trọng những quyền tự do căn bản.
4. Hội nghị chứng nhận những điều khoản trong Hiệp định đình chỉ chiến sự ở Việt
Nam về việc cấm đem vào Việt Nam quân đội và nhân viên quân sự ngoại quốc, cũng như tất cả
các thứ vũ khí, đạn dược. Hội nghị cũng chứng nhận những lời tuyên bố của hai Chính phủ Cao
Miên và Lào tỏ lòng kiên quyết sẽ chỉ yêu cầu viện trợ của nước ngoài về trang bị quân sự, nhân
viên hoặc huấn luyện viên trong phạm vi cần thiết để bảo vệ lãnh thổ một cách có hiệu quả, và
đối với nước Lào, thì chỉ đến mức độ đã quy định trong Hiệp định đình chỉ chiến sự ở Lào.
5. Hội nghị chứng nhận những điều khoản trong Hiệp định đình chỉ chiến sự ở Việt
Nam định rằng không được thành lập một căn cứ quân sự nào của một nước ngoài trong những
vùng tập hợp của đôi bên. Đôi bên có nhiệm vụ không để những vùng được trao cho mình tham
gia bất cứ một khối liên minh quân sự nào và dùng vào việc gây lại chiến sự hoặc phục vụ cho
một chính sách xâm lược. Hội nghị cũng chứng nhận những lời tuyên bố của hai chính phủ Cao
Miên và Lào nói rằng hai Chính phủ đó sẽ không ký kết bất cứ một Hiệp định nào với nước khác
nếu Hiệp định đó buộc họ phải tham gia vào một khối liên minh quân sự không phù hợp với
những nguyên tắc của Hiến chương Liên hợp quốc, hoặc, riêng đối với nước Lào, không phù hợp
với những nguyên tắc của Hiệp định đình chỉ chiến sự ở Lào, hoặc nếu Hiệp định đó buộc họ
phải lập những căn cứ cho những lực lượng quân sự của nước ngoài trên lãnh thổ Cao Miên hoặc
Lào, khi mà an ninh của hai nước không bị đe doạ.
6. Hội nghị chứng nhận rằng mục đích căn bản của Hiệp định về Việt Nam là giải
quyết các vấn đề quân sự để đình chỉ chiến sự, và giới tuyến quân sự chỉ có tính chất tạm thời,
hoàn toàn không thể coi là một ranh giới về chính trị hay về lãnh thổ. Hội nghị tin tưởng rằng
việc thi hành những điều khoản định trong bản tuyên bố này và trong những Hiệp định đình chỉ
chiến sự tạo ra cơ sở cần thiết để giải quyết vấn đề chính trị ở Việt Nam trong một thời gian ngắn.
7. Hội nghị tuyên bố rằng đối với Việt Nam, việc giải quyết các vấn đề chính trị, thực
hiện lên cơ sở tôn trọng nguyên tắc độc lập thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ, phải làm cho nhân
dân Việt Nam được hưởng những tự do căn bản, bảo đảm bởi những tổ chức dân chủ thành lập
sau tổng tuyển cử tự do và bỏ phiếu kín.
Để cho việc lập lại hòa bình tiến triển đến mức cần thiết, và để thực hiện tất cả những
điều kiện cần thiết cho nhân dân Việt Nam có thể tự do bày tỏ ý muốn, cuộc tổng tuyển cử sẽ tổ
chức vào tháng 7-1956, dưới sự kiểm soát của một Ban Quốc tế gồm đại biểu những nước có
chân trong Ban Giám sát và kiểm soát quốc tế đã nói trong Hiệp định đình chỉ chiến sự. Kể từ
ngày 20 tháng 7 năm 1955, những nhà đương cục có thẩm quyền trong hai vùng sẽ có những
cuộc gặp gỡ để thương lượng về vấn đề đó.
8. Phải triệt để thi hành những điều khoản trong Hiệp định đình chỉ chiến sự nhằm
mục đích bảo vệ tính mạng và tài sản của mọi người và nhất là phải để cho tất cả mọi người ở
Việt Nam tự do lựa chọn vùng mình muốn sinh sống.
9. Những nhà đương cục có thẩm quyền ở vùng Bắc và vùng Nam Việt Nam, cũng
như ở Lào và Cao Miên không được dung thứ những hành động báo thù cá nhân hoặc tập thể đối
với những người đã hợp tác, bất cứ dưới hình thức nào, với một trong hai bên trong thời gian
chiến tranh, hoặc đối với gia đình những người đó.
10. Hội nghị chứng nhận lời tuyên bố của Chính phủ Pháp nói rằng Chính phủ Pháp
sẵn sàng rút quân đội Pháp khỏi lãnh thổ Cao Miên, Lào và Việt Nam theo lời yêu cầu của những
chính phủ có liên quan và trong một thời hạn do các bên thỏa thuận, trừ trường hợp mà do sự
thỏa thuận giữa hai bên, một số quân đội Pháp có thể ở lại những điểm nhất định, trong một thời
gian nhất định.
11. Hội nghị chứng nhận lời tuyên bố của Chính phủ Pháp nói rằng Chính phủ Pháp,
trong sự giải quyết tất cả những vấn đề có liên quan đến việc lập lại và củng cố hòa bình ở Cao
Miên, Lào và Việt Nam, sẽ căn cứ trên sự tôn trọng độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn
lãnh thổ của Cao Miên, Lào và Việt Nam.
12. Trong quan hệ với Cao Miên, Lào và Việt Nam, mỗi nước tham gia Hội nghị
Giơnevơ cam kết tôn trọng chủ quyền, độc lập, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ của những nước
trên và tuyệt đối không can thiệp vào nội trị của những nước đó.
13. Các nước tham gia Hội nghị Giơnevơ thỏa thuận sẽ hỏi ý kiến nhau về mọi vấn đề
do Ban Giám sát và kiểm soát quốc tế chuyển tới, nhằm nghiên cứu những biện pháp tỏ ra cần
thiết để bảo đảm sự tôn trọng những Hiệp định đình chỉ chiến sự ở Cao Miên, Lào và Việt Nam.
- Hai bản tuyên bố riêng của Đoàn Mỹ và Đoàn Pháp ngày 21/7/1954
- Các công hàm trao đổi giữa Phó Thủ tướng Việt Nam Phạm Văn Đồng và Thủ
tướng Pháp Mendès France.

1.2. Những thỏa thuận đã đạt được

1.2.1. Thỏa thuận chung cho ba nước Việt Nam, Lào, Campuchia:
- Công nhận và tôn trọng các quyền cơ bản của nhân dân ba nước Đông Dương: độc lập,
chủ quyền, thống nhất và toàn viện lãnh thổ của mỗi nước, không can thiệp vào công việc
nội bộ của mỗi nước.
- Đình chỉ chiến sự trên toàn cõi Đông Dương.
- Pháp rút quân khỏi lãnh thổ ba nước. Quân tình nguyện Việt Nam rút khỏi Lào và
Campuchia.
- Không có căn cứ nước ngoài và không liên minh quân sự với nước ngoài.
- Tổng tuyển cử ở mỗi nước.
- Không trả thù những người hợp tác với đối phương.
- Trao trả tù binh và người bị giam giữ.
- Thành lập Ủy ban liên hợp kiểm soát và giám sát quốc tế.

1.2.2. Thỏa thuận riêng với mỗi nước, trong đó, các Hiệp định liên quan đến Việt Nam
- Gồm 4 nội dung chính:
+ Những điều khoản về đình chỉ chiến sự và lập lại hòa bình: ngừng bắn, tập kết, chuyển
quân được hai bên thực hiện trong thời gian 300 ngày; chuyển giao khu vực, trao trả tù
binh và thường dân bị giam giữ, đổi vùng, vấn đề mồ mả quân nhân hai bên tham chiến.
+ Những điều khoản về duy trì và củng cố hòa bình ở Việt Nam: Lập giới tuyến quân sự tạm
thời ở vĩ tuyến 17 và khu phi quân sự (Sông Bến Hải), vĩ tuyến 17 là giới tuyến quân sự
tạm thời, không coi là ranh giới chính trị hay lãnh thổ, cấm tăng viện nhân viên quân sự,
bộ đội, vũ khí và dụng cụ chiến tranh khác vào Việt Nam, cấm xây dựng căn cứ quân sự
mới, cấm hai miền không được gia nhập liên minh quân sự nào, cấm sử dụng mỗi miền để
phục vụ một chính sách quân sự nào.
+ Những điều khoản chính trị: Vấn đề tổng tuyển cử để thống nhất đất nước, Hiệp thương
hai miền vào tháng 7/1955, tổng tuyển cử tháng 7/1956, tự do chọn vùng sinh sống trong
khi chờ đợi, không khủng bố, trả thù hay phân biệt đối xử với những người đã hợp tác với
đối phương trong thời gian chiến tranh.
+ Những điều khoản quy định việc tổ chức thi hành Hiệp định: Ủy ban kiểm soát liên hợp,
Ủy ban giám sát quốc tế trung lập.

