Professional Documents
Culture Documents
Nhóm 1
Nhóm 1
CHUYÊN ĐỀ:
CHUYÊN ĐỀ:
Mặc dù chúng em đã rất nỗ lực để hoàn thành tốt nhất bài thu hoạch này nhưng
chắc bài thu hoạch không tránh khỏi những hạn chế nhất định. Kính mong cô
góp ý để cá nhân em nói riêng và các bạn trong nhóm của chúng em nói chung
có thể hoàn thiện hơn cho các bài thu hoạch tương tự sau này của bản thân.
Kính chúc cô Nguyễn Thị Túy sức khỏe, thành đạt, chúc những người thân,
bạn bè luôn mạnh khỏe để tiếp tục đồng hành cùng chúng em.
Mục Trang
I. Lời nói đầu:..........................................................................................................4
II. Giới thiệu về Bảo Tàng Chứng tích chiến tranh:............................................4
II.1. Giới thiệu sơ lược về Bảo Tàng Chứng tích chiến tranh:.............................4
II.2. Các chuyên đề thường xuyên:........................................................................5
II.2.i. Chuyên đề “Những sự thật lịch sử” :.............................................................5
II.2.ii. Chuyên đề “Hồi niệm” :.................................................................................5
II.2.iii. Chuyên đề “Việt Nam-Chiến tranh và hòa bình” :.....................................6
II.2.iv. Chuyên đề “Chất độc da cam trong chiến tranh ở Việt Nam” :..................6
II.2.v. Chuyên đề “ Tội ác chiến tranh xâm lược”:.................................................6
II.2.vi. Chuyên đề “Hậu quả chất độc da cam” :.....................................................7
II.2.vii. Chuyên đề “Thế giới ủng hộ VN kháng chiến chống Mỹ 1954-1975”:.....7
II.2.viii. Chuyên đề “ Chế độ lao tù trong chiến tranh xâm lược VN”:..................8
III. Chuyên đề nhóm lựa chọn:..............................................................................8
III.1. Chất độc da cam trong chiến tranh ở Việt Nam..........................................8
III.1.i. Lý do lựa chọn chuyên đề:............................................................................8
III.1.ii. Chất độc da cam trong chiến tranh Việt Nam:............................................8
III.1.iii. Hậu quả chất độc da cam trong chiến tranh Việt Nam:............................9
III.1.iv. Cảm nghĩ về chất độc da cam trong chiến tranh Việt Nam:....................10
III.2. Những sự thật lịch sử:..................................................................................11
III.2.i. Lý do lựa chọn chuyên đề:...........................................................................11
III.2.ii. Những sự thật lịch sử:................................................................................12
III.2.iii. Cảm nghĩ về chuyên đề “Những sự thật lịch sử”:...................................14
IV. Lời kết:.............................................................................................................14
Chiến tranh - cơn ác mộng đeo bám suốt hàng thế kỷ, để lại dấu ấn đau đớn và
những hậu quả đáng tiếc không thể phai mờ. Nó lấy đi tất cả niềm vui, hạnh phúc,
tình thân mà mọi người đều xứng đáng có được. Nhìn lại quá khứ, ta không thể
không cảm thấy xót xa và căm hận trước những mất mát và đau khổ mà chiến
tranh mang lại. Dường như những gì ghi chép trong sử sách là không đủ để lột tả
những sự đau thương, mất mát mà bậc tiền nhân phải chịu đựng. Mãi đến chuyến
ghé thăm bảo tàng Chứng tích chiến tranh vừa qua, được tận mắt chứng kiến
những hình ảnh chân thực được chụp lại, nhóm chúng em mới thật sự phần nào
mường tượng ra sự khủng khiếp, tàn bạo mà quân đội Mỹ đã gây ra cho người dân
Việt Nam khi ấy!