2. Thành công và hạn chế của Việt Nam khi tham gia kí kết hiệp định Geneva

2.1. Thành công của Việt Nam khi tham gia kí kết hiệp định Geneva
Hội nghị Giơnevơ đã thành công trong cuộc đấu tranh ngoại giao bằng việc quán triệt sâu
sắc các nghị quyết của Đảng, bằng đường lối đối thoại độc lập, tự chủ, bằng nội lực của dân tộc
và sự khôn khéo tranh thủ sự đồng tình ủng hộ của dư luận tiến bộ trên thế giới để có bước phá
vây quốc tế có kết quả thuận lợi, tạo cục diện quốc tế có lợi cho nước ta trong một bối cảnh phức
tạp ở Hội nghị Giơnevơ. Hội nghị đã đạt được các thành công:
● Việt Nam sẽ thực hiện thống nhất đất nước bằng cuộc tổng tuyển cử tự do trong cả nước,
tổ chức vào tháng 7/1956 có sự giám sát của Ủy ban quốc tế (gồm Ấn Độ, Ba Lan,
Canada, do Ấn Độ làm Chủ tịch).
● Hiệp định Giơnevơ 1954 chính thức lập lại hoà bình ở Đông Dương, chấm dứt cuộc chiến
tranh xâm lược của thực dân Pháp, buộc Pháp phải rút quân về nước. Qua đó khẳng định
thắng lợi chính nghĩa của nhân dân ba nước Đông Dương, cổ vũ mạnh mẽ phong trào đấu
tranh giải phóng dân tộc trên thế giới.
● Lần đầu tiên trong lịch sử, các nước lớn tham dự hội nghị đã cam kết tôn trọng các quyền
dân tộc cơ bản là độc lập, thống nhất, chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ ba nước Việt Nam,
Lào, Campuchia. Đây là cơ sở pháp lý quốc tế để nhân dân ba nước đấu tranh chống lại
mọi hành động xâm lược của chủ nghĩa thực dân, đế quốc thời gian tiếp theo.
● Miền Bắc Việt Nam được hoàn toàn giải phóng, có hòa bình, từng bước xây dựng chủ
nghĩa xã hội, trở thành hậu phương, căn cứ địa vững chắc của tiền tuyến lớn miền Nam và
cả cách mạng Lào, Campuchia trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước (1954 -
1975).
2.2. Hạn chế của Việt Nam khi tham gia kí kết hiệp định Geneva
Bên cạnh thắng lợi còn có nhiều hạn chế như: vĩ tuyến phân vùng ở Việt Nam không thể
là vĩ tuyến 17 mà có thể lùi về phía Nam; thời hạn tổng tuyển cử là 2 năm và không bao giờ diễn
ra; đại biểu kháng chiến Lào và Campuchia không được tham dự Hội nghị và kháng chiến
Campuchia không có vùng tập kết; thời gian chuyển quân ở Việt Nam quá dài đến 300 ngày gần
như theo yêu cầu của Pháp… Tuy nhiên, có những công trình chỉ khẳng định là Hội nghị có
những hạn chế, song không nêu hạn chế là những vấn đề nào. Ví dụ “Ngoại giao Việt Nam 1945-
2000” viết: “Đối với Việt Nam kết quả cũng như một số mặt hạn chế của Hiệp định Giơ-ne-vơ…
phần nào đã phản ánh chiều hướng chính trị thế giới và tương quan lực lượng giữa các phe sau
Chiến tranh thế giới lần thứ hai”

2.1.1. Về vấn đề giới tuyến

Lúc bấy giờ, Việt Nam có 3 phương án được xem xét: Một là, quân Pháp rút về những vị
trí họ đóng quân trước khi nổ ra chiến tranh cuối năm 1946; hai là, các bên ở đâu đóng đấy với
một số sự điều chỉnh và ba là, phân chia vùng tập kết. Mục tiêu ban đầu của ra đề ra là “Phương
án cao nhất là vĩ tuyến 13, tối thiểu là vĩ tuyến 16”. Qua sự đánh giá của ta và một số thành viên
phía Pháp, nếu ta có vĩ tuyến 16, cũng đồng nghĩa với việc ta làm chủ cửa biển Đà Nẵng, Huế và
con đường đi từ Savanakhet đi Quảng Trị ở đây cũng là giao tuyến đường thiết yếu để đi ra biển
của giao thông Lào. Nếu ta mất vĩ tuyến 16, điều đó sẽ đồng nghĩa với việc Pháp có thể dùng cửa
và đường đó để chở thêm quân đội và vũ khí vào Lào, trong khi mục tiêu của chúng ta là giúp
cho Lào độc lập cùng miền Bắc Việt Nam. Theo phó thủ tướng Nguyễn Mạnh Cầm tại hội thảo
“50 năm Hiệp định Giơnevơ về Đông Dương - Ý nghĩa và bài học”, nếu ta nắm rõ tình hình hơn
và kiên quyết hơn trong việc thuyết phục thêm Liên Xô, Trung Quốc thì có thể giữ được vĩ tuyến
16 nhưng không có chuyển cảng Hải Phòng là cảng tự do, không có chuyện công quản đường 5
lại càng không có công quân Hà Nội.

Các nước lớn chọn phương án theo hình mẫu Triều Tiên, trong đó Trung Quốc đóng vai
trò quan trọng. Bằng chứng là tháng 8-2008, Nhà xuất bản của Đảng Cộng sản Trung Quốc xuất
bản cuốn “Chu Ân Lai và Hội nghị Giơ-ne-vơ” của tác giả Tiền Giang công bố rất nhiều tư liệu
mới, trong đó tác giả đã trích đăng bức điện ngày 2-3-1954 của Trung ương Đảng Cộng sản
Trung Quốc gửi Trung ương Đảng ta đề nghị: “Nếu muốn đình chiến, tốt nhất nên có một giới
tuyến tương đối cố định, có thể bảo đảm được một khu vực tương đối hoàn chỉnh. Trên thực tế,
giới tuyến đình chiến hôm nay có thể trở thành ranh giới chia cắt trong ngày mai… Đường giới
tuyến này càng xuống phía Nam càng tốt. Có thể tham khảo vĩ tuyến 16 độ Bắc” (tư liệu này còn
được trích dẫn trong cuốn “Cuộc đời Chu Ân Lai” do Nxb Nhân dân Trung Quốc xuất bản năm
1997).

Trong quá trình chuẩn bị và tiến hành đàm phán, phía ta từng đưa ra các phương án về
khu vực đình chiến và tập kết quân như giới tuyến tạm thời chạy theo vĩ tuyến 13 (khoảng tỉnh
Phú Yên) hoặc vĩ tuyến 14 (khoảng Bình Định). Lúc đầu, Trung Quốc đưa ra vĩ tuyến 16 như
trên đã nói (khoảng dưới Đà Nẵng) nhưng cuối cùng đã lấy vĩ tuyến 17 (Quảng Trị) làm giới
tuyến.

2.1.2. Về vấn đề tổng tuyển cử

Mong muốn của Việt Nam lúc bấy giờ là tổng tuyển cử thống nhất hai miền càng sớm
càng tốt, từ 6 tháng cho tới 1 năm sau ngày ngừng bắn. Tuy nhiên thì Trung Quốc lại đưa ra thời
gian là 2 năm, các bên đồng ý, và ta chấp nhận. Chúng ta hiểu rằng dù thời gian tổng tuyển cử
thống nhất Tổ quốc sớm hay muộn thì Mỹ và tay sai đều sẽ tiến vào chiếm phá, bởi Mỹ đã có
mưu đồ nhảy vào thay Pháp thống trị. Theo nhận xét của thủ tướng Phạm Văn Đồng: “Giới tuyến
quân sự chỉ là tạm thời bởi lẽ khi có tổ chức tổng tuyển cử nhằm thống nhất nước Việt Nam thì
tất nhiên không còn có giới tuyến này nữa. Pháp cho rằng Việt Nam bị chia cắt càng lâu thì Việt
Nam sẽ không bị cộng sản hóa, nên tổng tuyển cử càng sớm thì những người ở Miền Nam sẽ bỏ
phiếu cho Hồ Chí Minh. Đây là điều bất lợi cho Pháp. Chính phủ Sài Gòn cũng cần có thời gian
để chuẩn bị trước. Về phía Mỹ, nước này đã công khai bày tỏ e ngại rằng thống nhất có nghĩa là
cuối cùng cả Việt Nam nằm dưới sự thống trị của Hồ Chí Minh, và như vậy Mỹ không tiến hành
tổng tuyển cử. Khoảng thời gian 2 năm tổng tuyển cử là cơ hội để chuẩn bị các điều kiện cụ thể
cho việc thế chân Pháp trực tiếp can thiệp vào Việt Nam. Hơn thế nữa, trong vấn đề này, các bạn
đồng minh Liên Xô, Trung Quốc không coi trọng lắm. Trong khi đó với ta, đây là vấn đề chính
trị và có ý nghĩa quan trọng trong việc thống nhất nước nhà. Nếu lúc bấy giờ ta hiểu rõ hơn tình
hình và có bàn bạc thuyết phục các đoàn bạn thì cũng có thể đạt được mục tiêu đề ra. Song điều
khoản hiệp thương tổng tuyển cử bị địch phá hoại, kỳ vọng của cán bộ chiến sĩ đồng bào miền
Nam tập kết ra Bắc sau 2 năm về đoàn tụ bị phá hoại.”
Hội nghị Giơnevơ tuyên bố rằng đối với Việt Nam, việc giải quyết các vấn đề chính trị,
thực hiện lên cơ sở tôn trọng nguyên tắc độc lập thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ, phải làm cho
nhân dân Việt Nam được hưởng những tự do căn bản, bảo đảm bởi những tổ chức dân chủ thành
lập sau tổng tuyển cử tự do và bỏ phiếu kín. Để cho việc lập lại hòa bình tiến triển đến mức cần
thiết, và để thực hiện tất cả những điều kiện cần thiết cho nhân dân Việt Nam có thể tự do bày tỏ
ý muốn, cuộc tổng tuyển cử sẽ tổ chức vào tháng 7-1956, dưới sự kiểm soát của một Ban Quốc tế
gồm đại biểu những nước có chân trong Ban Giám sát và kiểm soát quốc tế đã nói trong Hiệp
định đình chỉ chiến sự. Kể từ ngày 20 tháng 7 năm 1955, những nhà đương cục có thẩm quyền
trong hai vùng sẽ có những cuộc gặp gỡ để thương lượng về vấn đề đó.

2.3. Về vấn đề Lào và Campuchia

Ngày 10/5/1954, Phó Thủ tướng Phạm Văn Đồng phát biểu đưa ra lập trường 8 điểm của
Việt Nam Dân chủ Cộng hòa là giải quyết đồng thời cả hai vấn đề quân sự và chính trị, giải quyết
đồng thời cả ba vấn đề Việt Nam, Lào, Campuchia. Pháp phải thừa nhận quyền dân tộc cơ bản
của nhân dân Việt Nam, Lào, Campuchia. Quân đội nước ngoài phải rút khỏi ba nước Đông
Dương là cơ sở quan trọng nhất cho chấm dứt chiến tranh, lập lại hòa bình ở Đông Dương. Trung
Quốc, Liên Xô ủng hộ lập trường của Việt Nam.

Hiệp định là một giải pháp đồng bộ về chính trị và quân sự nhằm kết thúc chiến tranh, lập
lại hòa bình ở Việt Nam. Nó vượt ra ngoài ý đồ ban đầu của các nước lớn định giới hạn Hiệp định
Geneva về đình chỉ chiến sự ở Việt Nam, Lào, Campuchia trong khuôn khổ một hiệp định ngừng
bắn đơn thuần. Về mặt chính trị và pháp lý, các nước tham gia hội nghị công nhận và cam kết tôn
trọng các quyền dân tộc cơ bản của nhân dân Việt Nam, Lào, Campuchia là chủ quyền, độc lập,
thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ.

Lào và Campuchia là hai đồng minh chúng ta rất cần ủng hộ, giúp sức trong cuộc đấu
tranh trên bàn đàm phán này. Tại phiên họp khai mạc ngày 8/5/1954, đồng chí Phạm Văn Đồng
đề nghị mời đại diện hai chính phủ kháng chiến Lào và Campuchia tham dự Hội nghị. Đoàn Liên
Xô, Trung Quốc ủng hộ nhưng sau đó lại cho qua. Theo thông lệ quốc tế và hoàn cảnh lúc bấy
giờ, việc Liên Xô không đề xuất mời hai chính phủ kháng chiến Lào và Campuchia còn non yếu.
Về thể chế, lực lượng kháng chiến Lào và Campuchia chưa được hình thành nhà nước, chưa có
quan hệ quốc tế, chưa được công nhận.

Giải pháp cho vấn đề Lào, Campuchia có 2 mặt: quân sự và chính trị. Về chính trị, ngay
từ đầu, các nước phương Tây và Liên Xô đều thừa nhận hai chính quyền vương quốc. Từ giữa
tháng 6, Trung Quốc cũng đã công nhận với điều kiện không có căn cứ quân sự Mỹ ở hai nước
này. Về quân sự, chỉ còn vấn đề khu vực tập kết cho lực lượng kháng chiến của bạn. Về phía Lào,
lực lượng kháng chiến được tập kết tại hai tỉnh Sẩm Nưa và Phongxaly, nhưng các cơ sở kháng
chiến của lực lượng này lại nằm chủ yếu tại Trung và Nam Lào, vì thế họ phải rời bỏ căn cứ địa
của mình. Về phía Campuchia, Việt Nam đòi có khu vực tập kết cho lựuc lượng Khơme Itsarak,
tuy nhiên thì lực lượng kháng chiến này còn tương đối yếu, vùng giải phóng còn phân tán. Trung
Quốc không có lợi ích trực tiếp nên không ủng hộ mạnh mẽ. Việt Nam có phần đơn độc. Đoàn
Pháp và vương quốc Campuchia phản đối mạnh mẽ nên cuối cùng không đòi được khu tập kết,
các lực lượng vũ trang phải phục viên tại chỗ, cách mạng phải làm lại từ đầu.

2.4. Về vấn đề trao trả tù binh và dân thường bị giam giữ


Tại phiên họp thứ hai chiều 4/7, hai đoàn đàm phán Việt Nam Dân chủ Cộng hóa và Pháp
thỏa thuận nhiệm vụ và nội dung Hội nghị, có bào gồm về: Vấn đề tù binh trong phạm vi những
điều Hội nghị Genève đã quyết định. Chi tiết hơn là: Trao đổi tù binh ốm và bị thương, cải thiện
sinh hoạt của tù binh, trao đổi thư từ của tù binh, gửi thuốc men cho tù binh; vấn đề thực hiện
ngừng bắn; vấn đề điều chỉnh khu vực tập kết quân đội hai bên; vấn đề Ủy ban Liên hợp; các vấn
đề do Hội nghị Ủy ban quân sự Genève đề ra hoặc Hội nghị quân sự Trung Giã thấy cần thiết đề
ra.
Ta đã bắt được nhiều tù binh Âu - Phi, bao gồm cả nhiều sĩ quan cao cấp như tướng De
Castries và toàn bộ Bộ tham mưu Pháp ở Điện biên Phủ, nhưng ta lại gặp phải trở ngại là ta
không biết quân mình bị địch bắt là bao nhiêu. Theo hiệp định 27/8 là thời hạn hoàn tất việc trao
trả tù binh tại chiến trường Bắc Bộ, 11/9 tại chiến trường Nam Bộ. Điều này sẽ bất lợi cho ta
trong quá trình thực hiện vì miền Bắc là nơi ta bắt được nhiều tù binh nhất, nhưng lại là nơi ta
phải trả tù binh xong sớm nhất, hơn nửa tháng so với miền Nam - nơi ta có nhiều đồng chí giữ
cương vị quan trọng. Có thể hiểu là sau khi ta trả xong tù binh ở ngoài Bắc thì sẽ không còn chủ
bài để có thể đòi địch thả hết các đồng chí ở Nam Bộ.
Từ khi bắt đầu kháng chiến cho đến khi Hiệp định Giơnevơ được ký kết, quân đội và nhân dân ta
luôn luôn thi hành đúng đắn chính sách nhân đạo và khoan hồng của Chính phủ nước Việt Nam
Dân chủ Cộng hòa đối với tù binh. Đối với tù binh quốc tịch Việt Nam, chúng ta đã thể theo
nguyện vọng của họ và đã cho họ trở về với gia đình mỗi năm đến hàng vạn người. Đối với tù
binh Âu - Phi, theo thống kê chưa đầy đủ thì từ 1950 đến khi ký kết đình chiến, ta đã phóng thích
và cho hồi hương trên 4.000 người; ta đã nhiều lần cho phép bên quân đội liên hiệp Pháp đến lấy
thương binh của họ ở Thất Khê (1950), Thái Nguyên (1951), Điện Biên Phủ (1954).