II.1. Giới thiệu sơ lược về Bảo Tàng Chứng tích chiến tranh:
Để lưu lại những chứng tích anh hùng của nhân dân Việt Nam trong cuộc đấu
tranh chống các thế lực xâm lược, đồng thời để tố cáo những tội ác và nêu bật
những hậu quả tàn khốc của chiến tranh xâm lược, ngày 4/9/1975 Nhà trưng bày
tội ác Mỹ - Ngụy được phục vụ công chúng. Sau đó, Nhà trưng bày tội ác Mỹ -
Ngụy được đổi tên thành Nhà trưng bày Tội ác Chiến tranh xâm lược (10/11/1990),
sau đó trở thành Bảo tàng Chứng tích chiến tranh (4/7/1995). Bảo tàng chứng tích
chiến tranh (War Remmants Museum) là một bảo tàng vì hòa bình tọa lạc tại Số 28
đường Võ Văn Tần, phường 6, Quận 3, Thành phố Hồ Chí Minh. Bảo tàng Chứng
tích Chiến tranh trực thuộc Sở Văn hóa và Thể thao Thành phố Hồ Chí Minh, là
thành viên của hệ thống Bảo tàng vì hòa bình thế giới và Hội đồng các bảo tàng thế
giới. Bảo tàng Chứng tích chiến tranh lưu giữ những gì còn sót lại sau những cuộc
chiến đầy khốc liệt trong quá khứ bao gồm những hình ảnh, những đồ vật mang
tính chất lịch sử liên quan đến các
cuộc chiến tranh xâm lược đã gây ra
cho người dân Việt Nam cụ thể là cuộc
chiến chống Đế quốc Mỹ. Bảo tàng đã
lưu trữ, nghiên cứu và sưu tầm hơn
20.000 tài liệu, hơn 1.500 hiện vật và
phim ảnh đã được đưa vào giới thiệu ở
8 chuyên đề trưng bày thường xuyên
là minh chứng rõ ràng nhất cho tội ác
và hậu quả của chiến tranh mà các thế
lực xâm lược đã gây ra đối với Việt
Nam.
Hình 1- Bảo tàng Chứng tích chiến tranh
Bảo tàng Chứng tích chiến tranh trưng bày các chuyên đề theo thứ tự từ lầu 2
xuống tầng trệt. Lầu 2 là khu vực trưng bày chuyên đề “Những sự thật lịch sử” với
66 bức ảnh, 20 tài liệu và 153 hiện vật. Chuyên đề này gợi nhắc về những tội ác
xâm lược của thực dân Pháp và đế quốc Mỹ. Bên cạnh đó là chuyên đề “Hồi niệm”
gồm bộ sưu tập những bức ảnh được chụp lại bởi các phóng viên đã mất khi tác
nghiệp tại chiến trường Đông Dương.
Lầu 2 Bảo tàng Chứng tích chiến tranh cũng là nơi trưng bày 2 chuyên đề
“Việt Nam chiến tranh và hòa bình” và “Chất độc da cam trong chiến tranh Việt
Nam”. Những bức ảnh phóng sự đầy bi thương được chụp bởi nhiếp ảnh gia Nhật
Bản Ishikawa Bunyo và Goro Nakamura mang lại cho chúng ta cái nhìn sâu sắc về
cuộc sống của đồng bào ta thời chiến cùng những hi sinh to lớn để giành lại hòa
bình.
Bảo tàng hiện có 8 chuyên đề trưng bày thường xuyên, nhiều triển lãm ngắn ngày
và triển lãm lưu động, tổ chức đón tiếp, gặp gỡ, giao lưu giữa công chúng với các
nhân chứng chiến tranh. Gồm các chuyên đề thường xuyên như sau:
“sinh nghề tử nghiệp” của các phóng viên chiến trường. Mỗi bức ảnh chụp ở chiến
trường là vô giá bởi vì để có được tác phẩm đó, các phóng viên phải đổi cả mạng
sống của mình.