Sau Hội nghị Giơnevơ, thi hành nghiêm chỉnh những điều đã ký kết, ta đã trao trả cho bên
quân đội liên hiệp Pháp 1 vạn 3.414 người, trong đó có 9.247 Âu - Phi có 54 sĩ quan, từ thiếu tá
đến thiếu tướng, 530 sĩ quan từ thiếu úy đến đại úy, 3.523 hạ sĩ quan. Trong các cuộc trao trả tù
binh, các tù binh nói chung không hề có khiếu nại gì về sự đối xử của Quân đội nhân dân Việt
Nam. Trái lại, các tù binh đã gửi lên Hồ Chủ tịch, và Chính phủ ta hàng nghìn bức thư tập thể
hoặc cá nhân để tỏ lòng biết ơn. Các cuộc kiểm tra của Uỷ ban quốc tế ở Việt Trì và Sầm Sơn
cũng đã thấy rõ chính sách nhân đạo của Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa đối với tù binh.

Về phần đối phương, họ đã trao trả cho ta 8.872 tù binh và 59.382 thường dân bị giam giữ
nhưng cho đến nay họ vẫn còn giam giữ tù binh và tù chính trị mà chưa trao trả hết. Đoàn đại
biểu Quân đội nhân dân Việt Nam ở Ủy ban Liên hợp Trung ương đã trao cho bên quân đội liên
hiệp Pháp danh sách 11.932 người chưa được trao trả trong đó có nhiều người đã có tên trong
những bản danh sách tù binh mà bên quân đội liên hiệp Pháp đã trao cho ta trước đây. Cuộc điều
tra ở nhà ngục Côn Đảo của Ủy ban Quốc tế đã chứng tỏ rằng hiện nay chính quyền Ngô Đình
Diệm còn giam giữ tù binh và tù chính trị của ta; chế độ đối xử thì vẫn theo những đạo luật 1862
của Pháp, nghĩa là vẫn rất tàn tệ, những điều ký kết ở Giơnevơ và Trung Giã về việc cải thiện đời
sống tù binh không được thi hành.

Dù vậy, một số nhân vật và cơ quan có thẩm quyền và có trách nhiệm bên quân đội liên
hiệp Pháp lại dùng những lời tuyên bố không căn cứ, đưa ra những con số trước sau không thống
nhất để nói rằng chúng ta hiện chưa trao trả hết tù binh và tù chính trị. Những cử chỉ như vậy
không ngoài mục đích đánh lừa dư luận Pháp và dư luận thế giới, hòng che lấp chính sách khoan
hồng và nhân đạo của Hồ Chủ tịch và Chính phủ ta, che lấp chính sách tôn trọng hiệp định của ta,
đồng thời che giấu những hành động vi phạm hiệp định của họ dung túng cho bọn Ngô Đình
Diệm tiếp tục giam giữ tù binh và tù chính trị của ta. Đối với các binh sĩ đối phương chết ở nước
ta, chúng ta đã cho bên quân đội liên hiệp Pháp mọi sự dễ dàng và đang giúp đỡ họ trong việc tìm
kiếm, tập trung và hồi hương hài cốt.

2.5. Về vấn đề vùng sinh sống của dân thường


Cuối tháng 5/1954, Mỹ và Anh đã trao cho Pháp đề án tối thiểu 7 điểm phải đạt được
trong giải quyết vấn đề về Đông Dương trong đó có 6 điểm về việc cho phép người di cư từ miền
này qua miền kia: “Trong thời gian kể từ khi Hiệp định có hiệu lực đến ngày hoàn thành việc
chuyển quân; nếu có những thường dân ở một khu thuộc quyền kiểm soát của bên này muốn
chuyển sang vùng giao cho bên kia thì nhà chức trách các khu trên phải cho phép và giúp đỡ sự di
chuyển đó.” Lợi dụng điều khoản này, địch đã dụ dỗ, cưỡng ép dưới nhiều hình thức, gây nên
một phong trào di cư lớn vào Nam trong cộng đồng Đạo Thiên Chúa nhằm gây rối loạn ở miền
Bắc, bôi nhọ chế độ ta, tăng thêm cơ sở dân chúng cho chính quyền Ngô Đình Diệm
III.Ý nghĩa và bài học kinh nghiệm.
1. Ý nghĩa
Hiệp định Giơ-ne-vơ là sự xác nhận trên phạm vi quốc tế sự thất bại hoàn toàn cuộc chiến
tranh xâm lược của thực dân Pháp, công nhận độc lập, chủ quyền toàn vẹn lãnh thổ của Việt
Nam. Thành quả quan trọng nhất của Hội nghị Giơ-ne-vơ chính là giá trị pháp lý quốc tế đảm bảo
cho sự thực hiện mục tiêu cao cả thiêng liêng của dân tộc ta là thống nhất đất nước, non sông thu
về một mối. Ở khía cạnh ngoại giao vào thời điểm lúc bấy giờ, đây là một thành quả đem lại thế
và lực mới cho nước ta trên trường quốc tế.

Hiệp định Giơ-ne-vơ mở ra thời kỳ mới cho cuộc đấu tranh của nhân dân ta. Tranh thủ
điều kiện hòa bình, Việt Nam tiến hành khôi phục và phát triển kinh tế ở miền Bắc, chuẩn bị hậu
thuẫn cho cuộc đấu tranh giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước sau này. Hội nghị Giơ-ne-
vơ cũng đã đem lại những bài học quý giá cho cách mạng Việt Nam. Đó là bài học về kết hợp
giữa đấu tranh quân sự với đấu tranh ngoại giao. Cần tạo cục diện đánh - đàm mà trước tiên là từ
thắng lợi ở chiến trường, nhưng ngoại giao cũng rất quan trọng làm cho thế giới thấy rõ cuộc
chiến tranh chính nghĩa của nhân dân ta để tranh thủ sự ủng hộ của quốc tế, tác động vào nội bộ
đối phương nhằm kiềm chế kẻ thù và tạo áp lực kéo địch xuống thang. Trong đấu tranh ngoại
giao cần thiết phải nắm chắc được tương quan lực lượng, sự tính toán của các nước lớn để đánh
giá đúng tình hình, từ đó đặt ra được lộ trình đấu tranh để thắng từng bước, đánh đổ từng bộ
phận, tiến tới giành thắng lợi hoàn toàn. Bài học tổng quát nhất là luôn kiên trì tinh thần độc lập
tự chủ, không bị chi phối trước bất cứ thế lực nào. Chính nhờ vậy, giúp chúng ta ở hội nghị Pari
về sau này có kinh nghiệm hơn, vững vàng hơn trước những sức ép từ các phía mà không bị quốc
tế hóa.

Thành quả của Hội nghị Genève có ý nghĩa quốc tế to lớn đối với phong trào giải phóng
dân tộc của các nước thuộc địa, phụ thuộc. Dân tộc Việt Nam nhỏ bé đã kiên cường đấu tranh,
giành được những thắng lợi vang dội cả trên chiến trường và trên bàn đàm phán, buộc các nước
lớn công nhận độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ của mình. Cùng với thắng lợi
của cuộc kháng chiến chống thực dân xâm lược Pháp mà đỉnh cao là chiến thắng Ðiện Biên Phủ,
Hiệp định Genève là nguồn cổ vũ mạnh mẽ đối với các dân tộc thuộc địa vùng lên đấu tranh
giành lại những quyền dân tộc cơ bản của mình, mở đầu sự sụp đổ của chủ nghĩa thực dân cũ.
Hiệp định Genève là kết quả của sự ủng hộ mà nhân dân các nước xã hội chủ nghĩa anh
em và nhân dân yêu chuộng hòa bình và công lý trên thế giới, trong đó có nhân dân Pháp dành
cho nhân dân ta. Mặt khác, thắng lợi của nhân dân ta đã góp phần quan trọng vào cuộc đấu tranh
của nhân dân thế giới vì những mục tiêu lớn của thời đại. Với những ý nghĩa nói trên Hiệp định
Genève đã làm nổi bật bài học về sự kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh của thời đại được
vận dụng sáng tạo trong những giai đoạn sau.

Tiếp sau việc đình chiến trên bán đảo Triều Tiên, Hiệp định Geneva là một đóng góp
quan trọng vào xu thế hòa bình trên thế giới, đáp ứng chủ trương của các nước xã hội chủ nghĩa
anh em muốn có hòa bình, thực hiện hòa hoãn để xây dựng.

2. Bài học kinh nghiệm


2.1. Bài học về đánh giá chính xác tình hình quốc tế
Hội nghị Giơnevơ 1954 về Đông Dương chịu tác động tiêu cực của xu thế hòa hoãn giữa
các nước lớn và cục diện Chiến tranh lạnh. Các cường quốc tham gia Hội nghị có lợi ích và động
cơ khác nhau. Mỹ là nước có chiến lược "ưu tiên cho Châu Âu", nhưng sau khi cách mạng Trung
Quốc thắng lợi (10-1949), họ coi trọng cả khu vực Châu Á. Sau khi đình chiến ở Triều Tiên (7-
1950), Mỹ can thiệp sâu hơn vào Đông Dương, tăng cường viện trợ cho Pháp nhằm kéo dài và
mở rộng chiến tranh, Mỹ sợ "để mất Đông Dương vào tay cộng sản" và làm "nguy kịch cho nền
an ninh của Mỹ". Tuy nhiên, trong vấn đề Đông Dương, Mỹ và Pháp là những kẻ "đồng sàng dị
mộng". Pháp muốn được sự giúp đỡ của Mỹ để giành thắng lợi, còn Mỹ lại muốn gạt chủ nghĩa
thực dân cũ của Pháp và thiết lập chủ nghĩa thực dân mới của mình. Anh là nước ủng hộ Pháp
xâm lược Đông Dương, nhưng cũng là nước còn nhiều quyền lợi ở Đông Nam Á, không muốn
chiến tranh ở khu vực này mở rộng và bị quốc tế hoá. Anh cũng cho rằng đình chiến ở Triều Tiên
sẽ dẫn tới việc đàm phán về những vấn đề rộng lớn hơn, trong đó có Đông Dương. Liên Xô ủng
hộ nhân dân Đông Dương kháng chiến chống Pháp. Tuy nhiên, với đường lối hoà hoãn, Liên Xô
mong muốn đi đến giải pháp hoà bình nhằm ngăn chặn việc Mỹ có thể mở rộng chiến tranh ở đây
và thúc đẩy xu thế làm dịu tình hình thế giới. Liên Xô chủ trương triệu tập một hội nghị năm
nước lớn (Liên Xô, Anh, Mỹ, Pháp và Trung Quốc) để tìm biện pháp giảm bớt tình hình căng
thẳng ở Viễn Đông. Sự điều chỉnh chiến lược của Mỹ làm cho Trung Quốc bị đe dọa trực tiếp.
Trung Quốc cần phải thoát khỏi sự bao vây của Mỹ. Lợi ích dân tộc và nghĩa vụ quốc tế đã thúc
đẩy Trung Quốc tích cực "viện Triều chống Mỹ" và "giúp Việt kháng Pháp". Sau chiến tranh
Triều Tiên, Trung Quốc cũng chủ trương sớm giải quyết hòa bình cuộc xung đột ở Đông Dương
nhằm ngăn chặn Mỹ mở rộng chiến tranh, đảm bảo hoà bình và an ninh cho Trung Quốc và khu
vực Viễn Đông. Chịu tác động của xu thế hoà hoãn, cả Liên Xô và Trung Quốc đều không muốn
tiếp tục viện trợ quân sự để Việt Nam có thể giành thắng lợi cao hơn nữa trên chiến trường. 9 Về
phía Pháp, càng kéo dài và mở rộng "cuộc chiến tranh bẩn thỉu" (sale guèrre) ở Đông Dương,
quân đội Pháp càng chui sâu vào "con đường hầm không lối thoát". Nước Pháp phải nhận viện
trợ Mỹ và lệ thuộc Mỹ, bị dư luận trong nước và thế giới lên án mạnh mẽ, làm cho nội tình không
ổn định, phải thay đổi chính phủ nhiều lần. Chiến tranh Đông Dương trở thành một gánh nặng về
kinh tế và tâm lý đối với nước Pháp. Khi kế hoạch quân sự Nava bị thất bại, ý chí thực dân và hy
vọng giành thắng lợi bằng quân sự của Pháp bị tiêu tan, họ buộc phải tới bàn đàm phán để kết
thúc chiến tranh và đảm bảo an toàn cho quân viễn chinh Pháp rút về nước. Kết quả của cuộc
đàm phán Giơnevơ chưa đưa đến thắng lợi hoàn toàn của các các lực lượng chống chủ nghĩa thực
dân ở Đông Dương, chưa làm thoả mãn nguyện vọng độc lập và thống nhất đất nước của nhân
dân Việt Nam cũng như nhân dân hai nước Lào và Campuchia. Rõ ràng là lợi ích của các nước
lớn không hoàn toàn đồng nhất với lợi ích của các nước Đông Dương. Sự dàn xếp, thoả hiệp giữa
các nước lớn làm phương hại đến lợi ích của Việt Nam, Lào và Campuchia là điều khó tránh ở
một hội nghị quốc tế, khi đại diện cho cả ba Chính phủ kháng chiến ở Đông Dương chỉ có một
đoàn đại biểu của Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hoà. Những hạn chế của Hội nghị Giơnevơ
do hoàn cảnh khách quan mang lại. Nhưng về mặt chủ quan, cũng cần thấy rõ ràng, Việt Nam
còn thiếu kinh nghiệm trong việc nhận định tình hình và chính sách của các nước lớn. Từ rừng
núi đi thẳng đến bàn đàm phán, Việt Nam chưa có đủ thông tin để đánh giá hết khó khăn của
Pháp về các mặt chính trị và quân sự, đặc biệt là sau chiến thắng Điện Biên Phủ. Bên cạnh đó
Việt Nam lại đánh giá quá cao cả về ý đồ và khả năng Mỹ can thiệp trực tiếp vào Đông Dương,
không thấy được khả năng răn đe của Liên Xô, Trung Quốc và dư luận quốc tế, không thấy hết
động cơ của mỗi bên tham gia đàm phán. Các lực lượng kháng chiến ở Việt Nam, Lào và
Campuchia đã không thể phối hợp với nhau trong cuộc đấu tranh trên bàn đàm phán. Việt Nam
không đủ sức kiên trì đấu tranh cho lợi ích của mình và của bạn, mà phải thuận theo tầm thế của
các quan hệ quốc tế lúc đó. Trên thế giới, mỗi quốc gia đều có lợi ích dân tộc của chính mình.
Các cường quốc thường có chiến lược toàn cầu và giữ vai trò chi phối các quan hệ quốc tế.
Dường như không một vấn đề nào mang tầm cỡ quốc tế được giải quyết mà không có sự can dự
của các cường quốc. Trong nhiều trường hợp, sự thoả hiệp 10 của các nước lớn đã chi phối việc
giải quyết các vấn đề khu vực và thế giới mà không tính đến lợi ích của các quốc gia khác. Thực
tiễn trên đây không chỉ biểu hiện trong thời kỳ Chiến tranh lạnh, mà còn đang biểu hiện trong
điều kiện sau Chiến tranh lạnh và bối cảnh toàn cầu hoá ngày nay. Vì thế, trong hoạt động đối
ngoại phải đánh giá chính xác tình hình thế giới, nhất là chiến lược của các nước lớn, tôn trọng
lợi ích chính đáng của các bên đối tác, đồng thời tìm ra đối sách phù hợp trong từng thời gian,
cho từng vấn đề, đảm bảo lợi ích quốc gia dân tộc. Am hiểu bản thân và đối tác là yêu cầu rất
quan trọng của quá trình hội nhập, tức là không chỉ "biết mình", mà còn phải "biết người"