II.2.iv. Chuyên đề “Chất độc da cam trong chiến tranh ở Việt Nam” :
Bộ sưu tập ảnh phóng sự gồm 42 ảnh của nhà nhiếp ảnh Nhật Bản Goro
Nakamura. Là phóng viên ảnh từ năm 1961, ông Goro Nakamura đã dành hầu hết
tâm sức của mình để ghi lại những hình ảnh về chiến tranh Việt Nam và đặc biệt là
về thảm họa chất độc da cam do quân đội Mỹ gây ra ở Việt Nam. Ông cũng có
nhiều ảnh chụp về hậu quả chất độc da cam đối với các nạn nhân ở Mỹ và Hàn
Quốc. Ông đã nhận được nhiều giải thưởng ở Nhật Bản và quốc tế, trong đó có giải
thưởng Eugene Smith của Mỹ (năm 1988), giải thưởng Ina Nobuo lần thứ 8 của
Nhật (năm 1983), giải thưởng đặc biệt của Đại hội các nhà báo Nhật Bản (năm
1995), giải thưởng các nhà báo khoa học công nghệ Nhật Bản dành cho công trình
30 năm về chất độc da cam (năm 2003). Ông là giáo sư giảng dạy khoa nhiếp ảnh
và báo chí ở nhiều trường đại học, trong đó có Đại học Yamanashi, Đại học Gifu.
Hiện nay, ông là Phó viện trưởng Viện nghiên cứu nhiếp ảnh hiện đại Nhật Bản.
Ông Goro Nakamura đã viết: “Thảm họa Hiroshima, Nagasaki vẫn còn đó và đã
thức tỉnh nhân dân thế giới rằng việc sử dụng chất độc hóa học nói chung và chất
độc da cam nói riêng là một tội ác chiến tranh cần phải ngăn chặn và cần phải ghi
lại những hình ảnh của thảm kịch đó”.
quân đội Mỹ đã chà đạp các "quyền" nói trên, kể cả luật pháp quốc tế, thực hiện
một cách có hệ thống việc bắt bớ, tra tấn, hãm hiếp, bắn giết dân thường và tù
binh, kể cả thực hiện những cuộc thảm sát hàng loạt (điển hình là vụ thảm sát 504
thường dân ở Sơn Mỹ, Quảng Ngãi năm 1968). Ngoài ra quân đội Mỹ còn sử dụng
những phương tiện chiến tranh đã bị các công ước quốc tế nghiêm cấm như: bom
bi, bom lân tinh, chất độc hoá học, đặc biệt là chất độc da cam dioxin... Khi tiến
hành chiến tranh phá hoại miền Bắc Việt Nam, tháng 11/1965, tướng Curtis Lemay
chỉ huy lực lượng Không quân chiến lược Mỹ đã trắng trợn tuyên bố "sẽ đẩy lùi
miền Bắc Việt Nam trở về thời kỳ đồ đá". Chiến tranh kết thúc với khoảng 3 triệu
người chết (trong đó có 2 triệu dân thường), khoảng 2 triệu người bị thương,
300.000 người mất tích, hạ tầng cơ sở của cả hai miền Nam Bắc bị thiệt hại nặng
nề.
Chứng tích Chiến tranh để thể hiện sự kính trọng đối với nhân dân Việt Nam, và sự
hối tiếc về việc đã tham gia cuộc chiến tranh phi nghĩa này “Chúng ta nhiệt liệt
cảm ơn các Đảng Cộng sản và giai cấp công nhân các nước trên thế giới, các
phong trào giải phóng dân tộc, các nước dân tộc chủ nghĩa, các nước yêu chuộng
hòa bình, các tổ chức dân chủ quốc tế và cả loài người tiến bộ đã đồng tình ủng hộ,
cổ vũ mạnh mẽ cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước của nhân dân ta.”