2.2. Bài học về sử dụng con đường đàm phán hòa bình, tăng cường đối thoại và hợp tác
Hoà bình không chỉ là nguyện vọng của dân tộc Việt Nam mà còn là nguyện vọng chung
của nhân loại. Cùng với quyết định mở cuộc tiến công chiến lược Đông - Xuân 1953-1954, Hồ
Chí Minh cùng Đảng Lao động Việt Nam chủ trương dùng biện pháp đàm phán hòa bình để kết
thúc chiến tranh. Ngày 26-11-1953, khi trả lời phỏng vấn của một nhà báo Thụy Điển, Chủ tịch
Hồ Chí Minh nói: nếu Chính phủ Pháp “đã rút được bài học trong cuộc chiến tranh mấy năm nay,
muốn đi đến đình chiến ở Việt Nam bằng cách thương lượng và giải quyết vấn đề Việt Nam theo
lối hoà bình, thì nhân dân và Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hoà sẵn sàng tiếp ý muốn đó”.
Ngày 27-12-1953 Ban Bí thư Trung ương Đảng Lao động Việt Nam ra thông tri nêu rõ: "Trong
lịch sử có nhiều cuộc chiến tranh do thương lượng hòa bình mà đi đến đình chiến". "Nhân dân ta
chiến đấu chống bọn đế quốc xâm lược là vì độc lập dân tộc, mà cũng vì hoà bình thế giới".
"Ngọn cờ hòa bình phải do tay ta nắm lấy và giương cao lên". Đảng Lao động Việt Nam cho rằng
trong đàm phán hòa bình cần có sự nhân nhượng lẫn nhau: "Muốn đàm phán có kết quả thì ta
phải nhân nhượng, nhưng nhân nhượng có chừng mực, trong nguyên tắc, và đối phương cũng
phải nhân nhượng với ta". "Phải tránh tả khuynh, đặt yêu cầu quá cao cho cuộc đấu tranh ngoại
giao, làm cho các cuộc đàm phán bị bế tắc. Nhưng cũng phải chống hữu khuynh, nhượng bộ cho
địch quá mức, làm cho nhân dân chán nản và kẻ địch được đằng chân lân đằng đầu". Thiện chí
hoà 11 bình của Chính phủ và nhân dân Việt Nam mở hướng đi tới một cuộc đàm phán để kết
thúc chiến tranh. Cho dù còn những hạn chế nhất định, nhưng Hội nghị Giơnevơ, với sự có mặt
của cả các nước xã hội chủ nghĩa và tư bản chủ nghĩa, đã giải quyết hòa bình cuộc chiến tranh
Đông Dương, phá khung Chiến tranh lạnh, phá được khuôn mẫu hai phe đối lập nhau. Nó có ý
nghĩa hiện thực là đem lại một tinh thần, một kinh nghiệm giải quyết những xung đột quốc tế,
giải quyết quan hệ giữa các quốc gia dân tộc bằng biện pháp hoà bình. Thực tiễn cho thấy chiến
tranh và vũ lực không thể chấm dứt được mọi tranh chấp quốc tế. Việc sử dụng chiến tranh và vũ
lực trong thế giới ngày nay là hành động không văn minh và không thông minh. Đàm phán hòa
bình và hợp tác là con đường phù hợp với lợi ích của mỗi quốc gia dân tộc và toàn nhân loại.
Chính vì thế, mà ngay từ khi mới thành lập (1945), Liên hợp quốc đã tuyên bố một trong những
nguyên tắc hoạt động là giải quyết các tranh chấp quốc tế bằng biện pháp hoà bình. Trong buổi lễ
kéo cờ Việt Nam tại trụ sở Liên hợp quốc (21-9-1977), Tổng Thư ký Liên hợp quốc phát biểu:
“Sau cuộc chiến đấu lâu dài và gian khổ giành độc lập, tự do, nhân dân Việt Nam sẽ tham gia vào
những cố gắng của Liên hợp quốc nhằm thiết lập hoà bình và công lý trên toàn thế giới”. Từ Hội
nghị Giơnevơ 1954 về Đông Dương đến Hội nghị Á - Âu (xuất hiện cuối những năm 90 của thế
kỉ XX), quan hệ Đông - Tây đã chuyển từ đối đầu sang đối thoại, từ quan hệ đối tượng sang quan
hệ đối tác. Hoà bình, đối thoại và hợp tác là một trào lưu quốc tế, một xu thế chủ yếu của thế giới
sau Chiến tranh lạnh. Việt Nam đã và đang hợp tác với các nước trong các tổ chức và các diễn
đàn quốc tế, để phát triển, đồng thời để bảo vệ hòa bình thế giới. Hiệp hội các nước Đông Nam Á
(ASEAN), Diễn đàn Hợp tác kinh tế châu Á - Thái Bình Dương (APECT), Hội nghị Á - Âu
(ASEM), Tổ chức Thương mại quốc tế (WTO) là những tổ chức khu vực và thế giới với thể chế
quan hệ đối tác. Việt Nam là thành viên của các tổ chức này. Hội nhập (integration) là một nhu
cầu xuất hiện do tác động của toàn cầu hoá, không có sự phân biệt chế độ chính trị giữa các quốc
gia. Dù các nước phát triển hay đang phát triển, các nước tư bản chủ nghĩa hay xã hội chủ nghĩa
đều tham gia quá trình này. Tuy nhiên, mục tiêu của mỗi nước có điều dị biệt, hoặc là theo đuổi
mục tiêu lợi nhuận đồng thời khống chế thị trường thế giới, chi phối và lôi cuốn những nước nhỏ
yếu đi theo quỹ đạo của mình (đối với các nước tư bản chủ nghĩa 12 phát triển cao), hoặc là tranh
thủ điều kiện để xây dựng và phát triển nền kinh tế độc lập tự chủ (đối với các nước dân tộc chủ
nghĩa), hoặc là chủ động hội nhập để phục vụ sự phát triển kinh tế theo định hướng xã hội chủ
nghĩa, tránh tụt hậu và thu hẹp khoảng cách với các nước khác (đối với các nước xã hội chủ
nghĩa). Điều bộc lộ rõ rệt trong quan hệ quốc tế hiện nay là: không quốc gia nào muốn chuốc lấy
gánh nặng cho mình, mà đều chú trọng đến lợi ích của chính mình, thậm chí có trường hợp còn
áp đặt những "luật chơi" không phù hợp, làm tổn hại đến lợi ích của nước khác. Một số nước lớn
có trình độ phát triển cao đang khống chế các tổ chức toàn cầu, áp đặt những quy chế và phương
thức hoạt động không bình đẳng, gây thiệt hại cho những nước chậm phát triển. Nhiều nước lớn
vẫn luôn thi hành chính sách áp đặt và cường quyền. Lợi dụng việc cho vay vốn, các nước lớn có
khả năng gây sức ép về chính trị. Trên thế giới vẫn còn khá phổ biến chính sách dùng vũ lực hoặc
đe doạ dùng vũ lực để can thiệp vào công việc nội bộ của những nước khác. Để giải quyết các
quan hệ quốc tế trong quá trình hội nhập "phải đảm bảo các nguyên tắc tôn trọng độc lập chủ