II.2.viii. Chuyên đề “ Chế độ lao tù trong chiến tranh xâm lược VN”:
Chuyên đề gồm 40 ảnh, 14 bảng trích, bản đồ, 21 hiện vật giới thiệu hệ thống
trên 200 nhà tù, do Mỹ và chính quyền Sài Gòn dựng lên nhằm đàn áp những
người Việt Nam yêu nước. Đặc biệt chuyên đề còn giới thiệu một số nhà tù điển
hình của sự tàn ác, được mệnh danh là những địa ngục trần gian như Côn Đảo, Phú
Quốc, Chí Hòa, Tân Hiệp, Thủ Đức... Người xem được giới thiệu một số phương
thức, hình cụ cực kì dã man nhằm đàn áp tra tấn hành hạ tù chính trị và tù binh.
Máy chém, dụng cụ chặt đầu người bị án tử hình, được thực dân Pháp sử dụng
rộng rãi và được chính quyền Ngô Đình Diệm đưa đi nhiều nơi để khủng bố tinh
thần những người yêu nước. “Chuồng Cọp”, một phương thức đày đọa nổi tiếng
man rợ ở Côn Đảo, được tái hiện lại giúp người xem hình dung phần nào những
thủ đoạn tàn bạo được nghiên cứu tinh vi để hủy diệt tù nhân cả thể xác lẫn tinh
thần.
Được tham quan Bảo tàng Chứng tích chiến tranh thật sự là một niềm vinh dự
với chúng em. Mỗi một chuyên đề là mảnh ký ức về một giai đoạn lịch sử khó
khăn, gian khổ mà các bậc tiền nhân đã phải chịu đựng. Xuyên suốt 8 chuyên đề,
chúng em thật sự bị ấn tượng sâu sắc bởi chuyên đề “Những sự thật lịch sử” và
“Chất độc da cam trong chiến tranh ở Việt Nam”.
Từ năm 1961 đến năm 1971, chỉ Các nhà khoa học đã thống nhất ý
trong vòng 10 năm, quân đội Mỹ đã kiến rằng: “Dioxin là hóa chất độc hại
tiến hành 19.905 phi vụ, phun rải nhất mà loài người tìm ra được cho tới
khoảng 80 triệu lít chất độc hóa học,
nay”. Chỉ cần 85gam dioxin có thể giết
61% trong đó là chất da cam chứa 366
kg dioxin xuống gần 26.000 thôn bản, toàn bộ cư dân một thành phố khoảng 8
với diện tích hơn 3,06 triệu ha; trong triệu người.
đó có 86% diện tích bị phun rải hơn 2 “Việt Nam đã trở thành nơi thí nghiệm
lần, 11% diện tích bị phun rải hơn 10 tất cả những phát minh của các nhà kỹ
lần.
sư quân sự Mỹ. Mục đích là dùng mục
tiêu sống để thử những phát minh mà
sau này có thể mang ra dùng trên
những chiến trường khác”
(Báo Le Figaro, 25/4/1965)
Hình 2- Máy bay C-123 phun rải chất độc hóa học
III.1.iii. Hậu quả chất độc da cam trong chiến tranh Việt Nam:
Gần 25% tổng diện tích miền Nam Việt Nam, gồm hầu hết các hệ sinh thái từ
vùng thấp ven biển đến vùng đồi núi cao thuộc 5 vùng sinh thái: Bắc Trung Bộ,
duyên hải Trung Bộ, Tây Nguyên, Đông Nam Bộ, Tây Nam Bộ đều bị ảnh hưởng,
Đông Nam Bộ là vùng bị ảnh hưởng nặng nề nhất. Khoảng 86% lượng chất độc được
phun rải lên các vùng rừng rậm; 14% còn lại được dùng để phá hủy ruộng vườn, hoa
màu, chủ yếu là đồng lúa và nương rẫy ở các vùng núi.
Với một lượng khổng lồ chất độc hóa học
phun rải lặp đi lặp lại nhiều lần trong một thời
gian dài, môi trường bị ô nhiễm nặng nề, các hệ
sinh thái bị đảo lộn, nhiều loài thực vật và động
vật bị tiêu diệt. Do rừng bị tàn phá nặng nề nên
chức năng bảo vệ môi trường của rừng phòng
hộ đầu nguồn của 28 lưu vực sông cũng bị phá
vỡ, gây nhiều thiệt hại rất lớn đến nền kinh tế.
Việc sử dụng chất da cam/dioxin ở chiến trường
trong suốt 10 năm không chỉ huỷ hoại môi
trường, các hệ sinh thái mà còn để lại hệ lụy
đau lòng đến sức khỏe con người Việt Nam
trong suốt hơn 60 năm qua.
Nhiều phụ nữ không được hưởng hạnh phúc làm vợ, làm mẹ, và còn nhiều người
khác đang chết dần, chết mòn theo từng ngày từng giờ, quằn quại, vật vã vì những
căn bệnh quái ác do chất độc da cam gây ra. Với khả năng di truyền xuyên thế hệ, thì
hiện nước ta đã có hơn 150.000 nạn
nhân
thuộc thế hệ thứ 2, 35.000 nạn nhân
thuộc thế hệ thứ 3 và cả 2.000 nạn
nhân thuộc thế hệ thứ 4. Phần lớn
những gia đình bị nhiễm chất độc da
cam đã và đang sống trong khổ đau,
bệnh tật, đói nghèo và vô vọng. Họ
là những người nghèo nhất trong
những người nghèo, đau khổ nhất
trong những người đau khổ.
Hình 5- - Ba người con trai của bà Nguyễn Thị Bích Ngọc, tay
chân bị dị tật bới chất độc da cam
III.1.iv. Cảm nghĩ về chất độc da cam trong chiến tranh Việt Nam:
Khi tham quan đến căn phòng trưng bày những hình ảnh về các nạn nhân phải
chịu sự ảnh hưởng do chất độc da cam của quân đội Mỹ, người xem không khỏi bàng
hoàng trước những hình ảnh tàn khốc ấy. Hậu quả chiến tranh mà Mỹ mang lại đã
khiến cho đồng bào ViệtNam phải chịu biết bao đau thương, khốn khổ.
Nam. Tuy đã dành độc lập, nhân dân ta cũng chịu tổn thất vô cùng to lớn cả về vật
chất và tinh thần.
Hiện tại, chúng ta đang sống trong độc lập, tự do và hạnh phúc. Chúng ta phải
luôn biết ơn công lao to lớn, sự hy sinh cao cả của các bậc cha ông, các anh hùng liệt
sĩ, những bà mẹ Việt Nam anh hùng… đã sẵn sàng hy sinh mạng sống của mình để
đổi lại nền hòa bình cho cả dân tộc như ngày hôm nay. Những hình ảnh, sự kiện về
cuộc chiến tranh giải phóng dân tộc, giải phóng đất nước mà chúng ta được nghe kể,
hay qua tivi, phim ảnh… đã cho chúng ta thấy được phần nào sự ác liệt của chiến
tranh. Song, những điều đó dường như chưa diễn tả hết được đầy đủ và chân thực
bằng khi tham quan Bảo tàng Chứng tích Chiến tranh – nơi lưu giữ những hình ảnh
và hiện vật còn lại của chiến tranh, nơi mà người dân Việt Nam “gần nhất” với lịch
sử, với sự hào hùng và tinh thần dân tộc mạnh mẽ luôn rực cháy.
Xuất phát từ những lý do lịch sử và thực tế nêu trên, chúng em quyết định chọn
nghiên cứu đề tài về “Bảo tàng Chứng tích Chiến tranh” để có thể hiểu rõ hơn về lịch
sử hào hùng của dân tộc, về sự hy sinh to lớn của những bậc tiền nhân. Qua đó, giúp
chúng em ý thức được nghĩa vụ của bản thân trong công cuộc xây dựng tổ quốc ngày
càng phát triển.