quyền và toàn vẹn lãnh thổ, không can thiệp vào công việc nội bộ của nhau, không dùng vũ lực
hoặc đe doạ dùng vũ lực; bình đẳng và cùng có lợi; giải quyết các bất đồng và tranh chấp bằng
thương lượng hòa bình; làm thất bại mọi âm mưu và hành động gây sức ép, áp đặt và cường
quyền". Để bảo vệ lợi ích chính đáng của mình, các nước chậm phát triển đang tập hợp lực
lượng, đấu tranh chống sức ép của các nước phát triển, nhằm thiết lập một trật tự kinh tế thế giới
công bằng. Đó chính là quá trình vừa hợp tác vừa đấu tranh trong cùng tồn tại hoà bình.
2.3. Bài học về tăng cường thực lực của đất nước, tạo cơ sở vững chắc cho hoạt động đối
ngoại, bảo vệ chủ quyền dân tộc, bảo vệ hòa bình và an ninh quốc tế
Bao giờ cũng vậy, sức mạnh toàn diện của đất nước là cơ sở cho hoạt động đối ngoại. Hồ
Chí Minh từng nói: “Thực lực là cái chiêng. Ngoại giao là cái tiếng. Chiêng có to thì tiếng mới
lớn”. Sẽ không giành thể thắng lợi trên bàn đàm phán nếu không có thắng lợi trên chiến trường.
Trước này kháng chiến toàn quốc bùng nổ, Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hoà đã nỗ lực
cứu vãn một nền hoà bình mong manh, dùng biện pháp ngoại giao để giải quyết cuộc xung đột
với Pháp, nhưng không mang lại kết quả, vì thực dân Pháp đang hăm hở giành thắng lợi bằng
quân sự. Câu trả lời của họ là gửi tối hậu thư 13 đòi nhân dân Việt Nam phải hạ vũ khí đầu hàng.
Từ ngày kháng chiến toàn quốc bùng nổ (19-12-1946) đến đầu tháng 3-1947, với tinh thần "còn
nước còn tát", tám lần Hồ Chí Minh gửi thư cho Chính phủ, Quốc hội và nhân dân Pháp, nêu rõ
nguyên nhân xung đột, đề nghị ngừng bắn và nối lại các cuộc đàm phán để vãn hồi hoà bình,
nhưng một lần nữa, thiện chí hòa bình của Chính phủ và nhân dân Việt Nam được thực dân Pháp
trả lời bằng một cuộc tiến công quy mô lớn lên Việt Bắc.Nhưng đến giai đoạn cuối của cuộc
kháng chiến, tình hình hoàn toàn thay đổi. Cuộc tiến công chiến lược đông - xuân 1953-1954 mà
đỉnh cao là chiến dịch Điện Biên Phủ của quân đội và nhân dân Việt Nam đã làm xoay chuyển
cục diện chiến tranh, và tạo cơ sở thực lực về quân sự cho cuộc đấu tranh ngoại giao để kết thúc
cuộc kháng chiến. Trong bối cảnh toàn cầu hoá, Việt Nam ngày càng hội nhập sâu rộng, là bạn, là
đối tác tin cây và thành viên có trách nhiệm trong cộng đồng quốc tế. Thay cho những khó khăn
ác liệt trong thời kỳ chiến tranh là những thử thách rất lớn trong quá trình phát triển và hội nhập.
Mặt trận quân sự đã nhường chỗ cho sự phát triển kinh tế và văn hoá, vì mục tiêu “hoà bình,
thống nhất, độc lập dân chủ và giàu mạnh” như lời căn dặn của Chủ tịch Hồ Chí Minh, thì sự hợp
tác quốc tế không chỉ trên một lĩnh vực, mà ngày càng toàn diện. Thấy rõ mối quan hệ giữa Việt
Nam và thế giới, giữa dân tộc và thời đại, sau khi nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ra đời, trong
Lời kêu gọi Liên hợp quốc Hồ Chí Minh nêu rõ chính sách mở cửa và hợp tác quốc tế của Việt
Nam trên mọi lĩnh vực: "a) Nước Việt Nam dành sự tiếp nhận thuận lợi cho đầu tư của các nhà tư
bản, nhà kỹ thuật nước ngoài trong tất cả các ngành kỹ nghệ của mình. b) Nước Việt Nam sẵn
sàng mở rộng các cảng, sân bay và đường sá giao thông cho việc buôn bán và quá cảnh quốc tế.
c) Nước Việt Nam chấp nhận mọi tổ chức hợp tác kinh tế quốc tế dưới sự lãnh đạo của Liên hợp
quốc. d) Nước Việt Nam sẵn sàng ký kết với các lực lượng hải quân, lục quân trong khuôn khổ
của Liên hợp quốc những hiệp định an ninh đặc biệt và những hiệp ước liên quan đến việc sử
dụng một vài căn cứ hải quân và không quân”. Toàn cầu hoá là hiện thực khách quan làm tăng
tính tùy thuộc vào nhau giữa các quốc gia dân tộc. Sự hợp tác đa phương trở thành tất yếu trong
việc giải quyết những vấn đề toàn cầu. Sự hợp tác ngày càng gia tăng, đi đôi với cạnh tranh ngày
càng gay gắt. Trong khi điểm xuất phát của Việt Nam còn ở mức thấp về trình độ kinh tế và công
nghệ, tham gia vào các tổ chức quốc tế là tham gia những “sân chơi” với những “luật chơi” đã 14
được định sẵn, và không bao giờ lợi ích được chia đều cho các bên tham gia. Hội nhập quốc tế
vừa là quá trình hợp tác, vừa đấu tranh và cạnh tranh, vừa có nhiều cơ hội, vừa không ít thách
thức. Để hội nhập thành công, Việt Nam đã và đang xây dựng và củng cố thực lực của đất nước
về mọi mặt. Sự nghiệp đổi mới đã tạo ra bộ mặt mới cho kinh tế Việt Nam. Tuy nhiên, chất lượng
tăng trưởng, hiệu quả và sức cạnh tranh còn thấp. Nền kinh tế phát triển chưa bền vững. Việc tiếp
nhận đầu tư vốn của các nước và tổ chức quốc tế là yêu cầu cần thiết, nhưng phải dựa trên cơ sở
có nguồn tích lũy đủ mạnh ở trong nước. Những mặt tiêu cực rất lớn của toàn cầu hoá cũng đặt
nhiệm vụ quốc phòng, an ninh vào một vị trí mới, với nội dung rất rộng, bao gồm tất cả các mặt:
chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội, công nghệ, thông tin, môi trường… Bối cảnh toàn cầu hoá
không cho phép Việt Nam tách mình biệt lập với cộng đồng thế giới, mà phải chủ động tham gia
hội nhập kinh tế khu vực và thế giới, chủ động khai thác những thuận lợi từ bên ngoài, dựa vào
những tập hợp lực lượng có lợi, hạn chế những tác động tiêu cực. Quá trình đó được kết hợp chặt
chẽ với yêu cầu giữ vững quốc phòng, an ninh. Thông qua hội nhập để tăng cường sức mạnh tổng
hợp của quốc gia, củng cố chủ quyền và an ninh đất nước.