Toàn thể dân tộc Việt Nam quyết đem tất cả tinh thần và lực lượng, tính mạng và
của cải để giữ vững quyền tự do và độc lập ấy”. Bên cạnh là bản in Tuyên ngôn độc
lập của nước Việt Nam Dân chủ cộng hòa được trưng bày trang trọng trong hộp
kiếng. Phía dưới là những hình ảnh ghi lại những khoảnh khắc quan trọng: Ngày 2-9-
1945, tại Quảng trường Ba Đình (Hà Nội), Chủ tịch Hồ Chí Minh đọc bản Tuyên
ngôn độc lập khai sinh ra nước Việt Nam Dân chủ cộng hòa, chấm dứt gần 100 năm
dưới ách đô hộ của thực dân Pháp tại Việt Nam; Lễ mừng độc lập tại Sài Gòn chiều
2-9-1945; Ngày 2-3-1946, Kỳ họp thứ nhất Quốc hội đầu tiên nước Việt Nam dân
chủ cộng hòa đã bầu các thành viên của Chính phủ liên hiệp kháng chiến; Kỳ họp thứ
2 Quốc hội khóa I thông qua Hiến pháp đầu tiên của nước Việt Nam Dân chủ cộng
hòa và bầu Chính phủ mới (ngày 3-11-1946). Nhưng thực dân Pháp được chính
Nhóm thực hiện: Nhóm 1 Trang: 13
BÀI THU HOẠCH BẢO TÀNG CHỨNG TÍCH CHIẾN TRANH
quyền Mỹ giúp đỡ tài chính và vũ khí, tiếp tục âm mưu khôi phục ách thống trị ở Việt
Nam.
Sau khi thực dân Pháp thất bại, quân đội Mỹ trực tiếp can thiệp, phá hoại Hiệp
định Giơnevơ, tiến hành cuộc chiến tranh xâm lược ở cả hai miền Nam và Bắc Việt
Nam, âm mưu chia cắt lâu dài đất nước Việt Nam. Trong chiến tranh, chính quyền
Mỹ đã huy động một lực lượng quân sự khổng lồ với trên 6 triệu lượt quân, trên 14
triệu 300.000 tấn bom đạn, tiêu phí 767 tỉ đô la.
Ngày 08/3/1965, 3.500 lính thủy đánh bộ thuộc Tiểu đoàn 3 Trung đoàn 9 và
Tiểu đoàn 1 Trung đoàn 3 (Lữ đoàn lính thủy đánh bộ số 9) đổ bộ lên bãi biển Nam
Ô (Đà Nẵng) đánh dấu sự tham chiến công khai trên bộ đầu tiên của quân đội Mỹ tại
Việt Nam.
Máy bay ném bom chiến lược 8 động cơ B-52 được trang bị các phương tiện dẫn
đường, ném bom rải thảm và tác chiến điện tử hiện đại, có thể ném bom ở độ cao trên
9.100 mét với trọng lượng bom trên 27 tấn (bom thường hoặc bom hạt nhân cỡ 500,
750 và 1.000 cân Anh).
Ngày 30/4/1975, cuộc chiến của
nhân dân Việt Nam thắng lợi hoàn
toàn. Cựu Bộ trưởng quốc phòng Mỹ
Mc.Namara đã thú nhận: "Chúng tôi đã
sai lầm, sai lầm khủng khiếp. Chúng
tôi mặc nợ các thế hệ tương lai trong
việc giải thích tại sao sai lầm như vậy".
Chính sự sai lầm đó đã gây ra những
hậu quả tàn khốc cho đất nước và nhân
dân Việt Nam".
Hình 9- Lời thú nhận của Cựu Bộ trưởng Quốc phòng
Mỹ Robert.Mc Namara
chà đạp lên tất cả quyền con người của mỗi người dân Việt Nam, xem Việt Nam chỉ
là nơi để họ thí nghiệm biết bao vũ khí quân sự tàn ác, những hình thức tra tấn, tù đày
man rợ với cả những người dân thường. Cuộc chiến này không hề mang ý nghĩa tự
vệ, mà đó là tất cả những gì kinh tởm nhất mà đế quốc Mỹ mang đến cho Việt Nam.
Hình 11- : Lời tuyên bố hống hách của Curtis Lemay
Đối với họ, đây thực sự là bản cáo trạng lương tâm mà bất kì một cựu chiến
binh Mỹ nào từng tham chiến ở Việt Nam đều cảm thấy có lỗi và cần hành động để
được tha thứ. Ngay cả những bạn trẻ người Mỹ cũng tự nhủ, sẽ cùng với bạn bè mình
ủng hộ Việt Nam và bảo vệ nền hòa bình trên đất nước Việt Nam. Không những thế,
Bảo tàng Chứng tích chiến tranh không chỉ trưng bày bằng chứng về tội ác của đế
quốc xâm lược mà còn thể hiện khát vọng hòa bình, một tinh thần bất khuất, trung
kiên của nhân dân Việt Nam. Chính vì điều đó, năm 1998, Bảo tàng đã được công
nhận là một trong 61 bảo tàng thuộc hệ thống “Bảo tàng vì hòa bình - thế giới”, năm
2008 là thành viên của Hội đồng Quốc tế bảo tàng (ICOM).
Các hiện vật, chứng tích, các bức ảnh được trưng bày tại nơi đây chính là minh
chứng sự khốc liệt, man rợ của chiến tranh và tinh thần kiên cường, bất khuất của dân
tộc Việt Nam.
Chiến tranh Việt Nam đã trôi qua 48 năm nhưng nó đã để lại nhiều mất mát, đau
thương về con người, đất nước. Hậu quả chất độc da cam vẫn còn đó, những gia đình
mất đi người thân yêu vẫn còn canh cánh nỗi xót xa. Càng nhìn sâu về một thời lịch
sử hào hùng của dân tộc, chúng em càng cảm thấy may mắn và biết ơn khi được sinh
ra ở một thời đại hoà bình, độc lập, tự do. Chúng em nhận ra học lịch sử không còn là
một việc khô khan, sách vở mà nó chính là những bài học kinh nghiệm lịch sử quý
báu và là những gợi nhắc tới cách chúng ta phải trân trọng, giữ gìn nền hoà bình đất
nước. Thật may mắn khi đất nước lúc ấy còn đang chìm sâu trong sự khủng hoàng về
việc tìm kiếm con đường cứu nước thì Đảng Cộng sản ra đời như một ngọn đuốc soi
sáng con đường tương lai tăm tối của nhân dân Việt Nam. Đảng từ một tổ chức đã trở
thành một hệ tư tưởng dẫn đường những người con Việt Nam tiến tới giành chiến
thắng, giành được độc lập. Nhân dân Việt Nam với lòng yêu nước nồng nàn cùng một
lòng tin sâu sắc vào Đảng đoàn kết, quyết tâm bảo vệ độc lập cho Tổ Quốc thân
thương. Sau khi chiến tranh qua đi, dưới sự lãnh đạo sáng suốt của Đảng, nước ta đã
vượt qua những khó khăn bằng những hướng phát triển năng động trong tiến trình hội
nhập phát triển. Bản thân chúng em đều là những người trẻ sống trong thời đại hòa
bình, sẽ luôn nhớ mãi về công lao của bậc cha ông đánh đuổi bè lũ xâm lược, luôn
khắc ghi những nỗi đau, sự mất mát mà đất nước chúng ta khi ấy phải trải để hiểu
rằng có được hòa bình như hôm nay quý đến như thế nào. Đất nước chúng ta, tuy
không hề hiếu chiến, nhưng chỉ cần gặp mối đe dọa đến độc lập, chủ quyền của Việt
Nam, mỗi một người dân với tấm lòng yêu nước nống nàn sẽ cùng nhau đoàn kết, bảo
vệ tổ quốc! Sống ở thời bình, với tất cả lòng yêu nước kiên trung, bất khuất, chúng
em sẽ luôn nỗ lực hết mình để phấn đấu, học tập, rèn luyện, ngày một xây dựng quê
hương, tổ quốc thân yêu, sống xứng đáng với món quà vô giá mà cha ông ta để lại:
“Độc lập”- “Tự Do”-“Hạnh Phúc”.
_Hết_