2. Một số quan điểm xung quanh Hội nghị Geneva

Có những đánh giá và quan điểm khác nhau về kết quả Hội nghị. Từ trước đến nay, chúng ta chỉ
biết có hai loại ý kiến sau:
- Loại đánh giá thứ nhất
Hội nghị Giơ-ne-vơ là một thắng lợi to lớn, phản ánh đúng so sánh tương quan lực lượng trên
chiến trường cũng như trên bàn hội nghị, trên thế giới và không có hạn chế. Đây là nhận xét của
nhiều nhà nghiên cứu lịch sử ở nước ta thời gian trước đây. Ví dụ: Đại cương lịch sử Việt Nam
đánh giá “Giải pháp Giơ-ne-vơ về việc lập lại hòa bình ở Đông Dương là sự phản ánh tương quan
lực lượng đối sánh của các bên tham chiến trên chiến trường ở Đông Dương và lực lượng các
nước lớn trên trường quốc tế…Vì hòa bình, độc lập, thống nhất và dân chủ nên Việt Nam phải
tiến hành cuộc kháng chiến kéo dài trong 9 năm, đã giành được thắng lợi to lớn và toàn diện, nhất
là mặt quân sự .
Nói chuyện với Hội nghị Ngoại giao lần thứ 3 (14/1/1964), Chủ tịch Hồ Chí Minh cũng nhấn
mạnh: “Sau kháng chiến đến Hội nghị Giơ-ne-vơ 1954, lúc đó ngoại giao của ta thành quốc tế
rồi. Ta đã có Liên Xô, Trung Quốc và các nước anh em khác giúp đỡ. Lúc đó, trong nước ta
thắng, nên ngoài nước cũng thắng, nó ảnh hưởng lẫn nhau. Nhưng có cái khó là ở chỗ Mỹ muốn
nhảy vào thay thế Pháp và muốn ta nhận vĩ tuyến 17. Tình hình lúc đó chỉ có hòa hay đánh. Nếu
ta không chịu hòa, thì sẽ phải đánh. Ta tranh đấu mãi từ vĩ tuyến 15, đến vĩ tuyến 16, rồi đến 17.
Đến đây ta không nhượng nữa, nó phải chịu. Vì thế, nay ta có Miền Bắc được hoàn toàn giải
phóng và đang xây dựng CNXH. Ít người biết đến điểm này. Hồi đó nếu ta không nhận hòa thì
tức là mắc mưu Mỹ. Tất nhiên thắng lợi thu được là do mình có Điện Biên Phủ, ngoài ra lại có sự
giúp đỡ của các nước anh em nữa”.
- Loại đánh giá thứ hai
Hội nghị Giơ-ne-vơ là thắng lợi to lớn của nhân dân ba nước Đông Dương, song bên cạnh thắng
lợi có không ít hạn chế. Đây là đánh giá của rất nhiều nhà nghiên cứu, có thể kể các bài viết của
các nhà nghiên cứu như Hà Văn Lâu, Nguyễn Quang Tạo, Hoàng Anh Tuấn, Nguyễn Phúc Luân,
Nguyễn Mạnh Hà…Thắng lợi mà các nhà nghiên cứu chỉ ra là Pháp rút quân chấm dứt chiến
tranh, lập lại hòa bình ở Đông Dương, chấm dứt chế độ thuộc địa ở Đông Dương, các nước công
nhận và cam kết tôn trọng các quyền dân tộc cơ bản của nhân dân các nước Đông Dương; Miền
Bắc nước ta hoàn toàn được giải phóng đi lên chủ nghĩa xã hội, làm căn cứ địa vững chắc cho
giải phóng Miền Nam sau này, căn cứ pháp lý cho đấu tranh tại Hội nghị Paris, là thắng lợi to lớn
của Nhân dân 3 nước Đông Dương và cổ vũ cho phong trào đấu tranh của nhân dân Á, Phi Mỹ
Latinh…
Bên cạnh thắng lợi còn có nhiều hạn chế như: vĩ tuyến phân vùng ở Việt Nam không thể là vĩ
tuyến 17 mà có thể lùi về phía Nam; thời hạn tổng tuyển cử là 2 năm và không bao giờ diễn ra;
đại biểu kháng chiến Lào và Campuchia không được tham dự Hội nghị và kháng chiến
Campuchia không có vùng tập kết; thời gian chuyển quân ở Việt Nam quá dài đến 300 ngày gần
như theo yêu cầu của Pháp… Tuy nhiên, có những công trình chỉ khẳng định là Hội nghị có
những hạn chế, sóng không nêu hạn chế là những vấn đề nào. Ví dụ “Ngoại giao Việt Nam 1945-
2000” viết: “Đối với Việt Nam kết quả cũng như một số mặt hạn chế của Hiệp định Giơ-ne-vơ…
phần nào đã phản ánh chiều hướng chính trị thế giới và tương quan lực lượng giữa các phe sau
Chiến tranh thế giới lần thứ hai”.
Một vấn đề khác là có đánh giá khác nhau giữa các nhà nghiên cứu về Hiệp định Giơ-ne-vơ có
phản ánh đúng tương quan so sánh lực lượng trên chiến trường không? Xung quanh vấn đề này
có hai ý kiến khác nhau.
Nhiều nhà nghiên cứu như Nguyễn Quang Tạo, Nguyễn Phúc Luân, Đại tá TS Nguyễn Mạnh
Hà… đều khẳng định kết quả hội nghị phản ánh đúng tương quan lực lượng trên chiến trường
cũng như tại bàn đàm phán. Đại tá TS Nguyễn Mạnh Hà viết: “kết quả mà Đoàn ta đạt được ở
Giơ-ne-vơ cũng đã phản ánh tương quan lực lượng quân sự tại chiến trường Đông Dương lúc đó.
Ngoài ra, phải tính đến tương quan lực lượng trên bàn Hội nghị và xu thế quốc tế lúc đó”.
Tháng 10 năm 1998, Bộ Chính trị và Thường vụ Quân ủy TW, dựa trên những thành tựu nghiên
cứu mới, tư liệu mới đã đưa ra đánh giá như sau: “Hội nghị Giơ-ne-vơ chỉ là một bước tạm
ngưng cuộc chiến tranh giải phóng dân tộc để ta củng cố thắng lợi đã giành được chuẩn bị bước
sang giai đoạn mới, giai đoạn chống đế quốc Mỹ cứu nước giải phóng Miền Nam thống nhất Tổ
quốc. Ta ký Hiệp định Giơ-ne-vơ như vậy là đúng lúc, kết thúc kháng chiến chống Pháp như thế
là phù hợp, phản ánh đúng so sánh lực lượng ta – địch trên chiến trường và hoàn cảnh quốc tế lúc
đó. Ví lúc này về phía địch, thực dân Pháp tuy thất bại lớn nhưng còn lực lượng và còn đằng sau
Pháp là đế quốc Mỹ đang có mưu đồ trực tiếp can thiệp vào chiến tranh Đông Dương. Còn ta lúc
đó thắng to nhưng cũng có khó khăn mới, chưa đủ điều kiện để tiếp tục chiến tranh giải phóng cả
nước. Trên trường quốc tế, các nước anh em trong đó có Liên Xô, Trung Quốc đều muốn có hòa
bình để xây dựng đất nước và đều muốn cuộc chiến tranh ở Đông Dương đi tới một giải pháp”.
Tuy nhiên, có một số ý kiến cho rằng Hiệp định không phản ánh đúng tương quan lực lượng trên
chiến trương. Đại tá Hà Văn Lâu, nguyên thành viên Đoàn đàm phán của chúng ta tại Hội nghị
cho rằng “hiệp định không phản ánh đầy đủ xu thế thắng lợi của ta trên chiến trường và xu thế
của cuộc đấu tranh chính trị giữa ta và Pháp”.Minh chứng cho đánh giá này là ở chỗ sau Điện
Biên Phủ, ở Đông Dương Pháp thiệt hại lớn, mất gần ¼ quân số, đã ở thế phòng ngự, không có
khả năng tiến công, nguy cơ bị tiêu diệt là thực tế. Điều lo lắng nhất của Pháp lúc đó là làm sao
đảm bảo lực lượng còn lại tránh bị tiêu diệt. Thế của địch là thế thua, bị động về chiến lược và
chiến đấu trên khắp các chiến trường, trong khi khả năng tăng viện là không có. Tướng Navarre
được Chính phủ Pháp cho quyền quyết định rút khỏi Hà Nội để “tránh Hà Nội là một Điện Biên
Phủ thứ hai”. CIA cũng cho rằng “tình hình quân sự, chính trị của Pháp ở Đông Dương là tồi tệ”
và Sách số 9 về quan hệ Mỹ – Việt Nam đánh giá: “Nếu điều đó không bị ngăn chặn thì nó sẽ đưa
đến sự sụp đổ của Pháp vào nửa sau của năm 1954”. Nhận định của đại tá Hà Văn Lâu là chính
xác bởi tương quan lực lượng trên chiến trường giữa ta và Pháp là xấp xỉ, song sau Điện Biên
Phủ, chúng ta có lợi lớn về thế. “Thế là tổng thể các hoàn cảnh, điều kiện mà lực lượng mỗi bên
tham chiến dựa vào để phát huy sức mạnh trong chiến tranh (tác chiến). Những yếu tố cơ bản của
thế là: điểm đứng, trận địa; vị trí chiến trường (địa bàn tác chiến), bố trí lực lượng, tình hình quân
sự, chính trị, kinh tế, dân cư, địa hình và khí tượng thủy văn ở địa bàn tác chiến; diễn biến tác
chiến và chiến tranh chung; tình hình chính trị trong nước, trong khu vực và quốc tế. Thế lợi thì
lực nhỏ trở thành mạnh, thế không lợi thì lực lớn trở thành yếu. Nghệ thuật quân sự Việt Nam coi
thế là nhân tố quan trọng, thế lợi kết hợp với lực tất tạo được sức mạnh lớn để đánh bại kẻ thù”.
KẾT LUẬN

You might also like